Đức Thánh Cha Phanxicô - Tông Du Nam Hàn 14-18/8/2014
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tuyển hợp và chuyển dịch
Tông Du - Thực Hiện, Gặp Gỡ và Cử Hành
Thứ Tư 
ngày 13/8/2014, Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu chuyến tông du ngoài Ý quốc thứ 
ba của ngài từ khi ngài làm giáo hoàng. Chuyến tông du đầu tiên vào thời điểm 
22-29/7/2013 ở Ba Tây vào Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 28. Chuyến tông du thứ 
hai vào thời điểm 24-26/5/2014 nhân dịp kỷ niệm 50 năm biến cố hai vị lãnh đạo 
Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống hội ngộ hòa giải (1964). 
Chuyến 
tông du thứ ba này ngài đến Nam Hàn (13-18/8/2014) nhân dịp Ngày Giới Trẻ Á Châu 
lần thứ VI. Chuyến bay Alitalia A330 sẽ rời phi trường Fiumicino Roma vào lúc 4 
giờ chiều 13/8/2014, tức vào lúc 8 giờ sáng ở California, hay 11 giờ sáng ở 
Nữu Ước, hoặc 10 giờ tối ở Việt Nam, hay 12 giờ đêm ở Seoul Nam Hàn.
Chuyến 
bay này sẽ bay qua Trung Hoa lần đầu tiên cùng với 10 quốc gia khác là Ý, 
Croatia, Slovenia, Austria, Slovakia, Poland, Belarus, Russia, Mongolia và South 
Korea. Chuyến bay này sẽ kéo dài 11 tiếng rưỡi và vượt qua một khoảng cách xa 
tới 8970 cây số và sẽ hạ cánh xuống điểm hẹn vào lúc 12 giờ trưa địa phương.
Tháng 
tới, vào ngày 21/9/2014, ngài sẽ thực hiện chuyến tông du nữa trong năm 2014, đó 
là chuyến tông du thứ tư, lần này đến Tirana nước Albania (quê hương của Chân 
Phước Têrêsa Calcutta). 
Như thói quen, trước và sau mỗi chuyến tông du, Đức Thánh Cha Phanxicô bao giờ 
cũng đến kính viếng và tạ ơn Mẹ Maria ở Đền thờ Đức Bà Cả. Ngay sau ngày được 
bầu chọn làm giáo hoàng 13/3/2013, ngài cũng đã đến Đền Thờ Thánh Mẫu này. Vào 
lúc 11 giờ sáng ngày lên đường cho chuyến tông du Nam Hàn, Thứ Tư 13/8/2014, 
ngài đã đến kính viếng Mẹ 15 phút và dâng cho Mẹ bó hoa như thường lệ. 
Đặc biệt là chuyến bay của ngài từ Rôma đến Nam Hàn được phép bay trên không 
phận của Trung Cộng, trong khi đó Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II 2 lần tông du 
Nam Hàn mà không được. Ngoài ra, trong chuyến tông du của mình ở Nam Hàn, 
ngài đã sử dụng một chiếc xe tầm thường hơn là sang trọng, thậm chí những chiếc 
xe đi hộ tống ngài còn sang trọng hơn xe ngài muốn sử dụng nữa. Ngài đã cảnh 
báo các vị giám mục Đại Hàn về vấn đề giầu có.
Trong chuyến tông du thứ ba này của giáo triều mới gần 1 năm rưỡi của mình, Đức 
Thánh Cha Phanxicô sẽ thứ tự gặp các thành phần của Nam Hàn như sau: 1- 
giới lãnh đạo chính trị ở 'Nhà Xanh - Blue House' và 2- hàng giám mục ở Văn 
Phòng Hội Đồng Giám Mục Nam Hàn (14/8); 3- giới trẻ Á Châu ở Đền Thánh 
Solmoe (15/8); 4- cộng đồng tu sĩ ở Trung Tâm Đào Luyện 'Học Đường Yêu 
Thương' và 5- lãnh đạo tông đồ giáo dân ở Trung Tâm Linh Đạo (16/8); 7- các vị 
linh mục Á Châu ở Đền Thánh Haemi (17/8).
Ngoài ra, mỗi ngày ngài còn dâng các Thánh Lễ đặc biệt như sau: 1- Lễ Mẹ Mông 
Triệu 15/8 ở Vận Động Trường Deajeon; 2- Lễ Phong Chân Phước 16/8 cho 124 vị 
tử đạo Đại Hàn ở Gwanghwamun Gate; 3- Lễ Bế Mạc 17/8 Ngày Giới Trẻ Á Châu lần 
VI ở Haemi Castle; và 4- Lễ 18/8 cầu cho Hòa Bình và Hòa Giải ở Myeong-dong 
Cathedral. 
Về Mối Liên Hệ Hai Biến Cố: "Hai 
việc cử hành này bổ túc cho nhau".
Ngài tông du Nam Hàn vào dịp Ngày Giới Trẻ Á Châu lần thứ VI và để phong chân 
phước cho 124 vị tử đạo Đại Hàn, một chuyến tông du liên kết cả trẻ (giới trẻ 
ngày nay) lẫn già (124 vị tử đạo ngày xưa) lại với nhau, vì cả 2 đều làm nên 
lịch sử của mỗi quốc gia cũng như chung thế giới. Trong bài diễn từ với thành 
phần lãnh đạo chính trị của Nam Hàn ở Nhà Xanh (Blue House) Seoul ngày Thứ Năm 
14/8/2014, ngài đã sâu xa cho thấy ý nghĩa liên hệ trẻ già này như sau:
"Chuyến viếng thăm Đại Hàn của tôi vào dịp Ngày Giới Trẻ Á Châu lần thứ VI, dịp 
qui tụ giới trẻ Công giáo từ khắp nơi của châu lục rộng lớn này lại để hân hoan 
cử hành niềm tin chung của họ. Theo tiến trình thăm viếng của mình, tôi cũng 
phong chân phước cho một số người Đại Hàn đã chịu tử đạo vì đức tin Công 
giáo, đó là Paul Yen Ji-chung và 123 đồng bạn của mình. Hai 
việc cử hành này bổ túc cho nhau. Nền 
văn hóa Đại Hàn quá biết được cái giá trị cùng với sự khôn ngoan truyền lại từ 
cha ông của chúng ta và tỏ lòng tôn kính các vị trong xã hội. Người 
Công giáo chúng tôi cũng tôn kính các vị cha ông đã tử đạo vì đức tin bởi các vị 
sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho một sự thật được các vị tin tưởng và là 
một sự thật các vị đã nhờ đó sống cuộc đời của mình. Các vị dạy chúng ta sống 
hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho thiện ích của nhau.
"Một dân tộc khôn ngoan và cao cả không chỉ hoan hỉ với các truyền thống tổ 
tiên của mình; họ còn trân quí giới trẻ của mình nữa, tìm cách truyền đạt cái di 
sản của quá khứ và sử dụng chúng để giải quyết những thách đố của hiện tại. Bất 
cứ khi nào giới trẻ qui tụ lại với nhau, như cơ hội này đây, thì đó là một cơ 
hội quí báu cho tất cả chúng ta trong việc lắng nghe những gì họ hy vọng và quan 
tâm. Chúng 
ta cũng cần phải suy nghĩ xem về cách thức tốt đẹp ra sao trong việc chúng 
ta đang truyền đạt các thứ giá trị của chúng ta cho thế hệ tới đây, cũng như về 
loại thế giới cùng xã hội nào chúng ta đang sửa soạn truyền đạt cho họ. Theo 
chiều hướng ấy, tôi nghĩ rằng thật là quan trọng trong việc chúng ta nghĩ đến 
nhu cầu cần 
phải cống hiến cho giới trẻ của chúng ta tặng ân hòa bình..." 
Với Giới Lãnh Đạo Chính Trị: "Việc 
tìm cầu hòa bình ...trong 
một thế giới càng ngày càng trở nên toàn cầu hóa"
Giới lãnh đạo chính trị được ngài ngỏ lời đầu tiên ở Nhà Xanh (Blue House) 
Seoul ngày Thứ Năm 14/8/2014, với những ý tưởng chính yếu tiêu biểu liên 
quan đến việc tìm cầu hòa bình trong một thế giới càng ngày càng toàn cầu 
hóa như sau (tiếp theo những gì ngài nói tới mối liên hệ giữa hai biến cố 
trên đây):
"Việc 
tìm cầu hòa bình cũng 
cho thấy một cuộc thử thách đối với mỗi người chúng ta, đặc biệt là đối với quí 
vị là thành phần dấn thân theo đuổi công ích của gia đình nhân loại bằng 
công việc ngoại giao một cách nhẫn nại. Nó là một thứ thách đố trường kỳ của 
việc hủy 
hoại đi những bức tường bất tín nhau cùng ghen ghét hận thù, bằng cách cổ võ một 
nền văn hóa hòa giải và đoàn kết. Vì 
việc ngoại giao, một thứ nghệ thuật của những gì là khả thể, được căn cứ vào 
niềm xác tín chắc chắn và kiên vững rằng hòa 
bình là những gì có thể đạt được bằng việc lặng lẽ lắng nghe nhau và trao đổi 
với nhau, hơn là bằng những tố cáo lẫn nhau, những phê phán vô bổ và những thứ 
thị uy quyền lực. 
"Hòa 
bình không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, mà là 'công cuộc của 
công lý' (xem Is 32:17). Và công lý, như là một nhân đức, đòi phải biết kỷ cương 
kiềm chế; nó cần chúng ta không quên những bất công quá khứ nhưng chế ngự những 
bất công ấy bằng thứ tha, khoan nhượng và hợp tác. Nó đòi phải biết sẵn sàng 
nhận thức và chiếm đạt được các đích điểm bổ ích hỗ tương, xây dựng các nền tảng 
tương kính, thông cảm và hòa giải... Kinh nghiệm dạy chúng ta rằng trong 
một thế giới càng ngày càng trở nên toàn cầu hóa thì kiến thức của chúng ta về 
công ích, về tiến bộ và về phát triển, trên hết phải có tính chất nhân bản chứ 
không thuần kinh tế... Tôi 
hy vọng rằng nền dân chủ của Đại Hàn sẽ tiếp tục được vững mạnh và quốc gia này 
sẽ cho thấy rằng mình dẫn đầu trong cả vấn đề 
toàn cầu hóa tình đoàn kết là những gì rất cần thiết hôm nay đây: một thứ toàn 
cầu hóa tình đoàn kết nhắm đến việc phát triển toàn diện của hết mọi phần tử 
thuộc gia đình nhân loại của chúng ta. Trong 
lần viếng thăm Đại Hàn lần thứ hai của mình 25 năm trước đây (8/10/1989), Thánh 
Gioan Phaolô II đã nói lên niềm xác tín của mình rằng 'tương lai của Đại Hàn sẽ 
tùy thuộc vào sự hiện diện nơi dân chúng của nó nhiều con người nam nữ khôn 
ngoan, đức hạnh và nhiệt tình'".  
Với Hàng Giáo Phẩm Đại Hàn: "Giáo 
Hội ở Đại Hàn đang sống đời và thi hành thừa tác vụ của mình giữa một xã hội 
thịnh vượng nhưng càng ngày càng tục hóa và duy vật"
Hàng giáo phẩm Đại Hàn được ngài ngỏ lời ngay sau thành phần lãnh đạo chính trị 
nước này, và nơi ngài gặp gỡ các vị lãnh đạo Giáo Hội Công giáo địa phương này 
là ở Văn Phòng Hội Đồng Giám Mục Đại Hàn cùng ngày Thứ Năm 14/8/2014, với 2 ý 
tưởng chính yếu về vai trò lưỡng diện bất khả thiếu và bất khả phân ly của các 
vị nơi đất nước đang thịnh vượng nhưng đầy cám dỗ thế tục của các vị, ở chỗ các 
vị vừa phải làm canh giữ viên hồi niệm vừa phải làm canh giữ viên hy vọng như 
sau:
"... Hoa trái của Phúc Âm trên mảnh đất Đại Hàn, cùng với di sản lớn lao được 
truyền lại cho quí huynh từ cha ông đức tin của quí huynh, ngày nay có thể được 
thấy nơi việc thăng hoa các giáo xứ sinh động và những phong trào trong giáo 
hội, nơi những chương trình giáo lý vững chắc và việc vươn tới giới trẻ, cũng 
như nơi các học đường, chủng viện và đại học Công giáo. Giáo Hội ở Đại Hàn được 
cảm phục vì vai trò của mình nơi đời sống thiêng liêng và văn hóa của quốc gia 
này và động lực truyền giáo mạnh mẽ của nó. Từ 
một miền đất truyền giáo, giờ đây quí huynh đã trở thành một miền đất của các vị 
thừa sai; và 
Giáo Hội hoàn vũ tiếp tục hưởng lợi ích từ nhiều vị linh mục và tu sĩ được quí 
huynh sai đi.
"Là 
canh giữ viên hồi niệm không phải chỉ liên quan đến việc tưởng nhớ và trân quí 
các ân sủng của quá khứ; nó còn có nghĩa là rút tỉa từ chúng những nguồn thiêng 
liêng để có thể đối đầu một cách khôn ngoan và cương quyết với những gì là hy 
vọng, hứa hẹn và thách đố trong tương lai. Như 
chính quí huynh đã ghi nhận, đời sống và sứ vụ của Giáo Hội ở Đại Hàn tựu kỳ 
trung không phải được đo lường bằng những tiêu chuẩn bề ngoài, số lượng và cơ 
cấu; trái lại chúng cần phải được thẩm định theo chiều hướng rõ ràng của Phúc Âm 
cùng với ơn gọi hoán cải trở về với con người của Chúa Giêsu Kitô. Là canh giữ 
viên hồi niệm nghĩa là ý thức rằng trong khi tăng trưởng xuất phát từ Thiên Chúa 
(xem 1Cor 3:6), thì nó cũng là hoa trái của việc khổ công âm thầm và kiên trì, 
trong quá khứ cũng như hiện tại. Việc tưởng niệm đến các vị tử đạo cùng với các 
thế hệ Kitô hữu đã qua cần phải là một tưởng niệm thiết thực chứ đừng lý tưởng 
hóa và đừng 'vênh vang tự đắc'.Nhìn 
về quá khứ mà không nghe thấy tiếng gọi của Thiên Chúa trong việc hoán cải trong 
hiện tại sẽ chẳng giúp chúng ta tiến tới; trái lại, nó chỉ cầm giữ chúng ta lại 
và thậm chí còn ngăn cản đà tiến bộ thiêng liêng của chúng ta nữa.
"Quí 
huynh thân mến, ngoài việc làm canh giữ viên hồi niệm, quí huynh còn được kêu 
gọi làm canh giữ viên hy vọng nữa: niềm hy vọng được bảo trì nhờ Phúc Âm về ân 
sủng và tình thương của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, niềm hy vọng đã phấn 
chấn các vị tử đạo. Chính niềm hy vọng này mà chúng ta được thách đố trong việc 
loan báo cho một thế giới, vì tất cả những gì thịnh vượng về vật chất của 
nó, đang tìm kiếm một cái gì đó hơn nữa, một cái gì đó cao cả hơn nữa, một cái 
gì đó chân thực và viên trọn...
"Các 
vị giám mục không được xa cách thành phần linh mục của mình, hoặc tệ hơn nữa là 
bất khả đến gần. Tôi 
cảm thấy nhức nhối khi nói đến điều ấy. Nơi 
tôi ở có một số linh mục nói với tôi rằng: 'Con đã gọi cho đức giám mục, con đã 
xin được gặp ngài; những đã ba tháng rồi mà con vẫn chưa nhận được hồi âm'. Quí 
huynh ơi, nếu có vị linh mục nào gọi điện thoại cho quí huynh hôm nay và xin gặp 
quí huynh thì hãy gọi lại cho họ lập tức, hoặc là hôm nay hay là ngày mai. Nếu 
quí huynh không có giờ gặp họ thì hãy nói cho họ biết rằng: 'Cha không thể gặp 
con vì thế này thế nọ thế kia, nhưng cha muốn gọi cho con hay là cha ở đây vì 
con'. Tuy nhiên, hãy cho họ thấy được việc đáp ứng từ người cha của họ, nhanh 
bao nhiêu có thể. Xin đừng xa cách các vị linh mục của quí huynh nhé....
"Làm thành phần canh giữ viên hy vọng cũng bao gồm cả việc bảo đảm rằng chứng từ 
ngôn sứ của Giáo Hội ở Đại Hàn vẫn là những gì tỏ tường nơi mối quan tâm của 
giáo hội này đối với người nghèo cũng như nơi các chương trình dấn thân vươn 
mình của nó, đặc biệt là đối với thành phần tỵ nạn và di dân cùng những ai đang 
sống ở bên lề xã hội. Mối quan tâm này chẳng những cần được thể hiện nơi các 
khởi động bác ái cụ thể là những gì cần thiết, mà còn nơi công việc tiếp tục cỗ 
võ về xã hội, nghề nghiệp và giáo dục nữa. Chúng 
ta có thể gặp nguy cơ biến công việc của chúng ta đối với những ai thiếu thốn 
thành chiều kích cơ cấu tổ chức mà thôi, trong khi coi nhẹ nhu cầu của từng 
người trong việc tăng trưởng của họ như là một con người - họ có quyền tăng 
trưởng như là một con người - và nhu cầu được bày tỏ một cách xứng đáng với phẩm 
cách, óc sáng tạo và văn hóa riêng của họ. Mối 
liên đới với người nghèo là tâm điểm của Phúc Âm; nó cần phải được coi là yếu tố 
thiết yếu của đời sống Kitô hữu... Tôi xác tín rằng nếu dung nhan của Giáo Hội 
trước hết và trên hết là một dung nhan yêu thương thì càng nhiều giới trẻ 
sẽ được lôi kéo đến với tấm lòng của Chúa Giêsu hằng bừng cháy tình yêu thần 
linh nơi mối hiệp thông của nhiệm thể Người. 
"Tôi đã 
nói rằng người nghèo là tâm điểm của Phúc Âm; họ hiện diện ở đó từ đầu đến cuối. 
Trong hội đường ở Nazarét, Chúa Giêsu đã làm sáng tỏ điều này ngay từ ban đầu 
thừa tác vụ của Người. Rồi ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 25, Người đã nói về những 
ngày sau cùng và cho thấy cái qui chuẩn chúng ta sẽ bị phán xét chúng ta cũng 
thấy người nghèo ở đó nữa. 
"Đang 
có một mối nguy hiểm, một khuynh hướng xẩy ra vào những thời điểm thịnh 
vượng, đó là mối nguy hiểm cộng đoàn 
Kitô hữu đang trở thành như "một phần của xã hội" khác, mất đi chiều kích thần 
bí của mình, mất đi khả năng của mình trong việc cử hành Mầu Nhiệm, và 
thay vào đó trở thành một thứ cơ cấu thiêng liêng, Kitô giáo và với các giá trị 
Kitô giáo nhưng lại thiếu mất chất men ngôn sứ. Khi xẩy ra như thế thì người 
nghèo không còn vai trò xứng hợp của mình ở trong Giáo Hội nữa. Đó là một thứ 
khuynh hướng gây khốn đốn cho các Giáo Hội riêng, các cộng đồng Kitô hữu qua các 
thế kỷ; nơi một số trường hợp các giáo hội ấy đã trở thành giới trung lưu khiến 
thành phần nghèo khổ cảm thấy hổ thẹn thuộc về các giáo hội ấy. Nó là khuynh 
hướng của thứ 'thịnh vượng' thiêng liêng, thịnh vượng về mục vụ. Không 
còn là một Giáo Hội nghèo cho người nghèo nữa mà là một Giáo Hội giầu cho người 
giầu, hay một Giáo Hội trung lưu cho thành phần dư giả. Đó 
không phải là những gì mới lạ: khuynh hướng này đã có ngay từ ban đầu. Thánh 
Phaolô đã khiển trách Kitô hữu Corintô trong Thư Thứ Nhất (11:17), trong khi đó 
Thánh Giacôbê thậm chí còn gay gắt và chi tiết hơn nữa (2:1-7): ngài đã khiển 
trách những cộng đồng giầu thịnh, các Giáo Hội giầu có cho người giầu có. Các 
giáo hội ấy không loại trừ người nghèo, thế nhưng đường lối các giáo hội ấy sống 
khiến cho người nghèo cảm thấy lưỡng lự tham gia, họ không cảm thấy tự nhiên. Đó 
là khuynh hướng của những gì là thịnh vượng. Tôi 
không khiển trách quí huynh vì 
tôi biết rằng quí huynh đang làm việc tốt đẹp. Tuy nhiên, là một người anh em có 
trách nhiệm củng cố anh em của mình trong đức tin, tôi xin nói cùng quí huynh 
rằng: hãy cẩn thận, vì Giáo Hội của quí huynh là một Giáo Hội đang thăng hoa, 
một Giáo Hội đầy truyền giáo, một Giáo Hội trọng đại. Không được để cho ma quỉ 
gieo những thứ cỏ lùng ấy, gieo khuynh hướng loại trừ người nghèo khỏi chính cơ 
cấu ngôn sứ của Giáo Hội và làm cho quí huynh trở thành một Giáo Hội giầu thịnh 
cho người giầu có, một Giáo Hội cho thành phần dư giả - có lẽ chưa đển độ phát 
triển một thứ 'thần học giầu thịnh' - mà là một Giáo Hội tầm thường. 
"Quí 
huynh thân mến, thứ chứng từ ngôn sứ cho Phúc Âm cho thấy những thách đố đặc 
biệt cho Giáo Hội ở Đại Hàn, vì Giáo 
Hội ở Đại Hàn đang sống đời và thi hành thừa tác vụ của mình giữa một xã hội 
thịnh vượng nhưng càng ngày càng tục hóa và duy vật. Ở 
những hoàn cảnh như vậy thì các thừa tác viên mục vụ có khuynh hướng chiều theo 
chẳng những các thứ mô mẫu điều hành, hoạch định và tổ chức hiệu năng, được rút 
tỉa từ thế giới kinh doanh, mà còn là một lối sống và tâm thức theo các tiêu 
chuẩn thành đạt của trần gian, thực sự là tiêu chuẩn về quyền lực, hơn là theo 
các tiêu chuẩn được Chúa Giêsu nêu lên trong Phúc Âm. Khốn cho chúng ta nếu thập 
giá mất đi quyền lực của mình trong việc phán xét cái khôn ngoan của thế giới 
này (xem 1Cor 1:17)! Tôi tha thiết xin quí huynh và anh em linh mục của quí 
huynh hãy loại trừ đi tất cả mọi hình thức của khuynh hướng này. Chớ 
gì chúng ta thoát được tính chất trần tục về thiêng liêng và mục vụ là những gì 
dập tắt Thần Linh, thay thế việc hoán cải bằng niềm tự mãn, và theo tiến trình, 
phá tán mất tất cả nhiệt tình truyền giáo (xem 
Niềm vui Phúc Âm, 93-97)...."  
Với Giới Trẻ Đại Hàn: "Thiên 
Chúa dường như bị loại ra khỏi hiện trường. Hầu như một thứ sa mạc tâm linh đang 
bắt đầu lan tràn khắp thế giới của chúng ta.... Tuy 
nhiên, đó lại là thế giới mà các bạn được kêu gọi tiến lên làm 
chứng cho Phúc Âm của niềm hy vọng"
".... Chiều 
hôm nay tôi muốn chia sẻ với các bạn một phần về đề tài của Ngày Giới Trẻ Á Châu 
thứ IV này: 'Vinh quang của các vị tử đạo chiếu tỏa trên các bạn'. 
Như Chúa đã chiếu tỏa vinh hiển của Người nơi chứng từ anh dũng của các vị 
tử đạo thế nào, Người cũng muốn chiếu tỏa vinh hiển của Người nơi đời sống của 
các bạn như thế, và qua các bạn thắp sáng đời sống của châu lục rộng lớn này. Hôm 
nay đây Chúa Kitô đang gõ cửa lòng của các bạn, lòng của tôi. 
Người kêu gọi các bạn hãy vùng lên, hãy thật tỉnh thức và tỉnh táo, và hãy nhìn 
các sự vật trong cuộc đời một cách chính xác. Còn nữa, Người đang xin các 
bạn và tôi hãy tiến ra ngoài đường phố và các lề đường của thế giới này, gõ cửa 
lòng của những người khác, mời họ hãy đón nhận Người vào trong đời sống của họ... 
".... Những 
hạt giống tốt lành thiện hảo và niềm hy vọng mà chúng ta cố gắng gieo vãi thường 
bị chết nghẹt biết bao bởi những thứ cỏ lùng vị kỷ, hận thù và bất công, chẳng 
những ở chung quanh chúng ta mà còn trong lòng của chúng ta nữa. 
Chúng ta cảm thấy bối rối trước khoảng cách gia tăng nơi xã hội của chúng ta 
giữa giầu và nghèo. Chúng ta thấy những dấu hiệu về ngẫu tượng giầu sang, quyền 
lực và khoái thú là những gì phải trả giá cao đối với cuộc sống con người. Gần 
hơn nữa, rất 
nhiều bạn bè và người đồng thời của chúng ta, cho dù vẫy vùng trong thịnh vượng 
vô vàn về vật chất, vẫn đang chịu đựng tình trạng nghèo khổ, cô đơn về tâm 
linh và kín đáo thất vọng. Thiên 
Chúa dường như bị loại ra khỏi hiện trường. Hầu như một thứ sa mạc tâm linh đang 
bắt đầu làn tràn khắp thế giới của chúng ta. 
Nó ảnh hưởng tới cả giới trẻ nữa, cướp mất hy vọng của họ và thậm chí trong rất 
nhiều trường hợp cả mạng sống của họ nữa.
"Tuy nhiên, đó 
lại là thế giới mà các bạn được kêu gọi tiến lên làm chứng cho Phúc Âm của niềm 
hy vọng, 
Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô, cũng như cho những hứa hẹn về Vương Quốc của Người. 
Trong các dụ ngôn, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Vương Quốc này đến trong thế 
gian một cách âm thầm lặng lẽ, phát triển một cách nhẹ nhàng nhưng vững chắc ở 
bất cứ nơi nào đón nhận nó bằng tấm lòng cởi mở trước sứ điệp hy vọng và 
cứu độ của nó. Phúc Âm dạy chúng ta rằng Thần Linh của Chúa Giêsu có thể mang sự 
sống mới cho mọi tâm can con người và có thể biến đổi hết mọi trạng huống, cho 
dù là hoàn toàn vô vọng. Đó là sứ điệp các bạn được kêu gọi để chia sẻ với những 
người đồng thời của các bạn: ở trường học, nơi sở làm, trong gia đình, nơi đại 
học và trong các cộng đồng. Vì Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết mà chúng ta 
biết rằng Người có 'những lời sự sống đời đời' (Gioan 6:68), lời Người có một 
quyền lực chạm đến hết mọi tâm can, khống chế sự dữ bằng sự lành, và thay đổi 
cùng cứu vớt thế giới.
"Các bạn trẻ thân mến, nơi thế hệ này, Chúa đang tin tưởng nơi các bạn! Người đã 
tiến vào lòng của các bạn ngày các bạn lãnh nhận Phép Rửa; Người đã ban cho các 
bạn Thần Linh của Người ngày các bạn lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức; và Người liên 
lỉ kiên cường các bạn bằng việc hiện diện của Người nơi Thánh Thể, nhờ đó các 
bạn có thể trở thành chứng nhân của Người trước thế giới. Các 
bạn có sẵn sàng thưa 'vâng' với Người hay chăng? Các bạn có sẵn lòng hay chăng? Cám ơn 
các bạn. Các bạn có mệt không? Chắc chắn nhé?"
 
Với Cộng Đồng Tu Sĩ Đại Hàn: "Cảm 
nghiệm về tình thương của Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng việc nguyện cầu và 
cộng đoàn, cần phải khuôn đúc nên tất cả những gì anh chị em là, tất cả những gì 
anh chị em làm"
.......... Những lời của bài Thánh Vịnh "xác 
thịt của tôi và tâm can của tôi bại hoại; thế nhưng Thiên Chúa muôn đời là sức 
mạnh của lòng tôi và của phần phúc của tôi" 
(73:26), mời gọi chúng ta hãy nghĩ về đời sống của chúng ta. Tác giả Thánh Vịnh 
bày tỏ niềm tin tưởng hoan lạc trong Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều biết rằng 
vì niềm vui không phải luôn luôn được bày tỏ như nhau trong đời sống, nhất là ở 
vào những lúc đầy gian nan khốn khó, 'nó bao giờ cũng bền bỉ, cho dù chỉ như là 
một chớp sáng xuất phát từ niềm tin tưởng của bản thân rằng chúng ta vĩnh 
viễn được yêu thương một khi đã hết sức cố gắng' (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm - 
6). Niềm 
xác tín mạnh mẽ được Thiên Chúa yêu thương ấy ở ngay tâm điểm ơn gọi của anh chị 
em, ở 
chỗ trước mặt người khác anh chị em trở thành một dấu hiệu khả thị về sự hiện 
diện của Vương Quốc Thiên Chúa, một tiên hưởng niềm vui vĩnh phúc thiên đình. Chỉ 
khi nào chứng từ của chúng ta có tính chất hân hoan chúng ta mới có thể thu hút 
con người nam nữ đến với Chúa Kitô. 
Niềm vui này là tặng ân được nuôi dưỡng bằng một đời sống nguyện cầu, suy niệm 
lời Chúa, cử hành các bí tích và sống cộng đồng là những gì rất quan trọng. Khi 
thiếu vắng những điều ấy thì những yếu hèn và khó khăn sẽ xẩy ra làm giảm sút đi 
niềm vui mà chúng ta đã quá biết khi bắt đầu cuộc hành trình của chúng ta.
Đối với anh chị em là những con người nam nữ tận hiến cho Thiên Chúa thì niềm 
vui này được bắt nguồn từ mầu nhiệm tình thương của Chúa Cha nơi hy tế thập giá 
của Chúa Kitô. Cho 
dù đặc sủng của Hội Dòng anh chị em hướng đến việc chiêm niệm hay hoạt động đi 
nữa thì anh chị em cũng đươc thách đố để trở thành 'những chuyên viên' về tình 
thương thần linh nơi chính đời sống cộng đoàn của anh chị em. Theo 
kinh nghiệm, tôi biết rằng đời sống cộng đoàn không phải bao giờ cũng dễ dàng, 
nó là một lãnh vực đào luyện thuận lợi cho tâm can. Thực tế không thể nào lại 
không xẩy ra những thứ xung khắc; các thứ hiểu lầm sẽ xẩy ra cần phải đối 
diện đương đầu. Bất chấp những khó 
khăn ấy, chính ở nơi cuộc sống cộng đoàn mà chúng ta được kêu gọi để tăng trưởng 
về tình thương, về sự nhẫn nại chịu đựng và về đức ái trọn hảo. 
Cảm nghiệm về tình thương của Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng việc nguyện cầu 
và cộng đoàn, cần phải khuôn đúc nên tất cả những gì anh chị em là, tất cả những 
gì anh chị em làm. Đức 
thanh tịnh, khó nghèo và tuân phục của anh chị em sẽ là một chứng từ hân hoan 
cho tình yêu của Thiên Chúa ở chỗ anh chị em vững vàng đứng trên tảng đá của 
tình thương Ngài. Đó là một tảng đá. Đó thực sự là trường hợp liên quan đến đức 
tuân phục tu trì. Đức tuân phục trưởng thành và quảng đại đòi anh chị em gắn bó 
bằng việc cầu nguyện với Chúa Kitô là Đấng mặc lấy thân phận tôi đòi đã biết 
vâng lời nơi những gì Người phải chịu (Sắc Lệnh Đức Ái Trọn Hảo - 14). Không có 
vấn đề đốt giai đoạn ở đây, vì Thiên Chúa muốn trọn vẹn tấm lòng của chúng ta, 
tức là muốn chúng ta cần phải 'xuất' thân mỗi ngày một hơn. 
Cái cảm nghiệm sống động về tình thương kiên trì của Chúa cũng hỗ trợ ước 
muốn đạt tới đức ái trọn hảo xuất phát từ con tim tinh tuyền. Đức 
thanh tịnh là những gì cho thấy việc dấn thân duy nhất cho tình yêu của Thiên 
Chúa, Đấng là 'sức mạnh của tâm can chúng ta'. Tất cả chúng ta đều biết những gì 
bao gồm nơi việc dấn thân gay go của bản thân. Những chước cám dỗ nơi lãnh vực 
này đòi hỏi một tấm lòng tin tưởng khiêm tốn vào Thiên Chúa, tỉnh táo, kiên trì 
và mở lòng chúng ta ra trước anh những anh chị em khôn ngoan được Chúa đặt để 
trên bước đường của chúng ta.
Bằng lời khuyên khó nghèo của phúc âm anh chị em có thể nhận biết tình thương 
của Thiên Chúa chẳng những như là một nguồn sức mạnh mà còn như một kho tàng 
nữa. Điều 
này có vẻ như mâu thuẫn, thế nhưng trở nên nghèo khó có nghĩa là tìm được một 
kho tàng. Cho dù có lúc chúng ta mệt mỏi rã rời, chúng ta có thể cống hiến cho 
Ngài tâm can nặng gánh tội lỗi và yếu hèn của chúng ta; ở vào những lúc chúng ta 
cảm thấy vô ích nhất, chúng ta vẫn có thể vươn mình tới với Chúa Kitô là 
'Đấng đã biến mình trở thành nghèo khó để chúng ta trở nên giầu có' (2Cor 8:9). Nhu 
cầu căn bản cần được thứ tha và chữa lành này của chúng ta tự nó là một hình 
thức khó nghèo mà chúng ta không bao giờ được lơ đãng, bất kể chúng ta có 
tiến đức thế nào chăng nữa... 
Trong đời sống tận hiến, khó nghèo vừa là một 'bức tường' vừa là một 'người mẹ'. 
Nó là một 'bức tường' vì nó bảo vệ đời sống tận hiến, và là một 'người mẹ' vì nó 
giúp đời sống này tăng trưởng và hướng dẫn đời sống này đi theo đường ngay nẻo 
chính. Cái 
giả tạo của những con người nam nữ tận hiến khấn khó nghèo mà lại sống giầu sang 
là những gì làm tổn thương tới linh hồn của tín hữu và tác hại Giáo Hội. 
Cũng hãy nghĩ đến cái nguy hiểm ra sao khi chiều theo tâm thức thuần hành sử một 
cách trần thế là những gì dẫn đến chỗ chúng ta đặt niềm hy vọng của mình chỉ ở 
nơi các phương tiện loài người mà hủy hoại đi chứng từ nghèo khó mà Đức Giêsu 
Kitô Chúa chúng ta đã sống và dạy chúng ta. Đến đây tôi muốn cám ơn hai vị Chủ 
Tịch của anh chị em, vì cả hai đều xác đáng đề cập đến mối đe 
dọa gây ra cho đức khó nghèo tu trì bởi tình trạng toàn cầu hóa và chủ nghĩa 
hưởng thụ. .............
 Với 
Thành Phần Lãnh Đạo Tông Đồ Giáo Dân: "Ngày 
nay, hơn bao giờ hết, Giáo Hội cần đến những chứng nhân giáo dân khả tín đối với 
chân lý cứu độ của Phúc Âm..."
.............. 
Giáo Hội ở Đại Hàn, 
như tất cả chúng ta đều biết, là 
thừa kế viên đức tin của các thế hệ giáo dân đã kiên trì với tình yêu của Chúa 
Giêsu Kitô và với mối hiệp thông của Giáo Hội, bất chấp tình trạng khan hiếm 
linh mục và mối đe đọa bách hại trần trọng. Chân 
Phước Paul Yun Ji-chung và các vị tử đạo được tuyên phong á thánh hôm nay là 
thành phần tiêu biểu cho một chương lịch sử ấn tượng này. Các vị đã làm chứng 
cho đức tin chẳng những bằng những đau khổ và cái chết của mình, mà còn bằng đời 
sống của liên kết yêu thương của các vị với nhau trong các cộng đồng Kitô giáo 
có một tính chất đức ái gương mẫu. 
Cái di sản quí báu này đang sống động nơi các công việc về đức tin, đức ái và 
phục vụ của anh chị em. Ngày 
nay, hơn bao giờ hết, Giáo Hội cần đến những chứng nhân giáo dân khả tín đối với 
chân lý cứu độ của Phúc Âm, đối với quyền lực của chân lý cứu độ này trong việc 
thanh tẩy và biến đổi cõi lòng của con người, cũng như đối với hoa trái của nó 
trong việc xây dựng gia đình nhân loại trong hiệp nhất, công lý và hòa bình. 
Chúng ta biết rằng chỉ có một sứ vụ duy nhất nơi Giáo Hội của Chúa, và hết mọi 
Kitô hữu đã lãnh nhận Phép Rửa đều chủ động dự phần vào sứ vụ này. Tặng ân của 
anh chị em là những con người nam nữ là những gì đa phần và công cuộc tông đồ 
của anh chị em thì khác nhau, tuy nhiên tất 
cả những gì anh chị em làm đều có mục đích làm gia tăng sứ vụ của Giáo Hội bằng 
việc bảo đảm rằng trật tự trần thế được thấm nhiễm và hoàn hảo hóa bởi tinh thần 
của Chúa Kitô và hướng tới việc trị đến của Vương Quốc Người.
... Tôi hết sức biết ơn những ai trong anh chị em, qua công việc và chứng từ của 
mình, mang đến sự hiện diện an ủi của Chúa cho những người đang sống bên lề xã 
hội. Hoạt động này không được giới hạn vào việc trợ giúp bác ái, mà cần 
phải được bao gồm cả mối quan tâm thực tế đối với vấn đề phát triển con người 
nữa. Không 
chỉ là việc trợ giúp bác ái mà còn cả việc phát triển cá nhân. Việc 
trợ giúp người nghèo là những gì tốt đẹp và cấn thiết, nhưng vẫn chưa đủ. Tôi 
phấn khích anh chị em hãy gia tăng nỗ lực của anh chị em trong lãnh vực cổ võ 
nhân bản, để hết mọi con người nam nữ có thể nếm hưởng niềm vui xuất phát từ cái 
phẩm giá mưu sinh của họ và gia đình họ. Cái 
phẩm giá này hiện đang bị đe dọa bởi một thứ tôn thờ tiền bạc khiến nhiều người 
không có việc làm... Chúng ta có thể nói rằng: 'Thưa Cha, chúng con đang bảo đảm 
rằng họ được nuôi dưỡng mà'. Thế nhưng điều ấy vẫn chưa đủ! Thành phần thất 
nghiệp, dù là nam hay nữ, cũng đều cảm thức được cái phẩm giá xuất phát từ việc 
cung cấp cho gia đình của họ bằng cách họ trở thành một nguồn lợi tức! Tôi ký 
thác công việc này cho anh chị em. 
.... Ở 
vào thời điểm khủng hoảng trầm trọng xẩy ra cho đời sống gia đình - như tất cả 
chúng ta đều biết - các cộng đồng Kitô hữu của chúng ta được kêu gọi để nâng đỡ 
các cặp phối ngẫu và các gia đình trong việc hoàn thành sứ vụ thích đáng của họ 
trong đời sống và truyền giáo của Giáo Hội. 
Gia đình vẫn là đơn vị căn bản của xã hội và là học đường đầu tiên mà con cái 
học biết những giá trị nhân bản, tinh thần và luân lý là những gì giúp các em có 
thể trở thành một thứ hải đăng thiện hảo, thanh liêm và công chính trong các 
cộng đồng của chúng ta. 
Các bạn thân mến, bất cứ các bạn đóng góp đặc biệt nào vào sứ vụ truyền giáo của 
Giáo Hội, tôi cũng xin anh chị em hãy tiếp tục cổ võ trong các cộng đồng của anh 
chị em việc huấn luyện trọn vẹn cho tín hữu giáo dân bằng chương trình giáo lý 
liên tục và hướng dẫn thiêng liêng. Nơi tất cả những gì anh chị em làm, tôi xin 
anh chị em hãy thực hiện một cách hoàn toàn hòa hợp lòng trí với các vị mục tử, 
cố gắng mang những minh thức, tài năng và đặc sủng của anh chị em ra phục vụ 
việc tặng trưởng của Giáo Hội trong mối hiệp nhất và dấn thân truyền giáo. Việc 
góp phần của anh chị em là những gì thiết yếu cho tương lai của Giáo Hội ở Đại 
Hàn - cũng như khắp Á Châu - sẽ lệ thuộc phần lớn vào việc phát triển của một 
thứ nhãn quan có tính chất giáo hội bắt nguồn nơi linh đạo hiệp thông, dự phần 
và chia sẽ các tặng ân (xem 
Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu - 45)...............
Với Các Vị Giám Mục Á Châu: "Khởi 
điểm cho tất cả mọi cuộc đối thoại đó là một cảm thức rõ ràng về căn tính của 
mình và một khả năng cảm thông"
 "Nơi 
châu lục rộng lớn là quê hương của các đại văn hóa khác nhau, Giáo Hội được kêu 
gọi để thích ứng và sáng tạo nơi việc làm chứng cho Phúc Âm của mình bằng đối 
thoại và cởi mở với tất cả mọi các nhân và mọi nền văn hóa. Đó 
là một thách đố trước mắt quí huynh! 
Thật vậy, đối thoại là một yếu tố thiết yếu trong việc truyền giáo của Giáo Hội 
ở Á Châu (xem Tông 
Huấn Giáo Hội tại Á Châu - 29). Thế 
nhưng, để thực hiện đường lối đối thoại này với các cá nhân và các nền văn hóa 
thì đâu là khởi điểm cần phải có của chúng ta và đâu là điểm qui chiếu căn bản 
của chúng ta để dẫn chúng ta đến đích nhắm của mình? Chắc chắn đó là căn tính 
riêng của chúng ta, căn tính là Kitô hữu của chúng ta. Chúng 
ta không thể nào tham dự vào một cuộc đối thoại thực sự trừ phi chúng ta ý thức 
được căn tính riêng của mình. Chúng ta không thể đối thoại, chúng ta không thể 
bắt đầu đối thoại từ không không, từ số không, từ một cảm quan mơ hồ về bản thân 
mình.Cũng 
chẳng có một cuộc đối thoại chân thực trừ phi chúng ta có khả năng cởi mở lòng 
trí của chúng ta ra, bằng việc chấp nhận một cách cảm thông và chân thành những 
ai chúng ta trao đổi. 
Nói cách khác, một thứ chăm chú lắng nghe theo tác động của Thánh Linh. Bởi thế 
nên khởi 
điểm cho tất cả mọi cuộc đối thoại đó là một cảm thức rõ ràng về căn tính của 
mình và một khả năng cảm thông. 
Nếu chúng ta cần phải nói với người khác một cách tự do, cởi mở và mang lại tác 
dụng, chúng ta cần phải minh tường về bản thân mình, về những gì Thiên Chúa đã 
làm cho chúng ta, và về những gì Ngài muốn nơi chúng ta. Và nếu việc trao đổi 
của chúng ta không phải là một thứ độc thoại thì cần phải có được sự cởi mở tâm 
trí để làm sao có thể chấp nhận các cá nhân và các nền văn hóa. Một cách không 
sợ hãi, vì sợ hãi là kẻ thù của loại cởi mở này. 
"Tuy nhiên, công việc có được căn tính của mình và thể hiện căn tính của chúng 
ta không phải lúc nào cũng dễ dàng, vì - là tội nhân - chúng ta bao giờ cũng bị 
cám dỗ bởi tinh thần của thế gian nơi các đường lối khác nhau. Tôi muốn vạch ra 
3 trong những đường lối này.Một là thứ 
ánh sáng lừa đảo của tương đối chủ nghĩa làm lu mờ đi ánh quang rạng ngời của 
chân lý, và bằng việc làm rung chuyển mặt đất ở dưới chân của chúng ta, nó đu 
đưa chúng ta đến những vùng cát vụn đổi thay của lầm lạc và thất vọng. 
Nó là một chước cám dỗ hiện nay cũng ảnh hưởng cả đến các cộng đồng Kitô hữu 
nữa, khiến cho dân chúng quên đi rằng ở trong một thế giới thay đổi một cách mau 
chóng và lạc hướng "có nhiều điều vẫn không thay đổi vì nền tảng cuối cùng của 
những điều không thay đổi ấy là Chúa Kitô, Đấng vẫn là một cả hôm qua, hôm nay 
và mãi mãi" (Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng - 
10; Do 
Thái 13:8). Ở đây tôi không nói về 
tương đối chủ nghĩa một cách thuần túy như là một hệ tư tưởng, mà là về thứ 
tương đối chủ nghĩa cụ thể hằng ngày làm suy yếu cảm quan về căn tính của chúng 
ta một cách vô thức.
"Đường lối thứ hai được 
thế gian sử dụng để đe dọa sự vững chắc của căn tính Kitô hữu chúng ta đó là tính 
chất nông nỗi hời hợt, một khuynh hướng chơi đùa với những thứ thời trang, với 
những bộ phận máy móc và với những cái phân tâm, hơn chú trọng tới những gì là 
chính yếu (xem Phil 
1:10). Một nền văn hóa tôn vinh những 
gì là nhất thời, và cống hiến rất nhiều những đường lối để tránh né và đào tẩu 
có thể gây ra một vấn đề trầm trọng về mục vụ. Đối với các thừa tác viên của 
Giáo Hội thì nó có thể tỏ hiện ở những chương trình mục vụ và các lý 
thuyết thoải mái, gây tác hại cho việc trực tiếp gặp gỡ một cách tốt đẹp thành 
phần tín hữu của chúng ta và những người khác nữa, nhất là giới trẻ đang cần đến 
giáo lý vững chắc và sự hướng dẫn thiêng liêng lành mạnh. Không đâm 
rễ vào Chúa Kitô, những chân lý giúp chúng ta sống cuộc đời của mình có thể dần 
dần trở nên suy yếu, việc thực hành các nhân đức có thể trở thành những gì hình 
thức bề ngoài, và việc đối thoại có thể bị biến thành một hình thức thương 
thuyết hay một thứ thỏa thuận về những gì là bất đồng... cho yên chuyện... 
Thứ tính chất nông nổi này thật sự là những gì trầm trọng tác hại chúng ta.
"Thế rồi còn có một khuynh hướng thứ ba nữa, khuynh 
hướng về một thứ an toàn bọc vỏ ẩn nấp ở đằng sau những giải đáp dễ dãi, những 
công thức sẵn có, những qui luật và điều lệ. 
Chúa Giêsu đã đụng đến thành phần ẩn nấp ở đằng sau các thứ lề luật, các điều lệ 
và những giải đáp dễ dãi... Người đã gọi họ là những kẻ giả hình. Đức 
tin theo bản chất của mình không phải là những gì tự thẩm thấu mà là 'tỏa phát'. 
Nó tìm cách thông hiểu; nó cống hiến chứng từ; nó phát sinh sứ vụ. Theo 
chiều hướng ấy, đức tin giúp chúng ta có thể vừa dạn dĩ vừa hiền hòa nơi chứng 
từ hy vọng và yêu thương của chúng ta. Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng chúng 
ta luôn sẵn sàng trả lời cho tất cả những ai đặt vấn đề với chúng ta về niềm hy 
vọng trong chúng ta (xem 1Phêrô 3:15). Căn 
tính là Kitô hữu của chúng ta trên hết được thấy ở nơi những nỗ lực âm thầm của 
chúng ta trong việc thờ phượng một mình Thiên Chúa, trong việc yêu thương nhau, 
và trong việc chứng tỏ bằng gương mẫu của chúng ta chẳng những cái chúng ta tin 
mà còn cả cái chúng ta hy vọng và Đấng chúng ta tin tưởng nữa (xem 2Timôthêu 
1:12).
"Xin lập lại, chính đức 
tin sống động của chúng ta nơi Chúa Kitô là căn tính sâu xa nhất của chúng ta, 
là việc chúng ta đâm rễ trong Chúa. 
Nếu được thế thì mọi sự khác đều là thứ yếu. Chính 
từ cái căn tính sâu xa này - từ việc đâm rễ trong Chúa Kitô bằng niềm tin tưởng 
sống động này - chính từ thực tại sâu xa này mà việc đối thoại của chúng ta được 
bắt đầu, và đó là những gì chúng ta cần phải chia sẻ một 
cách chân thành, một cách khả tín và không giả tạo, qua việc đối thoại trong 
cuộc sống hằng ngày, qua cuộc đối thoại của bác ái yêu thương cũng như qua các 
dịp chính thức hơn nữa có thể xẩy ra. Vì Chúa Kitô là sự sống của chúng ta (xem Phil 
1:21), chúng ta hãy sẵn sàng và không lưỡng lự hay sợ hãi nói năng 'từ Người 
và bởi người'. Tính chất đơn giản của lời Người trở nên tỏ tường nơi tính chất 
giản dị của đời sống chúng ta, nơi tính chất giản dị của việc chúng ta 
truyền đạt, nơi tính chất giản dị của các hoạt động chúng ta yêu thương phục vụ 
anh chị em của chúng ta.
"Giờ đây tôi muốn nói đến một 
khía cạnh khác nữa của 
căn tính Kitô giáo chúng ta. Đó làvấn đề 
sinh hoa kết trái. 
Vì căn tính này được xuất phát từ và được liên lỉ nuôi dưỡng bởi ơn huệ chúng 
ta được đối thoại với Chúa cũng như với những tác động của Thần Linh Ngài mà nó 
mang lại một mùa gặt công lý, thiện hảo và bình an. Vậy tôi xin hỏi quí huynh 
nhé về những hoa trái đang nẩy nở trong đời sống riêng của quí huynh cũng như 
nơi đời sống của các cộng đồng được ủy thác cho quí huynh chăm sóc. Căn 
tính Kitô giáo nơi Giáo Hội riêng của quí huynh có chiếu tỏa ra qua các chương 
trình giáo lý và thừa tác vụ giới trẻ của quí huynh hay chăng, qua việc quí 
huynh phục vụ người nghèo và những ai đang sống cùng cực bên lề của những xã hội 
giầu thịnh hay chăng, và qua các nỗ lực của quí huynh trong việc nuôi dưỡng 
các ơn gọi linh mục và đời sống tu trì hay chăng? Căn 
tính ấy có sinh hoa kết trái hay chăng? Đó là vấn đề tôi gợi lên cho quí 
huynh để mỗi quí huynh suy nghĩ về nó. 
"Sau 
hết, 
ngoài cảm quan minh tường về căn tính Kitô hữu riêng của chúng ta, việc đối 
thoại chân thực cũng đòi hỏi cả một khả năng cảm thông nữa. Để 
việc đối thoại xẩy ra cần phải có niềm cảm thông này. 
Chúng ta bị thách đố trong việc lắng nghe chẳng những về lời lẽ người khác nói 
mà còn về việc truyền đạt không lên lời ở nơi các kinh nghiệm của họ, các niềm 
hy vọng của họ và các ước vọng của họ, các sự đối chọi của họ và những quan tâm 
sâu xa nhất của họ. Niềm cảm thông ấy cần phải là hoa trái của minh thức thiêng 
liêng và cảm nghiệm riêng tư của chúng ta, những gì khiến chúng ta thấy người 
khác như là anh chị em của mình, và 'nghe thấy', cả trong và ngoài lời họ nói 
cùng việc họ làm, những gì tâm can của họ muốn truyền đạt. Theo chiều hướng ấy, việc đối 
thoại đòi chúng ta cần phải có một tinh thần chiêm niệm thực sự cởi mở và đón 
nhận người khác. Tôi 
không thể tham gia đối thoại nếu tôi không cởi mở với người khác. Cởi mở ư? Thậm 
chí còn hơn thế nữa kìa: chấp nhận! Xin hãy lại nhà của tôi, hãy tiến vào lòng 
của tôi. Tâm can của tôi nghênh đón anh chị em. Nó muốn được nghe anh chị em. 
Khả năng cảm thông này giúp cho một cuộc đối thoại thật nhân bản có thể nhờ đó 
xuất phát các lời nói, ý nghĩ và vấn nạn từ cảm nghiệm huynh đệ và đồng loại. 
Nếu chúng ta muốn thấy được nền tảng thần học về điều này thì chúng ta cần 
phải đến cùng Chúa Cha là Đấng đã tạo dựng nên tất cả chúng ta; tất cả chúng 
ta đều là con cái của một Người Cha duy nhất. Khả 
năng cảm thông này là những gì dẫn tới một cuộc gặp gỡ chân thực - chúng ta cần 
phải tiến đến thứ văn hóa gặp gỡ này - là thứ văn hóa đối thoại của tâm can với 
nhau. 
Chúng ta được trở nên phong phú bởi sự khôn ngoan của người khác và sẵn sàng 
cùng nhau tiến bước trên con đường hiểu biết nhau hơn, thân tình và liên kết 
hơn. 'Thế 
nhưng, thưa người anh Giáo Hoàng, đó là những gì chúng tôi đang làm, nhưng có lẽ 
chúng tôi chẳng hoán cải được ai hay rất ít thôi...' Vậy 
thì dầu sao quí huynh cũng đang điều ấy rồi, ở chỗ, theo căn tính của mình, quí 
huynh đang nghe thấy người khác. Đâu là huấn lệnh đầu tiên của Thiên Chúa là Cha 
của chúng ta đối với tổ phụ Abraham của chúng ta? 'Hãy 
bước đi trước nhan của Ta một cách vô trách cứ'. 
Bởi vậy, với căn tính của tôi và niềm cảm thông của tôi, sự cởi mở của tôi, tôi 
bước đi với người khác. Tôi 
không cố gắng để làm cho họ đến với tôi, tôi không dụ giáo. Đức 
Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã rõ ràng nói với tôi rằng: 'Giáo Hội không gia tăng 
bằng việc dụ giáo, mà bằng việc thu hút'. 
Trong lúc này đây chúng ta hãy bước đi trước nhan Chúa Cha, ở chỗ vô trách cứ; 
chúng ta hãy thực hành huấn lệnh đầu tiên này. Đó là nơi xẩy ra cuộc gặp gỡ, 
cuộc đối thoại. Với căn tính của mình, với tấm lòng cởi mở. Nó là đường 
lối để hiểu biết hơn, thân tình và liên kết hơn. Như Thánh Gioan Phaolô II đã 
nhận thức xác đáng rằng việc 
chúng ta dấn thân đối thoại được đặt nền tảng nơi chính lý lẽ của việc nhập 
thể, ở chỗ, nơi Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa trở nên một trong chúng ta, tham 
dự vào đời sống của chúng ta và nói với chúng ta bằng ngôn từ của chúng ta (xem Giáo 
Hội ở Á Châu - 29). Theo tinh thần cởi mở với người khác như thế, tôi hết 
sức hy vọng rằng những xứ sở thuộc châu lục của quí huynh mà Tòa Thánh 
chưa được hoàn toàn giao hảo sẽ không ngần ngại trao đổi hơn nữa cho lợi ích của 
tất cả mọi người. Tôi không có ý nói đến việc đối thoại về chính trị thôi mà 
là đối thoại huynh đệ... 'Thế 
nhưng những Kitô hữu này không đến như là thành phần chiếm cứ, họ không đến để 
lấy mất căn tính của chúng tôi: họ mang đến cho chúng tôi căn tính của riêng họ 
song họ muốn bước đi với chúng tôi'. 
Chúa sẽ ban ơn của Ngài: đôi khi Ngài đánh động lòng người để họ xin được rửa 
tội, đôi khi không. Thế nhưng bao giờ chúng ta cũng cùng nhau bước đi. Đó là 
tâm điểm của việc đối thoại. 
Quí huynh thân mến, tôi xin cám ơn quí huynh đã nồng hậu đón tiếp tôi trong tình 
huynh đệ.Khi 
chúng ta nhìn thấy lục địa Á Châu lớn rộng, với đất đai vươn dài trải rộng của 
nó, với những nền văn hóa và truyền thống cổ kính của nó, chúng ta nhận 
thức được rằng, theo dự án của Thiên Chúa, các cộng đồng Kitô hữu của quí huynh 
thực sự là apusillus grex, một đàn chiên nhỏ bé nhưng lại có trách nhiệm 
mang ánh sáng của Phúc Âm chiếu soi đến tận cùng trái đất. Là một hạt cải thực 
sự! Là một hạt giống rất nhỏ nhoi... 
Xin Vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng biết và yêu từng con chiên của mình, hướng dẫn và 
kiên cường các nỗ lực của quí huynh trong việc xây dựng mối hiệp nhất của họ với 
Người và với tất cả mọi phần tử thuộc đàn chiên của Người khắp thế giới. 
Giờ đây, cùng nhau chúng ta hãy ký thác các Giáo Hội của quí huynh cùng với 
lục địa Á Châu cho Đức Mẹ, để với 
tư cách là Mẹ của chúng ta, Mẹ sẽ dạy chúng ta những gì mà chỉ có người làm mẹ 
mới có thể dạy cho con cái của mình: con 
là ai đó, tên con là gì vậy, và con có thể hòa hợp với người khác trong đời bằng 
cách nào đây. 
Chúng ta tất cả hãy nguyện cầu cùng Đức Mẹ.  
Bài Giảng Lễ Mẹ Mông Triệu ngày 15/8: "Chúng ta 
cũng được kêu gọi để trọn vẹn dự phần vào cuộc chiến thắng của Chúa trên tội lỗi 
và sự chết"
Hiệp với toàn thể Giáo Hội, chúng ta cử hành biến cố Mông Triệu của Đức Mẹ, cả 
xác lẫn hồn, vào vinh quang thiên quốc. Biến cố 
Mông Triệu của Mẹ Maria cho chúng ta thấy định mệnh của chúng ta là thành phần 
dưỡng tử của Thiên Chúa và là phần tử của thân mình Chúa Kitô. Như Maria là Mẹ 
của mình, chúng ta cũng được kêu gọi để trọn vẹn dự phần vào cuộc chiến thắng 
của Chúa trên tội lỗi và sự chết, cùng Người hiển trị trong Vương Quốc vĩnh hằng 
của Người. Đó là ơn gọi của chúng ta.....
"Trong bài đọc thứ 2 hôm nay, chúng ta đã nghe Thánh Phaolô nói với chúng ta 
rằng Chúa Kitô là tân Adong, Đấng vì vâng lời ý muốn của Cha đã phá hủy 
vương quyền của tội lỗi và nô lệ mà khai mở vương quyền của sự sống và tự do 
(xem 1Cor 15:24-25). Tự do chân thực là ở chỗ chúng ta yêu mến gắn bó với ý muốn 
của Chúa Cha. Nơi Mẹ Maria đầy ơn phúc, chúng ta biết rằng tự 
do của Kitô hữu không phải chỉ ở chỗ được giải phóng khỏi tội lỗi. Nó là thứ tự 
do ở nơi cách nhìn các thực tại trần thế một cách thiêng liêng mới mẻ. 
Nó là thứ tự do để yêu mến Thiên Chúa và anh chị em chúng ta bằng một con tim 
tinh tuyền, và để sống một đời sống hỉ hoan hy vọng vào việc trị đến của Vương 
Quốc của Chúa Kitô.
"Hôm nay, bằng việc tôn kính Mẹ Maria, Nữ Vương Thiên Đình, chúng ta cũng hướng 
về Mẹ như là Người Mẹ của Hàn quốc. Chúng ta xin Mẹ giúp chúng ta trung thành 
với thứ tự do vương giả chúng ta đã lãnh nhận trong ngày Thánh Tẩy của chúng ta, 
hướng dẫn các nỗ lực của chúng ta trong việc biến đổi thế giới theo dự án của 
Thiên Chúa, và giúp cho Giáo Hội ở xứ sở này có thể trọn vẹn hơn nữa thành men 
của Vương Quốc Người giữa xã hội Hàn quốc. Chớ gì Kitô hữu của xứ sở này trở 
thành một lực lượng hùng hậu cho việc canh tân thiêng liêng ở hết mọi tầng cấp 
xã hội. Chớ gì họ chiến đấu với cái lôi cuốn của một thứ duy vật chủ nghĩa dập 
tắt mất các giá trị thiêng liêng và văn hóa chân thực, cũng như với cái tinh 
thần hung hăng tranh giành nhau xuất phát từ những gì là vị kỷ và xung khắc. Chớ 
gì họ cũng loại trừ đi những mẫu thức kinh tế 
phi nhân là những gì tạo nên các hình thức nghèo khổ mới và đẩy 
ra ngoài rìa thành phần công nhân, cùng nền văn hóa sự chết coi thường hình ảnh 
của Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa của sự sống, và vi phạm đến phẩm giá của hết mọi 
con người nam nữ và trẻ em...
"Anh chị em thân mến, niềm hy vọng này, niềm hy vọng được Phúc Âm truyền đạt, là 
thứ khử độc đối với tinh 
thần thất vọng là những gì dường như đang tăng trưởng như một loại ung thư trong 
các xã hội bề ngoài thịnh đạt nhưng thường cảm thấy buồn chán và trống rỗng nội 
tâm...."
Bài Giảng Lễ Phong Chân Phước ngày 16/8: "Sau khi 
những hạt giống đầu tiên ấy được gieo trồng ở mảnh đất này chẳng bao lâu, các vị 
tử đạo và cộng đồng Kitô hữu đã phải chọn giữa việc theo Chúa Giêsu hay theo thế 
gian" 
"'Ai 
sẽ tách tôi khỏi tình yêu của Chúa Kitô?' (Rm 
8:35). Thánh 
Phaolô nói những lời này về vinh hiển của đức tin chúng ta nơi Chúa Giêsu: chẳng 
những Chúa Kitô phục sinh từ trong kẻ chết và lên trời mà Người còn liên kết 
chúng ta với bản thân của người, và Người cho chúng ta được thông phần vào sự 
sống đời đời của Người. Chúa 
Kitô là Đấng vinh thắng và Người là vinh thắng của chúng ta!
"Hôm nay, chúng ta cử hành cuộc vinh thắng này nơi Chân Phước Paul Ji-chung và 
123 đồng bạn của ngài. Tên của các vị giờ đây được ghi cùng với tên của những vị 
thánh tử đạo Andrew Kim Taegon, Paul Chong Hasang và đồng bạn, những vị tôi 
vừa đến kính viếng. Tất cả các vị đã sống và đã chết vì Chúa Kitô, và 
giờ đây đang hiển trị với Người trong hoan lạc và vinh quang....
"Trong 
sự quan phòng huyền diệu của Thiên Chúa, đức tin Kitô giáo đã không được 
mang đến các bờ biển của Hàn quốc qua các vị thừa sai; trái lại, nó đã tiến vào 
qua lòng trí của chính nhân dân Hàn quốc. Nó được 
tác động bởi sự tò mò muốn hiểu biết, bởi sự tìm kiếm chân lý về đạo giáo. Nhờ 
cuộc gặp gỡ đầu tiên với Phúc Âm, thành phần Kitô hữu tiên khởi Hàn quốc đã mở 
tâm trí ra cho Chúa Giêsu. 
Họ muốn hiểu biết hơn nữa về một Đức Kitô chịu khổ nạn, chết đi và sống lại từ 
trong kẻ chết này. Việc hiểu biết về Chúa Giêsu chẳng bao lâu đã dẫn đến cuộc 
gặp gỡ Chúa, đã dẫn đến những cuộc rửa tội đầu tiên, đến niềm khát vọng được 
lãnh nhận đầy đủ trọn vẹn đời sống bí tích và giáo hội, và đến những khởi đầu 
cho việc vươn mình truyền giáo. Nó cũng sinh hoa kết trái nơi các cộng đồng được 
tác động bởi Giáo Hội tiên khởi là nơi các tín hữu thực sự chỉ có một lòng trí, 
bất chấp những khác biệt về truyền thống xã hội, và lấy tất cả mọi sự làm của 
chung (xem Tông Vụ 4:32).  
"Lịch 
sử này cho chúng ta thấy được rất nhiều về tầm quan trọng, về phẩm giá và về 
vẻ đẹp của ơn gọi giáo dân....
"Sau 
khi những hạt giống đầu tiên này được gieo trồng ở mảnh đất này chẳng bao lâu, 
các vị tử đạo và cộng đồng Kitô hữu đã phải chọn giữa việc theo Chúa Giêsu hay 
theo thế gian. 
Họ đã nghe thấy lời cảnh báo của Chúa rằng thế gian sẽ vì Người mà ghen ghét họ 
(xem Gioan 17:14); họ biết được cái giá phải trả nơi vai trò làm môn đệ của 
họ. Đối với nhiều người, như thế có nghĩa là chịu bách hại, thế rồi sau đó họ đã 
tẩu thoát lên các vùng núi để thành lập các lành Công giáo. Họ đã sẵn sàng thực 
hiện những việc hy sinh cả thể và để cho mình bị tước lột đi bất cứ sự gì đã 
khiến họ xa cách Chúa Kitô - như các vật sở hữu và đất đai, thế giá và danh giá 
- vì họ biết rằng chỉ có một mình Chúa Kitô mới thực sự là kho tàng chân 
thật của họ thôi.
"Ngày 
nay chúng ta rất thường thấy đức tin của chúng ta bị thử thách bởi thế gian, và 
qua vô vàn cách thức, chúng ta bị đòi hỏi phải thỏa hiệp đức tin của chúng ta, 
phải giảm thiểu những đòi hỏi gắt gao của Phúc Âm và chiều theo tinh thần của 
thời đại này. Tuy 
nhiên các vị tử đạo kêu gọi chúng ta là hãy đặt Chúa Kitô trên hết và coi tất cả 
mọi sự khác trên thế gian này trong mối liên hệ với Người và với Vương Quốc vĩnh 
hằng của Người. Các vị thách thức chúng ta hãy nghĩ về những gì, bất cứ sự gì, 
mà chính chúng ta sẵn sàng chết cho...."
  
Bài Giảng Lễ Bế Mạc Ngày Giới Trẻ Á Châu ngày 17/8: "Hãy để 
cho Chúa Kitô biến nỗi lạc quan tự nhiên của các bạn thành niềm hy vọng Kitô 
giáo, nghị lực của các bạn thành nhân đức luân lý, thiện chí của các bạn thành 
tình yêu thương tự hiến chân thực!"
"... Một phần khác của đề tài cho Ngày này - Hỡi 
Giới Trẻ Á Châu! Hãy Bừng Tỉnh! - nói với các bạn về một 
thứ nhiệm vụ, một thứ trách nhiệm. Chúng ta hãy nói đến từng chữ này một chút.  
"Trước hết là chữ 'Á Châu'. Các 
bạn qui tụ nhau ở Hàn quốc này từ khắp nơi ở Á Châu. Mỗi người trong các bạn đều 
có một vị trí và môi trường đặc biệt từ đó các bạn được kêu gọi phản ảnh tình 
yêu của Thiên Chúa. Địa lục Á Châu, nơi thấm đẫm 
những truyền thống phong phú về triết học và đạo giáo, vẫn còn là một giới tuyến 
lớn lao cho chứng từ của các bạn về Chúa Kitô, Đấng là 'đường, là sự thật và là 
sự sống' (Gioan 14:6). Là giới trẻ chẳng những ở Á Châu mà 
còn là con cái nam nữ của châu lục rộng lớn này, các bạn có quyền và có 
nhiệm vụ dự phần trọn vẹn vào đời sống xã hội của mình. Đừng sợ mang sự khôn 
ngoan của đức tin cho hết mọi khía cạnh của đời sống xã hội! 
"... Chúng ta hãy suy nghĩ đến chữ thứ hai là 'Giới 
Trẻ'. Các bạn và bạn bè của các bạn là thành phần đầy những lạc 
quan, nghị lực và thiện chí, những gì làm nên đặc tính của giai đoạn đời sống 
này. Hãy để cho Chúa Kitô biến nỗi lạc quan tự 
nhiên của các bạn thành niềm hy vọng Kitô giáo, nghị lực của các bạn thành 
nhân đức luân lý, thiện chí của các bạn thành tình yêu thương tự hiến chân thực! Đó 
là đường lối các bạn được kêu gọi thực hiện. Đó là đường lối thắng vượt tất cả 
những gì đe dọa niềm hy vọng, nhân đức và tình yêu thương trong đời sống của các 
bạn cũng như trong văn hóa của các bạn. Có thế tuổi trẻ của các bạn mới trở 
thành tặng ân cho Chúa Giêsu cũng như cho thế giới. 
"Là thành phần Kitô hữu trẻ trung, dù các bạn là công nhân hay sinh viên, dù các 
bạn đã khởi sự nghề nghiệp hay đã đáp ứng ơn gọi hôn nhân, tu trì hay linh mục, các 
bạn chẳng những là một phần của tương lai Giáo Hội; các bạn còn là một phần cần 
thiết và yêu dấu của hiện tại Giáo Hội nữa! Các 
bạn là hiện tại của Giáo Hội! Hãy gần gũi nhau, hãy gần gũi Thiên 
Chúa hơn bao giờ hết, và cùng với các vị giám mục và linh mục của các bạn hãy 
sống những năm tháng này trong việc xây dựng một Giáo Hội truyền giáo và khiêm 
tốn hơn nữa, một Giáo Hội thánh thiện hơn nữa, truyền giáo và khiêm tốn hơn nữa, 
một Giáo Hội yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa bằng việc tìm cách phục vụ người 
nghèo, người cô đơn, người bệnh nạn và người ở bên lề xã hội. 
"Trong đời sống Kitô hữu của mình, các bạn sẽ gặp thấy nhiều dịp cám dỗ các bạn, 
như thành phần môn đệ trong Phúc Âm hôm nay, trong việc xua đi kẻ lạ mặt, người 
thiếu thốn, kẻ nghèo khổ và người đoạn trường. Những người này là thành phần lập 
lại tiếng kêu của người phụ nữ trong Phúc Âm: 'Lạy Chúa, xin cứu giúp tôi!' Lời 
van nài của người đàn bà Canaan này là tiếng kêu của hết những ai tìm kiếm yêu 
thương, đón nhận và tình thân với Chúa Kitô. Đó là tiếng kêu của 
rất nhiều người ở các thành phố vô danh của chúng ta, tiếng kêu của rất nhiều 
người đương thời của các bạn, và tiếng kêu của tất cả những vị tử đạo mà thậm 
chí ngày nay đang phải chịu bách hại và chết chóc vì danh Chúa Giêsu: 'Lạy Chúa, 
xin cứu giúp tôi!' Nó thường là tiếng kêu xuất phát từ chính cõi lòng của chúng 
ta nữa: 'Lạy Chúa, xin cứu giúp tôi!' Chúng ta 
hãy đáp lại, không như thành phần đẩy đi những ai đòi hỏi chúng ta, 
như thể việc phục vụ thành phần thiếu thốn là đường lối cho chúng ta được gần 
gũi với Chúa! Không! Chúng ta cần phải như Chúa 
Kitô, Đấng đáp ứng hết mọi điều van xin giúp đỡ một cách yêu thương, xót thương 
và cảm thương. 
Sau hết, phần thứ ba của đề tài cho Ngày này - 'Bừng 
tỉnh!' - Lời này nói về một trách nhiệm mà Thiên Chúa trao cho 
các bạn. Nó là nhiệm vụ sống tỉnh táo, đừng để 
cho những áp lực, cám dỗ và tội lỗi của chúng ta hay của kẻ khác làm cùn nhụt đi 
cảm thức của chúng ta trước vẻ đẹp của thánh thiện, trước niềm vui của Phúc Âm. Bài đáp 
ca hôm nay mời gọi chúng ta hãy liên lỉ 'hân hoan và vui hát'. Không 
ai ngủ lại có thể ca hát, nhảy múa hay vui lên. Tôi không thích thấy giới trẻ 
ngủ. Đừng nhé! Hãy bừng tỉnh! Hãy đi! Hãy tiến bước! Giới trẻ 
thân mến, 'Thiên Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, đã chúc lành cho chúng ta!' 
(Thánh Vịnh 67:6); từ Ngài chúng ta đã 'được xót thương' (Roma 11:30). Được 
bảo đảm bởi tình yêu Thiên Chúa, hãy tiến vào thế gian để, 'nhờ tình thương được 
tỏ ra cho các bạn, họ - thân hữu của các bạn, đồng nghiệp của các bạn, hàng xómn 
của các bạn, đồng hương của các bạn, hết mọi người trên châu lục rộng lớn này - 
'giờ đây được lãnh nhận tình thương của Thiên Chúa' (xem Rôma 11:31). Chính bởi 
tình thương của Ngài mà chúng ta được cứu độ....
"Hỡi giới trẻ Á Châu, hãy thức giấc!"
Bài Giảng Lễ Cầu Hòa Bình và Hòa Giải ngày 18/8: "Thập 
giá của Chúa Kitô là những gì cho thấy quyền lực của Thiên Chúa trong việc nối 
lại hết mọi chia rẽ, trong việc chữa lành hết mọi thương tích, và trong việc tái 
thiết những mối liên hệ yêu thương huynh đệ của thuở ban đầu... Hãy tin vào 
quyền lực thập giá của Chúa Kitô!".
".... Bài đọc 
thứ nhất cho thấy lời hứa hẹn của Thiên Chúa trong việc phục hồi mối hiệp nhất 
và thịnh vượng cho một thành phần dân bị phân tán bởi tai ương và chia rẽ. Đối 
với chúng ta, như đối với dân Yến-Duyên (Israel), thì đây là một lời hứa đầy hy 
vọng: nó nhắm đến một tương lai được Thiên Chúa hiện đang sửa soạn cho chúng ta. 
Tuy nhiên, lời hứa này liên hệ bất khả phân ly với một mệnh lệnh, mệnh lệnh trở 
về cùng Thiên Chúa và hết lòng tuân giữ lề luật của Ngài (xem Đệ Nhị Luật 
30:2-3). Những 
tặng ân của Thiên Chúa về hòa giải, hiệp nhất và bình an là những tặng ân liên 
hệ bất khả phân ly với ơn hoán cải, một thứ thay đổi tâm can có thể xoay vần đời 
sống chúng ta và lịch sử của chúng ta, với tư cách cá nhân cũng như một dân tộc. 
"Nơi Thánh Lễ này, chúng ta tự nhiên được nghe thấy lời hứa hẹn này trong bối 
cảnh liên quan đến cảm nghiệm lịch sử của dân tộc Hàn quốc, một cảm nghiệm chia 
rẽ và xung khắc đã kéo dài trên 60 năm trời. Thế nhưng những lời hiệu triệu khẩn 
trương của Thiên Chúa trong việc hoán cải cũng thách đố thành phần môn đệ theo 
Chúa Kitô ở Hàn quốc trong việc hãy xem xét tính chất về vấn đề họ góp phần của 
mình vào việc xây dựng một xã hội thực sự công chính và nhân bản. Nó thách đố 
mỗi người trong anh chị em trong việc suy nghĩ về mức độ mà anh chị em, với tư 
cách cá nhân cũng như cộng đồng, chứng tỏ cho thấy mối quan tâm phúc âm đối với 
thành phần kém may mắn, thành phần bị đẩy ra ngoài lề xã hội, thành phần không 
có công ăn việc làm và thành phần không được chung phần với tình trạng thịnh 
vượng của nhiều người. Và nó thách đố anh chị em, với tư cách là Kitô hữu và 
người dân Hàn quốc, mạnh mẽ loại trừ đi thứ tâm thức ngờ vực, đối chọi và tranh 
giành, mà thay vào đó là việc làm sao để hình thành một thứ văn hóa làm nên bởi 
giáo huấn Phúc Âm cùng với các thứ giá trị tuyền thống cao quí nhất của nhân dân 
Hàn quốc. 
"Chúa 
Giêsu muốn chúng ta tin rằng việc tha thứ là cánh cửa dẫn đến hòa giải. 
Khi bảo chúng ta hãy tha thứ cho anh chị em của chúng ta một cách sẵn sàng là 
Người đang xin chúng ta hãy làm một cái gì đó hoàn toàn sâu xa, thế nhưng Ngài 
cũng ban ơn cho chúng ta để thực hiện điều ấy. Những gì có vẻ bất khả theo 
quan điểm loài người, không thực tiễn và thậm chí có những lúc bất khả chấp, thì 
Ngài cũng làm cho nó thành khả dĩ và thành hiệu nhờ quyền lực vô cùng của thập 
giá Ngài. Thập 
giá của Chúa Kitô là những gì cho thấy quyền lực của Thiên Chúa trong việc nối 
lại hết mọi chia rẽ, trong việc chữa lành hết mọi thương tích, và trong việc tái 
thiết những mối liên hệ yêu thương huynh đệ của thuở ban đầu. 
"Vậy thì đây là sứ điệp tôi xin lưu lại cho anh chị em khi kết thúc chuyến viếng 
thăm Hàn quốc của tôi. Hãy 
tin vào quyền lực thập giá của Chúa Kitô! Hãy đón 
nhận ân sủng hòa giải của thập giá vào tâm can của anh chị em và hãy chia sẻ ân 
sủng đó với những người khác! Tôi 
xin anh chị em hãy thực hiện một chứng từ thuyết phục cho sứ điệp của Chúa 
Kitô về hòa giải nơi gia đình của anh chị em, nơi cộng đồng của anh chị em cũng 
như nơi hết mọi lãnh vực của đời sống quốc gia. Tôi tin tưởng rằng, trong tinh 
thần thân hữu và hợp tác với những Kitô hữu khác, với các môn đồ của đạo giáo 
khác, cũng như với tất cả mọi con người nam nữ thiện chí còn quan tâm đến tương 
lai của xã hội Hàn quốc, anh chị em sẽ trở thành men cho Vương quốc của Thiên 
Chúa nơi mảnh đất này. Nhờ đó, lời nguyện cầu của chúng ta cho hòa bình và hòa 
giải sẽ được dâng lên Thiên Chúa từ những con tim tinh tuyền hơn bao giờ hết, và 
nhờ tặng ân ưu ái của Ngài mà chiếm được sự thiện hảo quí báu tất cả chúng 
ta đều mong chờ.... "
ĐTC Phanxicô trả lời Phỏng Vấn trên chuyến bay từ Nam Hàn về Rôma Thứ Hai 
18/8/2014
Vấn 1- Trong 
chuyến viếng thăm Hàn quốc, ngài đến với các gia đình của thảm nạn chìm tầu 
Sewol để an ủi họ. hai vấn đề xin được đặt ra là: ngài cảm thấy gì khi gặp gỡ 
họ? Và ngài có quan tâm hay chăng đến việc làm của ngài có thể bị giải thích sai 
lạc theo chính trị?
ĐTC Phanxicô: 
Khi bạn đặt mình trước khổ đau của con người, bạn cần phải làm những gì lòng bạn 
thúc đẩy bạn làm. Thế rồi sau đó người ta có thể nói rằng ngài đã làm điều này 
vì chủ ý chính trị, hay vì cái gì đó. Họ có thể nói đủ thứ. Thế nhưng khi bạn 
nghĩ về những người nam nữ cha mẹ bị mất con cái của mình, về những người anh 
chị em bị mất đi anh chị em của mình, và nỗi đớn đau cả thể của một thảm họa như 
thế ... lòng tôi. Tôi là một linh mục, tôi cảm thấy cần phải đến gần với họ, tôi 
cảm thấy như thế. Đó là những gì tiên quyết. Tôi biết rằng niềm an ủi tôi có thể 
cống hiến, các lời nói của tôi, không hẳn là một phương dược. Tôi không thể nào 
cống hiến sự sống mới cho những ai đã chết. Thế nhưng sự gần gữi của con người 
trong những giây phút như thế cống hiến sức mạnh, tình đoàn kết cho chúng ta.
Tôi nhớ khi còn là tổng giám mục Buenos Aires, tôi đã trải qua hai thảm họa 
giống như thế. Một là đám cháy xẩy ra ở một phòng nhẩy, một cuộc hòa nhạc nhạc 
pop khiến 194 người chết. Biến cố này xẩy ra vào năm 1993. Thế rồi một thảm họa 
khác xẩy ra cho xe lửa, và tôi nghĩ rằng có 120 người chết vì thế. Vào những 
lúc ấy tôi cũng cảm thấy thế, đến gần với họ. Nỗi đớn đau của con người thì mạnh 
mẽ mà nếu chúng ta gần gũi trong những giây phút buồn thảm ấy là chúng ta đã trợ 
giúp rất nhiều. 
Và tôi muốn nói đến một điều nữa. Tôi đã nhận lấy sợi giây lơ (tôi đang đeo từ 
những thân nhân của thảm họa chìm tầu Sewold) vì muốn tỏ ra liên kết với họ, và 
sau nửa ngày thì có người đến gần tôi mà nói rằng 'tốt hơn nên cởi ra, ngài cần 
phải tỏ ra trung lập'. Thế nhưng, xin hãy nghe đây, người ta không thể nào tỏ ra 
trung lập trước khổ đau của con người. Tôi đã đáp lại như thế. Đó là cách thức 
tôi cảm thấy. 
Vấn 2- Ngài biết 
rằng mới đây lực lượng Hoa Kỳ đã bắt đầu dội bom những kẻ khủng bố ở Iraq để 
ngăn ngừa nạn thảm sát, để bảo vệ dân thiểu số, bao gồm cả người Công giáo là 
thành phần đang được ngài dẫn dắt. Câu tôi muốn hỏi là thế này: ngài có chấp 
nhận việc dội bom của Hoa Kỳ hay chăng? 
ĐTC Phanxicô: Cám ơn 
bạn về câu hỏi rõ ràng này. Trong những trường hợp như thế, khi xẩy ra một cuộc 
tấn công bất chính, tôi chỉ có thể nói như vầy: được phép ngăn chặn thành phần 
tấn công bất chính. Tôi nhấn mạnh đến động từ ngăn chặn. Tôi không nói đến 
bom đạn, đến lâm chiến, tôi nói ngăn chặn bằng những cách thức nào đó. Họ có thể 
bị ngăn chặn bằng cách nào đó? Những phương tiện ấy cần phải được thẩm định. 
Việc ngăn chặn kẻ tấn công bất chính là điều hợp lý.
Thế nhưng chúng ta cũng cần phải nhớ. Biết bao nhiêu lần lấy lý ngăn chặn kẻ tấn 
công bất chính mà các quyền lực (ra tay can thiệp) đã nắm quyền kiểm soát dân 
chúng và đã thực hiện một cuộc chiến xâm chiếm thực sự.
Một quốc gia duy nhất không thể phán quyết cách thức ngăn chặn kẻ tấn công bất 
chính. Sau Thế Chiến Thứ II đã nẩy lên ý nghĩ về một Liên Hiệp Quốc. Vấn đề ngăn 
chặn thành phần tấn công bất chính cần phải được bàn luận ở Liên Hiệp Quốc. Có 
phải đó là một kẻ tấn công bất chính hay chăng? Dường như là thế. Vậy thì làm 
sao chúng ta ngăn chặn hắn đây? Chỉ thế thôi, không còn gì nữa. 
Sau nữa, bạn đề cập đến thành phần thiểu số. Cám ơn bạn về từ ngữ ấy, vì họ nói 
với tôi về thành phần Kitô hữu, những người Kitô hữu nghèo khổ. Thật sự là họ 
chịu khổ. Những vị tử đạo, có nhiều vị tử đạo. Thế nhưng ở nơi đây có nhiều con 
người nam nữ, có những người thiểu số về tôn giáo, không phải tất cả đều là Kitô 
hữu, và họ tất cả đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. 
Việc ngăn chặn thành phần tấn công bất chính là một quyền lợi của nhân 
loại, nhưng nó cũng là một thứ quyền ngăn chặn kẻ tấn công không được hành ác.  
Vấn 3- Xin 
trở về với vấn đề Iraq. Như Đức Hồng Y Filoni và vị lãnh đạo của 
Dòng Đaminh, ngài có sẵn sàng ủng hộ việc can thiệp quân sự vào Iraq để ngăn 
chặn thành phần thánh chiến Hồi giáo (Jihadists) hay chăng? Tôi 
còn một câu hỏi khác nữa đó là ngài có nghĩ đến việc đến Iraq vào một ngày nào 
đó hay chăng, có lẽ đến Kurdistan để nâng đỡ thành phần Kitô hữu tị nạn đang chờ 
đợi ngài ở đây, và để cầu nguyện với họ ở mảnh đất mà họ đã sống 2 ngàn năm nay?
ĐTC Phanxicô: Cách đây 
không lâu, tôi đã gặp Thống Đốc Barzani của Kardistan. Ông ấy có những ý nghĩ 
rất rõ ràng về tình hình này và cách thức giải quyết vấn đề, thế nhưng đó là 
những gì xẩy ra trước cuộc tấn công bất chính này. 
Tôi đã đáp lại câu hỏi thứ nhất rồi. Tôi chỉ đồng ý nơi sự kiện là khi có một kẻ 
tấn công bất chính thì họ cần phải được ngăn chặn lại.
Đúng thế, tôi đang muốn (đi đến đó). Thế nhưng tôi nghĩ rằng tôi có thể nói thế 
vầy, đó là khi chúng tôi cùng với các hợp tác viên của tôi nghe thấy những cuộc 
sát hại thành phần thiểu số tôn giáo, thì vấn đề bấy giờ ở Kurdistan đó là họ 
không thể nào tiếp nhận quá nhiều người. Vấn đề này người ta có thể hiểu được. 
Vậy thì có thể làm gì đây? Chúng tôi đã nghĩ đến nhiều điều. Trước hết là một tuyên 
báo được Cha Lombardi phổ biến thay mặt tôi. Sau đó bản tuyên báo này đã được 
gửi cho tất cả mọi tòa khâm sứ để thông đạt đến các chính quyền. Rồi tôi viết 
một bức thư cho vị Tổng thư Ký Liên Hiệp Quốc... Nhiều điều khác nữa... Cuối 
cùng chúng tôi quyết định gửi vị đại biểu riêng của chúng tôi là Đức Hồng Y 
Filoni, và tôi đã nói rằng nếu cần thì khi chúng tôi trở về từ Hàn quốc chúng 
tôi có thể đến đó. Đó là một trong những gì khả thể. Đó là câu trả lời của tôi. 
Tôi đang muốn (đi tới đó). Vào thời điểm này đây thì nó không phải là điều hay 
nhất để làm, nhưng tôi sẵn sàng thực hiện.  
Vấn 4- Câu 
hỏi của tôi về Trung Hoa. Trung Hoa đã cho phép ngài bay trên không phận của họ. 
Bức điện tín mà ngài đã gửi đi (trên đường đến Hàn quốc) đã được tiếp nhận mà 
không có một bình phẩm tiêu cực nào. Ngài có nghĩ đó là những bước hướng tới một 
cuộc đối thoại khả dĩ hay chăng? Và ngài có ước mong đên thăm Trung Hoa hay 
chăng? (Cha Lombardi xen vào. Tôi có thể cho các bạn biết là chúng ta hiện 
nay đang bay trên không phận của Trung Hoa vào lúc này đây. Nên câu hỏi này 
thật thích thời).
ĐTC Phanxicô: 
Khi chúng ta sắp tiến vào không phận của Trung quốc (trên đường đến Hàn quốc), 
tôi đã ở trong buồng lái với các phi công, và một người trong họ đã chỉ cho tôi 
một bản ghi danh mà nói chúng ta chỉ còn 10 phút nữa là vào không phận của Trung 
quốc, chúng ta cần phải xin phép họ. Người ta bao giờ cũng đòi hỏi điều này. Đó 
là điều bình thường trước đòi hỏi này của mỗi xứ sở. Và tôi đã nghe họ xin phép 
ra sao, họ đáp ứng thế nào. Tôi làm chứng điều ấy. Thế rồi người phi công lên 
tiếng nói rằng chúng tôi đã gửi một bức điện tín, nhưng tôi không biết họ làm 
như thế nào. 
Sau đó tôi rời buồng lái về chỗ của mình và cầu nguyện nhiều cho nhân dân Trung 
Hoa mỹ miều cao quí, một dân tộc khôn ngoan. Tôi nghĩ đến những con người khôn 
ngoan cao cả của Trung Hoa, tôi nghĩ về lịch sử khoa học và khôn ngoan. Và tu sĩ 
Dòng Tên chúng tôi đã có một lịch sử ở đó qua Cha Ricci. Tất cả những điều ấy 
hiện lên trong đầu óc của tôi. 
Có có muốn đến Trung Hoa hay chăng? Chắc chắn rồi! Mai này!
Chúng tôi tôn trọng nhân dân Trung Hoa. Giáo Hội chỉ xin được tự do làm việc của 
mình mà thôi. Ngoài ra không còn một điều kiện nào nữa. 
Thế rồi chúng ta không được quên rằng bức thư căn bản về các vấn đề Trung 
quốc đã được Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI gửi đến nhân dân Trung Hoa. Bức thư này 
thực sự là thích hợp hôm nay đây. Thực sự là thế. Cần đọc lại bức thư ấy.
Tòa Thánh bao giờ cũng hướng đến chỗ giao hảo. Luôn luôn. Vì Tòa Thánh thực sự 
mến phục nhân dân Trung Hoa.
Vấn 5- Chuyến đi 
tới đây của ngài sẽ là Albania và có thể là Iraq. Sau Phi Luật Tân và Sri Lanka 
mà ngài sẽ đến vào năm 2015 phải không? Và tôi có thể nói rằng ở Avila cũng hy 
vọng rằng ngài tới, họ vẫn có thể hy vọng hay chăng?
ĐTC Phanxicô: 
Phải, Nữ Tổng Thống Hàn quốc đã nói với tôi, bằng tiếng Tây Ban Nha thông thạo, 
rằng hy vọng là một điều cuối cùng mà người ta đánh mất. Bà nói điều đó với 
tôi ám chỉ về sự thống nhất của Hàn quốc. Người ta bao giờ cũng có thể hy vọng 
nhưng không quyết định được. Để tôi giải thích cho nghe nhé.
Năm nay Albania đã được định liệu. Một số người đã nói rằng vị Giáo Hoàng này 
bắt đầu mọi sự từ ngoại biên. Thế nhưng tôi sẽ đến Albania vì hai lý do quan 
trọng. Trước hết vì họ đã có thể thành lập một chính quyền - chỉ cần nghĩ đến 
những người Balkan là dân đã có thể thành lập một chính quyền hiệp nhất đất nước 
với tín đồ Hồi giáo, Chính Thống giáo và Công giáo, với một hội đồng liên tôn 
hữu ích và cân bằng. Đó là một điều tốt đẹp và hài hòa. Sự hiện diện của vị Giáo 
Hoàng là muốn nói cùng tất cả mọi dân tộc (trên thế giới) rằng vẫn có thể cùng 
nhau làm việc. Tôi cảm thấy chuyến đi của tôi như là một trợ giúp thực sự cho 
dân tộc cao quí ấy. 
Còn một điều nữa, đó là nếu chúng ta nghĩ đến lịch sử của Albania liên quan đến 
tôn giáo thì nó là một xứ sở duy nhất trong thế giới cộng sản có trong hiến pháp 
của mình chủ nghĩa vô thần thực tiễn. Bởi thế nếu các bạn đi lễ là trái với hiến 
pháp. Thế rồi một trong những vị thừa tác viên đã nói với tôi rằng 1820 nhà 
thờ đã bị hủy hoại, cả Công giáo lẫn Chính thống giáo, vào thời ấy. Rồi những 
nhà thờ khác được biến thành các rạp hát, rạp ciné, chỗ nhẩy đầm. Bởi thế tôi 
cảm thấy rằng tôi cần phải đến đó, chỉ trong vòng một ngày thôi. 
Năm tới tôi muốn đến Philadelphia cho cuộc hội ngộ các gia đình thế giới. Thế 
rồi tôi đã được vị Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc mời đến với Quốc Hội Hoa Kỳ. Đồng 
thời vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc cũng mời tôi đến Văn Phòng Liên Hiệp Quốc ở 
Nữu ước. Vậy là có thể là 3 thành phố vào cùng một dịp. 
Mễ Tây Cơ nữa. Nhân dân Mễ Tây Cơ muốn tôi đến Đền Thánh Đức Mẹ Gualalup, nhờ đó 
chúng tôi có thể lợi dụng nhân chuyến đến thăm Hoa Kỳ, nhưng vẫn chưa chắc chắn.
Sau hết là Tây Ban Nha. Các Vị Vương Gia Tây Ban Nha đã mời tôi. Các vị giám 
mục đã mời tôi, có cả một loạt lời mời tôi đến Tây Ban Nha, có thể sẽ thành 
nhưng chưa có gì là chắc chắn hết, bởi vậy tôi chỉ biết nói rằng tôi có thể tới 
Avila vào buổi sáng và về buổi chiều nếu được nhưng chưa có gì được định đoạt 
hết. Bởi vậy người ta vẫn có thể hy vọng. 
Vấn 6- Mối 
liên hệ giữa ngài và Đức Benedicto XVI ra sao? Hai ngài có thường trao đổi ý 
kiến với nhau hay chăng? Hai ngài có một dự án nào chung sau bức thông điệp (Ánh 
Sáng Đức Tin) hay chăng?
ĐTC Phanxicô: 
Chúng tôi gặp gỡ nhau. Trước khi tôi lên đường đi Hàn quốc, tôi đã đến thăm 
ngài. Hai tuần trước đó ngài đã gửi cho tôi một bản văn đặc biệt và hỏi ý kiến 
của tôi. Chúng tôi vốn liên hệ bình thường với nhau.
Tôi xin trở lại với ý nghĩ này, một ý nghĩ không được một thần học gia nào đó ưa 
thích, tôi không phải là thần học gia, nhưng tôi nghĩ rằng vị giáo hoàng hưu trí 
này không phải là trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, sau nhiều thế kỷ thì ngài là 
vị giáo hoàng hưu trí đầu tiên. Chúng ta hãy nghĩ đến những gì ngài đã nói, đó 
là tôi già rồi, tôi không còn đủ sức lực. Đó là một cử chỉ tuyệt vời của những 
gì là cao quí, khiêm hạ và can trường.
Nhưng nếu người ta nghĩ rằng 70 năm trước các vị giám mục hưu trí cũng đã là một 
thứ ngoại lệ. Không có vấn đề ấy, nhưng ngày nay các vị giám mục hưu trí đã trở 
thành một điều lệ.
Tôi nghĩ rằng vấn đề giáo hoàng hưu trí đã là một điều lệ vì đời sống của chúng 
ta tồn tại lâu hơn và ở một độ tuổi nào đó không còn khả năng quản trị tốt đẹp 
vì thân xác trở nên mệt mỏi, và có thể sức khỏe còn tốt nhưng không có khả năng 
hành sử tất cả mọi vấn đề của một tổ chức như tổ chức của Giáo Hội. Tôi nghĩ 
rằng Đức Giáo Hoàng Biển Đức đã là vị tạo nên cử chỉ này cho các vị giáo hoàng 
hưu trí. Như tôi đã nói trước, có thể một thần học gia nào đó nói rằng điều này 
không đúng, nhưng ý nghĩ của tôi là thế đó. Các thế kỷ rồi sẽ cho chúng ta biết 
rằng có vậy hay chăng. Chúng ta hãy chờ xem. 
Bạn có thể nói với tôi rằng nếu ở một lúc nào đó ngài cảm thấy ngài không thể 
tiến hơn nữa, tôi sẽ làm như vậy! Tôi sẽ làm như thế. Tôi cầu nguyện, nhưng tôi 
làm như vậy. Ngài (Đức Benedicto XVI) đã mở cánh cửa điều lệ, không còn là ngoại 
lệ nữa.
Mối liên hệ của chúng tôi thực sự là mối liên hệ anh em. Thế nhưng tôi cũng đã 
nói rằng tôi cảm thấy như thể tôi có một người ông trong nhà bởi đức khôn ngoan 
của ngài. Ngài là một con người khôn ngoan, cảm nhận đáng tôi nghe ngài. Và ngài 
phấn khích tôi khi cần thiết nữa. Đó là mối liên hệ giữa tôi và ngài. 
Vấn 7- Ngài đã gặp thành phần chịu khổ đau. Ngài cảm thấy thế nào khi ngài chào hỏi những đàn bà an vui trong lễ sáng nay? Đối với nỗi khổ đau của dân chúng ở Hàn quốc cũng có những Kitô hữu ẩn mình ở Nhật Bản và năm tới sẽ kỷ niệm 150 năm thời kỳ Nero của họ. Ngài có thể cùng cầu nguyện cho họ ở Nagasaki hay chăng?
ĐTC Phanxicô: Còn gì bằng nữa. Tôi đã được mời bởi cả Chính Quyền lẫn các vị Giám Mục. Tôi đã được mời rồi.
Đối với nỗi khổ đau, bạn trở về với một trong những câu hỏi đầu tiên. Nhân dân Hàn quốc là một dân tộc đã không đánh mất phẩm giá của mình. Đó là một dân tộc đã bị xâm chiếm, bị làm nhục. Nó đã phải chịu đựng các trận chiến ranh và giờ đây đang bị chia đôi. Hôm qua, khi tôi đến gặp giới trẻ (ở Haemi), tôi đã viếng thăm bảo tàng viện của các vị tử đạo ở đó. Những đau khổ của những con người này thật là khủng khiếp, chỉ vì không bước qua thập tự giá. Nó là một nỗi khổ đau lịch sử. Dân tộc này có khả năng chịu đựng và nó là một phần nơi phẩm giá của họ.
Cả đến ngày hôm nay nữa, khi những người nữ lão thành ấy ở trước mặt tôi trong lễ, tôi đã nghĩ rằng trong cuộc xâm chiếm ấy đã có những người con gái bị bắt đến các trại lính để lạm dụng họ nhưng bấy giờ họ đã không đánh mất phẩm giá của họ. Họ còn đó hôm nay đây cho thấy dung nhan của họ, già lão, những con người cuối cùng còn sống sót. Đó là một dân tộc hào hùng với phẩm giá của mình.
Trở lại với câu hỏi về các vị tử đạo, nỗi khổ đau cũng như những người đàn bá ấy thì những sự này đều là hoa trái của chiến tranh! Hôm nay chúng ta đang ở trong một thế giới chiến tranh loạn lạc, ở khắp mọi nơi. Có người đã nói với tôi rằng, Thưa Cha, cha có biết rằng chúng ta đang ở trong Thế Chiến Thứ Ba, từ từ xẩy ra. Người ấy đã hiểu được! Đó là một thế giới chiến loạn đã diễn ra những thứ dã man ác độc ấy.
Tôi muốn tập trung vào 2 chữ. Trước hết là dã man tàn bạo (cruelty). Ngày nay bất chấp trẻ em. Có lúc người ta đã nói về một thứ chiến tranh qui ước thì ngày nay không kể đến nó. Tôi không nói rằng chiến tranh qui ước là những gì tốt đẹp, nhưng ngay nay việc tung ra một trái bom sát hại người vô tội, kẻ có tội, trẻ em, phụ nữ, sát hại hết mọi người. Đừng! Chúng ta cần phải ngừng lại và hãy suy nghĩ một chút về mức độ dã man tàn bạo chúng ta đã đạt tới. Điều này chắc chắn làm cho chúng ta run sợ, và điều ấy không tạo nên sợ hãi. Một nghiên cứu có tính cách nghiệm xét có thể thực hiện về mức độ dã man tàn bạo của nhân loại vào lúc này chắc chắn khiến chúng ta hơi run sợ.
Một chữ khác tôi muốn nói là hành hạ tra tấn (torture). Ngày nay hành hạ tra 
tấn là một trong những phương tiện, tôi có thể nói, hầu như thường tình nơi hành 
vi của các lực lượng tình báo, nơi các tiến trình tư pháp, v.v. Hành hạ tra 
tấn là một tội phạm đến nhân loại, là một tội ác phạm đến loài người. Tôi muốn 
nói với người Công giáo rằng việc hành hạ tra tấn ai đó là một tội trọng (mortal 
sin), là một tội nặng (grave sin). 
Chưa hết, nó là một tội phạm đến nhân loại nữa.
Dã man tàn ác và hành hạ tra tấn! Tôi rất muốn là nếu các bạn, trong ngành truyền 
thông đại chúng của các bạn, thực hiện một cuộc suy nghĩ xem: các bạn thấy như 
thế nào những điều này hôm nay đây? Các bạn thấy ra sao tình trạng dã man tàn 
bạo của loài người, và các bạn nghĩ gì về vấn đề hành hạ tra tấn. Tôi nghĩ rằng 
sẽ hữu ích cho tất cả chúng ta khi suy nghĩ đến điều ấy.
Vấn 8- Ngài 
có một nhịp sống rất gắng sức, đầy những dấn thân và nghỉ ngơi chút ít, rồi 
không có cả ngày nghỉ nữa, và ngài thực hiện các chuyến đi này đang khi xẩy ra 
thảm sát. Ở vào những tháng gần đây chúng tôi thấy ngài cũng đã phải hủy bỏ một 
số cuộc hẹn, thậm chí vào giây phút cuối cùng. Phải chăng có một cái gì đó cần 
phải quan tâm ở trong đời sống của ngài?
ĐTC Phanxicô: Đúng 
thế, có người đã nói với tôi điều ấy. Tôi đã chỉ lấy các ngày nghĩ tại nhà như 
tôi vẫn thường làm thôi. Có lần tôi đã đọc một cuốn sách. Khá hay, nhan đề là 
"Hãy vui lên nếu bạn loạn thần kinh chức năng - Rejoice that your are neurotic". 
Tôi cũng hơi bị loạn thần kinh chức năng sao đó. Thế nhưng người ta cần phải trị 
cả chứng loạn thần kinh chức năng nữa. Hãy cho họ uống chút dược thảo mỗi ngày. 
Một trong những chứng loạn thần kinh chức năng đó là tôi quá gắn bó với đời 
sống. 
Lần cuối cùng tôi lấy ngày nghỉ ở ngoài Buenos Aires với cộng đồng Dòng Tên vào 
năm 1975. Thế nhưng tôi luôn lấy ngày nghỉ. Thật đó. Tôi thay đổi nhịp sống. Tôi 
ngủ nhiều hơn, tôi đọc những gì tôi thích. Tôi nghe nhạc. Đó là cách nghỉ ngơi 
của tôi. Trong Tháng 7 và một phần của Tháng 8 tôi sống như thế. 
Về câu hỏi khác. Phải, đúng vậy, tôi đã phải hủy bỏ những cuộc hẹn. Có ngày tôi 
cần phải đến Bệnh Viện Gemelli, chỉ còn 10 phút trước khi tôi ở đó, nhưng 
tôi đã không thể làm thế. Quả thực chúng là 7 ngày rất gắng sức, với đầy những 
cuộc hẹn. Giờ đây tôi cần phải khôn ngoan hơn một chút. 
Vấn 9- Ở 
Rio, khi các đám đông dân chúng hô hoán Phanxicô, Phanxicô thì ngài đã bảo họ 
là hãy tung hô Chúa Kitô, Chúa Kitô. Ngài đã đương đầu với lòng mộ mến hồ hởi 
này của dân chúng thế nào? Ngài sống với hiện tượng này ra sao?
ĐTC Phanxicô: 
Tôi không biết phải trả lời thế nào. Tôi sống với nó bằng cách tạ ơn Chúa cho 
dân của Ngài hạnh phúc. Thật vậy, tôi thực làm như thế. Và tôi muốn Dân Chúa 
những gì tốt đẹp nhất. Tôi sống nó nhờ lòng quảng đại của dân chúng. Tôi cố gắng 
nghĩ về tội lỗi của tôi, lỗi lầm của tôi, để không nghĩ rằng tôi là một ai đó. 
Vì tôi biết điều này sẽ chỉ kéo dài một thời gian ngắn, hai hay ba năm để rồi về 
nhà Cha. Bởi thế nếu 
tin vào điều ấy thì thiếu khôn ngoan. Tôi sống nó như sự hiện diện của Chúa nơi 
dân của Ngài, Đấng đã sử dụng vị giám mục này, vị mục tử này của dân chúng, để 
tỏ ra cho họ thấy nhiều điều. Tôi sống nó một cách tự nhiên hơn trước đây một 
chút, hơn lúc ban đầu là lúc tôi hơi run sợ. Thế nhưng tôi làm những điều này 
thì tôi nghĩ rằng tôi không được gây lỗi lầm để đừng phạm đến dân chúng ở những 
điều ấy. Một cách tí chút như thế.
Vấn 10- Vị 
Giáo Hoàng này đã đến từ tận cùng trái đất và đang sống ở Vatican. Bên 
ngoài Nhà Thánh Matta ngài đã nói với chúng tôi về đời sống của ngài và về sự 
chọn lựa của ngài đối với chỗ trú ngụ này. Vị Giáo Hoàng này sống ở Vatican ra 
sao? Người ta luôn hỏi chúng tôi rằng: "Ngài đã làm gì? Ngài di chuyển ra sao? 
Ngài có đi bách bộ hay chăng? Họ đã thấy rằng ngài đã đến một tiệm ăn và điều họ 
nói gây ngạc nhiên chúng tôi. Ngài sống cuộc đời ra sao ở Nhà Thánh Matta, ngoài 
công việc của ngài? 
ĐTC Phanxicô: Tôi 
cố gắng sống thanh thản. Ngoài công việc và các cuộc hẹn thì cuộc đời dành cho 
tôi, một cuộc đời bình thường nhất tôi có thể sống. Thật vậy, tôi muốn đi ra 
ngoài thế nhưng không phải là bất khả, không phải là điều bất khả, vì nếu bạn ra 
ngoài thì dân chúng sẽ kéo đến với bạn. Đó là thực tại. Ở trong Nhà Thánh Matta 
tôi sống một cuộc đời bình thường với việc làm, nghỉ ngơi, chuyện trò vậy thôi.
Vấn 11- Ngài 
có cảm thấy mình như là một tù nhân hay chăng? 
ĐTC Phanxicô: Mới đầu 
thì có nhưng nay một số bức tường đã bị sụp đổ. Chẳng hạn trước đây tôi được bảo 
rằng Giáo Hoàng không thể làm điều này điều nọ. Tôi sẽ cống hiến các bạn một ví 
dụ làm cho các bạn cười nhé. Có lần tôi muốn đi vào phòng tập tạ (the lift) thì 
có người đột nhiên vào đó vì Giáo Hoàng không thể một mình vào phòng tập tạ. Bởi 
thế tôi đã nói rằng anh hãy về chỗ của mình để tôi tự mình vào phòng tập tạ. Đó 
là những gì bình thường. 
Vấn 12- Xin 
lỗi Cha, con cần hỏi cha câu hỏi này với tư cách là một phần tử của nhóm nói 
tiếng Tây Ban Nha có một phần Á Căn Đình. Đội tuyển của cha là San 
Lorenzo đã đoạt giải vô địch Mỹ Châu lần đầu tiên tuần vừa rồi. Con muốn biết 
cha đang sống điều này ra sao, cha đang vui mừng thế nào. Con nghe thấy rằng có 
một đại biểu đang mang cái cúp đến buổi triều kiến chung vào ngày Thứ Tư và cha 
sẽ nhận lấy nó trong buổi triều kiến chung này. 
ĐTC Phanxicô: Sau 
khi Ba Tây đoạt 
giải nhì thì đó là một tin vui. Tôi đã biết điều ấy ở đây. Họ nói với tôi ở 
Seoul. Và họ nói với tôi rằng họ đang đến vào ngày Thứ Tư. Đó là một buổi triều 
kiến chung và họ sẽ ở đó. Đối với tôi, San Lorenzo là một đội tuyển mà tất cả 
gia đình tôi đều ủng hộ. Cha tôi đã chơi bóng rổ ở San Lorenzo; ông là một cầu 
thủ trong đội bóng rổ này. Và khi còn nhỏ chúng tôi đã đi với ông, và bà má 
cũng đến Gazometer với chúng tôi nữa. Hôm nay đội tuyển 46 này đã là một đội 
tuyển lớn và đã đoạt giải vô địch. Tôi vui với nó. Không, không phải là một phép 
lạ!
Vấn 13- Một 
bức thông điệp về môi sinh đã được nói đến từ lâu. Ngài có thể nói cho chúng tôi 
biết khi nào thì nó được ban hành và đâu là những điểm chính yếu của nó? 
ĐTC Phanxicô: Tôi đã 
nói chuyện nhiều về bức thông điệp này với Đức Hồng Y Turkson cũng như với các 
người khác. Và tôi đã xin Đức Hồng Y Turkson thu góp tất cả mọi đóng góp đã có, 
và 4 ngày trước chuyến đi này, Đức Hồng Y Turkson đã mang đến cho tôi bản thảo 
đầu tiên. Nó dầy như thế này này. Tôi có thể nói nó dài khoảng gấp 3 lần Tông 
Huấn Niềm Vui Phúc Âm. Nó mới là bản thảo đều tiên. Không phải là một vấn đề dễ 
dàng, vì về vấn để coi sóc thiên nhiên tạo vật và môi sinh cũng như môi sinh con 
người, người ta có thể nói một cách an toàn nào đó cho tới một mức độ nào đó, 
nhưng rồi những giả thuyết khoa học tung ra, có giả thuyết đủ an toàn có giả 
thuyết không. Trong một bức thông điệp như thế là những gì theo huấn quyền, 
người ta chỉ có thể căn cứ vào những gì vững chắc, những gì bảo đảm. Nếu vị Giáo 
Hoàng nói tâm điểm của vũ trụ này là trái đất chứ không phải mặt trời thì 
ngài đã sai lầm bởi ngài nói một điều không đúng với khoa học. Đó là những 
gì đang xẩy ra hiện nay. Bởi vậy hiện nay chúng tôi cần phải nghiên cứu, từng 
khoản một, và tôi tin rằng nó sẽ trở nên ngắn hơn. Tuy nhiên, vẫn phải nhắm đến 
những gì là thiết yếu, đến những gì người ta có thể khẳng định một cách an 
toàn. Ở phần chú thích, người ta có thể nói rằng điều ấy theo giả thuyết này giả 
thuyết kia, theo tín liệu nhưng không thuộc về cấu trúc của một bức thông điệp 
có tính cách tín lý. Nó cần phải là những gì bảo đảm.  
Vấn 14- Xin 
cám ơn ngài nhiều về chuyến viếng thăm Nam Hàn. Tôi xin hỏi hai hai vấn nạn. Vấn 
nạn thứ nhất đó là ngay trước thánh lễ cuối cùng ở vương cung thánh đường, 
ngài đã an ủi một số người đàn bà an vui ở đó bấy giờ, ngài đã có ý nghĩ gì? Và 
câu hỏi thứ hai của tôi là Pyongyang coi Kitô giáo là một mối đe dọa trực 
tiếp đến chế độ của mình và vai trò lãnh đạo của mình, mà chúng ta biết rằng đã 
xẩy ra một số điểu kinh khủng với Kitô giáo ở Bắc Hàn song chúng ta không biết 
chính xác những gì đã xẩy ra. Trong đầu của ngài có một phương sách nào đặc 
biệt để thay đổi chính sách của Bắc Hàn đối với Kitô giáo ở Bắc Hàn hay chăng? 
ĐTC Phanxicô: Về 
câu hỏi thứ nhất tôi xin lập lại điều này. Ngày nay, những người đàn bà ấy ở đó 
và bất chấp tất cả những gì họ đã phải chịu họ vẫn giữ phẩm giá của mình, họ tỏ 
cho thấy gương mặt của họ. Tôi nghĩ, như tôi đã nói trước đây ít lâu, về nỗi khổ 
của chiến tranh, của dã man tàn bạo của thành phần gây chiến. Những người đàn bà 
này đã bị khai thác, đã trở thành nô lệ, tất cả đều dã man tàn bạo. Tôi đã suy 
nghĩ về tất cả những điều ấy cũng như về phẩm giá họ có cùng với việc họ 
chịu đựng biết là chừng nào. Và việc chịu khổ là một gia sản.Các vị giáo phụ của 
Giáo Hội đã nói máu tử đạo là hạt giống kitô hữu. Dân Hàn quốc các bạn đã gieo 
vãi thật nhiều và nhờ trung thành gắn bó mà giờ đây mới thấy được hoa trái 
từ hạt giống của các vị tử đạo. 
Về Bắc Hàn, tôi biết đó là một nỗi khổ đau, và là nơi tôi biết chắc là có nhiều 
người họ hàng thân thuộc không thể gặp gỡ nhau được, đó là một nỗi khổ đau, thế 
nhưng nó là một thứ khổ đau về tình trạng phân chia đất nước. Hôm nay, trong 
vương cung thánh đường, khi tôi đang mặc áo lễ thì có một món quà trao tặng 
tôi, đó là một mạo gai của Chúa Kitô được làm bằng loại giây thép chia đôi hai 
phần đất của Hàn quốc. Giờ đây chúng ta đang mang theo mạo gai này theo máy bay 
này, nó là một món quà tôi nhận được, là khổ đau của chia rẽ, của gia đình phân 
tán, thế nhưng như tôi đã nói hôm qua, tôi không thể nhớ chính xác, khi nói với 
các vị giám mục tôi đã nói rằng chúng ta có một niềm hy vọng đó là hai miến Hàn 
quốc đều là huynh đệ và nói cùng một ngôn ngữ. Họ nói cùng một ngôn ngữ vì họ có 
cùng một người mẹ và đó là những gì cống hiến cho chúng ta niềm hy vọng. Nỗi 
khổ đau chia rẽ thì lớn lao, tôi hiểu như thế và tôi cầu xin cho nó chấm dứt. 
Vấn 15- Là 
một người Mỹ gốc Ý tôi có lời khen tặng ngài về khả năng Anh ngữ của ngài, ngài 
không cần phải sợ, và nếu ngài muốn thực tập trước khi sang Hoa Kỳ, quê hương 
thứ hai của tôi, tôi sẵn sàng giúp ngài. Câu hỏi của tôi là như thế này: Ngài đã 
nói về tử đạo. Tiến trình về án phong thánh cho Đức Tổng Giám Mục Romero đang ở 
giai đoạn nào rồi. Và ngài muốn thấy thế nào từ tiến trình này?
ĐTC Phanxicô: Tiến 
trình đã bị khựng lại nơi Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin như được cho biết là "vì khôn 
ngoan". Giờ đây nó đã được mở lại và đang ở nơi Thánh Bộ Phong Thánh và đi theo 
tiến trình bình thường. Nó tùy thuộc vào cách thức các cáo thỉnh viên tiến hành, 
rất cần phải tiến hành một cách mau chóng. 
Điều tôi muốn đó là làm sáng tỏ việc tử đạo có phải vì thù ghét đức tin hay 
chăng 'odium fidei', một là vì tuyên xưng đức tin hay là vì thi hành các công 
việc Chúa Giêsu truyền chúng ta làm cho tha nhân. Đó là công việc của các thần 
học gia đang được nghiên cứu. Vì đằng sau ngài (Đức Tổng Giám Mục Romero), còn 
có Rutillio Grande cùng những người khác nữa. Cũng có những người khác bị sát 
hại nhưng không ở cùng một tầm mức như của Đức Tổng Giám Mục Romero. Điều này 
cũng cần phải được phân biệt theo thần học nữa. Đối với tôi thì Đức Tổng Giám 
Mục Romero là một con người của Thiên Chúa. Ngài là một con người của Thiên Chúa 
nhưng vẫn cần phải theo tiến trình, và Chúa sẽ tỏ ra dấu hiệu (chuẩn nhận) của 
Ngài. Thế nhưng, nếu Ngài muốn thì Ngài sẽ làm như vậy! Giờ đây các cáo thỉnh 
viên cần phải tiến hành vì không còn gì trở ngại nữa.  
Vấn 16- Trước 
những gì xẩy ra ở Gaza thì phải chăng việc Cầu Nguyện cho Hòa Bình ở Vatican hôm 
mùng 8 tháng 6 vừa rồi đã thất bại? 
ĐTC Phanxicô: Việc 
cầu nguyện cho hòa bình ấy hoàn toàn không bị thất bại. Trước hết, việc 
khởi động này không xuất phát từ tôi. Việc khởi động cùng nhau cầu nguyện được 
xuất phát từ hai vị tổng thống: Vị Tổng Thống Nhà Nước Do Thái và Vị Tổng Thống 
Nhà Nước Palestine. Họ cho tôi biết về khó khăn này, thế rồi chúng tôi muốn thực 
hiện ở đó (Thánh Địa), nhưng chúng tôi không thể tìm thấy chỗ nào thích hợp bởi 
giá chính trị cho mỗi bên rất cao nếu họ sang bên kia. Tòa Khâm Sứ là một nơi 
trung lập, thế nhưng đến tòa khâm sứ thì Vị Tổng Thống Palestine phải đi vào bên 
của Do Thái, bởi thế mà điều này không dễ dàng thực hiện. Sau đó họ nói với tôi 
rằng chúng tôi hãy làm điều này ở Vatican, chúng tôi sẽ đến đó. Hai con người 
này là hai con người của hòa bình, họ là những người tin vào Thiên Chúa, và 
họ đã sống qua nhiều điều xấu xa, họ tin tưởng rằng họ chỉ còn một cách duy 
nhất để giải quyết tình hình ở đây đó là bằng đối thoại, thương thuyết và hòa 
bình.
Bạn hỏi tôi có phải là một thất bại hay chăng ư? Không, cánh cửa vẫn mở. Tất cả 
4 người, hai vị Tổng Thống ấy và Đức Bartholomew I, tôi muốn ngài ở đây như là 
vị thượng phụ toàn cầu của Chính Thống giáo, thật là tốt đẹp khi ngài ở với 
chúng tôi, cánh cửa cầu nguyện được mở ra. Chúng ta được nhắc là cần phải cầu 
nguyện, hòa bình là một tặng ân của Chúa. Nó là một tặng ân thế nhưng chúng 
ta đạt được nó bằng hoạt động của chúng ta. Cần phải nói cùng nhân loại 
rằng đường lối đối thoại là những gì quan trọng, vấn đề thương thuyết là những 
gì quan trọng, nhưng có cả đường lối cầu nguyện nữa. Thế rồi sau đó chúng tôi đã 
thấy những gì xẩy ra. Thế nhưng đó chỉ là trường hợp trùng hợp. Việc gặp gỡ 
nguyện cầu không phải là việc phối hợp biến cố. Nó là một bước tiến căn bản của 
thái độ con người, giờ đây khói bom đạn và chiến tranh không cho người ta 
thấy được cánh cửa này, thế nhưng cánh cửa vẫn mở từ lúc ấy. Và khi tôi tin vào 
Thiên Chúa thì tôi nhìn vào cánh cửa đó và nhiều người cầu xin và xin Ngài cứu 
giúp chúng ta. Tôi thích câu hỏi này. Xin cám ơn bạn!