GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 


Quyền cầm buộc và cởi mở 
của Giáo Hội: 
bao gồm những gì và cho tới đâu?

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Nền tảng Thánh Kinh:

 

Chúa Kitô là Đấng sáng lập Kitô giáo nhưng không trực tiếp cai trị Giáo Hội của Người và chăn dắt đoàn chiên của Người, nhưng đã trao quyền quản trị Giáo Hội và chăn dắt đoàn chiên của Người trước hết và trên hết cho Tông Đồ Phêrô (xem Mathêu 16:16 và Gioan 21:15-17), sau đó cho cả tồng đồ đoàn hiệp nhất với Tông Đồ Phêrô (xem Mathêu 18:18 và Gioan 20:23). 

Theo giòng lịch sử, Giáo Hội đã quả thực thực thi quyền giảng dạy được gọi là Huấn Quyền (Magisterium) của mình, trong đó bao gồm cả quyền cầm buộc và tháo cởi của mình, những quyền được chính Chúa Kitô minh định trong Phúc Âm như sau: 

 

1- "Thày trao cho con chìa khóa nước trời. Điều gì con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc; điều gì con cởi mở dưới đất trên trời cũng cởi mở" (Mathêu 16:19);
2- "Điều gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và điều gì các con cởi mở dưới đất trên trời cũng cởi mở" (Mathêu 18:18);
3- "Các con tha thứ tội lỗi cho ai thì tội lỗi của người ấy được thứ tha; các con cầm buộc tội ai thì tội lỗi của người ấy bị cầm buộc" (Gioan 20:23);
4- "Các con hãy đi tuyển mộ môn đồ ở khắp các dân nước. Các con hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Hãy dạy cho họ thi hành hết mọi sự Thày đã truyền cho các con" (Mathêu 28:19-20);
5- "Ai đón nhận các con là đón nhận Thày, và ai đón nhận Thày là đón nhận Đấng đã sai Thày" (Mathêu 10:40); "Ai nghe các con là nghe Thày. Ai loại trừ các con là loại trừ Thày. Ai loại trừ Thày là loại trừ Đấng đã sai Thày" (Luca 10:16);
6- "Hãy chăm nuôi các con cừu của Thày - Feed my lambs ... Hãy chăn dắt chiên của Thày - Tend my sheep ... Hãy chăm nuôi chiên của Thày - Feed my sheep" (Gioan 21:15-17). 

Thẩm Quyền Giáo Hội:
Căn cứ vào chính các lời Chúa Kitô tuyên bố trên đây, Kitô hữu nói chung và Kitô hữu Công giáo nói riêng đều phải công nhận rằng:
1- Các tông đồ là nền tảng của Giáo Hội Chúa Kitô (xem Epheso 2:20) - vì các ngài là chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô, được Người tuyển chọn để đặc biệt tỏ mình ra cho các ngài và sai các ngài đi để làm chứng v Người cho đến tận cùng trái đất và cho tới khi Người lại đến trong vinh quang.
2- Tông Đồ Đoàn được lãnh đạo bởi Tông Đồ Phêrô, và thành phần thừa kế Tông Đồ Đoàn là Hàng Giáo Phẩm của Giáo Hội, bao gồm vị Giáo Hoàng Thừa Kế Tông Đồ Phêrô và các vị Giám Mục Thừa Kế các vị Tông Đồ khác - Hàng Giáo Phẩm của Giáo Hội, bao gồm cả Giáo Hoàng và các vị Giám Mục, bao giờ cũng thi hành vai trò mục tử lãnh đạo của mình bằng 3 quyền vụ (quyền hành để phục vụ theo nhiệm vụ, hơn là quyền bính - authority, hay quyền hành - power) chính yếu của mình là quyền vụ quản trị, quyền vụ thánh hóa và quyền vụ giảng dạy.
3- Tông Đồ Trưởng Phêrô được trao cả chìa khóa nước trời, tiêu biểu cho quyến bính của vai trò mục tử tối cao thay Người chăn sóc toàn thể đàn chiên của Người trong Giáo Hội, lẫn trách nhiệm đóng mở (động từ "đóng mở" hợp với ý nghĩa của chiếc "chìa khóa") cũng là trách nhiệm buộc cởi (xem Mathêu 16:19) kiêm trách nhiệm chăm sóc toàn thể đàn chiên của Chúa Kitô (xem Gioan 21:15-17) - đó là lý do chỉ cần một mình thẩm quyền Giáo Hoàng thừa kế ngài cũng có thể tuyên bố các tín điều một cách vô ngộ (như định tín của Công Đồng Chung Vaticanô I - 1870).
4- Tuy nhiên, quyền cầm buộc và cởi mở cũng được Chúa Kitô trao cho chung cả Tông Đồ Đoàn nữa (xem Mathêu 18:18) - bởi thế quyền cầm buộc và cởi mở của Giáo Hội còn được thể hiện và hành sử qua cả các Công Đồng Chung của Giáo Hội trong suốt giòng lịch sử, những công đồng bao gồm cả Giáo Hoàng và toàn thể Hàng Giám Mục trên thế giới, từ Công Đồng Chung đầu tiên Nicea năm 325 đến Công Đồng Chung thứ 21 là Vaticanô II (1962-1965).

5- "Hãy chăm nuôi các con cừu của Thày - Feed my lambs ... Hãy chăn dắt chiên của Thày - Tend my sheep ... Hãy chăm nuôi chiên của Thày - Feed my sheep" (Gioan 21:15-17). Quyền cầm buộc và tháo cởi được Chúa Kitô trao cho riêng Tông Đồ Phêrô cũng như cho chung Tông Đồ đoàn, tức cho thành phần thừa kế các vị là Giáo Hoàng nói riêng và Hàng Giáo Phẫm nói chung trong Giáo Hội. Tuy nhiên, quyền chăn dắt toàn thể Giáo Hội của Người chỉ được trao cho một mình Tông Đồ Phêrô, cả chiên nhỏ (cừu) lẫn chiên lớn:  "Cừu - lambs" trong câu thứ nhất liên quan đến tác động "chăm nuôi / feed" có thể ám chỉ cộng đồng các tín hữu (chữ “lambs” ở số nhiều), "chiên" trong câu thứ hai liên quan đến tác động "chăn dắt/ tend" có thể ám chỉ chung Hàng Giáo Phẩm (“sheep” ở số ít), và "chiên" trong câu thứ ba liên quan đến tác động "chăm nuôi" có thể ám chỉ chung Cộng Đồng Giáo Hội (“sheep” ở số ít) vì ngay sau câu này là hình ảnh về cái chết của Mục Tử  Phêrô sẽ phải hy sinh mạng sống mình như Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành, hiến mạng cho chiên sự sống. 

6- "Các con hãy đi tuyển mộ môn đồ ở khắp các dân nước. Các con hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Hãy dạy cho họ thi hành hết mọi sự Thày đã truyền cho các con" (Mathêu 28:19-20). Câu này có thể nói bao gồm 3 thẩm quyền chính yếu của Tông Đồ Đoàn cũng như của các vị thừa kế các Tông Đồ. Đó là quyền quản trị, quyền thánh hóa và quyền giảng dạy. Quyền quản trị: "Các con hãy đi tuyển mộ môn đồ ở khắp các dân nước”, và quyền quản trị này bao gồm cả thành phần môn đồ ở các dân nước đây được các Tông Đồ tuyển chọn thừa kế các vị, cũng như liên quan đến luật lệ hay kỷ luật của Giáo Hội. Quyền thánh hóa: “Hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, và quyền thánh hóa này còn bao gồm cả các Bí Tích thánh khác liên quan đến phụng vụ và nghi lễ nữa. Và quyền giảng dạy: “Hãy dạy cho họ thi hành hết mọi sự Thày đã truyền cho các con", và quyền giảng dạy này bao gồm cả về tín lý, luân lý và tu đức. 

7- Chính vì Tông Đồ Đoàn, bao gồm cả Tông Đồ trưởng Phêrô, được Chúa Kitô tuyển chọn, tỏ mình và sai đi, như chính Người được Cha sai đến trần gian, mà: "Ai đón nhận các con là đón nhận Thày, và ai đón nhận Thày là đón nhận Đấng đã sai Thày" (Mathêu 10:40); "Ai nghe các con là nghe Thày. Ai loại trừ các con là loại trừ Thày. Ai loại trừ Thày là loại trừ Đấng đã sai Thày" (Luca 10:16) - Bởi thế, Kitô hữu cần phải liên lỉ lắng nghe, ngoan ngoãn tuân phục và cương quyết trung thành với các vị Thừa Kế Tông Đồ Đoàn là Hàng Giáo Phẩm của Giáo Hội Chúa Kitô, được lãnh đạo bởi các vị Giáo Hoàng, Thừa Kế Thánh Phêrô, Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian qua mọi thời đại.
8- Và vì Giáo Hội được chính Chúa Kitô thiết lập (xem Mathêu 16:18) và ở cùng cho đến tận thế (xem Mathêu 28:20), mà cho dù Giáo Hội của Người có được lãnh đạo bởi Hàng Giáo Phẩm nói chung và các vị Giáo Hoàng nói riêng chỉ là loài người yếu đuối tội lỗi, như đã từng xẩy ra trong giòng lịch sử của Giáo Hội, nhưng không một quyền lực tăm tối và thù địch nào, cho dù có quỉ quyệt đến đâu và hung dữ đến mấy, cho dù cả hỏa ngục có gầm thét bùng nổ như hỏa diệm sơn chăng nữa, cũng chẳng bao giờ và chẳng thể nào có thể phá nổi Giáo Hội của Người (xem Mathêu 16:18), trái lại, chính sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội, trong suốt giòng lịch sử của nhân loại qua bao nhiêu gian nan thử thách bách hại hằng liên lỉ xẩy ra, đã quả thực cho thấy sự hiện diện thần linh sống động của Chúa Kitô và quyền lực bất diệt của Thánh Thần Người trong Giáo Hội.
Trách Nhiệm Buộc Cởi:

Trách nhiệm cầm buộc và cởi mở của Giáo Hội được thi hành bởi 
riêng vị Giáo Hoàng và chung Hàng Giáo Phẩm trên thế giới, và là một thứ quyền liên quan đến Kho Tàng Đức Tin của Giáo Hội cũng như đến 3 quyền vụ chính của vai trò mục tử lãnh đạo các vị được Chúa Kitô ủy thác cho đó là quyền vụ quản trị, quyền vụ thánh hóa và quyền vụ giảng dạy: "Các con hãy đi tuyển mộ môn đồ ở khắp các dân nước (quyền quản trị). Các con hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (quyền thánh hóa). Hãy dạy cho họ thi hành hết mọi sự Thày đã truyền cho các con (quyền giảng dạy)" (Mathêu 28:19-20).
Nếu Kho Tàng Đức Tin của Giáo Hội là toàn bộ chân lý mạc khải cũng là chân lý cứu độ được Chúa Kitô tỏ ra cho các Tông Đồ và được các Tông Đồ truyền đạt bằng ngôn từ cũng như bằng văn tự, qua Thánh Kinh và Thánh Truyền, thì quyền cầm buộc và cởi mở của Giáo Hội là ở chỗ vừa cẩn thận gìn giữ (cầm buộc) vừa khôn khéo ban phát (cởi mở) Kho Tàng Đức Tin vô giá này của mình, trong vai trò chỉ là quản gia làm theo ý chủ của mình, hơn là vai trò chủ nhân ông có toàn quyền quyết định những gì không phải là sở hữu của mình mà chỉ được trao phó cho mà thôi.
Về trách nhiệm cầm buộc: 

Trước hết, trong vai trò quản trị của mình, liên quan đến giáo luật hay kỷ luật, Giáo Hội có quyền buộc hàng giáo sĩ phải sống độc thân, buộc tín hữu lập gia đình phải sống thủy chung với nhau cho đến cùng, đó là lý do về thủ tục thành hôn, Giáo Hội buộc phải qua khóa dự bị hôn nhân trước khi lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối, buộc ai xin lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối phải có nhân chứng và minh chứng thực sự không vướng mắc một cuộc hôn nhân nào khác, buộc phải cho con cái lãnh nhận Phép Rửa thì người khác tôn giáo mới được kết hôn với Kitô hữu Công giáo, buộc phải có phép chuẩn khi muốn lấy người không phải Kitô hữu Công giáo v.v.. 

 

Sau nữa, trong vai trò thánh hóa của mình, liên quan đến phụng vụ hay nghi thức, Giáo Hội có quyền buộc tín hữu phải giữ Ngày Chúa Nhật và Các Ngày Lễ Buộc, buộc phải xưng tội một năm ít là một lần, buộc phải giữ chay thích đáng trước khi Hiệp Lễ, phải ăn chay kiêng thịt vào những dịp ấn định, buộc phải cử hành theo đúng nghi thức phụng vụ đã được Giáo Hội qui định, buộc phải giữ ấn tòa giải tội v.v. 

 

Sau hết, trong vai trò giảng dạy của mình, liên quan đến tín lý hay luân lý, Giáo Hội có quyền buộc phải tin vào các tín điều được Giáo Hội, qua các vị Giáo Hoàng hay Công Đồng Chung, chính thức công khai tuyên bố, như là những chân lý mạc khải của Thiên Chúa, chẳng hạn các tín điều về Chúa Ba Ngôi, về Chúa Kitô (chẳng hạn Tín Điều về một Chúa Kitô chỉ có một Ngôi Vị duy nhất với hai bản tính được Công Đồng Nisea năm 325 và Ephêsô năm 431 tuyên bố để phản bác 2 lạc giáo Ariô thế kỷ 4 và Nestoriô thế kỷ 5), về Mẹ Maria (như 4 Tín Điều Thánh Mẫu: Mẹ Thiên Chúa bởi Công Đồng Epheso năm 431, Mẹ Đồng Trinh bởi Công Đồng Laterano năm 649, Mẹ Vô Nhiễm bởi Đức Piô IX 8/12/1854, và Mẹ Mông Triệu bởi Đức Piô XII 1/11/1950), về Luân Lý (chẳng hạn tôn trọng sự sống ngay từ khi thụ thai cho tới lúc tự nhiên qua đi), có quyền cấm đọc các sách báo nguy hại đến đức tin Kitô giáo, có quyền cấm thành phần giáo sư hay thần học gia chủ trương sai lạc phản Giáo Hội giảng dạy trong các học đường Công giáo v.v.

Về trách nhiệm cởi mở: 
Trước hết, trong vai trò quản trị của mình, liên quan đến giáo luật hay kỷ luật, Giáo Hội có quyền cho giáo dân lập gia đình được làm phó tế vĩnh viễn (từ thời Công Đồng Chung Vaticanô II trong thập niên 1960), cho các linh mục Chính Thống Giáo Đông Phương hay Hiệp Thông Anh Giáo trở về hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo Rôma vẫn tiếp tục đời sống gia đình trong khi thi hành thừa tác vụ linh mục của họ, có quyền "treo chén" bất cứ vị linh mục hay giám mục nào trầm trọng vi phạm giáo luật hoàn toàn phản lại với thừa tác vụ thánh của họ, có quyền cho phép linh mục hồi tục được lập gia đình, có quyền tháo lời khấn cho các tu sĩ vĩnh thệ xuất tu, có quyền giải hôn hay tiêu hôn cho những cuộc hợp hôn bất thành ngay từ đầu v.v.
Sau nữa, trong vai trò thánh hóa của mình, liên quan đến phụng vụ hay nghi thức, Giáo Hội có quyền canh tân phụng vụ, như Công Đồng Chung Vaticanô II đã làm qua Hiến Chế Phụng Vụ Thánh ban hành năm 1963, có quyền cho phép làm lễ bằng tiếng Latinh khi cần, có quyền cho rước lễ bằng tay hay bằng miệng, có quyền châm chước hay thích ứng trong việc giữ các Ngày Lễ Buộc trong năm, có quyền ban ơn toàn xá hay đại xá v.v.
Sau hết, trong vai trò giảng dạy của mình, liên quan đến tín lý hay luân lý, Giáo Hội có quyền tha vạ tuyệt thông cho những ai theo các bè rối hay ly giáo hoặc lạc giáo trở về với Giáo Hội, có quyền công nhận các phép lạ hay các cuộc hiện ra hoặc các mạc khải tư, có quyền thừa nhận những mầm mống thần linh nơi các đạo giáo ngoài Kitô giáo, có quyền chấp nhận những tập tục địa phương hợp nhân bản và không phản với đức tin Kitô giáo (như tục thờ kính ông bá tổ tiên theo văn hóa Á Đông), có quyền cho phép thành hôn với người ngoài Kitô giáo v.v.

Về giới hạn cởi mở:
Trước hết, trong vai trò quản trị của mình, liên quan đến giáo luật hay kỷ luật, Giáo Hội không bao giờ có quyền cho nữ giới làm linh mục, không bao giờ có quyền nhận người đồng tính làm linh mục, không được phép hợp thức hóa hôn nhân đồng tính v.v.
Sau nữa, trong vai trò thánh hóa của mình, liên quan đến phụng vụ hay nghi thức, Giáo Hội không có quyền được thêm bớt con số 7 bí tích, không có quyền thay đổi các yếu tố chính yếu làm nên từng bí tích là chất thể và mô thể của mỗi bí tích (chẳng hạn như chất thể của Bí Tích Thánh Thể bao giờ cũng là bánh không men cùng rượu nho, và mô thể của Bí Tích Thánh Thể bao giờ cũng là lời truyền phép của vị chủ tế trong Thánh Lễ) v.v.  
Sau hết, trong vai trò giảng dạy của mình, liên quan đến tín lý hay luân lý, Giáo Hội không được quyền chối bỏ chân lý mạc khải chỉ có Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất (xem Tông Vụ 4:12; Gioan 3:17-18) và Giáo Hội là phương tiện cứu độ duy nhất của Thiên Chúa (xem Marco 16:15-16; Gioan 17:21-23), không được quyền cho phép phá thai (kể cả khi bị hiếp, trừ trường hợp cứu mạng thai mẫu), không được quyền cho phép ly dị, không được quyền cho phép triệt sinh an tử hay triệt sinh trợ tử v.v.
Một trong những nguyên tắc hay tiêu chuẩn để căn cứ vào đó Giáo Hội thực hiện giới hạn thẩm quyền cởi mở của mình, đó là tất cả những gì Giáo Hội xét thấy cần cởi mở hoàn toàn không phạm đến chính chân lý mạc khải cũng là chân lý cứu độ, ở chỗ, những điều muốn cởi mở ấy tuyệt đối không được tương phản với hay làm sai lệch đi chân lý mạc khải hay chân lý cứu độ. Điển hình nhất là việc truyền chức linh mục cho nữ giới hay là việc ban Bí Tích Hôn Phối cho các cặp đồng tính v.v. 
Riêng về vấn đề truyền chức linh mục cho nữ giới, trong Tông Thư Ordinatio Sacerdotalis gửi cho các Vị Giám Mục Công Giáo ký ngày 22/5/1994, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kết thúc văn kiện quan trọng này để giải quyết dứt khoát vấn đề cứ tiếp tục được bùng lên theo chiều hướng thuần nhân quyền của thế giới văn minh tân tiến, nguyên văn như sau:
"Bởi thế, để loại trừ đi tất cả mọi ngờ vực liên quan đến một vấn đề mang tầm vóc quan trọng, một vấn đề liên quan đến chính thể chế thần linh của Giáo Hội, bằng thừa tác vụ của tôi trong việc củng cố anh em của mình (xem Luca 22:32), tôi tuyên bố rằng Giáo Hội không có một thẩm quyền nào hết trong việc truyền chức linh mục cho nữ giới, và phán quyết này cần phải được vĩnh viễn tuân thủ bởi tất cả mọi tín hữu trong Giáo Hội". 
Việc Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II lấy quyền của riêng mình là vị thừa kế Tông Đồ Phêrô để tuyên bố dứt khoát về vấn đề truyền chức linh mục cho nữ giới và buộc mọi tín hữu trong Giáo Hội phải vĩnh viễn tuân thủ là chứng cớ cho thấy quyền sử dụng chìa khóa được trao cho ngài với tư cách là thừa kế Tông Đồ Phêrô trong việc gìn giữ hay bảo tồn (khóa hay cầm buộc) Kho Tàng Đức Tin của Giáo Hội.
Nếu ai còn ấm ức chưa chịu thì cứ tự hỏi mình xem có ngon hơn Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa hay chăng mà đòi quyền cho mình hay cho nữ giới làm linh mục, trong khi không ai xứng đáng làm linh mục bằng Đệ Nhất Nữ Nhân về ân sủng này! Ngoài ra, hãy đặt thẳng vấn đề với Thiên Chúa là Đấng Tối Cao vô cùng khôn ngoan và toàn thiện rằng tại sao Ngài không nhập thể là một nữ giới mà là nam giới, và tại sao Ngài là "Cha chúng con ở trên trời", là Cha của Đức Giêsu Kitô mà không là mẹ? Nếu mọi sự đã được Thiên Chúa Hóa Công sắp xếp theo ý định thượng trí của Ngài thì loài người tạo vật không thể nhân danh nhân quyền và quyền bình đẳng phái tính của thời đại văn minh duy nhân bản vô thần ngày nay để đòi Thiên Chúa phải cho nam nhân sinh con như nữ giới và nữ giới có thân mình y hệt như nam nhân, nghĩa là bình đẳng phái tính đến độ cả hai phái tính đều phải một là cải tính (sexual orientation change) như đang xẩy ra nơi một số cá nhân, hai là trở thành trung tính (neutral).
V mục vụ cởi mở:
1- Nam nhân đã có gia đình được làm linh mục hay chăng?

Ngay từ đầu, Giáo Hội chưa có hệ thống chủng viện để huấn luyện linh mục từ nhỏ hay từ thời còn trẻ như bây giờ. Vậy thì làm sao có được thành phần thừa kế các vị tông đồ nếu không phải là thành phần đã có gia đình nhưng hội đủ điều kiện về tâm lý, luân lý, đạo lý cũng như khả năng lãnh đạo để tiếp tục thừa tác vụ mục tử của các tông đồ. Đó là lý do ngay từ đầu các vị phó tế, linh mục và giám mục là những người có gia đình (Marco 1:29-31; Mathêu 8:14-15; Luca 4:38-39; 1Timotheu 3:2, 12; Tito 1:6). Bởi thế, tự bản chất chức linh mục không buộc phải giữ độc thân. 
Tuy nhiên, vị linh mục, về tinh thần, là một Chúa Kitô Khác - Alter Christus / Another Christ, và về mục vụ, phải làm sao chỉ biết chuyên tâm đến lợi ích trên hết của đoàn chiên, ngoài ra không còn một quan tâm nào khác (như quan tâm đến gia đình riêng của mình), Giáo Hội Công Giáo, theo giòng lịch sử, mới có luật linh mục độc thân, bắt đầu nhen nhúm từ từ, như ở Tây Ban Nha vào năm 305, đến 2 Công Đồng Chung Lateranô I (1123) và II (1139), nhất là đến Công Đồng Chung Triđentinô (1642-1643) là công đồng chẳng những cấm hôn nhân giáo sĩ (prohibition of clerical marriage - khoản 9) mà còn khuyến khích mở các chủng viện huấn luyện linh mục độc thân nữa. Thậm chí ĐTC Biển Đức XV trong Consistorial Allocution ngày 16/12/1920 của mình còn nhấn mạnh rằng Giáo Hội coi việc độc thân này quan trọng đến độ không bao giờ hủy bỏ nó (xem Acta Apostolicae Sedis 12 - 1920 - trang 585).
Thế nhưng, thưc tế đang xẩy ra là càng ngày càng khan hiếm linh mục nhất là ở thế giới Tây phương. Nếu xẩy ra trường hợp ở những nơi cả một cộng đồng tín hữu cả năm hay nhiều năm chẳng được tham dự phụng vụ Thánh Lễ hay lãnh nhận các Bí Tích Thánh, thì vì nhu cầu mục vụ và lợi ích thiêng liêng cho tín hữu, Giáo Hội có quyền tuyển chọn một ít nam nhân có gia đình nào đó xứng đáng để làm linh mục hay chăng?
2- Ly dị tái hôn hay ăn ở vợ chồng bất hợp pháp có được xưng tội rước lễ hay chăng? 

Chắc chắn Giáo Hội không có quyền cho phép ly dị, vì đó là luật bất khả phân ly của Thiên Chúa đối với ơn gọi và đời sống hôn nhân gia đình (xem Khởi Nguyên 2:23-24; Mathêu 19:8-9)Đó là lý do Giáo Hội rất thận trọng trong vấn đề giải hôn hay tiêu hôn, thậm chí phải mất một thời gian lâu về thủ tục mới xong, đến độ nhiều người không chờ được, và đã có ý kiến trong Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới Ngoại Lệ III - 2014 rút ngắn lại thủ tục này.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy có những trường hợp rất éo le khó có thể giải quyết nếu chỉ sử dụng luật lệ bất khả phân ly của đời sống hôn nhân gia đình và áp đặt qui tắc muốn lãnh nhận ơn tha thứ của Bí Tích Giải Tội thì phải ăn năn dốc lòng chừa và phải từ bỏ dịp tội, sau đó mới được rước lễ hay mới xứng đáng rước lễ. 
Sau đây xin đan cử một số trường hợp cụ thể điển hình liên quan đến mục vụ về hôn nhân gia đình của Giáo Hội để xem Giáo Hội có quyền cho phép những ai rơi vào các trường hợp này mà chưa thể nào thoát nổi được xưng tội rước lễ hay chăng?
Trường hợp thứ nhất, mẹ con sang Mỹ trước trong khi chồng vẫn bị cải tạo, sau đó nghe tin chồng vượt ngục đã bị bắn chết, nhưng chưa có gì là chính xác, và đã từng liên lạc với Hội Hồng Thập Tự thế giới để tìm chồng mà mãi không thấy đâu. Nếu trong thời gian chờ đợi chồng mà hoàn cảnh đưa đẩy cần nơi nương tựa nơi một người đàn ông nào đó để rồi sau đó có con với người đàn ông này. Vì không có bằng chứng thật sự chồng chết nên cuộc sống với người đàn ông kia như vợ chồng là đời sống bất hợp pháp đối với Chúa và Giáo Hội, không được xưng tội rước lễ.
Trường hợp thứ hai, mẹ con sang Mỹ đoàn tụ với bố mẹ và anh chị em của mình, nhưng người chồng nhất định sang Mỹ, và ở Mỹ người vợ cần nương tựa cả về vật chất lẫn tình cảm, đã không thể giữ mình, nên đã sống với một người đàn ông khác và đã có con với người ta. Người vợ đã từng xin giải hôn ở tòa hôn phối giáo phận Hoa Kỳ nhưng bị tòa án hôn phối giáo phận ở VN của người chồng không chịu bởi người chồng phản đối. Do đó người vợ không được giải hôn và việc ăn ở vợ chồng với người đàn ông của chị là bất hợp pháp, không được xưng tội chịu lễ.
Trường hợp thứ ba, cả gia đình bao gồm cha mẹ và con cái đi vượt biên với nhau, nhưng chẳng may người vợ bị hải tặc hiếp rồi mang đi mất tiêu. sang tới Mỹ, người chồng tiếp tục tìm kiếm vợ, thậm chí sang đất nước của kẻ hiếp vợ mình để tìm vợ ở các ổ điếm, nhưng càng tìm càng chẳng thấy đâu. Trong khi đó các đứa con cần bàn tay của người mẹ chăm sóc, và tình cảm của người chồng cũng khó lòng đứng vững trước duyên sắc và sắn đón của một người đàn bà sẵn sàng thay vợ chăm sóc cho gia đình mình, nên đã ăn ở với người đàn bà này và đã có con với nhau. Tất nhiên là trường hợp ăn ở với nhau này là bất hợp pháp và do đó không được xưng tội rước lễ.
3- Đáp ứng mục vụ từng trường hợp chuyên biệt
Nếu Chúa Kitô đến thế gian là để cứu chung nhân loại thì Người đồng thời cũng lưu ý tới từng trường hợp nữa, như trường hợp với người phụ nữ ở bờ giếng Giacóp đã sống với 6 người đàn ông không phải là chồng của chị (xem Gioan 4:4-30), hay trường hợp với viên trưởng ban thu thuế Giakêu lùn (xem Luca 19:1-10). Bởi thế, Giáo Hội cũng cần phải lưu tâm tới từng trường hợp đặc biệt để có thể mang ơn cứu độ đến cho họ một cách xứng hợp thích đáng và hiệu nghiệm một cách khôn khéo nào đó. 
Giáo Hội được ký thác kho tàng đức tin cho không phải chỉ để gìn giữ (cầm buộc) mà con để phân phát nữa (cởi mở), bằng không, kho tàng đức tin sẽ trở thành vô dụng cho dù được bảo trì hết sức kỹ lưỡng không bị thất thoát một tí gì, nhưng vẫn chỉ là một nén bạc còn nguyên trả về cho chủ, khiến chủ đã bị phật ý và ra tay trừng phạt (xem Mathêu 25:24-30; Luca 19:20-27).
Trước hết, về trường hợp cả một cộng đồng dân Chúa thiếu linh mục nên không được hưởng các ơn ích thiêng liêng về phần hồn, để nhờ đó họ có thể đủ sức thiêng mà chống trả cám dỗ và tránh lánh tội lỗi nếu thiếu ơn Chúa và còn nhờ đó có thể sống chứng nhân hơn nữa, Giáo Hội vẫn có thể dùng quyền cởi mở của mình để tuyển chọn một số nam nhân đang có gia đình nhưng thật xứng đáng về đủ mọi phương diện cho thừa tác vụ linh mục trong việc đáp ứng nhu cầu của cộng đồng dân Chúa địa phương của mình.
Sau nữa, về 3 trường hợp sống vợ chồng ngang trái bất hợp pháp, như trên đây, Giáo Hội cũng có thể dùng quyền cởi mở của mình để cho họ xưng tội rước lễ với các điều kiện thật thích đáng, nếu thật sự thấy cá nhân đó ở trong hoàn cảnh khó xử và khó tháo gỡ, nhất là liên quan đến lợi ích về cả tinh thần lẫn thiêng liêng của con cái, nhưng lại là một cá nhân vốn có một tấm lòng tan nát khiêm cung khi thấy mình đang sống một cuộc đời tội lỗi ngang trái bất đắc dĩ ngoài ý muốn của họ, và họ thật lòng khao khát muốn được rước lễ, để nhờ ơn Chúa họ có thể tránh được một đời sống càng tệ hại hơn nữa nếu thiếu sức thiêng, trái lại, họ còn có thể làm gương sống đạo cho con cái.

Thứ Năm 20/11/2014,
Bài chia sẻ sống đạo với Nhóm Tông Đồ Chúa Tình Thương Tiểu Nhóm 3 GP Orange CA