SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
“Người động lòng thương” 
con người van xin 

Trong các đoạn Phúc Âm được các vị Thánh ký đề cập đến tâm trạng "Người động 
lòng thương": 1- "Người động lòng thương" đến độ "khóc" trước khi hồi sinh cho 
Lazarô cũng như khi Người tiến vào bên trong Thành Thánh Giêrusalem; 2- "Người 
động lòng thương" người phong cùi khốn khổ và người mẹ góa buồn đau đang đưa xác 
đứa con trai duy nhất của mình đi chôn táng; 3- "Người động lòng thương" đám 
đông dân chúng bơ vơ lạc lõng về tinh thần và đói khổ về phần xác, chúng ta đã 
thấy được phần nào các trường hợp khác nhau đã gây xúc động cho Vị Thiên Chúa 
làm người và Người đã tác hành ra sao nơi từng trường hợp được Người đặc biệt 
lợi dụng để tỏ tình thương của Người, từ đó chúng ta cảm nhận được Lòng Thương 
Xót Chúa của Người mà sống trong môi trường tông đồ hiện tại của chúng ta. 
Tuy nhiên, cũng theo chủ đề "Người động lòng thương" này, còn 2 bài Phúc Âm nữa, 
có tính chất của một dụ ngôn hơn là truyện thật, vì Chúa Kitô muốn dùng 2 dụ 
ngôn này để dạy chúng ta sống Lòng Thương Xót Chúa đối với tha nhân như 
Người, theo tiêu chuẩn đúng như Người đã ấn định "Thày đã yêu thương các con thế 
nào, các con cũng hãy yêu thương nhau như vậy" (Gioan 13:34,15:12). Hai bài Phúc 
Âm dụ ngôn sống Lòng Thương Xót Chúa ấy đó là 1- một bài Phúc Âm của Thánh 
Mathêu, đoạn 18, có tính cách tiêu cực, ở chỗ chúng ta được tha thứ thế nào thì 
cũng hãy thứ tha cho nhau như thế; 2- và bài Phúc Âm của Thánh Luca, đoạn 10, có 
tính cách tích cực, ở chỗ hãy yêu thương cứu chữa tha nhân như anh chị em của 
mình, bất kể họ là ai.
Dụ ngôn được Thánh ký 
Mathêu thuật lại ở đoạn 18 về người bầy tôi được vị vương chủ của mình đầu tiên 
tha hết khoản nợ kếch sù không thể trả nổi của hắn, chỉ vì ông động lòng thương 
khi thấy hắn van xin ông khoan giãn cho việc trả nợ của hắn, nhưng sau đó hắn 
lại bị ông thẳng tay trừng phạt cho đến khi hắn trả cho ông hết tất cả số nợ của 
hắn. 
Sau đây chúng ta cùng 
nhau phân tích ý nghĩa của dụ ngôn này, một dụ ngôn, nếu so sánh với loạt dụ 
ngôn được Thánh Ký Mathêu liệt kê ở đoạn 13 liên quan đến lúa tốt và cỏ lùng 
trong ruộng, đến hạt cải và men bột, đến kho tàng trong ruộng và việc mua 
tìm ngọc quí, đến cái rọ bắt cá được đặt ở dưới hồ, có thể nói là dễ hiểu nhất 
trong các dụ ngôn về Nước Trời, vì ngay ở đâu cũng như ở cuối đều là những lời 
Chúa Giêsu nói về vấn đề tha thứ cho nhau. Tuy nhiên, vì là dụ ngôn, những gì 
Chúa nói đến vẫn còn tính chất ẩn dụ cần được khai sáng bằng cách suy diễn theo 
chiều hướng chung của toàn diện dụ ngôn nhưng hoàn toàn hợp với chiều hướng 
của tâm lý tự nhiên. 
"Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn 
đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách" 
(câu 23). "Nước Trời" 
ở đây, trong dụ ngôn này, liên quan đến "một 
ông vua kia" và việc ông "thanh 
toán sổ sách với các đầy tớ của mình". Vậy "Nước 
Trời" đây là gì, và "ông 
vua kia" là ai, còn "các 
đầy tớ" tất nhiên được hiểu là loài người chúng 
ta?  

 
"Nước Trời" đây có 
thể hiểu là tình trạng trọn lành thánh đức: "Các 
con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành" 
(Mathêu 5:48). Và "ông vua kia" 
là "Cha trên trời", 
vì khi kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đã nhắc đến vị Cha trọn lành này: "Ấy 
vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người 
trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình" 
(câu 35). Nghĩa là chính vì "Cha trên trời là 
Đấng trọn lành", ở chỗ Ngài luôn thương yêu tha 
thứ mà chỉ có những ai biết yêu thương thứ tha như Ngài mới được hiệp thông thần 
linh với Ngài, mới nên giống Ngài, mới thực sự sống bản tính thần linh viên mãn 
yêu thương của Ngài.  
"Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ 
mắc nợ vua mười ngàn nén vàng" (câu 24). "Vàng" 
ở đây liên quan những gì là sang trọng và cao quí, xứng với chức phận và uy 
quyền của "ông vua", bởi 
thể có thể ám chỉ đức mến của con người đối với Thiên Chúa, và món nợ "mười 
ngàn nén vàng" đây theo đó ngụ ý nói đến tất cả 
những gì con người đã phạm đến Thiên Chúa, vì họ đã không yêu mến Ngài, theo khả 
năng và tấm lòng của họ, xứng đáng một chút nào đó với bản tính của Ngài, nhất 
là với tình Ngài nhưng không vô cùng yêu thương họ, trái lại, họ còn yêu mình 
đến độ dám làm trái ý muốn tối thượng của Ngài, còn phản lại tình yêu vô cùng 
nhân hậu của Ngài ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự.  
 
"Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng 
tất cả vợ con tài sản mà trả nợ" (câu 25). "Y 
không có gì để trả", bởi vì theo thân phận thấp 
hèn là bầy tôi, y làm gì có đủ khả năng về sở hữu để trả số nợ kếch sù như vậy, 
ngoại trừ suốt đời tình nguyện làm tôi không công hay làm nô lệ cho vị tôn chủ 
của y mới có thể đền trả mà thôi. Bởi thế, để bù lại số nợ kếch sù không thể trả 
và "không có gì để trả" 
đó, mà theo lệnh của vị "tôn chủ", 
tất cả những gì y có, bao gồm cả chính bản thân "y" 
cùng với "vợ con" 
và "tài sản" 
của y phải bán đi "mà trả nợ". 
Có nghĩa là người con nợ bầy tôi này để trả nợ phải chịu tước lột tất cả mọi sự 
có được, bao gồm 3 điều chính yếu, đó là bản thân "y", 
"vợ con" và "tài 
sản" của con nợ bày tôi này, những thứ chính 
yếu và căn bản cần phải bị "bán" 
đi, nghĩa là cần phải thực hiện một cuộc trao đổi công bằng. Ở chỗ, con người 
muốn bù lại món nợ yêu thương đối với tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa 
đã bị họ phạm đến, họ cần phải "kính mến Chúa 
là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức" 
(Đệ Nhị Luật 6:5; Marco 12:30). 
 
Muốn "kính mến Chúa 
là Thiên Chúa hết lòng", con người cần phải từ 
bỏ bản thân mình, được hiện thân nơi chính ý riêng của họ, là những gì khiến họ 
làm tôi hai chủ, và thường không nhận biết vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của 
mình nữa. Muốn "kính mến Chúa là Thiên Chúa hết 
linh hồn", con người cần phải từ bỏ những gì là 
xác thịt, được hiện thân như "vợ con" của họ, là những ngẫu tượng do họ tạo nên 
và có một liên hệ mật thiết hầu như không thể nào dứt bỏ. Và muốn "kính 
mến Chúa là Thiên Chúa hết sức", con người cần 
phải từ bỏ những gì là tham lam dính bén thế tục, được hiện thân nơi "tài sản" 
của họ, những gì cầm giữ họ khiến họ không thể hay khó lòng siêu thoát.
 
"Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: 'Thưa 
Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết' 
(câu 26). Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền
chạnh lòng thương,
cho y về và tha luôn món nợ" 
(câu 27). Trước hết, về phía con nợ, thái độ của người con nợ bày tôi này có vẻ 
vừa khẩn trương vừa khiêm hạ lại vừa sòng phẳng bằng lời hứa quyết sẽ "trả 
hết", chứ không quịt nợ nhưng cần "hoãn 
lại" một thời gian để thanh toán món 
nợ. Do đó, về phía chủ nợ, thái độ và hành vi cử chỉ cùng lời nói của con nợ như 
thế đã hội đủ điều kiện để được vị vương chủ nợ 
"chạnh lòng thương", 
thương đến độ chính con nợ bầy tôi cũng không thể nào ngờ nổi là mình chẳng 
những được trả tự do - "cho y về", 
không bị bắt nợ nữa, mà còn được hoàn toàn thoát nợ, không bao giờ sẽ phải trả 
lại số nợ mà cả đời y không thể nào trả hết ấy nữa, vì vị vương chủ nợ 
của y quá ư là bao la rộng lượng đến độ "tha 
luôn món nợ" cho y, dù y hứa sẽ trả. Chỉ có ai 
không còn con nợ, như vị vương chủ trong dụ ngôn này, mới thật sự giầu sang phú 
quí, tự do thánh thoát, và thực sự có toàn quyền mà thôi: “Ai xin các con cứ 
cho, ai vay mượn các con đừng từ chối” (Mathêu 5:42).
 
"Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người 
đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: 'Trả nợ 
cho tao!' (câu 28) 
Bấy giờ người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: 'Thưa 
anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh' 
(câu 29). Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta 
vào ngục cho đến khi trả xong nợ" (câu 30). Vấn 
đề xẩy ra hoàn toàn trái ngược ở đây nơi người con nợ bày tôi này đó là cách y 
đối xử với con nợ của y, hoàn toàn trái ngược lại với vị vương chủ nợ 
vô cùng nhân hậu đối với y. Ở chỗ, "vừa ra đến 
ngoài, gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp 
cổ mà bảo: 'Trả nợ cho tao!". Trong khi đó, "người 
đồng bạn" của y không khác gì y: 1- cũng ở vào 
cùng một hoàn cảnh nợ nần như y, tuy không nợ nhiều bằng y, chỉ có "một 
trăm quan tiền", chứ không phải là "mười 
ngàn nén vàng", vì chủ nợ của "người 
đồng bạn" này không phải là "một
ông vua" uy nghi cao 
cả, mà chỉ là một người bày tôi như họ; 2- cũng tỏ thái độ giống hệt như y đã tỏ 
ra trước chủ nợ của y là "sấp mình xuống"; 
3- và cũng hứa hẹn là sẽ trả nợ cho y như y cũng đã hứa với vị vương chủ nợ 
của y, miễn là làm sao "hoãn lại" 
một thời gian. 

 
Tuy "người đồng bạn" 
đã bày tỏ tất cả những gì giống như người bày tôi đã làm đối với vị vương chủ nợ
của y, "y không chịu",
tức y vẫn nhất 
định
không chịu dung tha cho "người 
đồng bạn" của y như đã được vị vương chủ nợ 
chẳng những tha bắt nợ mà còn tha luôn cả món nợ kếch sù không thể trả của 
y. Đến độ, "cứ tống anh ta vào ngục cho đến 
khi trả xong nợ". 
"Ngục" ở đây không phải là của chính quyền, 
của "ông vua" chủ nợ của y, mà là chính tấm lòng hẹp hòi nhỏ nhoi chấp nhất của 
y, nơi y đã "tống" con nợ của y vào đó "cho đến 
khi trả xong nợ" cho y, có thể bằng cách "người 
đồng bạn" của y phải năn nỉ xin lỗi y, chứ tự mình y không thể nào dễ dàng tha 
thứ, hay làm hòa trước như Chúa dạy trước khi dâng của lễ (xem Mathêu 5:23-24), 
hoặc bằng cách "mắt đền mắt, răng đền răng" (Mathêu 5:38) với y, khi y trả thù 
hay phạm đến chính "người đồng bạn" này 
 cách 
nào tương đương nào đó 
v.v. 
"Thấy 
sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn 
chủ đầu đuôi câu chuyện" (câu 31). "Các 
đồng bạn của y" đây là ai? Tại sao lại xem 
vào chuyện riêng tư của y, chuyện giải quyết và thanh toán nợ nần giữa y với "người 
đồng bạn" con nợ của y, ở chỗ họ cảm thấy 
"buồn 
lắm", không thể nào chịu nổi, thay vì trực 
tiếp nói chuyện với y để can ngăn hay khuyên răn y thì lại cần phải 
"đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện"? 
Căn cứ vào tâm trạng "buồn 
lắm" và hành động "trình 
với tôn chủ" mà "các 
đồng bạn của y" cảm thấy và thực hiện thì phải 
công nhận rằng họ là những người bạn tốt, biết mình không thể nào giúp cho y 
được hơn là trực tiếp đến "trình bày với vị tôn 
chủ" của y, bằng cách cầu nguyện cùng Chúa là 
Cha trên trời cho y, vị đã tha nợ cho y nhờ đó có quyền dạy bảo y để y có thể mở 
mắt ra mà nghĩ lại, vừa có lợi cho y, cho "người đồng bạn" bị y bắt nhốt và cho 
cả Chúa là Đấng lại được dịp tỏ lòng thương xót y hơn nữa.  
"Bấy giờ tôn chủ cho đòi y đến và bảo: 'Tên đầy tớ độc 
ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta 
(câu 32), thì đến lượt ngươi, ngươi không phải 
thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?' 
(câu 33). Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y 
cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông" 
(câu 34). "Bấy giờ tôn chủ cho đòi y đến", ở 
chỗ Ngài đánh động lương tâm của con người chấp nhất bủn xỉn hẹp hòi 
này, bằng những áy náy day dứt và tâm trạng nặng nề bởi nạn nhân đang bị nhốt 
trong lòng của đương sự.  

Đó là lý do khi tha được cho nhau con người tự nhiên 
cảm thấy nhẹ nhàng thanh thoát hơn bao giờ hết. Và đó cũng là lý do bao lâu con 
người chưa chịu tha thứ cho nhau, sẵn sàng thứ tha cho nhau, bấy lâu lương tâm 
của họ cứ vẳng vẳng những lời nhắc nhở của Cha trên trời, Đấng đã tha thứ cho 
con người và cũng muốn con người tha thứ cho nhau, như thể bù đắp lại hay trả nợ 
cho Ngài một chút xíu số nợ kếch sù họ không thể trả cho Ngài: 
"Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho 
ngươi, vì ngươi đã van xin ta (câu 32), thì 
đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót 
ngươi sao?". 
Việc vị vương chủ nợ đối xử với con người chấp nhất 
bủn xỉn hẹp hòi không chịu thứ tha cho anh chị em mình chẳng những ở chỗ trách 
móc họ mà còn thậm chí "trao y cho lính hành hạ" 
- "lý hình" 
đây có thể là chính lương tâm của họ hay là những người đồng bạn khác của họ 
cũng tỏ ra chấp nhất họ như họ đã chấp nhất, khiến họ cảm thấy nhức nhối, cảm 
thấy cứ bị ray rứt lương tâm, cảm thấy luôn bị nặng lòng không bao giờ được 
thanh thản, thì việc làm này của vị vương chủ nợ không phải là đã "tha tội" cho 
họ rồi mà còn "nhớ tội" của họ, vẫn còn chấp nhất họ, như họ đã từng chấp nhất 
"người đồng bạn" của họ, vì bấy giờ ông chẳng những đòi lại số nợ ông đã tự tha 
bổng cho y, mà còn "trao y cho lính hành hạ", như 
y đã hành hạ, bằng cách nhốt "người đồng bạn" con nợ của y vào ngục tù lòng của 
y.  
Cho dù vị vương chủ nợ của y không ra tay đi nữa, thì 
tất cả những gì xẩy ra cho y, trong nội tâm và trong đời sống của y cũng chỉ là 
hậu quả gây ra bởi chính y: "Các con đong đấu 
nào thì đấu ấy sẽ được đong lại cho các con" 
(Mathêu 7:2). Nếu nhờ những ray rứt trong lương tâm và các trục trặc nơi mối 
liên hệ với "các đồng bạn" 
tha nhân của mình mà nghĩ lại khi y bị đối xử như y đối xử với "người 
đồng bạn" của y thì quả thực không phải là y 
đã giải phóng cho "người đồng bạn" 
bị y "tống ngục" 
cầm tù trong lòng mà chính bản thân y  đã được giải phóng. 
  
Đó là bài học tự thứ tha cho nhau, cho dù mình có bị 
đối phương cố tình xúc phạm và không được đối phương xin lỗi, không phải chỉ 1 
lần hay 7 lần mà là tự động, luôn mãi, tất cả, như được Cha trên trời thứ tha 
cho mình, như Ðức Giêsu đã tuyên bố: "Thầy 
không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy" 
(câu 22). Thế nhưng, để có thể thứ tha, con người chẳng những cần được tha thứ 
mà còn làm sao để cảm nghiệm được ơn tha thứ mà truyền đạt ơn tha thứ cho nhau!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL