SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Chay Tuần V 
13-19/3/2016

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 43, 16-21

"Ðây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa là Ðấng mở đường dưới biển, mở lối đi dưới dòng nước; Chúa là Ðấng dẫn dắt xe, ngựa, quân binh và dũng sĩ. Tất cả đều ngủ và không chỗi dậy nữa; chúng bị ngộp thở và tắt đi như tim đèn. Người phán: "Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đà sẽ ca tụng Ta, vì Ta đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống; Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).

Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Pl 3, 8-14

"Vì Ðức Kitô, tôi đành chịu thua thiệt trong mọi sự, và tôi trở nên giống Người trong sự chết".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Ðức Kitô, và được ở trong Người, không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề luật, nhưng do sự công chính bởi tin Ðức Giêsu Kitô: sự công chính bởi Thiên Chúa là sự công chính bởi đức tin để nhận biết Người và quyền lực phục sinh của Người, để thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại.

Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang đuổi theo để chiếm lấy, bởi vì chính tôi cũng đã được Ðức Giêsu Kitô chiếm lấy. Anh em thân mến, chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được, nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Ðức Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b

Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".

 

Phúc Âm: Ga 8, 1-11

"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy niệm

 

Sự Sống trên đất 


Hôm nay, Mùa Chay bắt đầu bước vào Tuần thứ V, tuần cuối cùng trước Tuần Thánh. Tiến trình phụng vụ lời Chúa càng tiến đến gần Mầu Nhiệm Vượt Qua ở Tuần Thánh nói chung và Tam Nhật Vượt Qua nói riêng càng cho thấy một Đấng Thiên Sai sắp sửa mang lại ơn cứu độ cho nhân loại.  

Nếu Phúc Âm là bài đọc chính trong phần phụng vụ lời Chúa, thì các bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho 5 Chúa Nhật của Mùa Chay được diễn tiến theo chiều hướng Vượt Qua nơi chủ đề chung cho cả Mùa Chay lẫn Tuần Thánh: "Tôi tự ý bỏ mạng sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17).

Đúng thế, Chúa Nhật 1 và 2 về 2 biến cố mang tính cách Vượt Qua của Chúa Giêsu là 40 ngày chay tịnh và bị cám dỗ (Chúa Nhật I) và biến hình (Chúa Nhật II), được bộ Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại theo đúng chu kỳ phụng niên A (Matheu), B (Marco) và C (Luca) của mình.

Sau đó, từ tuần III trở đi, chu kỳ phụng vụ lời Chúa cho chu kỳ Năm A và B hoàn toàn theo Phúc Âm Thánh Gioan, còn Phúc Âm Thánh Luca cho chu kỳ C cho đến Chúa Nhật V này mới theo Thánh Gioan. Bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan cho Chúa Nhật V chu kỳ C này lại rất thích hợp với tính chất đặc thù về Lòng Thương Xót Chúa của Phúc Âm Thánh ký Luca. Đó là bài Phúc Âm về thái độ của Chúa Giêsu đối với người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.


Thật ra, nguyên Phúc Âm Thánh Luca vốn là Phúc Âm về Lòng Thương Xót Chúa có đủ những câu chuyện thật, như truyền người đàn bà ngoại tình trong bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan cho Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay. Chẳng hạn truyện về người nữ tội lỗi có tiếng trong thành mà chúng ta vẫn cho là Mai Đệ Liên (xem Luca 7:36-50). Tuy nhiên, truyện về người nữ tội lỗi được cho là Mai Đệ Liên này có tính cách thống hối nhiều hơn là chính Lòng Thương Xót Chúa, một đặc điểm nổi bật trong truyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan hôm nay, một chiều hướng về Lòng Thương Xót Chúa của chu kỳ Năm C cho 3 tuần cuối Mùa Chay: 3-4-5.

Thật vậy, từ Chúa Nhật thứ 3 sang Chúa Nhật thứ 4 tuần vừa rồi và cho đến Chúa Nhật thứ 5 hôm nay, cả 3 bài Phúc Âm đều nói về Lòng Thương Xót Chúa: Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Chúa Nhật III Mùa Chay về sự nhẫn nại chờ đợi cây vả sinh hoa trái, và Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Chúa Nhật IV Mùa Chay về dụ ngôn người cha nhân hậu với hai đứa con đáng thương. Còn bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan hôm nay cũng về Lòng Thương Xót Chúa, nhưng không phải qua dụ ngôn như 2 bài Phúc Âm của Thánh ký Luca 2 tuần trước, mà là ở một trường hợp thực tế, có thật, cụ thể.

Lòng Thương Xót Chúa đối với chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình này không phải ở chỗ chẳng để ý gì đến tội của chị đã phạm, mà chỉ biết bênh vực chị cho chị khỏi bị ném đá chết về phần xác. Trái lại, Chúa Giêsu, hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa, đã cho chúng ta thấy cách thức đối xử của Lòng Thương Xót Chúa. Ở chỗ, Người đã tỏ lòng thương xót trước và đề cập đến tội lỗi sau, nghĩa là đi từ tình thương đến công lý chứ không nhắm đến tội lỗi sa phạm của tội nhân trước con người yếu hèn của tội nhân.

Đó là lý do, trong khi thành phần bắt giải nữ đương sự ngoại tình bị bắt quả tang này đến với Chúa Giêsu và hỏi Người "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?", Chúa Giêsu đã vẫn giữ thinh lặng không trả lời gì hết. Không phải vì Người bị hỏi bất ngờ nên bị bí không thể trả lời ngay cho họ, nên dùng kế hoãn binh để tìm câu trả lời cho họ, nhờ đó mới có thể tránh được âm mưu của họ: "Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người". 

Thật ra, Người đã trả lời cho họ rồi, ở những gì Người thay vì nói thì "cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất". Chắc chắn là họ cũng thắc mắc là tại sao Người không chịu trả lời họ mà lại có một thái độ kỳ cục như thế, và chắc chắn họ đã để ý thấy những gì Người viết trên đất bấy giờ, nhưng không hiểu được ý nghĩa của những gì Người viết, nên "họ cứ hỏi mãi", tưởng rằng lần này họ nắm chắc phần thắng trong tay, đã gài bẫy bắt được mồi ngon, chứ không bị Người làm cho cứng họng như các lần trước nữa. Bởi thế, "Người đứng lên và bảo họ: 'Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi'. Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất".

Không ngờ cái độc chưởng đánh vào khoảng không, không nhắm thẳng vào một ai, không đánh thẳng vào kẻ nào hung hăng nhất trong họ, không tấn công kẻ nào đại diện họ lên tiếng hỏi Người, thế mà, Thánh ký Gioan đã ghi nhận cho thấy cái độc chưởng đã trở thành như một cơn lốc xoáy (tornado) bất ngờ từ đâu tới cuốn họ bay đi mất hết, một cách rất thứ tự lớp lang, hết sức ngoạn mục và tài tình khôn tả: "Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó". 

Để rồi, không thấy họ hỏi nữa, hỏi đến lần thứ ba và thấy im ắng như chẳng còn ai ở đó nữa, Chúa Giêsu đã dừng tay viết trên đất mà đứng lên. Thật ra, cho dù tỏ ra bình thản "lấy ngón tay viết trên đất", Chúa Giêsu vẫn theo dõi động tĩnh ra sao, và Người đã biết chắc chắn được rằng không một ai trong những con người hùng hổ và sát máu ấy, chỉ muốn sử dụng chân lý (luật lệ) để sát phạt phạm nhân, thì cho dù họ có duy luật đến đâu, mà càng duy luật họ lại càng bị dội lại, càng không thể nào chịu nổi cái độc chưởng kinh hoàng khủng khiếp của Người như thế, một độc chưởng Người chưa bao giờ sử dụng và chưa hề xuất chiêu một cách thần lực như thế. 

Nhưng cái độc chưởng của Người không hề tác hại và hất văng đi chính phạm nhân đương sự, một người phụ nữ ngoại tình vẫn đang e thẹn đứng lại, hoàn toàn câm lặng, không biết nói năng gì với Người là Đấng thần diệu, Đấng có thể chỉ cần nói một câu mà khiến nàng thoát bị ném đá chết. Có thể tình hình xẩy ra một cách bất ngờ và lạ lùng chưa từng có như thế, ngoài sức tưởng tượng của mình mà nàng chưa hoàn hồn chăng? 

Nàng đâu ngờ rằng chính nhờ nàng phạm tội, nhờ nàng rơi xuống hố sâu tội lỗi mà bất ngờ nàng lại được gặp chính Đấng cứu nàng thoát chết, cả về phần xác lẫn phần hồn. Có thể Chúa Giêsu đã chờ đợi chẳng những cho mọi người tố cáo nàng đi hết mà còn cho nàng có đủ thời gian cảm nghiệm thấy được lòng thương xót của Người đối với riêng nàng, nhờ đó nàng thấm thía được tội lỗi đáng ném đá chết của nàng song bất ngờ được Người giải cứu, để hết lòng thống hối ăn năn thì Người mới đề cập riêng với nàng về tội lỗi của nàng mà thôi, tức là chỉ sau khi tỏ lòng thương nàng, bằng việc khéo léo giải cứu nàng khỏi bị ném đá chết:

"Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: 'Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?' Nàng đáp: 'Thưa Thầy, không có ai'. Chúa Giêsu bảo: 'Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội ấy nữa'".

Đến đây chúng ta có thể sẽ đặt câu hỏi tại sao chỉ có chị phụ nữ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, còn người đàn ông ngoại tình với chị đâu? Theo Luật Moisen thì cả 2 cặp nam nữ ngoại tình này đều bị ném đá chết chứ không phải chỉ có nữ giới (xem Đệ Nhị Luật 22:22; Levi 20:10). Trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay, có thể người nam ngoại tình đó đã bị ném đá chết rồi, hay đang còn được giam giữ ở đâu đó để bị ném đá sau người nữ phạm tội ngoại tình với anh ta. Sở dĩ chỉ có chị phụ nữ bị bắt giải đến cho Chúa Giêsu để gài bẫy thử Người như thế có thể là vì nữ giới gắn liền với tội ngoại tình, như nam giới gắn liền với tội phản bội (được tiêu biểu nơi thành phần nam giới thu thuế cho đế quốc Roma bấy giờ).


Hai thành phần tội nhân tiêu biểu trong xã hội Do Thái giáo bấy giờ là thành phần đĩ điếm (nữ giới) và thành phần thu thuế (nam giới). Hai tội phản bội và ngoại tình này đi với nhau bất khả phân ly như hình với bóng dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, một dân tộc được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn cách riêng và luôn tỏ tình với họ hay tỏ mình ra cho họ, nhưng trái lại Ngài liên lỉ bị họ phản bội giao ước yêu thương và tình yêu thủy chung của Ngài, bằng việc họ chạy theo với các thứ ngẫu tượng của họ hay các tà thần của dân ngoại , bằng cách hiến mình làm tình (ngoại tình) với các ngẫu tượng và tà thần. Hai thứ tội phản bội và ngoại tình này là những tội chính yếu hằng được Thiên Chúa vô cùng nhân hậu liên tục sai các vị ngôn sứ của Ngài đến nhắc nhở dân tộc này, kêu gọi họ trở về với Ngài, thậm chí cảnh báo họ về hậu quả họ phải chịu v.v.


Ở đây,
 Thánh ký Gioan không hề tiết lộ cho chúng ta biết thành quả của việc Chúa Giêsu làm cho riêng người đàn bà ngoại tình này và lời Người nói với nàng có tác dụng gì nơi nàng hay chăng. Ở chỗ nàng có thật lòng ăn năn thống hối mà sống một cuộc sống trong sạch tốt lành hay chăng, hay lại chứng nào tật ấy. Vì chẳng thấy nàng trả lời gì sau câu nói của Chúa Giêsu, cho dù là lời cám ơn hay cử chỉ phục ngay xuống dưới chân Người xin Người tha thứ tội lỗi cho mình, như trường hợp của người phụ nữ đàng điếm tội lỗi trong một thành kia đã tự động đến với Người ở nhà một gia chủ biệt phái được Thánh ký Luca thuật lại (7:36-50), ngồi dưới chân Người, lấy nước mắt mà rửa chân cho Người, rồi lấy tóc mà lau chân Người và còn trân trọng hôn chân Người.

Tuy nhiên, bao giờ cũng thế, ân sủng của Thiên Chúa ban cho bất cứ một ai không phải chỉ cho riêng người đó mà còn cho chung cộng đồng của họ nữa. Hành động Chúa Giêsu và lời nói của người trong trường hợp của người nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đáng bị ném đá chết được Người chẳng những đã cứu chị thoát chết về phần xác mà còn sử dụng chính chị để cứu phần hồn cho cả đám đối phương của chị nữa, thành phần đã tự nhận biết mình trước một tội nhân họ đang muốn ném đá chết và thấy mình thật sự cũng chẳng hơn gì chị ta. Nếu những người tự cho mình là công chính mà còn nhờ lời Người mà biết mình thì chẳng lẽ chính tội nhân lại chẳng biết mình hơn họ hay sao. 

Có thể cái bàng hoàng ngỡ ngàng quá sức tưởng tưởng về những gì đột xuất bất ngờ vừa mới xẩy ra cho bản thân tội lỗi đáng chết của mình như thế mà người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình này bấy giờ đã không thể nào nói lên lời, đã hoàn toàn không còn biết nói gì nữa, vì không thể nào tả nổi, chỉ biết chất ngất cảm nghiệm, say sưa hoan hưởng, như một tâm hồn được Thiên Chúa chiếm đoạt tới một mức độ siêu việt, đôi khi được xuất thần ngất trí, như đã từng xẩy ra cho một số vị thánh đặc biệt trong lịch sử Giáo Hội.

Trường hợp của chị chẳng khác gì như được Chúa Giêsu trừ quỉ cho, đang hoàn hồn và mới hoàn hồn, và Người đã trừ quỉ cho chị bằng chính ngón tay của Người, "ngón tay viết trên đất", như trong trường hợp Người trừ một quỉ câm (và sau đó Người bị cho rằng Người đã nhờ quỉ cả mà trừ quỉ con), trừ bằng "ngón tay Thiên Chúa" (ở Phúc Âm Thánh ký Luca 11:20) cũng là chính "Thần Linh Thiên Chúa" (ở Phúc Âm Thánh ký Mathêu 12:28). 

Nếu Thần Linh Thiên Chúa "khi Ngài đến Ngài sẽ cho thế gian thấy họ sai lầm về tội lỗi, về công lý và về luận án" (Gioan 16:8) thì phải chăng những gì Chúa Giêsu "lấy ngón tay (ám chỉ Thần Linh Thiên Chúa) viết trên đất (ám chỉ "thế gian", hay bản tính loài người tạo vật thấp hèn yếu đuối ở trong "thế gian", xu hướng về "thế gian" và "gắn bó với "thế gian")" trong bài Phúc Âm hôm nay là chữ "tội lỗi" và "công lý"?

Không biết có phải đúng như thế hay chăng, nhưng những gì xẩy ra trong câu chuyện này đã diễn tiến rất thích hợp với hai chữ y. 

Lần thứ nhất Chúa Giêsu "cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất" chữ "tội lỗi" khi Người được đám người tố cáo "tội lỗi" của chị phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?". 

Lần thứ hai, Người đã viết chữ "công lý" trong khi thành phần tố cáo chị phụ nữ phạm nhân này và muốn nén đá chị ta tự động bỏ đi vì theo "công lý" mà nói thì chính họ đã tự cảm thấy mình cũng chẳng hơn gì chị ta nên không dám ném đá chị, như lời thách thức của Chúa Giêsu: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi'".

Đó là lý do, nếu suy diễn trên đây không sai về hai chữ đầu được Chúa Giêsu "cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất" là "tội lỗi" và "công lý" thì chắc chắn chữ thứ ba là chữ "luận án", một chữ Chúa Giêsu không viết ra trên đất như 2 chữ trước mà bằng chính lời Người nói với chính nữ phạm nhân đương sự đã cho thấy rõ chữ "luận án" (luận tội hay kết tội) thứ ba này: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?' Nàng đáp: 'Thưa Thầy, không có ai'. Chúa Giêsu bảo: 'Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội ấy nữa nhé'".

"Không ai kết án chị ư?' Nàng đáp: 'Thưa Thầy, không có ai'. Chúa Giêsu bảo: 'Ta cũng thế, Ta không kết tội chị'". Ôi tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa. Ở đây, qua câu nói này, Người đã phải hạ mình xuống tới tầm mức như là một tội nhân để tội nhân nhờ đó có thể cảm nghiệm được Người. Ở chỗ, Người đã trở thành ngang hàng với những kẻ có tội bỏ đi không dám ném đá chị. Họ không kết tội (ném đá) chị vì họ cũng có tội như chị, phần Chúa Giêsu vô tội có thể nén đá chị nhưng cũng không ném đá (kết tội) chị giống như một trong những kẻ có tội đã bỏ đi. Thật vậy, nơi Người là Đấng vô tội đồng thời cũng là Đấng Cứu Thế đã có tất cả mọi thứ tội lỗi của loài người từ nguyên tội cho tới tận thế, trong đó có cả tội ngoại tình của chị, cũng như tội của những người muốn ném đá chị. Bởi thế, Người rất cảm thông và cảm thương tội nhân nói chung (bao gồm cả thành phần muốn ném đá chị) và chị phụ nữ ngoại tình này bấy giờ nói riêng. Chị là đối tượng của sứ vụ Người "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10) vậy.


Nh
ững gì Chúa Giêsu đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay cho riêng người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình cũng như cho chung thành phần tố cáo và muốn ném đá chị theo luật, dường như đã được Thiên Chúa bóng bẩy kêu gọi dân của Ngài và tiên báo cho dân của Ngài biết qua miệng Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:  

"Chúa là Ðấng mở đường dưới biển, mở lối đi dưới dòng nước; Chúa là Ðấng dẫn dắt xe, ngựa, quân binh và dũng sĩ. Tất cả đều ngủ và không chỗi dậy nữa; chúng bị ngộp thở và tắt đi như tim đèn. Người phán: "Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đà sẽ ca tụng Ta, vì Ta đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống; Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta".

Cảm nhận được tất cả những gì Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất làm cho mình là thành phần dân liên lỉ ngỗ nghịch với Ngài và không ngừng ngoan cố phản bội Ngài, tiêu biểu nơi người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Phúc Âm hôm nay, Vị Thiên Chúa là Đấng luôn trung thành với họ bằng bất cứ giá nào, miễn là họ được cứu độ, mà dân của Ngài, qua thánh vịnh gia ở Bài Đáp Ca hôm nay, bao gồm cả thành phần muốn ném đá chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, không thể nào không hân hoan vang lên tâm tình tri ân cảm mến chúc tụng Ngài như sau:  

1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. 

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. 

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, thành phần đáng thương không phải chỉ có nữ đương sự phạm nhân bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đáng bị ném đá chết, như một đứa con hoang đàng phung phá, mà bao gồm cả thành phần muốn ném đá chị ta theo luật nữa, thành phần đóng vai như người con trưởng ở nhà với cha nhưng lại lầm lạc xa cha đến độ không muốn vào nhà nữa, thành phần tự cho mình là công chính bởi việc họ tuân giữ lề luật, một tinh thần đã được Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, một nguyên biệt phái nhiệt thành hơn ai hết nhưng đã nhận biết chân lý và đã bày tỏ cảm nhận của mình với Kitô hữu Giáo đoàn Philiphê trong Bài Đọc 2 như sau:

"Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Ðức Kitô, và được ở trong Người, không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề luật, nhưng do sự công chính bởi tin Ðức Giêsu Kitô: sự công chính bởi Thiên Chúa là sự công chính bởi đức tin để nhận biết Người và quyền lực phục sinh của Người, để thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại".

Đúng thế, chỉ có ai hoàn toàn tin nhận Chúa Kitô và được Người chiếm đoạt mới có thể nói như Thánh Phaolô như vậy: "Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Ðức Kitô, và được ở trong Người", Đấng đã "tự bỏ sự sống của mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17) cho phần rỗi của chung nhân loại, nhất là cho phần rỗi của "những ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), nhờ đó "những ai Ngài đã biết trước thì Ngài cũng tiền định được thông phần hình ảnh Con của Ngài" (Roma 8:29), ở chỗ, như một Tông Đồ Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay đã hân hoan được "thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại".


Thánh Thi (Giờ Kinh Phụng Vụ Ban Mai Thứ Bảy Tuần Thánh - theo bản của Nhóm Phiên Dịch Giờ Kinh Phụng Vụ)

 

Lạy Ðức Kitô, Chúa thiên đàng

Ðem nguồn cứu độ xuống trần gian,

Lá cờ thập tự, tay Ngài phất,

Giải thoát muôn dân khỏi tử thần.

Chiên hiền vô tội, ấy chính Ngài

Ðể cứu chữa đời, chịu phanh thây

Áo của chính nhân, Ngài đem giặt

Trong dòng Máu Thánh đổ ra đây.

Những ai Ngài đã thương cứu độ

Ðổi chính bản thân, chuộc họ về

Sống lại, Ngài đưa lên cõi thọ

Muôn đời ca tụng lượng từ bi.

Tha thiết nài xin Chúa nhận vào

Cộng đoàn chư thánh chốn trời cao

Trở thành dân Nước Chúa hiển trị

Con cái mọn hèn, phúc nhường bao!

 



Thứ Hai


Lời Chúa

                                                                     

Bài Ðọc I: Ðn 13, 1-9. 15-17. 19-30. 33-62 (Bài dài)

"Ðây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.

Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về những kẻ ấy rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Ðến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.

Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hãy mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm".

Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà Susanna và nói: "Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn".

Bà Susanna thở dài và nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!" Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.

Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các người hãy đi tìm bà Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim". Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.

Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa. Hai vị kỳ lão nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng". Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.

Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".

Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này". Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà".

Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: "Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão". Ðaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".

Khi hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: "Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính". Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây chò". Ðaniel liền nói: "Ðúng là ông nói dối. Ðây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông". Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Ðaniel nói với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Ðaniel liền nói: "Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".

Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan.

Ðó là lời Chúa.

 Hoặc đọc bài vắn này: Ðn 13, 41c-62 từ chỗ "họ lên án tử hình cho bà"

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 5ab).

Xướng: 1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b

Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Ga 8, 12-20

"Ta là sự sáng thế gian".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".

Những người biệt phái nói: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".

Chúa Giêsu trả lời: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".

Họ nói: "Cha của ông đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".

Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.

Ðó là lời Chúa.

 


Suy niệm

 

    Sự Sống chứng thực    


Ngày Thứ Hai trong Tuần V Mùa Chay vẫn tiếp tục với bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu tự làm chứng về Người.

Nếu bài Phúc Âm tuần trước cả dân chúng lẫn thành phần lãnh đạo đều chia rẽ nhau về nguồn gốc của Chúa Kitô thì tuần này Người tự mình chính thức làm sáng tỏ nguồn gốc thần linh của Ngưòi. Nếu tuần trước Người nói Người không tự làm chứng về mình thì tuần này Người không thể không tự làm chứng về Người bởi không ai biết Người bằng chính Người.

Thật vậy, tuần trước, các bài Phúc Âm nói chung theo Thánh ký Gioan, cách riêng bài Phúc Âm cho Thứ Năm của tuần trước ấy, Chúa Giêsu đã không tự chứng hay chưa tự làm chứng về Người: 
"Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà là minh chứng về mình bằng 3 chứng từ khác nhau liên quan đến bản thân và nguồn gốc của Người: 

1- Chứng từ thần linh liên quan đến Cha là Đấng đã sai Người: "Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực"; 

2- Chứng từ nhân loại liên quan đến Tiền Hô Gioan Tẩy Giả: "Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật"; 

3- Chứng từ Thánh Kinh liên quan đến mạc khải thần linh: "Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống".

Tuần này, ngay ở bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần, Chúa Giêsu bắt đầu chính thức và công khai tự làm chứng về Người và cho Người, vì tự Người và chính Người là "chân lý", là "sự thật" (Gioan 14:6), một chân lý tỏ mình ra như ánh sáng không thể nào không soi chiếu, nên ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay Người đã ngang nhiên và trịnh trọng tuyên bố: "với những người biệt phái rằng: 'Tôi là sự sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".

Tất nhiên, khi Người xưng mình ra như thế, đối với trần gian thì có vẻ như Người khoe khoang, ngạo mạn, nên một giòng điện dương khi chạm phải cùng một giòng điện dương chắc chắn không thể nào không tóe lửa, nghĩa là vì cho Người tỏ ra khoe khoang ngạo mạn như thế mà thành phần bản chất vốn khoe khoang ngạo mạn thính giả của Người bấy giờ là "những người biệt phái" đã không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố của Người: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã biện minh cho việc Người tự làm chứng về Người và cho Người là những gì hoàn toàn chân thực và chính xác, qua chính câu Người trả lời cho thành phần không tin Người và không chấp nhận lời tuyên bố của Người: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".

Thật vậy, nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến, như con người thuần túy chúng ta, thành phần thuần nhân cho tới chết cũng chưa hoàn toàn biết mình, bởi thế vẫn liên tục sa ngã phạm tội là những gì sai lạc, không đúng sự thật về bản thân họ cũng như không đúng sự thật Thiên Chúa muốn nơi họ và cho họ, và chính vì thế họ chỉ được giải phóng cho đến khi họ nhận biết sự thật mà thôi (xem Gioan 8:32).

Muốn biết mình thực sự là ai thì con người cần phải biết mình "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu", chứ không phải chỉ biết mình "từ đâu tới" song chẳng biết mình sẽ "đi đâu" là đủ biết mình một cách chân thực và chính xác. Chẳng hạn, theo đức tin của mình, Kitô hữu chúng ta tin rằng, về nguyên ủy, hay nguồn gốc, "từ đâu tới" chúng ta được dựng nên từ hư vô, bởi được Thiên Chúa yêu thương, nhưng trong cuộc sống, về cùng đích "đi đâu" là nơi chúng ta sẽ tới và cần phạt đạt tới, chúng ta lại sống như thể không có đời sau, không có Thiên Chúa, chỉ luôn tìm kiếm và theo đuổi những gì thuộc về hạ giới hợp với xác thịt của chúng ta hơn là Nước Trời và thay vì vĩnh phúc trường sinh bất diệt.

Chúa Giêsu thật sự biết được Người "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu": Người từ Thiên Chúa mà tới, Đấng đã sai Người tới: "Thày từ Cha mà đến và đã đến trong thế gian(Gioan 16:28), và vì thế nơi Người "đi đâu" không còn chỗ nào khác ngoài chính nơi Cha của Người muốn Người tới, nghĩa là Người được sai đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, chứ không phải làm theo ý của Người, đúng như Người đã tuyên bố với người Do Thái: "Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai tôi" (Gioan 6:38). 

Mà ý của Cha là nơi Người phải tới, mà Người phải làm theo và chu toàn đây là gì, chính Người cũng biết rõ ràng và chắc chắn Người mới có thể làm theo đúng và đáp ứng thật: "Ý muốn của Đấng đã sai Tôi đó là Tôi không được làm mất một sự gì Ngài đã ban cho Tôi, trái lại, Tôi phải làm cho nó sống lại trong ngày sau hết" (Gioan 6:39). 

"Ngày sau hết", trong câu Chúa Giêsu nói đến ở đây, chúng ta thường hiểu về ngày tận thế, nhưng ở đây có thể hiểu là chính thời điểm của Người, một thời điểm "viên trọn" (Galata 4:4), thời điểm "sau hết" Thiên Chúa đã tỏ mình ra nơi chính Người là Con của Ngài theo giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái là lịch sử mà mạc khải thần linh đã được Thiên Chúa từ từ tỏ hiện cho đến tột đỉnh nơi Chúa Giêsu Kitô vào thời "sau hết" như Thánh Phaolô viết ở ngày đầu Thư Do Thái của thánh nhân (xem Do Thái 1:1-3).

"Sống lại", cũng trong lời Chúa Giêsu nói ở đây, là "sống lạivào "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) tức là vào "ngày sau hết", một "sống lại" trước hết và trên hết về phần hồn của con người đã bị hư đi theo nguyên tội và từ nguyên tội, một "sống lại" bởi cuộc Vượt Qua của Người, khi Người tỏ hết mình ra để bằng cuộc phục sinh của mình, Người chẳng những chiến thắng tội lỗi và sự chết mà còn thông ban sự sống và Thánh Linh cho chung nhân loại qua Giáo Hội của Người mà đầu tiên ở nơi các tông đồ của Người (xem Gioan 20:21-23).

Về nguồn gốc của Chúa Kitô, tức về xuất xứ của Người "từ đâu đến", đã trở thành sự kiện then chốt và đã từng làm cho dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo của họ nói riêng chia rẽ hết sức trầm trọng, như trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần vừa rồi cho thấy, thì về nơi "đi đâu" của Người hay về việc Người "đi đâu" lại càng là một mầu nhiệm vô cùng bí ẩn, họ làm sao biết được và cũng không thể nào biết được. 

Cho dù Người có nói ra chăng nữa, như Người đã từng tiết lộ cho các môn đệ thân tín của Người ba lần, mà các vị vẫn "không thể nào đến được", hiểu được, đúng như Người đã quả quyết với các vị như đã quả quyết với dân Do Thái (xem Gioan 13:33), chứ chưa nói gì đến chuyện các vị có thể đến được nơi Người "đi đâu", cho đến khi Người đi dọn chỗ cho các vị trở về đón các vị đi với Người (xem Gioan 14:2-3). 

Đó là lý do Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thành phần thính giả của Người biết lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người về chính bản thân Người là Đấng đã biết rõ về mình, "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", chỉ vì: 

"Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".

Trong câu này, Chúa Giêsu chẳng những cho thính giả của Người bấy giờ thấy được lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người là vì họ "xét đoán theo xác thịt" chứ không theo chân lý, mà còn cho họ thấy rằng chứng từ của Người là đúng, vì theo nguyên tắc thì chứng của hai người là chứng thật, và vì thế chứng từ của Người là xác thực bởi cả có 2 người làm chứng là chính bản thân Người lẫn Cha của Người là Đấng đã sai Người làm chứng cùng một điều về Người. 

Và chính vì Chúa Giêsu nại đến Cha của Người là một trong hai người làm chứng về Người nên Người đã được thành phần thính giả của Người thách thức đặt vấn đề: "Cha của ông đâu?", Đấng mà Người đến "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) qua bản thân Người, đến độ "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9), nên Người đã cho thành phần thính giả chất vấn Người về Cha của Người rằng: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".

Bài Đọc 1 hôm nay được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên về câu chuyện của bà Suzanna công chính nhưng bị mang đi ném đá chết bởi bà bị kết án theo luật căn cứ vào chứng từ của 2 người chứng, một chứng từ gian dối nhưng hoàn toàn lấn át lời tự chứng của người phụ nữ nạn nhân đáng thương này, chẳng khác nào như Chúa Giêsu tự làm chứng cho mình mà chẳng ai tin vào Người vậy.

Trước hết là lời chứng của hai nhân chứng, tức là của hai lão già đang giữ vai trò làm thẩm phán trong dân thường sử dụng ngôi nhà rộng rãi sang trọng của vợ chồng bà để xử các vụ kiện cáo của dân chúng, đã âm mưu chiếm hưởng thân xác kiều mỹ hấp dẫn của bà khi bà đang tắm kín đáo một mình trong vườn nhà của bà vào một buổi trưa nóng bức:

"Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng".

Sau nữa là lời chứng của chính đương sự bị tố cáo là bà Suzanna, như Bài Đọc 1 cho biết, "bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa", và khi bị hai tên "thẩm phán kỳ lão" ở Babylon "phải lửa dục mê đắm... mất lương tâm" rình mò bà và bất ngờ tấn công tình dục bà, nhưng bà đã cương quyết chống trả bất chấp số mệnh ra sao thì ra

"Bà Susanna thở dài và nói: 'Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!' Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà".

Thế nhưng, chỉ cần căn cứ vào chứng của hai người, mà hai chứng nhân này lại là hai vị thẩm phán đáng kính có tuổi và có thế trong dân thì người vợ thủy chung với chồng và kính sợ Thiên Chúa chỉ có chết, đến độ dân chúng mù quáng cả tin cả nể chẳng cần nghe bà thanh minh gì cả đã "lên án tử hình cho bà"

Khi bị lên án tử rồi, người đàn bà đáng kính đáng phục này chỉ còn biết kêu đến trời và phó thác mọi sự trong tay Ngài là Đấng bà kính sợ và tin tưởng, Đấng bà đã không sợ chết mà xúc phạm đến Ngài, nhất định không chịu chiều theo ý muốn nhục dục của hai lão già gian ác tồi bại, Đấng duy nhất có thể thấy được tất cả sự thật: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".

Nếu bên đối phương tấn công bà có hai nhân chứng, và như Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay cũng có 2 nhân chứng về Người là chính bản thân Người và Cha của Người, thì người đàn bà nạn nhân vô tội bị oan ức này cũng có đủ 2 nhân chứng, đó là chính bản thân bà, vì bà biết bà hơn tất cả mọi người khác biết về bà, một sự thật về bà đúng như Thiên Chúa là nhân chứng thứ hai biết về bà. Bởi thế, Thiên Chúa cũng đã nhúng tay vào làm chứng về bà, như Bài Đọc 1 cho biết tiếp như sau:

"Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: 'Còn tôi, tôi không vấy máu bà này'. Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: 'Lời mi nói có ý nghĩa gì?' Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: 'Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà'".

Phải, Thiên Chúa đã sử dụng một trang thiếu niên trẻ trung đứng ra xét sử hai lão già thẩm phán trong dân, để chẳng những chứng tỏ cho dân của Ngài thấy rằng: 1- ai tin vào Ngài sẽ được Ngài chở che bênh đỡ, và 2- "bóng tối không thể nào át được ánh sáng" (Gioan 1:5): 

"Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan".

Không biết khi được Thiên Chúa minh oan cho, bà Suzanna đã cảm thấy ra sao, nhưng chắc chắn tâm can của bà đã trải qua một cảm nghiệm thần linh rất sâu xa lạ lùng: "Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương", và từ đó tấm lòng tri ân cảm tạ của bà đã trào dâng lên những tâm tình càng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa hơn: "dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con", đúng như trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. 

2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. 

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. 



 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9

"Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, các người Do-thái rời bỏ núi Hor, theo con đường về phía Biển Ðỏ, để vòng quanh xứ Eđom. Dân chúng đi đường xa mệt nhọc, nên nản chí, kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này".

Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người, họ chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn". Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 101, 2-3. 16-18. 19-21

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa (c. 2).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.- Ðáp.

3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab

Hôm nay các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.

 

Phúc Âm: Ga 8, 21-30

"Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới được".

Người Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói "Nơi Ta đi các ông không thể tới được"?"

Chúa Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các ông".

Vậy họ liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang nói với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng Ðấng đã sai Ta là Ðấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây, chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài".

Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: "Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài". Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào Người.

Ðó là lời Chúa.

 

 


Suy niệm



  Sự Sống nhìn lên    


Chủ đề chung cho Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh là "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng rõ nét trong phụng vụ lời Chúa hôm nay, Thứ Ba trong Tuần V Mùa Chay, bao gồm cả Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.

Ở Bài Phúc Âm, "Tôi tự ý bỏ sự sống của mình đi", ở chỗ, như Chúa Giêsu đã báo trước cho "những người biệt phái rằng": "Khi nào quí vị đưa Con Người lên cao", nghĩa là khi nào quí vị hô hoán đòi "đóng đanh nó vào thập giá, đóng đanh nó vào thập giá" (Luca 23:21; Marco 15:13-15). 

Nhưng "Tôi lấy nó lại", ở chỗ, chính khi quí vị thách đố Tôi xuống khỏi thập tự giá Tôi cũng không xuống (xem Matthew 27:39-43; Mark 15:29-32; Luke 23:35-36) thì lại là lúc quí vị bấy giờ mới biết Tôi thật sự là Đấng Thiên Sai, như Tôi đã nói, Tôi xuống thế gian này là để làm theo ý Cha là Đấng sai Tôi chứ không phải làm theo ý của Tôi (xem Gioan 6:38).

Ở Bài Đọc 1 cũng thế, chủ đề "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lạiđược báo trước ngay trong lời Thiên Chúa phán với Moisen rằng: "'Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống'. Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành".

Hình ảnh "con rắn bằng đồng" có thể chữa lành cho những ai bị "rắn lửa cắn" khi họ nhìn lên con rắn treo lên được đúc bằng đồng ấy ám chỉ Chúa Kitô tử giá, và thành phần bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn bằng đồng được treo lên ấy ám chỉ thành phần tội nhân tin tưởng ("nhìn lên") vào Đấng chịu đóng đanh, bao gồm cả dân ngoại: "Người này quả là một con người vô tội" (Luca 23:47) lẫn dân Do Thái: "Khi đám đông qui tụ lại trước cảnh tượng ấy nhìn thấy những gì đã xẩy ra thì trở về đấm ngực" (Luca 23:48). 

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, tại sao con rắn vốn tiêu biểu cho những gì là độc dữ, đã từng bị chính Thiên Chúa nguyền rủa ngay từ ban đầu sau khi nó là tác nhân gây ra nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:14; Gioan 8:44), mà trong Bài Đọc 1 trích từ Sách Dân Số hôm nay, lại ám chỉ Chúa Kitô tử giá? Phải chăng là vì Thiên Chúa muốn "lấy của độc giải độc", ở chỗ, thương đau và chết chóc gây ra bởi rắn thì chữa lành và sồng còn cũng bởi rắn? 

Thật ra, tự bản thân của mình, Chúa Kitô là chính Con Thiên Chúa, là Đấng vô cùng thánh hảo, không có một chút hèn hạ và xấu xa nhơ nhớp nào, thế nhưng, vì Người cũng chính là Đấng Cứu Thế mà Người đã cần phải "trở nên" "Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Gioan 1:29), để nhờ đó có thể cứu nhân loại nhiễm lây nguyên tội bởi rắn quỉ cắn trong vườn địa đường khỏi tội lỗi và sự chết do chính rắn quỉ gây ra cho bản tính của họ, bằng cách chính Người đã phải "trở thành tội lỗi(2Corinto 5:21) và "bị nguyền rủa" như một tử tội trên thập tự giá (Galata 3:13), nghĩa là Người đã trở nên như một con rắn bằng đồng thôi, chứ không phải rắn thật, một hình tượng tiêu biểu cho tội lỗi và chết chóc.  

Đó là một mầu nhiệm vô cùng thâm sâu con người không thể nào thấu hiểu. Vì theo lập luận của loài người thì Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh hảo và toàn năng không thể nào lại trở thành một con người hay không thể nào làm người vô cùng thấp hèn, bất toàn và bất lực được, chứ chưa nói đến lại còn "trở thành tội lỗi" và "bị nguyền rủa" vô cùng khốn nạn như thế. 

Bởi vậy mà trong bài Phúc Âm hôm nay chính Chúa Giêsu đã vừa khẳng định vừa tiên báo cho "những người biệt phái rằng: 'Tôi ra đi, quí vị sẽ tìm kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Nơi Tôi đi quí vị không thể nào tới được'", tức loài người như họ không thể nào hiểu được, chứ chưa nói gì đến việc chấp nhận được.

Ngay câu Người nói ấy mà họ chưa hiểu nổý nghĩa sâu xa huyền nhiệm của những gì Người muốn nói huống chi khi họ tận mắt chứng kiến thấy sự thật xẩy ra, do đó"Người Do-thái nói với nhau rằng: 'Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói: Nơi Ta đi các ông không thể tới được?"

Mà thật, lý do con người bất khả thấu hiểu mầu nhiệm Chúa Kitô này là vì tầm mức chênh lệnh giữa tạo hóa với tạo vật, và tạo vật không thể nào bằng tạo hóa cùng hiểu được như tạo hóa, khoảng cách biệt hơn trời với đất. Thế nên, Chúa Giêsu đã chẳng những cho họ biết lý do họ không hiểu mà còn cho họ biết nguyên do phạm tội chính khi họ "tìm kiếm" Người nữa, đó là: 

"Quí vị thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Quí vị thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Vì, nếu quí vị không tin Ta, quí vị sẽ chết trong tội của quí vị". 

Thật sự là thế, chính vì "quí vị không tin Ta" mà "quí vị sẽ chết trong tội của quí vị", đúng như Người đã quả quyết và cảnh báo: "quí vị sẽ tìm kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị", ở chỗ, chính khi họ "tìm kiếm" Người bằng cách cuối cùng "nhân danh Thiên Chúa hằng sống", qua vị thượng tế Caipha của họ hỏi Người một cách chính thức và hết sức trịnh trọng có phải là "Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa hay chăng?" (xem Mathêu 26:63) thì họ, sau khi nghe Người cho họ biết tất cả sự thật về Người, lại "chết trong tội" của họ: "Hắn lộng ngôn... Hắn đáng chết... Họ bắt đầu nhổ vào mặt Người" (Mathêu 26:66-67). 

Và sở dĩ họ không tin Người hay tin lời Người nói là vì họ chưa nắm bắt được tất cả sự thật về Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho biết, qua câu họ hỏi Người: "Ông là ai?" Bấy giờ Người chưa tỏ hết mình ra như khi Người phải đối diện với toàn thể Hội Đồng Đầu Mục Do Thái và được thẩm quyền cao nhất của họ hạch hỏi, như trên đây, mà chỉ mới tỏ mình ra một cách xa xa nhưng rất chính xác về Người rằng: "Là Nguyên thủy đang nói với các ông đây!" 

Thế nhưng, Người càng nói, càng tỏ mình ra, họ càng "không hiểu". Bởi vậy, chỉ còn một cách duy nhất là bằng chính cái chết của Người mà thôi: "Khi nào quí vị đưa Con Người lên cao, quí vị sẽ nhận biết Ta là ai". Bởi vì, chỉ có cách ấy mới có thể chứng thực một cách sống động rằng Người quả thực là Đấng Thiên Sai, ở chỗ: "Tôi không tự mình làm điều gì. Ðiều Tôi nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Tôi. Ðấng đã sai Tôi đang ở với Tôi; Ngài không để Tôi một mình, bởi vì Tôi luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài".

Đúng thế, khi Người nói những gì liên quan đến Chúa Cha: "Tôi có nhiều điều phải nói và đoán xét về quí vị, nhưng Ðấng đã sai Tôi là Ðấng chân thật, và điều Tôi nói ra trong thế gian đây, chính là điều Tôi đã nghe biết ở Ngài", thì "họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha", nhưng khi Người nói về chính bản thân Người liên hệ với Chúa Cha, ở chỗ làm theo ý Cha, "thì có nhiều kẻ tin vào Người".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa lời nguyện cầu của một tâm hồn phiền muộn, tiêu biểu cho những ai bị rắn lửa cắn trong Bài Đọc 1 hay thành phần những người biệt phái dầu sao cũng có thiện chí tìm hiểu về Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay, một tâm hồn tìm kiếm Chúa là Vị Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, tỏ mình ta cho con người và muốn cứu độ con người nói chung cùng những ai tin tưởng cậy trông nơi Ngài nói riêng:

1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. 

2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.

3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. 

 

 

Ngày 15: Thánh Nữ Louise de Marillac, vị thánh của gia đình

 

Chúng ta cùng nhau chiêm ngắm chân dung một vị Thánh của gia đình và của xã hội: Thánh Nữ Louise de Marillac, lễ kính vào ngày 15 tháng 3 hàng năm.

Các thánh nhân của Giáo Hội Công Giáo là những con người thánh thiện nhưng lại rất nhân bản. Các ngài đã sống những cuộc đời phi thường. Mỗi một vị thánh mà Giáo Hội tôn kính đều đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa mà phát huy hết các đặc sủng mà Ngài đã ban cho từng vị. Thiên Chúa cũng mời gọi từng người một trong chúng ta trở thành một vị thánh với những hồng ân mà Chúa đã ban cho mỗi người.

Louise sinh tại Meux, nước Pháp. Cô mồ côi mẹ khi còn rất bé. Ðến năm cô 15 tuổi, người cha yêu dấu của cô cũng qua đời. Khao khát của cô muốn đi tu bị cha giải tội của cô bác bỏ. Người ta sắp đặt một cuộc hôn nhân cho cô. Cô sinh được một đứa con trai. Nhưng chẳng mấy chốc cuộc hôn nhân đó chỉ còn là việc bổn phận chăm sóc người chồng bị đau lâu ốm dài cho tới khi chàng ta mất.

Louise may mắn tìm được hai cha giải tội khôn ngoan và thông cảm với cô, một người về sau cũng được phong Thánh: Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-di-ô, người kia là bạn của ngài, Ðức Giám Mục Giáo Phận Belley, Pháp. Có điều cả hai vị này chỉ có thể gặp Louise theo định kỳ thôi. Nhưng trong lòng Louise được ơn soi sáng cho biết rằng cô sẽ đón nhận một công cuộc lớn lao dưới sự hướng dẫn của một người mà cô chưa hề gặp: Cha Thánh Vinh-sơn Phao-lô (St. Vincent de Paul).

Khi cô gặp được cha Vinh-sơn ngài rất miễn cưỡng trở thành cha giải tội cho cô vì ngài rất là bận rộn với Hội Ðoàn Bác Ái do ngài sáng lập. Ðây là nơi quy tụ các mệnh phụ phu nhân quý tộc làm việc từ thiện hỗ trợ ngài chăm sóc người nghèo và trẻ em bị bỏ rơi, một nhu cầu nhức nhối vào thời đó. Có điều các quý bà này còn bề bộn với bao việc gia đình và bổn phận khác. Công việc của ngài lại cần đến nhiều người cộng tác khác có thể dành toàn thời gian cho người nghèo, đặc biệt là các thôn nữ vì họ dễ dàng gần gũi và chinh phục cảm tình của những người nghèo. Ngài còn cần có ai đó tổ chức và dạy dỗ đám thôn nữ.

Phải mất một thời gian dài, sau khi cha Vinh-sơn biết đến Louise nhiều hơn, ngài mới nhận ra Louise chính là người Thiên Chúa gởi đến để đáp lại lời cầu nguyện của cha. Louise thông minh, quảng đại, cứng cáp, kiên trì trái ngược với chứng đau ốm dai dẳng của cô. Công việc cha giao cho cô làm đã có kết qủa là có bốn cô quê mùa gia nhập nhóm. Cha Vinh-sơn thuê một căn nhà ở Paris để làm trung tâm huấn luyện cho những người mới gia nhập trong việc chăm sóc người đau yếu và người nghèo. Công việc nhanh chóng phát triển và đã đến lúc phải đề ra nội quy. Chính Louise, dưới sự hướng dẫn của cha Vinh-sơn, đã soạn ra bản hiến pháp cho Các Nữ Tu Bác Ái Vinh-sơn Phao-lô. Riêng cha Vinh-sơn chỉ thích gọi Tu Hội bằng một cái tên đơn sơ hơn: Nữ Tử Bác Ái (Daughters of Charity - Filles de la Charité).

Cha Vinh-sơn luôn ngần ngại và cẩn trọng trong quan hệ với Louise và Tu Hội. Cha nói rằng cha không hề bao giờ mảy may có một ý tưởng là sẽ lập nên một cộng đoàn mới, chính Chúa mới là Ðấng làm nên mọi sự. Cha nói với nhóm chị em: "Nhà của người đau ốm sẽ là Tu Viện của chúng con. Một căn phòng thuê tạm bợ vá víu sẽ là phòng của chúng con. Nhà Thờ của chúng con sẽ là nhà Thờ của Giáo Xứ. Các hang cùng ngõ hẻm của đường phố, các phòng bệnh trong bệnh viện sẽ là lối đi của Tu Viện."

Ban đầu tu phục của các cô chỉ là y phục thường ngày của các cô gái thôn dã. Phải qua nhiều năm sau, cha Vinh-sơn Phao-lô rốt cuộc mới cho phép bốn cô gái có những lời khấn từng năm một về Khó Nghèo, Trinh Khiết và Vâng Phục. Và phải chờ đợi nhiều năm nữa Tu Hội mới được Rô-ma chính thức châu phê và đặt dưới sự hướng dẫn của Tu Hội Các Linh Mục của cha Vinh-sơn (Dòng Lazariste).

Nhiều thiếu nữ trẻ không được đi học cho nên Tu Hội non trẻ rất ngần ngại khi nhận nhiệm vụ chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi. Louise luôn luôn có mặt ở mọi nơi cần đến bàn tay của cô dù cho sức khoẻ cô luôn bết bát. Cô đi khắp nước Pháp và thiết lập các cộng đoàn các nữ tu tại các bệnh viện, các nhà mồ côi và ở các nơi cần đến họ. Vào ngày cô qua đời, 15.3.1660, Tu Hội đã có 40 Cộng Ðoàn trong nước Pháp. Sáu tháng sau, cha Vinh-sơn Phao-lô cũng qua đời ngày 27.9.1660.

Louise de Marillac được phong Thánh năm 1934 và thánh nhân được đặt làm Quan Thầy những người làm công tác bác ái từ thiện năm 1960.

Vào thời của Louise, việc giúp đỡ người nghèo là một việc xa xỉ mà chỉ có các quý bà giầu sang quý tộc có khả năng làm vào những lúc vô công rỗi nghề. Louise hết sức ngưỡng mộ Thánh Vinh-sơn Phao-lô đã khôn ngoan nhận ra rằng các thiếu nữ quê mùa nghèo khổ mới dễ dàng phục vụ người nghèo hữu hiệu hơn, các Nữ Tu Bác Ái đã được khai sinh dưới sự lãnh đạo của Louise. Cho đến ngày hôm nay, Tu Hội vẫn tiếp tục sứ mạng chăm sóc người đau ốm, già nua, mang đến chỗ nương tựa cho các em mồ côi. Có nhiều hội viên của Tu Hội làm công tác từ thiện bác ái dưới sự bảo trợ của Thánh Louise de Marillac. Tất cả mọi người chúng ta phải học nơi chị thánh sự quan tâm ưu ái với những người bất hạnh.

Theo Bách Khoa Tự Ðiển Encarta của hãng Microsoft, một tự điển hoàn toàn có tích cách thế tục, hai Thánh Vinh-sơn Phao-lô và Louise de Marillac, qua các việc bác ái từ thiện, đã có công đầu tại Pháp vào thế kỷ 17 trong việc chặn đứng phong trào ly giáo.

(Because of the Wars of Religion in France, the Counter Reformation did not pick up momentum there until the 17th century. Devotion to the poor, as exemplified by St. Vincent de Paul and St. Louise de Marillac, especially characterized the French experience. Considerable attention was given there, as it was in Italy, to popular missions among the peasantry. Meanwhile, St. Francis of Sales, bishop of Geneva, published his Introduction to the Devout Life (1608), among the most popular of all works of Christian spirituality. "Counter Reformation", Microsoft Encarta Encyclopedia 2000. 1993 - 1999 Microsoft Corporation. All rights reserved.)

Ðất nước Việt Nam chúng ta mang ơn các Nữ Tử Bác Ái rất nhiều. Ða số công việc phục vụ của các chị đều âm thầm vô danh tuy một số được nhiều người biết đến như thiết lập và điều hành các trại phong Bến Sắn, Di Linh, Phước Tân, và mới đây là Trung tâm Mai Hòa chăm sóc bệnh nhân AIDS trong những ngày sau cùng. Ðặc điểm nổi bật nhất của các chị là luôn phục vụ người nghèo và trong yêu thương và khiêm tốn với tư cách người đầy tớ theo lời căn dặn của cha Thánh Vinh-sơn: "Khi các con cho người nghèo bánh ăn, các con còn phải xin lỗi họ."

Ngày 15.3.2003, một Thánh Lễ mừng 70 năm khấn dòng của chị Jean Gabriel Ðặng Thị Cúc; 60 năm của chị Aimée Nguyễn Thị Nữ; và 25 năm của 11 chị khác. Trên tấm thiệp báo đơn sơ ta chỉ đọc được vỏn vẹn hàng chữ đơn sơ: "Tất cả là Hồng Ân".

Xét cho cùng không có Hồng Ân nào to lớn hơn là được sai đi phục vụ Chúa Giê-su nơi người nghèo.

Hoàng Thiên Ân 

(Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 104, năm 2003) 

 

Ngày 15: 2. Thánh Clemente Maria Hofbauer, linh mục dòng Chúa Cứu Thế

 

Clemente Hofbauer sinh ngày 26.12.1752 tại đất nước Áo, vừa đúng 30 năm sau khi Thánh An Phong sáng lập DCCT. Có một chi tiết hết sức dễ thương trong tuổi thơ ấu của cậu bé Clemente Hofbauer. Năm cậu vừa lên 7 thì người cha qua đời. Bà mẹ dắt cậu đến dưới chân Thánh Giá, chỉ lên tượng Chúa Giê-su chịu đóng đinh và bảo: "Con ơi, kể từ nay, người này sẽ là cha của con" Tất cả như là một hạt giống ban đầu của Ơn Gọi Thiên Chúa muốn gieo vào lòng cậu bé Clemente. Có thể nói, chính lời dặn dò nhắn nhủ của bà mẹ đã xác định cho Clemente rằng: kể từ nay chỉ có Chúa Giê-su mới là Ðấng duy nhất mà cậu sẽ phải tuân phục và tận hiến cuộc đời cho Ngài.

Năm 1769, khi vừa tròn 24 tuổi, chàng thanh niên Clemente quyết định xin vào tu trong Ðan Viện Tivoli, để rồi 2 năm sau đó, thầy tình nguyện xin vào sa mạc để ẩn tu. Trong 3 năm liền cầu nguyện chiêm niệm, thầy lại khám phá ra ý định Thiên Chúa muốn thầy không dừng lại ở nếp sống ẩn tu, nhưng quả cảm dấn thân cho Ơn Gọi hoạt động truyền giáo. Thế là thầy lại khẳng khái trình với Bề Trên để xin chia tay ra đi. Suốt trong 4 năm ròng, thầy Clemente đã rong ruổi vượt đường xa hành hương về Rô-ma không dưới 5 lần để chọn một Dòng Tu hoạt động.

Và thế là lại thêm một chi tiết lý thú ghi dấu trong đời thánh nhân. Tháng 9 năm 1784, một lần nữa lại đến Rô-ma, băn khoăn không biết chọn Dòng nào giữa quá nhiều Dòng Tu, thầy nảy ra ý rủ một thầy bạn, một buổi sớm mai, hễ tiếng chuông của Nhà Nguyện Tu Viện nào ở Rô-ma rung lên những tiếng chuông đầu tiên thì hai người sẽ tìm đến để xin nhập Dòng. Hai người thao thức cả đêm, đến khi vừa mới chợp mắt thì tiếng chuông một Tu Viện DCCT ở Rô-ma đã vang lên trước nhất, cả hai trỗi dậy vội vã lên đường tìm đến Nhà Dòng và đã được đón nhận. Ngày 24.10.1784, thầy Clemente mặc áo Dòng, và một năm sau, ngày 19.3.1785, đúng lễ kính Thánh Giu-se, ngài tuyên khấn và nhận sứ vụ Linh Mục trong DCCT, một Linh Mục DCCT đầu tiên không phải là người Ý, nhưng là người Áo.

Cuộc đời mục vụ của cha Clemente khởi đi từ cộng đoàn Saint-Bennon tại thành phố Varsovie. Cha đặc biệt quan tâm phục vụ trẻ em bị bỏ rơi, những thanh niên mù chữ, những cô gái điếm bất đắc dĩ, những người già bị hất hủi, và cả đến những bệnh nhân tâm thần. Cha và cộng đoàn DCCT ở đây cũng không quên tổ chức những tuần Ðại Phúc, hay phải nói cho đúng, ngài đã biến mỗi ngày trong tuần thành một phiên Ðại Phúc với kinh nguyện, Thánh Lễ, Chầu Thánh Thể, giảng thuyết bằng nhiều thứ tiếng cho từng đối tượng người Ðức hay người Ba-lan, và nhất là miệt mài ngồi tòa Giải Tội cho hàng đoàn người sám hối từ khắp nơi tuôn về...

Rồi đây, xuyên qua các biến cố lịch sử chiến tranh và bạo động, trải qua những chống đối và bách hại, những ngộ nhận và ngăn trở của chính quyền lẫn giáo quyền, cha Clemente sẽ nghiệm chứng trong cuộc đời mình Lời Chúa trong Tin Mừng Lu-ca: "Anh em hãy ra đi, này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói..." (Lc 10, 3) bởi cha không thể dừng chân mãi tại Saint-Bennon cho dẫu nhu cầu mục vụ ở đây ngày một đòi hỏi bức thiết.

Cha Clemente không bao giờ quên sự thúc bách của Tin Mừng, của "lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít..." (Lc 10, 2) để tiếp tục lên đường, "không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép..." (Lc 10, 4), cha chỉ một lòng thực hiện Thánh Ý Thiên Chúa để đưa DCCT vượt ra khỏi dãy núi Alpes của vương quốc Napoli để đến các nước miền Âu Châu như Ba Lan, Tiệp Khắc, rồi qua Áo, Thụy Sĩ..., và cứ thế mà lan tỏa đi khắp thế giới, đến miền Bắc Mỹ để rồi từ Canada, DCCT sẽ đặt chân đến Việt Nam năm 1925 mà có được Tỉnh DCCT Việt Nam như ngày nay.

Chia sẻ đến đây, tự nhiên chúng tôi nhớ đến một lời kinh nguyện hằng ngày của anh em DCCT Việt Nam đã được phổ thành bài hát: "Lạy Chúa, ngay giữa lòng Hội Thánh, Chúa đã cho khai sinh gia đình Dòng chúng con mang tên Chúa Cứu Thế sáng danh Vua Trời. Như là một cây nho Chúa thương vun trồng và chăm sóc, mang đến những chùm nho, Ơn Cứu Thế bình an, chan chứa khắp trần gian..."

Thư Thánh Phao-lô Tông Ðồ gửi cộng đoàn Cô-rin-tô có khẳng định: Phao-lô trồng, A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Ðấng làm cho lớn lên, mới đáng kể (x. 1 Cr 3, 6 - 7).

Trong tâm tình khiêm tốn của Linh Mục và Tu Sĩ Dòng Chúa Cứu Thế khám phá ra chính Thánh Ý Chúa đã chọn để cho Thánh An-phong gieo hạt giống đầu tiên mà mọc lên thành một cây nho sinh hoa kết quả tốt tươi, trong đó có công sức vun tưới của Thánh Clemente Hofbauer, thế nhưng trên hết, chúng ta vẫn phải chung nhau một lời tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Ðức Giê-su, Ðấng mà Nhà Dòng đã xin được mang tên là Chúa Cứu Thế. Chính Ngài chứ không phải ai khác, đã chọn Thánh An-phong làm người sáng lập Dòng, đã sai Thánh Clemente đưa Dòng lan tỏa vươn nhánh ra khắp nơi trên thế giới, trong đó có quê hương Việt Nam chúng ta.

Cha Clemente Maria Hofbauer được Chúa gọi về ngày 15.3.1820. Mọi ngộ nhận và ngăn trở từ mọi phía không còn nữa, ngược lại, đám tang của ngài trở thành một cuộc khải hoàn của Tình Yêu Thiên Chúa Quan Phòng. Những ước mơ và công trình dở dang của ngài rồi sẽ được nối tiếp, hoàn tất và phát triển rực rỡ. Người ta tuôn về bên mộ ngài để cầu nguyện xin ơn chữa lành cả thể xác lẫn tâm hồn, các anh em DCCT cũng như nhiều tu sĩ các Dòng tìm đến, cúi đầu mặc niệm và tĩnh tâm để như thể tìm nơi ngài một nghị lực lên đường cho sứ vụ truyền giáo. Năm 1909, cha được Ðức Giáo Hoàng Pi-ô 10 nâng lên hàng Hiển Thánh. Mãi mãi, DCCT đề cao ngài như vị Thánh Tổ thứ hai, sau Thánh An-phong.

Ðể kết thúc, chúng ta hãy cùng nhau chú ý đến một câu, một chi tiết trong bài Tin Mừng Thánh Lễ mừng kính Thánh Clemente ngày 15 tháng 3: "Khi ấy, Ðức Giê-su chỉ định 72 người và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Ðức Giê-su cũng sẽ đến..." (Lc 10, 1). Hóa ra các môn đệ được sai đi trước để dọn đường, để vỡ đất khai hoang trồng trọt. Còn chính Ðức Giê-su, Ngài sẽ làm cho cánh đồng Tin Mừng trổ sinh bao thóc lúa bội thu.

Vì thế, chúng ta xác tín rằng: DCCT, Dòng của Chúa Giê-su, tức là đã được đặt nền móng trên chính Ðức Ki-tô. Và rồi, Thánh Clemente, đến các thế hệ anh em tu sĩ DCCT đã được sai đi mở đường để rồi chính Ðức Giê-su Ngài sẽ đến, để qua anh em Tu Sĩ Linh Mục, qua cả những anh chị em Giáo Dân đang cộng tác nhiệt thành với chúng tôi, Ngài tuôn tràn Ơn Ðức Ðộ cho mọi người, nhất là những người nghèo đói bất hạnh về vật chất lẫn tinh thần, để mọi người cùng nhận ra: "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần" (Lc 10, 9).

Xin tạ ơn Thiên Chúa, xin biết ơn Thánh Clemente. Amen. 

Lm. Lê Quang Uy, DCCT 

(Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 104, năm 2003)



Thứ Tư


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ðn 3, 14-20. 91-92. 95

"Người đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ Người".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: "Hỡi Sidrach, Misach và Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng ta đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn, tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp mình thờ lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ cứu thoát các ngươi khỏi tay ta". Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với vua Nabucôđônôsor rằng: "Tâu lạy vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên".

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach, Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và truyền lệnh các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và Abđênagô, và ném vào lò lửa cháy bừng.

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần rằng: "Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?" Các ông trả lời với vua rằng: "Tâu lạy vua, thật có". Vua nói: "Ðây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa". Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: "Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô, Ðấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56

Ðáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).

Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.

2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26

Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời".

 

Phúc Âm: Ga 8, 31-42

"Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: "Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi". Họ thưa lại Người: "Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói "Các ngươi sẽ được tự do"?". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi". Họ đáp lại: "Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu nói: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!" Chúa Giêsu nói: "Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến".

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm

 

 

   Sự Sống về nguồn   

 


Nếu Chúa Nhật Lễ Lá cũng là Chúa Nhật Thương Khó là ngày thứ 40 của Mùa Chay kể từ Thứ Tư Lễ Tro thì hôm nay là ngày thứ 36 của Mùa Chay, Thứ Tư trong Tuần V Mùa Chay.

"Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, cho thấy sắp sửa trở thành hiện thực ở biến cố Vượt Qua của Chúa Kitô trong Tuần Thánh, nhất là Tam Nhật Vượt Qua.

Nếu biến cố tử nạn và phục sinh của Người là tột đỉnh của tất cả mạc khải thần linh, cho chung con người nhất là cho riêng dân Do Thái, thì những gì Người tỏ mình ra cho dân Do Thái, qua lời nói của Người, ở các bài Phúc Âm ngày thường từ Thứ Tư tuần trước, Tuần IV Mùa Chay, cho đến hết Tuần V Mùa Chay này, là dạo khúc tiến đến tột đỉnh mạc khải thần linh ấy, một mạc khải Thiên Chúa tỏ hết mình ra cho loài người biết Ngài là ai và như thế nào nơi Con của Ngài là nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, Đấng bị chính dân của Người phủ nhận, loại trừ và lên án tử!

Thật vậy, bằng lời chứng của mình, Chúa Giêsu đã từ từ tỏ mình ra cho dân Do Thái. Nếu căn cứ vào thứ tự các bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc theo Thánh ký Gioan, thì Người tỏ mình ra từ xa tới gần, rất tài tình, khéo léo và đầy ngoạn mục như sau:

Ở bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần IV Mùa Chay vừa rồi, chính Người khẳng định và tuyên bố rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà ở bài Phúc Âm Thứ Hai đầu Tuần V Mùa Chay này, Người lại khẳng định và tuyên bố hoàn toàn ngược hẳn lại: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".

Để rồi, từ đó, từ chỗ "Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu" như thế, một sự thật vô cùng quan trọng chẳng những đối với phần rỗi của chung loài người và riêng dân Do Thái, mà còn đối với cả chính bản thân của Người nữa. Bởi vì, nếu Người không biết mình là ai, ở chỗ, từ đâu tới và sẽ đi đâu, thì Người quả là một con người thuần túy, không phải là "Đức Kitô (Thiên Sai), Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), và vì thế Người không phải là Đấng Cứu Thế, không có tư cách và khả năng cứu độ trần gian.

Bởi thế, tự biết mình là một mầu nhiệm thần linh siêu việt, cho dù có tỏ mình ra, không một ai trên trần gian này có thể nào hiểu được, kể cả thành phần môn đệ thân tín của Người, huống chi là dân Do Thái, thành phần mà Người đã thừa biết, như Người đã khẳng định với họ về tầm kiến thức thấp hèn hạn hẹp của họ trong bài Phúc Âm hôm qua, rằng "các người thuộc về hạ giới... thuộc về thế gian", nên không thể nào hiểu được Người là Đấng "bởi trời cao".

Thậm chí, cho dù họ có muốn biết, rất muốn biết về Người, nhưng khốn thay, họ càng muốn biết thì họ lại càng vấp phạm, nhất là vào chính lúc họ thấy rõ được tất cả sự thật về Người do chính Người cuối cùng buộc phải công nhận theo câu hỏi dứt khoát về Người bởi lệnh truyền tối thượng của vị thượng tế Caipha đại diện họ thay mặt Thiên Chúa (xem Mathêu 26:63-67), như Người cũng đã khẳng định với họ về số phận của họ trong cùng bài Phúc Âm hôm qua: '"Tôi ra đi, quí vị sẽ tìm kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Nơi Tôi đi quí vị không thể nào tới được". 

Trong bài Phúc Âm Thứ Tư Tuần V Mùa Chay hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục dẫn họ tiến sâu hơn nữa vào mầu nhiệm về Người, liên quan đến nguồn gốc thần linh của Người, khi Người khéo léo đưa họ về lại từ đầu, về chính nguồn gốc thần linh của chính họ, về vị tổ phụ đu tiên của họ là Abraham, người cha đẻ ra dân tộc của họ về tự nhiên, từ đó, Người dẫn họ tới chính Đấng là Cha của họ về siêu nhiên, Đấng đã tự xưng mình với Moisen là vị cứu tinh dân tộc họ, Ngài là "Thiên Chúa của Abraham..." (Xuất Hành 3:6,15).

Trước hết, Chúa Giêsu đã khéo léo đưa dân Do Thái, qua những người đại diện đang nghe Người bấy giờ, về lại từ đầu, thoạt tiên về vị tổ phụ Abraham là người cha đẻ ra dân tộc của họ về tự nhiên: 

"'Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi'. Họ đáp lại: 'Cha chúng tôi chính là Abraham!'" 

Sau nữa, từ người cha về tự nhiên này, Chúa Giêsu đã bí mật và kỳ diệu dẫn họ tới chính Thiên Chúa là Cha của họ về siêu nhiên: 

"'Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!' Họ lại nói: 'Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!' Chúa Giêsu nói: 'Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến'".

Trong câu chuyện đối đáp giữa Chúa Giêsu và thành phần thính giả đại diện cho dân Do Thái bấy giờ liên quan đến nguồn gốc của họ, từ lãnh vực tự nhiên dính dáng đến tổ phụ Abraham, lên lãnh vực siêu nhiên đụng chạm tới chính Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, và cả hai, tổ phụ Abraham và Thiên Chúa, đều được dân Do Thái nhận là cha và gọi là cha: "Cha chúng tôi chính là Abraham!"; "Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!".

Tuy nhiên, lần nào cũng thế, mỗi lần họ khẳng định và công nhận với Người cha của họ là tổ phụ Abraham hay Thiên Chúa, Chúa Giêsu đều công nhận họ nói đúng về lý thuyết nhưng hoàn toàn không đúng về thực tế, bởi vì họ có một thứ "cha" nào đó không phải là tổ phụ Abraham hay Thiên Chúa của họ: "các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi"... "các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!". 

Vậy "cha" của dân Do Thái được Chúa Giêsu nói đến ở đây, không phải là tổ phụ Abraham cũng không phải là Thiên Chúa thì là ai vậy? Phải chăng là Moisen, vị trung gian môi giới giữa họ và Thiên Chúa là Đấng đã ban cho họ lề luật qua Moisen, vị được Ngài chọn và sai đến với họ để giải thoát họ khỏi tình trạng làm nô lệ cho người Ai Cập mà dẫn họ về miền Đất Hứa tự do của riêng họ, được Thiên Chúa hứa ban cho họ qua tổ phụ Abraham của họ, và vì thế vị cứu tinh trung gian môi giới Moisen này đối với họ có thể được họ coi như một người cha đã tái sinh họ từ sự chết vào sự sống?

Rất tiếc không phải như thế, nếu chúng ta tiếp tục đọc thêm một chút nữa, chỉ sau bài Phúc Âm hôm nay 1 câu nữa thôi, tức ở câu 44 cùng đoạn 8 với bài Phúc Âm hôm nay (chấm dứt ở câu 42), chúng ta sẽ thấy ngay chân tướng của thứ "cha" được Chúa Giêsu thực sự muốn nói tới liên quan đến dân Do Thái ở đoạn Phúc Âm hôm nay. Ai vậy? Dạ, xin thưa, đó là "ma quỉ": "Người cha mà các người xuất phát là ma quỉ và các người sẵn sàng làm theo những gì hắn muốn...". 


"các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi", Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!"
"các người sẵn sàng làm theo những gì hắn muốn..." đây là gì, nếu không phải là phản kitô, không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt (xem 1Gioan 2:22; 2Gioan 7), như hình ảnh tiêu biểu được Thánh ký Gioan thị kiến thấy trong Sách Khải Huyền (12:4) về môt con khủng long (ám chỉ Luxiphe hay Satan) rình chực trước người nữ sinh con để nuốt con trẻ do người nữ sinh ra (ám chỉ Chúa Kitô, vị Thiên Chúa nhập thể).


Thật ra dân Do Thái không hế biết như vậy, nhưng chính Chúa Giêsu đã vạch ra cho họ thấy như thế, căn cứ vào việc làm và hành động khách quan của họ. Tự mình họ thuộc về hạ giới và thế gian đã không thể nào hiểu được mầu nhiệm Chúa Kitô, cho dù có được chính Người tỏ ra cho, như bài Phúc Âm hôm qua đặc biệt cho thấy, họ lại còn bị ma quỉ giật giây, chi phối bởi mầm mống nguyên tội ở nơi họ, mầm mống chống đối như ma quỉ, mà họ đã tác hành những gì "đã thấy nơi cha các ngươi", "của cha các ngươi!" "theo những gì hắn muốn...".

Wow, cả là một đụng chạm kinh hoàng, chưa bao giờ xẩy ra... Bởi thế, chúng ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này của họ, và vì vậy, trong khi họ được Chúa Giêsu tiếp tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai), cũng như ở nơi mối liên hệ với chính Thiên Chúa (bài Phúc Âm ngày kia, Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay).

Bài Đọc 1 hôm nay, 3 nhân vật tiêu biểu cho niềm tin của Do Thái giáo là "Sidrach, Misach và Abđênagô" đã chứng tỏ niềm tin bất khuất của mình vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân tộc họ, bất chấp cái chết về thể xác, nhờ đó họ đã làm cho cả vị vua dân ngoại vô thần và thờ tà thần cùng coi mình là thần này ra lệnh giết họ phải nhận biết Thiên Chúa của họ:

"Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần rằng: 'Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?' Các ông trả lời với vua rằng: 'Tâu lạy vua, đúng vậy thật'. Vua nói: 'Ðây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa'. Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: 'Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô, Ðấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ'".

Đức tin bất khuất của 3 chứng nhân trẻ trung này trước mặt quyền bính thế gian bấy giờ, như họ đã hiên ngang tỏ ra: "Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên", thật sự là một đức tin xứng đáng chứng tỏ họ quả là con cháu của tổ phụ Abraham, cha của tất cả những kẻ tin (xem Roma 4:16), một đức tin Chúa Giêsu muốn thấy nhưng rất tiếc không thấy nơi thành phần thính giả của Người bấy giờ trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham!"

Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 về niềm tin tưởng vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Đấng "đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời":

1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. 

2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 

3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 

4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 

5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 




Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I: St 17, 3-9

"Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc".

Trích sách Sáng Thế.

Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng: "Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".

Chúa lại phán cùng Abraham rằng: "Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).

Xướng: 1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.

2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Am 5, 14

Các ngươi hãy tìm điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để các ngươi được sống và Chúa sẽ ở cùng các ngươi.

 

Phúc Âm: Ga 8, 51-59

"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"

Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".

Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.

Ðó là lời Chúa.


 

Suy niệm



  Sự Sống nguyên ủy 

 

  

Hôm nay, Thứ Năm Tuần V Mùa Chay, chỉ còn đúng 3 ngày nữa là hết Mùa Chay, Chúa Nhật Lễ Lá, thời điểm bắt đầu Tuần Thánh cũng gọi là Tuần Thương Khó.

Đúng như hôm qua đã cảm nhận "chúng ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này của họ, và vì vậy, trong khi họ được Chúa Giêsu tiếp tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai)".

Trước hết, trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở câu cuối, chúng ta đã thấy phản ứng dữ dội đầu tiên của người Do Thái đối với Người, như Thánh ký Gioan cho biết: "Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ". 

Phải chăng trong Tuần V Mùa Chay xẩy ra sự kiện "Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ" này mà kể từ Chúa Nhật V Mùa Chay đầu tuần, các nhà thờ Công giáo, cách riêng ở Hoa Kỳ, đã che phủ các ảnh tượng và Thánh Giá lại, cho đến sau cử hành nghi thức khổ nạn của Chúa Kitô Thứ Sáu Tuần Thánh mới bỏ khăn che Thánh Giá ra và cho tới Lễ Vọng Phục Sinh mới mở các tấm che các ảnh tượng khác ra?

Sự kiện theo truyền thống của Giáo Hội che đi các ảnh tượng và Thánh Giá vào thời điểm này còn có thể hiểu, hay tự nó mang một dụng ý là mầu nhiệm về Chúa Kitô, một mầu nhiệm thần linh liên quan đến cuộc khổ nạn tử giá của Người và đạt tới tột đỉnh của mình nơi biến cố Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm thần linh con người nói chung và dân Do Thái nói riêng tự mình không thể nào hiểu được, dù có nghe thấy chính lời tự chứng của Chúa Kitô.

Tuy nhiên, mầu nhiệm thần linh vô cùng siêu việt về Chúa Kitô ấy sẽ hoàn toàn được tỏ hiện ở chính vào lúc con người, qua dân Do Thái bấy giờ, "treo Con Người lên cao" (Gioan 8:28) - đó là lý do tấm che Thánh Giá được mở ra sau nghi thức Thương Khó Thứ Sáu Tuần Thánh, nhất là cho đến khi Người từ trong kẻ chết sống lại là lúc Người hoàn toàn tỏ mình ra cho thấy tất cả sự thật về Người là "Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16) - đó là lý do các ảnh tượng được che đi sẽ hoàn toàn lộ ra vào đêm Vọng Phục Sinh. 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được lý do tại sao dân Do Thái đã không còn chịu được Chúa Giêsu nữa, họ đã tiến từ chỗ nói rằng "ông bị quỷ ám" sang hành động bạo lực là "lượm đá ném Ngài". Hành động "lượm đá ném Ngài" này cũng chưa nặng bằng hành động "họ tìm cách bắt Ngườiở bài Phúc Âm ngày mai. Bởi vì, ở bài Phúc Âm hôm nay, Người mới nói đụng đến tổ phụ Abraham đáng kính của họ, còn ở bài Phúc Âm ngày mai, Người thậm chí còn dám nói chạm tới cả chính Thiên Chúa tối cao đáng tôn thờ của họ. 

Thế nhưng, Chúa Kitô đã nói gì trong bài Phúc Âm hôm nay đụng đến tổ phụ đáng kính Abraham mà thành phần thính giả đại diện dân Do Thái bấy giờ nghe thấy đã không thể nào chịu nổi, đến độ đã ném đá Người như thế. Sau đây là nguyên văn câu Người nói được thánh ký Gioan ghi lại đã quả thực không thể nào không gây chấn động toàn thể con người của những ai nghe người nói, cả bên trong (tức giận) lẫn bên ngoài (ném đá):

"'Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng'. Người Do-thái liền nói: 'Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?' Chúa Giêsu trả lời: 'Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi'".

Lời khẳng định và công khai tuyên bố này của Chúa Kitô về nguồn gốc thần linh của Người, đúng như Người biết mình là Đấng "bởi trời", như Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này, cũng là Đấng biết mình "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", như Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần này, nhưng đối với dân Do Thái, Người chỉ là một con người thuần túy như họ đã tỏ ra ngạo mạn hỗn láo, không thể nào chấp nhận được.

"Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi" chẳng những là câu Chúa Kitô đã tỏ nguồn gốc thần linh của Ngài ra, đồng thời cũng là câu Người trả lời cho họ khi họ hạch Người ở đầu Bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?". 

Như thế, Người là ai và nguồn gốc thần linh của Người có một liên hệ bất khả phân ly, Người là ai chính ở nơi nguồn ngốc thần linh của Người, và nguồn gốc thần linh của Ngài đã chứng tỏ cho thấy Người là ai. Cũng trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Người là ai có liên hệ mật thiết với nguồn gốc thần linh của Người, một nguồn gốc thần linh cho dù tổ phụ Abraham xưa kia cũng không bằng Người hay như Người. Tại sao? Nếu không phải tại vì: 

"Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Ngài là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Ngài. Còn Ta, Ta biết Ngài. Nếu Ta nói Ta không biết Ngài, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Ngài, và Ta giữ lời Ngài. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Đúng vậy, nguồn gốc thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, nhân vật bị dân Do Thái bấy giờ cho Người là "bị quỉ ám" rồi bị họ "ném đá", là ở chỗ Người biết Thiên Chúa: "Ngài là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Ngài. Còn Ta, Ta biết Ngài". Kiến thức thần linh siêu việt này không phải là người ai cũng có, thậm chí tổ phụ Abraham cũng chẳng có, mà chỉ được mạc khải cho biết mà thôi. Thế nên, Chúa Kitô đã nói về vị tổ phụ này rằng: "Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Nghĩa là, Chúa Kitô, tột đỉnh mạc khải thần linh được Thiên Chúa tỏ ra trong suốt giòng lịch sử cứu dộ của dân Do Thái, bắt đầu từ tổ phụ Abraham, chính là đối tượng chính yếu duy nhất của tất cả những gì tổ phụ Abraham tin tưởng hay hướng về, qua hình ảnh của lòng mong đợi "được thấy ngày của Ta", và chính nhờ đức tin mà quả thực "Ông đã thấy và đã vui mừng" cho dù Chúa Kitô là giòng dõi của ông chưa sinh ra. 


"Ông đã thấy và đã vui mừng" ở đây, vì có liên quan đến nguồn gốc thần linh của Chúa Kitô, Đấng có trước tổ phụ Abraham và vai trên của Abraham, nên có thể hiểu về vị thượng tế Melchizedek là vị thượng tế đã có một nguồn gốc hoàn toàn siêu phàm bí mật, đóng vai chúc lành cho Abraham và được Anbraham dâng chiến lợi phẩm của mình cho (xem Do Thái 7:1-10, nhất là câu 3:) "Không cha không mẹ hay tổ tiên gì hết, như Con Thiên Chúa, ông muôn đời là tư tế", và Con Thiên Chúa, trong thân phận làm người, được Thiên Chúa chứng nhận: "Con là linh mục đời đời theo giòng Melchizedek" (Do Thái 7:21).

Ngoài ra, "Ông đã thấy và đã vui mừng" ở đây còn liên quan đến người con được sinh ra theo lời hứa cho ông. Thật vậy, Chúa Kitô đã hiện diện nơi Isaac con ông, người con duy nhất theo lời hứa Thiên Chúa đã ban cho ông khiến ông vui mừng, nhưng Ngài lại muốn ông sát tế nó cho Ngài, để nhờ đó ông vui mừng thấy được người con ông không tiếc cùng Thiên Chúa ấy, như chính Thiên Chúa đã không tiếc Con Một của Ngài (xem Roma 8:32), trở thành mầm mống cho một dân tộc bao gồm vô số muôn dân, đông như sao trời nhiều cát biển, không thể nào đếm được, là thành phần miêu duệ xuất phát từ ông là cha của tất cả những ai tin tưởng, thành phần được cứu chuộc bởi Chúa Kitô, đối tượng đức tin của ông và của giòng dõi như sao trời cát biển này của ông.

Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên, cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã có ý định muốn sử dụng nhân vật Abram là tổ phụ của một giòng dõi bao gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới, một giòng dõi tin tưởng được Chúa Kitô cứu độ, Đấng xuất thân từ dân tộc Do Thái, như Vị Thiên Sai của họ và là Đấng Cứu Thế cho toàn thể nhân loại. Chính Thiên Chúa đã tự động thiết lập giao ước với nhân vật Abram này bằng những lời lẽ bao gồm và mở đầu cho mạc khải thần linh của Ngài trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho tới khi mạc khải thần linh này lên tới tột đỉnh nơi Chúa Kitô "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4):

"Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa lời kêu gọi dân Do Thái là "miêu duệ Abrahamđược Thiên Chúa "kén chọn" "hãy luôn tìm kiếm thiên nhan Chúa" là Đấng "muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước... Ngài đã ký cùng Abraham", như Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại, và được chính Chúa Giêsu kín đáo nhắc lại trong Bài Phúc Âm cùng ngày: 

1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết.

2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. 

3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. 

 


Ngày 17: Thánh Patriciô, giám mục

Thánh Patriciô được gọi là tông đồ xứ Ái Nhĩ Lan. Mặc dù chúng ta không có đầy đủ sử liệu hầu làm sáng tỏ về những chặng đường sứ mạng của ngài, tuy nhiên chúng ta có thể chắc chắn rằng ngài sinh tại Bretagne khoảng năm 385. Sau khi bị bọn cướp bắt đi làm nô lệ, ngài trở về quê hương và quyết định dâng hiến cuộc đời vào công cuộc truyền bá Phúc Âm. Ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Célestin đặt làm Giám Mục tiên khởi Ái Nhĩ Lan vào năm 431. Ngài đã dùng mọi tài năng khéo léo để rao giảng hầu mọi người nhận biết Chúa Giêsu. Dù vậy, đức tin vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn nhiều người tại vùng đất này.

Ngài đã nêu cao đức tin anh dũng bằng một nếp sống cầu nguyện và khổ hạnh. Ngài qua đời năm 461 tại Down. Nhờ ngài, Giáo Hội Ái Nhĩ Lan đã kiên vững với ngọn lửa tông đồ bừng cháy và đã trở nên hòn đảo của các vị thánh.





Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Gr 20, 10-13

"Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.          

Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được.

Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa.

Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 5-6. 7

Ðáp: Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi (x.c. 7).

Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá, chiến luỹ, cứu tinh. - Ðáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.

3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi. Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. - Ðáp.

4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai Ngài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Ga 10, 31-42

"Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: "Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?"

Người Do-thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa".

Chúa Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: "Ta đã nói: các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng "Ông nói lộng ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".

Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin Người.

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm


  Sự Sống thần linh  


Ngày thứ 38 của Mùa Chay hôm nay, Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay, hành trình Mùa Chay dẫn chúng ta, cùng với Giáo Hội, qua phụng vụ lời Chúa nói chung và Bài Phúc Âm nói riêng, vào tới tận cùng của mầu nhiệm Chúa Kitô, một mầu nhiệm đã khiến Người bị loài người, qua các nhân vật lịch sử thời ấy, bao gồm cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, sát hại, nhưng nhờ thế mầu nhiệm về Người là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa càng trở nên rạng ngời sáng tỏ, đúng với chiều hướng thần linh của lịch sử cứu độ dân Do Thái, một mầu nhiệm làm nên tất cả lịch sử loài người.

Đúng thế, tận cùng của mầu nhiệm Chúa Kitô là gì, hay nói khác hơn, tột đỉnh của mầu nhiệm Chúa Kitô là chi, nếu không phải Người là Con Thiên Chúa. Trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Kitô đã dẫn dân Do Thái, qua thành phần thính giả đại diện họ đang nghe Người bấy giờ, vào đến cung thánh mầu nhiệm về Người, thì qua bài Phúc Âm hôm nay, Người đã dẫn họ vào tận nơi cực thánh là chính bản tính Thiên Chúa của Người.

Hôm qua, theo bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan, Chúa Kitô đã sử dụng ngôn từ của Người để tỏ mình ra, khi dẫn dân Do Thái vào tới cung thánh của mầu nhiệm về Người, ở chỗ, Người đã tỏ mình ra cho họ thấy Người là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai có trước tổ phụ Abraham: "Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi", Đấng mà chính vị tổ phụ là cha của tất cả những kẻ tin hướng về: "Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Hôm nay, bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu từ đó, từ chỗ Người là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, liên quan đến nhân tính của Người, dù trên trái đất này và trong xã hội Do Thái bấy giờ, Người chỉ là một con người lịch sử, Người vẫn là Đấng có trước cả tổ phụ Abraham và là Đấng chính tổ phụ Abraham phải hướng về ấy, Đấng cuối cùng đã dẫn dân Do Thái, qua thành phần thính giả của Người bấy giờ, vào tận nơi cực thánh của mầu nhiệm về Người là thần tính của Người.

Bởi vì, Đấng Thiên Sai như Người không phải chỉ là Đấng được Thiên Chúa sai đến, như các vị tiên tri trong Cựu Ước, mà là chính Đấng từ Thiên Chúa mà đến, Đấng tự mình biết Thiên Chúa: "Ta biết Ngài", như Người đã khẳng định 2 lần liền trong Bài Phúc Âm hôm qua, chứ kiến thức thần linh của Người không phải làm nên bởi những gì được Thiên Chúa tỏ mình ra bằng mạc khải thần linh của Ngài, như Ngài đã làm "bằng nhiều thể nhiều cáchvới các vị tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp, hay với Moisen hoặc với các vị tiên tri xưa (xem Do Thái 1:1).

Thần tính của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã được chính Người tự chứng bằng ngôn từ của Người như sau: "Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa". Và chính vì chủ trương này của Người, vì lời tuyên bố mà đối với người Do Thái có vẻ vô cùng bậy bạ đầy ngạo mạn ngông cuồng ấy, mà Người đã bị họ ném đá, như Thánh ký Gioan cho chúng ta biết chi tiết này ở đầu bài Phúc Âm hôm nay

"Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: 'Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?' Người Do-thái trả lời: 'Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa'".

Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nhẫn nại nhấn mạnh đến yếu tố then chốt nhất mà Người đã từng sử dụng để chứng thực về Người quả là ấng Thiên Sai", và cũng chính là "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16)ở chỗ, như Người tiếp tục dẫn chứng Người không bao giờ làm theo ý của Người mà là ý của Cha là Đấng đã sai Người

"Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".

Chứng từ Người tự chứng về Người thực sự vừa là Đấng Thiên Sai và vì thế cũng là Con Thiên Chúa ở chỗ chỉ làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người đã gây một tác dụng trái chiều, ở chỗ tự chứng ấy của Người đã khiến cho một số là thành phần thính giả bấy giờ vẫn không tin và không thể nào tin được, còn một số khác, ở nơi khác, lại tin vào Người, như phần kết của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy:

"Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: 'Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả'. Và có nhiều kẻ tin Người". 

Sở dĩ còn "có nhiều kẻ tin Người" là vì lòng họ còn cởi mở, còn tha thiết với sự thật, còn muốn biết tất cả sự thật hoàn toàn khách quan về một nhân vật mà trước khi nhân vật ấy xuất hiện, họ đã từng được nghe Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là vị họ coi như tiên tri nói tới là "Đấng đến sau tôi, nhưng hơn tôi vì Người có trước tôi..." (Gioan 1:30). Họ đã chấp nhận chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả về Đấng cao cả đến sau ngài mà họ nhờ đó đã có thể tin vào chính Đấng đến sau đó. 

Mầu nhiệm thần linh về một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, như được chính Chúa Kitô tỏ ra cho dân Do Thái biết vào "thời điểm viên mãn" (Galata 4:4), thời điểm "sau hết" (Do Thái 1:1) của Người bấy giờ, một mầu nhiệm đã trở thành nguyên cớ cho cuộc khổ nạn và tử giá của Người, từ chỗ "họ tìm cách bắt Người" trong bài Phúc Âm hôm nay, đến chỗ "họ quyết định giết Người" trong bài Phúc Âm ngày mai, đã được chính Người, qua miệng Tiên Tri Giêrêmia, trong Bài Đọc 1 hôm nay, thốt lên có vẻ thảm não như sau:

"Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: 'Người này gieo khủng bố khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó'. Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: 'Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó'. Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa".

Tuy nhiên, chính vì "Tôi tự bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, mà Người sẵn sàng chấp nhận những gì xẩy ra cho Người, vì Người là Đấng Thiên Sai, Đấng chỉ đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, dù ý của Ngài có khiến Người phải vô cùng khốn khổ đến đâu chăng nữa. 

Nhưng cuối cùng Người vẫn có thể "lấy lại sự sống" của Người, nghĩa là sự sống vô giá của Người không phải là đồ bỏ hay có thể bị tận diệt, mà là cái giá quí báu duy nhất bất khả thiếu để cứu chuộc nhân loại và để trở thành sự sống đời đời vô giá cho loài người nói chung và những ai tin Người nói riêng. 

Đó là lý do cuối Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Giêrêmia, Người đã tỏ ra hân hoan phấn khởi mà vang lên những lời lẽ đầy hứa hẹn như sau: "Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ".

Tâm tình của Chúa Kitô Thiên Sai trong Bài Đọc 1 hôm nay, phản ảnh Bài Phúc Âm cùng ngày, còn được tiếp tục âm vang ở Bài Đáp Ca trong ngày như sau:

1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá, chiến luỹ, cứu tinh. 

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. 

3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi. Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. 

4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai Ngài. 


Ngày 18: Thánh Cyrillô thành Giêrusalem, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

Thánh Cyrillô được chọn làm Giám Mục thành Giêrusalem vào khoảng năm 350. Cuộc đời ngài được dệt nên bởi nhân đức sáng chói, nhất là dòng bác ái và trí khôn ngoan lạ thường.

Thời đó, toàn xứ Palestina bị hạn hán, mất mùa và đói kém. Rất nhiều người nghèo khó không biết bấu víu vào đâu ngoài vị cha chung yêu quý của họ. Ngài đã lấy hết của cải riêng tư và tài sản địa phận để cứu giúp những người con khốn cùng.

Phép lạ Thánh Giá xuất hiện trên nền trời vào ngày lễ hiện xuống. Ơn nói tiên tri và đặc biệt đời sống thánh thiện của ngài đã là những liều thuốc thần diệu tỉnh thức người Công Giáo, đồng thời cũng là những khí giới sắc bén chống lại bè rối Ariô. Bọn lạc giáo phẫn uất khi thấy hàng ngũ mình bị tan rã nên đã tìm cách trục xuất ngài và ngài đã bị đi lưu đày nhiều lần.

Thánh nhân qua đời ngày 18/3/386.




Thứ Bảy


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ed 37, 21-28

"Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương. Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất của chúng, ở trên núi Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không còn là hai dân tộc, cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa.

Chúng sẽ không còn dơ nhớp vì thần tượng, vì các điều ghê tởm và mọi tội lỗi của chúng. Ta sẽ cứu thoát chúng khỏi mọi nơi tội lỗi. Ta sẽ thanh tẩy chúng; chúng sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng. Ðavit tôi tớ Ta sẽ là vua của chúng, chúng sẽ chỉ có một chủ chăn mà thôi. Chúng sẽ tuân giữ và thực thi các giới răn của Ta. Chúng sẽ cư ngụ trong đất mà Ta đã ban cho Giacóp tôi tớ Ta, và là đất tổ phụ chúng đã cư ngụ; chúng và con cái cùng cháu chắt của chúng sẽ cư ngụ ở đó đến muôn đời. Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Gr 31, 10. 11-12ab. 13

Ðáp: Chúa sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).

Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình". - Ðáp.

2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. - Ðáp.

3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Ga 11, 45-56

"Ðể quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, trong những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su. Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và nói: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta". Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: "Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt". Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối.

Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: "Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?" Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Suy niệm

 


   Sự Sống muôn dân

 

  

Hôm nay là ngày áp chót của Mùa Chay, cũng có thể nói là ngày cuối cùng (trong tuần) của Mùa Chay, ngày Thứ Bảy Tuần V Mùa Chay, chủ đề "Tôi tự bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng hiện lộ trong phụng vụ lời Chúa, cả ở Bài Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.

Cũng như Thứ Bảy tuần trước, bài Phúc Âm hầu như vắng bóng Chúa Giêsu, mà chỉ vang bóng của Người thôi, tức là về tình trạng dân chúng và thành phần lãnh đạo của họ chia rẽ nhau về Người, sau khi Người đã tự chứng về Người bằng ngôn từ hay bằng phép lạ.

Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy cái âm hưởng quá sức là mãnh liệt gây ra bởi phép lạ cả thể nhất Người làm, một phép lạ không được thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, mà ở trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Năm A (hay các Năm B và C nếu muốn thay thế các bài Phúc Âm theo chu kỳ Chúa Nhật) Tuần V Mùa Chay đầu tuần. 

Đó là phép lạ Người hồi sinh cho người bạn thân Lazarô chết đã 4 ngày của Người, để chứng tỏ một thực tại thần linh về Người, một thực tại thần linh đúng như Người đã xác nhận và tuyên bố với Matta là chị của người quá cố: "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25), và phép lạ này cũng là một dấu chỉ thần linh báo trước về biến cố Vượt Qua của Người, biến cố Người vượt qua từ cõi chết mà vào cõi sống, chẳng những hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết mà còn ban cho chung con người và riêng Giáo Hội của Người "sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10). 

Trước một phép lạ cả thế như thế, Thánh ký Gioan đã cho biết thành quả là: "những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su". Nhưng cũng chính vì phép lạ này, hay nói đúng hơn, chính vì tác dụng thần linh của phép lạ này nơi lòng tin của nhiều người được tận mắt chứng kiến thấy Đấng "là sự sống lại và là sự sống" tỏ mình ra bấy giờ, mà thành phần giáo quyền lãnh đạo không thể nào không chính thức ra tay can thiệp, như Thánh ký Gioan tường thuật như sau:

"Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và nói: 'Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta'. Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: 'Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt'". 

Ở đây chúng ta thấy rõ ràng là thành phần lãnh đạo Do Thái bấy giờ nói chung có thành kiến rất nặng về Chúa Giêsu, đến nỗi thành kiến đó đã làm cho họ trở thành mù quáng với đầy những ác cảm, đến độ họ bất chấp sự thật trước mắt họ, như họ cũng đã phải công nhận rằng: "người này làm nhiều phép lạ", ch không phải là nhân vật tầm thường như họ, chẳng làm được phép lạ như Người, chẳng được dân chúng tin theo như Người. 

Thế mà, vì thành kiến và ác cảm đã biến thành ghen tị, đố kỵ và ghen ghét, họ đã tìm cách triệt hạ Người, tìm cách loại trừ Người cho bằng được, với lý do bề ngoài có vẻ tốt đẹp theo công ích, mị dân, như Thánh ký Gioan cho chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá hủy nơi này và dân tộc ta". 

Lý do được viện ra này quả là tuyệt vời, hoàn toàn vừa che đậy được thành kiến, ác cảm, lòng ghen tị và ghen ghét của họ, vừa có tính cách lý tưởng cao cả cho toàn thể dân tộc của họ như thế, đã được vị có thẩm quyền nhất trong họ bấy giờ là thượng tế Caipha, như một tay túc cầu chuyên nghiệp ở hàng tiền đạo vừa được đồng bạn chuyền banh cho liền đá lọt lưới một cách ngoạn mục vào gôn (goal = đích) của đối phương:

"Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: 'Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt'". 

Thế nhưng, lạ lùng thay họ tưởng rằng họ đã thắng bằng quả banh họ chuyền nhau đã làm tung lưới đối phương là dự án cứu độ của Thiên Chúa, không ngờ lại là cú đá phản pháo đã phá lưới chính "gôn - đích nhắm, mưu đồ" của chính họ, như lời dẫn giải của v Thánh ký Gioan của bài Phúc Âm hôm nay ngay sau cú đá đầy ngoạn mục hết sức thần tình của vị thượng tế Caipha này: 

"Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".

Tuy nhiên, về phía họ, họ vẫn tưởng rằng họ đã nắm chắc phần thắng trong tay, nên họ đã bắt đầu lấy quyền bính của mình để "ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người", để có thể đạt được cái "gôn" của mình là "họ quyết định giết Người" cho bằng được, để diệt trừ hậu hoạn cho toàn dân. 

Chắc ai cũng biết được thượng lệnh bất tuân như thế, một thượng lệnh có lợi cho toàn dân đang bị quân đế quốc Rôma như vậy, nên đều tỏ ra hết sức quan tâm và muốn tuân hành, nhưng hình như chỉ ở giáo đô Giêrusalem thôi, chứ không bao gồm ở các nơi khác.

Bởi vậy mà Chúa Giêsu vẫn trở thành một nhân vật, cho dù "không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ", vẫn có sức thu hút dân chúng, có thể nói, chính sự vắng khuất của Người vào thời điểm quan trọng nhất trong năm lại càng khiến dân chúng chú ý đến Người hơn, như Thánh ký Gioan diễn tả cho thấy trong Bài Phúc Âm hôm nay:

"Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: 'Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?'" 

Câu phát ngôn tiêu biểu trên đây cho thấy thái độ như thể hào hứng trông mong của "nhiều người từ các miền lên Giêrusalem" và muốn "tìm Chúa Giêsu", để được gặp Người là Đấng họ cảm phục và trông đợi, nhưng lại là nhân vật, trái lại, như Thánh ký Gioan cho biết ở câu kết thúc của bài Phúc Âm hôm nay: "Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người". 

Đúng thế, chính vì "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, mà cho dù giáo quyền của dân Do Thái bấy giờ có muốn tận diệt Người chăng nữa, một cách hết sức khôn ngoan và hoàn toàn tự do theo lòng ác cảm và ghen ghét của họ, họ chẳng những không làm gì được Người mà còn trở thành dụng cụ bất đắc dĩ của dự án thần linh trong công cuộc cứu độ trần gian, trong đó bao gồm cả dân tộc của họ, không phải chỉ thoát khỏi quyền lực chính trị và quân sự, mà là quyền lực tội lỗi và sự chết.

Dự án cứu độ thần linh vô cùng huyền diệu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô đã được chính Thiên Chúa, qua miệng Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay, báo trước về một viễn tượng dân Do Thái thống nhất và duy nhất, đúng như ý Chúa muốn khi Ngài lập giao ước với tổ phụ Abraham của họ, một dân tộc bao gồm cả dân ngoại trong công cuộc cứu độ do Con của Ngài, Người Con về nhân tính thuộc giòng giống của họ thực hiện:

"Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương. Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất của chúng, ở trên núi Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không còn là hai dân tộc, cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa".

Hình ảnh về một dân Do Thái thống nhất và duy nhất tiêu biểu cho một dân tộc như sao trời cát biển bao gồm cả dân ngoại là tất cả những ai tin tưởng vào Chúa Kitô ấy, cũng đã được Thánh ký Gioan tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay: "Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối", một lời dẫn giải hoàn toàn hợp với những gì Thiên Chúa phán trong Bài Đọc 1 hôm nay qua miệng Tiên Tri Đaniên:

"Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những tâm tình tràn đầy hy vọng và hoan hỉ như thể ơn cứu độ thực sự đã đến, một ơn cứu độ được hiện thực nơi Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế vào thời điểm viên trọn của Người, một biến cố Vượt Qua chẳng những được dân Do Thái cử hành hằng năm mà còn được chính chung Kitô giáo và riêng Giáo Hội Công giáo Roma cử hành vào Tuần Thánh, nhất là vào Tam Nhật Vượt Qua, bắt đầu từ ngày mai, Chúa Nhật Lễ Lá, kết thúc Mùa Chay và bắt đầu Tuần Thương Khó:

1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình". 

2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. 

3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ.  


Bài Đáp Ca hôm nay, Thứ Bảy Tuần V Mùa Chay, chất chứa những tâm tình hân hoan như một dạo khúc hướng về một Chúa Nhật Lễ Lá ngày mai, thời điểm Chúa Kitô vinh quang tiến vào Thành Thánh Giêrusalem, giáo đô của Do Thái Giáo, nơi chứng kiến thấy tột đỉnh mạc khải thần linh của lịch sử cứu độ dân Do Thái cũng là tất cả mạc khải thần linh của lịch sử nhân loại nơi Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế trong Tam Nhật Vượt Qua của Người trong Tuần Thánh, kể từ Chúa Nhật Lễ Lá, bắt đầu Tuần Thương Khó của Người được Giáo Hội Nhiệm Thể Người hằng năm long trọng cử hành như tột đỉnh của phụng niên.