SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XIII Thường Niên Năm C và Năm Lẻ

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Chúa Nhật 13 Quanh Năm Năm C

 

Bài Ðọc I: 1 V 19, 16b. 19-21

"Êlisê đi theo Êlia".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Êlia rằng: "Êlisê, con ông Saphát, người Abel-Mêhula, ngươi hãy xức dầu phong y làm tiên tri thế ngươi".

Êlia ra đi tìm gặp Êlisê con ông Saphát, đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp thứ mười hai. Khi Êlia đến trước ông, thì đặt áo choàng mình trên ông. Lập tức ông bỏ bò lại và chạy theo Êlia mà nói rằng: "Tôi xin đi hôn cha mẹ tôi, rồi tôi theo ngài". Êlia nói với ông: "Ngươi đi đi, rồi trở lại, ta có làm gì ngươi đâu?" Êlisê rời Êlia, rồi bắt một đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi đốt quay thịt cho dân ăn. Ðoạn ông đi theo làm đầy tớ Êlia.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).

Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. - Ðáp.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.

3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát. - Ðáp.

4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Gl 4, 31b - 5, 1. 13-18

"Anh em được kêu gọi để được tự do".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa.

Hỡi anh em, anh em được tự do, nhưng đừng lấy nê tự do mà sống theo xác thịt; trái lại, anh em hãy lấy bác ái của Thánh Thần mà phục vụ lẫn nhau. Vì chưng, tất cả lề luật tóm lại trong lời này: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Nhưng nếu anh em cắn xé và phân thây nhau, anh em hãy coi chừng kẻo huỷ diệt nhau. Tôi nói điều này là: Anh em hãy sống theo thần trí, và đừng tìm thoả mãn theo đam mê xác thịt nữa. Vì đam mê xác thịt thì chống thần trí, và thần trí thì chống lại xác thịt; giữa đôi bên có sự chống đối nhau, khiến anh em không thi hành được những điều anh em mong muốn. Nhưng nếu anh em được thần trí hướng dẫn, anh em không còn sống dưới lề luật nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 51-62

"Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem. Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người. Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?" Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: "Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến, không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta". Và các Ngài đi tới một làng khác.

Ðang khi đi đường có kẻ thưa Người rằng: "Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy". Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu". Người bảo một kẻ khác rằng: "Hãy theo Ta". Người ấy thưa: "Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã". Nhưng Người đáp: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa". Một người khác thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã". Nhưng Chúa Giêsu đáp: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 9, 51-62


Suy Niệm


"Ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn"

Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm C này, căn cứ vào bài Phúc Âm cùng với hai Bài Đọc I và II, có thể được tóm gọn trong câu họa của Bài Đáp Ca cùng với câu xướng trước Phúc Âm Alleluia hôm nay: "Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con" bằng cách "Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời".

Nếu để ý chúng ta sẽ thấy 2 phần rõ ràng của Bài Phúc Âm, mỗi phần đều hợp với từng Bài Đọc I hay II: phần đầu về thái độ của tông đồ Giacôbê và Gioan cần phải như thế nào hợp với những gì Thánh Phaolô khuyên dạy Kitô hữu Giáo đoàn Galata ở Bài Đọc II, và phần sau của Bài Phúc Âm về 3 trường hợp muốn theo Chúa hay được Người kêu gọi cần phải có thái độ như thế nào hợp với Bài Đọc I về trường hợp của Êlisê được chọn làm môn đệ của tiên tri Elia.

Thế nhưng, trong cả 2 phần của Bài Phúc Âm hôm nay, dù về thái độ phải có của hai môn đệ tông đồ Giacôbê và Gioan đã theo Chúa, hay về thái độ cần có của 3 trường hợp ngỏ ý muốn hay được kêu gọi theo Chúa, đều được căn cứ vào sự kiện tối quan trọng và bất khả thiếu liên quan đến Hành Trình Jerusalem của Chúa Giêsu: "Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem".

Thật vậy, đích điểm của sứ vụ thiên sai cứu thế của Chúa Giêsu, Đấng thiên sai đối với dân Do Thái nói riêng, và đồng thời cũng là Đấng cứu thế đối với nhân loại nói chung, chính là Jerusalem, giáo đô của Do Thái giáo cũng là thủ phủ của dân Do Thái, nơi dân Do Thái tin là Thiên Chúa ngự giữa dân của Ngài, nơi linh thiêng nhất miền đất được Thiên Chúa đã hứa ban cho họ và đã qua Moisen dẫn họ vào chiếm ngụ, và vì thế là trung tâm đức tin của họ đối với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đã tỏ mình ra cho họ trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ.

Chỉ ở Giêrusalem này, nơi chẳng những Thiên Chúa ẩn ngự đối với dân Do Thái, mà còn là nơi Thiên Chúa đã chọn để tỏ hết mình ra cho chung loài người là toàn thể dân ngoại nữa. Chính vì thế mà: nếu là Giêrusalem
đích điểm của Hành Trình Thiên Sai Cứu Thế của Chúa Kitô thì sau Cuộc Vượt Qua và Thăng Thiên của Người, Giêrusalem lại trở thành khởi điểm chứng từ truyền giáo của các tông đồ, theo lệnh truyền của Chúa Kitô áp dụng ngay sau biến cố Hiện Xuống: "Các con sẽ nhận đường quyền lực khi Thánh Thần hiện xuống trên các con; để rồi các con sẽ là thành phần chứng nhân của Thày ở Giêrusalem, khắp Giuđêa và Samaria, thậm chí cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8).

Tuy nhiên, đối với chung dân Do Thái cũng như với riêng thành phần môn đệ thân tín của Chúa Kitô thì Người cần phải là một vị thiên sai giải phóng dân tộc của họ khỏi quyền lực đô hộ của đế quốc Roma thời bấy giờ, cũng như thời Các Quan Án họ đã từng được Ngài giải cứu rất nhiều lần. Và vì thế chúng ta mới thấy thái độ của 3 con người, 2 ngỏ ý muốn theo Chúa (người thứ 1 và 3) và 1 được Người kêu gọi (người thứ 2), đã được Người khuyên bảo theo chiều hướng Thiên Sai Cứu Thế của Người, Đấng sẽ Vượt Qua từ sự chết vào sự sống bằng bản tính của con người, để giải thoát con người, bao gồm cả dân Do Thái, "
đang ngồi trong tối tăm và trong bóng tối sự chết" (Luca 1:79) bởi nguyên tội, chẳng những cho khỏi tội lỗi và sự chết, mà còn tái sinh chung nhân loại và riêng những ai "tin và chịu phép rửa" (Marco 16:16) vào sự sống thần linh nữa, chứ không phải khỏi quyền lực chính trị trần gian.

Chính vì thế mà đối với người thứ nhất hăng say ngỏ ý muốn theo Người, có thể vì tưởng Người là một nhân vật giải phóng Israel: "'
Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy'. Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: 'Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu'". Chứ không phải ở trong cung điện huy hoàng lộng lẫy và ngồi trên ngai vàng oai phong lẫm liệt.

Đối với người thứ hai được Người kêu gọi "'
Hãy theo Tôi'. Người ấy thưa: 'Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã'. Nhưng Người đáp: 'Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa'", nhờ đó, người được Người kêu gọi này mới có thể mang lại sự sống chân thật cho thế gian "đang sống trong tăm tối ... ở trong chốn chết chóc bủa vây" (Mathêu 4:16).

Đối với người thứ ba cũng ngỏ ý muốn theo Người: "
'Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã'. Nhưng Chúa Giêsu đáp: 'Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa'", bằng không, không thể nào hoàn thành được sứ vụ loan truyền tin mừng về Nước Thiên Chúa, nếu còn luyến tiếc thế gian, trái lại phải làm sao "sống ở thế gian... không thuộc về thế gian" (Gioan 17:11:14,16), như gương của Elisê trong Bài Đọc 1 lúc nhận ra mình được chọn gọi làm môn đệ của Tiên Tri Elia khi "đang cầy với 12 cặp bò...
Êlisê rời Êlia, rồi bắt một đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi đốt quay thịt cho dân ăn. Ðoạn ông đi theo làm đầy tớ Êlia".

Còn đối với thành phần môn đệ đã theo mình, tiêu biểu nhất là cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan trong bài Phúc Âm hôm nay, càng là 2 trong 3 môn đệ thân tín nhất của Người thì càng phải có tinh thần của Người và như Người, chứ không thể nào còn sống theo tinh thần thế gian, vốn xu hướng về tự nhiên và xác thịt, được tỏ hiện qua những phán đoán và ngôn từ của mình:
"Hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?', vì "ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem", "nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: 'Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến, không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta'".

Càng là hai môn đệ "cưng" của mình, Chúa Giêsu càng phải huấn luyện các vị để các vị có thể sống xứng đáng với tư cách là thành phần chứng nhân tiên klhởi của Người sau này, thành phần chứng nhân về một Đấng Thiên Sai Cứu Thế chỉ "đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta". Và vị tông đồ dân ngoại Phaolô, vì được chính Chúa Kitô tỏ mình ra và kêu gọi cùng sai đi, cũng đã thấm tinh thần Thiên Sai Cứu Thế này của Người, nên đã khuyên Kitô hữu Giáo đoàn Galata trong Bài Đọc II hôm nay rằng: "Anh em hãy sống theo thần trí, và đừng tìm thoả mãn theo đam mê xác thịt nữa", bởi vì, họ đã được cứu chuộc, tức được giải phóng và "được tự do,  nhưng đừng lấy nê tự do mà sống theo xác thịt", kẻo lại trở thành nô lệ cho xác thịt, cho thế gian một lần nữa, "trái lại, anh em hãy lấy bác ái của Thánh Thần mà phục vụ lẫn nhau", như chính Đấng đã "đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ, để hiến mạng sống mình cho nhiều người được cứu đ" (Mathêu 20:28).

Ý thức được tất cả ý nghĩa của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay như thế, chúng ta không thể nào không có một tâm tình của bài Đáp Ca hôm nay đối với Thiên Chúa của chúng ta, Đấng đã yêu thương và cứu độ chúng ta nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế, và cũng muốn chúng ta tiếp tục sứ vụ thiên sai cứu thế của Người qua chứng từ của đời sống Kitô hữu chúng ta. Vậy chúng ta hãy dâng lên Chúa tâm nguyện của chúng ta bằng những câu rất thắm thiết của Thánh Vịnh 15 trong Bài Đáp Ca hôm nay sau đây:

1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.

3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát.

4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn đời.

 

 


Thứ Hai


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 18, 16-33

"Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao?"

Trích sách Sáng Thế.

Khi những vị ấy chỗi dậy, ra khỏi thung lũng Mambrê, liền trông về phía thành Sôđôma. Abraham cùng đi để tiễn chân các đấng. Chúa phán: "Nào Ta có thể giấu Abraham điều Ta sắp làm không? Vì Abraham sẽ trở nên một dân tộc vĩ đại và hùng cường, và muôn dân thiên hạ chẳng nhờ đó mà được chúc phúc sao? Ta biết Abraham sẽ truyền dạy cho con cháu và gia tộc mai sau phải tuân theo đường lối của Chúa, ăn ở ngay lành công chính, để Thiên Chúa ban cho Abraham những gì Người đã hứa cùng ông". Vậy Chúa phán: "Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ".

Các vị ấy bỏ nơi đó, đi về hướng thành Sôđôma. Nhưng Abraham vẫn còn đứng trước mặt Chúa. Ông tiến lại gần Người và thưa: "Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao? Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ, đừng đối xử với người công chính như với kẻ dữ! Xin đừng làm thế! Chúa phán xét thế giới, Chúa không xét đoán như thế đâu". Chúa phán cùng Abraham rằng: "Nếu Ta tìm thấy trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, Ta sẽ vì họ mà tha thứ cho cả thành". Abraham thưa lại: "Dù con chỉ là tro bụi, con đã bắt đầu nói, nên con xin thưa cùng Chúa con: Nếu trong số năm mươi người công chính đó còn thiếu năm người thì sao? Vì thiếu năm người Chúa có tàn phá cả thành không?" Chúa phán: "Nếu Ta tìm thấy bốn mươi lăm người công chính, Ta sẽ không phá huỷ cả thành". Abraham lại thưa cùng Chúa rằng: "Nhưng nếu có bốn mươi người thì Chúa sẽ làm gì?" Chúa phán: "Ta sẽ vì bốn mươi người đó mà không trừng phạt cả thành". Abraham thưa: "Lạy Chúa, nếu con lên tiếng, xin Chúa đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?" Chúa phán: "Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không phạt". Abraham nói: "Vì con đã trót nói thì con sẽ thưa cùng Chúa: Nếu trong thành tìm được hai mươi người công chính thì sao?" Chúa phán: "Vì hai mươi người đó Ta sẽ không tàn sát". Abraham thưa: "Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?" Chúa phán: "Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá".

Khi đã nói với Abraham xong, Chúa ra đi, và Abraham trở về nhà mình.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 8-9. 10-11

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi ân sủng. - Ðáp.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. - Ðáp.

4) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên trái đất, lòng nhân hậu Người siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 18-22

"Con hãy theo Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng vây quanh Người, thì Người ra lệnh sang qua bờ bên kia. Một luật sĩ đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, bất cứ Thầy đi đâu, con cũng xin theo Thầy". Chúa Giêsu trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu". Một môn đệ khác thưa Người rằng: "Thưa Thầy, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã". Chúa Giêsu trả lời: "Con hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết".

Ðó là lời Chúa.


Image result for Mt 8, 18-22

 

Suy Niệm

 

 

"kẻ chết chôn kẻ chết"

 

 

Bài Phúc Âm cho ngày trong tuần hôm nay rất ngắn gọn, chỉ bao gồm 2 câu trả lời của Chúa Giêsu cho 2 trường hợp khác nhau. Trường hợp thứ 1 về "Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo'" , và trường hợp thứ 2 về "Một người khác là người môn đệ thưa với Người: 'Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.'"


Chúa Giêsu đã trả lời cho vị kinh sư rằng "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu", và trả lời cho người môn đệ rằng: "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ". 


Trước hết, chúng ta thấy nơi 2 câu Chúa Giêsu trả lời như thế này: câu thứ nhất cho vị kinh sư hoàn toàn có tính chất khách quan, thách đố và mời gọiđể vị kinh sư này suy nghĩ xem có thể theo Người là một tôn sư homeless vô gia cư để rồi tự quyết định lấy. 


Trái lại, câu trả lời thứ hai của Người (hình như) cho một trong thành phần môn đệ đã theo Người ngỏ lời xin phép Người cho về nhà lo phần an táng thân phụ của mình, có tính cách chủ quan, cương quyết và nghiêm 
ngặt, như thể đã theo Người thì không được coi ai hơn Người, dù là thân nhân ruột thịt của mình, và vì thế đừng lo chuyện thế gian, hãy để cho thế gian lo chuyện thế gian, "phần con, hãy theo Thày" (Gioan 21:22). 

 

Cả 2 câu trả lời này đều phản ảnh Bài Giảng Trên Núi về các Phúc Đức Trọn Lành mà Người đã huấn dụ các môn đệ của Người. Câu trả lời thứ nhất liên quan đến mối phúc đức trọn lành "ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật, vì chưng Nước Chúa Trời là của họ" (Mathêu 5:3), và câu trả lời thứ hai liên quan đến lời huấn dụ của Người: "Trước hết hãy tìm Nước Chúa và sự cống chính của Ngài, còn tất cả mọi sự khác sẽ được ban cho sau" (Mathêu 6:33). 


Tóm lại, qua hai câu trả lời này, Chúa Giêsu kêu gọi ai muốn theo Người thì phải sống trọn lành hơn, một sự sống như Người (câu trả lời 1) và với Người (câu trả lời 2), một sự sống nhờ đó mới có thể 
"nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48). 


Câu Chúa Giêsu huấn dụ người môn đệ nào đó "xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã" rằng "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ" không phải là một thứ huấn dụ dạy con cái bất hiếu với cha mẹ của mình, trái lại, Người muốn thăng hóa và thánh hóa tình nghĩa xác thịt, như Người đã đối xử với chính Mẹ của người sau khi Mẹ Người tìm thấy Người trong đền thờ sau 3 ngày lạc mất Người (xem Luca 2:49), hay khi Mẹ Người và anh chị em họ của Người ở bên ngoài muốn gặp Người (xem Luca 8:20).

 

Bởi thế, phải hiểu cái "chết" trong câu Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây không phải chỉ hoàn toàn về phần xác mà còn nhất là về phần hồn. Và vì thế lời khuyên của Chúa Giêsu ở đây có thể hiểu là ai muốn theo Người và muốn làm môn đệ đích thực của người thì phải làm sao sống vượt lên trên thế gian, đừng chiều theo khuynh hướng chết chóc của thế gian, khuynh hướng "chuộng tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), khuynh hướng thích đi vào con đường rộng dẫn đến diệt vong (xem Mathêu 7:13). Nhờ đó, họ chẳng những thoát khỏi cái chết của thế gian mà còn có thể cứu được thế gian nữa bằng thế giá thánh đức của họ trước nhan Chúa.

 

Tổ phụ Abraham trong Bài Đọc 1 hôm nay quả thật là cha của kẻ tin nên mới có thế giá trước mặt Thiên Chúa như vậy, mới thân tình với Thiên Chúa như thế, đến độ Ngài không thể giấu ông những gì Ngài đang có ý định thực hiện: "Nào Ta có thể giấu Abraham điều Ta sắp làm không?" Đó là ý định hủy diệt Thành Sodoma và Gomora vì "tội lỗi chúng quá nặng nề!"

 

Khi biết được ý định của Thiên Chúa, nhờ thân tình với Ngài, và vì mối thân tình thần linh không thể nào lại là một mối thân tình vị kỷ, chỉ biết hoan hưởng mối hiệp thông thần linh giữa mình với Chúa, bất chấp mọi sự khác liên quan đến phần rỗi đời đời của tha nhân. Thiên Chúa sở dĩ tỏ cho Abraham biết ý định của Ngài không phải để cho Abraham biết vậy thôi, mà có ý muốn Abrahm can thiệp với Ngài cho 2 thành tội lỗi quá mức đáng bị hủy diệt này, nghĩa là bao giờ Thiên Chúa cũng vẫn tỏ lòng thương xót trước khi Ngài bất đắc dĩ phải thi hành công lý của Ngài.

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, trích từ Sách Khởi Nguyên, cho dù tổ phụ Abraham đã vì thân tình với Thiên Chúa mà mặc cả cùng Ngài về số người công chính có thể cứu cả thành, không dám xuống thấp hơn 10 người, nhưng Thiên Chúa vô cùng nhân hậu thật ra cũng chẳng cần đến 10 người công chính, mà chỉ cần một người công chính cũng được, như chính một mình bản thân của Abraham là cha của kẻ tin, như Ngài sau này chỉ vì một mình Mose van xin mà Thiên Chúa đang bừng cơn thịnh nộ sẽ tha chết cho cả một dân tộc ương ngạnh, cứng đầu và nổi loạn (xem Xuất Hành 32:11-14).

 

Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới có câu đáp chính yếu là "Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót" một câu đáp sau mỗi một tâm tình tri ân cảm tạ và chúc tụng ngợi khen Lòng Thương Xót của Ngài:

 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi ân sủng.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn.

4) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên trái đất, lòng nhân hậu Người siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người.

 

 

Thứ Ba

Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 19, 15-29

"Chúa cho mưa sinh diêm và lửa xuống trên thành Sôđôma và Gômôra".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, các thiên thần hối thúc ông Lót rằng: "Hãy chỗi dậy đem vợ và hai con gái của ngươi đi, kẻo chính ngươi cũng phải chết lây vì tội của thành Sôđôma!" Khi ông Lót còn đang do dự, các thiên thần nắm tay ông cùng vợ ông và hai con gái ông, vì Chúa muốn cứu thoát ông. Các thiên thần kéo ông ra ngoài thành và nói: "Ngươi muốn sống thì hãy chạy đi, đừng nhìn lại phía sau; cũng đừng dừng lại nơi nào cả trong miền quanh đây, nhưng hãy trốn lên núi, để khỏi chết lây!" Ông Lót thưa: "Lạy Chúa tôi, tôi van xin Ngài: Tôi tớ Chúa đã được Chúa thương yêu, và Chúa đã tỏ lòng khoan dung đại độ gìn giữ mạng sống tôi. Tôi không thể trốn lên núi kẻo gặp sự dữ mà chết mất. Gần đây có một thành phố nhỏ, tôi có thể chạy tới đó và thoát nạn. Thành đó chẳng nhỏ bé sao, xin cho tôi ẩn tránh tại đó để được sống". Thiên thần nói: "Thôi được, ta cũng chiều ý ngươi xin mà không tàn phá thành ngươi đã nói tới. Ngươi hãy mau mau trốn thoát tới đó, vì ta chẳng làm được gì trước khi ngươi đi tới đó". Bởi đó đã gọi tên thành ấy là Sêgor.

Mặt trời vừa mọc lên thì ông Lót vào đến thành Sêgor. Vậy Thiên Chúa cho mưa sinh diêm và lửa từ trời xuống trên thành Sôđôma và Gômôra. Người huỷ diệt các thành này, cả miền chung quanh, toàn thể dân cư trong thành cùng các giống xanh tươi trên đất. Bà vợ ông Lót nhìn lại phía sau, nên đã biến thành tượng muối.

Sáng sớm (hôm sau) ông Abraham thức dậy, đi đến nơi ông đã đứng hầu Chúa trước đây, ông nhìn về phía thành Sôđôma, và Gômôra và cả miền ấy, ông thấy khói từ đất bốc lên cao như khói một lò lửa hồng.

Khi Chúa phá huỷ các thành trong miền ấy, Người đã nhớ đến Abraham mà cứu ông Lót thoát cảnh tàn phá tại các thành mà ông đã cư ngụ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 25, 2-3. 9-10. 11-12

Ðáp: Lạy Chúa, con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt (c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin hãy thăm dò và thử thách con, xin Ngài luyện lọc thận tạng và tâm can. Vì con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt, và con sống theo chân lý của Ngài. - Ðáp.

2) Xin đừng cất linh hồn con cùng linh hồn người tội lỗi, đừng cất mạng sống con cùng mạng sống kẻ sát nhân; bọn người này nắm chặt tội ác trong tay, và tay hữu chúng ôm đầy lễ vật. - Ðáp.

3) Phần con, con vẫn sống tinh toàn, xin Ngài giải thoát và xót thương con. Chân con đứng vững trong đường bằng phẳng, trong các buổi hội họp, con sẽ chúc tụng Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 23-27

"Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, có các môn đệ theo Người. Và đây biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ. Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!" Chúa phán: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?" Bấy giờ Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ! Cho nên những người ấy kinh ngạc mà rằng: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?"

Ðó là lời Chúa.


Image result for Mt 8, 23-27


Suy Niệm


Muốn sống thì đừng nhìn lại

Bài Phúc Âm hôm nay của Thánh ký Mathêu (8:23-27) tương tự như bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Chúa Nhật XII Thường Niên Năm B. 
Tương tự ở 3 điểm sau đây: 1- thày trò đang ở trên cùng một thuyền thì "biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ"; 2- cảm thấy hoảng sợ "Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!'"; 3sau khi thấy Người dẹp yên bão tố xong thì các môn đệ tỏ vẻ kinh ngạc về Người: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?".
Thế nhưng, có một chi tiết hơi khác nhau giữa 2 bài phúc âm cùng thuật về một biến cốđó là thái độ của Chúa Giêsu trước tâm trạng của các môn đệ khi gặp nạn bấy giờ. Trong khi ở bài Phúc Âm Thánh ký Marco Chúa Giêsu dẹp yên sóng gió đã rồi mới lên tiếng khiển trách lòng tin của các môn đệ: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?", thì ở bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay Người lại khiển trách các vị trước khi ra tay dẹp yên bảo tố: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?" 
Trong câu Chúa Giêsu khiển trách sau khi dẹp yên bão tố, vấn đề sợ hãi trước rồi mới tới đức tin sau, như thể Người muốn nói với các vị rằng: "Vì các con sợ nên các con mới yếu tin, nên Thày đã tỏ quyền năng của Thày ra để các con tin vào Thày hầu sau này có bị nạn các con không sợ hãi nữa"; còn ở câu Người khiển trách trước khi ra tay khuất phục sóng gió, vấn đề đức tin trước sợ hãi sau, như thể Người muốn nói với các vị rằng: "Vì các con yếu tin nên các con mới sợ, bởi vậy Thày sẽ tỏ cho các con biết Thày là ai để các con lần sau không cảm thấy sợ hãi nữa khi Thày đang ở với các con". 

Trong bài đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, từ Sách Khởi Nguyên (19:15-29), Thiên Chúa cũng đã ra tay cứu Lot và gia đình của người cháu Abraham này khi Ngài ra tay thiêu hủy thánh Sođôma và Gômôra, và sở dĩ gia đình người cháu này được cứu là nhờ ở vị tổ phụ công chính luôn tin tưởng vào Chúa ấy: "Khi Chúa phá huỷ các thành trong miền ấy, Người đã nhớ đến Abraham mà cứu ông Lót thoát cảnh tàn phá tại các thành mà ông đã cư ngụ.".
Thiên Chúa đã vì Abraham mà cứu cháu Lot của ông và gia đình cháu, đến độ, như Sách Khởi Nguyên trong bài đọc 1 hôm nay kể: "Khi ông Lót còn đang do dự, các thiên thần nắm tay ông cùng vợ ông và hai con gái ông, vì Chúa muốn cứu thoát ông. Các thiên thần kéo ông ra ngoài thành và nói: 'Ngươi muốn sống thì hãy chạy đi, đừng nhìn lại phía sau; cũng đừng dừng lại nơi nào cả trong miền quanh đây, nhưng hãy trốn lên núi, để khỏi chết lây!'"
Sở dĩ người cháu này của tổ phụ Abraham tỏ ra lưỡng lự không phải vì tiếc của hay vì không tin vào thần sứ của Thiên Chúa cho bằng xin chạy đi lánh nạn ở một thành phố nhỏ gần đó hơn là lên núi: "Lạy Chúa tôi, tôi van xin Ngài: Tôi tớ Chúa đã được Chúa thương yêu, và Chúa đã tỏ lòng khoan dung đại độ gìn giữ mạng sống tôi. Tôi không thể trốn lên núi kẻo gặp sự dữ mà chết mất. Gần đây có một thành phố nhỏ, tôi có thể chạy tới đó và thoát nạn. Thành đó chẳng nhỏ bé sao, xin cho tôi ẩn tránh tại đó để được sống".
Thiên Chúa chẳng những đã chiều theo ý của người cháu này mà còn vì người cháu ấy mà không thiêu hủy thành mà người cháu ấy ngỏ ý muốn đến trú ẩn nữa: "'Thôi được, ta cũng chiều ý ngươi xin mà không tàn phá thành ngươi đã nói tới. Ngươi hãy mau mau trốn thoát tới đó, vì ta chẳng làm được gì trước khi ngươi đi tới đó'. Bởi vậy thành ấy được gọi là Segor. Mặt trời vừa mọc lên thì ông Lót vào đến thành Segor. Vậy Thiên Chúa cho mưa sinh diêm và lửa từ trời xuống trên thành Sôđôma và Gômôra". 

Như thế, chúng ta thấy, chính nhờ đức tin được thể hiện qua đời sống công chính mà Abraham đã cứu được gia đình cháu Lot của ông khỏi bị thiêu hủy trong thành mà cháu đã sống, và cũng nhờ đức tin công chính của người cháu Lót này của ông mà thành phố có sự hiện diện của người cháu ấy đã thoát bị thiêu hủy. 

Trong Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịnh 25 (2-3,9-10,11-12), tâm tình của thành phần công chính, như của tổ phụ Abraham hay của Cháu Lot của ông, đã được bày tỏ cùng Thiên Chúa như sau:

1) Lạy Chúa, xin hãy thăm dò và thử thách con, xin Ngài luyện lọc thận tạng và tâm can. Vì con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt, và con sống theo chân lý của Ngài. 

 

2) Xin đừng cất linh hồn con cùng linh hồn người tội lỗi, đừng cất mạng sống con cùng mạng sống kẻ sát nhân; bọn người này nắm chặt tội ác trong tay, và tay hữu chúng ôm đầy lễ vật.

 

3) Phần con, con vẫn sống tinh toàn, xin Ngài giải thoát và xót thương con. Chân con đứng vững trong đường bằng phẳng, trong các buổi hội họp, con sẽ chúc tụng Chúa. 





Thứ Tư


Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 21, 5.8-20

"Con của người nữ tỳ không được thừa hưởng gia tài cùng với con tôi".

Trích sách Sáng Thế.

Khi Abraham được một trăm tuổi, thì Isaac sinh ra.

Ðứa trẻ lớn lên và thôi bú.

Ngày Isaac thôi bú, Abraham thết tiệc linh đình.

Bà Sara thấy con của Agar, người đàn bà Ai Cập, chơi với Isaac, con của bà, liền nói với Abraham rằng: "Hãy đuổi mẹ con người tì nữ này đi, vì con của người đầy tớ không được thừa hưởng gia tài cùng với con tôi là Isaac".

Abraham lấy sự ấy làm đau lòng cho con mình.

Chúa phán cùng Abraham rằng: "Người đừng buồn vì con trẻ, và con của nữ tì ngươi. Bất cứ Sara nói gì, ngươi hãy nghe theo vì nhờ Isaac, sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Nhưng Ta cũng sẽ cho con trai của nữ tì trở thành một dân tộc lớn, vì nó thuộc dòng dõi của ngươi".

Sáng sớm, Abraham chỗi dậy,lấy bánh mì và bầu nước, đặt lên vai người nữ tì, trao con trẻ cho nàng rồi bảo nàng đi.

Sau khi ra đi, nàng đến rừng Bersabê.

Và khi đã uống hết bầu nước, nàng bỏ con trẻ dưới gốc cây trong rừng.

Nàng ra ngồi cách xa đó khoảng tầm một tên bắn.

Vì nàng nói: "Tôi chẵng nỡ thấy con tôi chết", và nàng ngồi đó, thì bên trong đứa bé cất tiếng khóc.

Chúa đã nghe tiếng khóc của đứa trẻ, và thiên thần Chúa từ trời gọi Agar mà rằng: "Agar, ngươi làm gì thế? Ngươi đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe tiếng đứa trẻ khóc từ chỗ nó đang nằm kia.

Ngươi hãy chỗi dậy, ẵm con đi, và giữ chặt tay nó, vì Ta sẽ cho nó trở thành một dân tộc vĩ đại".

Và Thiên Chúa mở mắt cho Agar, nàng thấy một giếng nước và đến múc đầy bầu nước cho đứa trẻ uống.

Chúa phù trợ đứa trẻ; nó lớn lên, cư ngụ trong rừng vắng, và trở thành người có tài bắn cung tên.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33,7-8.10-11,12-13

Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe. (7a)

Xướng 1) Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. Thiên thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ. - Ðáp.

2) Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. - Ðáp.

3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia. - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8,28-34

"Ông đến lúc này để hành hạ các quỷ".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên thuyền sang bờ bên kia, đến miền Giêrasa, thì gặp hai người bị quỷ ám từ các mồ mả đi ra, chúng hung dữ đến nỗi không ai dám qua đường ấy.

Và chúng kêu lên rằng: "Lạy Ông Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng tôi có can chi đến ông? Ông đến đây để hành hạ chúng tôi trước hạn định sao?"

Cách đó không xa có một đàn heo lớn đang ăn.

Các quỷ nài xin Người rằng: "Nếu ông đuổi chúng tôi ra khỏi đây, thì xin cho chúng tôi nhập vào đàn heo".

Người bảo chúng rằng: "Cứ đi".

Chúng liền ra khỏi đi nhập vào đàn heo.

Tức thì cả đàn heo, từ bờ dốc thẳng, nhào xuống biển và chết chìm dưới nước.

Các người chăn heo chạy trốn về thành, báo tin ấy và nói về các người bị quỷ ám. Thế là cả thành kéo ra đón Chúa Giêsu. Khi gặp Người, Họ xin Người rời khỏi vùng của họ.

Ðó là Lời Chúa.

Image result for Mt 8,28-34

Suy Niệm


Tần Số Tội Lỗi và Cám Dỗ Remote Control
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Phúc Âm Thánh Ký Mathêu (8:28-34) cho Thứ Tư Tuần XIII Thường Niên, Thánh ký Mathêu thuật lại việc Chúa Giêsu trừ quỉ cho hai người bị quỉ ám.
Có mấy chi tiết hay hay trong câu chuyện trừ quỉ lần này có một không hai của Chúa Giêsu: trước hết là chi tiết không phải thân nhân của hai nạn nhân xin Chúa Giêsu trừ quỉ cho họ; sau nữa là chi tiết "hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người", trong khi đó có lẽ 2 người này chưa bao giờ đã từng gặp Chúa Giêsu mà lại nhận ra Người, chắc là nhờ đám quỉ tinh quái ám họ; sau hết là chi tiết chính Chúa Giêsu không trực tiếp ra tay trừ bọn quỉ ấy, mà chính bọn quỉ muốn xuất khỏi hai người bị chúng ám này, để tránh khỏi bị Người khu trừ: "Bọn quỷ nài xin Người rằng: 'Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo kia'". 

Qua câu chuyện này chúng ta thấy ma quỉ nhận biết Chúa Kitô là ai và đến thế gian để làm gì: "Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?" Đúng như lời Thánh Gioan viết trong Thư Thứ Nhất của ngài: "Chính là để phá hủy các công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (3:8). 
Công việc của ma quỉ là gì, nếu không phải là những gì liên quan đến chết chóc, nên hai người bị quỉ ám đã sống ở nơi "mồ mả" chết chóc, và chết chóc lại liên quan đến xác thịt (cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - "khuynh hướng của xác thịt thiên về sự chết" - Roma 7:6), nên bọn quỉ đã xin nhập vào đàn heo là loài vật vốn được tiêu biểu cho xác thịt, khiến cho "tất cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối hết".
Quả vậy, sau nguyên tội, con người như bị quỉ ám, bởi bản tính của loài người đã bị nọc độc tội lỗi và chết chóc của ma quỉ tiêm nhiễm vào, khiến họ bắt đầu xu hướng về tội lỗi và rất dễ sa ngã phạm tội. Bởi nơi bản thân họ đã chất chứa sẵn mầm mống tội lội là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, những thứ mầm mống tội lỗi đóng vai trò làm nội công cho ma quỉ, như thể con người bị ma quỉ cài đặt sẵn tần số tội lỗi nơi họ, đến độ nó chẳng cần cám dỗ con người mà chỉ cần sử dụng bộ phận viễn khiến - remote control từ hỏa ngục là con người cũng đủ quay cuồng mù quáng làm theo ý muốn gian ác của chúng.

Cho dù con người có lãnh nhận Phép Rửa chăng nữa, họ chỉ được khỏi nguyên tội (nếu mới sơ sinh) 
và tư tội (nếu đã khôn lớn) cùng với các hình phạt kèm theo tội lỗi, nhưng bản tính của họ vẫn còn nguyên mầm mống nguyên tội là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu và vẫn phải chịu hậu quả nguyên tội là đau khổ và chết chóc. Tuy nhiên, bởi Phép Rửa họ có được sự sống thần linh, một sự sống của Đấng Vượt Qua "nắm toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), nhờ đó họ có thể cùng với Chúa Kitô Phục Sinh chiến thắng tội lỗi và sự chết. 
Trong bài đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên (21:5,8-20), chúng ta thấy xuất hiện đứa con sinh bởi xác thịt của tổ phụ Abraham với người tỳ nữ Ai Cập Agar. Đứa con mang tên Ismael này cho dù không phải là đứa con sinh bởi lời hứa như Isaac, và vì thế không được thừa hưởng gia nghiệp của vị tổ phụ này theo lời hứa của Thiên Chúa, nhưng "vì nó là dòng dõi ngươi" mà nó cũng được Thiên Chúa quan tâm chăm sóc theo thân phận và sứ mệnh thiên định của nó

 

"Thiên Chúa nghe thấy tiếng đứa trẻ và từ trời sứ thần Thiên Chúa gọi Hagar và nói: 'Sao thế, Hagar? Đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa trẻ, ở chỗ nó nằm. Đứng lên! Đỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay, vì Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn'. Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và nàng thấy một giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da, rồi cho đứa trẻ uống. Thiên Chúa ở với đứa trẻ, nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành người bắn cung". 

Phải chăng giòng dõi của Ismael này là khối Ả Rập Hồi giáo hiện nay, một khối dân hầu hết theo Hồi giáo cũng tin kính tổ phụ Abraham, và giòng dõi của đứa con của lời hứa Isaac là dân Do Thái, tuy nhỏ bé cả về địa dư lẫn dân số (khoảng hơn kém 15 triệu dân khắp thế giới) giữa một khối Ả Rập khổng lồ bao gồm cả 22 quốc gia hùng hậu cả về dân số (khoảng 422 triệu dân) lẫn địa dư, hầu hết tập trung ở vùng Trung Đông và Tiểu Á, nhưng vẫn ngang nhiên tồn tại một cách hết sức gai mắt đối với Khối Ả Rập mà khối khổng lồ này vẫn không thể nào ăn tươi nuốt sống họ nổi?

Phải chăng Thiên Chúa để như vậy cho có lợi cho cả đôi bên: bên Khối Ả Rập Hồi giáo nhận biết rằng Thiên Chúa ở cùng dân tộc được Ngài tuyển chọn, và bên Dân Do Thái luôn ý thức về thân phận của mình được Thiên Chúa ưu tuyển giữa chư dân và cho chư dân nói chung, nhất là Khối Ả Rập Hồi giáo là anh em cùng tổ phụ Abraham với họ?

Phải chăng trận chiến thiêng liêng giữa xác thịt hùng mạnh và thánh sủng thiêng liêng trong linh hồn cũng thế, cũng liên lỉ kéo dài như tới thiên thu bất tận, và thường xác thịt thắng thế nhưng chẳng những vẫn không làm gì nổi thánh sủng mà còn nhờ thánh sủng trong linh hồn mà được thanh tẩy và thánh hóa nữa?



Thứ Năm

Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 22, 1-19

"Lễ hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi". Vì vậy ban đêm Abraham chỗi dậy, thắng lừa, dẫn theo hai đầy tớ và Isaac, con của ông; khi đã chặt củi dành để đốt của lễ toàn thiêu, ông đi đến nơi Chúa đã truyền dạy. Ðến ngày thứ ba, ngước mắt lên, ông thấy nơi còn xa xa; ông bảo các đầy tớ rằng: "Các ngươi và con lừa hãy đợi tại đây. Ta và con trẻ đi đến nơi kia, sau khi cử hành việc thờ phượng xong, chúng tôi sẽ trở lại đây với các ngươi". Ông lấy củi dành để đốt của lễ toàn thiêu mà đặt trên vai Isaac, con ông, còn ông thì cầm lửa và gươm. Khi cha con cùng đi trên đường, Isaac hỏi cha mình rằng: "Thưa cha". Ông Abraham trả lời: "Hỡi con, con muốn gì?" Isaac nói: "Củi và lửa có đây rồi, còn của lễ toàn thiêu ở đâu?" Ông Abraham đáp: "Hỡi con, Thiên Chúa sẽ dự liệu của lễ toàn thiêu". Vậy hai cha con tiếp tục cùng đi.

Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên đống củi trên bàn thờ. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham! Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây, Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Ông gọi tên nơi này là "Chúa trông thấy". Bởi vậy, mãi cho đến ngày nay, người ta quen nói rằng "Trên núi Chúa sẽ trông thấy".

Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".

Ông Abraham trở về cùng các đầy tớ, và họ cùng nhau đi về Bersabê, và lập cư tại đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 114, 1-2. 3-4. 5-6. 8-9

Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước Thiên nhan Chúa, trong miền đất của nhân sinh (c. 9).

Xướng: 1) Tôi mến yêu Chúa, vì Chúa đã nghe, đã nghe tiếng tôi cầu khẩn; vì Chúa đã lắng tai nghe lời tôi trong ngày tôi kêu cầu Chúa. - Ðáp.

2) Thừng chão tử thần đã quấn lấy tôi, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người tôi; tôi đã rơi vào cảnh lo âu khốn khó. Và tôi đã kêu cầu danh Chúa: "Ôi lạy Chúa, xin cứu vớt mạng sống con". - Ðáp.

3) Chúa nhân từ và công minh, và Thiên Chúa của chúng tôi rất từ bi. Chúa gìn giữ những người chất phác, tôi đau khổ và Người đã cứu thoát tôi. - Ðáp.

3) Bởi Người đã cứu tôi khỏi tử thần, cho mắt tôi khỏi rơi lệ và chân tôi không quỵ ngã. Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 1-8

"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi". Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: "Ông này nói phạm thượng". Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: "Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng "Tội con được tha rồi", hay nói "Hãy chỗi dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội". Bấy giờ Người nói với người bất toại: "Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con". Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế.

Ðó là lời Chúa.

Related image


Suy Niệm

 Chữa lành phần xác là một dấu chỉ tha tội phần hồn

Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh tiếp tục với bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XIII Thường Niên hậu Phục Sinh hôm nay, trong đó, Thánh ký Mathêu (9:1-8) đã thuật lại việc Chúa Giêsu chữa một người bại liệt để tỏ quyền năng tha tội của Người, một sự kiện tha tội liên quan đến sự sống thần linh
"Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: 'Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!'" 

Thật vậy, chính vì nguyên tội mà con người đã bị chết về phần hồn (xem Khởi Nguyên 2:17) kèm theo cả cái chết về phần xác là hậu quả tất yếu của tội lỗi nữa (xem Khởi Nguyên 3:19). Tất cả những khổ đau con người phải chịu trên trần gian này đều là biểu hiệu của sự chết cả về tâm linh lẫn thể xác. Chứng bại liệt nơi thân xác của con người, như nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, chẳng những là hậu quả của nguyên tội mà còn là biểu hiệu cho tình trạng bất lực của con người mang bản tính nhiễm lây nguyên tội nữa. 

Đó là lý do, một khi con người được tha tội là con người được giải phóng về phần hồn, và vì bệnh nạn tật nguyền về phần xác gây ra bởi tội lỗi mà họ cũng có thể thoát được những chứng bệnh họ đang mắc phải, như trường hợp của người bất toại ở bài Phúc Âm hôm nay. Cho dù được khỏi tội mà không khỏi bệnh con người có tâm hồn trong sạch theo lòng tin tưởng vẫn có thể sống với bệnh tật một cách an bình, thậm chí còn lợi dụng được cả bệnh tật để làm vinh danh Chúa nữa (xem Gioan 9:3). 
Có ích gì cho con người nếu thân xác được lành mạnh mà lại lạm dụng nó để sống đời tội lỗi chứ. Nếu thà mất đi một phần thân thể mà được vào Nước Trời còn hơn lành cả thân xác mà bị quẳng vào hỏa ngục (xem Mathêu 5:29), thì đúng như Chúa Giêsu nói với thành phần "kinh sư nghĩ bụng rằng: 'Ông này nói phạm thượng'", "trong hai điều: một là bảo: 'Con đã được tha tội rồi', hai là bảo: 'Đứng dậy mà đi', điều nào dễ hơn?"

Đối với Thiên Chúa thì "con đã được tha tội rồi" thì "dễ hơn", còn đối với loài người thiển cận và dính bén với trần thế thì "đứng dậy mà đi" thì "dễ hơn", "dễ hơn" ở chỗ họ (nếu là nạn nhân) được "dễ" chịu hơn, vì được khỏi bệnh, và ở chỗ họ (thành phần khán giả hay chứng dự) "dễ" nhận hơn vì thấy được tỏ tường quyền năng thần linh. 
Bởi thế, Chúa Giêsu đã phải chiều theo khuynh hướng của loài người, hay nói đúng hơn, đã lợi dụng yếu điểm tò mò của loài người để tỏ mình ra cho họ, nhờ đó họ có thể thấy được vị thế thần linh siêu việt của Người, một vị thế vượt trên tất cả mọi vị tiên tri trong lịch sử của họ, hơn cả Moisen là vị cứu tinh dân tộc của họ cũng đã thực hiện không ít dấu lạ, một vị thế thần linh ở nơi quyền tha tội của Người, một con người như họ và ở giữa họ

"Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội - bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại liệt: 'Đứng dậy, vác giường đi về nhà!' Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà. Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế".

Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có quyền tha tội cho con người qua Con của Ngài một cách "dễ" dàng như thế, Ngài vẫn không "dễ" dãi với Con của Ngài, trái lại, Thiên Chúa "đã không dung tha cho Con của Ngài, một phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32), nghĩa là Ngài muốn, hay đúng hơn, Ngài "bắt" Người Con duy nhất vô cùng dấu yêu của Ngài phải khổ nạn và tử giá vô cùng hèn hạ và ô nhục như một đệ nhất đại tội nhân trên trần gian này, như một hy tế đền bù tội lỗi của nhân loại và cho nhân loại, một tội phạm đến Ngài là Đấng vô cùng thì cũng phải có một Đấng vô cùng là Con Ngài đền thay mới cân xứng.

Cuộc khổ nạn và tử giá của Người Con duy nhất chí ái này của Thiên Chúa cho phần rỗi của chung loài người, như trong bài đọc 1 hôm nay trích Sách Khởi Nguyên (22:1-19) cho thấy, đã được tiên báo ở biến cố tổ phụ Abraham (hình bóng của Thiên Chúa Cha) sẵn sàng sát tế Isaac là người con duy nhất (hình bóng Chúa Giêsu Kitô: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu") được sinh ra theo lời hứa cho một dân tộc "đông như sao trời cát biển" (ám chỉ thành phần dân thánh Chúa, thành phần tin vào Ngài, thành phần được cứu độ).

Thế nhưng, chính lúc "Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình" thì "sứ thần Thiên Chúa từ trời gọi ông: 'Abraham! Abraham!... Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!... Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta'".

 


Thứ Sáu


Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 23, 1-4. 19; 24, 1-8. 62-67

"Isaac yêu thương Rêbecca, cho nên ông tìm được niềm an ủi, vì thương nhớ mẹ đã qua đời".

Trích sách Sáng Thế.

Bà Sara được một trăm hai mươi bảy tuổi thì qua đời tại thành Cariatharbê, tức là Hêbron, trong đất Canaan. Ông Abra-ham đến khóc lóc thương tiếc bạn mình. Khi lo việc chôn cất, Abraham chỗi dậy nói với các con ông Hét rằng: "Tôi là ngoại bang, là khách lạ giữa quý ông, xin quý ông nhượng cho tôi một phần mộ để chôn xác người nhà tôi qua đời". Rồi Abraham chôn cất bà Sara vợ ông trong Hang Ðôi ngoài đồng ruộng, đối diện với Mambrê, tức Hêbron, trong đất Canaan.

Khi ấy, Abraham đã già nua, và Chúa đã chúc lành cho ông trong mọi sự. Abraham nói với người đầy tớ lớn tuổi nhất trong nhà, cũng là người quản lý mọi của cải của ông rằng: "Ngươi hãy đặt tay vào dưới bắp vế ta mà thề trước mặt Chúa là Thiên Chúa trời đất, sẽ không cưới cho con ta một người vợ thuộc dân Canaan mà ta đang ở chung với họ đây. Ngươi hãy đi về quê họ hàng ta, mà cưới vợ cho con ta là Isaac". Người đầy tớ thưa lại: "Nếu người phụ nữ không muốn theo tôi về xứ này, thì tôi có phải đem con trai ông về quê quán của ông chăng?" Abraham trả lời rằng: "Ngươi hãy cẩn thận chớ bao giờ dẫn con ta về đó: Chúa là Thiên Chúa, đã đưa ta ra khỏi nhà cha ta và quê quán ta, đã phán và thề hứa cùng ta rằng: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi". Thiên Chúa sẽ sai thiên thần đi trước mặt ngươi, và ngươi cưới cho con trai ta một người vợ trong xứ đó. Nếu người phụ nữ không chịu theo ngươi về, thì ngươi không còn mắc lời đoan thề mà ta bảo người đây. Chỉ có một điều là đừng dẫn con trai ta về nơi đó".

Khi ấy, Isaac đi bách bộ trên đường dẫn đến cái giếng gọi là "Ðấng Hằng Sống và Trông Thấy", vì ông cư ngụ tại mạn nam. Lúc gần tối, Isaac đi ra ngoài cánh đồng để suy ngắm. Khi ngước mắt lên nhìn, thấy những con lạc đà đang trở về từ đàng xa. Rêbecca cũng ngước mắt nhìn thấy Isaac, nàng liền nhảy xuống khỏi lạc đà, và hỏi người đầy tớ rằng: "Người đang đi trong cánh đồng để ra đón chúng ta là ai vậy?" Người đầy tớ đáp: "Người đó là chủ tôi đấy". Nàng vội vàng lấy khăn che mặt. Người đầy tớ lại kể lại cho Isaac hay mọi việc mình đã làm. Isaac đưa Rêbecca vào nhà xếp của Sara mẹ ông, ông lấy nàng làm vợ và yêu thương nàng lắm, cho nên ông tìm được niềm an ủi bớt thương nhớ mẹ đã qua đời.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 1-2. 3-4a. 4b-5

Ðáp: Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu (c. 1a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói cho hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? - Ðáp.

2) Phúc cho ai tuân giữ những điều huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. - Ðáp.

3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 9-13

"Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ". Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Mt 9, 9-13


Suy Niệm

"với bọn thu thuế và quân tội lỗi"
Nếu bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến quyền năng tha tội của Chúa Giêsu thì bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XIII Thường Niên hôm nay (Mathêu 9:9-13), tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, liên quan đến tội nhân, đúng hơn liên quan đến sứ vụ của Người đối với thành phần tội nhân.
Đúng thế, sau khi gọi "một người tên là Mathêu đang ngồi tại trạm... 'Anh hãy theo tôi!'", Chúa Giêsu đã đến nhà của viên thu thuế này để "dùng bữa ... có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ", và hậu quả xẩy ra là: "Thấy vậy, những người Pharisiêu nói với các môn đệ Người rằng: 'Sao Thầy của các anh lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi như thế chứ?'".

Nếu chính vì loài người tội lỗi mà "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14), thì sứ vụ của Người đó là "tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10), nên Người càng cần phải làm sao để có thể đến gần với họ hơn ai hết và hơn bao giờ hết, nhờ đó họ có thể cảm nghiệm được tình thương của Người mà trở về nhà Cha của Người. Đó là lý do: 

"Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói: 'Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi'".
Trước mặt Thiên Chúa loài người không ai là người công chính, tất cả đều là tội nhân đáng thương và cần được cứu độ, bao gồm cả tổ phụ Abraham vốn được xưng "là cha của tất cả các kẻ tin" (Roma 4:11), thậm chí kể cả đệ nhất tạo vật về ân sủng là Mẹ Maria, cho dù được hoài thai vô nhiễm nguyên tội, cũng đã chân nhận là mình được cứu độ (được gìn giữ một cách đặc biệt nhờ hưởng trước ơn cứu chuộc của Chúa Kitô Con Mẹ), như lời Mẹ tuyên xưng trong Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hân hoan trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi" (Luca 1:46-47), huống chi là thành phần biệt phái (Pharisiêu) trong dân Do Thái, thành phần bị Chúa Giêsu thậm tệ quở trách là "đồ giả hình", "thứ gian trá", "những hướng đạo viên mù quáng" (xem Mathêu toàn đoạn 23). 

Đời sống và thái độ của họ tỏ ra như thể họ là "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc". Thế nhưng, họ đã hoàn toàn lầm lạc, chỉ sống theo chữ nghĩa của lề luật hơn là tinh thần của lề luật, và sử dụng chính lề luật để xét đoán xấu cùng lên án tha nhân và khinh bỉ thành phần "thu thuế và tội lỗi", nghĩa là để sát hại hơn là để cảm thông và cứu giúp, hoàn toàn ngược với cốt lõi của dự án thần linh, phản lại với cõi lòng yêu thương vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa. Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã khuyên thành phần biệt phái kiêu hãnh về đời sống công chính hoàn toàn giả tạo của họ rằng: "Hãy về mà học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân lành chứ đâu cần lễ tế".
Thiên Chúa tỏ tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài ra ở mạc khải Thánh Kinh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, cho cả tội nhân (bằng việc tha thứ) cũng như chính nhân (bằng việc chăm sóc). Trong bài đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên (23:1-4,19; 24:1-8,62-67), chúng ta cũng thấy lòng nhân lành của Thiên Chúa được tỏ ra qua việc Ngài chăm sóc cho vị tổ phụ Abraham và Isaac con ông, khi Ngài sắp xếp cho người con được sinh ra bởi lời hứa này lấy được người vợ đúng như lòng mong ước của vị tổ phụ, một lòng mong ước trước hết ở chỗ trung thành với tất cả những gì Thiên Chúa muốn, không hề dám làm gì trái ý của Ngài.
Vị tổ phụ này cương quyết không muốn cho người con trai được sinh ra theo lời hứa này của ông lấy con gái xứ Canaan dân ngoại là nơi ông đang sống, và ông cũng không muốn cho người con trai quí báu này của ông lấy bất cứ người con gái nào ở nơi ông đã bỏ đi từ đó mà đến xứ Canaan này, nhưng lấy một người con gái thuộc chính gia tộc của ông. Ông đã dặn người lão bộc đã ở với ông ngay từ đầu như thế, bằng một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng thần linh nhân hậu của Thiên Chúa:
"'Chú hãy đặt tay dưới đùi tôi, và tôi xin chú nhân danh Thiên Chúa là Chúa trời đất, mà thề rằng chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ Canaan, nơi tôi đang sống. Nhưng chú sẽ về quê tôi, đến với họ hàng tôi, mà cưới vợ cho con tôi là Isaac'. Người lão bộc thưa với ông: 'Có thể người đàn bà ấy không chịu đi theo tôi về đất này; vậy tôi có phải đưa cậu con trai ông về đất mà từ đó ông đã ra đi không?' Ông Abraham bảo người ấy: 'Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó! Thiên Chúa là Chúa Trời, Đấng đã đưa tôi ra khỏi nhà cha tôi, khỏi quê hương tôi, Đấng đã phán với tôi và thề với tôi rằng: 'Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này', chính Người sẽ sai sứ thần Người đi trước mặt chú, để từ nơi đó chú cưới vợ về cho con tôi. Nếu người đàn bà không chịu đi theo chú, thì chú không còn buộc phải giữ lời thề với tôi nữa. Nhưng dù sao, cũng đừng đưa con tôi về đó".


Quả thực, qua đoạn Sách Khởi Nguyên không được trích dẫn (vì quá dài), giữa đoạn trên đây và đoạn dưới đây, chúng ta thấy được Thiên Chúa chính là Đấng xe duyên kết nghĩa cho con người được Ngài hứa cho xuất phát một dân tộc đông như sao trời cát biển, nhưng dân tộc đông như sao trời cát biển bao gồm tất cả những ai được cứu độ ấy lại cần phải được chung hưởng gia nghiệp với một giòng dõi được tuyển chọn là dân Do Thái, bắt đầu từ cặp vợ chồng Isaac và Rebeca:

 

"Khi ấy cậu Isaac đã bỏ vùng giếng Beer-lahai-roi, và đang ở trong miền Negeb. Cậu Isaac ra ngoài đồng dạo mát lúc chiều tà. Ngước mắt lên, cậu thấy một bầy lạc đà đang tiến đến. Ngước mắt lên, cô Rebeca thấy cậu Isaac, cô bèn từ trên lưng lạc đà nhảy xuống và hỏi người lão bộc: 'Người đang đi ngoài đồng tiến về phía chúng ta là ai đó?' Người lão bộc trả lời: 'Chủ tôi đấy!' Cô bèn lấy chiếc khăn che mặt. Người lão bộc thưa lại với cậu Isaac tất cả những gì ông đã làm. Cậu Isaac đưa cô Rebeca vào lều của bà Sara mẹ cậu; cậu lấy cô làm vợ, cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ". 



Thứ Bảy



Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 27, 1-5. 15-29

"Giacóp chiếm vị và trộm lấy chúc lành của anh".

Trích sách Sáng Thế.

Isaac đã già, mắt loà không còn trông thấy được nữa. Ông gọi con trai cả là Êsau mà bảo rằng: "Hỡi con". Êsau thưa: "Dạ, con đây". Ông nói tiếp: "Con thấy cha đã già rồi, cha không biết ngày nào cha chết. Con hãy lấy khí giới: cung, tên, rồi đi ra ngoài; khi săn được gì, con hãy lấy mà dọn món ăn mà con biết cha ưa thích, rồi đem cho cha ăn, và cha sẽ chúc lành cho con trước khi cha chết".

Bà Rêbecca nghe lời ấy (...) và khi Êsau ra đồng để thi hành lệnh của cha (...) thì bà lấy áo tốt của Êsau mà bà vẫn giữ trong nhà, đem mặc cho Giacóp. Bà lấy da dê mà bọc tay và quấn cổ Giacóp. Ðoạn bà lấy cháo và bánh đã nấu trao cho Giacóp...

Giacóp bưng lên cho cha mà nói rằng: "Thưa cha". Isaac nói: "Cha nghe rồi. Hỡi con, con là ai?" Giacóp thưa: "Con là Êsau trưởng nam của Cha. Con đã làm như cha dạy, xin cha chỗi dậy, ngồi ăn thịt con đã săn được để cha chúc lành cho con". Isaac lại nói với con: "Hỡi con, lẽ nào con săn được mau như thế?" Giacóp thưa: "Thánh ý Thiên Chúa đã định, nên con chóng được như ý muốn". Isaac bảo rằng: "Hỡi con, con hãy lại đây để cha rờ thử xem con có phải là Êsau con của cha hay không". Giacóp tiến lại gần cha. Isaac rờ con mà nói: "Tiếng nói là tiếng Giacóp, còn tay lại là tay Êsau". Ông không nhận ra được, vì tay (cậu) có lông như tay anh cả. Vậy ông chúc lành cho con mà nói: "Con có phải là Êsau con cha thật không?" Giacóp đáp: "Thưa phải". Ông nói tiếp: "Hỡi con, hãy đem cho cha ăn thịt săn của con, để cha chúc lành cho con". Khi ông ăn đồ con đem đến xong, con ông lại đem rượu cho ông uống. Uống xong, ông bảo con rằng: "Hỡi con, hãy lại đây hôn cha". Giacóp lại gần hôn cha; ông ngửi thấy mùi thơm của bộ áo con, thì chúc lành cho con mà rằng: "Mùi thơm của con ta như mùi hương cánh đồng phì nhiêu mà Chúa đã chúc phúc. Xin Thiên Chúa ban cho con những giọt sương trời, giải đất mầu mở, lúa miến và rượu nho dư đầy. Các dân tộc sẽ suy phục con, các chi họ sẽ sấp mình trước con. Con hãy làm chủ các anh em con, các con cái của mẹ con sẽ phủ phục trước mặt con. Ai nguyền rủa con, thì sẽ bị nguyền rủa; và ai chúc lành cho con, thì sẽ được đầy phúc lành".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 134, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Các ngươi hãy ngợi khen Chúa, vì Người nhân hậu (c. 3a).

Xướng: 1) Các ngươi hãy ngợi khen danh Chúa, hãy ngợi khen Chúa, hỡi các tôi tớ của Người là những kẻ đứng trong nhà Chúa, trong tiền đường nhà Chúa chúng ta. - Ðáp.

2) Các ngươi hãy ngợi khen Chúa, vì Người nhân hậu; hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người rất ngọt ngào. Vì Chúa đã chọn Giacóp cho mình, đã chọn Israel làm sở hữu. - Ðáp.

3) Tôi đã nhận biết Chúa cao cả, Thiên Chúa chúng tôi vượt lên trên hết thảy các thần. Mọi sự Chúa muốn Chúa đã làm, trên trời dưới đất, trong biển và nơi các vực thẳm. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 14-17

"Làm sao các phù rể có thể buồn rầu khi tân lang còn đang ở với họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, [Chúa Giêsu sang miền Giêsarênô,] các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?" Chúa Giêsu nói với họ rằng: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay. Không ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vải mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Mt 9, 14-17


Suy Niệm

"rượu mới bầu mới"

Bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 9:14-17), Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên, ghi lại câu trả lời của Chúa Giêsu về vấn đề được "các môn đệ ông Gioan" (Tẩy Giả) đặt ra: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisiêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?".

Câu trả lời của Chúa Giêsu cho họ là: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay. Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai".
Bài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, mà bài Phúc Âm hôm qua về việc Chúa Giêsu cùng với các môn đệ của Người ngồi ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi ở nhà viên thu thuế Mathêu sau khi chàng được Người kêu gọi theo Người. Có thể vì thế mà việc thày trò của Người mới trở thành vấn đề (gương mù) ngứa mắt cho thành phần môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả  vốn chay tịnh nhiệm nhặt theo gương thày của họ. 
Bởi vì, thành phần môn đệ của vị tiền hô ấy chắc chắn không thể nào quên được những gì vị thày rất khả kính của họ đã hết lời nói hay nói tốt về Đức Kitô là "một Đấng đến sau nhưng cao trọng hơn tôi, tôi không đáng cởi giây giầy cho Người" (Gioan 1:27). Thế mà giờ đây nhân vật được thày họ ca tụng hết mình ấy lại ngồi "ăn nhậu" ngon lành với bọn thu thuế và tội lỗi đáng khinh bỉ và xa lánh trong xã hội!

Tuy nhiên, trong câu chất vấn của những người môn đệ theo Tiền Hô Gioan Tẩy Giả không hề đặt vấn đề với chính Chúa Giêsu mà chỉ đặt vấn đề về các môn đệ của Người mà thôi 
"Tại sao chúng tôi và các người Pharisiêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?". Có lẽ họ thấy các môn đệ hầu hết có vẻ quê mùa của Người ăn uống một cách tự nhiên thoải mái không kiêng cữ gì, chẳng những lần này ở nhà của viên thu thuế Mathêu mà còn ở những lần khác nữa hay chăng, trong khi Chúa Giêsu Thày của họ có ngồi chung bàn ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi cũng vẫn tỏ ra tư cách xứng đáng là một bậc sư phụ của các vị.
Trong câu trả lời của mình, Chúa Giêsu đã ám chỉ Người là "chàng rể" và các môn đệ của Người là thành phần "khách dự tiệc cưới". Không biết nhóm môn đệ chất vấn Chúa Giêsu có hiểu câu trả lời bóng bẩy nhưng đầy ý nghĩa sâu xa của Người hay chăng. 
Chỉ biết rằng, Người cố ý nói là khi Người còn ở với các môn đệ và sống với các môn đệ thì các vị chưa cần phải chay tịnh, "cho đến khi chàng rể bị đem đi rồi thì bấy giờ họ mới ăn chay", nghĩa là cho tới khi Người "đi để dọn chỗ cho các con" (Gioan 14:3), tức là "đi" tử nạn, nhờ đó cho dù "các con sẽ than van khóc lóc còn thế gian thì hân hoan, nhưng nỗi sầu thương của các con trong một thời gian sẽ trở thành niềm vui" (Gioan 16:20), như hai tông đồ Phêrô và Gioan đã cảm thấy "tràn đầy hân hoan" chính khi các vị bị cấm đoán và hành hạ (xem Tông Vụ 5:41). 
Trường hợp của hai tông đồ Phêrô và Gioan này đúng là trường hợp "rượu mới thì đổ vào bầu mới": nếu "rượu mới" đây ám chỉ giáo huấn trọn lành của Chúa Kitô, thì "bầu mới" (chứ không phải "bầu cũ" ám chỉ tinh thần vị luật như khuynh hướng và lối sống của nhóm luật sĩ và biệt phái) để có thể đựng thứ "rượu mới" này đó là tinh thần vị tha, là "lòng nhân lành" mà Chúa Kitô đã mong muốn trong bài Phúc Âm hôm qua, một "lòng nhân lành" rất thích hợp với thứ "rượu mới" là "giới răn mới" của Người (Gioan 13:34), và nhờ đó mới có thể hiện thực "giới răn mới" này được: ở chỗ "các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34). 

B
ài đọc 1 hôm nay, trích từ Sách Khởi Nguyên (27:1-5,15-29), cũng cho thấy hai tính cách tương phản, chay tịnh (vất vả) và tiệc cưới (hân hoan), ở chỗ, trong khi Esau cần phải vất vả mới có thể đáp ứng những gì cha yêu cầu nhờ đó mới được cha chúc phúc cho, trong khi đó Giacóp lại chiếm được phúc của cha một cách dễ dàng vui vẻ không vất vả như anh của mình, nhờ có bà mẹ khôn khéo là Rebeca.

Thật vậy, bà Rebeca đã tỏ ra yêu con thứ hơn con trưởng, bởi Giacóp dường như luôn quanh quẩn ở nhà với mẹ, vụng về chứ không tài giỏi xông xáo như anh, nhưng lại dễ nghe lời mẹ và hoàn toàn cậy dựa vào mẹ của mình, nên được mẹ chăm sóc đặc biệt, nhất là trong lần được cha chúc phúc này, ở chỗ, bà chẳng những mách bảo ý định của cha cho Giacóp biết
, mà còn tìm cách giúp cho Giacóp vừa không bị lộ lại vừa thỏa đáng món ăn cha thích. Sách Khởi Nguyên trong bài đọc hôm nay đã trình thuật như sau:
"Đang khi ông Isaac nói với Esau, con trai ông, thì bà Rebeca nghe được. Esau đi ra đồng để săn thú mang về.

Bà Rebeca lấy áo của Esau, con trai lớn của bà, áo sang nhất mà bà có ở nhà, và mặc cho Giacóp, con trai nhỏ của bà. Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và phần cổ nhẵn nhụi của cậu. Rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay Giacóp, con bà".

 

"Gia-cóp thưa với cha: 'Con là Esau, con trưởng của cha; con đã làm như cha bảo. Mời cha ngồi dậy xơi món thịt rừng của con, để cha đích thân chúc phúc cho con'. Ông Isaac hỏi con: 'Con ơi ! sao con tìm được mau thế?' Cậu thưa: 'Chúa, Thiên Chúa của cha, đã cho con gặp được may mắn'. Ông Isaac bảo Giacóp: 'Con ơi, lại gần đây, để cha rờ con, xem con có đúng là Esau, con cha, hay không'. Gia-cóp lại gần ông Isaac, cha ông; ông rờ cậu và nói: 'Tiếng thì tiếng Giacóp, mà tay là tay Esau'. Ông không nhận ra cậu, vì tay cậu lông lá như tay Esau, anh cậu; thế là ông chúc lành cho cậu. Ông hỏi: 'Con có đúng là Esau, con cha không?' Cậu thưa: 'Vâng, chính con'. Ông nói: 'Con ơi, bưng lại cho cha ăn món thịt rừng, để cha đích thân chúc phúc cho con'. Cậu bưng lại cho ông, ông ăn; rồi cậu đem rượu đến, ông uống. Ông Isaac, cha cậu, bảo: 'Con ơi, lại gần đây và hôn cha đi!' Cậu lại gần và hôn ông. Ông hít mùi áo cậu và chúc phúc cho cậu".