SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Thường Niên Tuần II Năm C (CN) và Năm Lẻ (Ngày trong tuần)

 

 

Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Đọc I: Is 62, 1-5

"Người chồng sẽ vui mừng vì vợ".

Bài trích sách Tiên tri Isaia.

Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến khi Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi, ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là "kẻ Ta ưa thích", và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa, và đất ngươi sẽ có dân cư.

(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi.

Đó là lời Chúa.

 

Đáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 7-8a. 9-10ac

Đáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân (c. 3).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Đáp.

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Đáp.

3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. - Đáp.

4) Hãy mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Đáp.

 

Bài Đọc II: 1 Cr 12, 4-11

"Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định".

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.

Anh em thân mến, có những hồng ân khác nhau, nhưng vẫn là một Thánh Thần; có nhiều chức vụ khác nhau, nhưng chính là một Chúa; và có những hành động khác nhau, nhưng chính là một Thiên Chúa, Người thực hiện hết mọi cái trong mọi người. Ơn Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích. Người thì được Thánh Thần cho lời khôn ngoan, kẻ khác thì được lời thông minh, theo cùng một Thánh Thần; người khác được đức tin, trong cùng một Thánh Thần; kẻ khác nữa được ơn chữa bệnh, trong cũng một Thánh Thần đó; có người được ơn làm phép lạ, có kẻ được ơn tiên tri, người khác được ơn phân biệt các thần trí; có người được ơn nói nhiều thứ tiếng; người khác được ơn giải thích các thứ tiếng. Nhưng cùng một Thánh Thần duy nhất thực hiện tất cả những điều đó. Người ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định.

Đó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 2, 1-12

"Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". Chúa Giêsu nói với mẹ: "Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến". Mẹ Người nói với những người giúp việc: "Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo". Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy đổ nước đầy các chum". Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!" Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: "Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này". Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.

{Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.}

Đó là lời Chúa.

 



Suy niệm

 

 

Đức Kitô Tỏ Hiện


Hôm nay, Chúa Nhật Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh Chu Kỳ Năm C, phụng vụ Lời Chúa vẫn thật sự phản ảnh chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân ".


Thật
 vậy, ngay trong Bài Đọc 1 hôm nay, hình như là chính Tiên Tri Isaia (62:1-5), trong phần được gọi là những bài ca của lần trở về đầu tiên từ Babylon (60:1 - 62:12), đã tiên báo về "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này ở ngay câu mở đầu như thế này: 


"Vì
 Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến khi Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người".


Phải
, "Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời... và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Ngườiđây còn là ai khác ngoài "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". Vì Người là "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, và chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người" (Gioan 1:14), bởi Người là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).


Chính nhờ "Đấng công chính" này, nhờ "Đấng cứu độ Sion" này mà "Sion" (thành của Vua Đavít, ám chỉ riêng triều đại của vị vua là cha ông của Đấng Thiên Sai) và "
Giêsusalem" (Thành Thánh của chung dân Do Thái, nơi có Đền Thánh như ngai tòa Thiên Chúa ngự ở giữa dân của Ngài), như viễn tượng được Tiên Tri Isaia báo trước rất phấn khởi và đầy huy hoàng như sau:


"C
hính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi, ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là 'kẻ Ta ưa thích', và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa, và đất ngươi sẽ có dân ".


Phải chăng thành phần 
"dân cư" trong viễn tượng của Tiên Tri Isaia về tương lai huy hoàng ngời sáng của một triều đại Đavít ("Sion") trường tồn (xem Luca 1:33) cũng như của thành phần dân Chúa ("Giêrusalem") không phải chỉ có Do Thái mà còn bao gồm cả các dân ngoại nữa, vì Đấng Thiên Sai của riêng dân Do Thái cũng chính là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại

"(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi" trong viễn tượng của Tiên Tri Isaia ở phần kết của Bài Đọc 1 hôm nay nghĩa là gì, nếu không phải chính vì "con cái ngươi sẽ ở trong ngươiám chỉ dân ngoại cũng được thông hưởng gia nghiệp với dân Do Thái như thế mà dự án cứu độ của Thiên Chúa mới thật sự nên trọn, và vì thế Ngài mới hoàn toàn mãn nguyện nơi dân của Ngài và về dân của Ngài, được Ngài tuyển chọn để tỏ mình ra cho họ và qua họ cho dân ngoại.

Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay thật sự đã chất chứa và vang lên tâm tình tràn đầy tính cách phổ quát
 và công giáo của Ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa muốn ban cho cả dân Do Thái lẫn dân ngoại nơi "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " và nhờ "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân ", một Vị Thiên Chúa cần phải được "toàn thể địa cầu" ngợi khen chúc tụng như sau:

1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên chúa, hãy chúc tụng danh Người. 

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. 

3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. 

4) Hãy mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. 

Đúng thế, ơn gọi và sứ vụ của dân Do Thái, một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, có tính cách đại đồng và bao gồm chung nhân loại. Đó là đường lối của Thiên Chúa, Đấng Quan Phòng Thần Linh và là Chủ Tể Lịch Sử loài người, một đường lối được vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô cảm nhận thấy và đã khẳng định rất chính xác với Giáo Đoàn Côrintô trong Bài Đọc 2 hôm nay là: 1- "Thiên Chúa... thực hiện hết mọi s trong mọi người", 2- "Ơn Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích"; 3-  "Người ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định".

Chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " lại càng được tỏ hiện rõ nét hơn nữa trong bài Phúc Âm hôm nay, một bài Phúc Âm được Thánh ký Gioan nêu lên một ghi chú rất chính xác với chủ đề này khi ngài kết luận rằng: "Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người".

Chính câu ghi chú kết luận đoạn Phúc Âm về biến cố tiệc cưới Cana ấy mới cho chúng ta thấy được tất cả ý nghĩa và lý do sâu xa tại sao lại có biến cố tiệc cưới Cana, một biến cố có vẻ phàm tục và quá ư là nhỏ mọn chẳng đáng kể gì, như việc thiếu rượu là nhu cầu vật chất của một đôi tân hôn xa lạ nào đó, mà lại được Thánh ký Gioan trịnh trọng thuật lại trong Phúc Âm của mình là Phúc Âm liên quan đến thiên tính siêu việt của Chúa Kitô cũng như đến mầu nhiệm về Giáo Hội, và còn thuật vào ngay đầu đoạn thứ hai là đoạn mở đầu cho sứ vụ Thiên Sai của Chúa Kitô liên quan đến phần rỗi đời đời của chung nhân loại. 

Biến cố tiệc cưới Cana được Thánh ký Gioan thuật lại có những chi tiết đặc biệt rất thích đáng và tương hợp với bản chất "đầy ân sủng và chân lý" của "Người Con duy nhất đến từ Cha", đó là chi tiết: "Họ hết rượu rồi" và chi tiết "hãy đổ nước đầy các chum". Biến cố tiệc cưới Cana trong bài Phúc Âm hôm nay có thể coi như là một dụ ngôn về Nước Thiên Chúa đầu tiên Chúa Giêsu muốn dạy cho thành phần 4 người môn đệ tiên khởi cũng là thành phần môn đệ ưu tú của Người. 

Nếu Nước Thiên Chúa đây là tất cả những gì "đầy ân sủng và chân lý" nơi "Người Con duy nhất đến từ Cha" thì "rượu" đây ám chỉ tinh thần của con người, một tinh thần bởi nguyên tội đã không còn ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, và "nước" đây ám chỉ tấm lòng khao khát thần linh và sự sống đời đời, mà càng khốn khổ ("hết rượu") bởi nguyên tội, con người lại càng mong chờ Ơn Cứu Chuộc, mong chờ "Nước Thiên Chúa đến" (Marco 1:15), nhưng chỉ đến với những ai "đầy" lòng khao khát và trông đợi ở chỗ "hoán cải và tin vào Phúc Âm" (Marco 1:15). 

Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy những điểm chính yếu sau đây: 

1- Thiên Chúa luôn muốn tỏ mình ra cho con người để họ có thể nhận biết Ngài và tin tưởng vào Ngài, nhờ đó mà được hiệp thông thần linh với Ngài, sống sự sống thần linh của Ngài, với Ngài và như Ngài

2- Ngài đã lợi dụng tất cả mọi hoàn cảnh của con người để tỏ mình ra, mà hoàn cảnh của họ càng đau thương khốn khổ lại càng thuận lợi cho việc tỏ mình ra của Ngài và càng sáng tỏ việc Ngài tỏ mình ra cho h

3- Về phần mình, con người cần phải làm sao để có được một tấm lòng luôn khao khát thần linh, luôn tràn đầy hy vọng, luôn trông đợi Ơn Cứu Độ, và chân thành tin tưởng vào Đấng duy nhất có thể cứu độ họ.

Tuy nhiên, không thể nào không nói đến vai trò bất khả thiếu của đệ nhất tạo vật về ân sủng là "Mẹ của Chúa Giêsu", một nữ nhân vật mà chắc không ai trong bữa tiệc cưới ở Cana này, thậm chí kể cả 4 chàng môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu cũng có mặt ở đó bấy giờ là Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan, có thể biết được quyền thế siêu việt của bà mẹ trung niên này.

Thánh ký Gioan, ngay câu đầu bài Phúc Âm hôm nay, đã cho biết rằng "ở đó" có cả "Mẹ của Chúa Giêsu" nữa. Có cái hay và trùng hợp ở Phúc Âm Thánh ký Gioan là, Mẹ Maria chỉ xuất hiện duy có 2 lần trong cuốn Phúc Âm thứ 4 này. Thế nhưng, lại là hai lần đều "ở đóvới Chúa Giêsu: lần đầu "ở đó" là ở tiệc cưới Cana và lần cuối "ở đó" là ở dưới chân cây thập tự giá của Người. Hình ảnh liên kết giữa hai mẹ con thần linh này trong Phúc Âm của Thánh ký Gioan như ám chỉ là hai mẹ con ấy bất khả phân ly, không thể nào thiếu nhau trong công cuộc cứu độ trần gian - ở đâu có Con thì ở đó có Mẹ, hay ngược lại ở đâu có Mẹ thì ở đó có Con.

Nếu ở đâu có Con thì ở đó có Mẹ, như ở Sọ Trường trên Đồi Canvê: "Đứng kề thập giá của Chúa Giêsu có mẹ của Người..." (trong câu Phúc Âm Gioan 19:25 này Chúa Giêsu được kể đến trước), thì ở đâu có Mẹ thì ở đó có Con, như ở trong bữa tiệc cưới Cana lần này: "Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới" (trong câu Phúc Âm này Mẹ Maria được kể đến trước)

Quả thật, căn cứ vào trình thuật của Thánh ký Gioan về biến cố tiệc cưới Cana này thì phải công nhận là Mẹ Maria thật sự đóng vai chính, vai chủ động, với sứ mệnh làm môi giới cho loài người với Con Mẹ, và vai trò làm tiền hô để dọn đường cho việc tỏ mình ra của Con Mẹ: Mẹ đã làm môi giới cho loài ngườiở chỗ, Mẹ đã thấy được tình trạng "hết rượu" của bữa tiệc cưới, rồi Mẹ đi trình bày với Con Mẹ (chứ không cầu xin hay đòi hỏi), và Mẹ đã làm tiền hô cho Con Mẹ, ở chỗ, Mẹ đã tự động bảo thành phần phục tiệc là "Người bảo gì các anh hãy làm theo như thế". 

Nếu sau biến cố Chịu Phép Rửa ở Chúa Nhật thứ nhất mở màn cho Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, các bài Phúc Âm cho Chúa Nhật thứ hai tuần này Giáo Hội cố ý chọn các bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, các bài Phúc Âm liên tục nhau và mật thiết liên hệ với nhau cả về diễn tiến của các biến cố cũng như về ý nghĩa từ từ tỏ mình ra của Chúa Giêsu, thứ tự theo chu kỳ A, B và C: 

Chu kỳ A: bài Phúc Âm  (Gioan 1:29-34) liên quan đến sự kiện Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu Người với chung dân Do Thái vào "ngày hôm sau - next day", tức là sau ngày hôm trước là ngày xẩy ra biến cố thánh nhân làm phép rửa cho Người; 

Chu kỳ B: bài Phúc Âm (1:35-42) liên quan đến sự kiện Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu Người với riêng các môn đệ của thánh nhân vào "ngày hôm sau - next day", tức là ngày thứ hai sau khi Người lãnh nhận phép rửa, và "ngày hôm đó" hai người môn đệ bấy giờ của thánh nhân đã "đến mà xem chỗ Người ở", chứ Người chưa chủ động tỏ mình ra cho họ. Cũng có thể "ngày hôm sau" này được hiểu là sau biến cố Chúa Giêsu chay tịnh 40 ngày trong hoang địa (ở Xứ Giuđêa, chắc cũng ở gần khu vực hoang địa của Tiền Hô Gioan, do đó Người mới trở lại với Gioan Tiền Hô như bài Phúc Âm thuật lại). Và chỉ sau đó Người mới bắt đầu sửa soạn sang Galilêa, như ngay trong bài Phúc Âm cho thấy, và mới bắt đầu tuyển môn đệ;

Chu kỳ C: bài Phúc Âm (2:1-12) được mở đầu bằng cụm từ "vào ngày thứ ba", thời điểm mà nếu không kể "ngày hôm sau" (Gioan 1:29) đầu tiên có thể xẩy ra sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, thì "ngày thứ ba" ở bài Phúc Âm Chúa Nhật II Năm C này là thời điểm sau hai lần nữa của "ngày hôm sau" (Gioan 1:35) và "ngày hôm sau" (Gioan 1:43), tức là vào thời điểm Người đã gặp gỡ 4 môn đệ đầu tiên ở "ngày hôm sau" (1:35), trong đó có 2 môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, và thời điểm "ngày hôm sau" (1:43) Người đã về Galilêa, nhờ đó Người mới có thể hiện diện và tỏ mình ra ở Tiệc Cưới Cana lần đầu tiên, (qua môi giới của Mẹ Người, Người Mẹ đóng vai như một tiền hô dọn đường cho Người), "để các môn đệ tin Người", một "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân ". 


Trong Bài Phúc Âm mở đầu đoạn 2 của Phúc Âm Thánh Gioan được Giáo Hội sử dụng cho Chúa Nhật II Thường Niên sau Chúa Nhật Chúa Giêsu Chịu Phép rửa, chúng ta thấy có một số chi tiết rất đáng chú ý và cần tìm hiểu, để nhờ đó phần nào nắm bắt được ý nghĩa và nội dung của bài Phúc Âm cho thấy sự kiện Chúa Kitô bắt đầu tỏ mình ra cho các môn đệ của Người ở tiệc cứới Cana. Đó là những chi tiết: "6 chum nước", "đổ nước đầy các chum", "rượu ngon hơn trước", "Mẹ Chúa Giêsu cũng ở đó" và "vào ngày thứ ba".

"6": nếu liên kết với các chi tiết khác thì con số "6" ở đây ám chỉ cuộc khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô, vì cuộc khổ nạn này đã xẩy ra vào ngày thứ 6 trong tuần, ngày cuối cùng tuần lễ theo Do Thái giáo, ngày "hết" một tuần lễ.

"đổ nước đầy các chum"
:
chum nước ở đây là những chum nước đựng nước rửa chân cho sạch theo tục lệ của người Do Thái, ám chỉ lòng thống hối của con người cần phải trọn vẹn và thật tình, một yếu tố bất khả thiếu để được thanh tẩy, được tha thứ, để lãnh nhận ở cứu độ được Chúa Kitô hoàn tất vào ngày Thứ 6.

"rượu ngon hơn trước": ám chỉ Thánh Linh, được thông đạt cho các tông đồ sau khi Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng "đến cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10),
nhất là sau khi Chúa Kitô Thăng Thiên về cùng Cha và sai Thánh Thần bởi trời và từ Cha ngự xuống trên các tông đồ vào Lễ Ngũ Tuần của Do Thái giáo, nhờ đó các ngài đã được "sống viên mãn", ở chỗ đầy Thánh Linh, như thể "đầy rượu" trước mặt trần gian vậy.

"Mẹ Chúa Giêsu cũng ở đó": ám chỉ và báo hiệu Mẹ Maria sẽ đứng dưới chân thập tự giá của Chúa Giêsu Con Mẹ (xem Gioan 19:25) - nếu ở tiệc cưới Cana Mẹ đã đóng vai trò môi giới giữa con người và Chúa Kitô, để làm cho Con có thể tỏ vinh quang của Người ra nơi nhân loại thế nào, thì ở dưới chân thập tự giá của Chúa, Mẹ cũng thay thế cho toàn thể nhân loại và riêng Giáo Hội đón nhận Chúa Kitô cùng với Ơn Cứu Độ của Người bằng tất cả đức tin tuân phục đầy ơn phúc của Mẹ, nhờ đó Mẹ đã sinh Chúa Kitô ra cho nhân loại và tái sinh nhân loại trong Chúa Kitô, và trở nên Mẹ Giáo Hội.

"vào ngày thứ ba": Ở ngay đầu bài Phúc Âm, chữ "khi ấy" được Giáo Hội sử dụng trong phụng vụ Chúa Nhật II Thường Niên Năm C, để thay cho 4 chữ "vào ngày thứ ba" theo đúng Phúc Âm. Tuy nhiên, 4 chữ "vào ngày thứ ba" này có liên hệ mật thiết đến chi tiết "rượu ngon hơn trước", bởi vì cụm từ "vào ngày thứ ba" ám chỉ sự kiện Chúa Kitô Phục Sinh và thông ban Thánh Linh của Người cho các tông đồ, để các ngài được tái sinh nhờ đó được sống viên mãn khi Thánh Thần ngự xuống trên các ngài.

Tóm lại, bài Phúc Âm Chúa Kitô tỏ mình ra ở tiệc cưới Cana này là bài Phúc Âm cho thấy hay tiên báo toàn bộ công cuộc cứu độ của Chúa Kitô, Đấng sẽ tỏ tất cả bản thân của mình ra là Vị Thiên Sai Cứu Thế ở cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc vượt qua từ tử giá ("
6") tới Phục Sinh ("vào ngày thứ ba"), để chẳng những cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết, mà còn ban cho con người sự sống và là sự sống viên mãn hơn ("rượu ngon hơn trước"), miễn là con người biết thật lòng "ăn năn hối cải và tin vào Phúc Âm" ("đổ nước đầy các chum").


 

 

Thứ Hai


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (năm I) Dt 5, 1-10

"Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Tất cả các vị Thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa kêu gọi, như Aaron. Cũng thế, Ðức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Ðấng đã nói với Người rằng: "Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con". Cũng có nơi khác Ngài phán: "Con là Tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê". Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người. Người được Thiên Chúa gọi là Thượng tế theo phẩm hàm Menkixêđê.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 109, 1. 2. 3. 4.

Ðáp: Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).

Xướng: 1) Thiên Chúa đã tuyên bố cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới chân Con". - Ðáp.

2) Ðức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rằng: "Con hãy thống trị giữa quân thù". - Ðáp.

3) Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: trước rạng đông, tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con". - Ðáp.

4) Ðức Thiên Chúa đã thề và không hối hận rằng: "Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê". - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 2, 18-22

"Tân lang còn ở với họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay. Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Mk 2, 18-22

 


Suy niệm

 

Đức Kitô Tân Lang   

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai đầu Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh, vẫn tiếp tục chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh. Ở chỗ nào?

Bài Phúc Âm Chúa Nhật II Thường Niên hậu Giáng Sinh Chu Kỳ Phụng Vụ Năm C hôm qua về tiệc cưới Cana, một biến cố cần phải có để mở màn cho việc Chúa Kitô tỏ mình ra cho các môn đệ tiên khởi của Người, nhờ đó đã làm cho các vị tin vào Người.

Bài Phúc Âm hôm nay, để trả lời cho vấn nạn được "môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay" đặt ra "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?", Chúa Giêsu đã tự ví mình và tự nhận mình là "tân lang", và cho biết lý do các môn đệ của Người được Người ví như là thành phần "các khách dự tiệc cưới", không ăn chay như thành phần đặt vấn đề với Người đó là vì "tân lang còn ở với họ". 

Thật vậy, sở dĩ "các môn đồ Ngài lại không ăn chay?" bởi vì Người "còn ở với họ", tức là Người còn đang cần thời gian để tiếp tục và từ từ tỏ mình ra cho họ để họ có thể hân hoan vui sướng nhận biết Người mỗi ngày một hơn, và càng nhận biết Người họ càng kính phục Người và yêu mến Người, nhờ đó họ mới có thể trở thành chứng nhân tiên khởi của Ngưi và cho Người, đúng như ý nguyện và mục đích Người tuyển chọn họ làm nhóm 12 của Người.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà các môn đệ của Người không phải chay tịnh, một thứ chay tịnh nếu có và nếu cần lại hoàn toàn không phải như thành phần "môn đồ của Gioan và các người biệt phái" đã làm, mà là một thứ chay tịnh không còn được ở với Người nữa, không còn được thấy Người tận mắt, nghe Người tận tai và động chạm đến Người tận tay (xem 1Gioan 1:1), trái lại các vị chỉ giao tiếp với Người hoàn toàn bằng đức tin thuần túy trong tăm tối của giác quan và cảm thức, nghĩa là "ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay", ở chỗ "Các con sẽ than khóc trong khi thế gian vui mừng" (Gioan 16:20).

Thế nhưng, việc chay tịnh hay cách chay tịnh của các môn đệ Chúa Giêsu này không phải là những gì hủy hoại mà là những gì thăng hoa, thăng tiến, hoan hỉ: "Nếu các con yêu mến Thày thì các con phải vui mừng vì Thày về cùng Cha vì Cha là Đấng cao trọng hơn Thày" (Gioan 14:28). Bởi vì, nhờ Thày về cùng Cha là Đấng cao trọng hơn Thày với tư cách Ngài là Đấng đã sai Thày như thế mà các vị, cho dù không còn thấy và ở với Người nữa, mới càng nhờ thế có thể đạt đến chỗ thần hiệp nên một với Người: "Thày ở đâu các con cũng được ở đó" (Gioan 14:3).

Như thế, trong chính sự vắng bóng của mình, khuất dạng của mình, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " lại càng tỏ mình ra hơn bao giờ hết, lại càng hiển linh hơn hết... trước con mắt thuần túy đức tin siêu nhiên của các môn đệ Người. 

Đó là lý do phần còn lại của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mới nói thêm những lời quan trọng và thiết yếu cho việc sống đạo sau đây: "Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".

Cái "mới"  "cũ" được Chúa Giêsu đề cập tới trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến vấn đề chay tịnh đây là gì, nếu không phải cái "mới" đây là đức tin (của Tân Ước) và cái "" đây là nghi thức hay hình thức hoặc lễ vật bề ngoài (của Cựu Ước), và vì thế, "rượu mới" và "bầu da mớiđây chính là "tinh thần và chân lý" được Chúa Giêsu nói đến trong trường hợp Người trao đổi với người phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp về thực tại "Thiên Chúa là Thần Linh nên những ai tôn thờ Thiên Chúa đích thực thì cũng phải tôn thờ Ngài trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24).  

Nếu "áo cũ" bị rách đây ám chỉ luật Moisen hay Luật Cũ, chẳng hạn "mắt đền mắt răng đền răng" (Mathêu 5:38) hay "yêu đồng hương và ghét kẻ thù" (Mathêu 5:43), là những gì Chúa Kitô đến không phải để phá hủy hay xé nát, mà là để làm cho nên trọn (xem Mathêu 5:17) thì "vải mới" đây là chính "giới răn mới" Người ban cho các tông đồ và chung Giáo Hội trong Bữa Vượt Qua. Và nếu "bầu da cũ" ám chỉ tinh thần duy luật và thái độ giả hình và tư duy tự mãn, như nơi thành phần luật sĩ và biệt phái, thì "rượu mới" đây ám chỉ Thánh Linh chỉ thích hợp với "bầu da mới" đây là tinh thần bé nhỏ, bác ái yêu thương nhân hậu.

Nếu bài Phúc Âm cho Chúa Nhật II Thường Niên theo Thánh Gioan, cho cả 3 chu kỳ Phụng vụ A-B-C, và Bài Phúc Âm Năm C là bài chính, bởi 2 bài Phúc Âm cho Năm A và B đều hướng về bài Phúc Âm Năm C là bài Phúc Âm Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ đầu tiên của Người ở tiệc cưới Cana, trong đó, vị quản tiệc đã trách "tân lang" không tiếp "rượu ngon hơn trước" mà để dành cho đến khi khách ngà ngà mới tiếp, một thứ "rượu ngon hơn trước" ám chỉ hoa trái cứu chuộc của Chúa Kitô là Thánh Linh chỉ xuất hiện vào "thời sau hết" (Do Thái 1:1), vào thời cánh chung, chứ không phải từ ban đầu, từ khi con người mới được tạo dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27).

Thế rồi, hình như không hẹn mà họ, bài Phúc Âm cho Thứ Bảy trước Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã cho thấy niềm vui của ngài được nên trọn khi ngài chỉ là "người phù rể của tân lang (the groom's best man)" được nghe thấy tiếng của tân lang là Chúa Kitô. Và Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần 2 Thường Niên lại xuất hiện hình ảnh một "tân lang" trong câu Chúa Giêsu trả lời cho các môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả. Nếu chung Cựu Ước và riêng vai trò của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là phù rể của "tân lang" Giêsu thì Giáo Hội tân ước nói chung qua các tông đồ là hiền thê của Người, được xuất phát "như máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người" (Gioan 19:34)!


 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (năm I) Dt 6, 10-20

"Chúng ta có một niềm tin đặt trước mặt như chiếc neo chắc chắn và bền vững".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Thiên Chúa không bất công đến nỗi quên công trình của anh em và lòng bác ái anh em đã tỏ ra vì danh Người, anh em là những người đã phục vụ và hiện đang phục vụ các thánh. Chúng tôi mong ước mỗi người anh em thi thố cũng một lòng hăng hái đó để giữ vững niềm hy vọng đến cùng, ngõ hầu anh em không trễ nải, nhưng sẽ noi gương những kẻ nhờ tin tưởng và kiên nhẫn mà hưởng thụ các điều đã hứa.

Quả thật, khi Thiên Chúa hứa cùng Abraham, Người không dựa vào ai lớn hơn mà thề, nhưng dựa vào chính Mình mà thề rằng: "Ta sẽ chúc phúc cho ngươi và sẽ cho ngươi sinh sản ra nhiều". Do đó, Abraham kiên nhẫn chờ đợi, nên được hưởng lời hứa. Vì chưng, loài người dựa vào kẻ lớn hơn mình mà thề, và lời thề được coi như bảo chứng chấm dứt mọi tranh tụng. Cũng vậy, vì Thiên Chúa muốn minh chứng cho những kẻ hưởng thụ lời hứa ý định bất di bất dịch của Người, nên đã làm lời thề, để nhờ hai điều bất di bất dịch mà Thiên Chúa không thể sai lời, thì chúng ta là những người tìm ẩn náu nơi niềm hy vọng đã ban cho chúng ta, chúng ta có một nguồn yên ủi chắc chắn. Trong niềm hy vọng đó, linh hồn chúng ta có một chiếc neo chắc chắn và bền vững, cắm vào tận bên trong bức màn, nơi Ðức Giêsu đã vào như vị tiền phong của chúng ta, Người được phong làm Thượng tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 4-5. 9 và 10c

Ðáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi. - Ðáp.

2) Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thật là Ðấng nhân hậu từ bi. Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. - Ðáp.

3) Chúa đã gởi tặng ơn giải phóng cho dân Người, đã thiết lập lời minh ước tới muôn đời, danh Người thực là thánh thiện và khả uý. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại đến muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 2, 23-28

"Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?" Người trả lời rằng: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?" Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm



  Đức Kitô
 Chủ Tể  


Ngày Thứ Ba hôm nay, trong Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh được tỏ hiện ngay lời tuyên bố của Chúa Kitô về chính bản thân Người rằng: "Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".

Thật
 thế, câu tuyên bố này của Người xẩy ra trong trường hợp đưọc bài Phúc Âm hôm nay thuật lại là "vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: 'Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?'". 

T
rong câu giải đáp của mình cho lời trách móc hơn là vấn nạn của những người biệt phái bấy giờ, Chúa Giêsu bề ngoài có vẻ như biện minh cho hành động các môn đệ của Người làm khiến cho các người biệt phái ấy ngứa cặp mắt duy luật của họ, thế nhưng thật ra Người có ý bênh vực tinh thần của lề luật để giúp cho chính những người biệt phái y thấy được tất cả sự thật về luật lệ mà họ thông thạo và hằng tuân thủ một cách chặt chẽ và nghiêm chỉnh, nhờ đó họ có thể sống đẹp lòng Thiên Chúa hơn.

T
rước hết, như trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Người đã dẫn chứng một trường hợp không được phép làm mà vẫn được làm trong trường hợp khẩn cấp ở trong Cựu Ước liên quan đến "điều mà Vua Đavít làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?"

S
au nữa, từ trường hợp không được phép làm mà vẫn được làm trong trường hợp khẩn cấp ở trong Cựu Ước liên quan đến Vua Đavít ấy, Chúa Giêsu đã đi đến kết luật liên quan đến tinh thần của lề luật là những gì trực tiếp liên hệ tới mục đích của lề luật như sau: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbatcho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat". 

C
ó nghĩa là luật lệ được lập ra và ban bố là vì loài người, để phục vụ loài người như chủ nhân ông của nó, như là mục tiêu của nó, hầu mang lại lợi ích thiêng liêng cho họ, giúp họ thăng tiến, vươn lên, được cứu độ, chứ không phải để hủy diệt họ, khiến họ bị mất tự do, biến họ trở thành nô lệ lề luật, khi lề luật không còn thuần túy là một phương tiện cho họ mà là cùng đích của con người, nhất là đối với thành phần duy luật, thành phần cần phải được giải cứu cho khỏi cảnh làm nô lệ cho lề luật, nhờ bởi "Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat", như Người làm cho họ trong bài Phúc Âm hôm nay. 

N
hững gì "" kỹ được Chúa đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm qua có liên quan mật thiết đến những gì Người nói về lề luật trong bài Phúc Âm hôm nay: "áo cũđây phải chăng là chữ nghĩa của lệ luật, hoàn toàn không hợp với tấm "vải mới" được Người cung cấp là ý nghĩa đích thực liên quan đến mục đích chính yếu của lề luật theo những lời dẫn giải của Ngườivà "bầu da cũ" đây phải chăng là chủ trương và thái độ duy luật, hoàn toàn không hợp với và không thể nào chấp nhận thứ "rượu mớihay chứa đựng nổi thứ "rượu mới" là tinh thần yêu thương bác ái làm nên chính lệ luật và làm trọn lề luật (xem Roma 13:10).

Nếu để ý lịch trình của các bài Phúc Âm theo Thánh Marco, nhất là các bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho các ngày trong tuần, chúng ta đã thấy, đang thấy và sẽ thấy chiều hướng Chúa Giêsu Thiên Sai Cứu Thế tỏ mình ra cho dân Do Thái như một "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14). Nếu trong Tuần I Thường Niên, các bài Phúc Âm cho thấy một Chúa Giêsu Thiên Sai Cứu Thế "đầy ân sủng", thì các bài Phúc Âm tuần II Thường Niên này cho chúng ta thấy Người "đầy chân lý".

Thật vậy, các bài Phúc Âm tuần I Thường Niên, Chúa Giêsu Thiên Sai Cứu Thế đã tỏ mình ra "đầy ân sủng": 1- ở chỗ trừ quỉ ám chỉ cứu con người khỏi tội lỗi do ma quỉ gây ra cho con người ngay từ ban đầu (bài Phúc Âm Thứ Ba); 2- ở chỗ chữa lành người cùi ám chỉ cứu con người khỏi chết về phần xác là cái chết tách ly họ khỏi với xã hội loài người (bài Phúc Âm Thứ Năm); 3- ở chỗ chữa lành một nạn nhân bại liệt, cũng ám chỉ sự chết về phần xác khiến con người trở nên bất lực (bài Phúc Âm Thứ Sáu); 4- ở chỗ Người đồng bàn với thành phần thu thuế và tội lỗi trong nhà của chàng Lêvi thu thuế đáp ứng ngay theo lời Người kêu gọi theo Người (bài Phúc Âm Thứ Bảy). Cả bài Phúc Âm Thứ Sáu lẫn Thứ Bảy đều liên quan đến việc tha tội và LTXC của Người.

Nếu trong tuần I Thường Niên, Chúa Giêsu Thiên Sai Cứu Thế tỏ mình ra "đầy ân sủng" ở việc chữa lành cả hồn tội lỗi lẫn xác tật nguyền gây ra bởi tội lỗi của con người, thì trong tuần II Thường Niên, Người tỏ mình ra "đầy chân lý", khi Người lợi dụng tình trạng mù tối (dấu hiệu của sự chết nơi tâm linh) về đạo lý của thành phần trí thức thông luật, giữ luật và dạy luật là luật sĩ và biệt phái, hay thành phần công chính như các môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả và biệt phái, để soi sáng cho họ thấy tất cả sự thật về cả việc đạo đức như về vấn đề chay tịnh (bài Phúc Âm Thứ Hai), lẫn việc giữ luật nói chung, nhất là những gì liên quan đến Hgày Hưu Lễ (bài Phúc Âm Thứ Ba và Thứ Tư). 

Chúng ta thường hay phân biệt việc xấu và người xấu, ở chỗ, chúng ta phải thương yêu người xấu nhưng phải chống lại việc xấu của họ. Ở bài Phúc Âm hôm nay, việc xấu ở đây đối với thành phần biệt phái là việc các môn đệ của Chúa Giêsu bứt bông lúa mà ăn vào Ngày Hưu Lễ, một việc bất hợp pháp trong Ngày Hưu Lễ, có tội theo luật. Phản ứng của Chúa Giêsu ra như thể Người bênh vực việc làm của các môn đệ, một việc làm xấu đối với thành phần biệt phái, nhưng lại được phép đối với Chúa Giêsu là Thày của các vị.

Thật ra, Người không bênh vực những ai thuộc về Người theo cảm tình tự nhiên của con người, hay bênh vực danh dự cùng uy tín của Người bởi có những người môn đệ sống vô kỷ luật như thế như thành phần biệt phái chủ quan hay soi mói nhận định, mà là bênh vực chính sự thật về lề luật. Bởi đó, cuối cùng Người đã khẳng định nguyên tắc ưu tiên con người trên lề luật và lề luật phải qui về lợi ích thăng tiến của con người, cùng với thẩm quyền tối hậu của lề luật như sau: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".

 


Thứ Tư


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (năm I) Dt 7, 1-3. 15-17

"Ngươi là tư tế theo phẩm hàm Menkixêđê tới muôn đời".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Menkixêđê này là vua Salem, tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, ông đã đi đón Abraham đang trên đường về sau khi đánh bại các vua, ông chúc lành cho Abraham. Và Abraham dâng cho ông một phần mười các chiến lợi phẩm. Giải nghĩa tên ông, trước tiên thấy tên ông mang tên vua công chính, rồi ông lại còn là vua Salem, nghĩa là vua hoà bình. Ông không cha không mẹ, không gia phả, không ngày sinh, không ngày tử, nhưng ông được so sánh với Con Thiên Chúa, nên ông làm tư tế muôn đời.

Việc còn hiển nhiên hơn nữa, nếu một tư tế khác được thiết lập theo phẩm hàm Menkixêđê, không phải chiếu theo luật xác thịt quy định, nhưng chiếu theo quyền năng của sự sống bất diệt. Vì đã chứng thực về ngài rằng: "Ngươi là tư tế theo phẩm hàm Menkixêđê tới muôn đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 109, 1. 2. 3. 4

Ðáp: Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).

Xướng: 1) Thiên Chúa đã tuyên bố cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới chân Con". - Ðáp.

2) Ðức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rằng: "Con hãy thống trị giữa quân thù". - Ðáp.

3) Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: "Trước rạng đông, tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con". - Ðáp.

4) Ðức Thiên Chúa đã thề và không hối hận rằng: "Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống. Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 1-6

"Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi Người bảo họ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?" Nhưng họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy giơ tay ra". Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người.

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm

 

  Đức Kitô vĩ đại

   


Ngày Thứ Tư trong Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô vẫn liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, chẳng những về bố cục trước sau của cuốn sách Phúc Âm thứ hai này mà còn liên tục cả về ý nghĩa của hai bài Phúc Âm này nữa.

 

Bài Phúc Âm hôm nay được Giáo Hội chọn đọc thích hợp với chủ đề chung của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh "Người Con đến từ Cha ... đầy ân sủng và chân lý", ở chỗ, người chẳng những chữa lành cho "một người khô bại một tay" mà còn mở mắt cho thành phần thông luật nhưng duy luật biệt phái về tinh thần của lề luật, bằng câu hỏi được Người đặt ra cho họ tự suy nghĩ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?"  

Bài Phúc Âm hôm nay cũng như bài Phúc Âm hôm qua đều liên quan đến ngày hưu lễ là thời điểm được chung dân chúng và riêng nhóm biệt phái cùng luật sĩ tuân giữ rất kỹ lưỡng và đã thấy ngứa mắt trước những hành động của các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa mà ăn trong ngày hưu lễ (ở bài Phúc Âm hôm qua) hay của chính Chúa Giêsu chữa lành cho người bị bại tay trong ngày hưu lễ (ở bài Phúc Âm hôm nay).

 

Cả hai lần Chúa Giêsu đều nhắc nhở thành phần theo dõi và bắt bẻ các môn đệ của Người cũng như bắt bẻ chính Người về tinh thần chính yếu của lề luật cũng như mục đích của lề luật đối với vị thế cùng giá trị của con người so vị thế và giá trị của lề luật. Vấn đề then chốt này cũng chính là vấn đề then chốt của Giáo Huấn Giáo Hội Công Giáo về xã hội ngày nay, một bộ giáo huấn bắt đầu từ thời Đức Lêô XIII sau khi chủ nghĩa cộng sản xuất hiện.

 

Thật vậy, yếu tố chính yếu làm nên trọng tâm của Giáo Huấn của Giáo Hội về xã hội đó là con người, một thực thể phải được coi trọng theo đúng dự án tạo dựng của Thiên Chúa Hóa Công, ở chỗ con người phải làm chủ trái đất chứ không phải làm tôi cho những gì được dựng nên cho họ (xem Khởi Nguyên 1:28), bởi thế, tất cả mọi sự, bao gồm cả sự vật trần thế và sự việc trên đời, tất cả mọi hoạt động của con người, về phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học v.v. đều phải phục vụ con người, chứ không được coi thường họ và lạm dụng họ như chủ nghĩa cộng sản hay văn hóa sự chết.

 

Trái lại, cho dù con người đóng vai chính yếu trên trần gian này, trên trái đất này, họ vẫn không thể nào trở thành tối cao, là cùng đích của mình, trở thành tuyệt đối như Thượng Đế, như Thiên Chúa, như Đấng dựng nên họ. Bởi thế, tất cả những chủ nghĩa tôn sùng con người, được gọi là chủ nghĩa duy nhân bản, như chủ trương tương đối hóa mọi nguyên tắc và lề luật luân lý bất di bất dịch, để tuyệt đối hóa tự do và ý riêng của con người, cũng tác hại chính con người, mang con người đến chỗ diệt vong chẳng khác gì chủ nghĩa cộng sản và văn hóa sự chết coi thường con người vậy. 

 

Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu, "Người Con đến từ Cha" đã tỏ mình ra "đầy ân sủng và chân lý", khi tự xưng mình là "Chúa của cả ngày hưu lễ", thì trong bài Phúc Âm hôm nay "Người Con đến từ Cha" đã tỏ mình ra "đầy ân sủng và chân lý", ở chỗ chữa lành cho "một người khô bại một tay".

 

Thật ra, tật "khô bại một tay", so với các trường hợp bệnh tật khác, như phong cùi, bại liệt, què quặt, mù lòa, câm điếc v.v., thì chỉ là chuyện nhỏ, không đáng kể là bao nhiêu. Tuy nhiên, chính ở cái nho nhỏ, không đáng kể là bao nhiêu ấy mà vẫn được Người lưu tâm đáp ứng cứu chữa, nhất nữa lại vào ngày hữu lễ nữa, lại càng cho thấy chân dung tuyệt vời của "Người Con đến từ Cha ... đầy ân sủng và chân lý" này.

 

Đúng thế, cho dù chỉ bị "khô bại một tay", thân xác của con người vẫn không được vẹn toàn đúng như nó đã được Thiên Chứa dựng nên "rất tốt đẹp" (Khởi Nguyên 1:31) ngay từ ban đầu, và khả năng hoạt động của con người vẫn bị ngăn trở, không được tự do, tức vẫn cần phải được cứu chữa hay cần phải được giải thoát để có thể nguyên vẹn hơn về hình hài cùng tầm vóc và đắc lực hơn về hoạt động cùng phục vụ.

 

 

 

Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (năm I) Dt 7, 25 - 8, 6

"Người chỉ dâng của lễ một lần khi hiến dâng chính Mình".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Chúa Giêsu có thể cứu độ cách vĩnh viễn những ai nhờ Người mà đến với Thiên Chúa, vì Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta.

Phải, vì chúng ta cần một vị Thượng tế thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời. Người không cần phải như các tư tế hằng ngày dâng của lễ, trước là đền tội lỗi mình, sau là đền tội lỗi dân chúng, vì Người làm việc ấy chỉ có một lần khi hiến dâng chính Mình. Vì Lề luật thì đặt những người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau Lề luật, thì đặt Người Con hoàn hảo làm thượng tế đến muôn đời.

Ðiểm chính yếu về các điều đang đề cập đến là: chúng ta có một Thượng tế như thế ngự bên hữu Ðấng Tối Cao trên trời, với tư cách là chủ tế trong đền thờ, và trong nhà tạm chân thật mà Chúa - chứ không phải người phàm - đã dựng nên. Quả thật, mọi thượng tế được đặt lên là để hiến dâng lễ vật và hy tế, vì thế, vị thượng tế này cần phải có gì để hiến dâng. Vậy nếu Người còn ở trần gian, thì Người cũng không phải là tư tế, vì đã có những người phụ trách hiến dâng của lễ theo lề luật. Việc phượng tự mà họ làm chỉ là hình bóng những thực tại trên trời, như lời đã phán cùng Môsê khi ông sắp dựng nhà tạm rằng: Chúa phán: "Ngươi hãy xem, ngươi sẽ làm mọi sự theo mẫu Ta đã chỉ cho ngươi trên núi". Hiện giờ vị Thượng tế của chúng ta đã lãnh một chức vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là Ðấng trung gian của một giao ước tốt hơn, mà giao ước ấy được thiết lập trên những lời hứa rất tốt lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 17

Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).

Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở rộng tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.

2) Như trong quyển vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.

3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

4) Hãy mừng vui hoan hỉ trong Chúa, bao nhiêu kẻ tìm Chúa, và luôn luôn nói: Chúa thực là cao cả! bao nhiêu kẻ mong ơn phù trợ của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 7-12

"Các thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm. Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người. Và những thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người.

Ðó là lời Chúa.



 

 

 

Suy niệm



Đức Kitô ảnh hưởng   



Bài Phúc Âm cho Thứ Năm trong Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay càng phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, liên quan đến tầm ảnh hưởng hầu như khắp đất nước Do Thái bấy giờ của Người, trong khi Người mới chỉ công khai xuất hiện chưa được bao lâu.

Thật vậy, tầm ảnh hưởng của "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " này bao gồm một địa dư chẳng những ở miến bắc là Galilêa mà còn xuống tới tận miền nam là Giuđêa của đất nước Do Thái bấy giờ nữa, một vùng đất, theo thứ tự trình thuật của Thánh ký Marco, Người chưa hề đặt chân tới và chỉ sẽ tới sau khi hoàn thành cuộc hành trình Giêrusalem của Người vào những ngày cuối cùng của Người sống trên trần gian này thôi.

Bài Phúc Âm hôm nay đã ghi nhận sự kiện liên quan đến tầm ảnh hưởng của Người đầy ấn tượng xẩy ra như một hiện tượng này ở ngay câu mở đầu như sau: "Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm". 

Đám đông dân chúng từ khắp nơi đua nhau ùn ùn kéo tới với "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " này như thế, mà ai tới cũng muốn được gần Người bao nhiêu có thể, thậm chí muốn trực tiếp đụng chạm đến Người, nhất là thành phần bệnh nhân và khuyết tật nhân, chẳng khác gì như đám đông dân chúng nghênh đón Đức Giáo Hoàng vào những lần ngài tông du khắp nơi trên thế giới, ai cũng muốn đến gần và chạm đến vị thừa kế Thánh Phêrô đại diện Chúa Kitô trên trần gian này.

Tuy nhiên, ngày nay vấn đề an ninh ở khắp nơi mới có thể ngăn chặn việc chen lấn của đám đông dân chúng tuốn đến nghênh đón vị giáo hoàng, còn ngày xưa không thể nào xẩy ra như thế. Bởi đó, để tránh tình trạng chen lấn và xô lấn  ạt bất khả kiểm soát rất nguy hiểm cho chính đám đông, (như đã từng xẩy ra ở những cuộc hành hương hằng năm quá đông của tín đồ Hồi giáo), hơn là cho chính bản thân Chúa Kitô, nhờ đó việc giảng dạy và chữa lành của Người được dễ dàng thực hiện hơn, Chúa Giêsu mới khôn ngoan phản ứng, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:

"Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người"

Sự kiện Chúa Giêsu ngồi trên thuyền mà giảng dạy dân chúng đây chẳng những cho thấy cách thức giải quyết hết sức hữu hiệu và tốt đẹp về hiện tượng đám đông vây quanh Người, gây cản trở cho việc giảng dạy và chữa lành của Người, mà còn cho thấy hình ảnh của một chuyên viên thả lưới đánh cá gần bờ nhất mà lại bắt được nhiều cá nhất, và toàn là những con cá không phải ở dưới nước nhưng là ở trên bờ, trên cạn.

Chưa hết, tầm ảnh hưởng của "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " này chẳng những liên quan đến đám đông dân chúng thuộc một vùng địa dư khắp đất nước Do Thái thời ấy, tức liên quan đến thế giới hữu hình này, mà còn đến cả thế giới vô hình nữa là thế giới của ma quỉ, thế giới của những thực thể vô hình đã nhận biết được chính căn tính thần linh của Người, dù Người chưa kịp khu trừ chúng. Bởi thế, mới xẩy ra chuyện được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ở đoạn cuối như sau:

"Và những thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: 'Ngài là Con Thiên Chúa', nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người'".

Chính việc "Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người" đã đủ chứng tỏ Người công nhận sự thật của lời ma quỉ vốn dối trá tuyên xưng, tức Người thật là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân ", và sở dĩ một đàng Người đang muốn từ từ tỏ mình ra Người đúng là "Con Thiên Chúa" như thế, đàng khác Người lại "cấm chúng không được tiết lộ gì về Người" là vì chưa đến giờ của Người, chưa đến đúng thời điểm của Người, và chính Người phải tự tỏ mình ra mới xác thực hơn bất cứ chứng từ nào khác, kể cả chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng chỉ là những chứng từ tuy cần nhưng mang tính chất phụ thuộc (xem Gioan 5:34,8:14,10:25).



Thứ Sáu


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (năm I) Dt 8, 6-13

"Người là trung gian của một giao ước tốt hơn".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, hiện giờ vị Thượng tế của chúng ta đã lãnh một chức vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là Ðấng trung gian của một giao ước tốt hơn, mà giao ước ấy được thiết lập trên những lời hứa rất tốt lành. Vì nếu giao ước thứ nhất không khuyết điểm, thì thật sự không cần phải có giao ước thứ hai nữa. Vì Chúa khiển trách họ rằng: "Này đến ngày Ta thực hiện một giao ước mới cho nhà Israel và cho nhà Giuđa. Không phải như giao ước Ta ký kết với cha ông chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dẫn ra khỏi đất Ai-cập. Bởi chúng không trung thành với giao ước Ta, nên Ta đã bỏ chúng. Vì chưng, giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày ấy, Ta sẽ đặt các lề luật của Ta trong trí chúng, và khắc nó vào lòng chúng. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Không còn ai phải dạy bạn hữu mình, hay mỗi người không còn phải bảo anh em mình rằng: "Hãy nhìn biết Chúa", vì mọi người, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta; bởi Ta dung thứ các điều gian ác của chúng, và không còn nhớ đến tội lỗi của chúng nữa". Người tuyên bố giao ước mới, thì Người làm cho giao ước thứ nhất ra cũ đi. Nhưng điều gì đã cũ đã già, thì gần tiêu mất đi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 84, 8 và 10. 11-12. 13-14.

Ðáp: Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau (c. 11a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin cho chúng con nhìn thấy tình thương của Chúa, và ban cho chúng con được ơn Ngài cứu độ. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng con. - Ðáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 13-19

"Người gọi những kẻ Người muốn gọi để họ ở cùng Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ. Mười hai vị ấy là: Simon mà Người đặt tên là Phêrô, Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan là em Giacôbê, (cả hai được Người đặt tên là Boanerges, nghĩa là con của sấm sét), rồi đến Anrê, Philipphê, Bartôlômêô, Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông Alphê, Tađêô, Simon nhiệt tâm, và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm


 

Đức Kitô tuyển chọn  


Hôm nay, Thứ Sáu Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh được tỏ hiện nơi việc Người làm như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại sau đây:

"Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ". 

Phải, "Người Con duy nhất đến từ Cha", một Người Con "đầy ân sủng và chân " trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: thứ nhất ở chỗ Người có quyền tuyển chọn "những kẻ Người muốn gọi"; thứ hai ở chỗ Người thu hút được những ai Người muốn tuyển chọn "và họ đến cùng Người... để theo Ngườinhư Người mong muốnthứ ba ở chỗ Người có quyền truyền khiến trong việc "sai các vị đi rao giảng"; thứ bốn ở chỗ Người có thể "ban cho các ông quyền trừ quỷ".

Trong danh sách liệt kê những chàng thanh niên thuộc nhóm 12 môn đệ kể như ưu tú vì được chọn làm tông đồ (liên quan đến hàng giáo phẩm sau này), người ta thấy danh sách này bao gồm đủ mọi thành phần khác biệt. Về nghề nghiệp, từ đánh cá, như hai cặp anh em Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan, đến thu thuế như Mathêu. Về bản chất, từ khuynh hướng ngờ vực như Toma đến khuynh hướng phản bội như Giuđa Ích-Ca. Về tính cách, từ trầm lặng như Bartholomeo, Giacobe con Alphe và Tadeo đến năng động như Philiphe và Simon nhiệt tâm.

Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " mà lại có thể chọn một người môn đệ sẽ phản nộp Người sau này? Phải chăng vì Người lầm, hay là cố ý như vậy?? Nếu Người chắc chắn không thể nào lầm thì Người cố ý chọn người môn đệ sẽ phản nội Người sau này để làm gì??? 

Phải chăng chính sự kiện Người cố ý chọn cả người môn đệ sẽ phản nộp Người sau này là chứng cớ hùng hồn và chân thực nhất cho thấy "Người Con duy nhất đến từ Cha" này "đầy ân sủng và chân "!?! 

Ở chỗ, Người yêu thương hết mọi người không trừ ai, dù tốt hay xấu, dù giỏi hay dở, dù khôn hay dại v.v., và tình yêu của Người là tình yêu vô cùng bất tận, một tình yêu theo bản tính nhân loại của Người "đã yêu cho đến cùng" (Gioan 13:1): Người đã yêu cả người môn đệ được liệt kê cuối "cùng" này trong cả 3 danh sách tông đồ ở bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm, và Người yêu người môn đệ này "cho đến cùng" ở chỗ cũng cúi xuống rửa chân cho cả người môn đệ cuối "cùng" này nữa

Thành phần môn đệ được Chúa Giêsu tuyển chọn làm tông đồ của Người, và được Người đặc biệt tỏ mình ra cho, nhờ đó thấu hiểu Người mà trở nên thành phần chứng nhân tiên khởi của Người sau này, là thành phần được Người sử dụng như tấm gương phản chiếu Người "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12): "Các con là ánh sáng thế gian. Một thành xây trên núi không thể bị che khuất được nữa" (Mathêu 5:14).

Chính vì bản chất của thành phần môn đệ làm tông đồ chứng nhân cần phải tỏa chiếu ánh sáng là Chúa Kitô như thế mới có chi tiết ở ngay đầu của bài Phúc Âm hôm nay: "Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người". Nếu Chúa Giêsu "lên núi" (ám chỉ Người ở một tầm mức trổi vượt, cao vời, tầm mức lý tưởng) để gọi một số các môn đệ của Người thì ai đáp ứng lời kêu gọi của Người cũng phải "lên núi" với Người, như các tông đồ đã thực hiện, ở chỗ " họ đến cùng Người".

 


Thứ Bảy


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (năm I) Dt 9, 2-3, 11-14

"Nhờ chính máu Mình mà Người vào Cung Thánh chỉ một lần".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, nhà tạm được cất lên trong gian thứ nhất, có đặt chân nến, bàn, và bánh tiến. Gian này gọi là Cung Thánh. Sau tấm màn thứ hai thì đến gian gọi là Cực Thánh.

Còn Chúa Kitô xuất hiện như vị Thượng tế của mọi tốt lành tương lai. Người đi qua nhà tạm rộng rãi và hoàn hảo hơn, không phải do tay người phàm xây dựng, nghĩa là không thuộc về trần gian này, cũng không nhờ máu dê bò, nhưng nhờ chính máu của Người mà vào Cung Thánh chỉ một lần và đem lại ơn cứu độ muôn đời. Vì nếu máu dê bò và tro bò cái mà người ta rảy trên kẻ ô uế, còn thánh hoá được thân xác nên trong sạch, huống chi máu của Ðức Kitô, Ðấng đã nhờ Thánh Thần mà hiến tế chính mình làm của lễ trong sạch dâng lên Thiên Chúa; máu đó sẽ càng tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi những việc sinh sự chết, khiến chúng ta có thể phụng sự Thiên Chúa hằng sống.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 46, 2-3. 6-7. 8-9

Ðáp: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang (c. 6).

Xướng: 1) Hết thảy chư dân hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Ðấng Tối Cao, Khả uý, Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian. - Ðáp.

2) Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa, hãy ca mừng, ca mừng Vua của chúng ta! - Ðáp.

3) Vì Thiên Chúa là vua khắp cõi trần gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người, Thiên Chúa thống trị trên các nước, Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người. - Ðáp.

 

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 20-21

"Những thân nhân của Người nói: Người đã mất trí".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được. Những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: "Người đã mất trí". 

Ðó là lời Chúa.

 


Suy niệm


   

 Đức Kitô "mất trí"


Ngày Thứ Bảy hôm nay trong Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh là ngày duy nhất trong riêng tuần này và chung phụng niên có bài Phúc Âm ngắn nhất, chỉ với 2 câu vắn vỏi (Marco 3:20-21).

Một số ngày khác trong tuần suốt phụng niên đặc biệt là của Mùa Thường Niên cũng có những bài Phúc Âm chỉ có 3 câu đã thấy ngắn lắm rồi, như trong Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh có Thứ Hai Tuần 6 (Marco 8:11-13) hay Thứ Tư Tuần VIII (Marco 9:38-40), hoặc trong Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, có Thứ Tư Tuần X (Mathêu 5:17-19), Thứ Tư tuần XVII (Mathêu 13:44-46), Thứ Hai và Thứ Ba Tuần XXV (Luca 8:16-18 và 19-21), thế mà hôm nay bài Phúc Âm còn ngắn hơn nữa. 

Tuy nhiên, không phải vì cái ngắn thật là ngắn chưa từng có này của bài Phúc Âm hôm nay đã không tiếp tục phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, cho dù nội dung và ý nghĩa của bài Phúc Âm có vẻ hoàn toàn ngược lại:

"Khi ấy Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được. Những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: 'Người đã mất trí'". 

Thật thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay câu thứ nhất trong hai câu, Thánh ký Marco vẫn cho thấy hình ảnh nổi nang và tầm ảnh hưởng mãnh liệt của "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân ", ở chỗ: "Khi ấy Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được". 

Thánh ký Marco không cho chúng ta biết việc "Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà" đây là ở đâu, chỗ nào, nhà ai? Phải chăng là chính nhà của Ngườ Nazarét, vì chi tiết được vị Thánh ký cho biết ngay sau đó là: "Những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: 'Người đã mất trí'"?

Theo tiến trình di chuyển của Chúa Giêsu cùng với các môn đệ của Người, được Thánh ký Marco thứ tự thuật lại, từ tuần mở đầu Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh cho đến hôm nay, thì ngôi nhà này có thể là nhà của anh em Simon và Anrê, nơi Người đã đến lần đầu tiên trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước, nơi Người đã chữa cho bà nhạc của chàng Simon khỏi cảm cúm cùng với các bệnh nạn tật nguyền khác của dân chúng tuốn đến với Người vào chính hôm đó, và cũng có thể nói là nơi Người đã chữa lành cho một người bất toại được thả xuống từ trên nóc nhà để tránh đám đông đứng chật trong ngoài ngôi nhà này, ở bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước. 

Có cái lạ là trong khi Chúa Giêsu đang nổi nang và đầy thu hút dân chúng như vậy thì "những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: 'Người đã mất trí'". Tại sao họ lại có thái độ và hành động hoàn toàn ngược chiều với quần chúng như vậy?

Phải chăng "Người đã mất trí" là vì "Người không dùng bữa được" bởi "dân chúng đông đảo lại đổ xô tới"? Nếu thế thì khi tới nơi họ lại càng cần phải trợ giúp Người để nhờ đó Người có thể dùng bữa được như họ mong muốn, bằng cách họ tạm trấn an dân chúng và cung cấp thực phẩm cho Người ăn uống ngay lúc bấy giờ, chứ tại sao họ lại muốn "bắt Người đi" là làm sao? "Bắt Người đi" đâu?? "Bắt Ngườđi" khỏi chỗ đó để làm gì??? Chẳng lẽ để mang Người tới một bệnh viện tâm thần (mental health hospital) để Người được chữa trị, hay để chính họ cùng nhau chữa trị cho Người, vì "Người đã mất trí"!?

Nếu không thì vấn đề tiếp tục được đặt ra ở đây sẽ như thế này: họ "hay tin đó" là tin gì về Người? Tin Người "trở về nhà", hay tin "dân chúng đông đảo lại đổ xô tới", hoặc tin "Người không dùng bữa được"? Hay cả 3 tin một lúc: "Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được"? Hoặc chỉ có một tin nào trong 3 tin ấy đã khiến họ phải thốt lên một cách hết sức bất mãn về Người: "Người đã mất trí", tới độ họ không chịu được nữa và cần phải nhúng tay can thiệp ngay để "bắt Người đi"?

Để giải đáp vấn đề này, chúng ta cần biết thành phần "những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người" đây là ai? Dù không biết rõ từng người trong họ, chúng ta cũng có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng không có Mẹ của Chúa Giêsu rồi đó. Không ai hiểu Chúa Giêsu hơn Mẹ Maria. Mẹ chẳng bao giờ cho Con Mẹ là "mất trí" cần phải "bắt đi" như những người "thân nhân" nào đó đã có thái độ và hành động đủ cho thấy là chính họ mới là một nạn nhân đang bị "mất tríđáng thương mà không biết!

Thật ra, nếu chúng ta đọc thêm bài Phúc Âm hôm nay một chút nữa, ngay sau câu 21 cuối bài sang đầu câu 22, một câu thuộc về bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần III Thường Niên tuần tới, sẽ thấy một mệnh đề trước (câu 21) cách mệnh đề sau (câu 22) bằng dấu chấm phẩy (;), chúng ta sẽ thấy một chi tiết liên quan có thể làm sáng tỏ vấn đề như sau: "trong khi đó, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: 'Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám', và nói thêm rằng: 'Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ'". 

À... thì ra thế, "những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: 'Người đã mất trí'" lý do là vì họ nghe thấy những tin tức xuyên tạc về Người từ thành phần luật sĩ thông luật hơn dân chúng và dạy luật cho dân chúng vốn không tin tưởng Người, vốn không khâm phục Người, không biết có phải vì họ đang hậm hực ghen tức với Người, bởi ảnh hưởng quá mãnh liệt của Người trong quần chúng trổi vượt hơn họ, nên họ đang muốn tìm hết cách để hạ bệ Người xuống, bằng những thứ chụp mũ, xuyên tạc và bôi nhọ Người hay chăng? 

Kết quả là Người vẫn còn đó, chẳng những không bị thân nhân của Người "bắt đi", vì Người chẳng "mất trí" như các thân nhân của Người tưởng, trái lại, Người còn quá khôn ngoan đến độ làm cho thành phần luật sĩ này bị cứng họng, bằng cách Người đã sử dùng gậy ông đập lưng ông, như chúng ta sẽ thấy trong Bài Phúc Âm Thứ Hai tuần tới.