CÔNG GIÁO VIỆT NAM

 

2020

 

 

 

Đức Tin Tuân Phục - Đức Ái Trọn Hảo

 

Bài chia sẻ cho Nhóm TĐCTT ngày Tĩnh Tâm Nên Thánh 2019 (Thứ Bảy 5/10)

        Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Theo cảm nghiệm tu đức sống đức tin của mình, tôi càng ngày càng sâu xa và mãnh liệt xác tín rằng: muốn gặt hái được nhiều hoa trái thiêng liêng trong hoạt động tông đồ giáo dân nói chung, và cho tất cả mọi phương diện về đời sống thánh chứng nhân của mình, tôi phải làm sao để trở nên xứng đáng cho LTXC hiện diện và tỏ hiện. Và tôi đồng thời cũng cảm nghiệm thấy rằng LTXC chỉ hiện diện nơi tôi khi tôi sống đức tin tuân phục, và LTXC chỉ tỏ hiện qua tôi, khi tôi sống đức ái trọn hảo.

Đức Tin Tuân Phục

Abraham, or the Obedience of Faith: F. B. Meyer: 9781612032627 ...

 

Trước hết là "đức tin tuân phục" (obedience of faith or obedient faith – Roma 1:5). Đức tin là một nhân đức đối thần, liên quan đến mạc khải thần linh, được Thiên Chúa phú bẩm cho chúng ta khi chúng ta chịu phép rửa, và được chúng ta thể hiện hay chứng thực đức tin siêu nhiên này bằng việc tuân phục của chúng ta, nhất là tuân phục cả những gì tráí ý chúng ta nhất.  

Điển hình nhất trong việc sống đức tin tuân phục này là tổ phụ Abraham, vị đã tuân phục Thiên Chúa khi vâng lời Ngài, bỏ nơi mình đang ở để đến một nơi hoàn toàn xa lạ, đi mà chẳng biết mình đi đâu (xem Khởi Nguyên 12:1-20; Do Thái 11:8), hay khi vị tổ phụ này vâng lời Thiên Chúa đem sát tế đứa con trai duy nhất của mình, được sinh ra theo chính lời Thiên Chúa hứa, để làm mồng mống cho một dân tộc đông như sau trời như cát biển (xem Khởi Nguyên  22:1-19).

Đức Maria cũng nêu gương sống đức tin tuân phục hơn ai hết, một đức tin khiến Mẹ luôn ở trong tình trạng “đầy ơn phúc” (Luca 1:28), ngay từ giây phút được hoài thai cho đến khi về trời cả hồn lẫn xác, một đức tin tuân phục được tỏ hiện trong biến cố Truyền Tin, qua lời Mẹ thân thưa cùng vị sứ thần: “Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi những gì ngài truyền”, và được hoàn toàn nên trọn trong biến cố khổ giá của Chúa Kitô Con Mẹ trên Đồi Canvê.

Mary at the Cross | Trinity Stores

 

Để có thể sống đức tin tuân phục, con người cần phải “bỏ mình đi và vác thập giá của mình” (Mathêu 16:24). Tại sao? Tại vì con người thuộc hạ giới hèn hạ và hữu hạn, còn Thiên Chúa thuộc thượng giới cao cả và vô cùng bất tận. Bởi thế, những gì Ngài nghĩ về con người, Ngài muốn nơi con người, ngài tỏ ra cho con người, đều vượt lên bản tính tự nhiên hữu hạn của con người, trên lý trí thiển cận của con người, trên khả năng vụng về của con người, thậm chí hoàn toàn ngược lại với bản tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội của họ, một bản tính vì thế luôn hướng hạ, chỉ tìm kiếm hưởng thụ, và luôn hướng nội, chỉ tìm kiếm bản thân vị kỷ của mình.

Tác động đức tin tuân phục là tác động “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mathêu 18:3), hoàn toàn ngược lại với tác động người lớn theo ý riêng của nhị vị tổ phụ ngay từ ban đầu, cho mình là khôn ngoan, muốn làm chủ mình, bằng cách tự động muốn nên giống như Thiên Chúa là Đấng dựng nên mình, trong việc muốn có quyền và có thể trong việc quyết định mọi sự “lành và dữ” theo ý mình.

Tác động đức tin tuân phục là tác động hoàn toàn tin tưởng phó thác vào LTXC, là tác động tin vào Vị Thiên Chúa là Cha trên trời toàn ái, là tác động tin vào Vị Thiên Chúa quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan và toàn năng, là tác động hoàn toàn để Chúa muốn làm gì thì làm nơi mình, để “Danh Chúa cả sáng” nơi ý hướng của mình, để “Nước Cha trị đến” trong linh hồn của mình, và để “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” qua các hành vi cử chỉ và hoạt động của mình.

Tác động đức tin tuân phục không phải chỉ ở chỗ tuân theo Thánh Ý Chúa, mà còn ở chỗ chấp nhận mọi sự theo Thánh Ý Chúa nữa. Nghĩa là chẳng những “mang lấy ách” của Chúa mà còn cả “gánh” của Chúa nữa (xem Mathêu 11:28-30), nghĩa là “bỏ mình và vác thập giá mình mà theo Chúa”. Đó là trường hợp của Chị Thánh Faustina, vị đã đáp ứng yêu cầu của Chúa Giêsu, xin phép bề trên, nhưng hầu như chẳng được bề trên ưng thuận làm theo ý Chúa. Đó là trường hợp của chính Chúa Kitô, Đấng đến không phải làm theo ý của mình, đã tuân hành Ý Cha trong hết mọi sự, cho đến độ uống cạn chén Cha trao, hoàn toàn trái với ý mình.

Come Follow Me 2019: Matthew 26; Mark 14; Luke 22; John 18 | Book ...

LDSArt.com. gethsemane by liz lemon swindle jesus christ gargen ...

 

Tác động đức tin tuân phục mới làm cho linh hồn được hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, nghĩa là được hiệp thông thần linh với Ngài, nhờ đó, họ mới như cành nho đã sinh trái lại càng sinh trái nhều hơn (xem Gioan 15:2). Nhờ đức tin tuân phục, tức nhờ Thiên Chúa sống trong linh hồn, chiếm đoạt linh hồn, làm chủ linh hồn, mà linh hồn có thể nghĩ được những gì Thiên Chúa nghĩ, khôn ngoan phán đoán và chọn lực đúng như Ngài muốn, và nhờ đó linh hồn có thể làm được những gì theo tự nhiên không thể làm, thậm chí về cả phương diện tự nhiên, như chữa lành.

Linh hồn sống đức tin tuân phục là một linh hồn, như Mẹ Maria, luôn ở trong thái độ sẵn sàng làm theo ý Chúa trong mọi sự, thái độ “lưu giữ những sự ấy mà suy nghĩ trong lòng” (Luca 2:19,51), thái độ đáp ứng ngay khi nghe thấy tiếng gió thần linh “muốn thổi đâu thì thổi” (Gioan 3:8), thái độ của những linh hồn đươc “tái sinh bởi trời” (Gioan 3:3), “nghe được tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu tới và sẽ đi đâu” (Gioan 3:8).

Đức tin tuân phục là tác động của một tấm lòng hoàn toàn tin tưởng (trust) vào Thiên Chúa, chẳng những nơi việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa, mà còn nhất là nơi việc chấp nhận mọi sự theo ý muốn vô cùng huyền diệu và khắc nghiệt của Thiên Chúa. Đức tin là hạt giống thần linh, chất chứa mạc khải thần linh, nhưng chỉ phản ảnh trung thực nơi tấm lòng tin tưởng phó thác của những tâm hồn được cảm nghiệm thần linh.

Living in the F.O.G.: Dying to Live – John 12:24

 

Thiên Chúa là Cha trên trời dựng nên con người theo hình ảnh thần linh của Ngài và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-27) để con người có thể nhờ đó mà được hiệp thông thần linh với Ngài, và Ngài đã thực hiện hết mọi sự có thể, kể cả việc tỏ mình ra nơi Con của Ngài và thông mình ra qua Thánh Thần của Ngài, để con người có thể tin vào Ngài.

Và thời điểm và cách thức Ngài tỏ mình Ngài ra cho từng linh hồn và các linh hồn, nhất là “những ai được Ngài biết trước thì Ngài cũng tiền định nên giống hình ảnh Con của Ngài” (Roma 8:29), đó là Ngài gửi thánh giá đến cho họ, là Ngài thanh tẩy họ, là Ngài cắt tỉa họ để họ “càng sinh nhiều hoa trái hơn” (Gioan 15:2), giúp cho nhiều linh hồn được cứu độ, để giá máu vô cùng châu báu của Con Ngài chẳng những không trở thành vô ích nơi các linh hồn hư vong.

Những ai Ngài đã biết trước đây là ai? Phải chăng là một Thánh Phaxicô Assisi, sáng lập dòng anh em hèn mọn Phanxicô, vị thánh của Kinh Hòa Bình?? Phải chăng là một Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta, vị được thế giới Ấn giáo kính trọng bằng một cuộc quốc táng? Phải chăng là một Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng xuất thân từ một thế giới cộng sản và đã làm biến đổi lịch sử thế giới, qua biến cố Đông Âu sụp đổ vào hạ bán năm 1989, và Nước Nga trở lại ngày 25/12/1991???

The Sultan and the Saint | Salt and Light Catholic Media Foundation

Lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội và thế giới, vào thời khoảng 1-26/9/1219, sau cuộc Viễn Chinh Thánh Giá (Crusade) Thứ 5 của Kitô giáo đã bị đạo quân Hồi giáo đánh cho thảm bại ở Trận Damietta,

Thánh Phanxicô Khó Khăn, cùng với 1 tu sĩ dòng ngài, liều mình vượt biên sang gặp al-Malik al-Kamil, dù bị bắt và đánh đập, những cuối cùng ngài đã thuyết phục được vị lãnh đạo Hồi giáo Ai Cập, Syria và Palestine này.

"Thưa mẹ, tôi đã sống như một con vật ngoài đường, nay tôi chết như một thiên thần được yêu thương"

Dù bị Ali-Agca ám sát ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô, những Thánh Gh GPII vẫn đến thăm anh ta trong Năm Thánh 2000,

 và khi ra tù ngày 18/1/2010, anh ta đã đến thăm mộ ngài ở Vatican, nhưng chưa bao giờ chính thức và công khai hoặc riêng tư ngỏ lời lỗi ngài.

 

Đúng thế, thành phần “được Ngài biết trước” quả là những vị thánh được Ngài gửi đến vào từng thời điểm lịch sử của cung loài người cũng như của riêng Giáo Hội! Tuy nhiên, thành phần này không phải toàn là những vị thánh hay đại thánh trong Giáo Hội, được Giáo Hội phong thánh, mà con cả những tội nhân được Ngài biến đổi, điển hình nhất là một Maria Mai-Đệ Liên, từ một con điếm thành tông đồ của các tông đồ của Chúa Kitô Phục Sinh! Một Saulê thành Phaolô tông đồ dân ngoại!! Một Augustino sống đời tuổi trẻ bê bối về thể xác và lầm lạc về linh hồn, thành một vị Thánh Giáo Phụ Giám Mục Tiến Sĩ lừng danh trong Giáo Hội!!!

Tuy nhiên, “những ai được Ngài biết trước” không phải chỉ có thế, mà còn bao gồm cả những đại tội nhân vô danh nữa, không được liệt kê trong danh sách thánh nhân của Giáo Hội.

Chẳng hạn như người đàn bà, được Thánh ký Gioan thuật lại ở đầu đoạn 4 (4-26) phúc âm của ngài, sống với 6 người đàn ông không phải là chồng của mình, nhưng sau khi gặp Chúa Kitô, đã trở thành tong đồ cho Người ngay tức khắc.

 

What Can We Learn From Samaritan Woman?What is the Samaritan woman's wisdom? - Quora

The Samaritan Woman (1994): Women Disciples of the Lord – Fraternized

Chẳng hạn như người mù từ lúc mới sinh, được Thánh Gioan ghi lại ở đoạn 9 (1-41) của ngài, dù mới được Chúa Kitô chữa lành cho, và chưa gặp Người và nhận biết Người, cũng đã trở thành chứng nhân cho Người.

The Pharisees Confront the Man Born Blind | Life of Jesus

 

Chẳng hạn người trộm lành, được Thánh ký Luca thuật lại ở đoạn 23 (39-43) phúc âm của ngài, cả cuộc đời gian dối trộm cắp, những cuối cùng đã nhận biết Lòng Thương Xót Chúa nơi Đấng Khổ Giá bị đóng danh ngay bên mình và với mình, đã bênh vực Người và tuyên xưng lòng tin của mình vào Người, nhờ đó, đã trở thành linh hồn đầu tiên thao Chúa Kitô vào Thiên Đàng.

The Crucifixion of Three | Arte cristiano, Dibujos de jesús, Catolico

Worship Service Bulletin - Last Sunday of the Church Year ...How to Witness to a Dying Unbeliever - Good Soil Evangelism and ...

 

Thậm chí “những ai được Ngài biết trước” bao gồm cả một tâm hồn nào đó, không hề làm chứng cho Ngài, nhưng vẫn được Ngài sử dụng để tỏ Lòng Thương Xót của Ngài, qua bất cứ một phương tiện nào, qua bất cứ một con người nào. Giống hệt như trường hợp một vị linh mục thừa tác, dù đang mắc tội trọng, chưa kịp xưng thú hay không muốn xưng thú, thi hành tác động phụng vụ vẫn hiệu thành, như truyền phép Thánh Thể trên bàn thờ, hay tha tội cho hối nhân muốn hòa giải với Chúa v.v.

Điển hình nhất cho thành phần bất xứng vẫn được Lòng Thương Xót Chúa sử dụng và tỏ mình ra, điển hình nhất đó là người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, được Phúc âm của Thánh ký Gioan thuật lại ở đoạn 8 (2-11), một con người hoàn toàn không ngờ, cả bản thân tội lỗi và chính tội lỗi của nàng, thậm chí ngay cả lúc chị ngây ngất hoan hưởng xác thịt trên giường, chị cũng không thể nào nhờ đó chi lại được gặp Chúa, lại được Lòng Thương Xót Chúa sử dụng, để tỏ mình ra cho chị, cũng như cho cả thành phần muốn ném đá chị, nghĩa là đã làm cho phạm nhân tội lỗi, lẫn thành phần cho mình là công chính tội lỗi, đều nhận biết mình mà được hoán cải, ở chỗ tin vào Ngài.

Lời Chúa (Ga 8,1-11): Chúa nhật Tuần V Mùa Chay – huyha.net

NÉM ĐÁ (Jn 8: 1-11) – Dòng Cát Minh Việt Nam

NGUỒN SỐNG MỚI: Cảm thông và tha thứ

Thứ Bảy tuần 32 Thường niên - năm lẻ

The First Stone: Jesus, the Accused and Us | CBC Radio

Second Chances: Woman Caught in Adultery ⋆ Diana Leagh Matthews

 

Xin mời nghe chia sẻ bằng audio phần đầu ở cái link sau đây:

Đức Tin Tuân Phục

 

 

 

 

Đức Ái Trọn Hảo

Một tâm hồn biết hoàn tin tưởng vào Thiên Chúa, vào Lòng Thương Xót Chúa, để Ngài chiếm đoạt và làm chủ, là tâm hồn đã đạt tới mức độ tu đức thần hiệp, sau khi đã trải qua tầm mức tu dức khởi sinh (từ bỏ tội lỗi, thế gian và bản thân) và tiến sinh (tập tành các nhân đức trọn lành). Đời sống của họ phản ảnh một đức ái trọn hảo, “như Cha trên trời là Đấng trọn hảo” (Mathêu 5:48), ở chỗ “xót thương” (Luca 6:36).

Thật vậy, nếu đức tin tuân phục là lòng tin tưởng của linh hồn đối với chính Thiên Chúa thế nào, thì đức ái trọn hảo là tình yêu thương tha nhân nơi linh hồn sống đức tin tuân phục như vậy. Vì “đức tin được thể hiện qua đức ái” (Galata 5:6).

Tuy nhiên, đức ái trọn hảo này không phải của chính bản thân linh hồn sống đức tin tuân phục, mà là từ chính “Thiên Chúa là tình yêu” (1Gioan 4:8,16), Đấng sống trong họ và tỏ mình ra qua họ, đến độ, không phải là họ chỉ yêu thương tha nhân như chính bản thân mình mà còn hơn cả bản thân mình, ở chỗ họ yêu như Chúa Kitô yêu, như một Alter Christus:  Thày đã yêu thương các con thế nào, các con cũng hãy yêu thương nhau như vậy” (Gioan 15:12; 13:34).

“Đức ái trọn hảo” là thành ngữ được Giáo Hội sử dụng lần đầu tiên qua nhan đề của sắc lệnh canh tân đổi mới đời tận hiến tu trì, được Công Đồng Chung Vaticanô II ban bố: “Perfectae caritatis” (ngày 28/10/1965). Tuy nhiên, “đức ái trọn hảo” không phải chỉ là bản chất và là đích điểm cho đời sống tận hiến tu trì thôi, mà còn cho tất cả mọi thành phần thuộc về “Giáo Hội thánh thiện” nữa. Bởi phần tử nào trong Giáo Hội, được gọi là Hội Thánh, cũng được kêu gọi nên thánh, ở chỗ: “nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành” (Mathêu 5:48).

Mà “nên trọn lành như Cha trên trời” ở chỗ nào, nếu không phải, theo tinh thần và giáo huấn của Chúa Kitô ở Bài Giảng Trên Núi về đời sống phúc đức trọn lành, xứng với tư cách và phẩm vị của thành phần con cái Thiên Chúa, của thành phần là môn đệ của Đấng đã “yêu cho đến cùng” (Gioan 13:1), là ở chỗ yêu thương cả kẻ thù của mình, chứ không phải chỉ yêu thương thân nhân hay thân hữu của mình, theo chủ trương “pro-choice”: “Ai là cận nhân của tôi?” (Luca 10:29).

Thật vậy, nếu sống yêu thương theo chủ trương hay khuynh hướng “pro-choice” thì không thể nào có thể vươn tới và đạt tới "đức ái trọn hảo”. Thực tế cho thấy ngay trong thế giới văn minh vật chất hiện đại chưa từng có, một thế giới có thể nói, về nhân bản, đã lên tới tột đỉnh về văn hóa, ở chỗ con người, qua bản tuyên ngôn nhân quyền được Liên Hiệp Quốc công b61 ngày 10/12/1948, đã biết được chính phẩm giá cao quí của mình, nơi các quyền lợi bất khả phân ly với phẩm giá làm người, những quyền lợi bất khả xâm phạm, thế mà con người lại sống yêu thương “pro-choice” hơn bao giờ hết, ở chỗ phá thai, ở chỗ ly dị, ở chỗ đồng tính.

Nếu yêu thương “pro-choice” của thế giới ngày nay càng văn minh thuần về vật chất, chứ không phải “văn minh yêu thương – civilization of love” (ĐTC Phaolô VI), và càng văn hóa thuần về nhân bản, thứ “văn hóa sa thải – culture of thowing” (ĐTC Phanxicô), chứ không phải thứ “văn hóa gặp gỡ - culture of encounter” (ĐTC Phanxicô), chỉ cống hiến cho con người một thứ “văn hóa chết chóc – culture of death” (ĐTC Gioan Phaollô II), hay thứ  “văn hóa tận số - terminal culture” (ĐTC Phanxicô), thì đức ái trọn hảo của Kitô giáo, nơi thành phần chứng nhân trung thực và sống động của Chúa Kitô, mới có thể mang lại “sự sống và sự sống viên mãn” (Gioan 10:10) mà thôi! 

Sống “Đức ái trọn hảo”, như thế, chắc chắn là phải sống ngược lại với khuynh hướng và chủ trương “pro-choice” trong yêu thương, nghĩa là phải sống làm sao để trở thành một con người quốc tế (universal person), hay nói cách khác, trở thành một con người công giáo (catholic person), chỉ biết sống cho mọi người, như chính Con Thiên Chúa làm người đã làm gương, Đấng “đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người được cứu độ” (Mathêu 20:28).

Đó là lý do, khi được hỏi “ai là cận nhân của tôi”, Chúa Giêsu đã không trả lời dứt khoát ai là cận nhân của vấn nhân, mà là đảo ngược vấn nạn, đúng hơn, đảo ngược vấn nhân thành cận nhân của người khác, qua dụ ngôn phản ảnh của chính mình, đó là dụ ngôn về người Samaritanô nhân lành (xem Luca 10:25-37).

Đúng thế, tất cả mọi cử chỉ và từng tác động của người Samaritanô nhân lành, được Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn Người muốn giảng dạy, chẳng những cho vấn nhân bấy giờ, mà còn cho cả thành phần môn đệ của Người hiện diện lúc ấy nữa, đều cho thấy một đức ái trọn hảo nơi mẫu gương “yêu cho đến cùng” (Gioan 13:1) của Người, một mẫu gương đức ái trọn hảo hoàn toàn và thực sự phản ảnh nơi nhân vật dụ ngôn Samaritanô nhân lành này làm. Ở chỗ:

1-    Coi tất cả mọi người đều là cận nhân của mình, nhất là những cận nhân đang gặp gian nan khốn khổ cần phải giúp đáp lập tức – Đó là lý do Người Samaritanô trong dụ ngôn mới cảm thấy “động lòng thương” (Luca 10:33) khi vừa trông thấy nạn nhân người Do Thái, thành phần vốn khinh bỉ và xa tránh người Samaritanô, một nạn nhân bị bỏ rơi và xa lánh bởi chính đồng bào của mình, bởi chính những vị chức sắc đạo đức tốt lành trước mặt dân chúng, một nạn nhân bị bọn cướp chẳng những tước lột mọi sự mà còn tàn nhẫn ra tay đánh đập, đến độ đang quằn quại dở sống dở chết bên lề đường, một con đường nguy hiểm nhưng vẫn không thể ngăn cản đức ái trọn hảo của nhân vật dụ ngôn Samatitanô này.

 

2-    Ân cần chăm sóc cho nạn nhân như chính những người thân yêu của mình, những người mình thương mến, bằng cách chẳng những xuống lừa, xuống khỏi một vị thế cao cả và dễ chịu của mình, coi mình ngang hàng với nạn nhân, ở chỗ tiến gần đến nạn nhân, chứ không cứ ngồi trên lưng lừa mà hỏi han nạn nhân, rồi quẳng xuống cho nạn nhân một chút bố thí nào đó đoạn bỏ đi, mà còn lấy rượu và dầu sẵn mang theo bên mình, như một vị lương y chuyên cứu thương vào bất cứ lúc nào và cho bất cứ ai mình gặp, để rửa sạch các thương tích của nạn nhân bằng rượu có chất sát trùng, cho nạn nhân khỏi bị nhiễm trùng, đoạn chữa lành cho nạn nhân bằng cách xức dầu vào vết thương của nạn nhân.

 

3-    Cảm thấy chính cái đau của nạn nhân, và sẵn sàng chịu khổ thay cho nạn nhân, ở chỗ, nhân vật dụ ngôn Samaritanô này, không phải chỉ xuống khỏi lừa, đến gần nạn nhân và chăm sóc cho nạn nhân là đủ, lại còn tìm cách chữa trị nạn nhân cho đến khi hoàn toàn lành mạnh nữa, trước hết, bằn cách cố gắng nâng nạn nhân, một con người bấy giờ hầu như hoàn toàn bất lực, với một thân xác nặng gần như một tử thi vô hồn, lên lưng lừa của mình cho bằng được, bất chấp cái mệt nhọc và vất vả khôn lường của mình, cho nạn nhân chiếm lấy vị trí của mình một cách thoải mái dễ chịu, trong khi nhân vật này phải đi bộ hết sức khổ sở và khó khăn, vì phải quan tâm đến nạn nhân, để làm sao cho nạn nhân không bị đau đớn hay bị rơi xuống đường, cho đến khi vào đường một quán trọ mà nhân vật này có thể quen biết để dẫn nạn nhân tới cho bằng được, nơi nạn nhân cần được phục sức và dưỡng sức, cho đến khi nạn nhân hoàn toàn bình phục và lành mạnh, cho dù có phải trang trải tất cả mọi phí tổn trong thời gian nạn nhân ở đây.

Một tâm hồn sống đức ái trọn hảo cũng thế, cũng phải làm sao để có thể: chẳng những biết “động lòng thương” anh chị em khốn khổ của mình, thành phần anh em hèn mọn nhất của Chúa Kitô, được chính Người đồng hóa với Người (xem Mathêu 25:40,45), cảm thấy cái đau của họ, đau cái đau với họ và đau cái đau thay họ, và tìm cách chữa lành cho họ bằng chính những hy sinh của mình, những thiệt thòi của mình, miễn là người anh chị em của mình được cứu độ.

Việc cứu độ anh chị em khốn khổ của mình, chẳng những về thể lý, nhất là về luân lý, chẳng những liên quan trực tiếp đến lợi ích về vật chất hay thiêng liêng của họ, mà nhất là lien quan đến chính Chúa Kitô, Đấng đã yêu thương họ đến cùng, Đấng không muốn dể lạc mất một con chiên nào, bằng không, công ơn cứu độ vô cùng cao quí của Người trở thành vô ích nơi từng linh hồn bất tử hư vong.

Một tâm hồn sống đức ái trọn hảo không thể nào không cảm thấy cái đau của Chúa Kitô, với Chúa Kitô và thay Chúa Kitô, như Mẹ của Người khi thấy thi thể của Người bị lưỡi đòng đâm thâu, trước một tội nhân đáng thương, thành phần nạn nhân bị ma quỉ cướp mất lương tri hay Thánh sủng và đang bất lực không thể tìm về với ơn cứu độ, rất nguy hiểm đến phần rỗi vô cùng cao quí và khẩn thiết của họ, và tìm hết cách để cứu họ, cho dù phải hy sinh phần rỗi của mình cho họ được sống đời đời.

Xin nghe bài giảng của ĐTC Phanxico cho Lễ Thánh Thần Hiện Xuống 2020,

liên quan đến hiệp nhất, đến hiệp thông là sự sống thần linh, được "đức tin tỏ hiện qua đức ái" (xem Galata 5:6)

ở cái link sau đây:

DTCPhanxico-BaiGiangLeThanhThanHienXuong2020.mp3