GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

2020

 

 

 

 

ĐTC Phanxicô - Giáo Lý về Cầu Nguyện:

 

Bài 10 Cầu Nguyện trong đau khổ

 

 

Thiên Chúa là Cha, bằng Thần Linh của Ngài, đã tác động nên những Thánh Vịnh này trong tâm can của Vua Đavít cũng như của những người khác,

những con người nguyện cầu, để dạy cho hết mọi con người nam nữ biết cách chúc tụng Ngài, cám ơn Ngài và nguyện cầu;

cách kêu cầu Ngài khi vui cũng như lúc buồn, và cách thuật lại các kỳ công nơi những việc của Ngài cũng như Luật của Ngài.

Tóm lại, các Thánh Vịnh là lời Chúa được nhân loại chúng ta sử dụng để nói với Ngài.

 

Pope Francis holds the weekly General Audience in the Paul VI Hall

 

Việc cầu nguyện, tự nó và bởi nó, là đường lối cứu độ và là khởi điểm cứu độ.

Hết mọi người đều phải chịu khổ trên trần gian này, cho dù là tin vào Chúa hay chối bỏ Ngài.

Thế nhưng, nơi Thánh Vịnh, nỗi đớn đau lại trở thành một mối liên hệ, một tương liên: một tiếng kêu trợ giúp đang đợi chờ được lắng nghe.

 

Pope Francis at his general audience in the Paul VI Audience Hall at the Vatican Oct. 14, 2020. Credit: Daniel Ibáñez/CNA.

Tất cả mọi nỗi đớn đau của con người vì Thiên Chúa đều được thánh hóa. ...

Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta chẳng phải là những kẻ xa lạ hay chỉ là những con số vậy thôi.

Chúng ta là những bộ mặt và là những tấm lòng, được biết đến đích danh từng người một.

 

 

Xin chào anh chị em thân mến,

Khi đọc Thánh Kinh, chúng ta tiếp tục gặp được những kiểu cách cầu nguyện khác nhau. Thế nhưng chúng ta đồng thời cũng thấy được một cuốn sách làm nên bởi các kinh nguyện, một cuốn sách đã trở nên một quê quán, một vận trường và một ngôi nhà của vô vàn con người nam nữ nguyện cầu. Đó là Sách Thánh Vịnh. Có 150 Thánh Vịnh để cầu nguyện.

Cuốn sách này là một trong các sách được liệt vào các loại sách khôn ngoan trong Thánh Kinh, vì nó dạy cho "biết cách cầu nguyện", bằng cảm nghiệm trao đổi với Thiên Chúa. Trong các Thánh Vịnh, chúng ta thấy được tất cả mọi cảm tính của loài người: những niềm vui, các nỗi buồn, những mối ngờ vực, các niềm hy vọng, tình trạng đắng cay là những gì tô điểm cuộc đời của chúng ta. Sách Giáo Lý khẳng định rằng hết mọi Thánh Vịnh "có được tính chất đơn giản đến độ nó có thể được con người thuộc mọi thời đại và thân phận sử dụng để thực sự cầu nguyện" (2588). Khi chúng ta đọc đi đọc lại các Thánh Vịnh, chúng ta biết được ngôn ngữ của nguyện cầu. Thật vậy, Thiên Chúa là Cha, bằng Thần Linh của Ngài, đã tác động nên những Thánh Vịnh này trong tâm can của Vua Đavít cũng như của những người khác, những con người nguyện cầu, để dạy cho hết mọi con người nam nữ biết cách chúc tụng Ngài, cám ơn Ngài và nguyện cầu; cách kêu cầu Ngài khi vui cũng như lúc buồn, và cách thuật lại các kỳ công nơi những việc của Ngài cũng như Luật của Ngài. Tóm lại, các Thánh Vịnh là lời Chúa được nhân loại chúng ta sử dụng để nói với Ngài.

Trong cuốn sách này, chúng ta không gặp thấy thứ người cao tít tầng mây, thứ người trừu tượng, những con người lầm lẫn cầu nguyện với một thứ cảm nghiệm thẩm mỹ hay xa tránh. Các Thánh Vịnh không phải là những bản văn theo chữ nghĩa; chúng là những lời khẩn cầu, thường là thảm thiết, xuất phát từ cuộc sống. Cầu nguyện với các Thánh Vịnh này là đủ thấy chúng ta như thế nào. Chúng ta không được quên rằng để cầu nguyện một cách tốt đẹp, chúng ta cần phải cầu nguyện như chúng ta là, chứ không thêm thắt điểm tô. Người ta không được tô điểm linh hồn mình khi cầu nguyện. "Lạy Chúa, con là như thế đó", và đến trước nhan Chúa như chúng ta là, kèm theo cả những gì tốt lẫn xấu, không ai biết, mà chỉ có lòng chúng ta tự biết. Nơi các Thánh Vịnh, chúng ta nghe thấy nhũng tiếng nói của các con người nam nữ nguyện cầu bằng huyết nhục, những con người sống cuộc đời, như tất cả chúng ta, với đầy những vấn đề, khốn khó và bất ổn. Thánh Vịnh gia không đặt nặng vấn đề đau khổ ấy: vị này biết rằng nó thuộc về đời sống. Tuy nhiên, trong các Thánh Vịnh, đau khổ được biến thành một vấn đề. Từ khổ đau đến vấn nạn.

 Trong số nhiều vấn nạn, có một vấn nạn vẫn còn lơ lửng, như tiếng kêu không ngừng trải dài khắp cuốn sách này từ đầu đến cuối. Một vấn nạn chúng ta lập lại nhiều lần rằng "Cho đến khi nào lạy Chúa? Cho tới khi nào?" Hết moị đau khổ đều cần được giải phóng, hết mọi giọt lệ cần được ủi an, hết mọi vết thương chờ được chữa lành, hết mọi lời lăng mạ cần lời thứ tha. "Cho đến khi nào lạy Chúa, con cần phải chịu đựng điều ấy? Lạy Chúa, xin hãy lắng nghe tiếng con!" Bao nhiêu lần chúng ta đã cầu nguyện như thế, bằng vấn nạn "cho đến khi nào?" mới đủ lạy Chúa!

Bằng việc liên lỉ đặt ra các vấn nạn ấy, các Thánh Vịnh dạy chúng ta đừng làm quen với nỗi đớn đau, cùng nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống không được cứu độ, trừ phi được chữa lành. Cuộc hiện hữu của từng người chỉ là một hơi thở, truyện đời của họ đang thoảng qua, nhưng kẻ cầu nguyện lại biết rằng họ quí báu trước nhan Thiên Chúa, và vì thế mới gây ra cảm quan kêu lên. Đây là những gì quan trọng. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm như thế, vì chúng ta biết rằng chúng ta quí báu trước nhan Thiên Chúa. Đó là ân ban của Thánh Linh, Đấng từ bên trong tác động nơi chúng ta cái nhận thức này: cái nhận thức quí báu trước nhan Thiên Chúa. Và đó là lý do tại sao chúng ta được thúc đẩy để cầu nguyện.

Việc cầu nguyện của các Thánh Vịnh là chứng từ về tiếng kêu này: một tiếng kêu tăng bội, bởi trong cuộc đời này nỗi đớn đau xẩy ra ở cả ngàn hình thức, có tên gọi là bệnh hoạn, hận ghét, chiến tranh, bách hại, ngờ vực... Cho đến thứ "xấu xa tệ hại" trên hết là chết chóc. Chết chóc xuất hiện trong Thánh Vịnh như là kẻ thù vô lý nhất của con người: tôi ác nào xứng với thứ hình phạt dã man như thế, thứ trừng phạt bao gồm cả việc hủy hoại và tận cùng như thế? Lời cầu nguyện của các Thánh Vịnh xin Chúa hãy can thiệp khi mà tất cả mọi nỗ lực của con người chỉ bằng không. Đó là lý do tại sao phải cầu nguyện, việc cầu nguyện, tự nó và bởi nó, là đường lối cứu độ và là khởi điểm cứu độ.

Hết mọi người đều phải chịu khổ trên trần gian này, cho dù là tin vào Chúa hay chối bỏ Ngài. Thế nhưng, nơi Thánh Vịnh, nỗi đớn đau lại trở thành một mối liên hệ, một tương liên: một tiếng kêu trợ giúp đang đợi chờ được lắng nghe. Nó không thể nào vô nghĩa được, bất định được. Ngay cả những nỗi đớn đau của chúng ta không thể nào chỉ là những trường hợp đặc biệt theo định luật chung thì chúng bao giờ cũng là "những giọt lệ "của tôi".  Hãy nghĩ về điều này: những giọt lệ của tôi không phải là những gì phổ quát, chúng là những giọt lệ "của tôi". Hết mọi người đều có những giọt lệ của mình. Những giọt lệ "của tôi" cùng với nỗi đớn đau "của tôi" thúc đẩy tôi đến chỗ cầu nguyện. Chúng là những giọt lệ "của tôi", không ai đã từng đổ ra trước tôi. Phải, họ đã khóc nhiều, nhiều lắm. Nhưng "những giọt lệ "của tôi" là của tôi, nỗi khổ đau "của tôi" là của tôi.

Trước khi bước vào Sảnh Đường Phaolô VI này, tôi đã gặp cha mẹ của vị linh mục bị sát hại thuộc giáo phận Como: ngài bị giết chính vì ngài đã phục vụ người khác. Những giọt nước mắt của những người cha mẹ ấy là của họ, và từng người trong họ biết được họ đã khổ đau biết bao nhiêu khi thấy người con của mình đã hiến mạng sống phục vụ người nghèo. Khi chúng ta muốn an ủi ai đó, chúng ta không thể tìm thấy được lời lẽ. Tại sao? Vì chúng ta không thể cảm thấy được nỗi đớn đau của họ, vì những sầu đau của bà ta / cô ta là của bà ta / cô ta, những giọt nước mắt của ông ta / anh ta là của ông ta / anh ta. Cũng thế đối với chúng ta: những giọt nước mắt, nỗi sầu đau, những giọt nước mắt là của tôi, và với những giọt nước mắt này, với nỗi sầu đau ấy mà tôi hướng về Chúa.

Tất cả mọi nỗi đớn đau của con người vì Thiên Chúa đều được thánh hóa. Vậy hãy cầu lời nguyện trong Thánh Vịnh 56 câu 9 như sau: "Bước đường con lận đận, chính Ngài đã đếm rồi. Xin lấy vò mà đựng nước mắt con. Nào Ngài đã chẳng ghi tất cả vào sổ sách?" Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta chẳng phải là những kẻ xa lạ hay chỉ là những con số vậy thôi. Chúng ta là những bộ mặt và là những tấm lòng, được biết đến đích danh từng người một. 

Trong các Thánh Vịnh, người tín hữu tìm thấy câu trả lời. Họ biết rằng ngay cả mọi cánh cửa của nhân loại có bị then cài khóa kín chăng nữa, thì cửa của Thiên Chúa vẫn mở. Cho dù cả thế giới này đã ban hành một một phán quyết kết tội chăng nữa, thì vẫn có ơn cứu độ nơi Thiên Chúa.

"Chúa đang lắng nghe": đôi khi chỉ cần nguyện cầu là biết được như thế. Các vấn đề không phải bao giờ cũng được giải quyết. Những ai cầu nguyện thì không bị lừa dối: họ biết rằng nhiều vấn đề của đời sống dưới thế này vẫn không được giải quyết, vẫn cùng đường bí lối; khổ đau sẽ đồng hành với chúng ta, và sau một trận chiến này thì các trận chiến khác đang đợi chờ chúng ta. Thế nhưng, nếu chúng ta được lắng nghe thì hết mọi sự trở nên dễ chịu đựng hơn.

Điều khốn nạn nhất có thể xẩy ra là chịu khổ trong tình trạng bị bỏ rơi, không còn được nhớ đến nữa. Cầu nguyện cứu chúng ta khỏi tình trạng ấy. Vì nó có thể xẩy ra, và ngay cả chuyện thường xẩy ra là chúng ta không hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Thế nhưng những tiếng kêu của chúng ta không bị tù hãm ở dưới thế này: chúng sẽ vươn lên tới Đấng mang cõi lòng của một Người Cha, và là Đấng tự mình kêu lên cho hết mọi người con nam nữ đang khổ đau và chết chóc. Tôi muốn nói với anh chị em điều này, đó là tôi cảm thấy an ủi trong những lúc khó khăn khi nghĩ đến Chúa Giêsu khóc; khi Người khóc lúc nhìn thấy Giêrusalem, khi Người khóc trước mồ của Lazarô. Thiên Chúa đã khóc vì tôi, Thiên Chúa khóc, Ngài khóc vì những nỗi buồn đau của chúng ta. Vì Thiên Chúa muốn biến mình thành con người - một tác giả về tu đức thường nói - để có thể khóc được. Hãy nghĩ rằng Chúa Giêsu đang khóc với tôi trong cảnh sầu thương là một điều an ủi: nó giúp chúng ta tiến bước. Nếu chúng ta giữ mối liên hệ với Người, thì đời sống không tha cho chúng ta khổ đau đâu, nhưng chúng ta lại hướng tới một chân trời thiện hảo lớn lao, và tiến đến chỗ viên trọn của nó. Hãy can đảm, hãy kiên trì cầu nguyện. Chúa Giêsu bao giờ cũng ở bên chúng ta.

 

http://w2.vatican.va/content/francesco/en/audiences/2020/documents/papa-francesco_20201014_udienza-generale.html

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu