SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa Tuần X Thường Niên Năm A và Năm Chẵn

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Chúa Nhật

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: Hs 6, 3b-6

"Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Chúng ta hãy nhận biết Chúa và hãy ra sức nhận biết Chúa. Người sẵn sàng xuất hiện như vừng đông, và sẽ đến cùng chúng ta như mưa thuận và như mưa xuân trên mặt đất.

Hỡi Ephraim, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Hỡi Giuđa, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Tình thương các ngươi như đám mây ban sáng, như sương sớm tan đi. Vì thế, Ta dùng các tiên tri nghiêm trị chúng, và Ta dùng lời từ miệng Ta phán ra mà giết chúng. Án phạt các ngươi bừng lên như ánh sáng. Vì chưng, Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 49, 1 và 8. 12-13. 14-15

Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa Cứu độ (c. 23b).

Xướng: 1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. - Ðáp.

2) Nếu Ta đói, Ta không cần phải nói với ngươi, vì Ta là chủ địa cầu và mọi cái chứa đầy trong đó. Phải chăng Ta thèm ăn thịt bò, hay là Ta thèm uống tiết dê ư? - Ðáp.

3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 4, 18-25

"Ông vững tin mà làm sáng danh Chúa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, mặc dầu Abraham tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế". Và lòng tin ông không nao núng, mặc dầu ông nhìn đến thân xác cằn cỗi của mình - vì ông đã gần trăm tuổi-, và tuổi già tàn tạ của Sara. Ông đã không cứng lòng hồ nghi lời hứa của Thiên Chúa, trái lại, ông vững tin mà làm sáng danh Thiên Chúa, ông biết chắc chắn rằng Thiên Chúa có quyền năng thi hành điều Người đã hứa. Bởi đấy, "việc đó đã được kể cho ông là sự công chính".

Vì khi chép rằng: "Ðã được kể cho ông", thì không phải chỉ chép vì ông mà thôi, mà vì chúng ta nữa, là những kẻ tin vào Ðấng đã cho Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, từ cõi chết sống lại, Người đã bị nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã sống lại để chúng ta được công chính hoá.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 9-13

"Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: 'Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ'. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".

Ðó là lời Chúa.

 

Cảm Nghiệm Lời Chúa

 

Phụng niên của Giáo Hội bao gồm 2 giai đoạn của Mùa Thường Niên hay cũng gọi là Mùa Quanh Năm, giai đoạn đầu sau Mùa Giáng Sinh và giai đoạn cuối sau Mùa Phục Sinh. Giai đoạn Mùa Thường Niên sau Mùa Giáng Sinh chỉ kéo dài nhất là 9 tuần lễ, và ngắn nhất là 5 tuần lễ. Tuần 10 Thưòng Niên, đối với năm nào có giai đoàn Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh dài 8 hay 9 tuần, là tuần kể như bắt đầu giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh. Mà giai đoạn Mùa Thường Niên nào cũng thế, cũng liên hệ với Mùa Phụng Vụ ngay trước đó, với Mùa Giáng Sinh hay với Mùa Phục Sinh. Nếu giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh liên quan đến Mùa Giáng Sinh, ở chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), thì giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh cũng liên quan đến Mùa Phục Sinh, ở chủ đề: "Tôi đến cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn" (Gioan 10:10).

Như thế, sự sống ngay từ ban đầu của loài người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh thần linh và tương tự thần linh (xem Khởi Nguyên 1:26-27) dù là sự sống thần linh đấy, vì bấy giờ con người đang ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, đang được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa phải là "sự sống viên mãn", một "sự sống viên mãn" tràn đầy Thánh Linh, chỉ được thông ban cho loài người tạo vật qua Con Một của Ngài mà thôi. Bởi vậy, ngay sau khi hai nguyên tổ vừa sa ngã phạm tội mất lòng Thiên Chúa Hóa Công của mình, Thiên Chúa dường như đã chộp ngay lấy cơ hội ấy để hứa ban cho họ "sự sống viên mãn" này, nơi Đấng được Ngài hứa ngay trong bản án nguyên tội được Sách Khởi Nguyên ghi lại: "Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó".

Chính vì thế mà "sự sống viên mãn" Thiên Chúa muốn thông ban cho con người sau nguyên tội đã xuất phát từ lòng thương xót Chúa, nơi Chúa Kitô Khổ Giá Con Ngài, và "ai chấp nhận Người thì được Người ban cho quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), nghĩa là người ấy chấp nhận lòng thương xót Chúa, và vì thế phải sống xứng đáng với lòng thương xót Chúa đối với bản thân mình, và phải đáp ứng lòng thương xót Chúa, với tư cách là một người con của Ngài, tư cách của một người con cũng biết "thương xót như Cha là Đấng xót thương" (Luca 6:36), nhờ đó họ mới thật sự chứng tỏ họ sống "sự sống viên mãn", ở chỗ chia sẻ lòng thương xót Chúa với tất cả những người anh chị em đáng thương nhất của mình, nhất là những ai mình không hợp hay họ không hợp với mình.

Và đó là lý do tâm điểm của phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật X Thường Niên Năm A hôm nay, chúng ta thấy nổi bật ý tưởng chính yếu đó là lòng thương xót. Trước hết, ở nơi bài Phúc Âm, qua hai sự kiện sau đây:

Sự kiện đầu tiên là Chúa Giêsu đã tỏ lòng thương một nhân viên thu thuế tên là Mathêu, một con người bị dân chúng thời ấy coi là loại tội nhân, tay sai cho đế quốc và gian tham tiền bạc, nhưng Người vẫn chẳng những không khinh họ mà còn tìm cách cứu họ như một vị lương y nữa, vì, họ "là người đau yếu cần đến thày thuốc". Nghĩa là họ cần được thương xót để họ có thể nhờ đó, nhờ cảm nghiệm được xót thương mà thương xót anh em mình, như Tông Đồ Mathêu sau này đã chia sẻ "sự sống viên mãn" của mình, bằng máu tử đạo của ngài.

Sự kiện thứ hai là Người nhắc nhở cho thành phần biệt phái, vốn tự cho mình là công chính, theo tinh thần duy luật của họ, khinh dể người khác, xa lánh tội nhân là thành phần lỗi luật Chúa, như họ đã tỏ ra trong bài Phúc Âm hôm nay, và Người thật sự đã thức tỉnh họ về những gì đẹp lòng Thiên Chúa nhất, đó là: "'Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ'. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".

Sau nữa, ý chính về lòng thương xót trong toàn bộ phụng vụ Lời Chúa hôm nay còn được tỏ hiện ở nơi Bài Đọc 1, được trích từ Sách Tiên Tri Hosea, trong đó, Ephraim và Giuđa tiêu biểu cho dân Do Thái đã chỉ có một thứ "tình thương như đám mây ban sáng, như sương sớm tan đi", nghĩa là không phản ảnh lòng thương xót Chúa đối với dân của Ngài trong giòng lịch sử của họ, Đấng vì thế đã cho họ biết qua miệng Tiên Tri Hôsêa rằng: "Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu". 

Đó là lý do mới có bài Đáp Ca hôm nay, được Giáo Hội chọn đọc, trích từ Thánh Vịnh 49, với câu đáp là lời Chúa kêu gọi "Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa Cứu độ", nghĩa là chỉ có những ai biết xót thương như Ngài, hơn là chỉ dâng hy tế theo luật truyền bề ngoài, thì mới đáng hưởng ơn cứu độ là ơn được ban cho do lòng thương xót của Ngài, nghĩa là được thông phần và hoan hưởng lòng thương xót của Ngài. Ba câu xướng của Bài Đáp Ca chẳng những liên quan đến lễ vật (câu 2 và 3), mà còn đến thân phận đáng thương cần được xót thương và nhờ đó mới biết thương xót (câu 3), như sau

1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn.

2) Nếu Ta đói, Ta không cần phải nói với ngươi, vì Ta là chủ địa cầu và mọi cái chứa đầy trong đó. Phải chăng Ta thèm ăn thịt bò, hay là Ta thèm uống tiết dê ư?

3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta.

Sau hết, ý chính về lòng thương xót trong toàn bộ phụng vụ Lời Chúa hôm nay còn được tỏ hiện ở nơi Bài Đọc 2, được trích từ Thứ gửi Rôma của Thánh Phaolô, trong đó, vị tông đồ dân ngoại đã nhắc nhở Kitô hữu thuộc giáo đoàn Roma về gương tin tưởng vào lòng thương xót Chúa của tổ phụ Abraham, Đấng đã tỏ lòng thương vợ chồng cặp tổ phụ luống tuổi mà hoàn toàn son sẻ này, đã hứa ban cho họ một người con mà họ không thể nào tự sinh sản theo tự nhiên được nữa. Thánh Phaolô đã diễn tả lòng tin tưởng của ông được Chúa muốn thấy nơi ông như sau:

"Mặc dầu Abraham tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: 'Dòng dõi ngươi sẽ như thế'. Và lòng tin ông không nao núng, mặc dầu ông nhìn đến thân xác cằn cỗi của mình - vì ông đã gần trăm tuổi -, và tuổi già tàn tạ của Sara. Ông đã không cứng lòng hồ nghi lời hứa của Thiên Chúa, trái lại, ông vững tin mà làm sáng danh Thiên Chúa, ông biết chắc chắn rằng Thiên Chúa có quyền năng thi hành điều Người đã hứa".

Lý do khiến Thánh Phaolô trưng dẫn gương tin tưởng vào lòng thương xót Chúa của tổ phụ Abraham, như thành nhân đã khẳng định ý định của mình:

"Bởi đấy, 'việc đó đã được kể cho ông là sự công chính'. Vì khi chép rằng: 'Ðã được kể cho ông', thì không phải chỉ chép vì ông mà thôi, mà vì chúng ta nữa

Tại sao? Chính ngài đã tỏ bày ngay sau đó với Kitô hữu Roma, thành phần ngài nhắc nhở họ rằng, họ cũng là "những kẻ tin vào Ðấng đã cho Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, từ cõi chết sống lại, Người đã bị nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã sống lại để chúng ta được công chính hoá". Như thể thánh nhân ngầm bảo họ rằng: Thiên Chúa đã thương xót Kitô hữu chúng ta là tội nhân nơi cuộc Vượt Qua của Con Ngài, nhờ đó những ai chấp nhận lòng thương xót Chúa đã "được công chính hóa" rồi đó, và chính vì được công chính hóa nhờ bởi lòng thương xót Chúa thì cũng hãy sống công chính bằng việc biết xót thương như Ngài đã xót thương họ vậy.

 

 

Thứ Hai

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 17, 1-6

"Êlia đứng trước tôn nhan Chúa, Thiên Chúa Israel".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Êlia người Thesbê thuộc miền Galaad, tâu vua Acáp rằng: "Có Chúa là Ðấng hằng sống, Thiên Chúa dân Israel, mà tôi đứng trước tôn nhan! Trong những năm sắp tới, sẽ không có sương mà cũng không có mưa, nếu tôi không ra lệnh". Và Chúa đã phán cùng Êlia như sau: "Ngươi hãy bỏ nơi này, đi về hướng đông và ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Nơi đây ngươi sẽ uống nước suối, và Ta đã truyền cho chim quạ nuôi ngươi". Vậy ông trẩy đi và làm như lời Chúa dạy. Ông đến ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Sáng sớm quạ đem cho ông bánh và thịt; ban chiều quạ cũng lại đem cho ông bánh và thịt, và ông uống nước suối.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 120, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8

Ðáp: Ơn phù trợ của tôi do nơi danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời (c. 2).

Xướng: 1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ của tôi do nơi danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời. - Ðáp.

2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té, Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say. - Ðáp.

3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm. - Ðáp.

4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến, Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi, khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 1-12

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".

"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy".

Ðó là lời Chúa. 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Sự sống chiếu tỏa

 

Suy Niệm


Hôm nay, Tuần X Thường Niên, theo phụng vụ cho ngày thường trong tuần, dù chu kỳ phụng niên thuộc năm lẻ hay năm chẵn (giành cho chỉ bài đọc 1), bắt đầu sang Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, sau 9 tuần lễ đầu theo Phúc Âm của Thánh ký Marco. 

 

Và đoạn Phúc Âm đầu tiên của Phúc Âm Thánh kỳ Mathêu được Giáo Hội chọn đọc để tiếp nối các bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho 9 tuần lễ đầu của Mùa Thường Niên đó là đoạn về Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi của Chúa Giêsu huấn dụ các môn đệ của Người. 

 

Mối liên hệ giữa việc chuyển tiếp từ Phúc Âm Thánh ký Marco ở cuối đoạn 12 cho Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên sang Phúc Âm của Thánh ký Mathêu ở đoạn 5 cho Thứ Hai Tuần X Thường Niên thật là khít khao và tuyệt vời. Ở chỗ, trong bài Phúc Âm cuối cùng của Thánh ký Marco cho Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên trước, Chúa Giêsu vừa mới chỉ cho các tông đồ thấy gương sống trọn lành của bà góa 1 xu, thì trong bài Phúc Âm Thứ Hai bắt đầu của Thánh ký Mathêu (5:1-12) Tuần X Thường Niên này Người nói ngay với các tông đồ v Các Phúc Đức Trọn Lành.

 

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy".


Trong bài Phúc Âm về Phúc Đức Trọn Lành này, Thánh ký Mathêu đã mô tả một cảnh tượng rất thích hợp với nội dung của bài giảng Phúc Đức Trọn Lành ấy: "Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng...". 


Trước hết, về thời điểm, bài giảng này của Chúa Giêsu chỉ được Người thực hiện và chỉ xẩy ra vào lúc "khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi...", tức là vì dân chúng mà có bài giảng này, nhưng, ngay câu sau đó lại cho thấy lại bài giảng này giành riêng cho các tông đồ, nghĩa là giáo huấn của Người được truyền đạt từ cao (tấm mức tông đồ, Giáo Hội) xuống thấp (tầm mức dân chúng, giáo dân, cộng đồng)

 

Sau nữa, về địa điểm, bài giảng này được Chúa Giêsu giảng không phải là dưới thung lũng, hay ở đồng bằng, hoặc trong thành phố, hay ở trên thuyền ngoài bờ biển như các lần khác sau này, mà là ở trên "núi", một biểu hiệu cho ý nghĩa trọn lành, sống trổi vượt hơn thế gian, hơn phàm nhân; 

 

Sau hết, về tính cách, bài giảng này được Chúa Giêsu giảng một cách thân tình, ở tư thế "ngồi xuống" với thành phần "các môn đệ đến gần Người" để Người có thể dạy bảo các vị những gì giúp các vị "là ánh sáng thế gian" (5:14). Cử chỉ "ngồi" đây còn ám chỉ quyền giảng dạy của Chúa Giêsu nữa, một quyền giảng dạy được Người trao ban cho chung Tông Đồ Đoàn (xem Mathêu 18:18) và cho riêng Tông Đồ Phêrô (xem Mathêu 16:19), một quyền bính được Giáo Hội hằng năm tưởng kính nơi phụng vụ Lễ "Ngai Tòa Thánh Phêrô - Chair of Peter" vào ngày 22/2 hằng năm. 

 

Một chi tiết được Thánh ký Mathêu ghi nhận cũng cần lưu ý ở đây nữa là: "lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người", tức là thế giá và uy tín của Chúa Giêsu đã lôi kéo các môn đệ đến cùng Người, và chỉ có từ Chúa Kitô và bởi lằng nghe Chúa Kitô, thấm nhuần giáo huấn của Người, các tông đồ mới có thể trở thành chứng nhân tiên khởi của Người và cho Người sau này.  


Nếu căn cứ vào các chữ "phúc" ở đầu mỗi phúc thì có tất cả là 9 Phúc hơn là chỉ có 8 phúc. Và phúc nào cũng ngược đời hết. Ở chỗ, trong khi thế gian cho những 9 điều được Chúa Giêsu gọi là và cho là phúc thì họ cho là khốn, đặc biệt là 3 phúc đầu và 2 phúc cuối. Theo tu đức Kitô giáo vốn có 3 bậc hay 3 giai đoạn nên trọn lành thì 9 phúc được Chúa Giêsu liệt kê theo thứ tự trong bài Phúc Âm hôm nay, về ý nghĩa liên hệ của của chúng với nhau, có thể được ghép lại thành 3 phúc cho một giai đoạn hay một bậc nên trọn lành. Chẳng hạn, 3 phúc đầu (1-2-3) thuộc về bậc hay giai đoạn tu đức khởi sinh (từ bỏ), 3 phúc tiếp theo (4-5-6) thuộc về bậc hay giai đoạn tu đức tiến sinh (tập đức), và 3 phúc cuối cùng (7-8-9) thuộc về bậc hay giai đoạn tu đức hiệp sinh (nên một).

 

Tuy nhiên, trước hết và trên hết, các phúc đức trọn lành ở Bài Giảng Trên Núi Chúa Kitô giảng dạy cho riêng các tông đồ đây, cũng chính là hoạch định huấn luyện tông đồ đoàn của Chúa Giêsu, khi Người còn sống với các vị.

 

4 phúc đức đầu là điều kiện các vị cần có để theo Người: 1- tinh thần nghèo khó, như 2 cặp anh em Anrê và Simon cùng Giacôbê và Gioan đã nghề chài lưới (xem Mathêu 4:18-22), hay chàng Levi đã bỏ nghề thu thuế giầu có để theo người (xem Mathêu 9:9); 2- cuộc sống hiền lành, không ham hố gì khác, nên đã được gấp trăm ngay ở đời này (xem Mathêu 19:29 - ám chỉ "được đất làm của mình vậy"); 3- tuy nhiên, không phải vì thế mà các vị, những con người vào qua cửa hẹp (xem Mathêu 7:13) đầy gian nan khốn khó trắc trở, không cảm thấy buồn đau tiếc nuối theo bản tính tự nhiên của con người; 4- nhưng nhờ thế các vị mới thực sự tỏ ra là các vị hết lòng chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài mà thôi (xem Mathêu 6:33).

 

5 phúc đức trọn lành cuối là những tinh thần các vị cần có mới có thể theo Thày đến cùng và làm chứng cho Người sau này: 5- có lòng xót thương, chứ không như cặp anh em Gioan và Giacôbê xin Thày sai lửa trời xuống thiêu rụi một làng ở Xứ Samaria vì họ đã không tiếp đón Thày (xem Luca 9:54); 6- nhờ tấm lòng xót thương này các vị mới có thể được nên một với Thày, mới có cái nhìn cảm thương bác ái, mới biết động lòng thương ; 7- cũng nhờ biết động lòng thương như Chúa Kitô (xem Mathêu 9:36,14:14), các vị mới có thể xây dựng hòa bình và hiệp nhất, ở chỗ, như Người đến không phải tìm hưởng thụ (như tranh ngôi thứ với nhau trong nội bộ) mà là phục vụ (xem Mathêu 20:28), là trở nên mọi sự cho mọi người (xem 1Corinto 9:22); 8- thậm chí vì sống công chính và trọn lành, như ánh sáng chiếu trong tăm tối (xem Gioan 1:5), mà thế gian vồn yêu tối tăm hơn ánh sáng (xem Gioan 3:19), đã không thể chấp nhận các ngài, đã bách hại các ngài (xem Gioan 15:18-20); 9- nhưng nhờ đó các ngài lại trở nên giống Thày và làm chứng cho Thày hơn nữa.

 

Cảm Nghiệm

 

Có thể nói hình ảnh một Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 cho năm chẵn hôm nay là một hình ảnh siêu thoát, sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian. Ở chỗ, trong khi thế gian bị hạn hán, một hình ảnh tiêu biểu cho khô cằn tàn úa và chết chóc bởi tội lỗi, sự dữ và gương mù gương xấu v.v., thì vị tiên trị sống ẩn khuất theo lời Chúa này lại được chính Ngài chăm sóc và dưỡng nuôi.

 

"Trong những ngày ấy, Êlia người Thesbê thuộc miền Galaad, tâu vua Acáp rằng: 'Có Chúa là Ðấng hằng sống, Thiên Chúa dân Israel, mà tôi đứng trước tôn nhan! Trong những năm sắp tới, sẽ không có sương mà cũng không có mưa, nếu tôi không ra lệnh'. Và Chúa đã phán cùng Êlia như sau: 'Ngươi hãy bỏ nơi này, đi về hướng đông và ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Nơi đây ngươi sẽ uống nước suối, và Ta đã truyền cho chim quạ nuôi ngươi'. Vậy ông trẩy đi và làm như lời Chúa dạy. Ông đến ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Sáng sớm quạ đem cho ông bánh và thịt; ban chiều quạ cũng lại đem cho ông bánh và thịt, và ông uống nước suối".

 

Đời sống bởi Chúa và trong Chúa của vị tiên tri này là một đời sống thật hạnh phúc. Đến độ, vị tiên tri này dường như có thẩm quyền và quyền năng gây ra hạn hán và mưa rơi tùy ý: "Có Chúa là Ðấng hằng sống, Thiên Chúa dân Israel, mà tôi đứng trước tôn nhan! Trong những năm sắp tới, sẽ không có sương mà cũng không có mưa, nếu tôi không ra lệnh".

 

Theo dự án thần linh của Thiên Chúa, quả thực ơn cứu chuộc của Người được Chúa Kitô thực hiện và ban phát cho chung toàn thể nhân loại, nhưng qua môi giới Giáo Hội của Người được Người thiết lập để làm bí tích và phương tiện cứu độ, đến độ, khi sống lại từ trong kẻ chết, vào tối ngày thứ nhất trong tuần, Người đã hiện ra với chung các môn đệ lần đầu tiên mà thở hơi trên họ và phán: "Các con hãy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại" (Gioan 20:21-22). 

 

Cuộc đời các vị thánh trong Giáo Hội cũng thế, dường như vận mệnh thế giới và của nhân loại đều nằm ở trong tay của các vị, như số phận của thành Sodoma và Gomorra lệ thuộc vào việc can thiệp của tổ phụ Abraham, hay số phần sống còn của dân Do Thái hai lần ở trong tay của Moisen vậy. Nghĩa là thế gian này hay nhân loại ở trong thế gian tối tăm chết chóc lệ thuộc vào một số linh hồn ưu tú sống đúng với bản chất của mình "là muối đất" và "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:13,14).

 

Và thành phần môn đệ của Chúa Kitô chỉ có thể sống đúng với bản chất "là muối đất" và "là ánh sáng thế gian" khi họ sống các phúc đức trọn lành được Chúa Giêsu giảng dạy riêng cho các vị trong bài giảng trên núi, bắt đầu từ bài Phúc Âm hôm nay. Họ là những tâm hồn luôn "ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao" để tìm kiếm Chúa, để nhận biết ý Chúa, để đáp ứng ý Chúa, để cậy trông vào Chúa, để Chúa có thể thực hiện tất cả mọi sự nơi họ và tỏ mình ra qua họ, theo tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay.

 

 

1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ của tôi do nơi danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời.

2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té, Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say.

3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm.

4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến, Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi, khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời.

 



Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 17, 7-16

"Vò bột không cạn và bình dầu không giảm như lời Chúa đã dùng lời Êlia mà phán".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, giòng suối nơi Êlia ẩn náu đã cạn, vì trong xứ không mưa. Bấy giờ Thiên Chúa phán cùng Êlia rằng: "Hãy chỗi dậy, đi Sarephta thuộc miền Siđon và ở lại đó: Ta đã truyền cho một quả phụ nuôi dưỡng ngươi". Ông liền lên đường đi Sarephta. Khi ông đến trước cửa thành, ông thấy một quả phụ đang lượm củi; ông gọi bà và nói với bà rằng: "Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống". Ðương lúc bà đi lấy nước, ông gọi lại mà nói: "Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh". Bà thưa: "Có Chúa là Thiên Chúa hằng sống chứng giám: Tôi không có sẵn bánh, tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Này đây tôi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn, rồi chết thôi". Êlia trả lời bà rằng: "Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy, trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: "Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi, cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất". Bà đi làm theo lời ông Êlia; chính ông và bà cùng cả nhà đều đủ ăn; từ ngày đó, hũ bột không cạn và bình dầu không vơi, như lời Chúa đã dùng Êlia mà phán.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 4, 2-3. 4-5. 7-8

Ðáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con (c. 7b).

Xướng: 1) Khi con cầu, nguyện Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn khốn khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu. Người quyền thế, các ông cứng lòng tới bao giờ nữa? Tại sao say đắm bả phù hoa và kiếm chuyện sai ngoa? - Ðáp.

2) Nên biết rằng Chúa biệt đãi thánh nhân Ngài, Chúa sẽ nghe tôi khi tôi cầu khẩn Chúa. Hãy run lên và thôi phạm tội, hãy hồi tâm nghĩ lại trên giường nằm, và hãy lặng thinh. - Ðáp.

3) Nhiều người nói: "Ai chỉ cho ta thấy điều thiện hảo?" Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con. Chúa đã gieo vào lòng con niềm vui, vui hơn tụi kia khi chúng tràn đầy lúa rượu. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 13-16

"Các con là sự sáng thế gian".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".

Ðó là lời Chúa. 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

sức sống nội tâm 

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần X Thường Niên hôm nay tiếp tục ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, một bài Phúc Âm về Các Phúc Đức Trọn Lành được Chúa Giêsu chỉ dạy riêng cho các môn đệ thân tín của Người, để các vị có thể "giảng dạy cho họ tất cả những gì Thày đã truyền dạy các con" (Mathêu 28:20), trước hết bằng đời sống chứng nhân của các vị, như "ánh sáng" chiếu tỏa trên "thế gian" này. 

 

Đúng thế, nội dung của những lời Chúa Giêsu tiếp tục dạy cho các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay (5:13-16) đã cho thấy rõ ý hướng của Người, như câu mở đầu của bài Phúc Âm hôm qua, tỏ lộ, ở chỗ Người dạy riêng cho các môn đệ nhưng nhắm đến lợi ích chung dân chúng và riêng đoàn chiên của các vị sau này: "Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng...".

 

Đó là lý do Người đã khẳng định với các môn đệ của Người rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".

 

Chúa Giêsu đã ví các môn đệ của Người như "muối đất" và như "ánh sáng thế gian". Tại sao Người không đề cập đến "ánh sáng thế gian" trước mà là "muối đất" trước. Phải chăng Người có ý nói đến 2 phương diện tối yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly của thành phần môn đệ được Người tuyển chọn, đó là phương diện nội tâm (cần phải có trước) và phương diện làm chứng (thành quả tất yếu đến sau)? 

 

Đúng vậy, nếu một người tông đồ mà không có đời sống nội tâm sâu xa mặn mà như "muối đất", trái lại, nội tâm của họ hết sức nông cạn, hời hợt, sống theo tình cảm, đầy ắp kiến thức suông, mang tâm tình tự phụ tự mãn v.v., chẳng kết hợp với Chúa Kitô và theo tác động thần linh của Chúa Thánh Thần, thì làm sao họ có thể có cùng một tâm tưởng của Chúa Kitô, có những lời nói sưởi ấm lòng người như Chúa Kitô, có những tác hành và phản ứng nhân ái yêu thương với Chúa Kitô, và vì thế họ không thể nào làm chứng cho Người theo đúng như ơn gọi và sứ vụ chuyên biệt trổi vượt cao cả của họ như "một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được nữa".

 

Chính vì ý thức được thâm sâu những gì Chúa Giêsu truyền dạy như thế mà Giáo Hội, qua Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962 - 8/12/1965), đã khẳng định về căn tính và sứ vụ chính yếu bất khả thiếu của mình là "Ánh Sáng Chư Dân - Lumen Gentium", nhan đề của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, một căn tính và sứ vụ chiếu soi muôn dân, sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô: "Tự bản chất, Giáo Hội lữ hành là truyền giáo" (Công Đồng Chung Vaticanô II - Sắc Lệnh 'Ad Gentes - Cho Chư Dân' về Việc Truyền Giáo của Giáo Hội - đoạn 2).

 

Cảm Nghiệm

 

Hai hình ảnh thứ tự "muối" trước và "ánh sáng" sau trong Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến bản chất các môn đệ là thành phần theo Người có thể ám chỉ đức tin (muối) và đức mến (ánh sáng) là những gì bất khả thiếu và gắn liền với nhau. Ở chỗ, "đức tin hoạt động qua đức mến" (Galata 5:6). Không có đức tin không thể nào có đức mến, vì đức tin chiếu tỏa ánh sáng đức mến, hay ánh sáng đức tin (lumen fidei - nhan đề bức thông điệp đầu tay của ĐTC Phanxicô ban hành ngày 29/6/2013) chính là đức mến, là những việc làm bác ái yêu thương vậy. 

 

Đúng thế, ngay sau khi giảng huấn cho các vị về Các Phúc Đức Trọn Lành căn bản và chính yếu mà các vị cần phải sống, Chúa Giêsu đã ví hay đã khẳng định căn tính đích thực của các môn đệ của Người "là muối đất" và "là ánh sáng thế gian". Như thế, nếu "muối đất" ám chỉ đức tin tuân phục, và "ánh sáng thế gian" ám chỉ đức ái trọn hảo, thì 4 phúc đức trọn lành đầu tiên: 1- tinh thần nghèo khó, 2- đời sống hiền lành, 3- cảm nghiệm buồn đau và 4- mong ước công chính - bởi nếu không có đức tin tuân phục, không ai có thể sống trọn phúc đức đầu tiên này, không ai dại gì mà sống nghèo khó, hiền lành, buồn khổ và chân chính, những tinh thần ngược lại với bản tính tự nhiên thích sống theo con đường rộng, và vượt lên trên tất cả những gì thuộc về thế gian, phản lại với tâm thức vị kỷ và hưởng thụ của thế gian.

 

Trong khi đó, nhờ sống trọn đức tin tuân phục được tỏ ra qua 4 phúc đức trọn lành đầu tiên này mà thành phần môn đệ của Chúa Kitô mới tiến đến chỗ sống đức ái trọn hảo, qua 5 phúc đức trọn lành sau đó: 5- biết xót thương, nhất là với những người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô (xem Mathêu 25:40,45); 6- sống trong sạch trước nhan Chúa, đơn sơ như trẻ nhỏ trước mọi soi động và ở mỗi tác động của Thánh Thần nơi họ; 7- nhờ đó họ có thể mang lại bình an cho những nơi hận thù chia rẽ sát hại lẫn nhau, bao gồm cả những ai là kẻ thù của họ; 8- nhất là cho thế gian vốn yêu tối tăm hơn ánh sáng (xem Gioan 3:19) muốn dập tắt họ là ánh sáng thế gian là những gì làm chói mắt họ; 9- nhờ đó họ được phần thưởng lớn lao trên trời đó là được nên giống Chúa Kitô hơn ai hết, nơi diễm phúc bản thân họ được trở thành hy tế cứu độ muôn dân như Chúa Kitô: "nhờ Người, với Người và trong Người".

 

Tiêu biểu và gương mẫu cho đức tin tuân phục và đức ái trọn hảo này là bà góa dân ngoại trong Bài Đọc 1 hôm nay, nếu không có niềm tin tưởng mãnh liệt phi thường, bà đã không thể nào thực hiện một việc bác ái yêu thương với vị tiên tri của dân Do Thái, mà có thể bà chưa hề biết đến hay gặp gỡ bao giờ, ở chỗ bà đã dám liều lĩnh làm theo điều vị tiên tri này bảo bà làm, cho dù bà và người con trai duy nhất của bà có phải chết sớm hơn bởi bà bớt phần ăn của hai mẹ con bà cho vị tiên tri lạ mặt người dưng nước lã ấy, theo như lời ông yêu cầu.

 

Qua cử chỉ bác ái yêu thương đầy tin tưởng ấy của bà góa thành Sarephta, không thể phủ nhận là nơi bà góa này quả thực vừa có muối tin tưởng và ánh sáng yêu thương. Và chính vì lòng tin như muối của bà đã chẳng những làm cho từ bà chiếu tỏa ra ánh sáng đức tin là các việc bác ái yêu thương mà còn làm cho hai mẹ con bà thậm chí đã không trở thành hai thây ma thối rữa bởi chết đói như bao nhiêu người khác thuộc cùng một khu vực bị hạn hán trong một thời gian kéo dài lúc bấy giờ.

 

"Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con", câu Đáp Ca hôm nay quả thực đã ứng ngjiệm nơi cả Tiên Tri Elia và bà góa ở Sidon, vì cả hai đều có muối và ánh sáng, hai nhân vật tiêu biểu cho huấn dụ của Chúa Kitô với các môn đệ của Người, thành phần mà Người muốn họ phải "là muối đất" và "là ánh sáng thế gian": "muối đất" để thế gian khỏi hư thối bởi nội tâm nguyện cầu và đời sống khổ chế cùng khổ đau của họ, và "ánh sáng" để làm chứng cho thế gian để họ nhận biết Chúa Kitô "là đường, là sự thật và là sự sống" (Gioan 14:6).

 

Hiệp cùng Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa tâm nguyện sau đây:

 

1) Khi con cầu, nguyện Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn khốn khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu. Người quyền thế, các ông cứng lòng tới bao giờ nữa? Tại sao say đắm bả phù hoa và kiếm chuyện sai ngoa?

2) Nên biết rằng Chúa biệt đãi thánh nhân Ngài, Chúa sẽ nghe tôi khi tôi cầu khẩn Chúa. Hãy run lên và thôi phạm tội, hãy hồi tâm nghĩ lại trên giường nằm, và hãy lặng thinh.

3) Nhiều người nói: "Ai chỉ cho ta thấy điều thiện hảo?" Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con. Chúa đã gieo vào lòng con niềm vui, vui hơn tụi kia khi chúng tràn đầy lúa rượu.  

 


                                                                                                                                                                                                 Thứ Tư

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II)  1 V 18, 20-39

"Chớ gì dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa đã hoán cải lòng họ".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Vua Acáp sai người triệu tập toàn thể con cái Israel và nhóm họp các tiên tri trên núi Carmel.

Bấy giờ Êlia đến cùng toàn dân và tuyên bố rằng: "Các ngươi đi nước đôi cho đến khi nào? Nếu Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy theo Người; nếu Baal là thiên chúa, thì hãy theo nó đi!" Dân chúng không thưa lại được lời nào. Êlia nói tiếp: "Chỉ còn tôi là tiên tri duy nhất của Chúa, mà tiên tri của Baal thì có đến bốn trăm năm mươi người. Hãy cho chúng tôi hai con bò đực; họ hãy chọn lấy một con cho họ, xẻ ra từng miếng đặt trên củi, nhưng đừng đốt lửa. Phần tôi, tôi làm thịt con bò kia, xếp trên củi và cũng không châm lửa. Ðoạn các ông hãy kêu cầu danh các thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh Chúa của tôi. Ðấng nào đáp lời cho lửa xuống đốt, thì Ðấng ấy là Thiên Chúa". Toàn dân đồng thanh đáp: "Ðề nghị hay đấy!"

Vậy Êlia nói với các tiên tri của Baal rằng: "Các ông hãy chọn lấy một con bò và làm thịt trước đi, vì các ông đông hơn, rồi hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng đừng châm lửa". Họ liền bắt con bò người ta trao cho mà làm thịt. Họ kêu cầu danh Baal từ sáng đến trưa và nguyện rằng: "Lạy thần Baal, xin nghe lời chúng tôi!" Nhưng chẳng có tiếng đáp, cũng chẳng ai trả lời. Họ nhảy múa chung quanh bàn thờ họ đã dựng lên. Khi trời đã trưa, Êlia chế diễu họ rằng: "Hãy gào thét to hơn, vì Baal là một vị thần. Có khi Người đang là tính công chuyện hoặc đang bận việc, hoặc đi vắng, hay đang ngủ chăng, và sẽ thức dậy". Họ càng kêu lớn tiếng, lấy gươm giáo rạch mình theo tập tục họ, cho đến khi mình đầy máu me. Khi đã quá trưa, họ còn đọc thần chú đến giờ dâng lễ vật thường lệ, nhưng không có tiếng đáp, cũng chẳng có ai trả lời tỏ dấu lưu tâm đến.

Bấy giờ Êlia nói với toàn dân rằng: "Hãy lại gần tôi". Toàn dân liền đến gần bên ông. Ông dựng lại bàn thờ Chúa trước kia đã bị phá huỷ. Ông lấy mười hai hòn đá đúng theo số mười hai chi tộc con cái Giacóp, là kẻ đã được nghe lời Chúa phán như sau: "Ngươi sẽ gọi là Israel". Ông dùng các hòn đá ấy làm bàn thờ kính danh Chúa. Rồi ông đào một cái mương, rộng chừng hai đấu hạt giống, chung quanh bàn thờ; ông xếp củi, xẻ con bò ra từng miếng và đặt trên củi. Ðoạn ông nói: "Hãy múc đầy bốn hũ nước và đổ trên của lễ toàn thiêu và củi". Và họ làm như thế. Ông còn dạy: "Hãy làm như vậy một lần thứ hai". Khi người ta đã làm như ông dạy, ông lại ra lệnh: "Hãy làm như thế một lần thứ ba". Và họ làm lần nữa. Nước chảy chung quanh bàn thờ, mương đầy nước.

Khi đã đến giờ dâng của lễ toàn thiêu, tiên tri Êlia tiến ra cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, xin tỏ ra Chúa là Thiên Chúa của Israel và con là tôi tớ của Chúa, và chính vì tuân lệnh Chúa truyền mà con đã làm các việc này. Lạy Chúa, xin nhậm lời con, xin đoái nghe lời con, hầu cho dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa hoán cải lòng họ". Bấy giờ lửa Chúa giáng xuống thiêu đốt của lễ toàn thiêu, củi, đá và cả bụi đất, đồng thời cũng hút hết nước trong mương. Trông thấy thế, toàn dân kinh hãi sấp mặt xuống đất mà nói rằng: "Chúa là Thiên Chúa! Chúa là Thiên Chúa!"

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a. 4. 5 và 8. 11

Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).

Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con. - Ðáp.

2) Thiên hạ tăng thêm nhiều nỗi đau thương của họ, họ là những kẻ chạy theo các thần tượng ngoại lai. Con sẽ không dâng lễ quán bằng máu của chúng, cũng không đọc tên chúng trên môi. - Ðáp.

3) Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.

4) Chúa sẽ chỉ cho con đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 17-19

"Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

                                                                                                    Luật Thánh bất diệt

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư trong Tuần X Thường Niên, vẫn tiếp tục và theo sát bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia cả về đoạn 5 lẫn 3 câu tiếp ngay sau 2 bài Phúc Âm Thứ Hai và Thứ Ba đầu tuần.

 

Trong bài Phúc Âm này, Chúa Giêsu khẳng định 3 điều rất quan trọng, thứ tự như sau: 

 

1- Lề luật cần được Người kiện toàn hơn là hủy hoại: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn". Trong Đoạn 5 và 6 về Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi này đã làm sáng tỏ lời khẳng định này của Chúa Giêsu, khi Người thường dùng công thức: lề luật thì dạy cho chung Dân Do Thái một cách căn bản như thế này... còn Thày thì dạy cho các con sống trọn lành theo tinh thần của lề luật hơn thế nữa mới xác đáng và mới hoàn toàn. Chẳng hạn việc giữ ngày hưu lễ, ngày mà Người là Chúa của nó (xem Mathêu 12:8) luôn làm lành bằng việc chữa lành (xem Marco 3:4) để cho con người tin mà được cứu độ là những gì Thiên Chúa cố ý làm trong Ngày Thứ Bảy trong việc cứu độ con người ở chỗ con người tin vào Ngài qua Con của Ngài.

 

2- Lề luật là những gì bất biến và vĩnh viễn: "Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành". Bởi vì, lề luật từ Thiên Chúa mà có, nên không bao giờ sai lầm, được Ngài ban bố cho dân Do Thái qua Moisen, để giúp cho dân của ngài sống xứng đáng với Ngài, sống vượt lên trên các dân tộc ngoại bang không nhận biết Chúa nên họ thờ tà thần và sống lăng loàn theo tự nhiên.

 

3- Lề luật là những gì cần phải tuân giữ và giảng dạy một cách chính xác: "Bởi vậy, ai hủy bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời". Chúa Giêsu đến là để làm lề luật của Cha Người ban bố cho dân Do Thái được nên trọn hảo hơn, để nhờ đó họ có thể sống phản ảnh "Cha trên trời là Đấng trọn lành" (5:48), và cũng nhờ đó ai càng tỉ mỉ tuân theo lời Người khuyên dạy càng nên giống Cha, tức càng "cao cả trong Nước Trời".

 

Cảm Nghiệm

 

Còn mang mầm mống nguyên tội và xu hướng về tự nhiên, luôn tìm kiếm đường rộng mà đi hơn là cứ cửa hẹp mà vào (xem Mathêu 7:13-14), nên cho dù con người có nhiều lúc cầu xin cho được biết đâu là ý Chúa mà theo nhưng tìm mãi không ra, bởi có những lúc họ thực sự biết được ý của Ngài rồi, như qua cha linh hướng hay bị lương tâm cắn rứt, lại không dám theo vì những Thiên Chúa muốn bao giờ cũng trái với ý muốn của mình, những gì khiến họ cần phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Ngài (xem Mathêu 16:24), điển hình nhất là trường hợp của tiên tri Gionna được Thiên Chúa sai đến rao giảng thống hối cho thành Ninive (xem Gionna đoạn 1).

 

Lịch sử cứu độ của dân Do Thái cũng cho thấy như vậy. Họ là dân tộc duy nhất trên trái đất này được Chúa là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ ban cho lề luật thánh để họ có thể sống xứng đáng với Ngài là Đấng Thánh và nhờ đó đáp ứng với Giao Ước Thánh của Ngài như Ngài đã hứa với các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp của họ. Thế nhưng, vì sống giữa dân Ai Cập hơn 400 năm, bị lây nhiễm những xu hướng và thói tục đa thần của dân tộc ngoại bang này, cho dù đã được giải phóng và đã từ từ thấy được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của cha ông mình, qua những lần Ngài tỏ mình ra cho họ, nhất là trong cuộc vượt qua vùng đất nô lệ Ai Cập mà về miền Đất Hứa tự do, họ vẫn tiếp tục sống theo xu hướng đa thần và tà thần, hoàn toàn phản lại Luật Thánh của Thiên Chúa.

 

Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ, trái lại, còn thông cảm và thương cảm họ hơn bao giờ hết, không tru diệt họ, như Ngài đã từng muốn thực hiện 2 lần trong 40 năm sa mạc của họ, khi họ tôn thờ bò vàng khi mới thoát khỏi Ai Cập và muốn cùng nhau trở về Ai Cập khi gần đến Đất Hứa. Trong Bài Đọc I cho Năm Chẵn hôm nay, Thiên Chúa vẫn trung thành thương yêu dân tộc được Ngài tuyển chọn cách riêng giữa mọi dân nước trên thế gian này, để chẳng những tỏ mình ra cho họ mà còn cho chư dân nữa, nên Ngài đã sai Tiên Tri Elia đến với họ để tiếp tục đánh động họ, giúp họ tỉnh ngộ mà quay về với Ngài là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, chứ không phải thứ thần Baal nào đó mà họ đang bị đám tiên tri phù thủy của thần này gian trá mê hoặc lừa đảo họ. Thiên Chúa tỏ mình ra qua tiên tri Elia như được Bài Đọc 1 thuật lại đầu tiên như sau:

 

"Bấy giờ Êlia đến cùng toàn dân và tuyên bố rằng: 'Các ngươi đi nước đôi cho đến khi nào? Nếu Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy theo Người; nếu Baal là thiên chúa, thì hãy theo nó đi!' Dân chúng không thưa lại được lời nào. Êlia nói tiếp: 'Chỉ còn tôi là tiên tri duy nhất của Chúa, mà tiên tri của Baal thì có đến bốn trăm năm mươi người. Hãy cho chúng tôi hai con bò đực; họ hãy chọn lấy một con cho họ, xẻ ra từng miếng đặt trên củi, nhưng đừng đốt lửa. Phần tôi, tôi làm thịt con bò kia, xếp trên củi và cũng không châm lửa. Ðoạn các ông hãy kêu cầu danh các thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh Chúa của tôi. Ðấng nào đáp lời cho lửa xuống đốt, thì Ðấng ấy là Thiên Chúa'. Toàn dân đồng thanh đáp: 'Ðề nghị hay đấy!'"

 

Cuối cùng dân của Ngài đã thực sự nhận biết Ngài, như được đoạn cuối của cùng Bài Đọc 1 này thuật lại. Thậm chí qua phép lạ của tiên tri Elia, Thiên Chúa cũng muốn cứu cả chính thành phần tiên tri của thần Baal này, bằng cái chết đền tội của bản thân họ (xem 1 Chư Vương 18:40).

 

"Khi đã đến giờ dâng của lễ toàn thiêu, tiên tri Êlia tiến ra cầu nguyện rằng: 'Lạy Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, xin tỏ ra Chúa là Thiên Chúa của Israel và con là tôi tớ của Chúa, và chính vì tuân lệnh Chúa truyền mà con đã làm các việc này. Lạy Chúa, xin nhậm lời con, xin đoái nghe lời con, hầu cho dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa hoán cải lòng họ'. Bấy giờ lửa Chúa giáng xuống thiêu đốt của lễ toàn thiêu, củi, đá và cả bụi đất, đồng thời cũng hút hết nước trong mương. Trông thấy thế, toàn dân kinh hãi sấp mặt xuống đất mà nói rằng: 'Chúa là Thiên Chúa! Chúa là Thiên Chúa!'"

 

Tuy nhiên, một khi còn sống, con người vẫn còn có thể tiếp tục bất trung, cho dù có thấy được, vào một lúc nào đó, tác động thần linh của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình, thấy được Ngài thực sự hiện diện thần linh trong mình, như lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho thấy, nhất là trong thời kỳ Quan Án trước thời kỳ quân chủ. Bởi thế, họ phải làm sao để luôn ý thức và mang tâm tình cậy trông gắn bó với Thiên Chúa của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con.

2) Thiên hạ tăng thêm nhiều nỗi đau thương của họ, họ là những kẻ chạy theo các thần tượng ngoại lai. Con sẽ không dâng lễ quán bằng máu của chúng, cũng không đọc tên chúng trên môi.

3) Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.

4) Chúa sẽ chỉ cho con đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời!



Thứ Năm

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 18, 41-46

"Êlia cầu nguyện và trời đổ mưa" (Gc 5, 18).

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Êlia tâu cùng Acáp rằng: "Xin bệ hạ lên ăn uống, vì tôi nghe có tiếng mưa to". Acáp liền lên ăn uống. Phần Êlia, ông trèo lên đỉnh núi Carmel, cúi mình xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối. Ðoạn ông nói với người đầy tớ rằng: "Hãy lên đây nhìn về phía biển". Người đầy tớ leo lên, đưa mắt nhìn, rồi thưa ông: "Không có gì hết." Êlia lại nói với y: "Cứ xem lại bảy lần". Ðến lần thứ bảy (nó báo:) "Kìa, có đám mây nhỏ bằng vết chân người, từ biển kéo lên". Êlia liền bảo: "Hãy lên tâu với Acáp chuẩn bị xe xuống gấp kẻo mắc mưa". Ðang lúc vua còn loay hoay thì bỗng trời tối om, mây bao phủ, gió thổi lên, trời đổ mưa như trút. Acáp lên xe đi Giêrahel. Tay Chúa phù hộ Êlia: Ông thắt lưng chạy trước Acáp cho đến khi tới Giêrahel.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 64, 10abcd. 10e-11. 12-13

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa đáng ca tụng trên núi Sion (c. 2a).

Xướng: 1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội, Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần. Sông ngòi của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị cho thiên hạ có lúa mì. - Ðáp.

2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước vào những luống cày, và Ngài san bằng mô cao của ruộng đất, Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa, Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất. - Ðáp.

3) Chúa đã ban cho năm hồng ân, và lốt xe ngự giá của Người khơi nguồn phong phú. Ðống đất hoang vu có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi bận xiêm y hoan hỉ. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 29

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 20-26

"Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.

"Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án". Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc", thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!"

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"vạ lửa địa ngục"


Suy Niệm

 

Trong bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần X Thường Niên hôm nay (Mathêu 5:20-26), Chúa Giêsu bắt đầu cho thấy những gì là căn bản theo lề luật vẫn được thành phần "luật sĩ và biệt phái" tỉ mỉ tuân hành một cách "văn tự", thứ tuân hành của họ "chẳng được vào Nước Trời", và những gì lề luật cần được Người hoàn trọn bằng một tinh thần trọn lành hơn nơi từng khoản lề luật được Người tự ý nêu lên cho các môn đệ của Người thấy.

 

Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại điều luật đầu tiên được Chúa Giêsu nhắc đến liên quan đến điều răn Thứ 5 trong Thập Giới, để dạy các môn đệ của mình sống trọn lành hơn như sau:

 

"Các con đã nghe dạy người xưa rằng: 'Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án'. Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là 'ngốc', thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là 'khùng', thì sẽ bị vạ lửa địa ngục".

 

Ở đây, theo luật cũ thì phạm nhân giết người "sẽ bị luận phạt nơi toà án", còn đối với Chúa Giêsu thì không cần phải phạm tội ác giết người, mà chỉ cần "phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt" rồi. Chưa hết, tội còn nặng hơn nữa nếu "ai bảo anh em là 'ngốc', thì bị phạt trước công nghị". Sau hết, tội càng trầm trọng hơn bao giờ hết với hình phạt tương xứng có thể nói là nặng nhất kèm theo đó là "Ai rủa anh em là 'khùng', thì sẽ bị vạ lửa địa ngục". 

 

Đến đây, đọc lại đoạn Chúa dạy này, chúng ta thấy hình như tội giết người có vẻ nhẹ nhất, không bằng tội nguyền rủa anh em mình là khùng! Hình như Chúa Giêsu muốn ngầm cho các môn đệ của Người biết rằng, nếu con người ta mang tâm tư phẫn nộ giận dữ anh chị em mình, có tâm trạng khinh thường anh chị em mình đến độ dám nguyền rủa anh chị em mình thì kể như họ đã giết anh chị em họ ngay trong tâm hồn của họ, và nếu có súng trong tay họ có thể giết anh em của họ bất cứ khi nào họ muốn, nhất là khi họ không cầm được cơn giận. 

 

Bởi thế, ngay sau đó, Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ, nếu các vị là nạn nhân, chẳng hạn như các vị bị ai hận tức, khinh bỉ chúng ta hay nguyền rủa chúng ta, thi hành một việc rất khó làm, hoàn toàn phản khắc với lý lẽ tự nhiên trần tục, thậm chí bị trần gian coi là nhu nhược và điên khùng, đó là "Nếu các con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em của các con có điều gị bất bình với các con, thì các con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, rồi đi làm hoà với người anh em của các con trước đã, rồi hãy trở lại mà dâng của lễ". 

 

Ở đây, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ thực hành một điều thật là trái khuấy, ở chỗ nạn nhân phải tự động làm hòa với phạm nhân trước, chứ không phải phạm nhân theo phép công bằng phải đi xin lỗi nạn nhân. Hành động trọn lành được Chúa Giêsu dạy đây đã được chính bản thân Người thực hiện, đó là Vị Thiên Chúa bị loài người xúc phạm qua nguyên tổ của họ ngay từ ban đầu đã tự động giải hòa với con người phạm nhân tội lỗi bằng bửu huyết tử giá Con của Ngài (xem Colose 1:20).

 

Hành động bác ái trọn lành khác thường đến phi thường này có thể nói còn có giá trị hơn cả việc con người dâng lễ vật lên cho Thiên Chúa nữa. Hay nói đúng hơn, để xứng đáng dâng lễ vật cho Ngài con người ta còn cần phải yêu thương trọn lành như Ngài, biết tha thứ cho những ai làm khốn mình. Đó là lý do, ở phần đầu Thánh Lễ có nghi thức xám hối, một nghi thức để ngay bấy giờ chúng ta âm thầm tha thứ cho những ai phạm đến chúng ta, như thể chúng ta bỏ của lễ lại mà về làm hòa vậy.

 

Cảm Nghiệm

 

Theo tâm lý tự nhiên, khi lòng mình còn chấp nhất ai, dù họ có thật sự có lỗi hay do tự mình suy ra, thì chính đương sự chủ thể cảm thấy nặng nề, khó thở và cuộc đời của họ tự nhiên trở nên cằn cỗi như một mảnh đất bị hạn hán vậy, cho đến khi có thể tha thứ cho kẻ thù của mình, một tác động họ không thể nào tự mình có thể vượt qua nếu không có ân sủng từ trời cao như mưa tuôn đổ xuống trên tâm hồn càng chấp nhất càng hạn hán khô cằn đầy tàn úa và chết chóc của họ.

 

Thế nhưng, muốn được ơn Chúa, con người cần đến một vị trung gian có thế lực, như vị Tiên Tri trong Bài Đọc 1 cho năm chẵn hôm nay: "Tay Chúa phù hộ Êlia", vị thậm chí đã có thể thấy trước được cả sự kiện mưa xuống trước khi nó xẩy ra. Thật vậy, "trong những ngày ấy, Êlia tâu cùng Acáp rằng: 'Xin bệ hạ lên ăn uống, vì tôi nghe có tiếng mưa to'", nhưng bấy giờ mưa vẫn chưa rơi, cho đến khi người đầy tớ của vị tiên tri này, canh chừng bằng việc "nhìn về phía biển" 7 lần theo lời căn dặn của vị tiên tri ấy, hô lên rằng: "Kìa, có đám mây nhỏ bằng vết chân người, từ biển kéo lên".

 

Chúa Kitô, Vị Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (xem 1 Timôthêu 2:5), cũng đã chỉ cho họ biết dấu chỉ của một trận mưa ân sủng mỗi khi mảnh đất cuộc đời của họ trở nên khô cằn tàn úa chết chóc vì hạn hán gây ra bởi lòng hận thù ghen ghét của họ với tha nhân, đó là hãy tự động làm hòa với phạm nhân, tức là hãy tự động tha thứ cho họ, một tác động chẳng khác gì như họ tự giải thoát bản thân họ khi họ nhốt mình vào ngục tù chấp nhất oán hận.

 

Một khi con người biết tự tha thứ cho nhau, như chính họ được Thiên Chúa thứ tha cho họ, thì họ mới được Ngài "viếng thăm" để rồi nhờ đó ân sủng của Ngài làm cho họ trở nên tươi tốt tràn đầy sức sống như Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:

 

1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội, Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần. Sông ngòi của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị cho thiên hạ có lúa mì.

2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước vào những luống cày, và Ngài san bằng mô cao của ruộng đất, Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa, Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất.

3) Chúa đã ban cho năm hồng ân, và lốt xe ngự giá của Người khơi nguồn phong phú. Ðống đất hoang vu có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi bận xiêm y hoan hỉ.  

 



Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 19, 9a. 11-16

"Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, khi Êlia đã lên núi Horeb của Thiên Chúa, ông trú ẩn trong một cái hang. Có lời Chúa phán cùng ông rằng: "Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa". Bỗng Chúa đi qua; có một cơn gió mạnh xé núi non và nghiền nát đá trước mặt Chúa. Nhưng Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động; Chúa cũng không ở trong cơn động đất. Sau cơn động đất thì có lửa; nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa thì có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe thấy, Êlia liền lấy áo choàng che mặt lại, đi ra đứng ở cửa hang. Bỗng có tiếng nói với ông: "Hỡi Êlia, ngươi làm gì ở đây?" Ông thưa: "Lòng nhiệt thành với Chúa các đạo binh nung nấu con, vì con cái Israel đã phản bội với giao ước của Chúa, phá huỷ các bàn thờ, dùng gươm giết các tiên tri của Chúa, chỉ còn con sống sót và họ đang tìm hại mạng sống con". Nhưng Chúa phán cùng ông: "Hãy lên đường trở về qua lối sa mạc miền Ðamas. Tới nơi, ngươi hãy xức dầu phong Hazael làm vua Syria, xức dầu phong Giêhu con ông Namsi làm vua Israel, và xức dầu cho Êlisê, con Saphat người xứ Abel-Mêhula, làm tiên tri thế ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 7-8a. 8b-9abc. 13-14

Ðáp: Lạy Chúa, con tìm kiếm dung nhan Chúa (c. 8b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Ta". - Ðáp.

2) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Người trong thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con. - Ðáp.

3) Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! - Ðáp. 

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 22b

Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 27-32

"Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Chớ ngoại tình". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi. Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.

"Có lời dạy rằng: "Ai bỏ vợ mình, hãy trao cho vợ một giấy ly dị". Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"ngươi làm gì ở đây?"

 

Suy Niệm

 

Nếu Bài Phúc Âm hôm qua, Bài Giảng về Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Người liên quan đến điều răn thứ 5 là "chớ giết người", thì bài Phúc Âm hôm nay, lời của Người dạy liên quan đến điều răn thứ 9 là "chớ muốn vợ chồng người": "Chớ ngoại tình".

 

Tuy nhiên, hành động "ngoại tình" hay tội "ngoại tình" ở đây, như Chúa Kitô dạy, không phải chỉ ở chỗ trực tiếp liên hệ xác thịt với người khác phái, mà còn ở chỗ, cách riêng với nam nhân, ước muốn hoan hưởng thân xác của người phụ nữ nữa. Chính cái thèm khát dâm dục với bất cứ người phụ nữ nào nơi nam nhân thì họ đã ngoại tình với người nữ ấy rồi, cho dù người nữ ấy không có chồng: "Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ (ở đây Chúa nói trống và nói chung về "người nữ", chứ không phải là người nữ có chồng) mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi".

 

Còn trường hợp họ có chồng mà bị chồng bỏ, không phải vì lý do gian dâm là hành vi hoàn toàn phản nghịch lại với bản chất của hôn nhân vợ chồng nên một xác thịt với nhau (chứ không phải với bất cứ một ai khác ngoài chồng của mình hay vợ của mình), thì người chồng bỏ vợ ấy đã tạo cơ hội chẳng những cho vợ mình ngoại tình mà còn cho cả người nào ăn nằm với nàng nữa: "bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa".

 

Ở đây Chúa Kitô chỉ nói đến trách nhiệm của người chồng bỏ vợ nếu nàng ăn ở với người khác, hay nếu người nam khác ăn nằm với nàng, nhưng không phải vì thế mà Người không bao gồm tội ngoại tình của người chồng, ở chỗ, một khi không có vợ, người chồng bỏ vợ ấy có thể sẽ đi đến chỗ thèm thuồng dâm dục với bất cứ người đàn bà nào không phải là vợ của mình, thậm chí vì đã thèm thuồng người nữ khác ngon hơn vợ của mình nên họ đã bỏ vợ mình, hay họ trực tiếp liên hệ dâm dục với những người đàn bà mà chàng cảm thấy bị thu hút bất khả chống cưỡng, khi không còn vợ nữa, đến độ họ có thể cưỡng hiếp người ta khi bị chống cự cho thỏa mãn thú tính lăng loàn của họ.

 

Cảm Nghiệm

 

Một trong những lý do chính yếu khiến con người sa ngã phạm tội đó là vì họ quên mất sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa trong tâm hồn của họ và trong cuộc đời của họ. Ngài là Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, cho dù những gì sâu thẳm nhất trong thâm tâm của họ, như ước muốn hoan hưởng xác thịt của người nữ nào mà họ đang thèm khát. Và cũng chính vì Thiên Chúa biết cả những gì kín mật nhất và xấu xa của họ như thế mà tác động ước muốn ấy mới xấu xa và có tội phạm đến Ngài.

 

Đó là lý do trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa đã kêu gọi tiên tri Elia, cũng chính là kêu gọi những ai tin vào Ngài, rằng: "Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa". Nghĩa là hãy luôn sống cao thượng hay hướng thượng ("trên núi") trước tôn nhan Chúa, như Đấng thấu suốt mọi sự, không gì có thể che giấu được Ngài. Ngài là vị Thiên Chúa kín nhiệm và sâu thẳm chứ không ồn ào và náo động bề ngoài, đúng như Bài Đọc 1 ám chỉ cho thấy:

 

"Bỗng Chúa đi qua; có một cơn gió mạnh xé núi non và nghiền nát đá trước mặt Chúa. Nhưng Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động; Chúa cũng không ở trong cơn động đất. Sau cơn động đất thì có lửa; nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa thì có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe thấy, Êlia liền lấy áo choàng che mặt lại, đi ra đứng ở cửa hang. Bỗng có tiếng nói với ông: 'Hỡi Êlia, ngươi làm gì ở đây?'"

 

Phải, bất cứ lúc nào trong cuộc đời của mình, nhất là khi sa ngã phạm tội, con người sẽ được Đấng thấu suốt mọi sự khách quan đặt vấn đề với họ để họ tự vấn: "Hỡi Êlia, ngươi làm gì ở đây?", hay như xưa kia Ngài đã hỏi con người sau khi nguyên tổ ăn trái cấm: "Ngươi đang ở đâu?" (Khởi Nguyên 3:9). Câu hỏi kiểu chất vấn này không phải là chứng cớ cho thấy Thiên Chúa không biết gì, mà là dấu chứng cho thấy Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người và luôn nhẹ nhàng nhắc nhở ý thức của họ về trách nhiệm của họ đối với Ngài là Đấng luôn ở với họ và thấu biết họ hơn chính họ biết họ.

 

Đúng thế, sau khi Tiên Tri Elia trình bày với Thiên Chúa những gì ông (có thể) tưởng Ngài không biết, hay dù Ngài có biết ông cũng cứ lập lại theo lời chất vấn của Ngài, thì ông đã nhận được lệnh của Ngài phải làm gì để giải quyết vấn đề liên quan đến "Lòng nhiệt thành với Chúa các đạo binh nung nấu con", thế mà lại bị chính "con cái Israel đã phản bội với giao ước của Chúa, phá huỷ các bàn thờ, dùng gươm giết các tiên tri của Chúa, chỉ còn con sống sót và họ đang tìm hại mạng sống con".

 

Tuy nhiên, nếu con người luôn ý thức được sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, Quan Phòng mọi sự theo Thánh Ý vô cùng khôn ngoan, thiện hảo và toàn năng của Ngài, không bao giờ bỏ rơi những ai tin tưởng cậy trông vào Ngài, trong khi họ bị cám dỗ sa ngã phạm tội mất lòng Ngài (như tội ngoại tình trong tư tưởng ở Bài Phúc Âm), hay khi họ bị thử thách bách hại vì Ngài, thì họ sẽ có cùng một ý thức và tâm tình của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Ta".

2) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Người trong thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con.

3) Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!  


Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 19, 19-21

"Êlisê chỗi dậy đi theo Êlia".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Êlia xuống núi tìm đến cùng Êlisê, con ông Saphat, đang cày với mười hai đôi bò; chính Êlisê là người dẫn đôi bò thứ mười hai. Êlia tiến đến gần ông và ném áo choàng mình trên ông. Êlisê bỏ đôi bò đó, chạy lại Êlia và thưa rằng: "Xin cho tôi về hôn cha mẹ tôi đã, rồi tôi sẽ theo Ngài". Êlia nói với ông: "Cứ về rồi trở lại, vì ta đã làm gì ngươi đâu?" Êlisê rời Êlia, bắt đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi, nấu thịt bò và đem cho dân chúng ăn. Ðoạn Êlisê chỗi dậy đi theo làm đồ đệ Êlia.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).

Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. - Ðáp.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.

3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát. - Ðáp. 

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 33-37

"Thầy bảo các con: đừng thề chi cả".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: "Ðừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".

Ðó là lời Chúa. 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"ném chiếc áo choàng"

 

Suy Niệm

 

Nếu Bài Phúc Âm Thứ Năm tuần này liên quan đến điều răn thứ 5 "chớ giết người" và bài Phúc Âm thứ 9 "chớ ngoại tình" thì bài Phúc Âm hôm nay, có thể nói, liên quan đến điều răn thứ 8 "chớ làm chứng dối":

 

"Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".

 

Thật ra, nội dung của lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ trong bài Phúc Âm hôm nay, bề ngoài có vẻ liên quan đến giới răn thứ 8 "chớ làm chứng dối", nhưng về tinh thần liên quan đến tính chất chân thật nơi con người, được thể hiện qua lòng trung thành của con người với sự thật bất biến với bất cứ giá nào, không thay đổi hay bóp méo hoặc giảm khinh hay thỏa hiệp sự thật ấy bằng bất cứ cách nào, ở bất cứ khía cạnh nào, vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu: "lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".

 

"Ðừng thề chi cả" đó là lời khuyên dậy vô cùng khôn ngoan của Đấng "là sự thật" (Gioan 14:6), "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), Đấng không bao giờ thề chi hết, cho dù gặp những trường hợp mà theo quan điểm nhân loại cần phải thề để thêm uy tín và lấy lòng tin của đối tượng là dân Người nói chung và các môn đệ của Người nói riêng, nhất là trường hợp các môn đệ bỏ đi sau khi nghe Bài Giảng về Bánh Sự Sống của Người (xem Gioan 6:60,66).

 

Bởi lời của Người chính "là thần linh và là sự sống" (Gioan 6:63) sẽ làm cho những ai tin vào Người nhận biết Người, nhờ đó chính họ sẽ được lời Người là chân lý giải phóng cho họ: "Nếu quí vị sống theo giáo huấn của Tôi thì quí vị thực là môn đệ của Tôi, rồi quí vị sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng quí vị" (Gioan 8:31-32).

 

Cảm Nghiệm

 

Như thế, muốn cho những gì mình nói và làm có một uy tín đáng tin, không cần phải thề thốt gì hết, không cần phải nhân danh một cái gì đó cao hơn mình để chứng giám, để tăng thêm uy tín cùng thế lực thu hút cùng chinh phục lòng người, con người cần phải sống thực với mình, phải sống với tất cả sự thật và sống trong sự thật, đến độ sự thật được hiện tỏ nơi con người họ, nơi tư tưởng, lời nói, việc làm và thái độ của họ, khiến người khác cảm mến và tin theo, nhờ đó những ai tin vào họ cũng được sự thật giải phóng.

 

Hành vi cử chỉ có một tác dụng thần linh của con người sống chân thật như thế, có thể nói, được biểu hiệu nơi cử chỉ Tiên Tri Elia "ném áo choàng mình trên ông (Êlisê)" là người, trong Bài Đọc 1 hôm qua, được Thiên Chúa chọn thay thế Tiên Tri Elia. Thế rồi, tác dụng từ tấm "áo choàng" của Tiên Tri Elia đã khiến cho Elisê hưởng ứng và đáp ứng liền một cách hết sức tích cực, như Bài Đọc 1 đã cho thấy:

 

"'Xin cho tôi về hôn cha mẹ tôi đã, rồi tôi sẽ theo Ngài'. Êlia nói với ông: 'Cứ về rồi trở lại, vì ta đã làm gì ngươi đâu?' Êlisê rời Êlia, bắt đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi, nấu thịt bò và đem cho dân chúng ăn. Ðoạn Êlisê chỗi dậy đi theo làm đồ đệ Êlia".

 

Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô, khi lãnh nhận Phép Rửa, đã được mặc lấy Chúa Kitô là con người mới của họ, nên họ chỉ cần hiệp nhất nên một với Chúa Kitô là họ có thể làm cho Chúa Kitô tỏ mình ra qua họ, nơi lời nói, việc làm và phản ứng đầy Kitô tính của họ, không bao giờ có tính cách phản kitô của họ, nhờ đó, họ trở nên chứng nhân trung thực và sống động của Chúa Kitô, và nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà tất cả những gì xuất phát từ họ đều có một mãnh lực thần linh lôi cuốn và thu hút con người về với Chúa Kitô.

 

Thế nhưng, để đạt được mục đích và tác dụng thần linh tối đa như thế, Kitô hữu cần phải liên lỉ gắn bó với Chúa Kitô, với Thiên Chúa, như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay sau đây:

 

1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.

3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát.