SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XIX Thường Niên Năm A và Lẻ
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: 1 V 19, 9a. 11-13a

"Ngươi hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, khi Êlia đã lên núi Horeb của Thiên Chúa, ông trú ẩn trong một cái hang... Có lời Chúa phán cùng ông rằng: "Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa". Bỗng Chúa đi qua; có một cơn gió mạnh xé núi non và nghiền nát đá trước mặt Chúa; nhưng Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động; Chúa cũng không ở trong cơn động đất. Sau cơn động đất thì có lửa; nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa thì có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe thấy, Êlia liền lấy áo choàng che mặt lại, đi ra đứng ở cửa hang.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14

Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con (c. 8).

Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán báo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong Ðất Nước chúng tôi. - Ðáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và Ðất Nước chúng con sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 9, 1-5

"Tôi đã ước ao được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi xin nói thật trong Ðức Kitô, tôi không nói dối: lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần: là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn. Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác. Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luật, việc phượng tự và lời hứa: các tổ phụ cũng là của họ, và bởi các đấng ấy mà Ðức Kitô sinh ra phần xác, Người là Thiên Chúa trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời.Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 14, 22-33

"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.

Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa!", và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!" Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến!" Phêrô xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con!" Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Reflection on Matthew 14:22-33 | New Life Narrabri


Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Một khi tiến tới chỗ "gặp gỡ nhau" đến độ "hôn nhau âu yếm" thì...



Trong suốt cuộc đời trần thế của mình, "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) là để tỏ mình "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), để "ai tin vào Người thì không bị chết song được sự sống đời đời" (Gioan 3:16), "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), đúng như câu Alleluia hôm nay xướng lên trước Bài Phúc Âm.

Thế nhưng, về ngôn từ, Người không bao giờ tự động tự xưng mình "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", vì liên quan đến giáo quyền Do Thái giáo, cũng như Người không bao giờ tự mình công khai xưng mình rằng "Ta là vua dân Do Thái", vì liên quan đến chính quyền của đế quốc Roma. Đó là lý do chẳng lạ gì Người hay ngăn cấm cả thành phần được Người chữa lành lẫn ma quỉ tiết lộ về Người!

Tuy nhiên, về việc làm, Người liên lỉ tìm cách và lợi dụng mọi sự để ngấm ngầm chứng thực Người "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", chẳng những chính yếu ở chỗ Người không bao giờ làm theo ý riêng của Người mà là ý Đấng đã sai Người: "Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập tự giá" (Philiphê 2:8); "cho dù là Con nhưng Người đã biết tuân phục nơi những gì phải chịu để khi thành toàn Người trở nên căn nguyên cứu độ cho tất cả những ai tín phục Người" (Do Thái 5:8-9), mà còn bằng giáo huấn siêu việt đầy uy thế của Người cũng như bằng quyền năng chữa lành của Người, bao gồm cả quyền năng của Người trên thiên nhiên tạo vật nữa, như trong Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy.

Đúng thế, sau khi tỏ mình cho chung dân Do Thái và riêng các môn đệ tông đồ của mình bằng phép lạ bánh hóa ra nhiều, như được Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật tuần trước thuật lại, Chúa Giêsu còn muốn tỏ mình ra cho riêng thành phần môn đệ tông đồ của Người một cách đặc biệt hơn nữa, khiến cho các vị nói chung và tông đồ Phêrô nói riêng càng tin vào Người hơn.

Người tỏ mình ra cho chung các môn đệ tông đồ, như Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:
 

"Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: 'Ma kìa!', và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!'... Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa'".

 

Người tỏ mình ra cho riêng tông đồ Phêrô, cũng được cùng Bài Phúc Âm thuật lại ngay sau đó như thế này:

"Phêrô thưa lại rằng: 'Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy'. Chúa phán: 'Hãy đến!' Phêrô xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu con!' Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?' Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng".

Sở dĩ tông đồ Phêrô lúc đầu tin tưởng vào Chúa, nhưng sau đó "khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống", là vì ngay lúc bấy giờ vị tông đồ hăng hái này, như Chúa Giêsu sau đó cho biết lòng chàng đã tỏ ra "nghi ngờ", ở chỗ chàng bị ngoại cảnh chi phối, không còn nhìn thẳng vào Chúa nữa, mà chỉ nhìn vào tạo vật hay vào chính biến cố xẩy ra quanh mình. Thực tế sống đạo cũng cho thấy như vậy, ở chỗ, nếu chúng ta là nạn nhân mà chỉ nhìn vào phạm nhân thì chỉ muốn trả thù, cho đến khi nhìn lên Thiên Chúa mới cảm thấy bình an và có thể tha thứ.

Thật vậy chàng tông đồ Phêrô vì bị ngoại cảnh chi phối, đến độ đã lấn át được cả đức tin ban đầu của chàng, nên chẳng lạ gì chàng đã bị mất bình an nội tâm, là chính nơi Chúa tỏ mình ra cho từng tâm hồn như "tiếng gió hiu hiu" mà Tiên Tri Êlia "vừa nghe thấy, liền lấy áo choàng che mặt lại, đi ra đứng ở cửa hang" ở Bài Đọc 1 hôm nay. Các hiện tượng đáng sợ bên ngoài (như "gió bão", "động đất" và "lửa" trong Bài Đọc I) chỉ là hiện tượng hay dấu báo Chúa đến, chứ không phải dấu hiệu Chúa hiện diện, Chúa ở trong, Chúa tỏ mình ra, như nơi "tiếng gió hiu hiu" mà tâm hồn nào biết "đóng cửa lại" (Mathêu 6:6) mới có thể nghe thấy "những gì thì thầm bên tai" (Mathêu 10:27).

Sự kiện "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24) tỏ mình ra nơi Người Con hóa thành nhục thể của Ngài, "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) và việc con người "thuộc hạ giới" tin tưởng chấp nhận Người là tất cả mạc khải thần linh của Ngài, đã được cảm nghiệm thấy và diễn tả một cách rất chính xác như là một cuộc "gặp gỡ nhau" và như là một tác động "hôn nhau âu yếm", được Bài Đáp Ca hôm nay diễn tả ở câu thứ 2:

"Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống". "Lòng nhân hậu" và "đức công minh" là những gì thuộc về thượng giới "từ trời nhìn xuống", còn "đức trung thành" và "sự bình an" là những gì từ con người, ở nơi con người, nên thuộc hạ giới - "từ mặt đất".

Một khi cuộc "gặp gỡ nhau" giữa Thiên Chúa là thần linh, Đấng đã tỏ hết mình ra nơi Đức Giêsu Kitô Con của Ngài và tâm hồn hết lòng tin tưởng vào Ngài cũng như vào Đấng Thiên sai của Ngài lên tới tột đỉnh, đến độ như thể "hôn nhau âu yếm" thì tâm hồn lên tới bậc hiệp sinh chất ngất của linh đạo Kitô giáo này có thể dám hy sinh tất cả, thậm chí hy sinh cả chính phần rỗi của mình nữa cho ơn cứu độ của Chúa Kitô vì tha nhân, như chính cảm nghiệm tận tuyệt này của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đối với dân riêng Do Thái của ngài trong Thư gửi Giáo đoàn Rôma  Bài Đọc 2 hôm nay:

"Anh em thân mến, tôi xin nói thật trong Ðức Kitô, tôi không nói dối: lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần: là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn. Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác. Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luật, việc phượng tự và lời hứa: các tổ phụ cũng là của họ, và bởi các đấng ấy mà Ðức Kitô sinh ra phần xác, Người là Thiên Chúa trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời. Amen".




Thứ Hai

Phụng Vụ Lời Chúa 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 1, 2-5. 24 - 2, 1a

"Ðây là hình lạ trông giống vinh quang của Chúa".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Ngày mồng năm trong tháng, năm thứ năm vua Gioakim bị lưu đày, có lời Chúa phán cùng tư tế Êdêkiel, con của Buzi, ở xứ Calđêa, trên bờ sông Côbar. Chính tại đây, bàn tay Thiên Chúa đã đặt trên tôi.

Tôi nhìn thấy có một cơn gió mạnh từ phương bắc thổi đến. Có một đám mây to lớn và lửa bao bọc chung quanh và bốn bề có ánh sáng phát ra, và ở giữa bầu lửa như vàng pha sáng chói. Chính giữa, có giống gì như bốn con vật hình dáng giống như hình người.

Và tôi nghe tiếng cánh của chúng như tiếng nước lũ, như tiếng của Chúa vạn năng; khi chúng đi thì khác nào như đám đông người, như tiếng đạo quân: khi chúng dừng lại thì chúng xếp cánh xuống. Vì khi chúng nghe có tiếng trên không trung, trên đầu chúng, thì chúng dừng lại và xếp cánh xuống.

Và trên không trung, trên đỉnh đầu chúng, có cái gì như một viên ngọc thạch, hình như chiếc ngai, và trên ngai đó, phía trên hẳn, có hình giống như hình người. Và tôi thấy người như vàng pha sáng chói, bên trong, tứ bề khác nào như lửa, từ lưng người trở lên, và từ lưng trở xuống, tôi thấy có gì như lửa chiếu sáng chung quanh, giống như cái mống hiện ra trên mây trong ngày mưa: đó là hình thể chiếu sáng chung quanh. Ðây là hình lạ trông giống vinh quang của Chúa. Tôi nhìn thấy thì sấp mặt xuống đất.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 148, 1-2. 11-12ab. 12c-14a. 14bcd

Ðáp: Trời đất đầy vinh quang của Người.

Hoặc đáp: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa từ muôn cõi trời, hãy ca tụng Người trên nơi cao thẳm. Các thiên thần Chúa, hãy ca tụng Người đi; ca tụng Người đi, hỡi các đạo thiên binh. - Ðáp.

2) Quân vương địa cầu và tất cả chư dân, quan chức và các vị chính quyền nơi cõi đất, các thanh nhiên và cả những cô trinh nữ, những ông cụ già với đoàn con trẻ. - Ðáp.

3) Họ hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người siêu phàm, độc nhất, oai nghiêm Người tràn lan trên trời dưới đất, và Người nâng cao quyền thế dân Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 17, 21-26

"Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.

Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thuế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: "Thầy các ông không nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có chớ".

Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Ðòi con cái mình hay người ngoài?" Ông thưa rằng: "Ðòi người ngoài". Chúa Giêsu bảo ông rằng: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Hãy tạ ơn Ta vì một ngày mới (God): Lời Hằng Sống: Thứ 2 tuần XIX TN




Cảm Nghiệm Suy Niệm

Nộp Thuế là Nộp Mạng (cả 2 thày trò)

Chu Toàn Bổn Phận | GIÁO XỨ VƯỜN XOÀI, GIAO XU VUON XOAI
Hôm nay, Thứ Hai Tuần XIX Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại cho chúng ta 2 sự kiện liên quan đến lời Chúa Kitô tiên báo lần đầu tiên về cuộc Vượt Qua của Người và liên quan đến vấn đề nộp thuế đền thờ của Người.
Lời Chúa Kitô tiên báo lần đầu tiên về cuộc Vượt Qua của Người: "Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilêa, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại'. Các môn đệ buồn phiền lắm".
Vấn đề nộp thuế đền thờ của Người: "Khi thầy trò tới Caphanaum, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi Phêrô: 'Thầy của các anh không nộp thuế sao?' Ông đáp: 'Có chứ!' Ông về tới nhà, Chúa Giêsu đón hỏi ông: 'Anh Si-môn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?' Phêrô đáp: 'Thưa, người ngoài'. Chúa Giêsu liền bảo: 'Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh'".
Có thể nói 2 sự kiện này có liên hệ mật thiết với nhau, chứ không phải là hai sự kiên hoàn toàn tách biệt chẳng nhắm nhò gì với nhau. Sự kiện thứ nhất là một sự kiện lịch sử và thực hữu. Còn sự kiện thứ hai là một sự kiện cụ thể nhưng mang tính cách của một dụ ngôn, hàm chứ những ý nghĩa ám chỉ sâu xa liên quan tới sự kiện thuú nhất.
Thật vậy, sự kiện chính yếu trong bài Phúc Âm hôm nay là lời Chúa Giêsu tiên báo lần đầu tiên về cuộc vượt qua của Người tử khổ giá tới phục sinh, và sự kiện thứ hai về vấn đề nộp thuế đền thờ của cả Chúa Giêsu và Tông Đồ Phêrô là sự kiện ám chỉ đến cuộc vượt qua của riêng Chúa Giêsu, thậm chí bao gồm cả Tông Đồ Phêrô nữa.
Không phải hay sao, nếu đền thờ là nhà Cha của Người (xem Gioan 2:16), mà Người là Con của Cha, thì Người tất nhiên được ở free, tức là "con cái được miễn" không phải đóng thuế như những "người ngoài", đúng như Người đã nói với tông đồ Phêrô. 
Đền thờ ở đây đồng thời còn ám chỉ đến thân xác của Chúa Kitô (xem Gioan 2:19,21) sẽ bị trao "nộp" (chữ "nộp" trong Việt ngữ ở đây được sử dụng 2 lần cho 2 sự kiện khác nhau trong bài Phúc Âm: "nộp" thuế và "nộp" mạng) cho thành phần giáo quyền trong dân để họ ra tay phá hủy đi. Vậy việc Chúa Giêsu nộp thuế đến thờ ám chỉ việc Người bị nộp vào tay thành phần âm mưu sát hại Người.
Phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu bảo tông đồ Phêrô "ra biển thả câu" để bắt "", một sinh vật ám chỉ đến cái chết của Người trong ngôi mồ, một cái chết đã được tiên báo ở sự kiện Tiên Tri Giona ở trong bụng cá 3 ngày đêm, và nhờ cái chết này của Người mà Người mới có thể trả thuế đền thờ, ám chỉ Người mới có thể xây lại đền thờ thân thể Người bằng cuộc phục sinh của Người?
Chúng ta chắc không thắc mắc về vấn đề làm sao Chúa Giêsu lại biết được con cá đầu tiên Tông Đồ Phêrô câu được lại có "một đồng tiền bốn quan", vừa đủ trả tiền thuế đền thờ cho cả Người và tông đồ Phêrô, cho bằng thắc mắc về vấn đề tại sao số tiền ấy lại chỉ được sử dụng để trả thuế đền thờ cho "phần của Thầy và phần của anh", nghĩa là chỉ cho tông đồ Phêrô mà không cho các tông đồ khác nữa. 
Xin thưa, là vì trong các tông đồ chỉ duy mình tông đồ Phêrô là được Chúa Kitô báo cho biết trước số phận sẽ được kết thúc ra sao (xem Gioan 21:18), một số phận không khác gì của Người và như Người, nên Người đã kêu gọi vị tông đồ thủ lãnh này là "hãy theo Thày" (Gioan 21:19), nghĩa là ngài sẽ "được dự phần với Thày" (Gioan 13:8), ở chỗ ngài cũng sẽ trở thành một vị mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên như Người (xem Gioan 10:11). 
Bài Phúc Âm hôm nay, vấn đề nộp thuế cho Đền Thờ được thành phần thu thuế chất vấn Thánh Phêrô và Thày của ngài về nghĩa vụ nộp thuế cho đền thờ của dân Do Thái. Không biết trước đó thày trò của ngài có thực hiện nghĩa vụ này hay chăng, mà bị họ nghi ngờ chặn hỏi, Thánh Phêrô liền xác nhận ngay rằng "có chứ". Đền Thờ ở đây, đối với Chúa Kitô là chính thân thể của Người, như Người đã từng thách thức thẩm quyền Do Thái cứ phá đi sau 3 ngày Người sẽ dựng đền thờ đó lại bằng cuộc phục sinh của Người (xem Gioan 2:19). Và vinh quang của Đền Thờ là thân xác của Chúa Kitô đây được tỏ hiện rạng ngời nơi Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, nhất là khi Người sống lại từ trong kẻ chết.

Phải chăng vinh quang tỏa ra từ thân xác phục sinh của Chúa Kitô ấy đã được tiên báo bởi tiên tri Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay, như sau: "Tôi thấy người như vàng pha sáng chói, bên trong, tứ bề khác nào như lửa, từ lưng người trở lên, và từ lưng trở xuống, tôi thấy có gì như lửa chiếu sáng chung quanh, giống như cái mống hiện ra trên mây trong ngày mưa: đó là hình thể chiếu sáng chung quanh. Ðây là hình lạ trông giống vinh quang của Chúa".

Vinh quang của Chúa Kitô Vượt Qua, sau khi phục sinh để chiến thắng tội lỗi và sự chết, nơi nhân tính của con người bị nhiễm lây nguyên tội, là vinh quang báo hiệu con người sẽ sống lại vào ngày cùng tháng tận, để nhờ đó, cả thân xác của họ, hay nói đúng hơn, cả nhân tính đã được cứu chuộc của họ cũng được phục sinh vinh hiển như Người, đúng như dự án cứu độ của Thiên Chúa, và mục đích của Chúa Kitô khi thực hiện và hoàn thành công cuộc cứu độ Thiên Sai của Người. Do đó Thánh Vịnh 148 ở Bài Đáp Ca hôm nay mới cảm nhận rằng "Trời đất đầy vinh quang của Người", một cảm nhận của câu đáp này của Bài Đáp Ca được kèm theo tâm tình ngợi khen chúc tụng ở cùng Bài Đáp Ca hôm nay như sau:

1) Hãy ca tụng Chúa từ muôn cõi trời, hãy ca tụng Người trên nơi cao thẳm. Các thiên thần Chúa, hãy ca tụng Người đi; ca tụng Người đi, hỡi các đạo thiên binh.

2) Quân vương địa cầu và tất cả chư dân, quan chức và các vị chính quyền nơi cõi đất, các thanh nhiên và cả những cô trinh nữ, những ông cụ già với đoàn con trẻ.

3) Họ hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người siêu phàm, độc nhất, oai nghiêm Người tràn lan trên trời dưới đất, và Người nâng cao quyền thế dân Người.


Ngày 10 tháng 8

Lễ Thánh Lôrensô, Phó Tế, Tử Ðạo

Lễ Kính

 

Quite Interesting on Twitter: "According to the legend, while ...

 

Bài Ðọc I: 2 Cr 9, 6-10

"Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, ai gieo ít thì gặt ít; ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc vì miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng. Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư tràn mọi ân phúc: để anh em vừa luôn luôn sung túc mọi mặt, vừa còn được dư dật để làm các thứ việc phúc đức, như đã chép rằng: "Người đã rộng tay bố thí cho kẻ nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời". Ðấng đã cung cấp hạt giống cho kẻ gieo và bánh để nuôi mình, thì cũng sẽ cung cấp cho anh em hạt giống dư đầy, và sẽ làm phát triển hoa quả sự công chính của anh em.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 5-6. 7-8. 9

Ðáp: Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay (c. 5a).

Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong đất nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.

2) Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời. - Ðáp.

3) Người không kinh hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng cậy trông vào Chúa. Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, cho tới khi nhìn thấy kẻ thù phải hổ ngươi. - Ðáp.

4) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi; sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 12, 24-26

"Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thật, Ta nói thật với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó".

Ðó là lời Chúa.

Bài đọc 2

Thừa tác viên phục vụ Máu Thánh Đức Ki-tô

Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.

Hôm nay, Hội Thánh Rô-ma mời gọi chúng ta mừng ngày thánh Lô-ren-xô khải hoàn, ngày người đã chà đạp thế gian hung tợn, đã loại trừ thế gian nịnh hót. Thế là tên quỷ dữ tấn công người chịu hai lần thất bại. Như anh em vẫn biết, trong Hội Thánh Rô-ma, người đã thi hành chức vụ trợ tá, đã phục vụ Máu Thánh Đức Ki-tô, đã chịu đổ máu vì danh Đức Ki-tô. Thánh Gio-an tông đồ đã trình bày rất rõ về mầu nhiệm bữa tối của Chúa khi nói : Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Thưa anh em, thánh Lô-ren-xô hiểu điều ấy, người đã hiểu và thực hành. Người được lãnh nhận Đấng trao ban chính mình làm của ăn tại bàn tiệc thánh thế nào, thì người cũng trao hiến chính mình làm của ăn cho người khác như vậy. Khi sống, người yêu mến Đức Ki-tô, thì lúc chết, người cũng bắt chước Đức Ki-tô.

Còn chúng ta, thưa anh em, nếu chúng ta thật lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa. Chúng ta sẽ không thể sinh được hoa trái mến yêu nào tốt hơn là noi gương bắt chước Đức Ki-tô. Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Khi nói thế, dường như thánh tông đồ Phê-rô hiểu rằng : Đức Ki-tô đã chỉ chịu đau khổ vì những ai dõi bước theo Người, và cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô sẽ chẳng lợi ích gì cho ai ngoài những kẻ dõi bước theo Người. Các thánh tử đạo đã theo Người đến nỗi chịu đổ máu, đến nỗi chịu đau khổ như Người. Các thánh tử đạo đi theo Đức Ki-tô, nhưng không phải chỉ có các ngài thôi. Quả thế, các ngài đi qua, cầu vẫn chưa sập ; các ngài uống nước, suối vẫn chưa khô. Thưa anh em, vườn của Chúa đủ loại hoa : không phải chỉ có hoa hồng tử đạo, mà còn có hoa huệ khiết trinh, có dây trường xuân hôn nhân, có hoa tím goá bụa. Anh em thân mến, đừng bao giờ có ai thất vọng về ơn gọi của mình, dầu thuộc hạng người nào đi nữa : Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì mọi người. Kinh Thánh đã chép rất đúng về Người : Chúa là Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.

Vì thế, người Ki-tô hữu vẫn phải biết cách đi theo Đức Ki-tô, mặc dù họ không phải đổ máu, không có nguy cơ phải chịu thương khó. Thánh Phao-lô tông đồ nói về Chúa Ki-tô : Người vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Chúa uy nghi dường nào ! Nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Chúa khiêm hạ biết bao !

Đức Ki-tô đã hạ mình xuống. Hỡi Ki-tô hữu, đó là tấm gương bạn phải noi theo. Đức Ki-tô đã trở thành vâng phục, sao bạn lại kiêu căng ? Rồi sau khi đã hạ mình đến cùng và tiêu diệt sự chết, Đức Ki-tô đã lên trời : Ta hãy đi theo Người. Hãy nghe thánh Phao-lô tông đồ nói : Anh em đã được cùng trỗi dậy với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Xướng đápx. Tv 17 (18),3

XThánh Lô-ren-xô kêu lên rằng : “Tôi chỉ thờ Thiên Chúa của tôi, tôi chỉ phụng sự một mình Người.

ĐCực hình không làm tôi sợ hãi.

XThiên Chúa tôi thờ là núi đá cho tôi trú ẩn, là Đấng giải thoát tôi.”

ĐCực hình không làm tôi sợ hãi.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, chính vì được tình yêu Chúa nung nấu, mà thánh phó tế Lô-ren-xô đã trung thành phục vụ và đạt tới phúc tử đạo vinh quang. Xin cho dân Chúa biết thực hành những điều người dạy, và noi gương người mà yêu mến Chúa và anh em. Chúng con cầu xin

 

Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức Giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Thời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.

Laurensô là ai mà được tôn kính cách đặc biệt như vậy ?

Thánh Laurensô sinh tại Huescô nước Tây Ban Nha. Cha mẹ Ngài là những người đạo hạnh. Ngài sớm từ biệt quê hương thân yêu để đi du học bên Roma và đã sống trót cuộc đời trần thế tại đây. Ngài được chọn thành một trong bảy phó tế của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và Ngài được giao cho trách nhiệm "quản lý tài sản của Giáo hội". Khi sự cấm đạo dưới thời Hoàng đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế khác. Khi Đức Giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Laurensô đi theo khóc lóc nức nở, Ngài hỏi "Cha ơi, cha đi đâu mà không cho nô bộc này theo?" Ðức Giáo hoàng trả lời, "Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta." Nghe thấy thế, Laurensô thật vui mừng, Ngài về phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.

Khi những điều này tới tai Hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô. Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị điệu tới trước viên tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Được dành cho ba ngày để thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài sản phân phát cho kẻ nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valrianô, như là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh. Từ khước, thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn khôi hài nói với hoàng đế:

- Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.

Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Ngài lãnh nhận triều thiên tử đạo vào năm 158.

Thánh Laurensô đã một lòng vì Chúa, vì Giáo Hội, hết lòng yêu thương người nghèo. Xin cho mỗi chúng ta cũng có được tâm tình và lòng quảng đại như thánh nhân. Trung kiên làm chứng cho Chúa dù phải chịu thiệt thòi về phần xác.


(Nguồn: website TGP Sài Gòn)

Thứ Ba

Phụng Vụ Lời Chúa 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 2, 8 - 3, 4

"Người ban cho tôi cuốn sách ấy làm lương thực: nó trở nên ngọt ngào như mật trong miệng tôi".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Chúa phán như thế này: "Phần ngươi, hỡi con người, hãy nghe các lời Ta sẽ phán cùng ngươi; ngươi chớ phản nghịch như loài phản nghịch kia. Hãy mở miệng mà ăn những sự Ta sẽ ban cho ngươi". Tôi nhìn, thì có một bàn tay đưa về phía tôi, trong tay có cuốn sách cuộn lại. Người mở cuốn sách ra trước mặt tôi: sách viết cả mặt trong, mặt ngoài. Trong sách viết những lời than van, rên rỉ và kêu trách.

Người phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, ngươi hãy ăn sự ngươi tìm được. Hãy ăn cuốn sách này và đi nói với con cái Israel". Tôi mở miệng và Người cho tôi ăn cuốn sách ấy và bảo tôi rằng: "Hỡi con người, hãy lấy cuốn sách Ta ban cho ngươi làm lương thực mà ăn cho no". Tôi ăn và nó trở nên ngọt ngào như mật trong miệng tôi. Và Người phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, hãy đi đến nhà Israel và nói cho chúng nghe những lời của Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 14. 24. 72. 103. 111. 131

Ðáp: Các lời sấm của Chúa ngọt ngào trong cổ họng con là dường nào (c. 103a).

Xướng: 1) Con vui vì đường lối lời Ngài nghiêm huấn, dường bằng được mọi thứ giàu sang. - Ðáp.

2) Vì lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích, các thánh chỉ của Ngài là những bậc cố vấn của con. - Ðáp.

3) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.

4) Các lời sấm của Ngài ngon ngọt thay cho cổ họng con, ngọt hơn cả mật ong đổ miệng con. - Ðáp.

5) Lời Ngài nghiêm huấn là sản nghiệp của con muôn đời: vì những điều đó khiến cho lòng con hoan hỉ. - Ðáp.

6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí, vì con ham muốn những chỉ thị của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 18, 1-5. 10. 12-14

"Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi: "Chớ thì ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.

"Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Ðấng ngự trên trời.

"Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, Thầy bảo thật các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con trên trời không muốn để một trong những kẻ bé mọn này phải hư mất".

Ðó là lời Chúa.

 

Indignation in The Disciples, Jesus and Me | Christianity 201

 

Cảm Nghiệm Suy Niệm

 

Như Trẻ Nhỏ: vừa Thánh Nhân vừa Tội Nhân


Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XIX hôm nay chất chứa câu trả lời của Chúa Giêsu được các môn đệ đặt ra về vấn đề "ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời" 

Câu trả lời của Người như thế này: "Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: 'Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời'".
Hành động "gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông" của Chúa Giêsu cho thấy Người rất quí yêu con trẻ, và con trẻ là mô phạm cho cả thành phần môn đệ của Người, thành phần chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng của Giáo Hội được Người thiết lập. Tuy nhiên, trẻ nhỏ là mô phạm cho các vị về tinh thần mà thôi, chứ không phải về thể lý. Bởi thế, Người không bảo các vị rằng "nếu các con không hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ này...", mà là bảo các vị: "ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này...", nghĩa là việc "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" chính là việc "hạ mình xuống". 
Đúng thế, nếu "Nước Trời" đây là chính bản thân Người, mà Người đã "hóa ra như không, mặc lấy thân phận tôi đòi v.v." (Philiphê 2:6), thì chỉ có "ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này..." mới có thể nhận ra Người, chấp nhận Người và đáp ứng Người mà thôi, nghĩa là mới có thể "vào Nước Trời". Ý nghĩa sâu xa của cụm từ "vào Nước Trời" là như vậy, là đến được với Chúa Giêsu, bằng không, không thể nào, như trường hợp của thành phần luật sĩ và biệt phái vừa kiêu kỳ vừa giả hình không đơn sơ chân thật như trẻ nhỏ trong dân Do Thái. 
Chưa hết, việc "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" là "hạ mình xuống" này chẳng những giúp cho con người "vào Nước Trời" là nhận biết Chúa Kitô, mà còn trở thành "kẻ lớn nhất trong Nước Trời" nữa. Ở chỗ được Chúa Kitô yêu thích nhất, được hiệp nhất nên một với Người nhất, như một Con Trẻ Maria "đầy ân phúc" (Luca 1:28), vì Con Trẻ Maria này liên lỉ sống "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự - quả thực Con Trẻ Maria "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45). 
Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu dường như nói đến "trẻ nhỏ" ở hai ý nghĩa trái nghịch nhau. Ý nghĩa thứ nhất là tính cách bé nhỏ "khiêm nhượng" của "trẻ nhỏ" để có thể chẳng những "vào Nước Trời" là gặp gỡ Chúa Kitô mà còn trở nên cao trọng nhất trong Nước Trời là được hiệp nhất nên một với Người. Ý nghĩa thứ hai về "trẻ nhỏ" đó là tính chất "dại dột" vụng về của chúng.
Phải chăng đó là lý do ở phần sau của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã cảnh giác các môn đệ là đừng khinh dể "trẻ nhỏ" ở tính chất dại khờ vụng dại của chúng: "Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này"? Bởi vì, ngay sau đó Người nói đến tình trạng con chiên lạc: "Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao?"
Sở dĩ các môn đệ không được khinh dể thành phần "trẻ nhỏ" dại khờ hèn yếu này là vì 2 lý do: Lý do thứ nhất đó là 
"kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy", và lý do thứ hai đó là: "vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời".  
Thật vậy, trước nhan Thiên Chúa hằng được các thiên thần chiêm ngưỡng trên trời, biết đâu những kẻ tầm thường trên thế gian này, thậm chí những con người tội lỗi đáng khinh bỉ lại được Thiên Chúa tuyển chọn để làm những việc cả thể cho Ngài, như đã từng xẩy ra trong giòng lịch sử loài người nói chung và Giáo Hội nói riêng. Biết đâu thành phần bé mọn yếu hèn này lại biết nhận lỗi và hối lỗi trước nhan Chúa, như người thu thuế trong đền thờ mà lại nên công chính hơn người Pharisiêu cũng cầu nguyện với họ bấy giờ (xem Luca 18:13-14).
Nếu thành phần "trẻ nhỏ" dại khờ hèn yếu chẳng khác gì như "một con chiên lạc" (chứ không phải con dê), được Thiên Chúa chú ý và tìm kiếm cho đến cùng và cho bằng được như thế, thì quả thực từng "con chiên lạc" là những gì rất quí báu trước nhan Thiên Chúa, đến độ "kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy" - Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật, chúng ta không thể nào lại khinh thường những gì được Thiên Chúa yêu thương quí chuộng, nhất là thành phần tội nhân vô cùng đáng thương của Ngài.  

Cả 2 thành phần trẻ nhỏ, theo ý nghĩa lành thánh hay tội lỗi, như trên vừa phân tích, đều đáng quí trước nhan Thiên Chúa, đối với LTXC: con trẻ lành thánh cũng nhờ LTXC mới được lành thánh, nên được Chúa thương thế nào cũng phải thương nhau như thế, còn con trẻ tội lỗi lại càng đáng được thương hơn ai hết và hơn bao giờ hết, nhưng LTXC vẫn có thể biến đổi họ thành con trẻ lành thánh, thành chứng nhân của LTXC và cho LTXC, những chứng nhân trung thực và sống động hơn ai hết, vì họ thực sự đã cảm nghiệm thấy LTXC nơi chính tình trạng khốn nạn, bất xứng và bất lực của họ.

Tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa nếu ở nơi LTXC, nghĩa là LTXC chính là cốt lõi và là nội dung của mạc khải thần linh, thì Lời Sấm của Chúa hoàn toàn về LTXC, mà ai, như tiên tri Ezêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay, tím thấy và nuốt vào bụng, nghĩa là cảm nghiệm thấy LTXC thì không thể không cảm thấy vô cùng ngọt ngào, sau đó mới có thể đi loàn truyền LTXC được, như chính Chúa đã phán với vị tiên tri này như sau:

"'Hỡi con người, ngươi hãy ăn sự ngươi tìm được. Hãy ăn cuốn sách này và đi nói với con cái Israel'. Tôi mở miệng và Người cho tôi ăn cuốn sách ấy và bảo tôi rằng: 'Hỡi con người, hãy lấy cuốn sách Ta ban cho ngươi làm lương thực mà ăn cho no'. Tôi ăn và nó trở nên ngọt ngào như mật trong miệng tôi. Và Người phán cùng tôi rằng: 'Hỡi con người, hãy đi đến nhà Israel và nói cho chúng nghe những lời của Ta'".

Nếu, LTXC là tất cả những Lời Sấm của Thiên Chúa, tức là tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ mình ra cho con người, tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, thì quả là chí lý Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay là "Các lời sấm của Chúa ngọt ngào trong cổ họng con là dường nào", và những tâm hồn nào thực sự nghiệm cảm thấy LTXC đều không thể không vang lên những câu xướng của Bài Đáp Ca hôm nay, như thế này:

 

1) Con vui vì đường lối lời Ngài nghiêm huấn, dường bằng được mọi thứ giàu sang.

2) Vì lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích, các thánh chỉ của Ngài là những bậc cố vấn của con.

3) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn.

4) Các lời sấm của Ngài ngon ngọt thay cho cổ họng con, ngọt hơn cả mật ong đổ miệng con.

5) Lời Ngài nghiêm huấn là sản nghiệp của con muôn đời: vì những điều đó khiến cho lòng con hoan hỉ.

6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí, vì con ham muốn những chỉ thị của Ngài.


 

Ngày 11 tháng 8

Cơ-la-ra, trinh nữ

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Thánh nữ sinh năm 1193 tại Át-xi-di. Năm 18 tuổi, chị xin thánh Phan-xi-cô cho được theo nếp sống khó nghèo. Thánh Phan-xi-cô đã cho chị ở trong một căn nhà tồi tàn, gần nhà thờ thánh Đa-mi-a-nô ở cửa ngõ thành Át-xi-di. Em của thánh nữ tên là A-nê và một số thiếu nữ khác gia nhập nếp sống của chị : sống thanh bần triệt để. Đó là những nữ tu Phan-xi-cô tiên khởi. Chị qua đời năm 1253.

(1194-1253)

Ngày 11/08: Thánh Clara, đồng trinh

1. Đôi dòng tiểu sử.

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Clara đồng trinh.

Cũng như thánh Phanxicô Khó Khăn, thánh nữ Clara là một ngọn đèn thật sáng Chúa đã dùng để làm cho nhân loại hiểu rõ hơn về tinh thần khó nghèo tuyệt đối của Phúc Âm là tinh thần như thế nào.

Clara sinh ngày 16/7/1194 tại Assise miền Ombrie nước Ý, trong một gia đình quý phái. Clara được một người mẹ đạo đức đã lưu tâm dạy dỗ cho ngay từ thuở còn thơ ấu, bằng cả lời nói cũng như bằng gương sáng của mình. Bà đã giáo dục, tập cho Clara biết cầu nguyện, biết sống từ bỏ và biết chịu đựng nhẫn nhục thật sớm.

Lên 16 tuổi, Clara đã tránh xa tiếng ồn ào của đô thị đến ẩn mình trong một nhà thờ ở miền quê (1212). Chính nơi đây Clara đã gặp thánh Phanxicô Khó Khăn và được Ngài tận tình giúp đỡ trên con đường tu đức. Khi Clara chọn con đường dâng hiến cho Chúa, gia đình đã ngăn cản quyết liệt. Clara đã can đảm vượt qua. Cuối cùng Clara đã được đưa đến đền thờ thánh Ðamianô và ở đây Clara đã lập Hội Các Chị Tận Hiến cho Thiên Chúa.

Về đời sống thiêng liêng, ngài trực tiếp theo sự hướng dẫn của thánh Phanxicô Khó Khăn. Ngài điều khiển tu hội cách ân cần và khôn ngoan. Ngài qua đời ngày 11/8/1253 trước sự thương tiếc của mọi người.

Ðức Giáo Hoàng Alexandre IV đã đặt ngài lên hàng các thánh đồng trinh năm 1255.

2. Con đường nên thánh.

Nhìn lại cuộc đời của thánh nữ Clara, chúng ta thấy ngài đã có một ý chí thật cao và mạnh mẽ trên con đường dấn thân đi theo Chúa. Truyền thuyết kể lại ngài đã thầm khấn dâng mình cho Chúa ngay từ lúc 16 tuổi, ngay lúc còn ở nhà để giúp đỡ cha mẹ. Ngài đã kiên nhẫn chờ đợi ngày Đấng Quan phòng ấn định. Và ngày tốt đẹp ấy đã đến. Clara đã hết sức vui mừng khi được biết về cuộc đời kỳ diệu của Phanxicô, con trai của một đại thương gia giàu có người thành Assisi. Clara đã hết lòng cảm phục trước việc Phanxicô dứt khoát từ bỏ mọi sự giàu sang và can đảm thoát ly mọi áp lực trần thế kể cả việc phải từ bỏ cả nhà cha mẹ, để lên đường hiến thân phục vụ Vua Trời trong đời sống khó nghèo.

Nghe biết về con đường của thánh Phanxicô, Clara đã kín đáo tìm đến gặp và nói cho ngài biết tất cả chí hướng về đời sống nội tâm của mình. Riêng Phanxicô, vì được ơn Chúa soi sáng, nên thánh nhân đã mau nhận ra con đường Chúa muốn người con thiêng liêng của mình phải đi là con đường nào. Vì thế, Phanxicô đã âm thầm giúp Clara chuẩn bị ngày công khai đoạn tuyệt thế gian, để xe duyên với “đức khó nghèo”. Ngày ấy là ngày Chúa nhật Lễ Lá năm 1212.

Theo lời chỉ dẫn của thánh Phanxicô, sáng hôm ấy Clara ăn mặc thật diễm lệ, xứng đáng con nhà quý phái. Clara tiến lên, quỳ hàng ghế đầu, như để từ giã mọi người lần cuối cùng. Trước cử chỉ lạ thường của Clara, mọi người quen thuộc đều bỡ ngỡ! Và người ta càng bỡ ngỡ hơn nữa khi thấy Clara không đi kiệu lá, cứ quỳ tại chỗ chăm chú nhìn lên bàn thờ, tay nắm chặt cành lá xanh tươi, tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ đang dâng lên trong tâm hồn… Thế rồi đêm hôm ấy, Clara bỏ nhà cha mẹ, tay cầm cành lá chạy thẳng đến nhà nguyện Nữ Vương các thiên thần, nơi Phanxicô đang quỳ chờ đợi. Trong nhà thờ nhỏ bé dâng kính “Bà Chúa nghèo” này, thánh Phanxicô đã giúp người con thiêng liêng của mình hiến tóc và dâng lòng cho Thiên Chúa. Sau khi dâng hiến cho Chúa mớ tóc huyền, Clara đổi bộ áo diễm lệ ban sáng, mặc lấy chiếc áo thô của đức khó nghèo.

Và dòng nhì thánh Phanxicô hay là dòng Các chị em nghèo được thiết lập từ đó.

Sáng hôm sau, Phanxicô dẫn Clara đến gửi tại một nữ tu viện gần làng Baxia. Nhưng vì không chịu được sự phản đối quá gay gắt của gia đình, Clara lại xin thánh Phanxicô đến lẩn tránh ở một tu viện khác. Tại đây, thánh nữ đã khuất phục được một người em gái tên là Annê. Annê mới 15 tuổi, nhưng dáng người đẹp đẽ và tinh thần sắc sảo không kém gì Clara. Sau Clara, Annê là người thứ hai được Phanxicô cắt tóc và dâng lên Thiên Chúa lời khấn vâng lời, trinh khiết và khó nghèo. Người ta kể, khi gia đình Annê đến, nhất quyết lôi nàng về. Thì lạ thay, con người nhỏ bé của nàng bỗng trở nên rắn cứng và nặng trĩu, đến nỗi bốn năm người kéo không nổi. Biết đó là việc lạ Thiên Chúa làm, mọi người đành yên lặng ra về…

Khi công việc đã êm xuôi, thánh Phanxicô đến lĩnh ý Đức Giám mục xây cho chị em một ngôi nhà nhỏ lấy tên là tu viện thánh Đamianô. Đây là tu viện đầu tiên của dòng các chị nghèo. Tuy nhỏ bé, nhưng số chị em lên rất đông. Đầu tiên chị em sống theo qui luật của chính thánh Phanxicô soạn, nhưng đến năm 1215 công đồng Latêranô sửa đổi lại, tham chiếu theo luật dòng thánh Biển Đức. Bốn năm sau, Đức Hồng Y Ugolinô lại duyệt lại và bỏ bớt những điều luật quá nghiêm ngặt về đời sống khổ nghèo của chị em. Riêng thánh nữ Clara, người được đặc ân của Đức Giáo Hoàng, cho tự do sống khó nghèo vượt hẳn qui luật dòng.

Các nữ tu đều đi chân không, ngủ trên nền đất, không ăn thịt và hầu như giữ im lặng hoàn toàn. (Về sau thánh Clara, cũng như thánh Phanxicô, thuyết phục chị em điều chỉnh điều khắt khe này: “Cơ thể chúng ta không được làm bằng đồng”). Dĩ nhiên, điều nhấn mạnh nhất là sự nghèo khó Phúc âm. Họ không sở hữu tài sản, ngay cả giữ chung, chỉ sống nhờ vào những của bố thí hằng ngày.

Bà chăm sóc các bệnh nhân, hầu bàn, rửa chân cho các chị em khi họ đi hành khất về. Ảnh hưởng của bà mạnh đến nỗi các giáo hoàng, hồng y và giám mục thường đến tham vấn bà. Bà rất sùng kính Thánh Thể. Bà luôn nói với các chị em: “Đừng sợ. Hãy tín thác vào Chúa Giêsu”.

Ngày 11-8 năm 1253, thánh nữ gọi các chị em lại để nhắn nhủ mấy lời cuối cùng: “Chị em thân mến! Tôi Clara, nữ tỳ hèn mọn của Chúa Kitô, là thân cây non Thiên Chúa đã ban cho cha thánh Phanxicô, đem trồng trong vườn tu viện như một tiểu muội, một hiền mẫu của chị em. Dù không xứng đáng, tôi cũng nhân danh Thiên Chúa chúc lành cho chị em tất cả”. Sau cùng thánh nữ kêu to tiếng: “Nào chị em không thấy Vua vinh hiển đang đến với tôi kia ư?”. Nói đoạn, ngài nhắm mắt lại, êm ái ra đi như người ngủ! Nhiều chị em dòng làm chứng đã thấy Đức Mẹ và nhiều thánh nữ khác hiện đến đón linh hồn thánh Clara về trời!

Thánh nữ được Đức Giáo Hoàng Alexanđrô IV phong lên bậc hiển thánh. Và sau, Đức Clêmentê X định lễ kính thánh Clara vào ngày 12 tháng 8 hằng năm, ngày thánh nữ được Chúa gọi về trời lãnh triều thiên vĩnh cửu, sáng rực những hạt ngọc trinh khiết và khó nghèo!

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

(nguồn: website TGP Sài Gòn)

Bài đọc 2

Hãy ngắm nhìn gương nghèo khó,
khiêm nhường và bác ái của Đức Ki-tô

Trích thư của thánh Cơ-la-ra, trinh nữ, gửi chân phước A-nê Pơ-ra-ga.

Hạnh phúc thay người được tham dự bàn tiệc thánh để được hết lòng kết hợp với Đức Ki-tô. Toàn thể đạo binh thiên quốc không ngừng thán phục vẻ đẹp của Người. Yêu mến Người thì sẽ say mê, chiêm ngưỡng thì được thêm sức mạnh. Lòng nhân hậu của Người làm ta no thoả, sự dịu dàng của Người làm ta ngây ngất. Nhớ đến Người tựa như được ánh sáng êm dịu chiếu soi. Hương thơm của Người làm kẻ chết hồi sinh. Nhìn vinh quang Người, mọi công dân thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc được hạnh phúc. Vì Người là phản ánh vinh quang ngàn đời, là vẻ rực rỡ của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương không chút tỳ ố. Thưa hoàng hậu, hiền thê của Đức Giê-su Ki-tô, xin bà hãy soi mình hằng ngày vào tấm gương ấy và cũng hãy nhìn kỹ khuôn mặt của bà trong đó ; nhờ vậy bà trang điểm cả bề trong lẫn bên ngoài bằng trang phục huy hoàng lộng lẫy, bằng vòng hoa và xiêm y nhân đức, xứng đáng là nữ tử và hiền thê rất thanh khiết của Đức Vua cao cả. Nhưng trong tấm gương ấy còn phản ánh đức khó nghèo diễm phúc, đức khiêm nhường thánh thiện và đức bác ái tuyệt vời. Nhờ ơn Thiên Chúa, qua tấm gương trọn vẹn này, bà có thể chiêm ngắm tất cả.

Vậy, xin bà hãy ngắm nhìn từ đầu tấm gương ấy : đó là sự nghèo khó của Chúa, Đấng được bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ. Ôi sự khiêm nhường đáng khâm phục ! Ôi sự nghèo khó gây ngỡ ngàng ! Vua các thiên thần, Chúa Tể trời đất lại nằm trong máng cỏ.

Rồi ở giữa tấm gương, bà hãy chiêm ngắm sự khiêm nhường, ít ra là sự nghèo khó. Hãy ngắm nhìn bao nỗi cực nhọc vất vả Người đã chịu để cứu chuộc loài người.

Còn ở cuối tấm gương, bà hãy chiêm ngưỡng tình yêu khôn tả khiến Người chịu đóng đinh trên cây thập giá, và chịu chết cách tủi nhục nhất.

Chính Chúa là tấm gương đó. Từ trên thập giá, Người mời gọi khách qua đường hãy ngắm nhìn, theo như lời nhắn nhủ : Này tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem : có nỗi khổ nào so sánh được với nỗi khổ tôi phải chịu. Chúng ta hãy hợp một tiếng, chung một lòng đáp lại lời Chúa, Đấng đang kêu than : Nỗi niềm riêng canh cánh bên lòng, khiến hồn con tiêu hao mòn mỏi. Vậy, thưa hoàng hậu của Đức Vua trên trời, xin bà hãy đốt lên ngọn lửa yêu mến mỗi ngày một nồng nàn hơn.

Nhưng xin bà cũng hãy chiêm ngắm những niềm hoan lạc, những giàu sang khôn tả và những vinh dự vĩnh cửu của Người, và vì lòng yêu mến, khát khao mãnh liệt, xin bà hãy mượn lời sách Diễm ca mà kêu lên : “Lạy Đức phu quân trên trời, xin hãy kéo em theo anh, đôi ta cùng sánh bước, theo mùi hương anh thơm ngát. Em sẽ chạy mãi không biết mệt cho đến khi anh đưa em vào phòng tiệc, cho đến khi anh đưa tay trái cho em gối đầu, đưa tay phải âu yếm ghì chặt lấy em, rồi hôn em nồng nàn.”

Khi chiêm niệm điều ấy, xin bà hãy nhớ đến người mẹ bé nhỏ nghèo hèn của bà, nên biết rằng tôi ghi nhớ hình ảnh bà trong trái tim tôi, không bao giờ phai nhạt, vì tôi quý mến bà hơn hết mọi người.

 

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Chúa đã dìu dắt thánh Cơ-la-ra và soi sáng cho thánh nữ biết yêu chuộng đời sống khó nghèo. Xin nhậm lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng con được cùng người sống tinh thần nghèo khó, mà theo chân Đức Ki-tô để được vào quê trời chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa. Chúng con cầu xin

 





Thứ Tư

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 9, 1-7; 10, 18-22

"Hãy ghi chữ Thập trên trán những người rên rỉ khóc than các việc ghê tởm của thành Giêrusalem".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Chúa kêu lớn tiếng vào tai tôi rằng: "Những kẻ trừng phạt thành đã đến gần, mỗi người cầm trong tay khí cụ của mình để tàn sát". Và kìa có sáu người tiến lại, từ cửa trên phía bắc mà đến, mỗi người cầm trong tay khí cụ của mình để tàn sát. Giữa họ có một người mặc áo trắng, ngang lưng mang bút của ký lục. Họ tiến vào và dừng lại trước bàn thờ bằng đồng.

Vinh quang của Chúa Israel ngự trên các vệ binh thần liền từ đó mà cất lên, đi về phía ngưỡng cửa Ðền Thờ. Người gọi kẻ mặc áo trắng, ngang lưng có mang bút của ký lục mà nói: "Hãy đi khắp thành, khắp Giêrusalem và ghi chữ Thập trên trán những người rên rỉ khóc than tất cả những việc ghê tởm người ta phạm giữa thành".

Tôi còn nghe Người bảo những người kia rằng: "Hãy theo người này đi khắp thành và đánh phạt. Ðừng đưa mắt xót thương, đừng tha thứ: già lão, trai tráng, gái trinh, trẻ con, phụ nữ, hãy giết cho hết. Nhưng ai có chữ Thập trên trán thì đừng giết. Hãy bắt đầu từ nơi thánh của Ta". Thế là họ bắt đầu giết những kỳ lão đang đứng trước Ðền Thờ. Người lại bảo rằng: "Hãy làm ô uế Ðền Thờ, hãy làm cho các hành lang đầy tử thi rồi hãy ra đi". Họ bỏ ra đi đánh phạt những kẻ ở trong thành.

Vinh quang của Chúa từ trên ngưỡng cửa Ðền Thờ mà đi ra và dừng lại trên các vệ binh thần. Các vệ binh thần cất cánh và từ đất bay lên, ngay trước mặt tôi; các bánh xe cũng đi theo chúng. Chúng dừng lại nơi cửa Ðông Ðền thờ Chúa, và vinh quang của Thiên Chúa Israel ở phía trên chúng. Ðó là sinh vật tôi đã thấy ở dưới Thiên Chúa Israel gần sông Côbar, (bây giờ) tôi mới hiểu biết đó là các vệ binh thần. Mỗi sinh vật có bốn mặt, bốn cánh và dưới cánh, có những hình bàn tay như tay người. Mặt chúng giống những mặt tôi đã thấy gần sông Côbar. Mỗi sinh vật cứ đi thẳng tới đàng trước.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 112, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa (c. 4b).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.

2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của Chúa. - Ðáp.

3) Ai được như Thiên Chúa chúng tôi, Người ngự trên nơi cao thẳm, và Người để mắt nhìn coi, khắp cả trên trời dưới đất? - Ðáp.

 

Alleluia: Gc 1, 21

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng, lời đó có thể cứu thoát linh hồn anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 18, 15-20

"Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng con và nó thôi. Nếu nó nghe con, thì con đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời con, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, con hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.

"Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ.

"Thầy cũng bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Catholic Men's Daily Devotional and Bible Study – 19th Week in ...


Cảm Nghiệm Suy Niệm

 

Quyền Bính Vô Ngộ - Chân Lý Yêu Thương



Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XIX Thường Niên, dường như có nội dung liên hệ với bài Phúc Âm hôm qua. Ở chỗ, sau khi nói về thành phần "
trẻ nhỏ" dại khờ hèn yếu như "một 
con chiên lạc", Chúa Giêsu liền nói với các môn đệ về vấn đề sửa lỗi cho nhau khi có ai lầm lỡ vấp phạm:
"Nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng con và nó thôi. Nếu nó nghe con, thì con đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời con, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, con hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế".
Căn cứ vào lời truyền dạy này của Chúa Kitô, trước hết chúng ta phải công nhận rằng chúng ta có phận sự phải sửa lỗi cho nhau, phải giúp nhau cải tiến hơn, giúp nhau nên hoàn thiện hơn, chứ không được khách quan đến dửng dưng, như thể tội ai người nấy chịu, không mắc mớ gì tới tôi, ai dại gì đụng vào nhau để họ ghét và chửi cho v.v. Nếu chúng ta có phận sự phải sửa bảo nhau, nhất là những ai có trách nhiệm phục vụ trong một đoàn thể, mà không dám lên tiếng thì chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa.
Sau nữa, về cách thức sửa lỗi cho nhau, cũng theo lời Chúa dạy, chúng ta cần phải đi từ từ, từ chỗ riêng tư, đến chỗ thêm nhân chứng, sau cùng mới tới chung cộng đồng, thậm chí cho dù bất thành chăng nữa cũng mặc kệ họ, đừng khinh thường họ, cố gắng tránh đừng động một cái là làm toáng lên, làm mất mặt nhau, khiến nạn nhân cảm thấy bị chạm tự ái, đến độ cho dù có lỗi thật đấy họ cũng trở nên bất cần và bất chấp. Như thế, thay vì chúng ta giúp nhau nên hoàn thiện hơn lại đẩy nhau vào chỗ tệ hại hơn, mất mục đích của chúng ta, hoàn toàn trái với ý muốn của Chúa.
Đường lối sửa lỗi này được Giáo Hội vẫn thường áp dụng, nhất là đối với các thần học gia chủ trương những điều về tín lý hay luân lý hoặc cả hai trái với giáo huấn của Chúa Kitô và huấn quyền truyền thống của Giáo Hội. Chẳng hạn bề trên hay giám mục địa phương của một thần học gia nào đó nói chuyện riêng với thần học gia ấy. Nếu không xong bề trên hay vị giám mục địa phương mời thêm các chuyên gia trong dòng hay trong giáo phận đến tham dự với thần học gia này để cùng nhau giải quyết vấn đề. Nếu vẫn bất thành thì vị bề trên hay giám mục địa phương sẽ trình sự vụ lên Tòa Thánh qua Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin. Sau cùng, nếu đương sự vẫn cương quyết không chấp nhận sửa sai thì buộc lòng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đành phải công khai thông báo về những sai lầm của thần học gia ấy, để bảo vệ đàn chiên của mình, trong đó có những biện pháp ngăn nga bao nhiêu có thể để tình trạng sai lầm không thể lan rộng và kéo dài hơn được nữa, như không cho vị thần học gia này giảng dạy v.v.
Dường như ở đây Chúa Giêsu áp dụng việc sửa bảo nhau này hay trách nhiệm cần phải hoàn chỉnh nhau ấy đặc biệt cho riêng các vị có thẩm quyền trong Giáo Hội. Bởi vì, sau đó Người còn nói thêm như thế này với các tông đồ: "Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ".
Ở đây, qua câu này, Chúa Giêsu như muốn bổ túc thêm về quyền bính trong Giáo Hội, một quyền bính tối thượng đã được Người trước hết trao cho riêng Tông Đồ Phêrô (xem Mathêu 16:19): "Những gì con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, sự gì con tháo cởi dưới đất trên trời cũng tháo cởi", và giờ đây Người trao cho chung tông đồ đoàn, trong đó có cả Tông Đồ Phêrô, một cơ cấu được gọi là hàng giáo phẩm của Giáo Hội hoàn vũ: "Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ".
Sở dĩ quyền bính tối thượng này được Chúa Giêsu trao cho riêng Tông Đồ Phêrô cũng như cho chung Tông Đồ Đoàn ấy trong việc phục vụ Giáo Hội của Người trên trần gian có tính cách như thể "bất khả sai lầm" như vậyđến độ dưới đât phán quyết thế nào thì trên trời cũng chấp nhận y như vậy, là vì Người vẫn tiếp tục ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế (xem Mathêu 28:20), nơi tinh thần hiệp nhất nguyện cầu của các vị, như Người đã khẳng định ở câu kết bài Phúc Âm hôm nay: 

"Thầy cũng bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".

 

Phải chăng quyền bính cầm buộc và tháo cởi của riêng vị lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô, và chung tông đồ đoàn khi hiệp thông với vị lãnh đạo Phêrô, được ám chỉ nơi thị kiến của Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay, trong đó, quyền tháo cởi được ám chỉ nơi sự kiện: "Người gọi kẻ mặc áo trắng, ngang lưng có mang bút của ký lục mà nói: 'Hãy đi khắp thành, khắp Giêrusalem và ghi chữ Thập trên trán những người rên rỉ khóc than tất cả những việc ghê tởm người ta phạm giữa thành"; và quyền cầm buộc được ám chỉ nơi sự kiện "Tôi còn nghe Người bảo những người kia rằng: 'Hãy theo người này đi khắp thành và đánh phạt. Ðừng đưa mắt xót thương, đừng tha thứ: già lão, trai tráng, gái trinh, trẻ con, phụ nữ, hãy giết cho hết. Nhưng ai có chữ Thập trên trán thì đừng giết. Hãy bắt đầu từ nơi thánh của Ta'".

 

Việc cầm buộc và tháo cởi của những ai được Thiên Chúa sai đi thực hiện vai trò thẩm quyền như Ngài này phải là thành phần có thần trí của Ngài, mới thực hiện việc cầm buộc hay tháo cởi đúng như Ngài muốn. Đó là lý do ở cuối Bài Đọc 1 hôm nay mới có thêm những chi tiết liên quan tới "các vệ binh thần" của Ngài như sau:

 

"Vinh quang của Chúa từ trên ngưỡng cửa Ðền Thờ mà đi ra và dừng lại trên các vệ binh thần. Các vệ binh thần cất cánh và từ đất bay lên, ngay trước mặt tôi; các bánh xe cũng đi theo chúng. Chúng dừng lại nơi cửa Ðông Ðền thờ Chúa, và vinh quang của Thiên Chúa Israel ở phía trên chúng. Ðó là sinh vật tôi đã thấy ở dưới Thiên Chúa Israel gần sông Côbar, (bây giờ) tôi mới hiểu biết đó là các vệ binh thần. Mỗi sinh vật có bốn mặt, bốn cánh và dưới cánh, có những hình bàn tay như tay người. Mặt chúng giống những mặt tôi đã thấy gần sông Côbar. Mỗi sinh vật cứ đi thẳng tới đàng trước".

 

Qua việc tháo cởi hay cầm buộc, Thiên Chúa đều có thể tỏ vinh quang của Ngài ra, để cho con người nhận biết Ngài. Bằng nếu Ngài chỉ công minh mà thôi, không biết xót thương, chỉ biết cầm buộc mà không biết tháo cởi, thì chẳng còn một con người nào có thể tồn tại mà nhận biết Ngài, bởi tất cả đều bị giáng phạt ngay nghĩ vừa phạm tội trong lòng họ. Vì thế, Thiên Chúa đã thực sự tỏ hiện vinh quang của Ngài ra bằng lòng thương xót, vừa cầm buộc lại vừa tháo cởi của Ngài.

 

Ở chỗ, Ngài làm việc gì cũng chỉ vì lòng thương xót mà thôi: tháo cởi cũng vì lòng thương xót mà tha thứ, nhưng lại lợi dụng chính thành phần được tha thứ này, biến họ trở thành các chứng nhân cho lòng thương xót của Ngài, bằng những đau khổ họ phải chịu như chính lòng thương xót của Ngài đã chịu vì họ, cho phần rỗi của người khác; và khi cần phải cầm buộc, theo đức công bằng, Ngài cũng chỉ bất đắc dĩ phải thực hiện, cũng chỉ vì thương xót đến cần phải ra tay trừng phạt cho lợi ích phần rỗi của nạn nhân, nhờ đó và chỉ bằng cách đó, nạn nhân mới có thể hay mới chịu nghĩ lại, mà thống hối trở về với Ngài, nhận biết lòng thương xót của Ngài.

 

Câu Họa "trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa" nơi bài Đáp ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịnh 112, đã cho thấy tất cả cảm nhận và tâm tình của những ai thực sự cảm nghiệm thấy lòng thương xót Chúa, ở quyền tháo cởi và cầm buộc hoàn toàn vị thương xót của Ngài:

 

1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời.

2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của Chúa.

3) Ai được như Thiên Chúa chúng tôi, Người ngự trên nơi cao thẳm, và Người để mắt nhìn coi, khắp cả trên trời dưới đất?



Thứ Năm

Phụng Vụ Lời Chúa 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 12, 1-12

"Ngươi sẽ di cư giữa ban ngày trước mặt chúng".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, ngươi đang ở giữa dòng giống phản loạn, chúng có mắt để thấy mà không thấy, có tai để nghe mà không nghe, vì đó là dòng giống phản loạn. Phần ngươi, hỡi con người, hãy sửa soạn hành trang và hãy dời đi, giữa ban ngày, trước mặt chúng. Ngươi sẽ đi từ nơi đang ở đến một nơi khác, trước mặt chúng, để hoạ may chúng xem thấy, vì chúng là dòng giống phản loạn. Ngươi sẽ phô trương hành lý của ngươi như hành lý của người di cư giữa ban ngày trước mặt chúng, rồi ban chiều, ngươi sẽ ra đi trước mặt chúng như người di cư. Trước mắt chúng, ngươi hãy khoét tường mà chui ra. Trước mắt chúng, ngươi sẽ mang hành trang trên vai và đi ra trong bóng tối, Ngươi sẽ che mặt ngươi để đừng thấy xứ sở, vì Ta đã làm cho ngươi thành biểu hiệu cho nhà Israel".

Vậy tôi đã thi hành như Chúa đã truyền cho tôi, tôi phô trương hành trang của tôi như hành trang của kẻ di cư, giữa ban ngày, và ban chiều, tôi lấy tay khoét một cái lỗ trong tường, vai mang hành trang, và ra đi trước mặt chúng trong đêm tối.

Và ban sáng có lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, nào nhà Israel, dòng giống phản loạn, đã chẳng hỏi ngươi rằng: 'Ông làm gì vậy?' Hãy bảo chúng: 'Chúa là Thiên Chúa phán rằng: Sấm ngôn này chỉ về thủ lãnh ở Giêrusalem và cả nhà Israel ở đó'. Hãy nói: 'Tôi là biểu hiệu cho các ngươi. Tôi đã làm thế nào thì việc sẽ xảy ra như vậy'. Chúng sẽ phải di cư và đi làm tôi. Và ai là thủ lãnh các chúng, người đó sẽ mang hành trang trên vai ra đi trong bóng tối, và chúng sẽ khoét tường mà đem ông ra. Mặt ông bị che kín để mắt khỏi thấy xứ sở".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 77, 56-57. 58-59. 61-62

Ðáp: Các ngươi đừng quên lãng những kỳ công của Chúa (c. 7c).

Xướng: 1) Họ đã thử thách và phản nghịch Thiên Chúa Tối Cao, và họ không tuân giữ các huấn lệnh của Người. Họ lùi bước và bội tín cũng như tổ tiên họ, họ lầm lạc như cánh cung trật đường giây. - Ðáp.

2) Họ chọc giận Người vì những nơi "thờ tự" trên cao, họ khiêu khích lòng ghen Người vì bao thần tượng. Thiên Chúa nghe biết và bừng cơn thịnh nộ, Người đã từ bỏ Israel một cách đắng cay. - Ðáp.

3) Người trao nạp sức mạnh mình cho thiên hạ bắt bớ, và vinh quang mình trong tay kẻ nghịch thù. Người bỏ mặc dân tộc Người cho cảnh gươm đao, và Người đã xung giận phần gia nghiệp của Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 110, 8ab

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn ngàn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 18, 21 - 19, 1

"Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.

"Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.

"Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: "Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.

"Vậy, Cha Thầy trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".

Khi Chúa Giêsu nói những lời đó xong, thì Người bỏ xứ Galilêa mà đến Giuđêa, bên kia sông Giođan.

Ðó là lời Chúa.

Mt 18,21-19,1) Non ti dico fino a sette volte, ma fino a settanta ...

 

Cảm Nghiệm Suy Niệm

 

Chúa Tha Thứ nhưng vẫn không quên... tùy ở con nợ!



Từ trách nhiệm sửa lỗi cho nhau trong bài Phúc Âm hôm qua 
sang đến bổn phận tha thứ cho nhau trong bài Phúc Âm hôm nay, hai bài Phúc Âm liên tục ở cuối đoạn 18 của Phúc Âm Thánh ký Mathêu. 
Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay bao gồm câu trả lời của Chúa Giêsu cho câu hỏi của Tông Đồ Phêrô: "'Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?' Chúa Giêsu đáp: 'Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy'". 
Nghĩa là bao giờ cũng tha, không bao giờ chấp nhất, dù có thế nào chăng nữa, dù có nhiều đến đâu chăng nữa, dù có nặng đến mấy chăng nữa, thậm chí dù có cố tình chăng nữa, chứ không phải chỉ tha khi đương sự vô tình, không có ý gì. Và còn phải tự động tha nữa, chứ không cần phải được xin lỗi mới tha, như Người đã dạy trong bài giảng Phúc Đức Trọn Lành đối với những ai phạm đến chúng ta trước khi chúng ta dâng của lễ cho Thiên Chúa (xem Mathêu 5:24). 
Tất cả tinh thần nhân hậu và thái độ bao dung của chúng ta như thế mới trung thực phản ảnh Đấng được Chúa Giêsu kêu gọi "hãy thương xót như Cha là Đấng xót thương" (Luca 6:36), một Đấng được Người ám chỉ trong dụ ngôn về vị vương chủ tha nợ cho người bầy tôi của mình trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả'. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y". 
Ở đây chúng ta thấy vị vương chủ này quảng đại bao dung đến độ chỉ cần người bầy tôi van xin ông, không phải là van xin tha nợ mà chỉ van xin khất nợ để rồi từ từ trả sau, cho dù không biết phải trả đến bao giờ mới hết món nợ kếch sù ấy và cũng chẳng biết có thể trả nổi món nợ ấy hay chăng, nhưng vị vương chủ vẫn "động lòng thương" tự tha hết món nợ khổng lồ ấy cho người bầy tôi khốn khổ van xin của mình. 
Thế nhưng, cho dù được tha bổng món nợ khổng lồ ấy, đến độ giá trị của món nợ này bằng cả nhà của người bầy tôi mắc nợ: "Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ", vẫn còn nguyên đó, chứ chưa hoàn toàn được xóa sổ, tùy theo thái độ của con nợ bầy tôi này với chính con nợ của hắn. 
Thật vậy, con nợ bầy tôi này đã đối xử hoàn toàn ngược lại với những gì hắn được hưởng từ vị vương chủ của hắn, như dụ ngôn Chúa tiếp tục cho biết như sau:
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: 'Hãy trả nợ cho ta'. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh'. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong".
Con nợ của người bầy tôi này cũng có cùng một cử chỉ và lời van xin khất nợ như hắn đã tỏ ra với vị vương chủ của hắn, nhưng hắn vẫn không tha cho con nợ của hắn là người chỉ nợ hắn chẳng là bao so với món nợ kếch sù của hắn với vị vương chủ của hắn, đến độ, trong khi hắn được vị vương chủ này tha hẳn cho cả món nợ, không phải trả nữa, thì hắn lại "bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong", nghĩa là lòng của hắn vẫn thù hắn chấp nhất con nợ của hắn cho đến khi hắn trả thù cho bằng được, cho đến khi hắn lấy lại công bằng, "mắt đền mắt, răng đền răng" (Mathêu 5:38).
Chính vì thế, món nợ kếch sù của hắn với vị vương chủ của hắn vẫn chưa hoàn toàn xóa sổ là như thế. Tóm lại, vấn đề xóa sổ nợ của chúng ta với Thiên Chúa là ở chúng ta hơn là ở nơi Thiên Chúa, Đấng lúc nào cũng tha cho chúng ta và mong chúng ta cũng tha cho nhau như Ngài tha cho chúng ta, bằng không, tự chúng ta làm khổ mình, ở chỗ bị chính bản thân mình là "lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ"
Chúng ta không tha cho nhau nghĩa là chúng ta mặc nhiên không muốn được Thiên Chúa tha nợ cho chúng ta, không chấp nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, ở chỗ chúng ta muốn lấy được vài đồng bạc nợ nần của nhau chẳng đáng là bao để trả nợ cả tỉ bạc với Thiên Chúa hay sao. Tại sao chúng ta điên khùng đến như thế nhỉ?! Bài Phúc Âm hôm nay đã kết thúc dụ ngôn với những lời của chính vị vương chủ cũng là lời của Chúa Giêsu sau đó như thế này:  

"Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: 'Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?' Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. Vậy, Cha Thầy trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".

 

"Tên đầy tớ ác độc" bị vị vương chủ "nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ", chỉ vì hắn, đã hành động hoàn toàn phản lại tấm lòng bao dung và thái độ quảng đại  chủ nợ của hắn đã tỏ ra cho hắn, trước lời van xin của hắn, ở chỗ, vị chủ nợ này chẳng những đã không cần hắn phải khất nợ, mà còn tự động tha hết cả món nợ kếch sù bất khả hoàn trả của hắn nữa, trong khi đó, hắn đã nhất định không tha món nợ, chẳng là bao so với món nợ hắn được chủ nợ của hắn tha cho hắn, nên hắn đã bị chủ nợ của hắn lên án chỉ vì "ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi".

 

"Tên đầy tớ ác độc" này đúng là thành phần "dòng giống phản loạn, chúng có mắt để thấy mà không thấy, có tai để nghe mà không nghe, vì đó là dòng giống phản loạn": phản loạn ở chỗ sống ngược lại với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, phản lại tất cả những gì Ngài đã liên tục mạc khải cho họ biết về Ngài trong giòng lịch sử cứu độ của họ, như thể có mắt mà chẳng thấy, có tai mà chẳng nghe thấy gì vậy. Do đó, số phận cuối cùng của "tên đầy tớ ác độc" bị "lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ", chẳng khác gì số phận của dân Israel trong Bài Đọc 1 hôm nay là "phải di cư và đi làm tôi" mà trả nợ vậy.

 

Đó là lý do, Bài Đáp Ca hôm nay, trích Thánh Vịnh 77, có câu họa kêu gọi dân Do Thái, cũng như những ai được Thiên Chúa thương xót, rằng "đừng quên lãng những kỳ công của Chúa", một câu họa được lập đi lập lại sau mỗi câu xướng có tính cách nhắc nhở và cảnh giác lối sống bất trung và phản loạn của người đầy tớ gian ác trong Bài Phúc Âm hôm nay:
 

1) Họ đã thử thách và phản nghịch Thiên Chúa Tối Cao, và họ không tuân giữ các huấn lệnh của Người. Họ lùi bước và bội tín cũng như tổ tiên họ, họ lầm lạc như cánh cung trật đường giây.

2) Họ chọc giận Người vì những nơi "thờ tự" trên cao, họ khiêu khích lòng ghen Người vì bao thần tượng. Thiên Chúa nghe biết và bừng cơn thịnh nộ, Người đã từ bỏ Israel một cách đắng cay.

3) Người trao nạp sức mạnh mình cho thiên hạ bắt bớ, và vinh quang mình trong tay kẻ nghịch thù. Người bỏ mặc dân tộc Người cho cảnh gươm đao, và Người đã xung giận phần gia nghiệp của Người.

 

Thánh Pontianô, Giáo Hoàng 

Và Thánh Hippolytô, Linh Mục Tử Ðạo 

(thế kỷIII)

 

Năm 230, khi thánh Pontianô lên kế vị ngai tòa thánh Phêrô thì Giáo Hội đang trải qua một cơn khủng hoảng phân tán do linh mục Hippolytô gây nên. Thánh Hippolytô là người nổi tiếng về môn Thánh Kinh và có những tư tưởng sâu sắc, nhưng ngài lại không muốn chấp nhận việc chọn lựa thầy sáu Callistô làm Giáo Hoàng (217). Từ đó ngài trở thành thủ lãnh một cộng đồng ly khai và tin rằng mình luôn giữ đúng truyền thống. Trong khi ấy, Ðức Callistô và các đấng kế vị đã ngả theo thời cuộc và nhượng bộ. Năm 235, hoàng đế Maximinô ra lệnh bách hại. Vì nghĩ rằng giáo hữu Rôma tuân phục hai Giám Mục, nên hoàng đế đã truyền lệnh bắt cả hai và kết án khổ sai. Ðể Giáo Hội không vắng bóng chủ chăn trong những hoàn cảnh khó khăn, Ðức Pontinô liền từ chức và Hippolytô cũng đã làm như vậy. Các ngài đều bị lưu đày sang Sardaigne và đã cùng nhau tuyên xưng đức tin.

Khi cơn cấm đạo lắng chìm, Ðức Giáo Hoàng Fabianô (236-250) đã chuyển xác các ngài về Rôma. Chẳng bao lâu, mọi người đều quên rằng thánh Hippolytô trước đó đã là một kẻ lạc giáo, nhưng hơn thế nữa, còn nghĩ về ngài với tước vị tử đạo vàtiến sĩ.



Thứ Sáu

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 16, 1-15. 60. 63

"Ngươi tuyệt hảo nhờ sự huy hoàng Ta đã mặc cho ngươi, thế mà ngươi đã mãi dâm truỵ lạc".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, hãy cho Giêrusalem biết tội ác ghê tởm của nó. Hãy nói: Chúa là Thiên Chúa phán cùng Giêrusalem rằng: Nguồn gốc và sinh quán của ngươi là xứ Canaan. Cha ngươi là người Amorê: mẹ ngươi là người Xêthêa. Khi ngươi sinh ra, ngày ngươi chào đời, người ta không cắt rốn, không rửa ngươi trong nước cho sạch sẽ, không xát muối và bọc khăn cho ngươi. Không ai đem lòng thương xót nhìn ngươi để làm cho ngươi một công việc nào như thế. Ngày ngươi sinh ra, vì ghê tởm ngươi, người ta đã bỏ ngươi ngoài đồng.

Ta đi qua gần ngươi và thấy ngươi dẫy dụa trong máu. Ta đã nói cùng ngươi rằng: 'Hãy sống trong máu và lớn lên như cỏ ngoài đồng'. Ngươi đã nảy nở, lớn lên và đến tuổi dậy thì. Ngực ngươi nở nang, tóc ngươi rậm dài, nhưng ngươi vẫn khoả thân. Bấy giờ Ta đi qua gần ngươi và thấy ngươi. Lúc đó ngươi đã đến tuổi yêu đương. Ta lấy vạt áo trải trên mình ngươi mà che sự khoả thân của ngươi. Ta thề và kết ước với ngươi - lời Chúa phán - và ngươi đã thuộc về Ta. Ta đã tắm ngươi trong nước, rửa máu trên mình ngươi và xức dầu cho ngươi. Ta đã mặc cho ngươi áo màu sặc sỡ và xỏ giày da tốt cho ngươi, thắt lưng ngươi bằng dây gai mịn và choàng cho ngươi áo tơ lụa. Ta đã lấy đồ quý mà trang điểm cho ngươi. Ta đã đeo xuyến vào tay ngươi, đeo kiềng vào cổ ngươi. Ta đã xỏ khoen vào mũi ngươi, đeo hoa tai vào tai ngươi và đặt triều thiên rực rỡ trên đầu ngươi. Ngươi đã được trang điểm bằng vàng bạc, mặc áo bằng vải mịn, tơ lụa và hàng thêu. Ngươi ăn bột miến lọc, mật ong và dầu ôliu. Càng ngày ngươi càng xinh đẹp và tiến lên ngôi nữ hoàng. Ngươi đã lừng danh giữa các dân tộc nhờ sắc đẹp của ngươi vì ngươi thật là tuyệt hảo nhờ sự huy hoàng Ta đã mặc cho ngươi. Chúa là Thiên Chúa phán, nhưng ngươi đã cậy sắc đẹp và lợi dụng danh tiếng của ngươi, để mãi dâm trụy lạc. Ngươi hiến thân cho bất cứ ai qua đường. Nhưng phần Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta đã lập với ngươi khi ngươi còn xuân xanh. Ta sẽ lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu. Như thế, để ngươi phải nhớ lại mà xấu hổ, và vì xấu hổ, ngươi sẽ không còn mở miệng ra nữa, khi Ta tha thứ hết mọi việc ngươi đã làm. Chúa là Thiên Chúa phán".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc bài vắn này: Ed 16, 59-63

"Ngươi tuyệt hảo nhờ sự huy hoàng Ta đã mặc cho ngươi, thế mà ngươi đã mãi dâm truỵ lạc".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Chúa là Thiên Chúa đã phán thế này: "Ta sẽ đối xử với ngươi như ngươi đã đối xử với Ta, ngươi đã khinh rẻ lời thề mà huỷ bỏ giao ước. Nhưng phần Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta đã lập với ngươi khi ngươi còn xuân xanh. Ta sẽ lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu. Và ngươi sẽ ghi nhớ các đường lối của ngươi mà cảm thấy nhục khi Ta lấy các chị các em gái ngươi mà ban cho ngươi làm con, mặc dầu chúng không có chân trong giao ước của ngươi. Ta sẽ giữ vững giao ước của Ta với ngươi, và ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, và như thế, để ngươi phải nhớ lại mà xấu hổ, và vì xấu hổ, ngươi sẽ không còn mở miệng ra nữa, khi Ta tha thứ hết mọi việc ngươi đã làm. Chúa là Thiên Chúa phán".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6

Ðáp: Chúa đã bỏ cơn giận của Chúa và đã an ủi tôi (c. 1c).

Xướng: 1) Ðây Thiên Chúa là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì Chúa là sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi phần rỗi. - Ðáp.

2) Hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người; hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa; hãy nhớ lại danh Chúa rất cao sang. - Ðáp.

3) Hãy ca tụng, vì Người làm nên những việc kỳ diệu; hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người cư ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng Thánh Israel ở giữa ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Ga 2, 5

Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 3-12

"Vì lòng chai đá của các ngươi mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, có những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: "Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?" Người đáp: "Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly". Họ hỏi lại: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?" Người đáp: "Vì lòng chai đá của các ông mà Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình".

Các môn đệ thưa Người rằng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ". Người đáp: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu".

Ðó là lời Chúa.

 

La Biblia en su contexto: muchos matrimonios sufren por ser ...

 

Cảm Nghiệm Suy Niệm

 

 

Chồng theo vợ hơn là vợ theo chồng?

Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XIX Thường Niên đưa chúng ta đến bài Phúc Âm về vấn đề chồng ly dị vợ, một bài Phúc Âm ngay sau bài Phúc Âm hôm qua về lòng quảng đại thứ tha như Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta.
Vấn đề chồng ly dị vợ này được "những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: 'Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?'", một vấn đề đã được Chúa Giêsu dứt khoát giải quyết một cách thẳng thắn hoàn toàn có tính cách chính thống như sau:
"Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly".
Theo văn hóa đại đồng của chung loài người thì thường vợ theo chồng chứ không phải là chồng theo vợ, ngoại trừ văn hóa theo mẫu hệ vốn còn cái lệ "đi bắt chồng", như ở thành phần dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo tâm lý tự nhiên thì người nam theo người nữ trước khi trở thành vợ chồng. Bởi thế nên mới có chuyện trai tán gái chứ không bao giờ hay ít khi thấy gái tán trai, cho dù cũng không hiếm chuyện gái theo trai, nhưng thường xẩy ra sau khi bị trai dụ dỗ v.v. 

Câu Chúa Giêsu khẳng định "người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình" đã chứng thực là chồng theo vợ hơn là vợ theo chồng, đúng hơn là trai theo gái hơn là gái theo trai, bởi vì bản chất và khuynh hướng của thành phần nam nhân làm chồng, như Adong, là tìm kiếm bản thân mình, cho đến khi thực sự cảm nhận được bản thân mình nơi một người nữ tuụ nhiên có duyên với mình nào đó, để rồi tự nhiên cảm thấy hết sức gắn bó với nàng, đến độ chàng sống không thể không có nàng: "Cuối cùng thì đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi" (Khởi Nguyên 2:23). 

Bởi thế chồng yêu vợ là yêu bản thân mình: "Ai yêu thương vợ mình là yêu thương chính bản thân mình" (Epheso 5:28). Bởi "cả hai đã nên một thân xác... họ không còn là hai, nhưng là một thân xác", như Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, và vì thế khi vợ chồng ly dị nhau thì họ chẳng những "phân ly những gì Thiên Chúa đã ràng buộc nối kết" họ lại với nhau mà tự họ cũng phản bội lẫn nhau nữa, nhất là khi chính bản thân họ không bị ràng buộc bởi cổ tục cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy như xưa, trái lại, họ hoàn toàn tự do yêu nhau và lấy nhau... như văn hóa của thời đại quá văn minh tân tiến về cả khoa học kỹ thuật lẫn nhân quyền hiện nay, đến độ con cái đặt đâu cha mẹ ngồi đó khi chính chúng nó tự quyết lập gia đình với nhau và làm đám cưới với nhau theo kiểu của chúng, kể cả chuyện đồng tính hôn nhân.

C
ó lẽ thành phần đặt vấn nạn với Chúa Kitô đã đoán trước được câu trả lời của Người rồi nên đã từ đó đi thẳng vào vấn đề họ muốn thử Người, với vấn nạn chính yếu thứ hai: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?", một vấn nạn cũng được Chúa Kitô không ngần ngại vạch trần sự thật cho họ biết về chính bản thân họ rằng:
"Vì lòng chai đá của các ông mà Moisen đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình".
Không ngờ vấn đề Người quả quyết như vậy đã đụng đến chính thành phần bỏ mọi sự mà theo Người, kể cả vợ con của các vị, nên các vị đã bồi thêm một câu vừa như để hỏi Người vừa như để than thân trách phận thay cho thành lập lập gia đình như sau: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ". 
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã lợi dụng ngay câu than vãn này của các vị để nói đến chính đời sống độc thân theo Người của các vị: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu".
Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy giáo huấn của Chúa Kitô về vấn đề hôn nhân gia đình là thế này: 1- hôn nhân theo dự án thần linh của Thiên Chúa chỉ xẩy ra giữa một người nam và một người nữ mà thôi; 2- hôn nhân là do chính Thiên Chúa xe duyên kết nghĩa nên đôi phối ngẫu không được tự ý ly dị nhau, trừ trường hợp ngoại tình; 3- ai tự ý ly dị vợ chồng mình mà lấy người khác là phạm tội ngoại tình và ai lấy người ly dị cũng phạm tội ngoại tình; 4- ly dị vợ chồng là do con người gây ra chứ tự bản chất của hôn nhân là những gì bất khả phân ly. Đó là lý do chúng ta thấy Giáo Hội Công Giáo cứu xét rất kỹ lưỡng và cẩn thận giúp thực hiện việc học hỏi dự bị hôn nhân trước khi ban bí tích hôn nhân, cũng như trong việc giải hôn hay tiêu hôn khi cần
Tuy luật lệ về đời sống hôn nhân ngặt nghèo như thế, đến độ người ta cảm thấy "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ", nghĩa là đừng lập gia đình, nhưng theo bản tính tự nhiên và phái tính xu hướng về nhau hầu như bất khả chống cưỡng, liên quan đến cả tình cảm lẫn tình dục của mình, con người, hầu hết vẫn không thể nào, không sớm thì muộn, không trước thì sau, không tiến tới đời sống lứa đôi trong hôn nhân gia đình, nếu chính thức, bằng không cũng khó lòng mà tránh được cảnh ăn ở với nhau ngoài hôn nhân một cách nào đó. 
Dầu sao thực tế cũng cho thấy 3 trường hợp ngoại lệ được Chúa Giêsu kể đến trong bài Phúc Âm, đó là: thứ nhất, tự bẩm sinh là hoạn nhân (như sinh ra mang giới tính ái nam ái nữ, hoặc tự nhiên bị bất lực về sinh dục v.v.), thứ hai là bị trở thành hoạn nhân (như đã xẩy ra cho thành phần nam nhân được hầu cận gần gũi hoàng hậu hoặc công chúa hay cung phi của vua chúa ngày xưa), và thứ ba là tự ý làm hoạn nhân vì lý tưởng phụng vụ cao cả (như nam nữ tu sĩ khấn đồng trinh hoặc hàng giáo sĩ Công giáo hứa sống độc thân v.v.). 

Hôn Nhân Kitô hữu nói chung và Công giáo nói riêng là một Bí Tích Thánh, tự bản chất là phản ảnh tình yêu thủy chung của Thiên Chúa đối với dân Do Thái của Ngài, cũng như tình yêu thánh hóa của Chúa Kitô luôn ở cùng Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người, một Nhiệm Thể cho dù tự bản chất là "thánh thiện", nhưng lại ôm ấp trong lòng mình toàn là đoàn con tội lỗi, bao gồm cả chính vị giáo hoàng được gọi là Đức Thánh Cha, vị mà trong nghi thức thống hối đầu lễ, cũng phải cùng với cộng đoàn dân Chúa tham dự phụng vụ bấy giờ "thú nhận ... đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót... lỗi tại tôi mọi đàng...".

Thế nhưng, cho dù dân được Thiên Chúa ưu tuyển và ưu đãi hơn tất cả mọi dân tộc trên thế giới này, qua giòng lịch sử cứu độ của họ, liên tục ngoại tình với tà thần của dân ngoại, cũng như với mọi thứ ngẫu tượng của chính họ, không phải là chính Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất được Ngài tỏ ra cho họ, qua các kỳ công vĩ đại chính mắt họ chứng kiến thấy. Họ chẳng khác nào như con điếm, vô cùng đáng khinh bỉ, đáng bỏ rơi, xa lánh và đầy đọa cho đáng kiếp dâm loạn của mình, nhưng Thiên Chúa vẫn được Thiên Chúa nhẫn nại và nhịn nhục theo đuổi, cho đến khi nhận ra chỉ có mình Ngài vô cùng khả ái và đáng yêu trên hết mọi sự, như được Sách Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả như sau:

"Khi ngươi sinh ra, ngày ngươi chào đời, người ta không cắt rốn, không rửa ngươi trong nước cho sạch sẽ, không xát muối và bọc khăn cho ngươi. Không ai đem lòng thương xót nhìn ngươi để làm cho ngươi một công việc nào như thế. Ngày ngươi sinh ra, vì ghê tởm ngươi, người ta đã bỏ ngươi ngoài đồng. Ta đi qua gần ngươi và thấy ngươi dẫy dụa trong máu. Ta đã nói cùng ngươi rằng: 'Hãy sống trong máu và lớn lên như cỏ ngoài đồng'. Ngươi đã nảy nở, lớn lên và đến tuổi dậy thì. Ngực ngươi nở nang, tóc ngươi rậm dài, nhưng ngươi vẫn khoả thân. Bấy giờ Ta đi qua gần ngươi và thấy ngươi. Lúc đó ngươi đã đến tuổi yêu đương. Ta lấy vạt áo trải trên mình ngươi mà che sự khoả thân của ngươi. Ta thề và kết ước với ngươi - lời Chúa phán - và ngươi đã thuộc về Ta. Ta đã tắm ngươi trong nước, rửa máu trên mình ngươi và xức dầu cho ngươi. Ta đã mặc cho ngươi áo màu sặc sỡ và xỏ giày da tốt cho ngươi, thắt lưng ngươi bằng dây gai mịn và choàng cho ngươi áo tơ lụa. Ta đã lấy đồ quý mà trang điểm cho ngươi. Ta đã đeo xuyến vào tay ngươi, đeo kiềng vào cổ ngươi. Ta đã xỏ khoen vào mũi ngươi, đeo hoa tai vào tai ngươi và đặt triều thiên rực rỡ trên đầu ngươi. Ngươi đã được trang điểm bằng vàng bạc, mặc áo bằng vải mịn, tơ lụa và hàng thêu. Ngươi ăn bột miến lọc, mật ong và dầu ôliu. Càng ngày ngươi càng xinh đẹp và tiến lên ngôi nữ hoàng. Ngươi đã lừng danh giữa các dân tộc nhờ sắc đẹp của ngươi vì ngươi thật là tuyệt hảo nhờ sự huy hoàng Ta đã mặc cho ngươi. Chúa là Thiên Chúa phán, nhưng ngươi đã cậy sắc đẹp và lợi dụng danh tiếng của ngươi, để mãi dâm trụy lạc. Ngươi hiến thân cho bất cứ ai qua đường. Nhưng phần Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta đã lập với ngươi khi ngươi còn xuân xanh. Ta sẽ lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu. Như thế, để ngươi phải nhớ lại mà xấu hổ, và vì xấu hổ, ngươi sẽ không còn mở miệng ra nữa, khi Ta tha thứ hết mọi việc ngươi đã làm. Chúa là Thiên Chúa phán".

Đến đây, chúng ta thấy rằng, nếu theo mẫu gương là tình yêu thủy chung như Thiên Chúa với dân của Ngài, hay như Chúa Kitô với Giáo Hội của Người, thì chồng theo vợ hơn là vợ theo chồng, nhưng mục đích tối hậu là để làm sao cho vợ theo chồng, thế thôi. Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Tiên Tri Isaia, đoạn 12, chính vì
"Chúa đã bỏ cơn giận của Chúa và đã an ủi tôi", như Câu Họa vang lên, mà những ai cảm nghiệm thấy được tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài cũng cần phải nhận biết và ngợi khen chúc tụng Ngài, theo tâm tình ở các Câu Xướng của cùng Bài Đáp Ca như sau:

1) Ðây Thiên Chúa là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì Chúa là sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi phần rỗi.

2) Hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người; hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa; hãy nhớ lại danh Chúa rất cao sang.

3) Hãy ca tụng, vì Người làm nên những việc kỳ diệu; hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người cư ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng Thánh Israel ở giữa ngươi.

 

THÁNH MAXIMILIÊN KOLBE

(1894-1941)

 

Militia Immaculata – Clarifying Catholicism

 

 

Maximilian Kolbe sinh ngày 7 tháng 1 năm 1894 tại Zdunska Wola, Ba Lan với tên cha mẹ đặt là Raymond Kolbe. Em Raymond Kolbe là đứa con trai thứ 2 trong 3 người con trai của một gia đình nghèo nhưng đạo đức vào thời Balan đã bị Nga xâm chiếm. Cha mẹ của ngài đều thuộc về dòng ba Phanxicô, làm thợ dệt tại nhà. Cha ngài là Julius về sau mở tiệm sách đạo, rồi đầu quân chiến đấu cho quyền độc lập của Balan, cuối cùng đã bị người Nga treo cổ như một tên tội đồ phản quốc năm 1914. Mẹ ngài là Marianne Dabrowska, sau trở thành một nữ tu dòng Biển Đức. Anh ngài là Alphonso đã trở nên một vị linh mục.

 

Ngài là một đứa trẻ ma lanh, đôi khi phá phách, khiến cha mẹ điên đầu. Tuy nhiên, vào năm 1906 khi gia đình ngài ở Pabianice, bấy giờ ngài 12 tuổi và gần đến biến cố Rước Lễ Lần Đầu của ngài, thì ngài được thị kiến thấy Mẹ Maria, để rồi từ đó đời của ngài đã được hoàn toàn biến đổi. Ngài kể lại rằng, "Tôi đã hỏi Mẹ Thiên Chúa rằng sau này tôi sẽ ra sao. Thế là Mẹ đã hiện ra với tôi mang theo với Mẹ 2 triều thiên, một trắng và một đỏ. Mẹ đã hỏi tôi rằng tôi muốn triều thiên nào trong 2 triều thiên này. Triều thiên trắng nghĩa là tôi phải kiên trì sống tinh khiết, và triều thiên đỏ nghĩa là tôi sẽ trở thành một vị tử đạo. Tôi nói rằng tôi xin chấp nhận cả 2 triều thiên".

 

Ngài đã vào tiểu chủng viện Dòng Thánh Phanxicô ở Lwow Balan năm 1907, và ngài đã tuyệt giỏi về toán học và vật lý. Có lúc ngài muốn từ bỏ theo học linh mục để gia nhập quân ngũ chiến đấu, nhưng lại thôi. Ngài đã vào tập viện của dòng này vào ngày 4/9/1910 ở tuổi 16. Ngài đã nhận tên dòng là Maximilian, rồi khấn lần đầu ngày 5/9/1911, và khấn trọn đời ngày 1/11/1914. Ngài theo học triết lý tại Học Viện Gregory Dòng Tên ở Roma vào năm 1912-1915, và học thần học tại Học Viện Phanxicô Serafico ở Roma từ 1915-1919. Vào ngày 16/10/1917, khi còn là chủng sinh, ngài và 6 người bạn của ngài đã thành lập Phong Trào Vô Nhiễm / the Immaculata Movement (Militia Immaculatae, Crusade of Mary Immaculate), dấn thân cho việc hoán cải tội nhân, chống lại tam điểm (cực lực chống phá Giáo Hội thời bấy giờ), truyền bá Ảnh Mẹ Ban Ơn (như áo dòng của mình), và lòng tôn sùng Đức Mẹ là đường đến cùng Chúa Kitô.

 

Ngài bị bệnh lao phổi gần chết, và sau đó ngài bị kiệt sức suốt cuộc đời còn lại của ngài. Ngài được thụ phong linh mục ngày 28/4/1918 ở Roma vào tuổi 24, và nhận cấp bằng tiến sĩ thần học ngày 22/7/1922. Cái minh thức của ngài về thần học Thánh Mẫu còn vang vọng cho đến ngày nay, qua ảnh hưởng mà các minh thức này nơi Công Đồng Chung Vatican II đầu thập niên 1960.

 

Ngài đã trở về Balan ngày 29/7/1919 để dạy lịch sử ở Chủng Viện Krakow. Ngài đã phải nghỉ bệnh từ 10/8/1920 đến 21/4/1921 để chữa bệnh lao phổi tại bệnh viện Zakpane ở Tatra Mountains. Vào tháng 1/1922, ngài bắt đầu phát hành nguyệt san Hiệp Sĩ Mẹ Vô Nhiễm / the magazine Knight of the Immaculate để chiến đấu với tình trạng lãnh đạm, và vào năm 1927 nguyệt san này đã có một ấn bản trên 70 ngàn số. Ngài lại phải nghĩ bệnh một lần nữa, từ ngày 18/9/1926 đến 13/4/1927, những vẫn tiếp tục hoạt động.

 

Không thỏa mãn với những hoạt động của mình ở Balan, ngài và 4 thày cùng dòng đã đến Nhật bản năm 1930. Trong vòng 1 tháng, chẳng có tiền bạc gì và chẳng biết tiếng Nhật, mà ngài đã in nguyệt san Hiệp Sĩ Mẹ Vô Nhiễm bằng ấn bản Nhật ngữ. Nhưng không ngờ vào năm 1936 đã có 65 ngàn ấn bản. Vào năm 1931, ngài lập một đan viện Phanxicô ở Nagasaki, và tu viện này đã tồn tại bất chấp bom nguyên tử ngày 9/8/1945, và ngày nay đã trở thành trung tâm của dòng Phanxicô ở Nhật bản. Vào giữa năm 1932, ngài đã rời Nhật bản để đến Malbar, Ấn Độ và thành lập thành phố thứ ba, như thành phố đầu tiên là Niepokalanow ở Balan, và thành phố thứ 2 là Nagasaki ở Nhật bản, để phát hành tờ Nguyệt San Hiệp Sĩ Mẹ Vô Nhiễm vậy, nhưng rất tiếc vì thiếu nhân  lực nên thành phố thứ ba này sau đó đã không còn tồn tại.

 

Vị sức khỏe yếu kém, ngài đã phải cắt bớt hoạt động truyền giáo, và trở về Balan năm 1936. Vào ngày 8/12/1938, đan viện Phanxicô của ngài bắt đầu trở thành một đài phát thanh. Vào năm 1939, đan viện này đã có gần 800 tu sĩ, lớn nhất thế giới vào thời ấy, và hoàn toàn tự lập, bao gồm cả việc phục vụ các bệnh xá nữa.

 

Cùng với một số anh em dòng, ngài đã bị bắt nhốt vào ngày 19/9/1939, sau khi Đức Quốc Xã xâm chiếm Balan lần thứ hai từ ngày 1/9 cùng năm. Các tu sĩ khác ở đan viện này bị đi đầy một thời gian ngắn, còn ngài và một số anh em bị đi tù được thả về ngày 8/12/1939. Mọi hoạt động lại được phục hồi. Trở lại thành phố Niepokalanow, ngài đã tiếp tục thừa tác vụ linh mục của ngài, ở đó ngài đã chất chứa 3 ngàn người Balan tị nạn, mà 2/3 là người Do Thái, đồng thời ngài tiếp tục hoạt động ấn hành tờ nguyệt san ở đó, bao gồm cả những bài viết chống lại Nazi Đức Quốc xã. Chính vì thế mà tờ báo đã bị đình bản, tu viện bị trấn át và tu sĩ bị tản mát, và ngài bị giam nhốt ở nhà tù Pawiak, thủ đô Warsaw Balan vào ngày 17/2/1941.

 

Vào ngày 28/5/1941, ngài được chuyển đến lò diệt chủng Auschwitz với số hiệu tù nhân 16670. Ngài được chỉ định vào nhóm làm việc đặc biệt do các vị linh mục đặc trách, và bị giám sát bởi các viên canh ngục đồi bại và tệ hại. Việc âm thầm sống đức tin khiến ngài phải làm những công việc tệ nhất khi cần đến ngài, và bị đánh đập hơn ai hết. Có lúc ngài đã bị đánh đập, quất bằng roi, gần như chết vậy. Các tù nhân đã phải lén lút đem ngài đến bệnh viện của trại tập trung, nơi ngài bỏ giờ ra giải tội cho những ai cần đến bí tích này. Khi ngài trở lại trại, ngài thi hành thừa tác vụ với các tù nhân khác, bao gồm cả việc cử hành Thánh Lễ và trao Mình Thánh Chúa từ bánh và rượu được lén đưa vào cho ngài.

 

       Sau đây là câu chuyện chính về biến cố đã biến ngài thành một vị thánh tử đạo năm 1941, vào giữa Thế Chiến Thứ II (1939-1945). Hôm ấy là ngày 30/7/1941, trong nhà giam số 14 tại trại tập trung Auschwitz, nơi mấy tháng trước đó, một nhóm tù nhân vừa được dẫn tới, trong đó có cha Maximilien Kolbe, tu sĩ dòng Phanxicô Balan. Hôm ấy thiếu mất một tù nhân. Các tử tù biết rằng cứ một tù nhân đào thoát là hai mươi tù cùng trại phải nhịn ăn cho đến chết. Đêm ấy không ai trong khu nhà giam chợp mắt được. Mọi người đều sợ hãi, mặc dù nhiều lúc họ vẫn mong chờ cái chết đến để giải thoát họ.

       Chết dưới làn đạn, có lẽ còn chịu đựơc, nhưng chết đói chết khát thật là một cái chết kinh sợ nhất. Từ căn nhà hành hình, phát ra những tiếng la rú rùng rợn. Đêm ấy, cha Kolbe lo an ủi đồng bạn và giải tội cho những ai cần. Sáng hôm sau khi điểm danh, tên cai ngục đã báo tin người ta đã không tìm lại được kẻ đào thoát. Cả trại 14 đứng im như trời trồng và hồi hộp chờ án lệnh. Viên cai ngục dừng lại trước hàng những tù nhân và tuyên bố: “Mười đứa trong tụi bay sẽ chết thay nó. Lần sau sẽ là 20 đứa”. Tuyên bố xong hắn ta chậm rãi đi ngang qua hàng đầu, có vẻ suy nghĩ, rồi nói : “Tên này... tên này... tên này. Tất cả 10 người. 10 người bị tử hình”. Lúc đó một trong số những người ấy kêu lên: “Ôi vợ tôi, các con tôi!”. Những người còn đứng trong hàng ngũ thở ra nhẹ nhõm.

       Nhưng rồi một chuyện bất ngờ xảy ra: Có một người tù không thuộc nhóm những người bị chỉ định, mạnh dạn bước ra khỏi đám người đang xếp hàng im lặng trong sợ hãi, nhìn thẳng vào người cai ngục. Tên này kinh ngạc lùi lại một chút rồi hô to: “Đứng lại!”

       Cha Maximilien Kolbe dừng lại trước mặt y. Thế rồi một cuộc đối thoại chưa từng nghe đã diễn ra. Một cuộc đối thoại điên khùng mà những người sống sót đã kể lại thật chính xác:

- Xin ông cho phép tôi được chết thay cho một trong những người bị lên án này!

Viên cai tù kinh ngạc nhìn cha.

- Anh là ai  ?

- Là một linh mục công giáo.

- Anh muốn chết thế cho ai ?

- Người này. Cha Kolbe chỉ vào người vừa mới la khóc.

- Tại sao ?

- Bởi vì đời tôi không còn giúp ích gì mấy. Trong khi ông này còn có gia đình.

Viên cai trại suy nghĩ, rồi đưa tay ra hiệu đồng ý. Cha Kolbe nhập bọn với đám tử tội.

Một phút im lặng. Không ai hiểu rõ sự việc vừa xảy ra.

Các tù nhân bị lột hết quần áo, nhốt vào một căn hầm. Kể từ giây phút đó, người tù không còn gì để ăn và điều kinh khủng là không có gì để uống gì nữa.

Trước kia căn nhà hầm này luôn vang lên những tiếng kêu la thảm thiết. Thật là một địa ngục nhỏ. Nhưng lần này có cái gì đã thay đổi. Mấy người lính Đức quốc xã rất đỗi ngạc nhiên. Đám tử tù cầu nguyện và ca hát. Vẫn có tiếng rên rỉ, nhưng không còn là những tiếng kêu tuyệt vọng nữa.

Ngày thứ 12, tức ngày 14-08-1941 cửa phòng giam đói được mở ra. Mọi người đều đã chết, trừ một mình cha Kolbe, với đôi mắt vẫn sáng dù thân mình tàn rũ. Cha ngồi giữa đất, đầu tựa vào tường, thân mình ngay thẳng và khuôn mặt rạng rỡ. Viên cai ngục bắt ngài đưa tay ra và chích cho một mũi thuốc độc ân huệ. Vị linh mục chết ngay. Họ đưa xe đến xúc xác ngài và các bạn tù đem đi. Như bao nhiêu người khác, xác cha bị hoả thiêu trong lò và nắm tro tàn bị ném tung trong gió bốn phương.

       Trong Bài giảng của mình ở lễ tuyên phong chân phước cho vị tử đạo Balan thời Thế Chiến Thứ II năm 1941 này, người ta thấy có sự hiện diện của cụ Giasowniczek, người mà trước kia cha Maximilien Kolbe đã chết thay cho, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói:

       “Lịch sử sẽ không thể quên được trang sử ghê tởm này (của thời Đức quốc xã) nhưng giữa sự kinh hãi, người ta vẫn không thể không nhận ra những tia sáng tố giác bóng tối và đồng thời lướt thắng bóng tối. Một trong những tia sáng ấy, và có lẽ là tia sáng rực rỡ hơn hết, được ban cho chúng ta trong khuôn mặt tiều tụy và bình thản của cha M. Kolbe, vị anh hùng luôn bám chắc vào một niềm hy vọng nghịch lý nhưng có suy nghĩ. Tên tuổi Ngài mãi mãi lớn lao và sẽ nhắc nhở cho ta thấy rằng giữa những con người khốn khổ, vẫn có thể tồn tại những năng lực và giá trị luân lý phong phú biết bao !”

       Về phần mình, Đức Hồng Y Karol Wojtyla, người đồng hương Balan với vị chân phước tử đạo 1941 này, vị hồng y vào ngày 16/10/1978, đã trở thành Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, tại phòng họp báo toà thánh Vatican ngày 14-10-1971, đã bày tỏ cảm nhận của ngài như sau:

       “Chân phước Maximilien Kolbe không biết hận thù là gì. Trong nhà tù Pawiak, ở Vacsava, trong trại tập trung Auschwitz Ngài nhìn người hành hình cũng như kẻ bị hành hình cùng với một cái nhìn trong sáng, đến nỗi những kẻ tàn bạo nhất phải quay mặt đi: “Đừng nhìn bọn tao như thế”. Con người mang bản số 16670 ấy đã dành được một cuộc chiến thắng khó khăn nhất: ấy là cuộc chiến của tình yêu biết xá tội, biết thứ tha. Ngài đã đi vào trong cái vòng luẩn quẩn hiểm ác của hận thù với một cõi lòng nóng bỏng tình yêu và lập tức cái 'ngón trù ếm' quỉ quái của nó bị giải độc. Tình yêu đã mạnh hơn sự chết".

 

(Tiểu sử trên đây của Thánh Maximilian Maria Kolbe được TĐCTT Đaminh Maria cao tấn tĩnh, nghiên cứu và tổng hợp, bao gồm cả phần tử đạo từ website của TGP Sài Gòn)

 

Hãy đem nhiệt tâm tông đồ giúp các linh hồn được cứu độ và được thánh hoá

Kinh Sách Phụng Vụ Giờ Kinh ngày 14/8 - Bài đọc 2

 

Trích thư của thánh Mắc-xi-mi-li-a-nô Ma-ri-a Kôn-bê, linh mục, tử đạo.

Anh thân mến, tôi rất vui mừng vì thấy anh hăng hái nhiệt thành làm vinh danh Thiên Chúa. Ở thời đại chúng ta, không phải là không đáng buồn khi thấy chủ trương lãnh đạm - như người ta gọi - đang lan tràn dưới nhiều hình thức khác nhau. Chủ trương ấy giống như một cơn dịch lây lan không chỉ nơi giáo dân, mà cả trong các cộng đoàn tu trì nữa. Tuy nhiên, vì Thiên Chúa đáng được vinh quang vô tận, nên bổn phận trước hết và trên hết của chúng ta là đem trọn khả năng yếu kém của mình mà dâng lên Người vinh quang cao cả nhất, cho dù chúng ta không bao giờ có thể dâng cho Người như Người đáng được, vì chúng ta chỉ là những thụ tạo tha hương yếu hèn.

Nhưng vinh quang Thiên Chúa được rạng ngời đặc biệt nơi ơn cứu độ các linh hồn, các linh hồn đã được Đức Ki-tô đổ máu mình ra mà cứu chuộc, nên lòng nhiệt thành hoạt động tông đồ, trước hết và trên hết, chính là làm sao cho thật nhiều linh hồn được cứu độ và được thánh hoá hơn nữa. Nhưng đâu là con đường thích hợp nhất để đạt tới mục đích này, tức là để Thiên Chúa được tôn vinh và nhiều linh hồn được thánh hoá ? Tôi xin nói ít lời như sau : Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan thượng trí, Người biết rõ chúng ta phải làm gì để Người được thêm vinh quang, nên đã bày tỏ ý muốn của Người cho chúng ta, nhất là qua những vị đại diện của Người trên trần gian.

Vì vậy, chính sự vâng phục, và chỉ có sự vâng phục mà thôi, mới cho ta biết chắc ý muốn của Thiên Chúa. Thật ra bề trên cũng có thể lầm lẫn, nhưng không thể có chuyện chúng ta sống theo đức vâng phục mà lại vấp phải sai lầm. Một ngoại lệ duy nhất : chúng ta không phải vâng phục khi bề trên truyền làm một điều rõ ràng vi phạm luật Chúa, dầu là một vi phạm rất nhỏ, vì lúc đó, bề trên không còn là người chuyển đạt ý Chúa một cách trung thực nữa.

Thiên Chúa, và chỉ một mình Người, là Đấng vô biên, thượng trí và chí thánh, chí nhân. Chỉ một mình Người là Chúa, là Đấng tạo dựng và là Cha chúng ta, là khởi nguyên và cùng đích, là Đấng khôn ngoan, quyền năng và là tình yêu. Thiên Chúa là tất cả. Những sự vật ở ngoài Thiên Chúa càng được quy chiếu về Người thì càng thêm giá trị. Người là Đấng tạo dựng muôn loài, là Đấng cứu chuộc nhân loại và là cùng đích của toàn thể tạo thành. Vì thế, chính Người bày tỏ cho chúng ta ý muốn đáng tôn thờ qua những vị đại diện của Người trên trần gian. Người lôi kéo chúng ta đến với Người, để qua chúng ta mà lôi kéo những tâm hồn khác và liên kết họ với Người trong một tình yêu trọn vẹn hơn.

Anh thân mến, hãy coi địa vị của chúng ta cao trọng chừng nào nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhờ vâng phục, có thể nói là chúng ta vượt qua được những giới hạn hẹp hòi của chúng ta mà sống phù hợp với ý Thiên Chúa, Đấng đang dùng sự khôn ngoan thượng trí vô biên để hướng dẫn chúng ta hành động cho đúng. Hơn nữa, chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn mọi sự khi gắn bó với ý Thiên Chúa, ý muốn mà không thụ tạo nào có thể cưỡng lại được. Đây là nẻo đường sáng suốt khôn ngoan, là con đường duy nhất giúp chúng ta có thể tôn vinh Thiên Chúa hơn cả.

Nếu có con đường nào khác thích hợp hơn thì chắc chắn Đức Ki-tô đã dùng lời nói và gương sáng của Người mà chỉ vẽ cho chúng ta rồi. Nhưng Kinh Thánh đã tóm lược thời gian dài Người sống ở Na-da-rét trong những lời này : Người hằng vâng phục các ngài. Rồi có thể nói Kinh Thánh đã lấy đức vâng phục làm đường nét chính để phác hoạ quãng đời còn lại của Người : rải rác nhiều nơi, Kinh Thánh cho thấy Người xuống thế gian để thi hành ý muốn của Chúa Cha.

Vì vậy, thưa anh em, chúng ta hãy yêu mến, hãy hết lòng yêu mến Cha trên trời là Đấng rất mực yêu thương. Ước chi dấu chứng của lòng yêu mến tận tình này sẽ là đức vâng phục. Chừng nào chúng ta phải hy sinh ý riêng, chừng đó lòng yêu mến được thể hiện rõ ràng hơn cả. Thật thế, chúng ta biết rằng để giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa mỗi ngày mỗi hơn, không có cuốn sách nào thế giá bằng chính Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh.

Tất cả những điều đó, chúng ta sẽ xin được dễ dàng hơn nhờ Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm. Thiên Chúa đã muốn uỷ thác việc ban phát lòng thương xót của Người cho Đức Ma-ri-a. Điều hiển nhiên là Đức Ma-ri-a chỉ muốn cho chúng ta những gì chính Thiên Chúa muốn. Khi chúng ta hiến mình cho Mẹ, thì trong tay Mẹ, chúng ta sẽ trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để thi thố lòng thương xót của Người, như chính Mẹ là khí cụ trong tay Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta hãy để Mẹ hướng dẫn, hãy đưa tay cho Mẹ dắt dìu, hãy sống yên hàn dưới sự dẫn dắt của Mẹ ; chính Mẹ sẽ chăm sóc và tiên liệu mọi sự cho chúng ta, sẽ mau mắn cứu giúp, đáp ứng những nhu cầu hồn xác, đẩy lui những khó khăn phiền toái cho chúng ta.

 






Thứ Bảy

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 18, 1-10. 13b. 30. 32

"Ta sẽ xét xử mỗi người theo cách nó sống".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: Tại sao giữa các ngươi trong Israel có câu tục ngữ rằng: "Cha ông ăn nho chua thì con cháu ghê răng"?

Chúa là Thiên Chúa phán, Ta lấy sự sống Ta mà thề không lặp lại câu tục ngữ ấy ở Israel nữa. Này tất cả mọi sinh mạng đều thuộc về Ta; sinh mạng người cha cũng như sinh mạng người con, đều thuộc về Ta. Ai phạm tội, người ấy sẽ chết. Ai công chính, giữ lề luật và đức công bình, không ăn (của cúng) trên núi và không ngước mắt nhìn các thần tượng của nhà Israel, không xúc phạm đến vợ người khác, không gần gũi đàn bà khi họ không được sạch, không áp bức người ta, trả đồ cầm cố cho người mắc nợ, không cưỡng đoạt của ai, đem bánh cho người đói khát, đem áo mặc cho người trần trụi, không cho vay ăn lời, không lấy thêm của người, giữ tay không làm điều gian ác, xét đoán công minh giữa hai người, ăn ở theo luật lệ của Ta, và giữ các giới răn của Ta để thực hiện chân lý, người đó mới là công chính, nó sẽ được sống, Chúa là Thiên Chúa phán.

Nhưng nếu người đó sinh ra một đứa con trộm cướp, khát máu, phạm tội trong những lỗi nói trên, thì đứa con ấy không đáng sống, vì đã làm những điều đáng ghét, nó sẽ chết, và máu nó sẽ đổ trên đầu nó.

Vì vậy, hỡi nhà Israel, Ta sẽ xét xử mỗi người theo cách nó sống: Chúa là Thiên Chúa phán. Các ngươi hãy trở lại và hãy hối cải tất cả những điều gian ác, thì sự gian ác sẽ không huỷ diệt các ngươi. Hãy dứt bỏ hết mọi tội lỗi các ngươi đã phạm, và hãy tạo cho các ngươi một tâm hồn và một tinh thần mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi muốn chết. Ta không thích cho ai phải chết: Chúa là Thiên Chúa phán. Hãy trở lại để được sống.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 12-13. 14-15. 18-19

Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).

Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ; với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 18

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 13-15

"Ðừng ngăn cấm các trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời là của những người giống như chúng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, người ta đem những trẻ nhỏ đến cho Chúa Giêsu để Người đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Các môn đệ liền quở trách chúng, nhưng chúa Giêsu bảo: "Hãy để các trẻ nhỏ đến với Ta, và đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những người giống như chúng". Sau khi Người đặt tay trên chúng, thì Người đi khỏi nơi đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Forbid Not the Little Children | Bible illustrations, Jesus prints ...

 

Cảm Nghiệm Suy Niệm

 

Trẻ nhỏ - Linh đạo hôn nhân và trách nhiệm giáo dục


Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho ngày hôm nay, Thứ Bảy Tuần XIX Thường Niên, vẫn tiếp tục bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu từ các ngày trước trong tuần. 
Nếu bài Phúc Âm cho Thứ Ba tuần này "trẻ nhỏ" được Chúa Giêsu đặt giữa các môn đệ để làm mô phạm linh đạo theo Chúa cho các vị, thì bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau bài Phúc Âm hôm qua là bài về vấn đề ly dị trong đời sống hôn nhân gia đình giữa vợ chồng với nhau, dường như cũng có một ý nghĩa sâu xa nào đó, như thể hôn nhân gia đình bao gồm cả con cái và liên quan đến cả con cái nữa chứ không phải chỉ có chuyện vợ chồng với nhau mà thôi, và "trẻ nhỏ" cũng là mô phạm linh đạo cho cả ơn gọi sống đời hôn nhân gia đình bao gồm cả trách nhiệm giáo dục nữa vậy.
"Bấy giờ người ta đem các trẻ nhỏ đến với Người, để Người đặt tay cầu nguyện cho chúng. Nhưng môn đồ quát rầy chúng. Song Chúa Giêsu nói: 'Hãy để mặc các trẻ, và đừng ngăn cản chúng đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những người như thế'. Rồi Người đặt tay trên đầu chúng trước khi Người rời khỏi nơi đó".
Bài Phúc Âm tuy ngắn, chỉ vỏn vẹn có 3 câu 13-15 ở đoạn 19 của Thánh ký Mathêu nhưng rất sâu xa về ý nghĩa. Chúng ta hãy lưu ý đến từng chi tiết của bài Phúc Âm sẽ thấy:
"Bấy giờ người ta đem các trẻ nhỏ đến với Người, để Người đặt tay cầu nguyện cho chúng". 

Chúng ta không biết trẻ nhỏ được người ta mang đến cho Chúa Giêsu ở đây bao nhiêu tuổi. Có thể là còn đang được bế trên tay, tức khoảng độ trên dưới 1 tuổi, hay đã có thể
 tự mình bước đi, khoảng độ 3-4 tuổi, nhưng được dìu đến với Chúa.
Dầu sao cũng cho thấy sự kiện rất thực tế đó là trẻ nhỏ cần phải được dẫn đến với Chúa Giêsu chứ tự chúng không thể nào đến với Người, bởi có thể là về thể lý chưa biết đi. Nhất là vì các em chẳng hề biết Người là ai, và thường trẻ con lại hay sợ người lạ mặt nữa. Ở đây chúng ta thấy gợi lên vấn đề giáo dục con cái trong gia đình đó là trước hết và trên hết hãy dạy cho các con về Thiên Chúa, hãy dẫn chúng đến với Đấng đã dựng nên chúng qua cha mẹ chúng.
Trong bài Phúc Âm này, chúng ta thấy mục đích của những người mang trẻ em, có thể là con cái của họ, không biết là bao nhiêu em, đến với Chúa Giêsu với mục đích là "để Người đặt tay cầu nguyện cho chúng". Những người này, thường là cha mẹ của các em, quả thực đã hiểu Chúa Giêsu hơn ai hết, nên mới mang con cái của mình đến với Người, không phải để Người dạy dỗ chúng, vì chúng chưa hiểu được những gì Người nói, cho bằng để cho chúng được gần Người và để chúng được Người chúc lành cho, thế là đủ. Và chính họ cũng được diễm phúc lây, như trường hợp con cái của thành phần Kitô hữu Công giáo ở Quảng Trường Thánh Phêrô thường được Đức Thánh Cha Phanxicô ẵm bế và ôm hôn vậy. 
"Nhưng môn đồ quát rầy chúng". 

Th
ế nhưng, không ngờ, thành phần được gần Chúa Giêsu nhất là các môn đệ của Người lại không hiểu Người bằng thành phần đem con trẻ đến cùng Người trong bài Phúc Âm hôm nay. Bởi đó, các vị thay vì tỏ ra vui mừng hớn hở giúp cho các em đến với Chúa Giêsu Thày mình một cách dễ dàng hơn thì lại ra tay ngăn cản và xua đuổi chúng đi bằng thái độ "quát rầy chúng". 
Các vị có lẽ không ghét bỏ trẻ em đâu. Các em có tội tình gì đâu mà ghét bỏ chúng. Thế nhưng có thể các vị nghĩ rằng Thày của các vị là Đấng cao trọng, không giao tiếp với trẻ con, hay trẻ con không đáng được giao tiếp với Người, vì trẻ con biết gì mà đến với người, trái lại còn làm mất giờ quí báu của Người, chỉ làm phiền Người hơn là làm vui lòng Người. Thái độ của các môn đệ trong trường hợp này quả là còn nặng tính cách quan liêu lắm vậy.
Tuy nhiên, hành động của các vị đã cho thấy là các vị đã hoàn toàn quên rằng Chúa Giêsu Thày của các vị mới trước đó ít lâu đã đặt một em bé ở giữa các vị để chẳng những khuyên các vị là hãy "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ", mà nhất là còn khẳng định với các vị rằng: "Ai tiếp nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thày là tiếp nhận Thày... Đừng bao giờ khinh thường một trong những trẻ nhỏ này" (Mathêu 18:5,10). Đó là lý do Chúa Giêsu đã phải lên tiếng nói với các vị như sau:
"Hãy để mặc các trẻ, và đừng ngăn cản chúng đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những người như thế". 

Ở đây, trong câu nói này, Chúa Giêsu đã lập lại những gì Người đã khẳng định với các môn đệ ở lần trước rằng
 "trừ phi các con hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ các con mới được vào Nước Trời" (Mathêu 18:3). 
Trong lần này, Người còn nhấn mạnh hơn nữa, ở chỗ, nếu Nước Trời là chính bản thân Người, mà "Nước Trời thuộc về những người như thế", tức thuộc về thành phần sống như trẻ nhỏ, thì Người thuộc về những người sống cuộc đời thơ ấu thiêng liêng vậy.
Đó là lý do chỉ có tâm hồn nào sống bé nhỏ mới đến được với Chúa Kitô, mới nhận biết Chúa Kitô, mới tin tưởng vào Người, mới để Người nâng niu yêu thương ấp ủ, nhờ đó mới được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, mới là thành phần cao trọng nhất trên Nước Trời (xem Mathêu 18:4).

  

"Rồi Người đặt tay trên đầu chúng trước khi Người rời khỏi nơi đó".

 

Cử chỉ Chúa Giêsu đặt tay trên đầu các em không phải chỉ đáp ứng lòng mong ước của thành phần người lớn mang các em đến với Người, mà chính các em xứng đáng lãnh nhận phép lành đầy ân sủng của Người. 

Nếu việc đặt tay vẫn bao gồm việc thông ban Thánh Linh thì việc Chúa Giêsu đặt tay trên đầu các em bé ở đây còn có ý nghĩa là Người xác nhận tâm hồn ngây thơ vô tội của các em xứng đáng là nơi Thánh Linh ngự trị.

Việc đặt tay của Chúa Kitô trên đầu các em "trước khi Người rời khỏi nơi đó" còn có nghĩa là Người luôn ở cùng các em, vì Người thuộc về các em, như "Nước Trời thuộc về những người như thế", nhờ Thánh Linh được Người thông ban cho các em qua việc đặt tay của Người trên đầu của các em.  


Trong Bài Phúc Âm hôm nay chúng ta thấy được sự kiện các con trẻ được người ta mang đến cho Chúa Giêsu, và "người ta" đây là ai, nếu không phải là chính cha mẹ của chúng. Sự việc cha mẹ đem con cái của mình đến với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay hàm chứa một ý nghĩa rất sâu xa: 1- Con cái là của Chúa và thuộc về Chúa, nên cha mẹ cần pbhải trả chúng về cho Ngài và dẫn chúng đến với Ngài; 2- Con cái vì là của Chúa và thuộc về Chúa, hơn là của cha mẹ, mà cha mẹ cần phải dưỡng dục chúng theo đường lối và ơn gọi của từng đứa, đúng như ý Chúa, hơn là theo ý mình; 3- con cái là của Chúa và thuộc về Chúa, nên chính Chúa sẽ lo cho từng đứa, thánh hóa từng đứa, "đặt tay lên đầu chúng", chứ không phải cha mẹ, thành phần chỉ cần dưỡng dục chúng vì Chúa, trong Chúa và như ý Chúa muốn là đủ. 

Nếu chúng ta là cha mẹ dưỡng dục con cái theo ý mình, hơn là ý Chúa, thì Lời Chúa, qua miệng của Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Phúc Âm hôm nay, sẽ tiếp tục "câu tục ngữ rằng: 'Cha ông ăn nho chua thì con cháu ghê răng'"? Trái lại, nếu họ đã thực hiện như thành phần cha mẹ trong bài Phúc Âm hôm nay, đem con cái đến cùng Chúa Giêsu để được Người đặt tay trên đầu chúng, như thể chân nhận rằng con cái là của Chúa và thuộc về Chúa, mà họ có nhiệm vụ phải yêu thương chúng như tặng ân Chúa ban, Chúa trao gửi cho họ, thì những lời Chúa sau đây trong Bài Đọc 1 hôm nay là những lời Ngài muốn ngỏ cùng họ:

 

"Ta lấy sự sống Ta mà thề không lặp lại câu tục ngữ ấy ở Israel nữa. Này tất cả mọi sinh mạng đều thuộc về Ta; sinh mạng người cha cũng như sinh mạng người con, đều thuộc về Ta. Ai phạm tội, người ấy sẽ chết... Nhưng nếu người đó sinh ra một đứa con trộm cướp, khát máu, phạm tội trong những lỗi nói trên, thì đứa con ấy không đáng sống, vì đã làm những điều đáng ghét, nó sẽ chết, và máu nó sẽ đổ trên đầu nó".

 

Thật ra, cho dù là cha mẹ hay con cái, tất cả đều là tạo vật được Thiên Chúa dựng nên, để được sống hiệp thông thần linh với Ngài. Thế nên, ai sa ngã phạm tội thì hãy nhận biết trách nhiệm của mình mà tự trở về với Ngài, như chính Ngài đã kêu gọi trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Các ngươi hãy trở lại và hãy hối cải tất cả những điều gian ác, thì sự gian ác sẽ không huỷ diệt các ngươi. Hãy dứt bỏ hết mọi tội lỗi các ngươi đã phạm, và hãy tạo cho các ngươi một tâm hồn và một tinh thần mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi muốn chết. Ta không thích cho ai phải chết: Chúa là Thiên Chúa phán. Hãy trở lại để được sống".

 

Đó là lý do, ai cũng thế, muốn sống trọn ơn gọi làm người, nhất là ơn gọi làm con cái của Cha Trên Trời, họ cần phải van xin như Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịng thống hối 50: "Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch", cùng với tâm tình nguyện xin ở cả 3 câu xướng của cùng Bài Đáp Ca này:

 

1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.

2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ; với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung.

 


Thứ Bảy

Ngày 15 tháng 8

Lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

Lễ Trọng

 

Bài Ðọc I: Kh 11, 19a; 12, 1-6a, 10ab

"Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Ðền thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra. Và một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao: Bà đang mang thai, kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con.

Lại một điềm lạ khác xuất hiện trên trời: một con rồng đỏ khổng lồ, có bảy đầu, mười sừng, và trên bảy đầu, đội bảy triều thiên. Ðuôi nó kéo đi một phần ba tinh tú trên trời mà ném xuống đất. Con rồng đứng trước mặt người nữ sắp sinh con, để khi Bà sinh con ra, thì nuốt lấy đứa trẻ.

Bà sinh được một con trai, Ðấng sẽ dùng roi sắt mà cai trị muôn dân: Con Bà được mang về cùng Thiên Chúa, đến tận ngai của Người. Còn Bà thì trốn lên rừng vắng, ở đó Bà được Thiên Chúa dọn sẵn cho một nơi.

Và tôi nghe có tiếng lớn trên trời phán rằng: "Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta, và uy quyền của Ðức Kitô của Người đã được thực hiện".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 44, 10bc. 11. 12ab. 16

Ðáp: Hoàng Hậu đứng bên hữu Ðức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng (c. 10b).

Xướng: 1) Hoàng Hậu đứng bên hữu Ðức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy. - Ðáp.

2) Xin hãy nghe, thưa Nương Tử, hãy coi và hãy lắng tai, hãy quên dân tộc và nhà thân phụ. - Ðáp.

3) Ðể Ðức Vua Người sủng ái dong nhan: chính Người là Chúa của Cô Nương, hãy phục vụ Người. - Ðáp.

4) Họ bước đi trong niềm hân hoan vui vẻ, tiến vào trong cung điện Ðức Vua. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 20-26

"Hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Chúa".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Ðức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Ðức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng, khi Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực. Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết, bởi Người đã bắt mọi sự quy phục dưới chân Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Ðức Maria được mời gọi lên trời; đạo binh các thiên thần mừng rỡ hân hoan. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 39-56

"Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:

"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".

Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".

Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà Mình.

Ðó là lời Chúa.

 

Our Lady of the Assumption | Our Lady of the Assumption Cath… | Flickr

 

Suy Niệm

 

 

Đặc Ân Mông Triệu: Niềm Tin và Tín Điều

Là Kitô hữu Công Giáo, nhờ được học hỏi hay tự nghiên cứu, nhất là về Thánh Mẫu Học, ai cũng biết rằng Mẹ Maria đã có 4 tín điều được Giáo Hội đã tuyên tín, trong giòng lịch sử của mình, theo thứ tự thời gian, đó là:

1- Tín điều Thánh Mẫu Maria là Mẹ của Thiên Chúa, được tuyên tín bởi Công Đồng Chung Epheso năm 431;

2- Tín điều Thánh Mẫu Maria trọn đời trinh nguyên, cả trước, trong và sau khi sinh Con, được tuyên tín bởi Công Đồng Latêrano năm 649;

3- Tín điều Thánh Mẫu Maria vô nhiễm nguyên tội, ngay từ giây phút đầu tiên được hoài thai trong lòng thai mẫu, do Giáo Hoàng Chân Phước Piô IX công bố ngày 8/12/1854;

4- Tín điều Thánh Mẫu Maria mông triệu về trời, cả thân xác lẫn linh hồn, sau cuộc đời trần gian này của Mẹ, do Đức Thánh Cha Piô XII công bố ngày 1/11/1950.

Sở dĩ 4 đặc ân trở thành 4 tín điều Thánh Mẫu là vì cả 4 đặc ân và từng đặc ân trực tiếp liên quan đến Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế, cũng như đến chính Ơn Cứu Chuộc của Người. Trong Tông Hiến Thiên Chúa Hào Phóng - Munificentissimus Deus để tuyên bố tín điều thứ 4 này, Đức Thánh Cha Piô XII cũng đã khẳng định niềm tin bất khả sai lầm này như sau:

"Người Mẹ Thiên Chúa trọng kính này, từ đời đời, đã kín ẩn liên kết với Chúa Giêsu Kitô, trong cùng một mức độ tiền định, mà tình trạng vô nhiễm lúc Mẹ được hoài thai, tình trạng đồng trinh tuyệt hảo nơi vai trò làm mẹ thần linh của Mẹ, việc liên kết cao quí với Đấng Cứu Chuộc thần linh, Đấng đã hoàn toàn chiến thắng tội lỗi cùng với những hậu quả của tội lỗi, cuối cùng cũng đã đạt được, như tột đỉnh về các đặc ân của Mẹ, do đó Mẹ cần phải được gìn giữ cho khỏi tình trạng bị băng hoại trong mồ mả, và, như Người Con của mình, Đấng đã chiến thắng sự chết, Mẹ cần phải được đưa cả xác lẫn hồn vào vinh quang thiên quốc, nơi, với vai trò làm Nữ Vương, Mẹ ngự trị trong vinh quang bên hữu Con Mẹ, Đức Vua bất tử của các Thế Hệ" (khoản 48).

Theo lập luận tự nhiên, chúng ta cũng thấy rất hợp tình hợp lý nơi 4 Đặc Ân Thánh Mẫu đã trở thành 4 Tín Điều Thánh Mẫu này: Vì Thánh Mẫu Maria được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Lời Nhập Thể, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, mà Mẹ, về phần hồn, không thể nào lại bị nhiễm lây nguyên tội, một tình trạng bị ma quỉ thống trị, và về phần xác, không thể nào thụ thai và hạ sinh Vị Thiên Chúa Nhập Thể này như một con người thuần túy, hoàn toàn theo huyết nhục và tình dục tự nhiên (xem Gioan 1:13), mà phải "bởi quyền phép Thánh Linh" (Mathêu 1:20; Luca 1:35), và cuối cùng, chính vì linh hồn của Mẹ vô nhiễm, và thân xác của Mẹ trọn đời trinh nguyên như thế, mà chung nhân tính của Mẹ không thể nào bị tử thần phân rẽ bằng cái chết, và riêng thân xác của Mẹ không thể nào bị băng hoại như một tội nhân. Trong cùng một Tông Hiến tuyên bố Tín Điều Mông Triệu của mình, Đức Thánh Cha Piô XII cũng đã minh định theo chiều hướng này:

"Chúa Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết bằng chính cái chết của Người, và ai được tái sinh một cách siêu nhiên nhờ Phép Rửa, cũng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết bởi Đức Kitô ấy. Tuy nhiên, theo luật chung, Thiên Chúa không muốn ban cho kẻ công chính trọn vẹn hiệu quả của cuộc chiến thắng chết chóc này, cho đến ngày cùng tháng tận. Đó là lý do thân xác của ngay cả kẻ công chính cũng bị hư nát sau khi chết, và chỉ vào ngày tận thế thân xác ấy mới được liên kết với linh hồn hiển vinh của nó (khoản 4). Vậy Thiên Chúa miễn trừ qui luật chung này cho Đức Trinh Nữ Maria. Nhờ đặc ân hoàn toàn chuyên biệt, đặc ân Hoài Thai Vô Nhiễm của Mẹ đã chiến thắng tội lỗi, do đó mà Mẹ không bị chi phối bởi luật về tình trạng băng hoại trong mồ mả, và Mẹ không cần phải đợi cho đến tận thế cho việc cứu chuộc thân xác của Mẹ (khoản 5)".

Niềm tin về đặc ân Mẹ Maria được mông triệu về trời cả thân xác lẫn linh hồn này đã có từ lâu trong Giáo Hội, đến độ đã trở thành một phong trào thỉnh nguyện thẩm quyền tối cao của Giáo Hội công bố thành tín điều. Như chính Đức Thánh Cha Piô XII đã xác nhận: "Tất cả mọi thỉnh nguyện về đặc ân Mông Triệu của Đức Trinh Nữ Maria về trời, đã được gửi về Tòa Thánh từ thời Đức Giáo Hoàng Piô IX... cho tới ngày nay" (Cùng Tông Hiến khoản 10). Để rồi, sau khi đã "thu thập lại với nhau và cẩn thận cứu xét" (cùng nguồn vừa trích), Đức Thánh Cha Piô XII đã đi đến thẩm định quan trọng đưa đến việc ngài công bố Tín Điều Mông Triệu này, như sau:

"Tất cả những chứng cứ này, cùng với những cứu xét của các thánh Giáo Phụ và các thần học gia, đều được căn cứ vào các Sách Thánh như là nền tảng tối hậu của các vị. Những chứng cứ cùng với những cứu xét ấy, đã cho thấy rằng, Người Mẹ yêu dấu của Thiên Chúa, ở ngay trước mắt của chúng ta, thực sự đã hết sức mật thiết liên hợp với Người Con thần linh của Mẹ, và luôn chia sẻ với số phận của Người. Bởi thế, không thể nào nghĩ về Mẹ, Vị đã thụ thai Chúa Kitô, đã hạ sinh Người, đã nuôi dưỡng Người bằng sữa của mình, và đã ôm ấp Người nơi ngực của mình, lại tách rời khỏi Người nơi thân xác, cho dù không ở nơi linh hồn, sau cuộc đời trần thế này. Vì Đấng Cứu Thế là Con của Mẹ Maria, Người không thể nào làm khác đi được, với tư cách là một vị tuân thủ trọn hảo nhất lề luật của Thiên Chúa, ngoài việc tỏ lòng tôn kính, chẳng những với Ngôi Cha hằng hữu của Người, mà còn với cả Người Mẹ rất yêu dấu của Người nữa. Vì Người có quyền năng ban cho Mẹ đại vinh dự này, trong việc gìn giữ Mẹ khỏi tình trạng bị hư hoại trong mồ, mà chúng ta cần phải tin rằng Người thực sự đã làm như thế" (khoản 38).

Đó là lý do, vào Lễ Trọng Các Thánh 1/11/1950, thời điểm được thẩm quyền của Giáo Hội công bố Tín Điều Mông Triệu, loài người mới trải qua Thế Chiến Thứ II (1939-1945), nhưng nạn cộng sản vô thần vẫn còn tiếp tục gieo rắc lầm lạc và bách hại Giáo Hội, như Mẹ Maria đã tiên báo trong Bí Mật Fatima phần thứ 2 ngày 13/7/1917, đến độ chính vị Giáo Hoàng Piô XII này, vị được tấn phong giám mục vào chính ngày giờ Mẹ Maria hiện ra ở Fatima lần đầu tiên 13/5/1917, vị cảm thấy mình có một thiên duyên đặc biệt với Thánh Mẫu Fatima, đã quan tâm cứu xét và đáp lại bức thư của Nữ Tu Lucia, một trong 3 Thiếu Nhi Fatima thụ khải 1917 còn sống sót, đệ trình ngài ngày 24/10/1940, và ngài đã hiến dâng toàn thể loài người lần đầu tiên cho Mẹ Maria ngày 31/10/1942, mừng kỷ niệm 25 năm Biến Cố Thánh Mẫu Fatima. Ngài hy vọng Tín Điều Thánh Mẫu Mông Triệu sẽ mang lại ích lợi cho xã hội loài người, như ngài đã bày tỏ như sau:

"Chúng tôi, người đã đặt giáo triều của mình dưới sự bảo hộ đặc biệt của Đức Trinh Nữ rất thánh, Đấng chúng tôi đã rất thường chạy đến trong những lúc trầm trọng rắc rối, chúng tôi cũng là người đã hiến dâng toàn thể loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, bằng những nghi thức công khai, và chúng tôi đã nhiều lần cảm thấy việc chở che bênh đỡ quyền năng của Mẹ, tin tưởng rằng việc long trọng công bố và định tín về đặc ân Mông Triệu này, sẽ góp phần không nhỏ vào việc thăng tiến xã hội loài người, vì việc công bố và định tín này góp phần vào vinh quang của Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, một vinh quang mà Người Mẹ Thánh của Thiên Chúa cũng được tham hưởng, nhờ những mối liên hệ đặc thù" (cùng Tông Hiến khoản 42).

Cuối cùng, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng công bố Tín Điều Mông Triệu của Mẹ Maria bằng những lời lẽ chính thức như thế này: 

"Vì thế, sau khi chúng tôi đã trào dâng lên những lời nguyện cầu thỉnh xin nhiều lần cùng Thiên Chúa, và đã kêu van ánh sáng của Thần Chân Lý, vậy vì vinh quang của Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng đã tỏ ra đặc biệt ưu ái Trinh Nữ Maria, vì vinh quang Con của Mẹ, Đức Vua bất tử qua Muôn Thế Hệ, và là Đấng Chiến Thắng tội lỗi và sự chết, để tăng thêm vinh hiển của cùng Người Mẹ uy nghi cao cả này, cũng như để cho toàn thể Giáo Hội được hân hoan hớn hở; bằng thẩm quyền của Chúa Giêsu Kitô của chúng ta, của Các Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, cũng như bằng thẩm quyền của mình, chúng tôi xin thông báo, tuyên bố và minh định là một tín điều được mạc khải thần linh, đó là Người Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa, Đức Trinh Nữ Maria trọn đời, khi đã hoàn tất hành trình trần thế của mình, đã được đưa cả thân xác và linh hồn vào vinh quang thiên quốc" (Cùng Tông Hiến khoản 44).

Parent Volunteers Required at Our Lady of the Assumption Parish ...

Đặc Ân Mông Triệu: Ý Nghĩa và Giá Trị

Tóm lại, căn cứ vào chính văn kiện Tông Hiến về Tín Điều Thánh Mẫu Mông Triệu này, thì đặc ân Mông Triệu của Mẹ Maria nói riêng, cũng như các đặc ân khác của Mẹ nói chung, là nhờ mối liên hệ mật thiết bất khả phân ly giữa Mẹ và Chúa Kitô Con Mẹ. Không phải chỉ ở nơi dự án thần linh của Thiên Chúa, mà còn ở nơi chính bản thân của Mẹ nữa. Thật vậy, chỉ vì Mẹ "đầy ơn  phúc" mà Mẹ được các đặc ân đã trở thành Tín Điều Thánh Mẫu trên đây.

Không phải hay sao, nếu Mẹ "đầy ơn phúc", trước hết và trên hết, là vì Mẹ được "Thiên Chúa ở cùng" (Luca 1:28), được Thiên Chúa ưu ái trên hết mọi tạo vật của Ngài; thế nhưng, ngược lại, về phần mình, chính Mẹ cũng cần phải ở lại với Thiên Chúa, bằng đức tin có phúc của Mẹ (xem Luca 1:45), đức tin tuân phục của Mẹ, như một tỳ nữ xin vâng (xem Luca 1:38), nhờ đó Mẹ "được ơn nghĩa với Chúa" (Luca 1:30), đẹp lòng Chúa, từ lúc Mẹ vừa hoài thai trong lòng thai mẫu, cho đến khi Mẹ ra khỏi trần gian Mông Triệu về Trời!

Chính đặc ân Mông Triệu này, một đặc ân liên quan đến lúc kết thúc cuộc đời trần gian này của Mẹ Maria, đã cho thấy tột đỉnh "đầy ơn phúc" của Mẹ (Luca 1:28), một mức độ đã được bắt đầu từ khi Mẹ hoài thai trong lòng thai mẫu, và là một mức độ được gia tăng từng giây từng phút không ngừng nghỉ, chứ không phải đã "đầy" rồi thì không thể "đầy" hơn được nữa. Đúng thế, không phải như một cái ly, cái chậu, cái bình, cái chum, thùng phi, hay một thứ chứa đựng nào đó to hơn, đã "đầy" thì không thể tăng thêm, trừ khi thay đổi cái chứa đựng to lớn hơn.

Nơi Mẹ Maria thì không phải vậy, hoàn toàn không phải. Ở chỗ, tình trạng "đầy ơn phúc" nơi Mẹ, từ lúc Mẹ hoài thai, càng ngày càng đầy thêm, càng tăng thêm, như chính "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5) "ở cùng Mẹ" (Luca 1:28), càng ngày càng rạng ngời hơn trong Mẹ và qua Mẹ, đến độ, Mẹ nhờ đó đã như Sách Khải Huyền ở Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy "mặc mặt trời" (Khải Huyền 12:1), và trở nên "rực rỡ như mặt trời" (Diễm Tình Ca 6:10). Chính ánh sáng mặt trời đã làm cho Mẹ trở thành tinh khiết hơn pha lê, Mẹ mới chói lọi như mặt trời.

Về phần mình, Mẹ "đầy ơn phúc" còn ở chỗ "vì đã tin" nữa (Luca 1:45), con người của Mẹ như quả bong bóng, càng ngày càng căng phồng, nhờ hơi thổi thần linh, ở chỗ, mỗi tác động thần linh của Thiên Chúa nơi Mẹ đều được Mẹ đáp ứng một cách tương xứng, như quả bong bóng dãn nở theo hơi thổi thần linh. Do đó, cho đến khi quả bong bóng nhân tính "đầy ơn phúc" của Mẹ Maria đã căng hết cỡ chịu đựng theo bản chất hạn hẹp nhân tính này, thì Thiên Chúa thả bàn tay chiếm đoạt của Ngài ra, cho Bóng Bay Maria "đầy ơn phúc", nhờ hơi thổi thần linh, đã căng phồng từ trần gian lên tới tận sát giới tuyến thần tính của Thiên Chúa, bay thẳng về trời!

Mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ có thể nói là bao trùm cả trời đất, ngoại trừ chính Thiên Chúa. Bởi thế mới nói mức độ này đạt tới giới tuyến thần tính của Thiên Chúa. Chính vì mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ bao trùm chẳng những cả trái đất này mà, trong Chúa Kitô Con Mẹ, Mẹ đã trở nên Mẹ của nhân loại và Mẹ của Giáo Hội, mà còn cả các tầng trời mà Mẹ đã trở thành Nữ Vương Các Thiên Thần. Chính ĐTC Piô XII, vị đã tuyên tín Mẹ Mông Triệu cả xác lẫn hồn về trời ngày 1/11/1950, cũng là vị giáo hoàng, 4 năm sau, vào năm 1954, đã thiết lập Lễ Mẹ Nữ Vương, kính ngày 31/5, cuối Tháng Hoa Mẹ hằng năm bấy giờ, ngày nay, sau Công Đồng Chung Vaticanô II, đã chuyển sang ngày 22/8, sau Lễ Mẹ Mông Triệu 1 tuần.

Về phần Thiên Chúa, qua biến cố Ngài đưa cả thân xác trinh nguyên và linh hồn vô nhiễm của Mẹ về trời chứng tỏ Ngài đã công nhận mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ và nơi Mẹ đã đạt tới tận giới tuyến thần tính của Ngài. Thật thế, nếu Thiên Chúa là CÓ (xem Xuất Hành 3:14), thì nơi biến cố nhập thể trong cung dạ trinh nguyện của Mẹ, đã trở thành KHÔNG (xem Philiphe 2:6) thế nào, thì nơi biến cố Mông Triệu của Mẹ, Mẹ từ Không đã trở thành Có như vậy, như Mẹ đã từng là nữ tỳ xin vâng (xem Luca 1:38) trở thành Mẹ Thiên Chúa. Nơi Mẹ Maria Mông Triệu, Thiên Chúa như muốn tuyên bố rằng: Ta là CÓ chẳng những nơi chính bản thân mình, mà còn, qua Maria, CÓ trong tất cả mọi tạo vật hữu hình và vô hình Ta đã tạo dựng nên nữa; và "tất cả mọi tạo vật đang ngong ngóng mong chờ tình trạng tỏ hiện của con cái Thiên Chúa" (Roma 8:19) đã hiện thực ở nơi Maria Mông Triệu! Bởi thế, Maria chính là niềm hân hoan vinh dự của tạo vật, và là niềm hy vọng cậy trông của loài người!

Our Lady of the Assumption Roman Catholic Church – Strafford ...

Chính vì thế mà Giáo Hội mới tiếp tục dâng lên Mẹ lời Kinh Lạy Nữ Vương, nhất là vào ban đêm, như vẫn được thực hiện ở các dòng tu, trước khi ngủ đêm, kết thúc một ngày sống, như thể, cùng với lời kinh và qua lời kinh này, cùng nhau hướng về quê trời vĩnh cửu, một Thực Tại Mẹ được cả hồn xác Mông Triệu đang được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần:

Salve, Regina, Mater misericordiae, vita, dulcedo, et spes nostra, salve. 
ad te clamamus exsules filii Evae, ad te suspiramus, gementes et flentes in hac lacrimarum valle.

Eia, ergo, advocata nostra, illos tuos misericordes oculos ad nos converte;
et Jesum, benedictum fructum ventris tui, nobis post hoc exsilium ostende.
O clemens, O pia, O dulcis Virgo Maria.”

                                                            Lạy Nữ Vương Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy.

                                                              Thân lạy Mẹ, chúng con, con cháu E-và ở chốn khách đầy, kêu đến cùng Bà;

                                                                        Chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khấn Bà thương.

                                                                 Hỡi ôi! Bà là Chủ bầu chúng con, xin ghé mặt thương xem chúng con.

                                                        Đến sau khỏi đày, xin cho chúng con được thấy Đức Chúa Giêsu, Con lòng Bà gồm phúc lạ.

Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh.

Assumption of the Blessed Virgin Mary - Our Lady of the Mountain ...

 

Xin mời nghe bài chia sẻ trên đây ở cái link audio mp3 dưới đây:

Lễ Mẹ Mông Triệu

 

Xin mời xem TV Show / Youtube ở cái link dưới đây

https://youtu.be/bXPDBVNmbPo - Show 1

 https://youtu.be/xYg_vJ4a87U - Show 2