SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 


Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XV Thường Niên Năm A và
Chẵn


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 55, 10-11

"Chúng làm cho đất phì nhiêu".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn, cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 64, 10abcd. 10e-11. 12-13. 14

Ðáp: Hạt giống rơi vào đất tốt, và sinh hoa kết quả (Lc 8, 8).

Xướng: 1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội: Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần. Sông ngòi của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị cho thiên hạ có lúa mì. - Ðáp.

2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước vào những luống cày, và Ngài san bằng mô cao của ruộng đất. Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa; Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất. - Ðáp.

3) Chúa đã ban cho một năm hồng ân, và lốt xe ngự giá của Ngài khơi nguồn phong phú. Ðống đất hoang vu có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi vận xiêm-y hoan hỉ. - Ðáp.

4) Ðồng ruộng đông chật những đàn chiên dê, và các thung lũng được che lợp bằng ngũ cốc; muôn loài đều hát xướng và hoan ca. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 8, 18-23

"Các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi nghĩ rằng những đau khổ ở đời này không thể sánh với vinh quang sắp tới sẽ được mạc khải cho chúng ta. Vì chưng các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa. Các tạo vật đã phải tùng phục cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn như vậy, nhưng vì Ðấng đã bắt nó phải tùng phục với hy vọng là các tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa. Vì chúng ta biết rằng cho đến bây giờ, mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta là những kẻ hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên siết trong khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử và ơn cứu độ thân xác chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 17, 17b và a

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 13, 1-9 {hoặc 1-23}

"Kìa, có người gieo giống đi gieo lúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói:

"Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi. Ai có tai thì hãy nghe".

[Các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành". Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe.

"Vậy, các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường. Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó, đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã. Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết nghẹt mà không sinh hoa kết quả được. Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".]

Ðó là lời Chúa.

 

The Parable of the Sower The Parable of the SowerPin on #73 Parable of the Sower

 

 

Cảm Nghiệm Lời Chúa

 


Căn cứ vào diễn tiến của Phụng Vụ Lời Chúa, chúng ta thấy tính cách liên tục về nội dung và ý nghĩa của Phụng Vụ Lời Chúa được Mẹ Giáo Hội cố ý tuần tự dọn ra cho con cái của mình mỗi Chúa Nhật hằng tuần.

Thật vậy, nếu Chúa Nhật XIV tuần trước, Chúa Giêsu đã đề cập tới "những điều ấy", như đã chia sẻ, là chính những điều về chính bản thân Người, một Mầu Nhiệm Thần Linh được Cha trên trời mạc khải cho thành phần bé mọn hơn là thành phần khôn ngoan thông thái, thì Chúa Nhật XV tuần này và 2 Chúa Nhật XVI và XVII tiếp theo, Giáo Hội đã hoàn toàn bỏ tất cả đoạn 12, và nhẩy sang đoạn 13 của Thánh ký Mathêu, đoạn về Mầu Nhiệm Nước Trời là chính Chúa Kitô được Người diễn tả bằng các dụ ngôn khác nhau. Và dụ ngôn đầu tiên đó là dụ ngôn về "người gieo giống" như thế này:


"Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi. Ai có tai thì hãy nghe".

Dụ ngôn chính yếu về "người gieo giống" nhưng nội dung lại chỉ liên quan đặc biệt đến hạt giống cùng với 4 môi trường đón nhận khác nhau của nó: vệ đường hững hờ, đá sỏi cứng cỏi, bụi gai phân tâm và đất tốt đáp ứng. Tuy nhiên, chính yếu vẫn là "người gieo giống" liên quan đến đường lối hay cách thức gieo giống của người này: một là "người gieo giống" trong dụ ngôn này không chuyên nghiệp trong việc gieo giống, chẳng biết gieo giống là gì, chẳng biết gieo làm sao cho đúng nơi đúng chỗ; hai là "người gieo giống" ấy có quá nhiều hạt giống trong kho lẫm của mình nên bất cần những hạt giống gieo xuống có văng đi đâu cũng chẳng thiệt hại gì!

Đúng thế, giả thuyết thứ hai có vẻ đúng hơn. Ở chỗ, "Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương" (Epheso 2:4)
không phải chỉ ban ơn phúc của Ngài cho những ai tốt lành tài năng (có một tấm lòng như đất tốt), còn người xấu xa kém cỏi (có một tấm lòng như vệ đường, sỏi đá hay bụi gai) thì không.

Là Đấng dựng nên tất cả mọi người và từng người, Thiên Chúa biết ai cũng cần đến ân sủng của Ngài, cần đến mạc khải thần linh của Ngài là Đức Giêsu Kitô để có thể được cứu độ, thì Ngài không thể nào không tỏ ra cho họ một cách nào đó, hợp với khả năng nhận thức và cuộc đời của họ. Bằng không, Ngài là một Thiên Chúa thiên vị, bất công, thưởng phát bất phân minh.

Còn trách nhiệm của thành phần lãnh nhận ơn của Ngài và mạc khải của Ngài thì thuộc về kẻ lãnh nhận. Đó là lý do, trong phần dẫn giải dụ ngôn (không buộc đọc), Chúa Giêsu đã ghép hạt giống gieo xuống đồng hóa với chính lãnh nhận nhân:

"
Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó, đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã. Hạt rơi vào bụi gai là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết nghẹt mà không sinh hoa kết quả được. Hạt gieo trên đất tốt là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".

Trước khi gieo xuống một trong 4 môi trường đón nhận nào đó, thì "hạt giống", như Chúa Giêsu dẫn giải, chính là
"lời giảng về Nước Trời", thế nhưng khi đã rơi xuống và chạm đến một nơi nào đó thì "lời giảng về Nước Trời" này lại hoàn toàn lệ thuộc vào môi trường của nó, để có thể đâm mộng nẩy mầm và phát triển cùng sinh hoa kết trái theo bản chất hạt giống của nó cho tới khi đạt được trọn vẹn tầm vóc hạt giống ấn định của nó, đúng như Lời Chúa phán trong Sách Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn, cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác".

Vấn đề được đặt ra ở đây là nếu theo nguyên tắc và về phía "người gieo giống" "lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác", mà thực tế và về phía nhân loại lại hoàn toàn khác hẳn, ở chỗ đất tốt là môi trường đáp ứng duy nhất trong 4 môi trường đáp ứng Lời Chúa, thì làm sao lại xẩy ra chuyện "sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả"!

Vậy "kết quả" ở đây là gì? Nếu không phải là những gì Thiên Chúa muốn, những gì "người gieo giống" muốn, đều được nên trọn đúng như ý muốn của Ngài, như chính Ngài đã khẳng định: "nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác", nghĩa là nó chứng thực "Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương" tất cả mọi người và từng người, bất kể họ là thành phần tốt xấu hay lành dữ: "Ngài làm cho mặt trời mọc lên trên kẻ lành người dữ và làm mưa xuống trên người công chính và kẻ bất chính" (Mathêu 5:45).

Nếu nơi mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm gieo giống, Con Thiên Chúa là Lời hằng ở cùng Cha (xem Gioan 1:1) "đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), "là ánh sáng chiếu trong tăm tối, một tối tăm không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), thì nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua Lời của Con mình, Ngài còn có thể biến dữ thành lành, chết thành sống, như Ngài đã thực hiện nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã Vượt Qua sự chết mà vào sự sống, Đấng sống lại từ cõi chết, tức là Người đã đi vào tận thâm cung bí ẩn nhất của chết chóc, của sự dữ, để biến căn tính tối tăm khổ nạn thành ánh sáng phục sinh, biến nọc độc chết chóc tử giá thành sự sống vinh quang, chẳng những cho riêng con người mà còn cho chung toàn thể tạo vật nữa. Và đó là tất cả ý nghĩa của lời Thánh Phaolô trong Thư Roma ở Bài Đọc 2 hôm nay:

"Anh em thân mến, tôi nghĩ rằng những đau khổ ở đời này không thể sánh với vinh quang sắp tới sẽ được mạc khải cho chúng ta. Vì chưng các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa. Các tạo vật đã phải tùng phục cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn như vậy, nhưng vì Ðấng đã bắt nó phải tùng phục với hy vọng là các tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa. Vì chúng ta biết rằng cho đến bây giờ, mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta là những kẻ hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên siết trong khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử và ơn cứu độ thân xác chúng ta".


Như thế thì quả thực "lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác". Bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa tâm tình đầy lạc quan và hy vọng của "các tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa":

1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội: Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần. Sông ngòi của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị cho thiên hạ có lúa mì.

2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước vào những luống cày, và Ngài san bằng mô cao của ruộng đất. Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa; Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất.

3) Chúa đã ban cho một năm hồng ân, và lốt xe ngự giá của Ngài khơi nguồn phong phú. Ðống đất hoang vu có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi vận xiêm-y hoan hỉ.

4) Ðồng ruộng đông chật những đàn chiên dê, và các thung lũng được che lợp bằng ngũ cốc; muôn loài đều hát xướng và hoan ca.


Vậy chúng ta hãy sử dụng chính câu Alleluia hôm nay để nguyện rằng: "
Lạy Cha, 'Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật'. - Alleluia".



Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 1, 10-17

"Các ngươi hãy tắm rửa, hãy dẹp khỏi mắt Ta các tư tưởng xấu xa".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Hỡi các hoàng tử Sôđôma, hãy nghe lời Chúa; hỡi dân Gômôra, hãy lắng tai nghe luật Thiên Chúa chúng ta. Chúa phán: "Muôn vàn hy lễ có ích lợi gì cho Ta? Ta đã chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên đực, mỡ các súc vật béo, máu bò đực, chiên con và dê đực.

"Khi các ngươi đến trước mặt Ta, ai kiểm soát các vật ấy nơi tay các ngươi, để các ngươi đi vào hành lang của Ta? Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày Sabbat và các ngày lễ trọng khác. Những cuộc hội họp của các ngươi đều là gian ác.

"Tâm hồn Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta, Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi. Và khi các ngươi giơ tay các ngươi lên, thì Ta quay mặt đi. Khi các ngươi càng cầu nguyện, thì Ta càng không nhậm lời, vì tay các ngươi vấy đầy máu.

"Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy dẹp khỏi mắt Ta các tư tưởng xấu xa; đừng làm điều xấu nữa, hãy làm điều lành; hãy tìm kiếm công lý, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những trẻ mồ côi và bênh vực người goá bụa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 49, 8-9. 16bc-17. 21 và 23

Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).

Xướng: 1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận từ đàn chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.

2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.

3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta cũng giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 34 - 11, 1

"Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.

Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".

Sau khi Chúa Giêsu truyền dạy xong các điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành phố của các ông.

Ðó là lời Chúa.

 

Evangelho de hoje (Mt 10,34 –11,1) - Egídio Serpa | Egídio Serpa ... 

 


Suy Niệm Cảm Nghiệm


Suy Niệm


Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XV Thường Niên là bài phúc âm tiếp theo loạt bài phúc âm của Thánh ký Mathêu về huấn từ sai đi của Chúa Giêsu với 12 tông đồ. Bài phúc âm hôm nay là phần cuối cùng của bài huấn từ sai đí ấy, một phần huấn từ bao gồm 2 điểm chính yếu liên quan đến 
"gươm giáo" và "bát nước".
"Gươm giáo": "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó".

"Bát nước": "Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".
Trước hết về "gươm giáo". Nếu chúng ta chỉ lấy nguyên câu Chúa Giêsu nói ở ngay đầu bài phúc âm hôm nay: "Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo", thì chắc chắn Người là tên phản kitô, vì giáo huấn của Người chất chứa những gì là phản nhân bản, chia rẻ, vô luân thường đạo lý. Thế nhưng, căn cứ vào ý tưởng của toàn đoạn văn, Người quả là chí lý khi khẳng định một câu nói lạ lùng hầu như lạc giáo như thế. Và nhất là căn cứ vào ý nghĩa Thánh Kinh của "gươm giáo" là chính Lời Chúa "sắc hơn gươm hai lưỡi(xem Do Thái 4:12).
Ở chỗ, Chúa Giêsu quả thực hoàn toàn không chủ ý gây ra chia rẽ giữa con người với nhau, nhưng giáo huấn của Người và tinh thần của Người tự bản chất vượt lên trên tất cả những gì là tự nhiên, nếu không muốn nói, theo cảm nhận chủ quan nơi nhiều người, là những gì phản tự nhiên: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy", đến độ thái độ và hành động của họ trở thành bất khả chấp đối với cả thành phần thân nhân ruột thịt của họ: "thù địch của người ta lại là chính người nhà mình", khi h cứ kiên gan và hiên ngang "mù quáng như cuồng tín" sống theo giáo huấn và tinh thần ngược đời của Người: "Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó".
Sau nữa về "bát nước". Bởi thế, trước những con người sống theo giáo huấn và tinh thần của Chúa Kitô có vẻ lập dị điên khùng như vậy mà những ai vẫn tiếp nhận họ thì phải kể là những con người ấy phải có một đức tin mãnh liệt, bởi những người tiếp nhận này đã nhận ra Người nơi thành phần thừa sai của Người: "Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy", và chính vì thế những con người ấy đáng được tưởng thưởng xứng đáng, cho dù so với công sức của thành phần thừa sai được những con người ấy tiếp nhận thì việc tiếp nhận của những con người này chẳng đáng là bao, chẳng khác gì như một "bát nước lã" vậy thôi: "Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu". Tại sao? Bởi vì: "Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính". 

Cảm Nghiệm

Kinh nghiệm sống đạo cho thấy, cho dù người lành không hề có vũ khí trong tay, hay chẳng bao giờ nghĩ đến tranh giành hay cạnh tranh hoặc tranh đấu, như chính đời sống của họ lại tạo nên chiến tranh, tạo nên ghen ghét và thù hận nơi thành phần gian ác trên thế gian này. Bởi đời sống của họ như ánh sáng chiếu soi vào các việc tối tăm của thành phần gian ác, như một cách tố cáo những việc gian ác của thành phần gian ác này và lên án con người tồi bại của thành phần gian ác ấy. Thế nên thành phần gian ác cần phải tìm hết cách ra tay triệt hạ cho bằng được ánh sáng làm chói mắt mình bằng chính bóng tối là các việc gian ác bạo lực hung tàn của mình.

Như thế, nếu chỉ vì sống đức tin, sống lời Chúa mà kẻ lành đã, đang và mãi mãi không thể nào không bị thế gian bách hại. Và như thế, không phải là Chúa Kitô đã mang gươm giáo lời Chúa xuống thế gian để gây chia rẽ hay sao, hoặc đúng hơn, để phân loại giữa kẻ lành và người dữ hay sao?

Tuy nhiên, người dữ đây không phải chỉ có những ai không nhận biết Thiên Chúa, vốn được gọi là dân ngoại hay lương dân, mà bao gồm cả thành phần sống đạo nhưng sống theo hình thức, bôi bác bề ngoài, gây gương mù gương xấu, hay sống phản lại tinh thần của đức tin là đức ái trọn hảo. Bởi đó nên mới xẩy ra tình trạng chính nội bộ "kẻ lành" là thành phần Kitô hữu với nhau cũng đã không thể nào thoát được tình trạng đụng chạm nẩy lửa đầy gươm giáo.

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định ý định của Ngài về các hành động đạo đức tốt lành như lễ vật dâng lên Ngài của thành phần cứ làm điều gian ác, như sau:

"Muôn vàn hy lễ có ích lợi gì cho Ta? Ta đã chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên đực, mỡ các súc vật béo, máu bò đực, chiên con và dê đực.... Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày Sabbat và các ngày lễ trọng khác. Những cuộc hội họp của các ngươi đều là gian ác... Tâm hồn Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta, Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi. Và khi các ngươi giơ tay các ngươi lên, thì Ta quay mặt đi. Khi các ngươi càng cầu nguyện, thì Ta càng không nhậm lời, vì tay các ngươi vấy đầy máu".

Bởi vậy, nếu trong Bài Đọc 1, Thiên Chúa vẫn kêu gọi thành phần gian ác hãy quay về với đường ngay nẻo chính: "Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy dẹp khỏi mắt Ta các tư tưởng xấu xa; đừng làm điều xấu nữa, hãy làm điều lành; hãy tìm kiếm công lý, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những trẻ mồ côi và bênh vực người goá bụa".

Ngài vẫn không hoàn toàn khinh chê lễ vật của họ hiến dâng lên Ngài, như câu đầu của Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy: "Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn". Vì dầu sao những của lễ bề ngoài đó cũng cho thấy thiện chí của họ, dù họ bất xứng, nên chính Thiên Chúa "sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả", để nhờ đó, như Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy, họ nhận biết Thiên Chúa và được hưởng ơn độ: "ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ".

 



Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 7, 1-9

"Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không còn tồn tại nữa".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Xảy ra trong đời Acaz con của Gioatham, Gioatham con của Ozia, vua nước Giuđa, Rasin vua nước Syria, và Phaxê con của Rômêlia, vua Israel, tiến lên gây chiến với Giêrusalem, nhưng không thể thắng trận được. Người ta báo tin cho nhà Ðavít rằng: "Syria đã đóng quân ở Ephraim". Nghe vậy, vua và dân đều run sợ, như cây trong rừng rung động trước gió.

Và Chúa phán cùng Isaia rằng: "Ngươi và con ngươi là Giasub, hãy đi đón vua Acaz đang ở cuối cống ao thượng, trên đường ra ruộng Fullon, và nói rằng: "Hãy cẩn thận ở yên lặng, đừng sợ, và đừng nao núng trước hai ngọn đuốc xông khói này là cơn thịnh nộ của Rasin, vua nước Syria, và của con trai Rômêlia, vì chưng Syria, Ephraim và con trai của Rômêlia đã toan mưu hại ngươi, họ nói rằng: "Chúng ta hãy tiến đánh Giuđa, quấy rối nó và lôi cuốn nó theo ta, và đặt con trai Tabeel làm vua".

Chúa phán thế này: "Sự việc này không thành và không xảy ra đâu, vì Ðamas là thủ đô của Syria, và Rasin là thủ lãnh của Ðamas. Còn sáu mươi lăm năm nữa, thì Ephraim sẽ bị tiêu diệt và không còn là một dân tộc nữa. Thủ đô của Ephraim là Samaria, và thủ lãnh của Samaria là con của Rômêlia. Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không còn tồn tại".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 47, 2-3a. 3b-4. 5-6. 7-8

Ðáp: Thiên Chúa kiên thủ thành trì của Người tới muôn đời (c. 9d).

Xướng: 1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Người là ngọn đồi duyên dáng, là niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu. - Ðáp.

2) Núi Sion là cùng kiệt phương Bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Người, tự chứng tỏ Người là an toàn chiến lũy. - Ðáp.

3) Bởi chưng, kìa các vua chúa đã họp nhau, họ đã nhất tề xung phong tác chiến. Nhưng thoạt nhìn thấy, họ đã ngẩn người ra, họ đã thất kinh và chạy trốn. - Ðáp.

4) Chính tại đây, họ đã khiếp run sợ hãi, đau đớn như người phụ nữ lúc lâm bồn, và lúc Chúa dùng ngọn gió Ðông đánh cho những chiến thuyền Tác-xi tan vỡ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 20-24

"Trong ngày phán xét, Tyro và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: "Hỡi Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.

"Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".

Ðó là lời Chúa.





Suy Niệm Cảm Nghiệm


Khi Tình Yêu Nhân Hậu... Cảnh Báo
Suy Niệm


B
ài Phúc Âm cho Thứ Ba trong Tuần XV Thường Niên hôm nay ch
ất chứa chính những lời "Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối", và trong lời vừa có tính cách cảnh cáo vừa khiển trách này, Người đã so sánh tính cách trầm trọng của "các thành" này là "Corazain, Bethsaida  Capharnaum" với những thành đã bị trừng phạt trong Cựu Ước như "Tyro, Sidon và Sodoma":

"Hỡi Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.

"Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".

Căn cứ vào lời cảnh báo và khiển trách có vẻ dữ dội trên đây của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, vấn đề được đặt ra ở đây là: 

1- Nếu Chúa Giêsu biết trước rằng các thành ở trong Cựu Ước xưa, như Tyro, Sidon và Sodoma mà được xem thấy phép lạ Người làm như ở Corozain, Bethsaida hay Capharnaum, họ đã ăn năn sám hối, để khỏi bị trừng phạt thì tại sao bấy giờ Thiên Chúa không làm phép lạ để cứu các thành ấy; 

2- Ngược lại, nếu Người đã biết trước rằng các thành được thấy các phép lạ Người làm vào thời của Người sẽ bị trừng phạt nặng hơn những thành đã bị trừng phạt trước đó thì tại sao Người vẫn cứ mất công vô ích làm phép lạ ở những thành ấy chứ?

Câu trả lời đó là nếu ai được trao bao nhiêu nén ân sủng, 2 nén, 5 nén hay 10 nén, chỉ cần sinh lời gấp trăm là đủ, tức là 2 nén cần sinh lợi 2 nén, 5 nén cần sinh lợi 5 nén và 10 nén cần sinh lợi 10 nén (xem Mathêu 25:14-23), thì ai không chấp nhận ân sủng hay không làm cho ân sủng sinh lợi cũng bị xét xử và trừng phạt tùy theo tội trạng và hoàn cảnh của họ (xem Luca 12:47-48): "Người tôi tớ nào biết ý chủ mình mà không sẵn lòng làm theo sẽ bị đòn nặng hơn... Càng được trao phó nhiều thì càng bị đòi nhiều", như các thành ở vào thời Chúa Giêsu được thấy các phép lạ Người làm tất nhiên phải nhận biết Người hơn mới phải, và vì không nhận biết nên sẽ hứng chịu luận phạt cân xứng. 

Vì Thiên Chúa không làm phép lạ ở các thành bị phạt trong Cựu Ước nên Người đã không trừng phạt họ nặng nề như các thành được thấy phép lạ trong thời Chúa Giêsu. Thật ra Người có làm phép lạ ở thành Sodoma đấy chứ, đó là thành này như một bãi bùn lầy tội lỗi đã chứng kiến thấy một bông sen công chính là Lot "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Biết đâu việc Thiên Chúa ra tay trừng phạt các thành ấy ngay ở đời này đã làm cho nhiều tội nhân trong các thành ấy bấy giờ đã tỏ lòng thống hối ăn năn trước khi chết vì thấy án phạt tỏ tường Thiên Chúa giáng xuống để trừng trị tội lỗi của họ. Còn các thành được thấy phép lạ của Chúa Giêsu, tuy không bị trừng phạt một cách tỏ tường và công khai cả thành như các thánh trước kia ấy, cũng sẽ bị trừng phạt một cách nào đó xứng với tội lỗi của họ.

Đúng thế, cho dù có "trừng phạt" con người tội lỗi, Vị Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu cũng chỉ sử dụng những đau khổ, thậm chí cả chết chóc, để cảnh báo con người và làm cho con người nhận biết Ngài để cuối cùng được cứu độ mà thôi, chứ không bao giờ muốn tận diệt con người hay vui thú khi thấy con người bị đời đời hư đi. Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan muốn lợi dụng tất cả mọi sự, dù tốt hay xấu, để tỏ mình ra cho con người, để họ nhận biết Ngài mà được sự sống thần linh của Ngài. 

 

Cảm Nghiệm 

 

Thật vậy, nếu Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót (Merciful Love) thì bất cứ việc gì Ngài làm cũng đều xuất phát từ bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Ngài, cho dù là những gì con người cho là hình phạt chăng nữa. Thật ra những sự dữ con người phải chịu là do chính tội lỗi của con người gây ra, không trực tiếp (bởi chính mình) cũng gián tiếp (qua người khác). Vậy những sự dữ là hậu quả của tội lỗi do con người gây ra ấy là hình phạt họ đáng phải chịu, chứ không phải thiên Chúa là Tình Yêu Nhân Hậu tự mình tạo dựng nên sự dữ và muốn ra tay trừng phạt họ.  

Ngay từ ban đầu cũng thế, Thiên Chúa tạo dựng nên "mọi sự rất tốt đẹp" (Khởi Nguyên 1:31), chứ không dựng nên bất cứ một sự dữ nào, không dựng nên sự chết. Tuy nhiên, Ngài đã cảnh báo con người về sự sữ là tội lỗi cùng với sự chết gây ra bởi tội lỗi của họ khi Ngài đặt họ vào trong vườn địa đường được Ngài dựng nên cho họ, một ngôi vườn biểu tượng cho tất cả những gì xứng với chức phận và quyền lợi của họ là loài được Ngài dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26). Tuy nhiên, đồng thời Ngài cũng đặt giới hạn cho họ là loại tạo vật ở chỗ họ không được đụng tới một thứ cây biết lành biết dữ ở giữa vườn, ám chỉ lương tâm, họ không được chạm đến, tức không được làm trái lương tâm được Ngài cài đặt nơi con người của họ kẻo chết (xem Khởi Nguyên 2:15-17). 

Thế nhưng con người đã bất tuân nên đã chết, ở chỗ mất ơn nghĩa với Thiên Chúa Hóa Công, và đáng chịu hình phạt do tội lỗi của họ gây ra đúng như lời cảnh báo của Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì là Tình Yêu Nhân Hậu nên Thiên Chúa đã sử dụng chính sự dữ con người gây ra cùng với hậu quả họ phải chịu theo phép công bằng để làm cho họ nhận biết mình và nhận biết Chúa, nhờ đó mà được cứu rỗi (xem Khỏi Nguyên 3:6-19). 

Lịch sử cứu độ của dân Do Thái là tất cả mạc khải thần linh của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất là Tình Yêu Nhân Hậu của họ, Đấng luôn tỏ bản tính là Tình Yêu Nhân Hậu của mình ra cho dân tộc được Ngài tuyển chọn giữa muôn dân, nhất là khi họ yếu đuối sa ngã hay yếu đuối bất lực trước đối phương, trước sự dữ trước mặt, để nhờ đó, dân của Ngài mỗi ngày một nhận biết Ngài hơn và tin vào Ngài hơn. 

Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy đúng như vậy, khi Vua Acaz nước Giuđêa, đang cai trị một vương quốc (Do Thái ở Miền Nam Đất Hứa) thuộc giòng dõi Đavít, vương tổ của Chúa Kitô, một vương quốc được chính Thiên Chúa hứa bảo tồn cho đến muôn đời (xem 2Samuel 7:16; Luca 1:32-33), bị lực lượng của Syria cùng với vương quốc Israel (vương quốc Do Thái bao gồm cả miền Bắc và miền Trung của Đất Hứa) hợp lại âm mưu tấn công: "Chúng ta hãy tiến đánh Giuđa, quấy rối nó và lôi cuốn nó theo ta, và đặt con trai Tabeel làm vua".  

Trước tình trạng hết sức hoảng sợ của cả vua lẫn dân thuộc vương quốc Giuđêa: "Nghe vậy, vua và dân đều run sợ, như cây trong rừng rung động trước gió", Thiên Chúa là Đấng đã chọn giòng dõi Đavít để Con Ngài nhập thể cứu thế làm sao có thể để cho những gì thuộc về Ngài bị lọt vào tay kẻ dữ, cho dù chính vương quốc Đavít, qua thành phần các vua cháu chắt chít chịt của vương tổ Đavít cũng gây ra không biết bao nhiêu là gian ác đáng trừng phạt, không thể tha thứ, Ngài vẫn ở với vương quốc này khi cần phải tỏ mình ra vào thời điểm ấn định của Ngài, nhất là vào những lúc con người không còn biết trông cậy vào đâu ngoài Ngài. Bởi thế, Bài Đọc 1, qua Tiên Tri Isaia, Ngài đã tỏ mình ra như thế này:

"Ngươi và con ngươi là Giasub, hãy đi đón vua Acaz đang ở cuối cống ao thượng, trên đường ra ruộng Fullon, và nói rằng: 'Hãy cẩn thận ở yên lặng, đừng sợ, và đừng nao núng trước hai ngọn đuốc xông khói này là cơn thịnh nộ của Rasin, vua nước Syria, và của con trai Rômêlia, vì chưng Syria, Ephraim và con trai của Rômêlia đã toan mưu hại ngươi, họ nói rằng: 'Chúng ta hãy tiến đánh Giuđa, quấy rối nó và lôi cuốn nó theo ta, và đặt con trai Tabeel làm vua'. Sự việc này không thành và không xảy ra đâu, vì Ðamas là thủ đô của Syria, và Rasin là thủ lãnh của Ðamas. Còn sáu mươi lăm năm nữa, thì Ephraim sẽ bị tiêu diệt và không còn là một dân tộc nữa. Thủ đô của Ephraim là Samaria, và thủ lãnh của Samaria là con của Rômêlia. Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không còn tồn tại". 

Trước việc tỏ mình ra như thế của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất là Tình Yêu Thương Xót trong suốt giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái mà Ngài đã quả thực làm cho chính dân của Ngài tuyển chọn, không nhiều thì ít, không sớm thì muộn, không trước thì sau, vào một lúc nào đó, nhận biết Ngài và dâng lời tri ân cảm tạ ngợi khen Ngài như các nhận thức và tâm tình của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay: 

1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Người là ngọn đồi duyên dáng, là niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu.

2) Núi Sion là cùng kiệt phương Bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Người, tự chứng tỏ Người là an toàn chiến lũy.

3) Bởi chưng, kìa các vua chúa đã họp nhau, họ đã nhất tề xung phong tác chiến. Nhưng thoạt nhìn thấy, họ đã ngẩn người ra, họ đã thất kinh và chạy trốn.

4) Chính tại đây, họ đã khiếp run sợ hãi, đau đớn như người phụ nữ lúc lâm bồn, và lúc Chúa dùng ngọn gió Ðông đánh cho những chiến thuyền Tác-xi tan vỡ.

 

 

 

 

Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 10, 5-7. 13-16

"Cái cưa có thể tự cao tự đại đối với thợ cưa sao?"

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Khốn cho Assur, là cây roi cơn giận của Ta. Cây gậy trong tay nó là cơn thịnh nộ của Ta. Ta sẽ sai nó chống lại dân ngoại dối trá, và truyền lệnh cho nó đi chống lại dân chọc giận Ta, để nó cướp bóc, mang chiến lợi phẩm về chà đạp dưới chân như bùn ngoài đường phố. Nhưng chính nó không đồng quan điểm như vậy, và lòng nó không tưởng nghĩ như thế. Trái lại, lòng nó ưa thích phá hoại, và huỷ diệt nhiều dân tộc. Vì chưng, nó nói rằng: 'Tôi đã dùng sức mạnh cánh tay tôi, và dùng sự khôn ngoan của tôi mà làm việc ấy, vì tôi thông minh. Tôi đã dời đổi biên giới các dân, đã cướp lấy kho tàng các vua quan, và như người hùng, tôi lật đổ truất phế các thủ lãnh. Tay tôi lấy của cải các dân như bắt tổ chim. Tôi vơ vét cả hoàn cầu như lượm các trứng rơi, không một ai đập cánh hoặc mở miệng kêu la'.

"Lẽ nào cái rìu lại khoe mình với kẻ cầm rìu sao? Lẽ nào cái cưa lại tự cao tự đại với thợ cưa sao? Lẽ nào cây roi có thể chống lại người cầm roi, và cây gậy có thể nâng tay người cầm gậy sao, vì nó chỉ là gỗ cây? Bởi đó Chúa tể là Thiên Chúa các đạo binh sẽ gửi sự điêu tàn đến giữa cảnh mầu mỡ của nó; và từ dưới cảnh vinh quang của nó, một ngọn lửa sẽ bốc cháy lên như ngọn lửa của một đám cháy".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 93, 5-6. 7-8. 9-10. 14-15

Ðáp: Chúa sẽ không loại trừ dân tộc của Chúa (c. 14a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, chúng chà đạp dân riêng Chúa, và làm khổ gia nghiệp của Ngài. Chúng bóp cổ khách kiều cư, người quả phụ, và chúng sát hại những kẻ mồ côi. - Ðáp.

2) Chúng nói rằng: "Chúa không nhìn thấy, và Thiên Chúa nhà Giacóp cũng chẳng hay". Ðồ ngu xuẩn trong dân, các ngươi nên hiểu biết; lũ dại khờ, bao giờ các ngươi mới nhận ra? - Ðáp.

3) Ðấng làm ra tai, há chẳng biết nghe? Ðấng nặn ra mắt, há không nhìn thấy? Ðấng giáo dục chư dân, há không sửa lỗi? Ðấng dạy bảo thiên hạ, há chẳng thông minh? - Ðáp.

4) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Người. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 25-27

"Chúa đã giấu không cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thưa rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".

Ðó là lời Chúa.








Suy Niệm Cảm Nghiệm


Mầu Nhiệm...
S
ự Dữ

Suy Niệm


B
ài Phúc Âm hôm nay, Th
ứ Tư tuần XV Thường Niên, thuật lại lời Chúa Giêsu nguyện cầu chúc tụng dâng lên Cha của Người liên quan đến mạc khải thần linh, bao gồm thành phần xứng hợp với mạc khải thần linh này và tác nhân thực hiện mạc khải thần linh này: 
"Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".
Thành phần xứng hợp với mạc khải thần linh: Trong lời nguyện cầu chúc tụng này, Chúa Giêsu đã xác định rõ thành phần xứng hợp với mạc khải thần linh này không phải là "những người hiền triết và khôn ngoan", mà là "những kẻ bé mọn". Tại sao thế?
Tại vì mạc khải thần linh là những gì siêu việt, những gì liên quan đến đức tin siêu nhiên, vượt lên trên (hơn là phản nghịch với) kiến thức tự nhiên của con người, đến độ cho dù con người có khôn ngoan thông thái đến thế nào đi nữa thì tự mình họ cũng chẳng có thể nào nắm bắt và thấu hiểu được những gì Thiên Chúa muốn mạc khải cho biết. Nhất là đối với những kẻ tự cao tự đại cho mình là thày đời như thành phần luật sĩ và biệt phái trong dân Do Thái. 
Tác nhân thực hiện mạc khải thần linh: Đó là chính Con, Đấng đã đến "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18). Thật vậy, "Thiên Chúa là Thần Linh" (Gioan 4:24), trong khi con người là thụ tạo vừa hữu hình lại hữu hạn, không thể nào biết được Thiên Chúa là ai và như thế nào, nếu không được Con tỏ ra cho: "không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho". Đó là lý do, "không ai có thể thấy vương quốc của Thiên Chúa nếu không được tái sinh từ trên cao" (Gioan 3:3), vì "cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, cái gì sinh bởi Thần Linh là thần linh" (Gioan 3:6). 
Đúng thế, chính vì con người không thể lên trời để biết được một cách chính xác Thiên Chúa là ai và như thế nào mà đích thân Thiên Chúa tự giáng làm người nơi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), nơi Đấng "tuy danh phận là Thiên Chúa nhưng.... đã tự hủy ra như không, mặc lấy thân phận tôi mọn..." (Philiphê 2:6-7). Bởi thế, chỉ có "những kẻ bé mọn" như Người và với Người mới có thể nhận ra Người, Đấng cũng chính là mạc khải thần linh của Thiên Chúa, như nhiều trường hợp xẩy ra trong thành phần bình dân đại chúng đã được các Phúc Âm thuật lại.

Cảm Nghiệm

 

Kitô hữu nói chung nhất là những ai sống đạo tốt lành nói riêng, thường cảm thấy mình gặp gian nan hoạn nạn hơn người sống theo tinh thần trần tục, nhất là những con người gian ác. Lắm khi chính thành phần gian ác này lại còn được Thiên Chúa sử dụng để làm việc của Ngài nữa, chẳng khác gì cái roi Thiên Chúa sử dụng để sửa phạt con cái Chúa, như ngày xưa trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, mỗi khi dân của Ngài bỏ Ngài đi ngoại tình với tà thần ngẫu tượng, hay ngày nay Ngài sử dụng cộng sản trong hầu hết thế kỷ 20 để trừng phạt thế giới tư bản duy lợi, và một số Hồi giáo cực đoan, nhất là nhóm Al Queda hay Nhà Nước Hồi Giáo (IS - Islamic State) xuất hiện ở Iraq từ 6/2014, để trừng trị thế giới văn minh Tây phương đang quay cuồng với nền văn hóa chết chóc theo chủ nghĩa tương đối duy nhân bản, nhất là từ đầu thế kỷ 21 tới nay.

Kinh nghiệm cho thấy cả thành phần gian ác cũng được Thiên Chúa, Đấng Quan Phòng Thần Linh làm chủ lịch sử loài người, tỏ mình ra nữa, bởi họ, khi bất ngờ được Ngài sử dụng, lại bị lầm tưởng, cứ cho rằng mình ngon lành lắm, cho rằng chính do quyền lực tự nhiên của họ mà họ có thể thống trị thành phần được Chúa đang muốn cứu độ bằng cách giáng phạt qua họ. Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Isaia, chính Thiên Chúa đã cho thấy cái mâu thuẫn giữa ý định của Thiên Chúa muốn sử dụng họ với ý nghĩ tự cao tự đại tự kiêu của họ như sau:

"Khốn cho Assur, là cây roi cơn giận của Ta. Cây gậy trong tay nó là cơn thịnh nộ của Ta. Ta sẽ sai nó chống lại dân ngoại dối trá, và truyền lệnh cho nó đi chống lại dân chọc giận Ta, để nó cướp bóc, mang chiến lợi phẩm về chà đạp dưới chân như bùn ngoài đường phố. Nhưng chính nó không đồng quan điểm như vậy, và lòng nó không tưởng nghĩ như thế. Trái lại, lòng nó ưa thích phá hoại, và huỷ diệt nhiều dân tộc. Vì chưng, nó nói rằng: 'Tôi đã dùng sức mạnh cánh tay tôi, và dùng sự khôn ngoan của tôi mà làm việc ấy, vì tôi thông minh. Tôi đã dời đổi biên giới các dân, đã cướp lấy kho tàng các vua quan, và như người hùng, tôi lật đổ truất phế các thủ lãnh. Tay tôi lấy của cải các dân như bắt tổ chim. Tôi vơ vét cả hoàn cầu như lượm các trứng rơi, không một ai đập cánh hoặc mở miệng kêu la'".

 

Tuy nhiên, vì Thiên Chúa làm chủ lịch sử loài người chỉ sử dụng họ cho mục đích tốt lành thiện hảo của Ngài, nhờ họ để đánh động dân Ngài ngày xưa hay Giáo Hội hoặc thế giới Kitô giáo băng hoại ngày nay, cho đến khi Ngài không cần đến họ nữa, thì Ngài quẳng cái roi trong tay Ngài đi, như Ngài đã loại trừ cái roi cộng sản đi vào cuối thế kỷ 20 ở cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, với Biến Cố Đông Âu tự động giải thể và cuối cùng là Liên Bang Sô Viết tự động từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản vào ngày 25/12/1991. Bởi vì, chính Ngài cũng muốn tỏ mình ra cho cái roi được Ngài sử dụng để trừng phạt nữa, như chính Ngài đã phán qua Tiên Tri Isaia trong bài Đọc 1 hôm nay:

 

"Lẽ nào cái rìu lại khoe mình với kẻ cầm rìu sao? Lẽ nào cái cưa lại tự cao tự đại với thợ cưa sao? Lẽ nào cây roi có thể chống lại người cầm roi, và cây gậy có thể nâng tay người cầm gậy sao, vì nó chỉ là gỗ cây? Bởi đó Chúa tể là Thiên Chúa các đạo binh sẽ gửi sự điêu tàn đến giữa cảnh mầu mỡ của nó; và từ dưới cảnh vinh quang của nó, một ngọn lửa sẽ bốc cháy lên như ngọn lửa của một đám cháy".

 

Bài Đáp Ca hôm nay bao gồm 4 câu, hai câu đầu cũng phản ảnh tâm thức vô thần của thành phần gian ác, đầy tự kiêu khi ra tay hành khổ thành phần dân Chúa, và hai câu sau cho thấy dự án thần linh của Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ dân Ngài, không bao giờ bỏ rơi họ, miễn là họ nhờ chịu khổ mà nhận biết Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ. Chúng ta đọc lại toàn Bài Đáp Ca hôm nay sẽ thấy rõ 2 phần và ý định thống lĩnh vô địch tối hậu vô cùng tốt lành nhân hậu của Thiên Chúa:

 

1) Lạy Chúa, chúng chà đạp dân riêng Chúa, và làm khổ gia nghiệp của Ngài. Chúng bóp cổ khách kiều cư, người quả phụ, và chúng sát hại những kẻ mồ côi.

2) Chúng nói rằng: "Chúa không nhìn thấy, và Thiên Chúa nhà Giacóp cũng chẳng hay". Ðồ ngu xuẩn trong dân, các ngươi nên hiểu biết; lũ dại khờ, bao giờ các ngươi mới nhận ra?

3) Ðấng làm ra tai, há chẳng biết nghe? Ðấng nặn ra mắt, há không nhìn thấy? Ðấng giáo dục chư dân, há không sửa lỗi? Ðấng dạy bảo thiên hạ, há chẳng thông minh?

4) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Người. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo.

 

 

Ngày 15/7 Lễ Nhớ Thánh Bonaventura Tiến Sĩ Hội Thánh, xin xem 1/3 bài ĐTC Biển Đức XVI nói về ngài ở cái link sau đây:

 

Thánh Bonaventura - Cuộc đời và con người

 

 

 


Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 26, 7-9. 12. 16-19

"Hỡi những kẻ nằm trong tro bụi, hãy thức dậy và hãy nhảy mừng".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðường lối người công chính thì ngay thẳng, Chúa ban cho bằng phẳng đường nẻo của người công chính. Lạy Chúa, chúng con cậy trông Chúa trong đường xét xử của Chúa. Thánh danh và sự kính nhớ Chúa là sự ước mong của tâm hồn. Ban đêm hồn con khát khao Chúa, và sớm mai khi thức dậy, lòng trí con hướng về Chúa. Từ khi Chúa thực hiện việc xét xử ở trần gian, thì người dương thế học biết sự công chính.

Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con ơn bình an, vì mọi việc chúng con làm, đều do Chúa làm cho chúng con.

Lạy Chúa, trong cơn hoạn nạn, chúng con đã tìm kiếm Chúa, và trong khi Chúa sửa dạy, chúng con kêu van đến Chúa. Lạy Chúa, trước tôn nhan Chúa, chúng con khác nào như đàn bà mang thai sắp sinh, kêu la đau đớn. Chúng con cưu mang, chúng con đau đớn như phải sinh con.

Chúng con không mang lại sự cứu độ cho trần gian, và không còn người sinh ra trên trần gian. Người chết của Chúa sẽ được sống, các xác chết của con sẽ sống lại. Hỡi những kẻ nằm trong tro bụi, hãy thức dậy và nhảy mừng, vì sương Chúa là sương ánh sáng, và trái đất sẽ làm tái sinh u tối.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 101, 13-14ab và 15. 16-18. 19-21

Ðáp: Từ trời cao xanh Chúa đã quan sát địa cầu (c. 20b).

Xướng: 1) Phần Chúa, lạy Chúa, đời đời còn mãi và danh Ngài tồn tại đời nọ tới đời kia. Xin Ngài đứng lên, thương xót Sion, nay là thời để Ngài quan tâm phù trợ. Các bầy tôi ưa thích tường hoa móng đá, và ngậm ngùi thương đống gạch tro hoang tàn. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van. - Ðáp.

3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 28-30

"Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".

Ðó là lời Chúa.

 




Suy Niệm Cảm Nghiệm


Cứ làm rồi sẽ biết
Suy Niệm


B
ài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XV Thường Niên hôm nay l
à bài phúc âm tiếp ngay sau bài phúc âm hôm qua, như thể Người kín đáo kêu gọi những ai "những người hiền triết và khôn ngoan" là thành phần không được mạc khải thần linh tỏ ra cho như "những kẻ bé mọn" trong bài Phúc Âm hôm qua cho biết, hãy làm sao sống "hiền lành và khiêm nhượng" như Người thì tự nhiên "mạc khải thần linh" sẽ được tỏ hiện cho họ như cho "những kẻ bé mọn".

"Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai mệt mỏi và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Trong lời kêu gọi này của Chúa Giêsu, theo thứ tự, chúng ta thấy mấy điều rất chí lý cho dù ngược đời sau đây:

1- "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai mỏi mệt và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi": 

Ở đây Chúa Giêsu kêu gọi "tất cả những ai mệt mỏi và gánh nặng" thì "hãy đến với" Chúa để Người "bổ sức cho". Thật vậy, theo tâm lý, sở dĩ con người cảm thấy cuộc đời đã trở thành "gánh nặng" nơi các trách nhiệm hay nghĩa vụ, kể cả những gì vốn được họ mơ ước theo đuổi, như địa vị danh giá chức quyền hay tình yêu hôn nhân v.v., là vì trong lòng họ đã cảm thấy "mệt mỏi", chán chường. 

Nhưng tại sao lại hay xẩy ra hiện tượng bất nhất này, đến độ có thể đi đến chỗ bỏ cuộc hay đứt gánh giữa đường thảm thương này? Phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu sau khi kêu gọi họ thì Người đã khuyên họ như sau:

2- "Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an"

Phải chăng vì họ hung hăng dữ tợn và kiêu căng tự ái, không "hiền lành và khiêm nhượng" như Người mà họ mới dễ bị "mệt mỏi và gánh nặng", gây ra bởi những đụng chạm và thất vọng, không được như những gì họ chủ quan mong muốn hay tham vọng? 

Nếu quả thật như vậy thì Chúa chỉ cho họ cách chữa trị vô cùng công hiệu, đó là chịu trước học sau, ở chỗ: "Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta" - mang ách trước rồi mới học sau, chứ không phải học trước cho thông rồi mới biết cách để mà mang ách, hoàn toàn ngược đời. 

Tại sao? Tại vì, theo kinh nghiệm tu đức, một khi chúng ta sẵn sàng chấp nhận cái "ách" của Chúa là tất cả những thử thách và trái ý Chúa gửi đến cho chúng ta hay để xẩy ra cho chúng ta, như muốn nhắc nhở chúng ta hay thanh tẩy chúng ta một cách nào đó, thì tự nhiên chúng ta được nên giống Chúa, "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng". 

3- "Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng": "Ách" của Chúa đây là gì và "gánh" của Chúa đây là chi, nếu không phải điều kiện để theo Người, đó là "bỏ mình đi ('ách') và vác thập giá ('gánh') mà theo Thày" (Mathêu 16:24). Đúng thế, cho đến khi nào con người biết "bỏ mình đi" và "vác thập giá", họ mới cảm thấy tất cả mọi sự xẩy ra trong cuộc đời của họ, những gì mà trước kia đã từng làm cho họ cảm thấy "mệt mỏi và gánh nặng" thì bấy giờ, nhờ "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng", nhờ "tâm hồn được bình an", lại trở thành "êm ái và nhẹ nhàng". 

Cảm Nghiệm


Một thí dụ rất điển hình và thực tế đó là chúng ta thường xin Chúa ban ơn cho con được có lòng khiêm nhượng, thế nhưng khi Chúa ban cho chúng ta ơn khiêm nhượng thì chúng ta không nhận một cách rất trắng trợn và phũ phàng. Ở chỗ, ơn khiêm nhượng Chúa ban cho chúng ta đó là khi chúng ta bị anh chị em chúng ta xỉ nhục chúng ta hay tát chúng ta ngay trước mặt mọi người, nếu chúng ta sẵn sàng 
chịu đựng không trả đũa và tha cho họ thì không phải là chúng ta đã "hiền lành và khiêm nhượng" như Chúa ngay lúc bấy giờ rồi hay sao, nhờ đó, đúng như Chúa cam đoan: "tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an" hay sao!?!


"Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta" - mang ách trước rồi mới học sau quả là như thế. Tức là hãy bỏ mình và vác thập giá mình mà theo Chúa, một cách "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng", thì thực sự "tâm hồn được bình an", không còn cảm thấy "mỏi mệt và gánh nặng" nữa. Đó là lý do, lời Tiên Tri Isaia ở Bài Đọc Thứ 1 hôm nay dâng lên Chúa thật chí lý, đúng như đường lối cứu độ và thánh hóa của Chúa, như sau:


"Ban đêm hồn con khát khao Chúa, và sớm mai khi thức dậy, lòng trí con hướng về Chúa. Từ khi Chúa thực hiện việc xét xử ở trần gian, thì người dương thế học biết sự công chính. Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con ơn bình an, vì mọi việc chúng con làm, đều do Chúa làm cho chúng con. Lạy Chúa, trong cơn hoạn nạn, chúng con đã tìm kiếm Chúa, và trong khi Chúa sửa dạy, chúng con kêu van đến Chúa. Lạy Chúa, trước tôn nhan Chúa, chúng con khác nào như đàn bà mang thai sắp sinh, kêu la đau đớn. Chúng con cưu mang, chúng con đau đớn như phải sinh con".


Cảm nhận tu đức này được thốt lên từ miệng lưỡi Tiên Tri Isaia thật là hay ho thấm thía như sau: 1- "Ban đêm (chứ không phải ban ngày, tức vào lúc đức tin của tâm hồn bị thử thách như sống trong đêm tối mà vẫn xẩy ra tâm trạng) hồn con khát khao Chúa, và sớm mai khi thức dậy, lòng trí con hướng về Chúa"; 2- "Từ khi Chúa thực hiện việc xét xử ở trần gian, (bằng những "giáng phạt" theo đức công bằng do tội lỗi của con người gây ra, nhờ đó mà) người dương thế (mới có thể biết mình và từ đó mới) học biết sự công chính", ở chỗ: 3- "Lạy Chúa, trong cơn hoạn nạn, chúng con đã tìm kiếm Chúa, và trong khi Chúa sửa dạy, chúng con kêu van đến Chúa"; và chính nhờ đã "học biết sự công chính" họ mới tiến đến chỗ sinh hoa kết trái phong phú bằng chính những đau khổ thử thách của họ, những đau khổ thử thách không còn làm cho họ "mệt mỏi và nặng gánh" nữa, trái lại, nỗi đớn đau của họ lại trở thành niềm hoan lạc vui thú (xem Gioan 16:20-22) ngay trong tiếng rên rỉ xót xa theo bản tính tự nhiên của họ: 4- "Lạy Chúa, trước tôn nhan Chúa, chúng con khác nào như đàn bà mang thai sắp sinh, kêu la đau đớn. Chúng con cưu mang, chúng con đau đớn như phải sinh con".


Bài Đáp Ca hôm nay bày tỏ niềm tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng "quan tâm phù trợ" (câu 1)... và "sẽ tái lập Sion" của Ngài (câu 2), nhờ đó "dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa". "Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử", theo bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Ngài.

16/7 là Lễ Đức Mẹ Carmelo hay Cát Minh, xin mời đọc Thư ĐTC GPII gửi Dòng Carmelo dịp 750 năm Áo Đức Bà sau đây:

 

 

Áo Đức Bà Carmêlô, một bảo vật cho Giáo Hội


3.- … Đối với các phần tử của Gia Đình Dòng Carmêlô thì Mẹ Maria, Vị Trinh Mẫu của Thiên Chúa và loài người, chẳng những là một mô phạm để bắt chước, mà còn hiện diện như là một Người Mẹ và Người Chị đáng tin tưởng cậy trông. Thánh Têrêsa Giêsu đã có lý để thúc giục các chị em dòng của mình là: “Chị em hãy bắt chước Đức Mẹ, hãy coi Mẹ cao cả là dường nào, và việc chúng ta nhận Người là Quan Thày của mình là một điều tốt lành biết bao” (Interior Castle, III, 1, 3).

4.- Cuộc sống thiết tha với Mẹ Maria ấy, một cuộc sống được thể hiện nơi việc tin tưởng nguyện cầu, nhiệt thành chúc tụng và tỉ mỉ bắt chước, giúp cho chúng ta hiểu được lý do tại sao hình thức tôn sùng chân thực nhất đối với Đức Trinh Nữ, một việc tôn sùng được bộc lộ nơi dấu hiệu Giây Đức Bà Carmêlô thô sơ, đó là việc tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ (xem Đức Piô XII, Bức Thư Neminem Profecto Latet [11-2-1950: AAS 42, 1950, pp. 390-391]; Hiến Chế Lumen Gentium, 67). Thực hiện điều này, tâm hồn sẽ lớn lên trong sự hiệp thông và thân tình với Đức Trinh Nữ, “như một cách sống mới đối với Thiên Chúa cũng như tiếp tục cách sống yêu mến của Chúa Giêsu trên thế gian đối với Mẹ Maria của Người” (xem Huấn Từ Buổi Nguyện Kinh Truyền Tin trong Insegnamenti XI/3, 1988, p. 173). Bởi đó, như chân phước tử đạo Dòng Carmêlô Titus Brandsma diễn tả, chúng ta sống hòa hợp sâu xa với Mẹ Maria Thiên Mẫu, và, như Mẹ, chúng ta trở nên những người thông truyền sự sống thần linh: “Chúa cũng sai thiên thần của Ngài đến với chúng ta… cả chúng ta cũng phải chấp nhận Thiên Chúa nơi tâm hồn của mình, nuôi dưỡng Ngài và làm cho Ngài lớn lên trong chúng ta, để Ngài được hạ sinh từ chúng ta và sống với chúng ta như Vị Thiên Chúa ở với chúng ta” (theo bản tường trình về Chân Phước Titus Brandsma trong Hội Nghị Thánh Mẫu Học ở Tongerloo, 8/1936).

Qua giòng thời gian, với việc phổ biến lòng tôn sùng Giây Thánh Đức Bà, gia sản Thánh Mẫu phong phú này đã trở thành một bảo tàng cho cả Giáo Hội. Nơi tính cách thô sơ của nó, nơi giá trị về nhân loại học của nó cùng với mối liên hệ của nó với vai trò của Mẹ Maria liên quan với Giáo Hội và nhân loại, việc tôn sùng này đã được Dân Chúa hưởng ứng một cách hết sức nồng nhiệt và rộng rãi, đến nỗi nó đã được thể hiện qua việc tưởng niệm vào ngày 16/7 theo lịch phụng vụ của Giáo Hội hoàn vũ.

5.- Dấu hiệu Giây Đức Bà Carmêlô cho thấy một tổng lược hay ho về linh đạo Thánh Mẫu, một linh đạo nuôi dưỡng lòng tôn sùng của các tín hữu và làm cho họ cảm nhận được sự hiện diện âu yếm của Vị Trinh Mẫu nơi đời sống của họ. Giây Đức Bà Carmêlô thực sự là một “chiếc áo dòng” (“habit”). Những ai lãnh nhận chiếc áo dòng này thì không nhiều thì ít được liên kết chặt chẽ với Dòng Carmêlô và hiến thân phụng sự Đức Bà cho lợi ích của toàn thể Giáo Hội (xem “Formula of Enrolment in the Scapular”, in the Rite of Blessing of and Enrolment in the Scapular, được Thánh Bộ Phượng Tự Và Bí Tích chuẩn nhận ngày 5/1/1996). Những ai mặc Áo Đức Bà Carmêlô, nhờ đó, được đưa vào mảnh đất Carmêlô, để họ được “thưởng thức hoa trái của nó cùng với những sự tốt lành của nó” (x Jer 2:7), cũng như cảm nghiệm được sự hiện diện âu yếm và từ mẫu của Mẹ Maria trong việc họ dấn thân hằng ngày để được mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, cũng như để tỏ hiện Người ra qua cuộc sống của họ cho lợi ích của Giáo Hội và toàn thể nhân loại (xem “Formula of Enrolment in the Scapular”, cit.).

Bởi thế, dấu hiệu Áo Đức Bà Carmêlô gợi lên cho thấy hai chân lý: chân lý thứ nhất đó là việc liên lỉ bảo vệ của Đức Trinh Nữ, chẳng những trong cuộc hành trình của cuộc sống mà còn vào giây phút bước đến cõi trường vinh toàn mãn; chân lý thứ hai đó là nhận thức rằng lòng tôn sùng Mẹ không chỉ giới hạn vào các kinh nguyện và những cách thức tôn kính Mẹ ở một số dịp, mà phải trở thành một “thói quen” - “habit”, (biệt chú của người dịch: ở đây ĐTC dùng chữ “habit”, theo tiếng Anh, vừa có nghĩa là “áo dòng”, như Ngài đã nói đến ở trên, lại vừa có nghĩa là “thói quen”), tức là, một hướng chiều thường xuyên nơi tác hành của người Kitô hữu, một hướng chiều liên kết giữa việc cầu nguyện và đời sống nội tâm, qua việc năng lãnh nhận các bí tích, với những việc làm cụ thể nơi hoạt động từ thiện về phương diện tinh thần cũng như vật chất. Có như thế, Áo Đức Bà Carmêlô mới trở thành một dấu hiệu “giao ước” và cho thấy mối hiệp thông với nhau giữa Mẹ Maria và người tín hữu: thật vậy, nó là một việc chuyển dịch cụ thể cái ý nghĩa của tặng ân Mẫu Thân được Chúa Giêsu trên thập giá trao ban cho tông đồ Gioan, và qua vị tông đồ này, cho tất cả chúng ta, và cả ý nghĩa việc trao phó vị Tông Đồ yêu dấu này cùng với chúng ta cho Mẹ, Vị đã trở nên Mẹ thiêng liêng của chúng ta.

6.- Mẫu gương sáng ngời của linh đạo Thánh Mẫu này, một linh đạo khuôn đúc nội tâm con người và làm cho họ nên giống Chúa Kitô, trưởng tử của nhiều anh em, là chứng từ cho thấy sự thánh thiện và khôn ngoan nơi rất nhiều vị thánh của Dòng Carmêlô, tất cả những vị này đã lớn lên dưới bóng phủ và trong sự chở che của Người Mẹ các vị.

Tôi cũng đeo Áo Đức Bà Carmêlô trước ngực một thời gian rất lâu! Vì yêu mến Vị Thiên Mẫu chung của chúng ta, Đấng Tôi luôn cảm nghiệm được việc Người bảo vệ chở che, Tôi tin rằng năm Thánh Mẫu này sẽ giúp cho tất cả mọi tu sĩ nam nữ Carmêlô và tín hữu đạo hạnh có lòng tôn kính Mẹ với tình con thảo được lớn lên trong tình yêu của Người, và chiếu tỏa cho thế giới thấy sự hiện diện của Người Nữ thầm lặng và nguyện cầu này, một Người Nữ được kêu cầu như Mẹ Tình Thương, Mẹ Hy Vọng và Ân Sủng…



(Thư ĐTC Gioan Phaolô II gửi Dòng Carmêlô cả hai ngành OCD và O.Carm., đề ngày 25/3/2001,
nhân dịp kỷ niệm 750 năm Áo Đức Bà Carmêlô.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 4/4/2001)

 



Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 38, 1-6. 21-22. 7-8

"Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, và Ta đã lau sạch nước mắt của ngươi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Trong những ngày ấy Êdêkia đau gần chết. Tiên tri Isaia, con ông Amos đến thưa người rằng: "Chúa phán thế này: Ngươi hãy sắp xếp công việc nhà cửa của ngươi, vì ngươi sắp chết, không sống được nữa". Êdêkia liền quay mặt vào vách, cầu nguyện cùng Chúa rằng: "Ôi lạy Chúa, con van xin Chúa, xin Chúa hãy nhớ lại: con đã sống ngay chính trước mặt Chúa, và đã làm những điều đẹp lòng Chúa". Rồi Êdêkia than khóc lớn tiếng.

Bấy giờ Chúa phán cùng Isaia rằng: "Hãy đi nói với Êdêkia rằng: Ðây Chúa là Thiên Chúa Ðavít, tổ phụ ngươi, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, và Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ cứu ngươi và bảo vệ thành này khỏi tay vua Assyria".

Isaia sai người đi lấy mẩu bánh trái vả đắp lên mụn ung độc, và vua liền khỏi bệnh. Bây giờ Êdêkia hỏi: "Có dấu nào cho ta biết coi ta còn lên đền thờ Chúa được chăng?" Isaia đáp: "Ðây là dấu lạ Chúa ban cho vua, vì Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán: "Ta sẽ làm cho bóng đã ngả trên bảng độ Acaz lui lại mười độ". Và mặt trời lui lại mười độ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Is 38, 10. 11. 12. 16

Ðáp: Lạy Chúa, xin cứu mạng sống con, ngõ hầu con khỏi phải chết (c. 17b).

Xướng: 1) Con đã từng nói: Ðến nửa đời con, con sẽ đi đến cửa địa ngục. Con sẽ bị giam giữ những năm cuối đời con. - Ðáp.

2) Con đã từng nói: Con sẽ không nhìn thấy Thiên Chúa trong đất nước những kẻ nhân sinh: con sẽ không còn thấy người ta nữa, không còn trông thấy dân chúng sống yên vui. - Ðáp.

3) Miêu duệ con đã xa cách và lìa bỏ con, như chiếc lều của những mục tử. Như người thợ dệt, con lôi cuốn đời sống con đi; con chặt đứt nó, khi nó còn muốn kéo dài. - Ðáp.

4) Lạy Chúa, đời sống con là như thế, và đời sống tinh thần của con cũng như vậy, nhưng xin Chúa hãy thuyên chữa và cứu sống con". - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 12, 1-8

"Con Người cũng là chủ ngày sabbat".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: "Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat". Người nói với các ông rằng: "Các ông không đọc thấy Ðavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Ðavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Ðấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là, "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ", chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".

Ðó là lời Chúa.





Suy Niệm Cảm Nghiệm



Ở Hiền Gặp Lành

Suy Niệm


Trong b
ài Phúc Âm cho Th
ứ Sáu Tuần XV Thường Niên hôm nay, Chúa Giêsu lợi dụng vấn đề được các người biệt phái đặt ra cho Người để dạy cho họ những gì họ cần phải học hỏi và đối xử.

Vấn đề được các người biệt phái đặt ra: "Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: 'Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat'". 

Những gì họ cần phải học hỏi và đối xử: "Người nói với các ông rằng: 'Các ông không đọc thấy Đavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Đavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Đấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là, 'Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ', chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".

Hai vấn đề được Chúa Giêsu đặt ra với những người biệt phái trong trường hợp họ bắt bẻ các môn đệ của Người về luật kiêng việc xác trong ngày hưu lễ đó là lòng nhân từ và tinh thần luật, hai chiều kích sống đạo hay hai yếu tố giữ đạo bất khả thiếu và bất khả phân ly. Bởi vì, nếu tất cả lề luật và các tiên tri đều qui về hai điều răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người (xem Mathêu 22:40), thì ai yêu thương là giữ trọn lề luật vậy (xem Roma 13:8,10). 

Đó là lý do trong câu trả lời của Chúa Giêsu, Người đã nhấn mạnh đến chiều kích chính yếu là lòng nhân lành trước, rồi mới tới chiều kích tinh thần luật sau: "nếu các ông biết được điều này là, 'Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ', chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội" (lòng nhân lành), "vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat" (tinh thần luật).

"Con Người cũng là chủ ngày Sabbat" nghĩa là gì, nếu không phải Con Người là cốt lõi của lề luật, bởi thế nếu giữ luật mà không làm cho người ta đạt đến Con Người, gặp gỡ Con Người, hiệp nhất nên một với Con Người thì kể như họ đã bị lệch lạc, đã lầm đường lạc hướng.

"Con Người cũng là chủ ngày Sabbat" nghĩa là gì, nếu không phải Con Người là cốt lõi của lề luật, bởi thế nếu giữ luật mà không làm cho người ta đạt đến Con Người, gặp gỡ Con Người, hiệp nhất nên một với Con Người thì kể như họ đã bị lệch lạc, đã lầm đường lạc hướng.

Nếu "Con Người" đây là Dung Nhan Thương Xót, là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa, thì "Con Người là chủ Ngày Hưu Lễ" đây có nghĩa là Lòng Thương Xót Chúa vượt trên lề luật và là cốt lõi hay tinh thần của chính lề luật, bằng không lề luật chẳng còn nghĩa lý gì nữa và chỉ là khí giới sát hại mà thôi.


Cảm Nghiệm


Thật vậy, theo tâm lý tự nhiên và 
kinh nghiệm sống đạo, chúng ta thường nhìn nhau bằng con mắt của một quan án chí công liên quan đến luật lệ. Ở chỗ, thấy nhau làm một điều gì đó không hay không phải, nhất là những điều sai quấy tỏ tường, chúng ta thường nghĩ ngay đến tội này lỗi kia, đến hình phạt phải chịu v.v., chứ ít khi hay hiếm khi chúng ta tỏ lòng thương cảm với họ ngay bấy giờ, rồi sau đó tìm cách giúp họ đứng lên hay vươn lên khỏi những gì họ vấp phạm, bằng lời cầu nguyện của mình hay bằng những lời cảm thông cùng trấn an họ, trái lại, nhiều khi chúng ta lại còn khinh bỉ họ, nói xấu họ và xa lánh họ nữa, chẳng khác gì như họ đã bị vấp ngã trước mặt chúng ta, chúng ta chẳng những không chạy lại ân cần nâng họ dậy còn nhổ vào họ hoặc thậm chí đạp hay đá cho họ một cái nữa vậy.

Nếu chúng ta hằng ngày đọc kinh và đi lễ hay hằng tuần vẫn đi lễ và rước lễ, mà chúng ta vẫn cứ tiếp tục sống thái độ soi mói một cách duy luật của những người biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, thì hãy tự xét xem lời Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta trong bài Phúc Âm: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ". 

Căn cứ vào lời này của Chúa thì dường như Người có ý bảo chúng ta rằng nếu chúng ta, không cố gắng hết sức để sửa mình, trái lại cứ bất nhẫn với anh em chúng ta, cứ tiếp tục phán xét và luận án anh chị em chúng ta, dù chỉ ở trong đầu óc của chúng ta, nhất là với những người anh chị em tội nhân đáng thương hơn là đáng khinh bỉ và lên án, chúng ta không nên đi lễ và rước lễ nữa, Chúa không chấp nhận của lễ chúng ta dâng hay việc đạo đức chúng ta làm, bởi chúng thực sự không đẹp lòng Ngài, cho dù chúng ta không phạm tội trọng và vẫn có thể dâng lễ và rước lễ, trừ phi chúng ta nhận biết lỗi lầm của mình và quyết tâm chừa cải. 


Trái lại, ai sống nhân ái thì được Thiên Chúa là Đấng xót thương ân cần chăm sóc cho như Ngài đã đối xứ với Vua Êdêkia trong Bài Đọc 1 hôm nay: Thứ nhất là Chúa cho Vua Êdêkia gần chết được khỏi bệnh đã tới số của vua: "Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa", sau khi vua được tiên tri Isaia báo tử và van xin Chúa, chẳng khác gì như đứa trẻ vòi vĩnh ăn vạ mẹ của nó vậy: "'Ôi lạy Chúa, con van xin Chúa, xin Chúa hãy nhớ lại: con đã sống ngay chính trước mặt Chúa, và đã làm những điều đẹp lòng Chúa'. Rồi Êdêkia than khóc lớn tiếng", thế mà lại được Chúa nghe, và Ngài đã chữa lành bệnh cho vua, qua bàn tay của Tiên Tri Isaia: "lấy mẩu bánh trái vả đắp lên mụn ung độc, và vua liền khỏi bệnh", thậm chí còn làm cho "mặt trời lui lại mười độ" trái với định luật tự nhiên về vật lý, theo như lòng vua mong ước nữa: "Có dấu nào cho ta biết coi ta còn lên đền thờ Chúa được chăng?"  


Hai sự lạ trong Bài Đọc 1 hôm nay, cho Vua Êdêkia sống thêm 15 năm nữa sau cơn bệnh đã tới số và làm cho mặt trời chậm lại 10 độ trái với định luật tự nhiên của nó, thật ra lại rất hợp với lời Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay về vai trò chủ tể của Người là Đấng từ bi nhân ái: "'Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ', chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".


Phải chăng Vua Êdêkia có lòng nhân lành nên được chính Thiên Chúa là chủ tể muôn loài đã chẳng những cứu vua cho khỏi chứng bệnh nguy tử đáng lẽ vua đã tới số, để ban cho vua
"sống thêm mười lăm năm nữa. (Lại) bảo vệ thành này khỏi tay vua Assyria", mà còn làm cho mặt trời cũng bất tuân theo định luật tự nhiên vì lợi ích của một tâm hồn muốn lên đền thờ là nơi Ngài ngự trị.


Bài Đáp Ca hôm nay là một nhận thức về bản thân và cuộc sống của con người, cả bề ngoài lẫn bề trong (như trường hợp của thành phần duy luật bắt bẻ các môn đệ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay), có vẻ bi quan yếm thế nhưng vẫn không chán nản và tuyệt vọng, trái lại, vẫn từ nhận thức ấy mà "xin Chúa hãy thuyên chữa và cứu sống con", như trường hợp của Vua Êdêkia trong Bài Đọc 1

1) Con đã từng nói: Ðến nửa đời con, con sẽ đi đến cửa địa ngục. Con sẽ bị giam giữ những năm cuối đời con.

2) Con đã từng nói: Con sẽ không nhìn thấy Thiên Chúa trong đất nước những kẻ nhân sinh: con sẽ không còn thấy người ta nữa, không còn trông thấy dân chúng sống yên vui.

3) Miêu duệ con đã xa cách và lìa bỏ con, như chiếc lều của những mục tử. Như người thợ dệt, con lôi cuốn đời sống con đi; con chặt đứt nó, khi nó còn muốn kéo dài.

4) Lạy Chúa, đời sống con là như thế, và đời sống tinh thần của con cũng như vậy, nhưng xin Chúa hãy thuyên chữa và cứu sống con".





Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Mk 2, 1-5

"Chúng tham lam ruộng đất và chiếm lấy nhà cửa".

Trích sách Tiên tri Mikha.

Khốn cho những kẻ suy tính điều gian ác, và mưu đồ việc xấu xa trong phòng mình. Sáng ngày, chúng thực hiện điều đó, vì tay chúng chống lại Thiên Chúa. Chúng tham lam và dùng võ lực chiếm lấy ruộng đất, nhà cửa kẻ khác. Chúng ức hiếp người ta, phá phách nhà họ, chủ nhà và sản nghiệp của họ. Vì thế, Chúa phán thế này:

Ðây Ta toan giáng hoạ trên dòng giống này mà các ngươi không thoát được, các ngươi không ngước đầu lên mà đi được nữa, vì đây là thời kỳ tai hoạ. Trong ngày đó, người ta ngâm bài trào phúng chế diễu các ngươi và sẽ hát bài ca thán mà rằng: "Chúng ta đã bị bóc lột hết rồi, sản nghiệp dân ta bị đổi chủ, làm sao Chúa tước đoạt của cải chúng ta, và phân chia đất đai chúng ta cho những kẻ bóc lột chúng ta".

Vì thế, trong cộng đoàn Thiên Chúa, không còn ai giăng dây chia đất cho ngươi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 10, 1-2. 3-4. 7-8. 14

Ðáp: Lạy Chúa, xin đừng quên những kẻ cơ bần (c. 12b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, tại sao Ngài xa cách, tại sao Ngài ẩn mặt trong lúc gian truân, đang khi đứa ác kiêu căng, người nghèo bị hại, bị trúng mưu gian nó đã bày ra? - Ðáp.

2) Bởi đứa tội nhân đang hãnh diện vì lòng tham; tên kẻ cắp đang lộng ngôn, khinh nhờn Chúa. Ðứa ác nhân ngạo nghễ thốt lời: "Ngài không báo ứng, không có Chúa Trời!" Ðó là tất cả điều nó suy tư. - Ðáp.

3) Miệng nó đầy lời chửi rủa, gian ngoan và xảo kế, dưới lưỡi nó chứa sự tân toan và sách nhiễu. Nó ngồi núp gần những nơi thôn xóm, trong chỗ khuất tịch nó giết người hiền lương, mắt nó rình xem kẻ cơ bần. - Ðáp.

4) Nhưng Ngài thấy, Ngài nhìn nỗi tân toan sầu khổ, để rồi Ngài đỡ lấy trong tay. Kẻ cơ bần đem thân phó thác cho Ngài, Ngài là Ðấng phù trợ kẻ mồ côi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 12, 14-21

"Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời đã phán".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, các người biệt phái đi ra ngoài, bàn mưu kế chống lại Chúa Giêsu để hãm hại Người. Biết thế, Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy. Có nhiều kẻ đi theo Người, và ai có bệnh, đều được Người chữa lành. Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã chép rằng:

"Này là tôi tớ Ta đã chọn, là người Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Ta sẽ cho Thần trí ngự trên Người. Người sẽ rao giảng sự công chính cho dân ngoại. Người không cãi cọ hay dức lác, và không ai nghe tiếng Người ngoài đường phố. Người không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người".

Ðó là lời Chúa.




Suy Niệm Cảm Nghiệm

Suy Niệm


B
ài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XV Thường Niên, tuy kh
ông liên tục về đoạn văn với bài Phúc Âm hôm qua, nhưng lại liên tục về nội dung. Bài Phúc Âm hôm qua và bài Phúc Âm hôm nay cách nhau bởi những câu Phúc Âm thuật lại về câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người bị co bại tay vào ngày hưu lễ trong hội đường
Bởi thế, liên quan đến cả hai lần liền về ngày hưu lễ, lần trước về vụ các môn đệ của Người bứt bông lúa mà ăn trong ngày hưu lễ ở bài Phúc Âm hôm qua, và lần sau về vụ chính Người chữa cho người co bại tay vào ngày hưu lễ trong hội đường ở đoạn Phúc Âm giữa hai bài Phúc Âm hôm qua và hôm nay, mà ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay mới có câu: "Khi ấy, các người biệt phái đi ra ngoài, bàn mưu kế chống lại Chúa Giêsu để hãm hại Người".
Thế nhưng, vấn đề chính yếu của bài Phúc Âm hôm nay không phải là ở chỗ đó, chỗ liên quan với thành phần biệt phái này, mà là liên quan đến chính bản thân của Chúa Kitô, Đấng đến để đóng vai trò như thày thuốc cứu chữa thành phần bệnh nhân trên thế gian này (xem Mathêu 9:12), chứ không phải để tranh cãi và "luận phạt" (xem Gioan 3:17). Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy khi những người Pharisiêu âm mưu hại Người thì: "Biết thế, Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy".
"Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy" không phải là vì Người sợ thành phần biệt phái ám hại Người, cho bằng để Người có thể tiếp tục sứ vụ cứu chữa khẩn trương của Người: "ai có bệnh, đều được Người chữa lành", một sứ vụ chính yếu sẽ được Người hoàn tất nơi Cuộc Vượt Qua của Người, và là một sứ vụ hoàn toàn phản ảnh tấm lòng yêu thương vô cùng nhân hậu của Người, đúng như những gì Tiên Tri Isaia đã báo trước về Người
"Này là tôi tớ Ta đã chọn, là người Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Ta sẽ cho Thần trí ngự trên Người. Người sẽ rao giảng sự công chính cho dân ngoại. Người không cãi cọ hay dức lác, và không ai nghe tiếng Người ngoài đường phố. Người không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người".
Thật ra, theo con mắt trần gian thì khó lòng mà nhận biết nhân vật Giêsu Nazarét "là Đức Kitô (Đấng Thiên Sai), Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), nên dân làng của Người và thành phần biệt phái cùng luật sĩ và những nhân vật trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đã khó lòng chấp nhận Người, cho đến độ đã cho Người là lộng ngôn phạm thượng và lên án tử cho Người.
Tuy nhiên, nếu họ biết thật Thiên Chúa là ai và như thế nào thì họ sẽ nhận biết Đấng Ngài sai. Đó là lý do chính Chúa Giêsu đã khẳng định là dân Do Thái không tin vào Người là vì họ không tin Thiên Chúa, không nhận biết Người là vì họ không nhận biết Thiên Chúa hay nhận biết một cách sai lệch: "Quí vị chẳng biết Tôi cũng chẳng biết Cha Tôi. Nếu quí vị biết Tôi thì quí vị cũng phải biết Cha Tôi nữa" (Gioan 8:19). 
Đúng thế, nếu "Thiên Chúa là Tình yêu" (1Gioan 4:8,16) vô cùng nhân hậu, Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đã thủy chung với dân Do Thái theo những gì Ngài đã hứa với tổ phụ của họ, và đã vô cùng nhẫn nại với họ là thành phần liên lỉ trắng trợn bất trung bội nghĩa với Ngài trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, thì quả thật Đấng Thiên Sai của Ngài "không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người".

Cảm Nghiệm

Cho dù Chúa có trừng phạt thì Người cũng sử dụng chính cái vạ do tội ác của phạm nhân gây ra, cái hậu quả tội ác của họ mà làm cho họ mở mắt ra nhận biệt tội lỗi của họ và lòng thương xót của Người mà ăn năn thống hối để được cứu độ mà thôi.

Đó là lý do chúng ta thấy trong Bài Đọc 1, trích sách Tiên Tri Mikha, đối với thành phần suy tính điều gian ác, và mưu đồ việc xấu xa trong phòng mình. Sáng ngày, chúng thực hiện điều đó, vì tay chúng chống lại Thiên Chúa. Chúng tham lam và dùng võ lực chiếm lấy ruộng đất, nhà cửa kẻ khác. Chúng ức hiếp người ta, phá phách nhà họ, chủ nhà và sản nghiệp của họ", Chúa đã phải làm cho họ phải làm sao tỉnh ngộ "Chúng ta đã bị bóc lột hết rồi, sản nghiệp dân ta bị đổi chủ, làm sao Chúa tước đoạt của cải chúng ta, và phân chia đất đai chúng ta cho những kẻ bóc lột chúng ta".

Trong Bài Đáp Ca hôm nay cũng thế, cho dù thấy được chẳng những đối phương gian ác của mình (câu 1, 2 và 3), nhưng cuối cùng chính họ cũng phải công nhận rằng Thiên Chúa thấu biết tất cả mọi sự, kể cả cái gian ác của kẻ ác, lẫn nỗi khổ đau của nạn nhân tội lỗi, thành phần nhận biết mình và tin vào Người mới cảm nghiệm thấy lòng thương xót của Người ngay trong lúc gian nan khốn khổ của mình, do chính tội lỗi của mình gây ra. Nghĩa là Thiên Chúa muốn sử dụng chính tội lỗi của con người để tỏ mình cho con người, như thế là Người biến sự ác họ gây ra thành sự lành cho họ rồi vậy.

1) Lạy Chúa, tại sao Ngài xa cách, tại sao Ngài ẩn mặt trong lúc gian truân, đang khi đứa ác kiêu căng, người nghèo bị hại, bị trúng mưu gian nó đã bày ra?

2) Bởi đứa tội nhân đang hãnh diện vì lòng tham; tên kẻ cắp đang lộng ngôn, khinh nhờn Chúa. Ðứa ác nhân ngạo nghễ thốt lời: "Ngài không báo ứng, không có Chúa Trời!" Ðó là tất cả điều nó suy tư.

3) Miệng nó đầy lời chửi rủa, gian ngoan và xảo kế, dưới lưỡi nó chứa sự tân toan và sách nhiễu. Nó ngồi núp gần những nơi thôn xóm, trong chỗ khuất tịch nó giết người hiền lương, mắt nó rình xem kẻ cơ bần.

4) Nhưng Ngài thấy, Ngài nhìn nỗi tân toan sầu khổ, để rồi Ngài đỡ lấy trong tay. Kẻ cơ bần đem thân phó thác cho Ngài, Ngài là Ðấng phù trợ kẻ mồ côi.