SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Giáng Sinh

Tuần Trước và Sau Lễ Hiển Linh 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




 

Xin Lưu Ý:

 

 

Thời điểm phụng niên trước và sau Lễ Hiển Linh này có vẻ hơi phức tạp và khá rắc rối, nếu không nắm bắt được điểm then chốt của vấn để là thời điểm mừng Lễ Hiển Linh: Lễ Hiển Linh được mừng vào ngày nào, một là vào ngày được phụng niên chính thức ấn định là ngày 6/1, hai là vào Chúa Nhật sau Lễ Mẹ Thiên Chúa, tức là Chúa Nhật sau Tuần Bát Nhật Giáng Sinh.


Nếu Lễ Hiển Linh được mừng vào đúng ngày 6/1 của phụng vụ và theo phụng niên ấn định, như ở Tòa Thánh Vatican hay ở các dòng tu, thì trước Lễ Hiển Linh, các bài đọc sẽ lấy theo ngày trong tháng, từ mùng 2/1 (sau Lễ Mẹ Thiên Chúa mùng 1/1) đến hết ngày 5/1, và sau Lễ Hiển Linh, các bài đọc cũng sẽ lấy theo ngày trong tháng, từ mùng 7 đến hết ngày 12, tức là ngay trước Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa ngày 13/1.


Nếu Lễ Hiển Linh được mừng vào Chúa Nhật, như ở Hoa Kỳ và nhiều giáo phận khác trên thế giới nói chung, vì lợi ích mục vụ, thì trước Lễ Hiển Linh, các Bài Đọc sẽ theo ngày trong tháng, từ mùng 2/1 sau Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1, cho tới Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, và sau Lễ Hiển Linh thì lại theo ngày trong tuần, chứ không theo ngày trong tháng, từ Thứ Hai tới hết Thứ Bảy, trước Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. 

 

 

Trong trường hợp Lễ Hiển Linh được mừng vào Chúa Nhật (chứ không mừng vào đúng ngày 6/1) sẽ có năm lễ này được cử hành vào ngày Chúa Nhật mùng 7/1: nếu Lễ Giáng Sinh rơi vào Thứ Bảy 25/12 và Lễ Mẹ Thiên Chúa rơi vào Thứ Bảy 1/1, hay cũng sẽ có năm được cử hành vào ngày Chúa Nhật mùng 8/1: nếu Lễ Giáng Sinh rơi vào Chúa Nhật 25/12, (Lễ Thánh Gia sẽ vào ngày 30/12) và Lễ Mẹ Thiên Chúa rơi vào Chúa Nhật 1/1.

 

 

Trong trường hợp Lễ Hiển Linh được mừng vào Chúa Nhật mùng 7/1 hay 8/1 thì trước Lễ Hiển Linh vẫn còn bao gồm cả ngày 6/1 và 7/1 với phần phụng vụ Lời Chúa thích hợp. Ở đây xin chia sẻ phụng vụ Lời Chúa bao gồm trọn vẹn cả những ngày trước và sau Lễ Hiển Linh để tùy nghi sử dụng theo các chu kỳ phụng vụ hằng năm, căn cứ vào ngày tháng thay đổi theo mỗi năm. Do đó, xin chọn phụng vụ Lời Chúa nào thích hợp với từng năm.

 

 

 

1/1/2016

Lễ Mẹ Thiên Chúa


Phụng Vụ Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: Ds 6, 22-27

"Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng".

Trích sách Dân Số.

Chúa phán cùng Môsê rằng: "Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel; hãy nói với chúng thế này: "Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con". Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8

Ðáp: Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con (c. 2a).

Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.

2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.

3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài; thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa ban phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Gl 4, 4-7

"Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em được làm con, Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu lên rằng: "Abba!", nghĩa là "Lạy Cha!" Thế nên, bạn không còn phải là tôi tớ, nhưng là con; mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Dt 1, 1-2

Alleluia, alleluia! - Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 2, 16-21

"Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.

Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.

Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.

Ðó là lời Chúa.


 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Emmanuel Thiên Mẫu

 


Lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa hôm nay, 1/1, ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, nhưng lại là ngày mở màn cho một tân niên, ngày đầu tiên của một năm mới, cũng là ngày Giáo Hội Công giáo cử hành như Ngày Thế Giới Hòa Bình - the World Day of Peace, bắt đầu từ 1/1/1968, dưới thời Giáo Hoàng Chân Phước Phaolô VI (1963-1978).


Tuần Bát Nhật Giáng Sinh được Giáo Hội cố ý sắp xếp một số lễ có liên hệ đặc biệt với mầu nhiệm và biến cố Giáng Sinh. Chẳng hạn Lễ Thánh Stephanô Phó Tế Tử Đạo Tiên Khởi ngày 26/12, Lễ Thánh Gioan Tông Đồ ngày 27/12, Lễ Các Thánh Anh Hài ngày 28/12, và Lễ Thánh Gia vào Chúa Nhật trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh. 


Lễ Mẹ Thiên Chúa hôm nay cũng thế. Trước Công Đồng Chung Vaticanô II Lễ Mẹ Thiên Chúa được cử hành vào ngày 11/10 hằng năm, nhưng sau công đồng được chuyển sang ngày 1/1 như hiện nay, ngày vừa kết thúc Tuần Bát Nhật Giáng Sinh vừa mở màn cho một năm mới. Đâu là ý nghĩa cho việc chuyển thời điểm Lễ Mẹ Thiên Chúa này?


Phải chăng, nếu mầu nhiệm và biến cố "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) không thể tách rời với mầu nhiệm Thánh Gia nói chung thế nào, ở chỗ Hài Nhi Giêsu giáng sinh từ một gia đình, hay Người đã vào trần gian qua cửa ngõ gia đình, thì mầu nhiệm và biến cố Giáng Sinh của Người cũng có một mối liên hệ mật thiết bất khả phân ly với mầu nhiệm Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa nói riêng như vậy, tức là Hài Nhi Giêsu phải được sinh ra bởi một người mẹ trần gian?


Thế nhưng tại sao, căn cứ vào ý nghĩa chặt chẽ và tầm quan trọng của mối liên hệ với Hài Nhi Giêsu như thế, Giáo Hội không sắp xếp ngay sau Lễ Giáng Sinh là Lễ Thánh Gia và Lễ Mẹ Thiên Chúa mà lại sắp xếp Lễ Thánh Stephano, Lễ Thánh Gioan Tông Đồ và Lễ Các Thánh Anh Hài? 


Xin thưa, chính vì tính chất liên hệ mật thiết và quan trọng hơn 3 lễ vừa được kể ấy mà hai Lễ Thánh Gia và Lễ Mẹ Thiên Chúa mới được cử hành chẳng những ở bậc lễ trọng mà còn ở vào một thời điểm trọng thể nữa, như Lễ Thánh Gia được cử hành vào Chúa Nhật và Lễ Mẹ Thiên Chúa được cử hành vào ngay ngày đầu năm dương lịch. 


Lễ Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội cử hành ngay vào ngày đầu năm dương lịch phải chăng là vì Mẹ Maria không thể tách biệt khỏi "Lời đã có từ nguyên thủy", như bài Phúc Âm cuối năm hôm qua cho biết. Nghĩa là từ thuở đời đời, "từ nguyên thủy" Mẹ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Lời Nhập Thể. Mẹ đã có trong thượng trí của Thiên Chúa cùng với Ngôi Lời ngay "từ nguyên thủy"


Tuy nhiên, theo bản tính là thần linh của mình, "Lời là Thiên Chúa", là Đấng tự hữu, hiện hữu và hằng hữu, Người chẳng những là nguyên thủy còn là cùng đích nữa (xem Khải Huyền 1:17), Người tiếp tục hiện hữu cho tới vô cùng bất tận dù thời gian và tạo vật có qua đi. Đó là lý do ngày tất niên 31/12 Giáo Hội đã chọn đọc bài Phúc Âm về Ngôi Lời, Đấng "đã có từ nguyên thủy". 


Nhưng về phần mình, vì chỉ là một tạo vật thuần túy, Mẹ Maria không thể nào ở ngoài thời gian, và vì Mẹ là tạo vật đệ nhất về ân sủng không thể tách biệt với Ngôi Lời "đã có từ nguyên thủy" mà Mẹ phải được Thiên Chúa nghĩ đến đầu tiên, trước hết và trên hết mọi sự, trước và trên cả loài thần thiêng trên trời. Bởi thế, Mẹ phải được coi như mở màn cho thời gian hay thời gian được bắt đầu từ Mẹ. Phải chăng đó là lý do Lễ Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội thật chí lý cử hành vào ngày 1/1 đầu năm?


Ngày 1/1 là ngày thứ 8 từ Lễ Giáng Sinh, thời điểm theo Luật Moisen các bé trai Do Thái phải được cắt bì. Hài Nhi Giêsu cũng không ngoại lệ, vì Người thực sự mặc lấy bản tính của con người, có thân xác đàng hoàng, cho dù bản tính nhân loại của Người nói chung và thân xác của Người nói riêng, vì được ngôi hiệp với thiên tính vô cùng thiện hảo, hoàn toàn nguyên tuyền tốt đẹp, không mang một tì vết nào của nguyên tội, Người vẫn lãnh nhận phép cắt bì như mọi bé trai phàm nhân khác, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ".


Hài Nhi Giêsu chịu phép cắt bì như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại chứng tỏ Người thực sự mặc lấy nhân tính của loài người, một nhân tính có thân xác thật sự (real) chứ không phải là một thứ ảo tượng (virtual) nào đó, một thân xác đã thật sự được thụ thai, cưu mang và hạ sinh bởi một trinh nữ ở Nazarét đã đính hôn (xem Luca 1:26-27,34-35), và là một thân xác đã bắt đầu đổ máu cứu chuộc khi chịu phép cắt bì này, hình ảnh tiên báo phép rửa Người phải chịu sau này khi tới thời điểm của Người (xem Luca 12:50).


Đó là lý do, trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã viết cho Kitô hữu thành Galata và khẳng định rằng Chúa Kitô được sinh ra bởi một người nữ - là Trinh Nữ Maria Nazarét, và được sinh ra theo lề luật - như luật chịu phép cắt bì: "khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử". 


Phải, Lễ Mẹ Thiên Chúa được cử hành vào ngay ngày đầu năm, tiêu biểu cho sự kiện thời gian bắt đầu, chẳng những ở chỗ Mẹ Maria là một tạo vật thuần túy đã có ngay từ ban đầu cùng với Ngôi Lời trong thượng trí của Thiên Chúa, mà còn ở sự kiện khi Mẹ bắt đầu hiện hữu trên trần gian này là dấu báo trước rằng "đã tới lúc thời gian viên mãn", thời điểm "Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1;14). 


Tuy Mẹ Maria chỉ sinh ra thân xác của Lời Nhập Thể, từ chính huyết nhục hoàn toàn trinh nguyên thánh hảo của Mẹ, nhưng thân xác được gọi là Thánh Thể này của Lời Nhập Thể thuộc về một nhân tính bất khả phân ly với thiên tính, và ngay từ giây phút hoài thai trong lòng Mẹ nhân tính ấy đã được ngôi hiệp với thiên tính, tức là đã được hiệp nhất nên một thần tính để trở thành một Ngôi Vị Thần Linh Con Thiên Chúa Làm Người, mà Mẹ Maria không phải chỉ là Mẹ của nhân vật lịch sử Giêsu mà còn là chính Mẹ của Thiên Chúa nữa, như Công Đồng Chung Epheso đã chính thức và công khai tuyên tín năm 431. 


Vẫn biết, theo lý luận trần gian, là một tạo vật vô cùng thấp hèn và hữu hạn, được tạo dựng nên trong thời gian, Mẹ Maria không thể nào có thể làm Mẹ sinh ra Đấng tự hữu, hiện hữu và hằng hữu, như thể Mẹ đã có trước Thiên Chúa, nhưng theo dự án thần linh vô cùng khôn ngoan và toàn năng, Mẹ Maria chỉ là dụng dụ hay phương tiện thuần túy được "Quyền Phép Đấng Tối Cao bao phủ(Luca 1;35), nhờ đó Mẹ mới có thể thụ thai, cưu mang và hạ sinh "Con Đấng Tối Cao" (Luca 1:32), và vì thế "trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa" (Luca 1:35).


Khi mặc lấy nhân tính của con người, "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) đã trở thành một vị thượng tế của Thiên Chúa giữa loài người trong việc thánh hóa loài người cũng như các hoạt động và sự vật của loài người nơi chính bản tính nhân loại được ngôi hiệp với thiên tính vô cùng hoàn hảo thánh thiện của Người, một thiên chức và vai trò thượng tế đã được tiên báo nơi thiên chức và vai trò tư tế của Aaron cũng như của con cái vị này, như Bài Đọc 1 hôm nay trích từ Sách Dân Số cho thấy:


"Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel; hãy nói với chúng thế này: 'Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con'. Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng".

Bài Đáp Ca hôm nay âm vang ý nghĩa và chiều hướng của Bài Đọc 1, ở chỗ, về phía của thành phần lãnh nhận, của riêng dân Do Thái cũng như của chung nhân loại và toàn thể vũ trụ, nơi mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh của "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14), tất cả đều như tích cực hưởng ứng lãnh nhận phúc lành của Thiên Chúa, qua vị thượng tế thánh hóa trần gian nơi nhân tính của Người, một nhân tính xuất phát từ Trinh Nữ Nazarét là Mẹ Thiên Chúa:

1) Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. 

2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. 

3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài; thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa ban phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài.

 

Thánh thi Kinh Sách Giờ Kinh Phụng Vụ Lễ Mẹ Thiên Chúa

 

Gốc tổ Giesê có một cành

Một cành trĩu nặng trái thơm xinh:

Một bà mẹ trẻ sinh Con Chúa,

Sau trước một bề vẫn đồng trinh.

 

Ðấng đã tác thành nên ánh sáng

Mà nay sinh xuống giữa hang lừa,

Cùng Cha tạo dựng trời vô hạn,

Giờ Mẹ đặt nằm quấn tã thưa.

 

Người đem luật pháp đến cho đời,

Huấn giới mười điều dạy khắp nơi,

Cam phận nhân sinh trong cõi thế,

Người vâng luật lệ mãi không thôi.

 

Hào quang cứu độ nay tràn tới

Quét sạch đêm đen, diệt tử thần,

Muôn nước, muôn dân, nào hội lại

Kính thờ Con Chúa xuống trần gian.

 

Giêsu Cứu Chúa, Con Trinh Mẫu,

Ngàn vạn lời ca chúc tụng Ngài,

Thánh Phụ, Thánh Thần, muôn nhân hậu,

Xin cùng thượng tiến nhạc thiên thai.

 

Lời nguyện cho các Giờ Kinh Phụng Vụ Ngày Lễ Mẹ Thiên Chúa

 

Lạy Thiên Chúa toàn năng, ngày Ðức Trinh Nữ Maria sinh hạ Ðấng Cứu Thế, Chúa đã tặng ban cho nhân loại kho tàng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho chúng con được nhờ lời Ðức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Ðức Mẹ chúng con mới đáng nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu là Ðức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.

 

 

Ngày 2/1 


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 2,22-28

"Ước gì điều các con đã nghe từ ban đầu, vẫn ở lại mãi trong các con"

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông Ðồ.

Các con thân mến, ai là kẻ nói dối, nếu chẳng phải là kẻ không nhìn nhận Chúa Giêsu là Ðức Kitô?

Ai không nhận Chúa Cha và Chúa Con, chính nó là Phản Kitô, ai không nhận Chúa Con, thì cũng không được có Chúa Cha. Còn ai tuyên xưng Chúa Con thì cũng được có Chúa Cha. Còn ai tuyên xưng Chúa Con thì cũng được có Chúa Cha.

Phần các con, ước gì điều các con đã nghe từ ban đầu, vẫn ở lại mãi trong các con.

Nếu điều các con đã nghe từ ban đầu vẫn ở lại trong các con, thì các con cũng được ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha nữa. Và này là điều Người đã hứa cho chúng ta, đó là sự sống đời đời.

Ta đã viết những điều này cho các con biết về những người lừa dối các con.

Về phần các con, việc xức dầu mà các con đã nhận lãnh nơi Người vẫn ở lại trong các con, nên các con không cần ai dạy dỗ, nhưng như việc xức dầu của Người đã dạy các con mọi sự, và lại là sự thật, chứ không phải sự dối trá, nên như các con đã được dạy dỗ, hãy ở lại trong Người.

Và giờ đây, hỡi các con bé nhỏ, hãy ở lại trong Người, để khi Người tỏ hiện, chúng ta được dạn dĩ, không phải xấu hổ lìa xa Người, lúc Người đến.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 97,1.2-3a, 3cd-4

Ðáp: (3c) Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.

Xướng 1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng. Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối với nhà Israel. - Ðáp.

3) Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu, hãy hân hoan mừng Chúa, hãy mừng vui, hoan lạc và đàn ca. - Ðáp. 

Alleluia: Ga 1,14 và 12b

Alleluia, Alleluia - Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Alleluia. 

Phúc Âm: Ga 1,19-28

"Có một Ðấng sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.

Ðây là chứng của Gioan, khi những người Do thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các Thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?"

Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô".

Họ liền hỏi: "Như vậy là thế nào? Ông có phải là Elia chăng?"

Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia".

"Hay ông là một đấng tiên tri?"

Gioan đáp: "Không phải".

Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?"

Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo".

Và những người đã được sai đến đều thuộc nhóm biệt phái.

Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không là Elia, hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?"

Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết.

Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người".

Việc này xảy ra tại Betania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.

Ðó là Lời Chúa. 




Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Emmanuel Giêsu Kitô  



Theo di
ễn tiến của phụng niên trong Mùa Giáng Sinh thì sau Tuần Bát Nhật Giáng Sinh là đến những ngày trước và sau Lễ Hiển Linh, tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh.


Vì vẫn còn trong Mùa Giáng Sinh cho đến Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, nên nếu chủ đề chung của riêng Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) thì chủ đề chung của riêng Mùa Giáng Sinh là "Lời ở cùng chúng ta", một chủ đề sẽ tiếp tục chi phối phụng vụ Lời Chúa của Mùa Giáng Sinh, bao gồm cả thời điểm của Tuần Bát Nhật Giáng Sinh cũng như thời điểm trước và sau Lễ Hiển Linh.


Thật vậy, Bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau Tuần Bát Nhật Giáng Sinh và trước Lễ Hiển Linh, cho chúng ta thấy sự thật "Lời ở cùng chúng ta", nghĩa là "ở cùng" dân Do Thái ("chúng ta") mà họ "không biết", và chính vì "không biết" nên họ mới tìm kiếm cho biết ở những nơi họ cảm thấy có thể là Người, như nơi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhờ đó họ đã được Người tỏ mình ra một cách gián tiếp qua bản thân và chứng từ của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được sai đến trước Người để dọn đường cho Người, vị vừa phủ định về mình nhưng lại khẳng định về Người như sau: "Tôi không phải là Ðấng Kitô... Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người".


Đúng thế, câu quan trọng nhất trong chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ở đây về Đấng Thiên Sai Cứu Thế đến sau ngài là "Ðấng đó đã có trước tôi", Đấng vô cùng cao trọng và đầy quyền năng, đến độ chính ngài là một nhân vật được chung dân chúng và cả thành phần lãnh đạo trong dân kính nể tưởng là chính Đức Kitô, đã phải công khai xưng thú và công nhận rằng: "tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người".


Vấn đề then chốt ở đây là nếu mục đích chính yếu của mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh là ý định Thiên Chúa muốn ở cùng chúng ta như một "Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mathêu 1:23), nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14), thì chúng ta phải làm sao để nhận ra Người và ở với Người thì chúng ta mới viên trọn ơn gọi làm người của chúng ta và mới đạt đến tầm vóc trọn hảo của thân phận là người của chúng ta. 


Theo Bài Đọc 1 hôm nay, để có thể nhận ra Người và ở với Người, Thánh Gioan Tông Đồ, vị tông đồ có thể nói sống thân mật với Chúa Kitô nhất trong các tông đồ, đã trao cho chúng ta một cái master key, một chiếc chìa khóa chính, đó là: "nhìn nhận Chúa Giêsu là Ðức Kitô", bằng cách "tuyên xưng Chúa Con", và "ở lại trong Người" bằng cách trung thành với "điều các con đã nghe từ ban đầu". 


Vấn đề ở đây là cho dù có "nhìn nhận Chúa Giêsu là Ðức Kitô" mà không "ở lại trong Người" thì cũng vẫn còn sống trong dối trá, chưa nắm bắt được tất cả sự thật về Người, nghĩa là còn sống ở ngoài Người, trái lại, ai "ở lại trong Người" bằng cách trung thành với "điều các con đã nghe từ ban đầu" thì người đó quả thật "nhìn nhận Chúa Giêsu là Ðức Kitô". 


Cái then chốt vô cùng quan trọng làm nên mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh đó là "Chúa Giêsu là Ðức Kitô", tức là Đấng Thiên Sai, Đấng Được Cha Xức Dầu, bằng không, nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét ấy sẽ không phải là "Con Thiên Chúa hằng sống", mà chỉ là một nhân vật thuần túy loài người mang tên Giêsu như nhiều người có cùng tên Giêsu như Người trong lịch sử dân Do Thái, và vì thế không thể cứu chuộc nhân loại, không phải là Đấng Cứu Thế. "Chúa Giêsu là Ðức Kitô" là tất cả sự thật về "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14), một sự thật giải phóng (xem Gioan 8:32), một sự thật cứu độ.


Mầu nhiệm "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14) nơi "Chúa Giêsu là Ðức Kitô" đây quả thực là một trong "những việc lạ lùng" nhất Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử loài người "vào lúc thời gian viên trọn" (Galata 4:4) cho phần rỗi của toàn thể nhân loại, cần phải được thành phần được cứu độ "ở lại trong Người" bằng tất cả tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:


1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng. Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. 


2) Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối với nhà Israel. 


3) Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu, hãy hân hoan mừng Chúa, hãy mừng vui, hoan lạc và đàn ca.


Thánh Basiliô Cả (329-379) Và Thánh Grêgôriô Nazan (325-390), Giám Mục Và Tiến Sĩ Hội Thánh

 

Trong ngày lễ kính thánh Basiliô và Grêgôriô hôm nay, Giáo Hội ca ngợi một đức tính sáng ngời mà các ngài đã nêu gương cho chúng ta. Ðó là tình bạn nghĩa thiết. Cả hai sinh tại Cappadoce, thuộc gia đình quý phái, cùng học với nhau tại Athènes, cùng trở về quê hương và sống bên nhau dưới mái tu viện, mặc dù tính khá khác biệt nhau: Basiliô có óc chỉ huy và ưa tổ chức, trái lại Grêgôriô thích chiêm nhiệm và là một thi sĩ.

Thánh Basiliô được tấn phong Giám Mục Césarée de Capadoce năm 370. Ngài là một vị chủ chăn đầy gan dạ. Nhờ lời nói, chữ viết và sự can thiệp trực tiếp, ngài đã tạo cho Giáo Hội một chỗ đứng độc lập với chính quyền, đem lại phẩm giá cho người nghèo khó và bảo vệ Ðức Tin nơi Chúa Giêsu. Ngài qua đời ngày 01/01/379. Còn thánh Grêgôriô, sau khi đã làm Giám Mục Sasime (371), ngài được vinh thăng, giữ chức vị mới tại Constantinople (380) giữa cơn khủng hoảng do bè rối Ariô gây nên. Ngài luôn lặp đi lặp lại lời nói của tiên tri Giona và áp dụng cho mình: "Nếu vì tôi mà cơn bão táp này nổi dậy, hãy ném tôi xuống biển để anh em khỏi phải khổ sở". Như một nhà hùng biện, lời nói của ngài được mọi người vâng theo. Hơn nữa, ngài còn được gọi là cha những kẻ khốn cùng. Ngài chết ngày 25/01/390. 

Giáo Hội chính thống đã đặt thánh Basiliô, Grêgôriô và Gioan Kim Khẩu lên hàng đầu giữa các bậc Tiến Sĩ trong Hội Thánh. Giáo Hội còn xưng tụng các ngài là "đuốc thiêng của Giáo Hội".

 

 

 

Ngày 3/1

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 2,29-3,

"Bất cứ ai ở trong Người đều không phạm tội".

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, nếu các con biết Người là Ðấng công chính, thì các con hãy biết rằng bất cứ ai thực hành sự công chính, đều bởi Người mà sinh ra.

Các con hãy coi: tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và sự thật là thế.

Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người.

Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra.

Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy.

Và bất cứ ai đặt hy vọng nơi Người, thì tự thánh hóa mình cũng như Người là Ðấng Thánh.

Hễ ai phạm tội, thì cũng làm điều gian ác, vì tội là sự gian ác.

Các con biết rằng: Người đã xuất hiện để hủy diệt tội lỗi chúng ta.

Bất cứ ai ở trong Người, thì không phạm tội, và bất cứ ai phạm tội, thì không thấy cũng không nhận biết Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 97,1.3cd-4,5-6

Ðáp: Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. (3c)

Xướng 1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng. Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu, hãy hân hoan mừng Chúa, hãy vui mừng, hoan lạc và đàn ca. - Ðáp.

3) Hãy ca mừng Chúa với đàn cầm thụ, với đàn cầm thụ, với nhạc cụ rân ran; Hãy thổi sáo và túc tù và, hân hoan trước thánh nhan Chúa là Vua. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, Alleluia - Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta, hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hòa đã tỏa xuống trên địa cầu. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 1,29-34

"Ðây Chiên Thiên Chúa"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.

Ngày hôm sau, Gioan thấy Chúa Giêsu đến với mình thì nói: Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian.

Ðây chính là Ðấng mà tôi đã nói rằng: Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, vì Người vốn có trước tôi.

Phần tôi, trước tôi không biết Người, nhưng tôi đã đến làm phép rửa bằng nước, để Người được tỏ mình ra trong Israel.

Và Gioan đã làm chứng rằng: Tôi đã thấy Thánh Thần như con chim bồ câu từ trời xuống ngự trên Người.

Và trước tôi không biết Người, nhưng Ðấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì chính người đó là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần.

Tôi đã thấy và làm chứng rằng: Người là Con Thiên Chúa.

Ðó là Lời Chúa.


 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

"Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người": "Người là Con Thiên Chúa"   


Phụng Vụ Lời Chúa trong những ngày trước lễ Hiển Linh đều theo chiều hướng cứu độ phổ quát. Thật vậy, căn cứ vào ý nghĩa phụng vụ của cả phụng niên và của riêng Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh mở đầu cho toàn phụng niên, thì có thể nói, chủ đề cho cả Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, một Mùa Giáng Sinh bao gồm cả Lễ Hiển Linh và lên đến tột đỉnh nơi Lễ Hiển Linh, một cử hành phụng vụ để tưởng niệm biến cố Hài Nhi Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại, là "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người: vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14).

 

Nếu "Lời đã hóa thành nhục thể" là đề tài cho chung Mùa Vọng và cho riêng tuần bát nhật trước lễ Giáng Sinh, và "Lời ở giữa chúng ta" là đề tài cho Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, thì "chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người" là đề tài cho Tuần Lễ trước Lễ Hiển Linh, và "vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" là để tài cho Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, bắt đầu từ Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa cho tới áp Thứ Tư Lễ Tro mở màn cho Mùa Chay v.v.

 

Thật vậy, dường như chính vì đề tài của Tuần Lễ trước Lễ Hiển Linh là "chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người", một vinh hiển được xuất phát từ dân Do Thái, và được báo hiệu và biểu hiệu nơi ngôi sao lạ dẫn đường cho ba vua là những nhân vật tượng trưng cho dân ngoại sẽ đến bái thờ Người sau này, mà các câu Đáp Ca trước Lễ Hiển Linh cũng là Lễ Ba Vua đã bao gồm cả dân ngoại, như câu đáp ca hôm qua ngày 2/1, hôm nay ngày 3/1 và ngày mai ngày 4/1 đều giống ý như nhau: "Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta", và ngày kia mùng 5/1, áp Lễ Hiển Linh (theo đúng ngày kính là 6/1 hằng năm theo phụng vụ) là "Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa".

 

Theo chiều hướng "chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người" này, phụng vụ lời Chúa đã đọc lại Phúc Âm của Thánh ký Gioan về chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả liên quan đến Chúa Kitô, vị tiền hô cũng đã được phụng vụ lời Chúa nói đến suốt trong Mùa Vọng (3 tuần cuối) nhưng theo các vị Thánh ký của bộ Phúc Âm Nhất Lãm.

 

Tuy nhiên, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong Mùa Vọng được các vị Thánh ký Mathêu (Năm A), Thánh ký Marcô (Năm B) và Thánh ký Luca (Năm C) thuật lại liên quan đến vai trò dọn đường cho Chúa Kitô là Đấng đến sau Người. Trong khi đó, nơi Phúc Âm của Thánh ký Gioan, ngài đóng vai trò chứng nhân của Người (Phúc Âm ngày 2/1) và giới thiệu Người cho chung dân chúng (Phúc Âm ngày 3/1) cũng như cho riêng các môn đệ của ngài (Phúc Âm ngày 4/1), để chính các môn đệ của ngài rủ bạn bè đến với Chúa Giêsu để trở thành các vị môn đệ đầu tiên của Chúa Kitô (Phúc Âm ngày 5/1) cho một Giáo Hội của muôn dân và cho muôn dân.

 

Câu Phúc Âm của bài Phúc Âm ngày 5/1 là ngày ngay trước Lễ Hiển Linh mùng 6/1 đã chứng tỏ cho thấy tất cả thời gian trước Lễ Hiển Linh (từ mùng 2/1 tới mùng 5/1) quả thực là thời điểm được phụng vụ nhấn mạnh đến đề tài: "Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người", đó là câu được chính Chúa Kitô khẳng định về bản thân của Người: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người".

 

Riêng trong bài Phúc Âm hôm nay, mùng 3/1, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là chứng nhân của Chúa Kitô, sau khi đã phủ nhận bản thân mình không phải là Đức Kitô với thành phần lãnh đạo dân Do Thái trong bài Phúc Âm 2/1, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngày 3/1, đã giới thiệu cho chung dân Do Thái Đấng đến sau mình "nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Bởi vì, như ngài chứng thực về Đấng Đến Sau cao trọng hơn ngài trong bài Phúc Âm hôm nay ở những điểm chính yếu như sau:

 

"Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian. Ðây chính là Ðấng mà tôi đã nói rằng: Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, vì Người vốn có trước tôi. Phần tôi, trước tôi không biết Người, nhưng tôi đã đến làm phép rửa bằng nước, để Người được tỏ mình ra trong Israel. Và Gioan đã làm chứng rằng: Tôi đã thấy Thánh Thần như con chim bồ câu từ trời xuống ngự trên Người. Và trước tôi không biết Người, nhưng Ðấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì chính người đó là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy và làm chứng rằng: Người là Con Thiên Chúa".

Đúng thế, Chúa Kitô chính là "Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian" chứ không phải tội của riêng dân Do Thái, và "Người là Con Thiên Chúa", Đấng đã "yêu thế gian (chứ không phải yêu riêng dân Do Thái) đến ban Con Một của Ngài để ai (thuộc bất cứ dân tộc nào trên thế giới, bao gồm cả dân Do Thái) tin vào Người thì không phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Gioan 3:16).

 

Nguyên trong lời giới thiệu này của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã bao gồm chiều hướng dân ngoại, chiều hướng mà "chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người". Bài Đọc 1 trong những thời điểm trước Lễ Hiển Linh (2-5/1) này cũng được Giáo Hội trích từ Thư 1 của Thánh ký Gioan, một bức thư liên quan đến ơn cứu độ phổ quát nơi Chúa Kitô theo dự án thần linh của Vị Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu. Đó là lý do chúng ta đọc thấy những lời khẳng định của vị thánh ký này trong Bài Đọc 1 hôm nay như sau:

 

"Các con hãy coi: tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa ("bất cứ ai tin nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa - Gioan 1:12) và sự thật là thế... Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy ("Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" - Gioan 1:14). ... Các con biết rằng: Người đã xuất hiện để hủy diệt tội lỗi chúng ta (vì Người là "Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian" như lời giới thiệu của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm)".

 



Ngày 4/1

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 3, 7-10

"Người ấy không phạm tội được, vì đã sinh ra bởi Thiên Chúa".

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông Ðồ.

Hỡi các con bé nhỏ, đừng để ai lừa gạt các con.

Ai thi hành sự công chính là người công chính, cũng như chính Người là Ðấng công chính.

Ai phạm tội thì bởi qủy mà ra, vì qủy là kẻ phạm tội từ ban đầu.

Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá hủy công việc của ma qủy.

Bất cứ ai đã sinh ra bởi Thiên Chúa, thì không phạm tội, vì mầm giống của Người ở trong kẻ ấy.

Kẻ ấy không phạm tội được, vì đã bởi Thiên Chúa mà sinh ra.

Do đó, mà nhận ra được con của Thiên Chúa và con cái ma quỷ.

Bất cứ ai không phải là người công chính, và không thương yêu anh em mình, thì không bởi Thiên Chúa mà ra.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 97,7-8,9

Ðáp: Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. (3c)

Xướng 1) Hãy gầm lên, biển cả và mọi vật dưới biển, cả vũ trụ với vạn vật dân cư. Sông ngòi, hãy vổ tay mừng, núi non, hãy đồng nhảy mừng. - Ðáp.

2) Trước mặt Thiên Chúa, vì Người ngự đến, vì Người ngự đến thống trị địa cầu, Người thống trị địa cầu cách công minh, Người thống trị muôn dân cách chính trực. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, Alleluia. - Thủa xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà nói với cha ông, nhưng đến thời sau hết, Người đã nói nơi Chúa Con. Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 1,35-42

"Chúng tôi đã gặp Ðấng Cứu Thế".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: Ðây là Chiên Thiên Chúa.

Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?"

Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là thưa Thầy, Thầy ở đâu?"

Người đáp: "Hãy đến mà xem".

Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.

Anrê, em ông Simon Phêrô, một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu.

Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô".

Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Ðá".

Ðó là Lời Chúa.


 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

"hãy đến mà xem" - "Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô"


Hôm nay, vai trò của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, qua Phúc Âm của Thánh ký Gioan sau Tuần Bát Nhật Giáng Sinh và trước Lễ Hiển Linh, vẫn tiếp tục vai trò làm chứng của mình cho Chúa Kitô là Đấng đến sau mình, hơn là vai trò dọn đường cho Người như trong các bài Phúc Âm Nhất Lãm ở hai tuần giữa trong Mùa Vọng hướng về Giáng Sinh.

Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã thực hiện vai trò làm chứng của mình về Chúa Kitô đến sau mình bằng việc giới thiệu Người với chung dân Do Thái thì trong bài Phúc Âm hôm nay ngài giới thiệu Người với riêng thành phần môn đệ của ngài: "Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: Ðây là Chiên Thiên Chúa".

Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu với các môn đệ của ông về Chúa Giêsu là Đấng đến sau ông cũng bằng một danh xưng như ông đã giới thiệu với chung dân Do Thái đó là danh xưng "Chiên Thiên Chúa", nhưng ở hai môi trường khác nhau: với chung dân chúng thì vào ngày hôm trước còn với các môn đệ của mình thì vào "ngày hôm sau" (Gioan 1:35); với chung dân chúng khi "Chúa Giêsu tiến đến với ông" (Gioan 1:29), còn với các môn đệ của ông khi "Chúa Giêsu đang đi".

Như thế, căn cứ vào Phúc Âm của Thánh ký Gioan chúng ta có thể suy ra rằng ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở Sông Jordan như được các Thánh ký của bộ Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại thì Người chưa vào hoang địa ngay, trái lại, hai ngày sau đó Người vẫn còn lẩn quẩn ở gần đó: ngày thứ nhất - "the next day" (Gioan 1:29), nghĩa là sau ngày Người lãnh nhận Phép Rửa (xem Gioan 1:31-34), Người trở lại với Tiền Hô Gioan Tẩy Giả một lần nữa, và sang ngày thứ hai - "the next day" (Gioan 1:35) Người đi ngang qua chỗ của Tiền Hô Gioan; chỉ cho tới "ngày thứ ba - the third day" (Gioan 2:1) Người mới ở một nơi khác là Cana Xứ Galilêa, và có lẽ sau biến cố Cana này Người mới chay tịnh 40 đêm ngày...

Chúng ta không biết được lý do tại sao Chúa Giêsu vào ngày thứ hai sau khi lãnh nhận Phép Rửa lại "đi ngang qua" chỗ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhưng có thể suy đoán rằng Người muốn tỏ mình ra cho mấy người môn đệ đầu tiên của Người, trong đó có 2 người môn đệ của vị tiền hô này, để nhờ họ có thể "thấy vinh hiển của Người", đề tài chính yếu của những ngày trước Lễ Hiển Linh, nghĩa là Người bắt đầu tỏ mình ra một cách đặc biệt cho một thiểu số để họ biết Người là ai.

Đó là lý do, tác dụng thần linh xuất phát từ việc "Người đi ngang qua", không dừng lại, không để ý nhìn ai, không lên tiếng kêu gọi người nào, đã khiến cho "hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Chúa Giêsu", có lẽ chỉ vì tò mò muốn biết Người là ai mà được sư phụ của các vị hết sức trân trọng và tôn vinh như thế. Và lòng mong ước của các vị, cho dù tò mò, cũng rất hợp với ý Chúa, Đấng muốn lợi dụng chính cái tò mò tự nhiên ấy mà tỏ mình ra cho họ để nhờ đó họ có thể "thấy vinh hiển của Người", có thể biết Người là ai. Bởi thế nên "Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: 'Các ngươi đang tìm kiếm gì vậy?'".

Chính thái độ chủ động qua câu hỏi mở đầu và dẫn lối này đã cho thấy ý định muốn tỏ mình ra của Chúa Kitô, để rồi, khi những con người muốn đến với Người công khai chính thức bày tỏ ý định của họ: "Rabbi, nghĩa là thưa Thầy, Thầy ở đâu?", hay "Thày từ đâu đến?" hoặc "Thày là ai?", Người mới khách quan mời gọi họ: "hãy đến mà xem", nghĩa là hãy cứ đến với Người, ở với Người hay giao tiếp với Người, thì họ sẽ tự cảm nghiệm thấy Người là ai đối với họ.

Đúng thế, được mời gọi mở đường như thế, "họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười", để rồi nhờ đó cuối cùng họ đã nhận ra Người là ai, và sau đó họ chẳng những thú nhận và tuyên xưng rằng "Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô" mà còn làm chứng cho người khác thấy chân lý chính yếu làm nên chính căn tính của Người và về Người ấy để cùng nhau "thấy vinh hiển của Người".

Thành phần tin nhận "Con Thiên Chúa", Đấng đã "hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) để trở nên "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian", như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm qua đã chứng nhận và giới thiệu với chung dân chúng, và chỉ có "Con Chiên Thiên Chúa" là chính "Con Thiên Chúa" ấy mới có thể xóa tội trần gian, mới có thể nhờ đó triệt hạ ngụy thần cùng quyền lực sự chết của chúng, như Thánh ký Gioan xác tín trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá hủy công việc của ma qủy".

Như thế, "vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" đây là gì, nếu không phải là các linh hồn được cứu độ, thành phần "đã được nhìn thấy vinh hiển của Người", đã chấp nhận ơn cứu chuộc của Người, và như hai môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay, đã mong muốn đến với Người, đã đáp ứng tác động thần linh của Người, đã ở với Người và đã nhận biết Người để có thể làm chứng về Người.


 

Ngày 5/1

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 3, 11-21

"Chúng ta đã được chuyển từ cõi chết đến cõi sống, vì chúng ta thương yêu anh em".

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, đây sứ điệp các con đã nghe từ ban đầu là chúng ta phải thương yêu nhau.

Không như Cain, người thuộc về ma qủy, nên đã giết em mình.

Nhưng tại sao nó đã giết em? Vì công việc nó làm là gian ác, còn công việc của em nó thì chính trực.

Các con đừng ngạc nhiên, nếu thế gian ghét các con.

Chúng ta biết rằng chúng ta đã được chuyển từ cõi chết đến cõi sống, vì chúng ta thương yêu anh em.

Ai không yêu thương, thì ở trong cõi chết.

Hễ ai ghét anh em mình đều là kẻ sát nhân, và các con biết rằng mọi kẻ sát nhân không có sự sống đời đời ở trong mình.

Do điều này mà chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa là chính Người đã thí mạng sống mình vì chúng ta, nên chúng ta cũng phải thí mạng sống mình cho anh em.

Nếu ai có của cải đời này mà thấy anh em mình túng thiếu, lại đóng cửa lòng mình đối với họ, thì làm sao tình yêu của Thiên Chúa ở trong người ấy được?

Các con thân mến, chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân thật.

Do đó chúng ta biết mình thuộc về sự thật, và sẽ được vững lòng trước mặt Chúa.

Vì nếu lòng chúng ta có khiển trách chúng ta, thì Thiên Chúa còn lớn hơn lòng chúng ta và Người thông biết mọi sự.

Các con thân mến, nếu lòng chúng ta không khiển trách, thì chúng ta tin tưởng nơi Thiên Chúa, và bất cứ điều gì chúng ta xin, thì chúng ta cũng được Người ban cho, vì chúng ta giữ giới răn Người và làm điều đẹp lòng Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 99,2,3, 4,5

Ðáp: Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa. (2a)

Xướng 1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.

2) Hãy biết rằng Thiên Chúa là Thượng Ðế, chính Ngài đã tạo tác thân ta và ta thuộc quyền sở hữu của Ngài. - Ðáp.

3) Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi, hãy vào trụ quan nhà Ngài với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui, hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Ngài. - Ðáp.

4) Vì Thiên Chúa, Ngài thiện hảo, lòng từ bi Ngài tồn tại muôn đời, và lòng trung tín còn tới muôn muôn thế hệ. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, Alleluia. - Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta, hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hòa đã tỏa xuống trên địa cầu. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 1,43-51

"Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu định đi Galilêa.

Người gặp Philipphê và nói với ông: "Hãy theo Ta".

Philipphê là người thành Bétsaiđa, quê quán của Anrê và Phêrô.

Philipphê gặp Nathanaen và nói với ông: "Ðấng đã được Moisen ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nazarét".

Nathanaen đáp: "Bởi Nazarét nào có cái chi hay?".

Philipphê nói: "Hãy đến mà xem".

Chúa Giêsu thấy Nathanaen đi tới mình, thì nói về ông: "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối".

Nathanaen đáp: "Sao Ngài biết tôi?"

Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi".

Nathanaen thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel".

Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: ta đã thấy ngươi dưới gốc cây vả, nên ngươi tin, ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa".

Và Người nói với ông: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người".

Ðó là Lời Chúa.


 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa


  Emmanuel....     


Theo chiều hướng "chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người" của những ngày trước Lễ Hiển Linh cũng như cho chính lễ Hiển Linh, hôm nay, ngày 5/1, Chúa Giêsu đã cho chàng Philiphê "được thấy vinh hiển của Người" bằng cách lên tiếng gọi chàng: "Hãy theo Tôi".

 

Chắc Philiphê này là một trong hai người môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã đến gặp Chúa Kitô, bởi thế khi chàng đến rủ bạn mình là Nathanael đến với Người thì đã khẳng định như môn đệ Anrê khẳng định với Simon anh của mình: "Ðấng đã được Moisen ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nazarét".

Cho dù không hào hứng cho lắm khi nghe thấy nơi xuất xứ "Nazarét" của Chúa Giêsu là nơi "nào có gì hay đâu", chàng Nathanael cũng nghe lời bạn "hãy đến mà xem", để rồi, sau khi được chính Chúa Giêsu tỏ mình ra cho chàng bằng cách cho chàng biết rằng Người đã biết chàng "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối" ngay trước khi chàng đến với Người: "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Chính vì thế, chàng Nathanael cũng đã "được thấy vinh hiển của Người", khi tuyên xưng cùng Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel".

Chính vì "Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel" như thế mà Người chẳng những vinh hiển nơi chính bản thân của Người với danh phận bẩm sinh là "Con Thiên Chúa", là "Vua Israel", mà còn được vinh hiển cả bề ngoài xứng với danh phận vô cùng cao cả của Người nữa, ở chỗ Người sẽ được các thần trời là loài có bản tính cao trọng hơn loài người, hầu cận và phụng sự, như chính Người đã hứa hẹn cho chàng Nathanael thấy trong tương lai: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người".

Thế nhưng, "Con Người" sẽ bất xứng với việc phụng sự của các thần trời nếu Người không tỏ vinh quang của Người ra đúng với bản chất là tình yêu vô cùng nhân hậu của Người, Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc nhân loại, như "Chiên Thiên Chúa xóa tội trần gian". Chính vì thế, vinh hiểm của Người không phải chỉ ở danh xưng, ở việc được phụng sự mà còn ở chính mạc khải thần linh của Người đúng như bản tính vô cùng trọn lành và thương xót của Người.

Đó là lý do trong Bài Đọc 1 Thánh ký Gioan đã chẳng những cho thấy vinh hiển của Thiên Chúa là thương yêu: "tình yêu của Thiên Chúa là ở chỗ chính Người đã thí mạng sống mình vì chúng ta" theo bản tính thần linh của Người, mà còn nhắc nhở thành phần "được thấy vinh hiển của Người", tức được thông phần vào sự sống thần linh của Người và với Người, tức "đã được chuyển từ cõi chết đến cõi sống, vì chúng ta thương yêu anh em", cũng phải sống động và tác hành như Người nữa: "Nên chúng ta cũng phải thí mạng sống mình cho anh em".

 

Yêu thương chẳng những là vinh hiển của Thiên Chúa theo bản tính thần linh của Người mà còn là chính sự sống thần linh của Người. Bởi thế, cho dù Kitô hữu có được lãnh nhận Phép Rửa, nghĩa là được thông phần vào bản tính thần linh của Người, sống sự sống thần linh của Người, với Người và như Người, mà nếu không yêu thương thì kể như vẫn ở trong sự chết, vẫn "như Cain, người thuộc về ma qủy, nên đã giết em mình.... Vì công việc nó làm là gian ác".

 

Thánh ký Gioan đã khẳng định về thành phần "như Cain" thế này: "Ai không yêu thương, thì ở trong cõi chết". Thậm chí, "ai ghét anh em mình (nghĩa là cho dù không sát hại thân xác của nhau nhưng chính lòng thù hằn giận ghét ấy tự nó đã phản lại với bản tính yêu thương là sự sống hiệp thông nên họ) đều là kẻ sát nhân, và các con biết rằng mọi kẻ sát nhân không có sự sống đời đời ở trong mình".



Ngày 6/1

 

Phụng Vụ Lời Chúa


(dành cho những nơi mà cử hành lễ Hiển Linh vào Chúa Nhật ngày 7 hoặc 8 tháng Giêng

tùy theo Đại Lễ Giáng Sinh 25/12 và Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1 rơi vào Thứ Bảy hay Chúa Nhật một/hai tuần trước)

 

Bài Ðọc I: 1 Ga 5,5-6.8-13

"Thánh Thần, nước và máu"

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông Ðồ.

Các con thân mến, ai là người chiến thắng thế gian, nêu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa?

Ðấng đã đến nhờ nước và máu, chính là Ðức Giêsu Kitô, không phải trong nước mà thôi, nhưng trong nước và máu nữa.

Có Thánh Thần làm chứng: Thánh Thần, nước và máu, cả ba chỉ là một.

Nếu chứng của Người đời mà chúng ta còn nhận lấy, thì chứng của Thiên Chúa còn mạnh hơn.

Vì đó là chứng của Thiên Chúa, chứng mạnh hơn là Người đã làm chứng về Con mình.

Ai tin kính Con Thiên Chúa, thì có chứng của Thiên Chúa nơi mình.

Còn ai không tin Thiên Chúa, thì cho Người là gian dối, vì kẻ ấy không tin nơi chứng mà Thiên Chúa đã làm chứng về Con mình.

Và chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống đó ở trong Con của Người.

Ai có Chúa Con, thì có sự sống, còn ai không có Chúa Con, thì cũng không có sự sống.

Ta viết các điều này cho các con, để các con biết rằng: Các con là những người tin vào danh Con Thiên Chúa, các con được sống đời đời.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 147, 12-13, 14-15, 19-20

Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. (12a)

Xướng 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa, Hãy ngợi khen Thiên Chúa ngươi, hỡi Sion, vì Người đã củng cố then chốt cửa thành ngươi, con cái ngươi được Người chúc phúc trong ngươi. - Ðáp.

2) Người sắp đặt bờ cõi ngươi trong thanh bình, cho ngươi hưởng no nê những tinh hoa lúa miến. Người đã sai Lời Người xuống mặt đất, và Lời Người đã mau mắn chạy đi. - Ðáp.

3) Người đã rao Lời Người cho Giacób, Lề Luật và giới răn người cho Israel. Người không làm như thế cho dân khác, không bày tỏ cho họ biết giới răn Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, Alleluia. Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 1, 6b-11

"Con là con yêu qúy của Cha, con đẹp lòng Cha mọi đàng".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy Gioan rao giảng rằng: "Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người.

Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần.

Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu từ Nazarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan.

Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình.

Và có tiếng từ trời: Con là con yêu quí của Cha, con đẹp lòng Cha mọi đàng.

Ðó là Lời Chúa.


 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

  Emmanuel....   


Bài Phúc Âm hôm nay là bài Phúc Âm của Thánh ký Marco, chứ không phải của Thánh ký Gioan như những ngày trước Lễ Hiến Linh từ 2-5/1, những bài Phúc Âm về việc Tiền Hô Gioan làm chứng về Chúa Kitô là Đấng đến sau ngài, khác với việc vị Tiền Hô làm ở các bài Phúc Âm trong Mùa Vọng để dọn đường cho Chúa Kitô.

 

Thế nhưng, nếu nơi nào mừng Lễ Hiển Linh vào Chúa Nhật thay vì chính ngày 6/1, thì những ngày sau đó, sau Lễ Hiển Linh mùng 6/1, ngày mùng 7 và mùng 8 trong năm 2017 theo chu kỳ Năm A này thì Giáo Hội sử dụng hai bài Phúc Âm của Chúa Nhật Năm B (của Thánh ký Marco cho Chúa Nhật thứ nhất thường niên về biến cố Chúa Giêsu nhận phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả) và Chúa Nhật Năm C (của Thánh ký Gioan cho Chúa Nhật 2 Thường Niên).

 

Nếu Lễ Hiển Linh là để tưởng niệm biết cố Chúa Kitô tỏ minh ra cho riêng vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả và Chúa Nhật Thứ Hai Thường Niên có bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu hóa nước lã thành rượu ngon để các môn đệ tiên khởi tin vào Ngưới, thì việc tỏ mình ra cho các thành phần nồng cốt này phải xẩy ra trước khi Người tỏ mình cho dân ngoại ở Lễ Hiển Linh.

 

Bởi thế, bài Phúc Âm của Thánh ký Marco hôm nay không chỉ liên quan đến biến cố Chúa Kitô chịu phép rửa (là những gì bề ngoài và hình thức) mà còn liên quan đến chính thiên chức và tư cách làm con của Chúa Kitô đối với Cha là Đấng đã sai Người. Thiên chức làm con của Người là ở chỗ "Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình". Và tư cách làm con của Người là ở chỗ tuân phục ý muốn của Cha và luôn làm theo ý Cha của mình: "Con là con yêu quí của Cha, con đẹp lòng Cha mọi đàng".

Chính Chúa Kitô tỏ vinh quang của Người ra khi lãnh nhận Phép Rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, và chính Thiên Chúa cũng phải lên tiếng công nhận Người là Con của Cha, một người con có đầy Thánh Thần của Cha, và ví thế, vì được đầy Thánh Thần của Cha mà Người đã có thể biết ý Cha muốn mình làm gì, muốn mình chẳng những chịu Phép Rửa Thống Hối của Tiền Hô Gioan mà còn chịu phép rửa bằng máu trên đồi Canvê nữa, nhờ đó Người mới có thể thông ban Thánh Thần là sự sống của Người cho các tông đồ sau khi sống lại từ trong kẻ chết (xem Gioan 20:22).

Đó là lý do Thánh ký Gioan đã cho thấy Chúa Kitô đã chứng thực mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, ở ba chứng từ duy nhất bất khả thiếu và bất khả phân ly đó là nước (lãnh nhận Phép Rừa), máu (chịu khổ nạn và tử giá) và Thánh Thần (phục sinh vinh hiển): "Đấng đã đến nhờ nước và máu, chính là Ðức Giêsu Kitô, không phải trong nước mà thôi, nhưng trong nước và máu nữa. Có Thánh Thần làm chứng: Thánh Thần, nước và máu, cả ba chỉ là một".

Chính vì Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa mà Người mới có đủ tư cách thần linh và khả năng siêu việt trong việc cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết bằng "máu" của Người, mà còn ban sự sống thần linh cho chúng ta nữa qua việc sống lại từ trong cõi chếrt của Người, đúng như Thánh ký Gioan nhắc đến trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống đó ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con, thì có sự sống, còn ai không có Chúa Con, thì cũng không có sự sống".


 


Ngày 7/1

 

Phụng Vụ Lời Chúa


(dành cho những nơi mà cử hành lễ Hiển Linh vào Chúa Nhật ngày 7 hoặc 8 tháng Giêng

y theo Đại Lễ Giáng Sinh 25/12 và Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1 rơi vào Thứ Bảy hay Chúa Nhật một/hai tuần trước)

 

Bài Ðọc I: 1 Ga 5, 14-21

"Chúa nhậm lời chúng ta kêu cầu".

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông Ðồ.

Các con thân mến, nầy là sự chúng ta tin tưởng nơi Chúa: là hễ chúng ta xin sự gì hợp ý Người, thì Người nhậm lời chúng ta.

Và chúng ta biết Người nghe nhận mọi điều chúng ta xin, vì chúng ta biết rằng chúng ta có kêu cầu Người.

Ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa tới sự chết, thì hãy cầu xin và Người sẽ ban sự sống cho kẻ phạm thứ tội đó.

Có thứ tội đưa đến sự chết, tôi không bảo ai cầu xin cho người phạm tội ấy đâu.

Mọi sự gian tà đều là tội, và có thứ tội đưa đến sự chết.

Chúng ta biết rằng ai sinh ra bởi Thiên Chúa, thì không phạm tội, chính sự sinh ra bởi Thiên Chúa gìn giữ họ và ma quỷ không làm gì được họ.

Chúng ta biết rằng chúng ta bởi Thiên Chúa mà ra, và toàn thể thế gian đều phục lụy ma quỷ.

Và chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và đã ban cho chúng ta ơn thông hiểu, để chúng ta nhận biết Chúa chân thật, và được ở trong Con chân thật của Người.

Chính Ngài là Thiên Chúa chân thật và là sự sống đời đời.

Các con thân mến, hãy giữ mình xa các tà thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 149,1-2, 3-4, 5 và 6a và 9b

Ðáp: Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Người. (4a)

Xướng 1) Hãy ca ngợi Chúa bằng một khúc ca mới, hãy vang lời ca tụng Người giữa đoàn các thánh. Hỡi Israel, hãy vui mừng vì Ðấng tạo thành mình, con cái Sion, hãy nhảy mừng vì nhà vua của mình. - Ðáp.

2) Hãy ca tụng Người trong vũ điệu, hát ca vịnh mừng Người theo nhịp trống cung đàn. Vì Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Người, ban chiến thắng huy hoàng cho kẻ khiêm tốn. - Ðáp.

3) Thần dân Người sung sướng hân hoan, đồng ca hát cả trên giường nghỉ. Miệng họ cao rao sự cao trọng của Thiên Chúa, vinh dự thay cho các thánh của Người. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, Alleluia. Thủa xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà nói với cha ông, nhưng đến thời sau hết, Người đã nói nơi Chúa Con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 2, 1-12

"Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.

Khi ấy có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa.

Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó.

Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới.

Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi".

Chúa Giêsu nói với mẹ: "Hỡi bà, tôi với bà có can chi đâu, giờ tôi chưa đến".

Mẹ Người nói với những người giúp việc: "Hễ Người bảo gì, phải làm theo".

Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước.

Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy đổ nước đầy các chum".

Họ đổ đầy tới miệng.

Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc", và họ đã đem đi.

Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: :Ai cũng đều đem rượu ngon ra trước, khi khách đã ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon cho tới giờ này".

Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.

Ðó là Lời Chúa.


 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa


  Emmanuel....     


 

Đề tài "chúng ta đã đưọc nhìn thấy vinh quang của Người" như trong các bài Phúc Âm trước Lễ Hiển Linh cho thấy vẫn được kéo dài tới hôm nay. Nếu Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được thấy vinh quang của Người khi Thánh Thần đậu xuống trên Người và đã tuyên bố Ngài là "Chiên Thiên Chúa" trong bài Phúc Âm ngày 3/1 và là "Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn", như Bài Phúc Âm ngày 5/1 cho thấy, và nếu các môn đệ của ông đến mà xem nên cũng đã thấy được vinh hiển của Người và đã tuyên bố rằng "chúng ta đã gặp được Đức Kitô", như bài Phúc Âm ngày 4/1 và 5/1, thì bài Phúc Âm hôm nay, các môn đệ đầu tiên của Người cũng được thấy vinh hiển của Người qua việc Người "thực hiện dấu lạ đầu tiên ở Cana Xứ Galilêa. Nhờ đó Người đã tỏ vinh hiển của Người và các môn đệ đã tin vào Người".

 

Vấn đề được đặt ra ở đây là ai là thành phần môn đệ tiên khởi của Người bấy giờ để nhìn thấy vinh hiển của Người? Vấn đề này có thể được giải quyết ở thời điểm xẩy ra tiệc cưới Cana, một thời điểm đã được Thánh Ký Gioan ghi rõ ngay ở đầu bài Phúc Âm là "vào ngày thứ ba". Và nếu lưu ý tiến trình của các bài Phúc Âm chúng ta sẽ thấy Thánh ký Gioan sử dụng cụm từ "ngày hôm sau - the next day" 3 lần trước biến cố Cana này.

 

"Ngày hôm sau" đầu tiên là lúc Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, sau ngày làm phép rửa cho Chúa Giêsu, khi thấy "Chúa Giêsu tiến đến với mình", ngài đã giới thiệu với chung dân chúng bấy giờ về Người. "Ngày hôm sau" thứ hai là khi thấy Chúa Giêsu đi ngang qua thì Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Người với các môn đệ của ông, khiến hai trong các môn đệ của ông "đến mà xem nơi Người ở và ở lại với Người". "Ngày hôm sau" thứ ba xẩy ra vào lúc Chúa Giêsu lên tiếng gọi Philiphê. Phải "ngày hôm sau" thứ ba này chính là "ngày thứ ba" xẩy ra ở tiệc cưới Cana, vì Thánh Ký Gioan đã ghi nhận về "ngày hôm sau" thứ ba này như sau: "Người muốn đi Galilê (là nơi xẩy ra tiệc cưới ở Cana), nhưng trước hết Người đã đến với Philiphê mà nói cùng chàng rằng: 'Hãy theo Tôi'".

 

Như thế, chúng ta có thể suy ra rằng "ngày hôm sau" chính là "ngày thứ ba" Chúa Giêsu kêu gọi Philiphê, để rồi qua Philiphê gọi cả Nathanael, cũng như ngày hôm trước Người đã gọi Anrê và qua Anrê đã gọi Simon vậy. Có thể Người đã gọi Philiphê và Nathanael trước khi lên đường về Galilêa hay chăng. Và như thế có thể suy ra rằng bữa tiệc cưới Cana có thể đã diễn ra vào buổi tối.

 

Vấn đề thứ hai cần được đặt ra ở đây là nếu 4 người môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, như bài Phúc Âm ngày 4/1 và 5/1 đều đã tỏ ra tin vào Người và tuyên bố về Người nên mới đi theo Người thì tại sao Người còn cần phải thực hiện dấu lạ để các các ông tin vào Người nữa làm chi? Thật ra, để chứng tỏ đức tin thì cần phải có thử thách, và khi thử thách xẩy ra mới biết được ai thật sự tin tưởng và tin tưởng một cách sâu xa, bất khuất. Trong cuộc sống của các tông đồ cũng thể, như Phúc Âm cho thấy, cho dù tuyên xưng dó, nhất là lời tuyên xứng của vị trưởng tông đồ đoàn là Phêrô: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), thế mà vẫn vấp ngã như thường, vẫn phản bội Thày mình như tông đồ Giuđa Íchca, vẫn trắng trợn chối bỏ Thày v.v.

 

Thế nhưng, để Chúa Giêsu có thể tỏ mình ra cho các môn đệ tiên khởi của Người ở tiệc cưới Cana, cần phải có vai trò môi giới của Mẹ Maria, như thể Chúa Giêsu muốn giới thiệu Mẹ của Người với các môn đệ là thành phần lần đầu tiên mới gặp được Mẹ, một tạo vật đệ nhất về ân sủng, một tạo vật diễm phúc vì đã tin tưởng (xem Luca 1:45), như trong chính tiệc cưới Cana đã cho thấy.

 

Không ai biết Chúa bằng Mẹ. Bởi thế, Mẹ đã tác hành theo niềm tin vào Chúa của Mẹ. Mẹ biết Chúa không thể nào không ra tay cứu vớt con người khốn khổ nếu họ tin vào Ngài. Bởi thế, Mẹ đã thực hiện vai trò môi giới của Mẹ bằng cách, trước hết Mẹ đến trình bày với Con Mẹ về tình trạng "họ hết rượu" rồi của tiệc cưới, sau đó, cho dù Mẹ có nghe thấy lời Con Mẹ nói như từ chối lời Mẹ nhắc nhở, Mẹ cũng vẫn đến với nhóm phục dịch để xin họ "hãy làm theo những gì Người bảo", để rồi nếu Chúa là Đấng vô cùng viên mãn bao giờ cũng muốn ban phát ơn lành cho con người khốn cùng thì giờ của Người là bất cứ lúc nào con người ready - sẵn sàng để Người có thể tỏ mình ra cho họ và qua họ cho cộng đồng của họ.

 

Việc Mẹ Maria làm môi giới ở tiệc cưới Cana cho chúng ta thấy ứng nghiệm những gì Thánh ký Gioan viết trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Các con thân mến, nầy là sự chúng ta tin tưởng nơi Chúa: là hễ chúng ta xin sự gì hợp ý Người, thì Người nhậm lời chúng ta... Và chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và đã ban cho chúng ta ơn thông hiểu, để chúng ta nhận biết Chúa chân thật, và được ở trong Con chân thật của Người".

 

 

 


 Lễ Hiển Linh Ngày 6/1 hay Chúa Nhật trước ngày 6/1 hoặc Chúa Nhật 7/1 hay 8/1 sau Ngày 6/1


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 60, 1-6

"Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.

Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.

Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.

Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13

Ðáp: Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c. 11b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.

2) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.

3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. - Ðáp.

4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp. 

Bài Ðọc II: Ep 3, 2-3a. 5-6

"Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa. 

Alleluia: Mt 2, 2

Alleluia, alleluia! - Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đã đến để triều bái Người. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mt 2, 1-12

"Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".

Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.

Ðó là lời Chúa. 



Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Emmanuel Đông Phương 

 

  

Hôm nay, Chúa Nhật sau Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, tức sau Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1, ở Hoa Kỳ cũng như ở hầu như các giáo phận trên thế giới, vì lý do mục vụ cho nhiều giáo dân có thể tham dự, đều mừng Lễ Hiển Linh, tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh, vào Chúa Nhật này.


Thật vậy, Lễ Hiển Linh là tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh là vì nếu "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Giona 1:14) như một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng Thiên Sai của dân Do Thái đúng như đã được tiên báo trong lịch sử cứu độ của họ, và vì thế Người cũng là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại, như đã được Thiên Chúa hứa ban ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15), thì sự kiện ba chiêm vương gia đông phương theo ngôi sao lạ tìm đến với Người sau khi Người giáng sinh đã bắt đầu hiện thực dự án cứu độ của Thiên Chúa. 


Đó là một mầu nhiệm không phải ai trong dân Do Thái cũng có thể biết vào thời ấy, một dân tộc vốn coi thường dân ngoại, cho dân ngoại là những loại người tội lỗi xấu xa nhơ nhớp bởi họ tôn thờ những tà thần và ngẫu tượng nhân tạo giả trá, chứ không phải là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất như dân Do Thái, cho dù Thánh Kinh và lịch sử cứu độ của dân Do Thái liên lỉ ám chỉ đến mầu nhiệm cứu độ phổ quát như vậy. Bởi thế, trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, trong Thư gửi Giáo đoàn Epheso mới dám nói mà không sợ kiêu ngạo rằng: 


"Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần".


Phải, mầu nhiệm ấy là gì, mầu nhiệm được Thánh Thần chẳng những tỏ cho riêng vị tông đồ dân ngoại này mà còn tỏ cho các vị tông đồ của Tân Ước và các vị tiên tri trong Cựu Ước nữa, thành phần được sai đi rao giảng tin mừng cứu độ, nếu không phải, như đã cảm nhận và cũng đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô xác định trong Bài Đọc 2 hôm nay: "Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô".


Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Ngôn Sứ Isaia cũng đã nói tiên tri về ơn gọi và vai trò được tuyển chọn của dân Do Thái theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, một dự án cứu độ mà nhờ họ và qua họ Thiên Chúa muốn tỏ mình ra và ban ơn cứu độ cho chung nhân loại:


"Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi".


Chưa hết, cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị ngôn sứ này còn nói rõ hơn nữa về mầu nhiệm cứu độ phổ quát này, như thể ám chỉ đến chính sự kiện ba chiêm vương gia đại diện cho dân ngoại tìm đến bái thờ Hài Nhi Giêsu, qua các hình ảnh ám chỉ như sau:


"Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông. Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa".


Trước mầu nhiệm cứu độ phổ quát tuyệt vời ấy, Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay cũng không thể nào không hân hoan vang tiếng chúc tụng ngợi khen rằng: "Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người".


Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay là bài phúc âm duy nhất trong cả 4 phúc âm về biến cố ba chiêm vương gia đông phương tìm "đến để triều bái Người". Thế nhưng, việc tìm kiếm của ba vị chiêm vương gia được bắt đầu từ kiến thức tự nhiên thông thạo của họ về trời đất cùng với lòng khao khát thần linh và tìm chân lý của họ, tự bản chất của những khả năng nhân bản này, tuy tốt lành và cần thiết, vẫn chưa đủ để gặp được Thiên Chúa, nếu không được chính Ngài tỏ mình ra cho, qua Thánh Kinh của người Do Thái. 


Bởi thế, mới xẩy ra sự kiện ngôi sao dẫn đường của họ và cho họ, trước khi dẫn họ đến chính chỗ "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1;14) thì đã biến mất ở ngay giáo đô Do Thái giáo là Thành Thánh Giêrusalem, nơi duy nhất có thể cho họ biết được đích xác đích điểm và đối tượng thần linh mà họ đang tìm kiếmĐó là lý do phần đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay mới có đoạn sau đây


"Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: 'Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người'. Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: 'Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta'".


Thật vậy, sự kiện kiến thức tự nhiên của ba chiêm vương gia này nhận biết các điềm trời đất để tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Đấng Tối Cao của mình chỉ đạt tới một mức độ giới hạn nào đó thôi. Muốn biết một cách đích xác hơn, Thiên Chúa là ai và ở đâu, như thế nào, chính Thiên Chúa cần phải tự tỏ mình ra cho con người, như Ngài đã liên tục tỏ mình ra nơi lịch sử của dân Do Thái, qua các biến cố của họ cũng như qua các vị tiên tri được Ngài sai đến với họ. Nhờ mạc khải thần linh của Thiên Chúa, như là những dấu mốc hay cột mốc chính yếu bất khả thiếu, con người mới có thể gặp được Ngài, như ba chiêm vương gia trong bài Phúc Âm hôm nay, nhờ chỉ dẫn của Thánh Kinh, như Thánh ký Mathêu ghi lại như sau:


"Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: 'Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người'. Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình".


Đúng thế, chỉ sau khi được Thánh Kinh chỉ dẫn, ba chiêm vương gia này mới thấy lại ngôi sao lạ, nhờ đó họ đến được tận nơi mà họ muốn tới, hay đúng hơn nơi mà họ được dẫn tới, vì ở nơi đó là một ngôi "nhà" chứ không phải là một dinh thự, chỉ có "Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người", chứ không phải một đức vua uy nghi lẫm liệt ngự trên ngai vàng cùng với hoàng thái hậu bên cạnh. 


Ở đây không thấy nói tới Thánh Giuse. Chắc có thể bấy giờ, ngay lúc ba chiêm vương gia này bất ngờ tiến vào nhà thì ngài đi đâu vắng hay bận làm gì đó. Nhưng hình ảnh Mẹ Maria bên cạnh Hài Nhi Giêsu trước mặt ba chiêm vương gia này đã chẳng những cho thấy Lễ Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội có lý để mà sắp xếp (vào ngày 1/1) trước Lễ Hiển Linh (6/1), mà còn ám chỉ công cuộc cứu chuộc trần gian, bao gồm cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, được thực hiện bởi chính Người Con Thần Linh này cùng với sự đồng công cộng tác bất khả thiếu của Người Mẹ.


Tuy chỉ nhìn thấy "Hài Nhi và Mẹ Người" trong một ngôi "nhà" tầm thường, chẳng có gì là uy nghi cao cả, nguy nga lộng lẫy, hùng hậu triều thần v.v. như ở các cung đình khác trên thế gian này, ba chiêm vương gia vẫn tin tưởng Hài Nhi đó chính là "vua Do Thái mới sinh", Đấng mà họ đã bất chấp ngàn dặm xa xôi vất vả (có thể bất chấp cả những lời nhạo báng chê bai của những ai thân quen biết được ý định lên đường mù mịt mơ hồ của họ) để đến "bái thờ" với tất cả lòng thành kính và tin tưởng của mình: "khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược".


Ba chiêm vương gia đông phương này, so với thành phần mục đồng Do Thái cũng đã đến kính viếng Hài Nhi Giêsu trước đó trong chính Đêm Giáng Sinh, là thành phần thuộc hàng trí thức khôn ngoan và vương giả giầu có, mang theo họ những gì quí báu nhất để có thể xứng đáng bài thờ Hài Vương Giêsu, những món quà khác nhau và quí báu nhất của họ là "vàng, nhũ hương và mộc dược", ám chỉ 3 vai trò của Đấng Thiên Sai Cứu Thế là vương đế (được tiêu biểu nơi "vàng"), tư tế (được tiêu biểu nơi "nhũ hương") và ngôn sứ (được tiêu biểu nơi "mộc dược"). 


Ba món quà quí giá này còn tiêu biểu cho các nền văn hóa đa dạng của dân ngoại, tuy cao quí và tốt đẹp, nhưng vẫn cần phải được qui về Chúa Kitô là Đấng qui tụ lại hết mọi sự (Epheso 1:10) để được thăng hoa và thánh hóa "trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24). Ba món quà này, nếu tiêu biểu cho các nền văn hóa đa diện của các dân ngoại như thế, thì các nền văn hóa tiêu biểu nhất thời bấy giờ bao gồm 3 thứ văn hóa chính yếu khác nhau là: đạo giáo Đông phương (vàng), triết lý Hy Lạp (nhũ hương) và Luật pháp Rôma (mộc dược). 

 

 

Thánh Thi Giờ Kinh Phụng Vụ Ban Mai Lễ Hiển Linh 

 

Hỡi các bạn, người đi tìm Chúa,

Ngước mắt lên thẳng ngó trời cao,

Kìa xem điềm lạ ánh sao,

Hào quang rộng tỏa khắp bầu không trung.

 

Ngôi sao ấy ngời trong vẻ đẹp,

Ánh trời hồng nối kết trăng thanh,

Báo tin hội lớn hình thành,

Ki-tô Cứu Chúa mặc thân xác người.

 

Vịnh Ba-tư chân trời ngút mắt,

Bóng tà huy vừa tắt non đoài,

Trán cao biển rộng nhíu mày,

Ba người hiền sĩ tính ngày vua sinh.

 

Vị vua nào quyền linh cao cả,

Khiến bầu trời, run sợ oai nghiêm,

Muôn thiên thể chợt im lìm,

Thinh không ánh sáng dịu mềm nhường tơ?

 

Và điềm lạ chúng ta đương thấy,

Dấu miên trường trải mấy thời gian,

Trước hỗn mang trước vũ hoàn,

Cao siêu vô lượng vượt tầm trí khôn.

 

Ðây Thánh Chúa ngàn muôn dân nước,

Ðấng Ích-diên những ước cùng mong

Như lời Thượng Ðế hứa cùng

Áp-ram với cả giống dòng mai sau.

 

Quỳ dâng Chúa ngàn câu cảm tạ,

Ôi Giê-su, Ngài đã hiển linh,

Thánh Thần, Thánh Phụ uy danh,

Cùng xin chúc tụng hiển vinh muôn đời.


Lời nguyện các Giờ Kinh Phụng Vụ Lễ Hiển Linh

Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.


 

 

 

ĐTC Phanxicô: Lễ Hiển Linh - Giảng Lễ Thứ Bảy 6/1/2018

"Chúng ta hãy bắt chước các vị Vương Sĩ: hãy ngước nhìn lên cao, hãy lên đường và hãy nhưng không trao ban các tặng phẩm của chúng ta".

Có 3 hành động của Các Vị Vương Sĩ giúp cuộc hành trình của chúng ta đến với Chúa, Đấng hôm nay tỏ mình ra như ánh sáng và ơn cứu độ cho muôn dân. Các Vị Vương Sĩ này nhìn thấy ngôi sao, họ lên đường và họ mang theo các tặng vật. 

Nhìn thấy ngôi sao. Đó là điểm bắt đầu. Thế nhưng, chúng ta có thể hỏi là tại sao chỉ có các vị Vương Sĩ này thấy được ngôi sao? Có lẽ vì có ít người ngước mắt lên trời. Chúng ta thường thực hiện việc làm bằng cách nhìn xuống đất: chỉ cần có sức khỏe, có chút ít tiền bạc và có một chút vui chơi là đủ. Tôi nghĩ không biết chúng ta có còn biết nhìn lên trời hay chăng. Chúng ta có biết ước mơ, biết trông ngóng Thiên Chúa, biết mong đợi những gì mới mẻ Ngài thực hiện chăng, hay chúng ta để mình bị đời cuốn trôi, như các cành cây khô trước gió thổi vậy? Các vị Vương Sĩ không hài lòng với những gì có được chỉ mang tính cách trôi nổi. Họ đã hiểu được rằng để sống thực sự, chúng ta cần một đích nhắm cao vời và chúng ta cần phải biết nhìn lên.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần hỏi tại sao, trong số tất cả những ai nhìn lên trời, rất nhiều người khác không theo ngôi sao ấy, "ngôi sao của Người" (Mathêu 2:2). Có lẽ là vì ngôi sao này không bắt mắt (not eye-catching), không sáng hơn các vì tinh tú khác. Đó là một ngôi sao - Phúc Âm nói với chúng ta - rằng các vị Vương Sĩ đã thấy "mọc lên" (2:9). Ngôi sao của Chúa Giêsu không chói lọi hay áp đảo mà là mời gọi một cách dịu dàng. Chúng ta có thể tự hỏi đâu là ngôi sao chúng ta đã chọn để theo đuổi trong đời sống của mình. Một số vì tinh tú sáng ngời nhưng không soi đường chỉ lối. Bởi vậy nó chỉ liên quan đến những gì là thành đạt, là tiền bạc, là nghề nghiệp, là vinh dự và là khoái lạc khi những thứ y làm nên đời sống của chúng ta. Chúng là những ngôi sao băng (meteors): chúng lóe lên trong chốc lát thế rồi vụt tắt và tan biến. Chúng là những ngôi sao bất chợt làm lạc hướng hơn là dẫn lối. Tuy nhiên, ngôi sao của Chúa không bao giờ lại rạng ngời áp đảo, nhưng lúc nào cũng có đó, hằng dịu dàng: nó dẫn dắt anh chị em trong cuộc đời và đồng hành với anh chị em. Nó không hứa hẹn những thứ phần thưởng vật chất, mà bảo toàn bình an và ban tặng, như với các vị Vương Sĩ, "niềm vui dạt dào trọng đại" (2:10). Thế nhưng nó cũng bảo chúng ta phải lên đường nữa.

Lên đường, điều thứ hai được các vị Vương Sĩ làm, là những gì thiết yếu nếu chúng ta cần phải tìm gặp Chúa Giêsu. Ngôi sao của Người đòi phải dứt khoát thực hiện cuộc hành trình và không ngừng tiến bước. Nó đòi chúng ta không bị ràng buộc bởi các thứ gánh vác vô bổ và những thêm thắt bất cần chỉ ngăn đường cản lối, và hãy chấp nhận những chướng ngại bất ngờ dọc theo tấm bản đồ cuộc sống. Chúa Giêsu để cho Người được gặp thấy bởi những ai tìm kiếm Người, thế nhưng để tìm gặp Người chúng ta cần phải đứng lên đi, chứ không ngồi đâu đó mà là dám liều thân, chứ không đứng yên, mà là lên đường. Chúa Giêsu thực hiện những đòi hỏi: Người nói với những ai tìm kiếm Người hãy bỏ lại những gì là tiện nghi thoải mái cùng với những gì là ấm áp an toàn nơi gia đình và nhà cửa. Việc theo Chúa Giêsu không phải là một thứ nghi thức xã giao cần phải tuân giữ, mà là một cuộc hành trình cần phải thực hiện. Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát dân của Ngài trong cuộc xuất hành và đã kêu gọi các dân tộc mới theo ngôi sao của mình, luôn ban tự do và niềm vui chỉ ở trong cuộc hành trình mà thôi. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn gặp thấy Chúa Giêsu, chúng ta cần phải thắng vượt nỗi sợ hãi dám liều mình của chúng ta, thắng vượt cái khoái thú bản thân và thắng vượt việc chúng ta bất cần đến điều gì nữa cho đời sống. Chúng ta cần phải liều mình chỉ để được gặp gỡ một Con Trẻ. Thế nhưng, những cái liều ấy là nỗ lực hết sức xứng đáng, vì trong việc tìm gặp Con Trẻ này, trong việc khám phá thấy niềm êm ái dịu dàng và tình yêu thương của Người, chúng ta mới tái khám phá thấy chính bản thân mình.

Việc lên đường không phải là chuyện dễ. Phúc Âm cho chúng ta thấy điều này bằng một thứ phối trí các nhân vật. Nào là một Hêrôđê, hoảng sợ trước việc hạ sinh của một vị vua đe dọa đến quyền lực của ông. Bởi vậy ông triệu tập các phiên họp và sai người đi thu thập tin tức, thế mà chính ông lại không nhúc nhích gì; ông vẫn cứ giam mình nơi lâu đài của mình. Thậm chí "tất cả Giêrusalem" (câu 3) đều sợ hãi: sợ hãi về những điều mới lạ đang được Thiên Chúa thực hiện. Họ muốn hết mọi sự vẫn cứ thế thôi - tức là cứ theo cách thức bình thường - không ai có can đảm để lìa bỏ. Khuynh hướng của các vị tư tế và luật sĩ mới càng quái dị hơn nữa, ở chỗ, họ biết đich xác nơi chốn đ nói cho Hêrôđê biết, trích dẫn lời tên tri xưa. Họ biết đấy, nhưng chính họ lại không đến Bêlem. Khuynh hướng của họ là khuynh hướng của những ai thường là các tín hữu: họ có thể nói nhiều về đức tin mà họ biết rất rõ, thế nhưng họ lại không dám liều mình cho Chúa. Họ nói, nhưng họ không cầu nguyện; họ than trách, nhưng lại không hành thiện gì hết. Các vị Vương Sĩ, trái lại, nói ít hành trình nhiều. Không biết về các chân lý đức tin, họ vẫn đầy lòng mong ngóng và lên đường. Bởi vậy mà Phúc Âm đã nói với chúng ta rằng họ "đã đến bái thờ Người" (câu 2); "họ lên đường; họ bước vào và phục xuống tôn thờ Người; họ trở về" (các câu 9,11,12). Họ cứ luôn di chuyển.

Mang theo các tặng vật. Khi đến với Chúa Giêsu sau một cuộc hành trình dài, các vị Vương Sĩ thực hiện như Người làm, ở chỗ họ mang theo các tặng vật. Chúa Giêsu ở đó để cống hiến sự sống của Người; họ hiến dâng cho Người các tặng phẩm quí giá của họ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Bài Phúc Âm trở nên thực hữu khi cuộc hành trình cuc sống được kết thúc bằng việc trao ban. Trao ban một cách nhưng không, vì Chúa, mà không mong được đền đáp: đó là một dấu hiệu chắc chắn chứng tỏ chúng ta đã gặp được Chúa Giêsu. Vì Người phán: "Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy trao ban nhưng không" (Mathêu 10:8). Việc hành thiện mà không tính toán, ngay cả khi không được yêu cầu, ngay cả khi anh chị em không kiếm được gì từ đó, ngay cả khi nó là những gì khó chịu. Đó là những gì Thiên Chúa muốn. Ngài, Đấng đã trở thành nhỏ mọn vì chúng ta, xin chúng ta hãy cống hiến một điều gì đó cho người anh chị em hèn môn nht của Người. Họ là ai? Họ là những người chẳng có gì để đền đáp, họ là thành phần túng bấn, thành phần đói khổ, thành phần khách lạ, thành phần tù nhân, thành phần nghéo khổ (xem Mathêu 25:31-46). Chúng ta cống hiến một món quà hài lòng Chúa Giêsu khi chúng ta chăm sóc cho một người bệnh, chúng ta bỏ giờ ra với một con người khó tính, chúng ta giúp đáp người đang cần cứu trợ, hay tha thứ cho những ai làm chúng ta nhức nhối. Đó là những tặng ân được trao ban cách nhưng không, những việc không thể nào thiếu vắng trong cuộc đời ca Kitô hữu. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng nếu chúng ta chỉ yêu thương những ai thương yêu chúng ta thì chúng ta làm như dân ngoại làm vậy thôi (xem Mathêu 5:46-47). Hôm nay, chúng ta hãy nhìn vào bàn tay của mình, quá thường trống rỗng yêu thương, và chúng ta cố gằng nghĩ về một tặng vật nhưng không nào đó chúng ta có thể cống hiến mà không mong lấy lại gì. Điều ấy sẽ làm hài lòng Chúa. Chúng ta hãy hỏi Người: "Lạy Chúa, xin cho con biết tái khám phá thấy niềm vui của việc trao ban".

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy bắt chước các vị Vương Sĩ: hãy ngước nhìn lên cao, hãy lên đường và hãy nhưng không trao ban các tặng phẩm của chúng ta.

http://www.vaticannews.va/en/pope/news/2018-01/pope-francis-epiphany-mass-homily-full-text-6-january0.html

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề cùng với những chỗ tự ý nhấn mạnh bằng mầu


ĐTC Phanxicô: Lễ Hiển Linh Huấn Từ Truyền Tin Thứ Bảy 6/1/2018

"Thái độ vị kỷ có thể dẫn chúng ta đến chỗ coi việc xuất hiện của Chúa Giêsu trong đời sống của chúng ta là một thứ đe dọa... khuynh hướng dửng dưng lãnh đạm bao giờ cũng có đó. Ngay cả khi chúng ta biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta vẫn thích sống như không có Người..."


Xin chào anh chị em thân mến!

Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Linh, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy 3 thái độ trong việc đón nhận sự xuất hiện của Chúa Giêsu và sự tỏ mình ra của Người cho thế giới, đó là thái độ cẩn thận tìm kiếm, thái độ dửng dưng lãnh đạm, thái độ lo âu sợ hãi.

Các vị Vương Sĩ không lưỡng lự trong việc lên đường tìm kiếm Đấng Thiên Sai. Khi họ tiến đến Giêrusalem, họ tìm hỏi: "Vương nhi của người Do Thái ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người mọc lên và đã đến để bái thờ Người". Họ đã thực hiện một cuộc hành trình dài và lúc ấy họ thực hiện một cuôc tìm kiếm thận trọng để có thể khám phá ra nơi ở của vị Vua mới sinh. Ở Giêrusalem, họ tìm đến với Vua Hêrôđê, nhân vật thăm dò các vị trưởng tế và luật sĩ để biết về nơi hạ sinh của Đấng Thiên Sai.

Việc cẩn thận tìm kiếm này của các Vị Vương Sĩ trái ngược với thái dộ dửng dưng lãnh đạm của những vị thượng tế và luật sĩ. Thành phần này biết Thánh Kinh và có thể cống hiến câu trả lời chính xác liên quan đến nơi chốn hạ sinh của Người: "Ở Bêlem Xứ Giuđêa, vì đó là những gì đã được tiên tri ghi chép", thế nhưng họ không thèm đi đến viếng thăm Đấng Thiên Sai. Bêlem chỉ cách có mấy cây số thôi, thế mà họ cũng chẳng nhúc nhích động đậy gì.

Lại càng tiêu cực hơn nữa thái độ của Hêrôđê: ông ta sợ rằng Con Trẻ này sẽ cướp mất quyền lực của mình. Ông gọi các vị Vương Sĩ mà bảo họ nói với ông khi nào ngôi sao xuất hiện thì ông ta để họ đi mà nói: "Hãy đi tìm gặp tất cả những gì về con trẻ này, khi các khanh đã gặp được con trẻ ấy thì cho tôi biết, để tôi cũng đi mà bái thờ ngài". Thực ra Hêrôđê muốn biết con trẻ ở đâu không phải để đến bái thờ mà là để diệt trừ Người, vì ông coi Người là đối phương. Đó, cái sợ hãi là những gì gây ra giả hình. Những kẻ giả hình đều như thế cả, vì họ cảm thấy sợ hãi trong cõi lòng của họ. 

Ba thái độ chúng ta thấy trong bài Phúc Âm này là thái độ cẩn thận tìm kiếm, thái độ dửng dưng lãnh đạm, và thái độ lo âu sợ hãi. Chúng ta cần phải chọn một trong ba thái độ này.

Thái độ vị kỷ có thể dẫn chúng ta đến chỗ coi việc xuất hiện của Chúa Giêsu trong đời sống của chúng ta là một thứ đe dọa. Bởi vậy chúng ta cố gắng dập tắt hay bịt lại sứ điệp của Chúa Giêsu. Khi chúng ta theo đuổi các thứ tham vọng trần gian, những chiều hướng thoải mái nhất, những bản năng xấu xa, thì chúng ta coi Chúa Giêsu như là một chướng ngại vật.

Mặt khác, khuynh hướng dửng dưng lãnh đạm bao giờ cũng có đó. Ngay cả khi chúng ta biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta vẫn thích sống như không có Người, ở chỗ, thay vì tác hành một cách gắn bó với đức tin Kitô giáo thì chúng ta lại theo các qui luật của trần gian, những thứ qui luật có khuynh hướng làm thỏa mãn cái bản năng cao ngạo của chúng ta, cái khát vọng quyền lực và tiền tài của chúng ta.

Trái lại, chúng ta được kêu gọi theo gương của các Vị Vương Sĩ, đó là cẩn thận trong việc chúng ta tìm kiếm, sẵn sàng lên đường để gặp gỡ Chúa Giêsu trong đời sống của chúng ta. Việc tìm kiếm Người để tôn thờ Người, để nhận biết rằng Người là Chúa, Đấng cho mình là đường lối chân thật để theo. Nếu chúng ta có được thái độ này thì Chúa Giêsu thực sự cứu độ chúng ta, và chúng ta có thể sống một cuộc đời tuyệt vời, chúng ta có thể tăng trưởng đức tin, đức cậy và đức mến đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh chị em của chúng ta.

Chúng ta hãy nguyện xin Rất Thánh Maria là ngôi sao cho cuộc hành trình của nhân loại trong thời gian chuyển cầu cho chúng ta. Với sự trợ giúp từ mẫu của Mẹ, chớ gì hết mọi người gặp thấy Chúa Kitô là Ánh Sáng Chân Lý, và chớ gì thế giới tiến bước theo đường lối của công lý và hòa bình.

https://zenit.org/articles/angelus-on-the-feast-of-the-epiphany-2/

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề cùng với những chỗ tự ý nhấn mạnh bằng mầu


 

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ: GIẢNG LỄ BA VUA NGÀY THỨ SÁU MÙNG 6/1/2017

 

 

"Ba Vua đã có thể tôn thờ, vì họ đã can đảm lên đường. Và khi họ quì xuống trước một con trẻ nhỏ bé, nghèo hèn và mếm yếu, một Con Trẻ không được trông mong và không được biết đến, họ đã khám phá ra vinh quang của Thiên Chúa".

"Con Trẻ là vua dân Do Thái sinh ra ở đâu? Vì chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người ở Đông phưong và đã đến để tôn thờ Người" (Mathêu 2"2)

Căn cứ vào những lời này thì Ba Vua, tù xa đến, cho chúng ta thấy lý do về cuộc hành trình xa xôi lâu dài của họ: họ đến để tôn thờ Vị Vua mới sinh. Nhìn ngắm và tôn thờ. Hai tác động này là hai tác động nổi bật trong trình thuật Phúc Âm này. Chúng tôi đã thấy và chúng tôi muốn tôn thờ.

Những con người này đã thấy một ngôi sao làm cho họ lên đường. Việc khám phá thấy một điều bất thường ở trên trời đã khơi động lên cả một chuỗi các biến cố. Ngôi sao này không chỉ chiếu sáng cho họ mà thôi, hay họ có di truyền thể (DNA) đặc biệt để có thể thấy được ngôi sao ấy. Như một trong các Thánh Giáo Phụ đã nhận định một cách chính đáng rằng Ba Vua đã không lên đường vì họ đã thấy ngôi sao, mà họ đã thấy ngôi sao bởi họ đã lên đường rồi (xem Saint John Chrysostom). Tấm lòng của họ đã hướng về chân trời và họ có thể thấy những gì trời cao tỏ cho họ, bởi họ được hướng dẫn bởi một thứ khắc khoải nội tâm. Họ đã hướng về một điều gì đó mới mẻ.

Bởi vậy Ba Vua là những vị nhân cách hóa tất cả những ai tin tưởng, tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, những ai mong mỏi gia cư của mình, quê hương nước trời của mình. Họ phản ánh hình ảnh của những ai trong đời sống của mình không để cho tâm can của họ trở thành tê liệt.

Một niềm mong mỏi thánh hảo hướng về Thiên Chúa vọt lên nơi tâm can của các tín hữu vì họ biết rằng Phúc Âm không phải là một biến cố của qúa khứ mà là của hiện tại. Niềm mong mỏi thánh hảo hướng về Thiên Chúa giúp chúng ta tỉnh táo trước mọi nỗ lực làm suy yếu và bần cùng hóa cuộc đời của chúng ta. Niềm mong mỏi thánh hảo hướng về Thiên Chúa là việc hồi niệm của đức tin chống lại tất cả những thứ tiên tri u ám. Niềm mong mỏi ấy giữ cho niềm hy vọng cậy trông sống động trong cộng đồng các tín hữu, một cộng đồng tiếp tục van xin từ tuần này đến tuần kia rằng: "Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến".

Cũng với niềm mong mỏi này đã khiến cho vị lão thành Simeon mỗi ngày lên Đền Thờ, tin tưởng rằng đời sống của ông sẽ không kết liễu trước khi ông được ẵm Đấng Cứu Thể trong cánh tay của ông. Niềm mong mỏi này đã khiến cho Đứa Con Hoang Đàng từ bỏ lối sống hủy hoại bản thân mình mà tìm kiếm cái ôm ẵm của cha mình. Đó là niềm mong mỏi mà vị mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc. Maria Mai-Đệ-Liên đã cảm nghiệm cùng một niềm mong mỏi ấy vào sáng Chúa Nhật khi chị chạy đến mồ và gặp vị Sư Phụ phục sinh. Niềm mong mỏi Thiên Chúa kéo chúng ta ra khỏi cái cô lập bọc thép của chúng ta, khiến chúng ta nghĩ rằng chẳng có gì có thể đổi thay. Niềm mong mỏi Thiên Chúa đánh tan những thói lệ buồn tẻ và thôi thúc chúng ta thực hiện những thay đổi chúng ta muốn và cần. Niếm mong mỏi Thiên Chúa có gốc rễ trong quá khứ những không ngưng ở đó; nó vươn tới tương lai. Các tín hữu cảm thấy niềm mong mỏi này được dẫn dắt trong việc tìm kiếm Thiên Chúa, như Ba Vua đã làm, từ những ngóc ngách xa xôi nhất của lịch sử, vì họ biết rằng Chúa đang đợi chờ họ ở đó. Họ đi đến những vùng ngoại biên, đến những vùng biên cương bờ cõi, đến những nơi chưa được phúc âm hóa, để gặp gỡ Chúa của mình. Họ không làm việc này theo một cảm quan ưu thế nào đó, mà là như những kẻ hành khất không thể bỏ qua những cặp mắt của những ai Tin Mừng vẫn còn là lãnh vực chưa được khai phá.

Một thái độ hoàn toàn khác nhau ngự trị ở cung đình vua Hêrôđê, một khoảng cách ngắn ngủi đối với Belem, nơi không ai nhận ra những gì đang xẩy ra vào lúc bấy giờ. Khi Ba Vua đang hành trình thì Giêrusalem thiếp ngủ. Nó thiếp ngủ để thông đồng với Hêrôđê là kẻ, thay vì tìm kiếm thì cũng thiếp ngủ. Ông ta thiếp ngủ, tê liệt bởi một lương tâm chai cứng. Ông ta bối rối, lo sợ. Chính vì cái bối rối này mà khi giáp mặt với cái mới mẻ làm biến đổi lịch sử này thì thụt vào bản thân mình và vào những thành đạt của mình, vào kiến thức của mình, thành công của mình. Cái bối rối của một kẻ ngồi trên chóp đỉnh giầu sang phú quí của mình nhưng không thể thấy gì ngoài cái giầu sang phú quí ây. Cái bối rối ngự trị trong tâm can của những ai muốn kiểm soát hết mọi sự và hết mọi người. Cái bối rối của những ai đã đắm đuối trong thứ văn hóa thắng cuộc bằng bất cứ giá nào, trong thứ văn hóa chỉ có chỗ duy nhất cho "những kẻ chiến thắng", bất chấp giá phải trả. Một thứ bối rối xuất phát từ nỗi sợ hãi và cái linh tính thấy trước được bất cứ những gì thách đố chúng ta, đặt vấn đề về những gì chúng ta tin tưởng và các sự thật của chúng ta, về cách thức chúng ta liên hệ với thể giới này và với cuộc sống đây. Herôđê đã sợ và nỗi sợ hãi đó đã khiến ông tìm kiếm an toàn bằng tội ác: "Ngươi sát hại những con người bé nhỏ nơi thân thể của họ, vì nỗi sợ hãi đang sát hại ngươi nơi tâm can của ngươi" (SAINT QUODVULTDEUS, Sermon 2 on the Creed: PL 40, 655). 

Chúng tôi muốn tôn thờ. Những con người đến từ Đông phương để tôn thờ, và họ đã đến để làm điều ấy ở nơi xứng với một vị vua đó là ở một hoàng cung, giữa một cung đình và tất cả triều thần của nó. Vì đó là dấu hiệu của quyền lực, thành công, của một đời sống thành đạt. Người ta có thể thấy rõ một vị vua cần được tôn kính, được kính sợ và được nịnh bợ. Đúng thế, nhưng không nhất thiết phải được kính mến. Vì đó là những phân loại của trần gian, những thứ ngẫu tượng tầm thường chúng ta trân trọng: việc tôn sùng quyền lực, những dáng vẻ bề ngoài và tính chất ưu thế. Các thứ ngẫu tượng chỉ hứa hẹn những gì là buồn thương và nộ lệ hóa.

Chính nơi đó, ở hoàng cung ấy, mà những con người, từ xa đến, mới bắt đầu cuộc hành trình dài nhất của họ. Ở đó họ bắt đầu một cách kiên trì hơn cuộc hành trình vất vả và phức tạp hơn nữa. Họ cần phải nhận thức điều họ tìm kiếm không phải ở trong một hoàng cung, mà là ở một nơi khác, cả về tính cách hiện hữu cũng như địa dư. Ở đó, nơi hoàng cung, họ không thấy ngôi sao dẫn đường cho họ đến chỗ khám phá ra một Vị Thiên Chúa muốn được yêu mến. Vì chỉ ở dưới lá cờ tự do, chứ không phải chuyên chế, mới có thể nhận thức rằng ánh mắt của vị vua không được biết đến nhưng được mong ước này không khinh thường, nô lệ hóa hay giam nhốt chúng ta. Nhận thức rằng ánh mắt này của Thiên Chúa là những gì nâng cao, tha thứ và chữa lành. Nhận thức rằng Thiên Chúa muốn được hạ sinh ở nơi chúng ta chẳng ngờ nhất, hay có lẽ ít mong muốn nhất, ở một nơi chúng ta rất thường chối bỏ Người. Nhận thức rằng trong ánh mắt của Thiên Chúa bao giờ cũng có chỗ cho những ai bị thương tích, mệt nhọc, bị đối xử tệ bác và bị bỏ rơi. Rằng sức mạnh của Người và quyền năng của Người được gọi là lòng thương xót. Vì đối với một số trong chúng ta Giêrusalem xa cách Bêlem biết bao!

Hêrôđê không thể tôn thờ vì ông ta không thể hay không muốn thay đổi cách nhìn sự việc của ông. Ông không muốn ngưng tôn thờ bản thân mình, tin rằng hết mọi sự phải ở chung quanh ông. Ông không thể tôn thờ, vì mục đích của ông là làm cho kẻ khác tôn thờ ông. Các vị tư tế cũng không tôn thờ, vì cho dù họ đầy những kiến thức và biết được những lời tiên tri, họ cũng không sẵn sàng thực hiện cuộc hành trình và thay đổi đường lối của mình.

Ba Vua đã cảm thấy niềm mong mỏi; họ cảm thấy mệt mỏi bởi cuộc hành trình bình thường. Tất cả họ đều cảm thấy quá quen thuộc với và chán ngán những thứ Hêrôđê trong thời của họ. Thế nhưng, ở Belem, có một hứa hẹn của những gì là mới mẻ, của những gì là nhưng không. Ở đó đang có một cái gì mới mẻ xẩy ra. Ba Vua đã có thể tôn thờ, vì họ đã can đảm lên đường. Và khi họ quì xuống trước một con trẻ nhỏ bé, nghèo hèn và mếm yếu, một Con Trẻ không được trông mong và không được biết đến, họ đã khám phá ra vinh quang của Thiên Chúa.

http://www.news.va/en/news/the-popes-homily-on-the-feast-of-the-epiphany

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu                                                 

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ - HUẤN TỪ TRUYỀN TIN LỄ HIỂN LINH THỨ SÁU 6/1/2017

"Đời sống Kitô hữu là một cuộc hành trình liên tục, được thực hiện bởi niềm hy vọng và bởi tìm kiếm; một cuộc hành trình, như của Ba Vua, cũng tiếp tục cả khi ngôi sao biến khuất mắt vào một lúc nào đó".

 

Xin chào Anh Chị Em thân mến! Hôm nay chúng ta cử hành Lễ Chúa Hiển Linh, tức là việc tỏ mình ra của Chúa Giêsu, Đấng như ánh sáng chiếu soi muôn dân. Biểu hiệu của ánh sáng này, một ánh sáng chiếu soi trên thế giới và muốn chiếu sáng đời sống của từng người, đó là ngôi sao dẫn đường Ba Vua tới Bêlem. Phúc Âm nói rằng họ đã thấy "ngôi sao của Người" (Mathêu 2:2) và họ đã theo ngôi sao ấy: họ đã muốn được ngôi sao của Chúa Giêsu dẫn đường.

Trong đời sống của chúng ta cũng có các ngôi sao khác nhau, có những thứ ánh sáng chiếu soi và hướng dẫn. Tùy chúng ta chọn theo thứ nào. Chẳng hạn, có những thứ ánh sáng gián đoạn, lúc có lúc không, như những thứ thỏa mãn nho nhỏ trong cuộc đời: cho dù là tốt nhưng vẫn chưa đủ vì chúng kéo dài tí chút thôi và không để lại những gì là bình an mà chúng ta muốn tìm kiếm. Thế rồi có những thứ ánh sáng rạng ngời của khấu trường, của tiền tài và thành công, hứa hẹn hết mọi sự ngay lập tức: chúng là những thứ ánh sáng hấp dẫn nhưng bằng mãnh lực của mình chúng làm cho con người trở nên mù quáng và biến họ trải qua từ những mơ mộng vinh quang đến tối tăm mù mịt nhất. Trái lại, Ba Vua mời gọi chúng ta hãy theo một thứ ánh sáng vững bền, một thứ ánh sáng dịu dàng, không tắt, vì nó không thuộc về thế giới này: nó đến từ Trời và chiếu soi... ở đâu? Trong cõi lòng.

Ánh sáng chân thật này là ánh sáng của Chúa, hay đúng hơn, là chính Chúa. Người là ánh sáng của chúng ta: một thứ ánh sáng không làm mù quáng, nhưng hỗ trợ và cống hiến một niềm vui đặc biệt. Ánh sáng này là để cho tất cả mọi người và kêu gọi từng người: vậy chúng ta có thể cảm thấy chúng ta được tiên tri Isaia ngỏ cùng ở lời mời gọi hôm nay: "Hãy chỗi dậy, hãy chiếu soi" (60:1). Tiên tri Isaia đã nói thế, khi nói tiên tri về niềm vui này của hôm nay cho Giêrusalem: "Hãy chỗi dậy, hãy chiếu soi" Chúng ta có thể chấp nhận lời mòi gọi này vào giây phút đầu tiên của mỗi ngày: hãy chỗi dẫy, hãy chiếu soi, hãy theo đuổi hôm nay đây - trong số nhiều ngôi sao rơi rụng trên thế giới này - ngôi sao rạng ngời của Chúa Giêsu! Bằng việc theo đuổi ngôi sao này, chúng ta sẽ có niềm vui, như đã xẩy ra cho Ba Vua, những con người "khi họ thấy ngôi sao họ hết mừng mừng rỡ hân hoan" (Mathêu 2:10); vì Chúa ở đâu thì niềm vui ở đó. Ai gặp gỡ Chúa Giêsu đều cảm nghiệm thấy phép lạ của thứ ánh sáng xua tan tối tăm và biết rằng ánh sáng này đang chiếu soi và sáng tỏ.

Tôi xin trân trọng mời gọi tất cả anh chị em đừng sợ ánh sáng này và hãy cởi mở cho Chúa. Tôi cũng muốn đặc biệt nói với những ai đã mất đi sức mạnh để tìm kiếm, những ai cảm thấy mệt mỏi và bị choáng ngợp bởi những u tối của cuộc đời, những ai có ước muốn tàn tạ: hãy chỗi dậy, hãy can đảm, ánh sáng của Chúa Giêsu có thể khống chế bóng tối đen nhất; hãy chỗi dậy, hãy can trường!

 làm thế nào để có thể tìm thấy ánh sáng thần linh này? Chúng ta hãy theo gương Ba Vua, những con người được Phúc Âm diễn ta như thể luôn di chuyển. Thật vậy, ai muốn ánh sáng xuất phát từ mình và tìm kiếm thì họ không khép kín, bất động, nhìn vào những gì đang xẩy ra chung quanh mình, mà là nhập cuộc; ra khỏi bản thân mình. Đời sống Kitô hữu là một cuộc hành trình liên tục, được thực hiện bởi niềm hy vọng và bởi tìm kiếm; một cuộc hành trình, như của Ba Vua, cũng tiếp tục cả khi ngôi sao biến khuất mắt vào một lúc nào đó. Trong cuộc hành trình này cũng có những cạm bẫy cần phải tránh né: lời đồn thổi nông nổi và trần tục làm cản bước chân; những thứ bất chợt liệt bại của cố chấp; những lỗ hổng bi quan yếm thế chộp bắt niềm hy vọng. Những cái cản trở này đã cản ngăn thành phần Luật sĩ được bài Phúc Âm hôm nay nói tới. Họ biết ánh sáng ở nơi đâu nhưng không nhúc nhích gì. Khi Hêrôđê hỏi họ: "Đấng Thiên Sai giáng sinh ở đâu?" - "Ở Bêlem". Họ đã biết ở chỗ nào nhưng họ vẫn không nhúc nhích. Kiến thức chỉ bắng thừa là ở chỗ đó: họ biết nhiều sự nhưng chẳng được gị; hết mọi sự chỉ là không. Biết Chúa giáng sinh thì chưa đủ nếu người ta không sinh Người ra trong lòng mình. Thiên Chúa giáng sinh, đúng thế, nhưng Người có được sinh ra trong lòng của anh chị em hay chăng? Người có được sinh ra trong lòng tôi hay chăng? Người có được sinh ra trong lòng chúng ta hay chăng? Bởi thế, như Ba Vua, theo ngôi sao chúng ta sẽ thấy Người với Mẹ Maria, Thánh Giuse.

Ba Vua đã thực hiện như thế: đã thấy Con Trẻ: "họ phục xuống  th lạy Người" (câu 11). Họ không chỉ nhìn Người, họ không chỉ đọc một lời nguyện theo hoàn cảnh rồi đi, không, mà là th lạy: họ đã tiến vào một cuộc hiệp thông yêu thương riêng tư với Chúa Giêsu. Sau đó họ đã hiến dâng cho Người vàng, nhũ hương và mộc dược, hay là những sản vật quí báu nhất của họ. Chúng ta hãy học từ Ba Vua là đừng dâng hiến cho Chúa Giêsu chỉ có khoảnh thời giờ rảnh rỗi của chúng ta và một thoáng nghĩ lúc này lúc nọ, bằng không chúng ta sẽ không có ánh sáng của Người. Như Ba Vua, chúng ta hãy tiến hành, mặc lấy ánh sáng theo ngôi sao của Chúa Giêsu và chúng ta hãy thờ lạy Chúa với tất cả con người của chúng ta.

(Sau Kinh Truyền Tin:)

Ba Vua đã cống hiến cho Chúa Giêsu các tặng vật của mình, thế nhưng, thực ra, Chính Chúa Giêsu là tặng vật thực sự của Thiên Chúa. Người thực sự là Vị Thiên Chúa hiến Mình cho chúng ta. Nơi Người chúng ta thấy dung nhan thương xót của Cha là Đấng đang chờ đợi chúng ta, nhận lãnh chúng ta và luôn tha thứ cho chúng ta; dung nhan của Thiên Chúa là Đấng không bao giờ đối xử với chúng ta theo các việc làm của chúng ta hay theo tội lỗi của chúng ta, mà chỉ theo lòng thương xót vô cùng bất tận của Ngài. Nói về tặng vật, tôi cũng nghĩ đến việc trao tặng cho anh chị em một món quà nhỏ... Tập sách "Icon of Mercy - Hình Tượng của Lòng Thương Xót" Tặng vật của Thiên Chúa là Chúa Giêsu, là lòng thương xót của Cha, và vì thế, để tưởng nhớ đến tặng vật này của Thiên Chúa, tôi sẽ trao tặng cho anh chị em một tặng vật, tặng vật sẽ được phân phối cho anh chị em bởi người nghèo, người vô gia cư và những người tị nạn cùng với các tình nguyện viên và tu sĩ, những anh chị em tôi gửi lời chào nồng nàn và hết lòng cám ơn. Tôi chúc anh chị em một năm sống công lý, tha thứ, bình an nhưng nhất là một năm của lòng thương xót. Đọc tập sách này sẽ có lợi cho anh chị em: nó vừa vặn bỏ trong túi và anh chị em có thể mang theo với mình. Cả anh chị em nữa, xin đừng quên trao tặng cho tội món quà tặng cầu nguyện của anh chị em nhé. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em. Chúc anh chị em một ngày lễ hạnh phục, một bữa trưa ngon và sớm gặp lại anh chị em!

 https://zenit.org/articles/angelus-on-the-feast-of-the-epiphany/
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu    

 

 

 

 

 

 

 

Thứ Hai sau Hiển Linh 7/1


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 3, 22 - 4, 6

"Hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, bất cứ điều gì chúng ta xin, thì chúng ta cũng lãnh nhận được nơi Chúa, vì chúng ta giữ các giới răn Người và làm điều đẹp lòng Người. Và đây là giới răn của Người: chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Người, là Chúa Giêsu Kitô, và phải thương yêu nhau, như Người đã ban giới răn cho chúng ta. Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Do điều này mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta.

Các con thân mến, chớ tin bất cứ thần trí nào, nhưng hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì có nhiều tiên tri giả đã xuất hiện trong thế gian. Do điều này mà các con biết là thần trí của Thiên Chúa: Thần trí nào tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô đã đến trong xác phàm thì là bởi Thiên Chúa; còn thần trí nào phủ nhận Chúa Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa mà ra, đó là thần trí của Phản-Kitô; các con nghe nói rằng nó đến, và hiện giờ nó đã ở trong thế gian rồi.

Các con thân mến, các con bởi Thiên Chúa mà ra và đã thắng nó, vì Ðấng ở trong các con thì cao trọng hơn kẻ ở trong thế gian. Chúng thuộc về thế gian, nên nói chuyện thế gian, và thế gian nghe theo chúng. Chúng ta bởi Thiên Chúa mà ra. Ai biết Thiên Chúa, thì nghe chúng ta; còn ai không bởi Thiên Chúa, thì không nghe chúng ta. Do đó mà chúng ta biết được thần trí chân thật và thần trí dối trá.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 2, 7-8. 10-11

Ðáp: Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp (c. 8a).

Xướng: 1) Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con. Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài". - Ðáp.

2) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết; quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Ngài; hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa. - Ðáp. 

Alleluia: Mt 4,17

Alleluia, alleluia! - Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mt 4, 12-17. 23-25

"Nước trời đã đến gần".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng:

"Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết". Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến".

Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Tiếng tăm Người đồn ra khắp xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh nhân, những người mắc phải tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại. Người đã chữa họ lành. Dân chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền Thập Tỉnh, Giêsrusalem, Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan.

Ðó là lời Chúa. 



 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa


 

Emmanuel Sáng Soi   



Hôm nay, Thứ Hai sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, vẫn còn trong Mùa Giáng Sinh cho tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, và chủ đề cho riêng Mùa Giáng Sinh vẫn là "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14), như "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).


Đó là lý do ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Mathêu đã chẳng những thuật lại sự kiện khách quan về hoạt động của Chúa Giêsu "Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali", mà còn từ đó chứng tỏ những hoạt động của Người hoàn toàn "ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: 'Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết'". 


Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu được Giáo Hội cố ý chọn đọc hôm nay là đoạn Phúc Âm Chúa Giêsu bắt đầu xuất đầu lộ diện để tỏ mình ra, sau khi Người lãnh nhận phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ở Sông Dược Đăng (Jordan) và sau khi Người chay tịnh 40 ngày trong hoang địa. 


Và theo bài Phúc Âm này thì nơi đầu tiên Người tỏ mình ra là một địa điểm trong đất Do Thái nhưng đông đảo dân ngoại chung sống, là "thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali", hai địa danh đã được Thánh Kinh cho biết là "của ngoại bang" nên "dân ngồi trong tối tăm", cần phải được ánh sáng rọi chiếu vào, và với sự xuất hiện của "Lời ở cùng chúng ta" nơi họ, họ thật sự "đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".


Phải chăng chính lúc Chúa Giêsu là "ánh sáng chiếu trong tăm tối' (Gioan 1:5) xuất hiện ở miền đất "dân ngồi trong tối tăm" cũng chính là thời điểm Đấng là ánh sáng này đã làm lu mờ đi ngọn "đèn soi" Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (Gioan 5:35), vị được sai đến trước Người để dọn đường cho Người, với vai trò là một nhân vật "làm chứng cho ánh sáng chứ không phải là ánh sáng" (xem Gioan 1:7-8), mà vì thế thời điểm xuất hiện của Chúa Kitô đã rơi vào trúng thời điểm "Gioan bị giam nhốt".


Thế rồi, từ miền đất dân vẫn còn ngồi trong tăm tối ấy, "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" là "Lời ở cùng chúng ta" ấy bắt đầu lên ngôi, bắt đầu tỏ rạng mỗi ngày một hơn, bằng lời nói đầy thu hút cùng tác động lòng người và việc làm đầy quyền năng chữa lành của Người, như "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12) chan hòa trên nhân linh và nhân sinhđúng như những gì được phần cuối của Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:


"Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: 'Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến'. Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Tiếng tăm Người đồn ra khắp xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh nhân, những người mắc phải tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại. Người đã chữa họ lành. Dân chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền Thập Tỉnh, Giêsrusalem, Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan".


Thật vậy, tất cả lời nói và việc làm của "Lời ở giữa chúng ta" đều cho thấy là quả thực "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), ở chỗ Người đã hoàn toàn trọn vẹn mặc lấy nhân tính của loài người, và sống động một cách cụ thể với thân xác của Người, một thân xác được Người sử dụng như một bí tích thông ban sự sống thần linh và như một phương tiện cứu độ trần gian. Bởi thế, những ai tin vào Người là Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người, là "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta", mới được cứu rỗi và mới sống trong sự thật. 


Tuy nhiên, không dễ gì nhận ra Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người này đâu. Điển hình là chính các vị tông đồ sống gần gũi thân mật với Người trong 3 năm, ấy thế mà tất cả các vị vẫn bị khủng hoảng đến khiếp đảm trong cuộc Vượt Qua của Người, hay chính thành phần lãnh đạo Do Thái giáo bấy giờ, trong khi tìm Người thì lại chết trong tội của họ là lên án tử cho Người khi vừa biết được tất cả sự thật về Người (xem Gioan 8:21; Mathêu 26:63-66). Đó là lý do Tông Đồ Gioan, trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã khẳng định là cần phải có "thần trí của Thiên Chúa" nữa mới được:


"Các con thân mến, chớ tin bất cứ thần trí nào, nhưng hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì có nhiều tiên tri giả đã xuất hiện trong thế gian. Do điều này mà các con biết là thần trí của Thiên Chúa: Thần trí nào tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô đã đến trong xác phàm thì là bởi Thiên Chúa; còn thần trí nào phủ nhận Chúa Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa mà ra, đó là thần trí của Phản-Kitô; các con nghe nói rằng nó đến, và hiện giờ nó đã ở trong thế gian rồi".


Không biết trong lịch sử Giáo Hội nói riêng và thế giới nói chung đã có thời nào xuất hiện nhiều tiên tri giả và kitô giả như ngày nay hay chăng? Cộng sản là một thứ tiên tri giả. Khủng bố nhân danh Thiên Chúa là một thứ tiên tri giả. Phá thai để dân số thế giới khỏi bị tăng bội để cho đủ nguồn lương thực là một thứ tiên tri giả. Phá thai để cho thai nhi khỏi bị tật nguyện khi sinh ra và để đỡ gánh nặng cho xã hội là một thứ tiên tri giả. Đồng tính hôn nhân vì đó là quyền làm người là một thứ tiên tri giả. Triệt sinh an tử và triệt sinh trợ tử cho người bệnh khỏi chịu đau khổ nữa là một thứ tiên tri giả. Chủ trương duy thực dụng chỉ nhắm đến cái lợi thực tế trước mắt, bất chấp nguyên tắc luân lý và đạo lý, là một thứ tiên tri giả v.v. 


Trong Giáo Hội cũng thế, thành phần kitô giả là thành phần chủ trương không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt: ở chỗ, nhân danh khoa học thực nghiệm họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong Thánh Thể, hay bất kính hoặc thờ ơ với Chúa Giêsu Thánh Thể; ở chỗ, nhân danh Chúa Kitô là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, họ không tôn sùng và cầu khẩn cùng tin tưởng cậy trông Người Mẹ đã sinh ra Người Con Thần Linh Cứu Thế Giêsu Kitô; ở chỗ, nhân danh truyền thống Giáo Hội, họ chống đối, phê bình, chỉ trích, xuyên tạc, chụp mũ, bất tuân Chúa Kitô nơi vị đại diện của Người có xương có thịt là các vị giáo hoàng kế vị Thánh Phêrô không hợp với nhận xét và phán đoán của họ; ở chỗ, nhân danh nhân bản và quyền làm người, họ phò phá thai và đồng tính luyến ái, ủng hộ triệt sinh an tử và trợ tử v.v.


Bởi vậy, là những tâm hồn còn tin vào Chúa Kitô, thậm chí cả những ai đã chẳng may bị lầm lạc cách nào, không tin vào Người nữa, cho mình là thành phần đệ nhất thiên hạ như các bậc "quân vương mặt đấthãy "giác ngộ", và đáp ứng nhận thức cùng lời kêu gọi của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:


1) Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con. Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài". 


2) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết; quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Ngài; hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa. 


Thánh Raymunđô Miền Penyafort, Linh Mục (1175-1275)

 

 


Raymunđô sinh năm 1175 tại Barcelone trong một gia đình quý phái miền Penyafort. Ngài rất giỏi về triết học và đậu tiến sĩ luật khoa. Dạy học tại Barcelone được bao nhiêu tiền, ngài phân phát hết cho những người nghèo khó. Ít lâu sau, ngài xin gia nhập dòng Ða Minh (1222). Ngài sống rất khiêm nhường, vâng lời và có tài giảng thuyết.

Ngài giúp thánh Phêrô Nolasque thành lập hội Ðức Mẹ Xuống Ơn (Notre Dame de la Merci) với sự chấp thuận của vua Jacques đệ I, vua xứ Aragon, để chuộc những người bị giam giữ. Dưới triều Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IX, ngài làm việc bên Ðức Giáo Hoàng được 5 năm, nhưng vì làm việc quá nhiều và ăn chay hãm mình nhiệm nhặt nên ngã bệnh và ngài phải trở về quê hương.

Sau khi từ chối chức Giám Mục thành Tarragone, ngài được bầu làm bề trên, nhưng 2 năm sau, ngài xin từ chức và qua đời tại Barcelone ngày 06/01/1275, hưởng thọ 99 tuổi.

Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VII phong ngài lên bậc Hiển Thánh năm 1501. Trong ngày lễ thánh Raymunđô, chúng ta xin ngài dạy chúng ta biết quý trọng đức khiêm nhường và bác ái để dù ở đâu, chúng ta cũng là hiện thân sống động của Chúa Kitô.


 

 

Thứ Ba sau Hiển Linh 8/1


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 4, 7-10

"Thiên Chúa là Tình Yêu".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không thương yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ðiều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu là thế này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 3-4ab. 7-8

Ðáp: Lạy Chúa, muôn dân khắp mặt đất sẽ thờ lạy Chúa (x. c. 11).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.

2) Ước gì núi non đem hòa bình cho dân, và đồi nổng đem lại sự công chính. Người sẽ bênh vực kẻ khiêm tốn trong dân, sẽ cứu thoát con cái người nghèo khó. - Ðáp.

3) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp. 

Alleluia: Mt 4,22

Alleluia, alleluia! - Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng nước trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 6, 34-44

"Hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tỏ ra Mình là Ðấng Tiên tri".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ, và Người bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều. Và khi giờ đã muộn, các môn đệ đến thưa Người rằng: "Chỗ này hoang vắng, mà giờ đã muộn, xin Thầy giải tán họ, để họ đi tới các làng các xóm gần đây mà mua gì ăn". Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Các con hãy cho họ ăn đi". Họ thưa Người: "Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng bạc bánh để phát cho họ ăn". Người nói với họ: "Các con có mấy cái bánh? Hãy đi xem". Khi biết được rồi, họ thưa: "Có năm cái bánh và hai con cá". Người ra lệnh cho họ bảo mọi người ngồi xuống làm thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống từng nhóm, chỗ một trăm, chỗ năm mươi. Người cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời mà chúc tụng, rồi bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho người ta; còn hai con cá, Người cũng chia cho mọi người. Và tất cả đều ăn no. Mụn bánh và cá còn dư lại, người ta lượm được mười hai thúng đầy. Mà số người ăn là năm ngàn người.

Ðó là lời Chúa. 


Image result for Mc 6, 34-44


Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

 Emmanuel Sự Sống   


 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, thời điểm vẫn còn trong Mùa Giáng Sinh cho tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, vẫn tiếp tục chủ đề cho riêng Mùa Giáng Sinh là "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14), như "sự sống là sự sáng chiếu soi con người" (Gioan 1:4).


Đúng thế, "Lời ở cùng chúng ta" như "sự sống chiếu soi con người" trong Bài Phúc Âm hôm nay là ở chỗ Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi "năm ngàn người" từ "năm  bánh và hai con cá", chỉ vì Người "động lòng thương xót họ", thành phần "như chiên không người chăn giữ" và đã vất vả cùng chịu đói khát để đi theo nghe "Người giảng dạy họ nhiều điều".


Ở đây, qua phép lạ bánh hóa ra nhiều, được Chúa Giêsu thương tình thực hiện để nuôi đám dân chúng rất đông đảo theo Người trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy dường như Chúa Giêsu muốn ngầm khẳng định rằng: vẫn biết người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (xem Mathêu 4:4), người ta cũng không chỉ sống nguyên bởi mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra mà còn phải sống nhờ ở lương thực hằng ngày nuôi sống thân thể nữa, như thể "có thực mới vực được đạo", miễn là đừng vì của ăn phần xác mà quên mất phần hồn, hay coi trọng phần xác hơn phần hồn, nhưng nhờ phần hồn thánh đức và tin tưởng mà phần xác được biến đổi và thánh hóa, ở chỗ sống bác ái yêu thương phục vụ.


Phép lạ bánh hóa ra nhiều đây, chẳng những được bộ Phúc Âm Nhất Lãm, bao gồm cả Thánh ký Marco và Thánh ký Luca thuật lại, mà còn cả Thánh ký Gioan nữa, ở nguyên đoạn thứ 6 của phúc âm thứ tư này. Thế nhưng, trong đoạn thứ 6 của mình, Thánh ký Gioan chẳng những thuật lại biến cố phép lạ bánh hóa ra nhiều mà còn bao gồm cả bài giảng rất quan trọng và cần thiết về Bánh Sự Sống của Chúa Giêsu nữa, để cho những ai ăn bánh được Người hóa ra nhiều nuôi sống phần xác của họ ấy hướng về một thứ bánh thần linh ban sự sống trường sinh bất diệt là chính bản thân Người:


"Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Gioan 6:47-51).


 

Thật vậy, "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14) chẳng khác gì như "bánh từ trời xuống", một thứ bánh không phải để nuôi phần xác của con người mà là nuôi phần hồn của họ, ở chỗ ban cho họ sự sống thần linh, bằng cách Người đã "hiến mạng sống mình vì chiên cho chiên được sự sống và là sự sống viên trọn" (Gioan 10:10), tức là Người lấy chính "thịt" của Người, ám chỉ thân xác tử giá và phục sinh của Người, cho phần rỗi của chung nhân loại, nhất là của riêng những ai tin vào Người, một tác động tin tưởng được biểu hiệu qua cử chỉ họ "ăn bánh này", cử chỉ cho thấy họ chấp nhận Người, chấp nhận Ơn Cứu Độ Người thực hiện cho họ.


Tuy nhiên, muốn được "sự sống và là sự sống viên mãn" nơi Bánh Sự Sống từ trời xuống là bản thân Chúa Giêsu Kitô, "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" đây, không phải chỉ ở chỗ tin tưởng chấp nhận Người, qua tiếng thưa công khai "amen", trước khi rước lấy Thánh Thể của Người lúc hiệp lễ. 


Kinh nghiệm sống đạo phũ phàng cho thấy không phải là ít tín hữu Công giáo hằng ngày rước lễ nhưng dường như Thánh Thể là Bánh Sự Sống, Bánh Trường Sinh chẳng có tác dụng thần linh tí nào ở nơi họ, trái lại, Thánh Thể hình như còn làm cho họ càng rước càng bị tẩu hỏa nhập ma nữa. Ở chỗ, họ vẫn cứ đoán xấu cho anh chị em mình, vẫn cứ nói hành nói xấu nhau, vẫn bỏ vạ cáo gian nhau, vẫn giận hờn ghen tức nhau, vẫn oán ghét thù hằn nhau, vẫn chấp nhất không chịu tha cho nhau hay không thể tha cho nhau v.v.


Chính vì "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), hay ngược lại, đức ái là hoa trái của đức tin, là chứng cớ hùng hồn nhất về đức tin, mà Thánh ký Gioan trong Thư thứ nhất của mình, ở Bài Đọc 1 hôm nay, mới huấn dụ Kitô hữu của ngài sống yêu thương bác ái như sau:


"Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không thương yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ðiều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu là thế này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta".


Qua đoạn Thư thứ nhất này của mình, Thánh Gioan Tông Đồ đã cho chúng ta biết tất cả lý do sâu xa tại sao chúng ta cần phải yêu thương nhau và phải yêu thương nhau như thế nào. 


Trưóc hết, về lý do, đó là "vì Thiên Chúa là tình yêu", Đấng "đã thương yêu chúng ta trước", như trong chính bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu đã "động lòng thương" dân chúng và tự động làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ, không đợi họ phải van xin Người, nên chúng ta cũng phải làm sao để có thể đáp ứng tình yêu của Ngài như Ngài đã yêu thương chúng ta. 


Sau nữa, về cách thức yêu thương, nếu "Thiên Chúa là tình yêu... đã yêu chúng ta trước", ở chỗ "Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống", tức là Ngài "đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta", thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy, "yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34, 15:12). 


Tuy nhiên, chúng ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa như Ngài đã yêu thương chúng ta, thậm chí chúng ta cũng không nào yêu thương nhau như chính Chúa yêu thương chúng ta hay yêu thương anh chị em của chúng ta. Bởi thế, mới có chuyện "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14), mặc lấy nhân tính bất toàn, hữu hạn, yếu hèn và tội lỗi của chúng ta, để làm người như chúng ta mà lại có thể yêu mến Thiên Chúa một cách xứng đáng và tương hợp thay cho chúng ta và với chúng ta.


Thánh Tâm Chúa Giêsu không phải chỉ là biểu hiệu cho tình yêu vô biên bất tận của Thiên Chúa đối với loài người vô cùng khốn nạn đáng thương chúng ta, mà còn biểu hiệu cho tình yêu của nhân loại thấp hèn chúng ta đối với tình yêu vô cùng nhân hậu và trọn lành của Thiên Chúa đã yêu thương loài người chúng ta nữa.


Bởi vậy, cùng với Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay, chúng ta hãy hân hoan phấn khởi mà xướng lên rằng:


1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. 


2) Ước gì núi non đem hòa bình cho dân, và đồi nổng đem lại sự công chính. Người sẽ bênh vực kẻ khiêm tốn trong dân, sẽ cứu thoát con cái người nghèo khó. 


3) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.

  



Thứ Tư sau Hiển Linh 9/1


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 4, 11-18

"Nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, nếu Thiên Chúa thương yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải thương yêu nhau. Chẳng ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta đã được tuyệt hảo. Do điều này mà chúng ta biết chúng ta ở trong Người và Người ở trong chúng ta là Người đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Và chúng ta đã thấy và chứng nhận rằng Chúa Cha đã sai Con Mình làm Ðấng Cứu Thế. Ai tuyên xưng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở trong người ấy và người ấy ở trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin nơi tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Thiên Chúa là Tình Yêu, và ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa đã trọn vẹn đối với chúng ta, để chúng ta tin tưởng trong ngày phán xét, vì Người thế nào, thì chúng ta cũng thế ấy ở thế gian này. Nơi tình thương không có sự sợ hãi, nhưng tình thương trọn lành thì loại bỏ sợ hãi ra ngoài, vì sợ hãi mang theo hình phạt, và người nào sợ hãi thì không hoàn hảo trong tình thương.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 10. 12-13

Ðáp: Lạy Chúa, muôn dân khắp mặt đất sẽ thờ lạy Chúa (c. 11).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.

2) Các vua xứ Tác-xi và quần đảo sẽ mang lễ vật đến, các vua xứ Ả-rập và Saba sẽ đem triều cống lễ vật. - Ðáp.

3) Vì Người sẽ cứu thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. - Ðáp. 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa đã sai tôi đi rao giảng tin mừng cho hạng nghèo khó, báo tin cho tù nhân được phóng thích. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 6, 45-52

"Họ thấy Người đi trên mặt biển".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

(Khi năm ngàn người đã được ăn no), Chúa Giêsu liền giục các môn đệ xuống thuyền, qua bờ bên kia trước mà đến Bếtsai-đa, đang khi Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện. Chiều đến, thuyền đã ra giữa biển, còn Người thì một mình ở trên đất. Khoảng canh tư đêm tối, Người thấy họ khó nhọc chèo chống vì ngược gió, Người đi trên mặt biển mà đến với họ, và Người muốn vượt qua trước họ. Họ thấy Người đi trên mặt biển, thì tưởng là ma, nên la hoảng lên. Vì ai nấy đều thấy Người và hoảng hốt, nên Người liền lên tiếng bảo họ rằng: "Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ". Rồi Người lên thuyền họ, và gió im lặng. Tâm hồn họ lại càng sửng sốt hơn, vì họ chưa hiểu gì về vấn đề bánh: lòng họ còn mù tối.

Ðó là lời Chúa. 



Suy Nghiệm Lời Chúa


  

Emmanuel Quyền Năng   



Hôm nay, Thứ Tư sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, chủ đề cho riêng Mùa Giáng Sinh, một thời điểm kéo dài cho tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, vẫn là "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14), vẫn tiếp tục phản ảnh nơi phụng vụ Lời Chúa của ngày này.


Bài Phúc Âm hôm nay được tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Bài Phúc Âm hôm qua được Thánh ký Marco trình thuật về sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng 5 ngàn người theo Người để nghe lời Người. Bài Phúc Âm hôm nay, vị thánh ký này thuật lại biến cố Chúa Giêsu dẹp yên sóng gió cho các tông đồ:


"Chúa Giêsu liền giục các môn đệ xuống thuyền, qua bờ bên kia trước mà đến Bếtsai-đa, đang khi Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện. Chiều đến, thuyền đã ra giữa biển, còn Người thì một mình ở trên đất. Khoảng canh tư đêm tối, Người thấy họ khó nhọc chèo chống vì ngược gió, Người đi trên mặt biển mà đến với họ, và Người muốn vượt qua trước họ. Họ thấy Người đi trên mặt biển, thì tưởng là ma, nên la hoảng lên. Vì ai nấy đều thấy Người và hoảng hốt, nên Người liền lên tiếng bảo họ rằng: 'Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ'. Rồi Người lên thuyền họ, và gió im lặng. Tâm hồn họ lại càng sửng sốt hơn, vì họ chưa hiểu gì về vấn đề bánh: lòng họ còn mù tối".


Việc Chúa Giêsu ra tay dẹp yên sóng gió cho các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay là một trong những cơ hội chứng tỏ "Lời ở cùng chúng ta", chứ không bỏ mặc chung con người và riêng những ai thuộc về Người bị chìm đắm hư vong. 


Sự kiện được thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay về sóng gió bất ngờ nổi lên khiến các tông đồ, dù có nhiều vị chuyên nghiệp đánh cá, cũng "khó nhọc chèo chống vì ngược gió" có thể tiêu biểu cho gian nan khốn khó thử thách trong đời sống của con người nói chung và Kitô hữu thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói riêng.


Đời sống con người trên trần gian này nói chung không thể nào không có gian nan khốn khó, nhưng chính nhờ gian nan khốn khó như "lửa thử vàng" mà con người mới có thể trở nên cứng cát và trưởng thành như "cái khó bó cái khôn" thế nào, thì trong đời sống tu đức, đời sống đạo, càng cần hơn nữa để đức tin trở nên sâu xa vững chắc hơn.


Bởi vì, nhờ gian nan thử thách, con người mới có thể và mới dễ cảm thấy mình hèn yếu và bất lực mà tin tưởng cậy trông vào Đấng duy nhất có thể cứu thoát họ là Thiên Chúa, Đấng cũng có ý để xẩy ra gian nan thử thách như vậy để nhờ đó có thể tỏ mình ra cho họ, và nhờ đó họ có thể nhận biết Ngài hơn.


Thiên Chúa thường sử dụng gian nan thử thách để tăng thêm đức tin cho các tông đồ, thành phần đã từng xin Ngài tăng thêm đức tin yếu kém của các vị lên (xem Luca 17:5), chứ Ngài không làm ảo thuật một cách thiêng liêng là ban sẵn cho các tông đồ, không cần luyện tập, tự nhiên cũng có được một thứ nội công thần linh thâm hậu, đến độ không gì có thể đánh gục các vị.


Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy dường như Chúa Giêsu cố ý để gian nan thử thánh xẩy ra cho các tông đồ, (như không cùng đi với các vị sang bên kia bờ, lại còn thanh thản lên núi cầu nguyện nữa, như quên hẳn các môn đệ của Người đang lẻ loi với nhau lênh đênh trên biển hồ bao rộng, và cứ phải chờ cho tới đêm tối mịt mù cùng với sóng gió nổi lên mới chịu xuất hiện), để Người có thể tỏ mình ra cho các vị, nhờ đó các vị luôn tin tưởng và càng tin tưởng rằng "Lời ở cùng chúng ta", và các vị sẽ không còn lo, còn sợ, còn hoảng nữa, vì Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, được sai đến không phải để luận phạt mà là để cứu độ (xem Gioan 3:17).


Như thế, theo đường lối thần linh huyền diệu của Vị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng, thì mỗi khi xẩy ra gian nan khốn khó, khiến con người cảm thấy đêm tối và bão tố kinh hoàng, là thời điểm Thiên Chúa đang ở gần nạn nhân nhất, và là chính dấu báo Thiên Chúa sắp sửa tỏ mình ra cho nạn nhân để cứu nạn nhân: "Người lên thuyền họ, và gió im lặng".


Thực tế sống đạo cho thấy, chính trong lúc bị gian nan thử thách đầy tối tăm mù mịt và sóng gió biến động trong đời, chúng ta thường cảm thấy lo âu sợ hãi, hoảng loạn và cuống lên, đến độ bấy giờ chúng ta cảm thấy "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24), Đấng đang hiện diện bên chúng ta và đang đến cứu chúng ta, nghĩa là đang muốn tỏ mình ra cho chúng ta mà chúng ta lại "tưởng là ma", lại sợ Ngài hơn là mừng vì thấy Ngài đang ở gần ngay bên mình.


Bởi vậy, để có thể khỏi bị nhầm "tưởng là mađối với "Lời ở cùng chúng ta", trước hết và trên hết, Kitô hữu cần phải hết sức thâm tín, như Thánh Gioan Tông đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay nhắc nhở, rằng: "Chúa Cha đã sai Con Mình làm Ðấng Cứu Thế. Ai tuyên xưng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở trong người ấy và người ấy ở trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin nơi tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta".


Phải, tin tưởng vào Thiên Chúa đây chính là tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài, Đấng chỉ vì yêu thương và chính vì yêu thương "đã sai Con Mình làm Ðấng Cứu Thế", thì không thể nào lại bỏ mặc chúng ta cho tử thần, và vui thích khi chúng ta bị gian nan khốn khó, bị hư vong. 


Trái lại, chắc chắn Ngài sẽ cứu chúng ta, không sớm thì muộn, không trước thì sau, bằng không, Ngài tự mẫu thuẫn, ở chỗ, một đàng, theo lý thuyết, Ngài cứu chúng ta nơi Con của Ngài, nhưng trên thực tế, Ngài lại đang tâm để cho chúng ta bị hư đi, như thể Ngài không coi trọng Ơn Cứu Độ vô giá được Con Ngài vô cùng khốn khổ lập công chuộc tội cho chúng ta, như thể chúng ta là đồ bỏ, chẳng là gì trước nhan Ngài.


Thậm chí kể cả những con người cao ngạo, kiêu căng tự phụ, coi Ngài chẳng là gì, không cần đến Ngài, truất phế Ngài bằng những luật pháp vô luân và phi nhân, thay thế Ngài bằng những ngẫu tượng duy nhân bản, tôn sùng con người như một thần linh trên hết, muốn làm gì thì làm, quyết định mọi sự lành dữ theo ý nghĩ, ý thích và ý riêng của mình, Ngài vẫn chờ đợi họ, thông cảm với những gì họ làm mà không biết việc sai lầm mình làm (xem Luca 23:34), cho đến khi Ngài làm cho họ mở mắt ra mà hoán cải trở về với Ngài. 


Chính vì Thiên Chúa đã làm tất cả mọi sự để con người có thể tin vào Ngài (xem Gioan 5:17), mà một khi đã tin vào Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa cứu độ nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta", Vị Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta "đến không tiếc Con Một của Ngài" (Roma 8:32), thì chúng ta đừng sợ, vì, như Thánh Gioan Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay khẳng định: "tình thương trọn lành thì loại bỏ sợ hãi ra ngoài, vì sợ hãi mang theo hình phạt, và người nào sợ hãi thì không hoàn hảo trong tình thương".


Vậy, cùng với niềm xác tín và tâm tình tin tưởng của Bài Đáp Ca hôm nay, những ai đã tin tưởng, hay đang bị thử thách, hoặc cần được cứu giúp, hãy xướng lên theo câu 3 rằng: "Người sẽ cứu thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ".


  


Thứ Năm sau Hiển Linh 10/1


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 4, 19 - 5, 4

"Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải thương yêu anh em mình nữa".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, vì Người đã thương yêu chúng ta trước. Nếu ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì là người nói dối. Vì người anh em mình xem thấy mà không thương yêu họ được, thì làm sao yêu mến Thiên Chúa là Ðấng mình không thấy được? Ðây là giới răn chúng ta lãnh nhận nơi Thiên Chúa: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng phải thương yêu anh em mình nữa.

Hễ ai tin Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, thì đã được sinh ra bởi Thiên Chúa. Vì hễ ai yêu mến Chúa là Ðấng đã sinh thành, thì cũng yêu mến những kẻ bởi Người mà sinh ra. Do điều này mà chúng ta biết mình yêu thương con cái Thiên Chúa, là hễ chúng ta yêu mến Thiên Chúa, thì chúng ta phải thực hành giới răn Người. Tình yêu Thiên Chúa là thế này: là chúng ta giữ các giới răn Người, và giới răn Người chẳng có nặng nề đâu. Hễ sự gì bởi Thiên Chúa mà sinh ra, thì thắng được thế gian, và đây là sự chiến thắng thế gian: đó là đức tin của chúng ta. Ai chiến thắng thế gian, nếu không phải kẻ tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa?

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 14 và 15bc. 17

Ðáp: Lạy Chúa, muôn dân khắp mặt đất sẽ thờ lạy Chúa (x. c. 11).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.

2) Người sẽ cứu tâm hồn họ khỏi bất công và đàn áp, giá máu của họ đáng kể trước mặt người. Họ sẽ cầu nguyện cho người luôn và sẽ chúc phúc người mãi mãi. - Ðáp.

3) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp. 

Alleluia: Lc 7, 16

Alleluia, alleluia! - Một Tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. - Alleluia. 

Phúc Âm: Lc 4, 14-22a

"Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền năng của Thánh Thần và danh tiếng Người đồn khắp miền xung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường của họ, và ai nấy đều ca tụng Người. Người đến Nadarét là nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, Người vào hội đường ngày Sabbat, và đứng dậy đọc sách. Người ta trao cho Người cuốn sách Tiên tri Isaia. Người mở sách và gặp chỗ có chép rằng: "Thánh Thần Chúa ở trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người sầu khổ trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát người bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".

Người xếp sách lại, trao cho viên phụ trách, đoạn ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều đưa mắt chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe". Và ai nấy đều công nhận lời Người và ngạc nhiên vì những lời hấp dẫn thốt ra từ miệng Người.

Ðó là lời Chúa. 


Related image

Suy Nghiệm Lời Chúa

 


 

Emmanuel Thiên Sai    


Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, vẫn còn trong thời điểm của Mùa Giáng Sinh kéo dài cho tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, chủ đề "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14) tiếp tục được phản ảnh nơi phụng vụ Lời Chúa như sau.


Trước hết, trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca thuật lại biến cố Chúa Giêsu "đến Nadarét là nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, Người vào hội đường ngày Sabbat, và đứng dậy đọc sách".


Bài Phúc Âm còn tiếp tục cho biết thêm những chi tiết chính yếu và cần thiết liên quan đến chủ đề "Lời ở cùng chúng ta" qua đoạn "sách Tiên tri Isaia" được "Người ta trao cho Người", và khi "Người mở sách" thì "gặp chỗ có chép" về chính bản thân Người, như chính Người đã tự xác nhận ngay trong bài Phúc Âm này: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe".


Vậy đoạn Sách Tiên Tri Isaia mà Người bất chợt mở ra và đọc lên cho mọi người trong Hội Đường ở Nazarét nghe thấy đây là gì và như thế nào, Thánh ký Luca đã cho chúng ta biết như sau: 


"Thánh Thần Chúa ở trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người sầu khổ trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát người bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".


Phải, "Lời ở cùng chúng ta", Đấng "đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), chính  Đấng Được Xức Dầu Thánh Linh, bởi Cha của Người, hay được Cha thánh hiến cũng thế (xem Gioan 10:36), tức Người là Đức Kitô Thiên Sai, là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.


Vậy vai trò và sứ vụ bất khả thiếu và bất khả phân ly với Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa ở đây là gì, đã được Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 cho biết và cũng đã được chính Chúa Giêsu công nhận là hoàn toàn ứng nghiệm sau đó trong cùng bài Phúc Âm, đó là Người được "sai đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người sầu khổ trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát người bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".


Đúng thế, "Lời ở cùng chúng ta" chính là Đấng Thiên Sai, Đấng được xức dầu bởi Thánh Linh và được tràn đầy Thánh Linh, được Thánh Linh thúc đẩy thực hiện 3 sứ vụ chính yếu của Người và hợp với Người, đó là "rao giảng" - như một ngôn sứ, "chữa lành" - như một tư tế, và "giải thoát" - như một đế vương. 


Trước hết, "Lời ở cùng chúng ta" như một ngôn sứ để "rao giảng": "rao giảng tin mừng cho người nghèo khó", nghĩa là tin mừng cứu độ của Người chỉ hợp với "người nghèo khó", và Chúa Giêsu cũng chỉ đến để "tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 18:8), những gì tầm thường đáng khinh trước mặt trần gian, nhưng lại là thành phần không ham mê trần gian, thành phần bản thân không tham vọng, chỉ khao khát thần linh và tìm kiếm sự thật với một lương tâm chân chính, và chỉ có họ mới có thể đón nhận tin mừng cứu độ là chính "Lời ở cùng chúng ta".


Sau nữa,  "Lời ở cùng chúng ta" như một tư tế để "chữa lành": "chữa lành những người sầu khổ trong tâm hồn", bằng tình thương của Người, như Người đã kêu gọi "Hãy đến với Tôi, hỡi những ai mệt mỏi và nặng gánh, Tôi sẽ bổ sức cho" (Mathêu 11:28), ở chỗ, đích thân Người "đã mang lấy thương tích của chúng ta và đã chịu đựng những đau khổ của chúng ta" (Mathêu 8:17; Isaia 53:4), một cách "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), nhất là ở chỗ: "Tuy là con, Người đã biết tuân phục nơi những gì phải chịu, để khi hoàn tất, Người trở nên căn nguyên cứu độ cho những ai tín phục Người" (Do Thái 5:8).


Sau hết, "Lời ở cùng chúng ta" như một đế vương để "giải thoát": "giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát người bị áp chế". Thành phần "bị giam cầm" và "bị áp chế" đây là ai, nếu không phải là chung loài người, thành phần đã bị hư đi theo nguyên tội, đã bị Satan cùng bọn ngụy thần của hắn giam cầm và khống chế bằng quyền lực sự dữ và chết chóc của chúng, nhưng đã được quyền năng cứu độ của Đấng bị đóng đanh như "Vua dân Do Thái" (Mathêu 27:37) cũng là Đấng đã phục sinh từ trong kẻ chết "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18) giải thoát, một quyền năng giải thoát và cứu độ đã được báo trước bằng những phép lạ chữa lành bệnh nạn tật nguyền và chết chóc nơi dân chúng, cũng như bằng lời rao giảng khôn ngoan soi sáng "cho người mù được thấy".


Những loại người trở thành đối tượng cho 3 vai trò của "Lời ở cùng chúng ta" trên đây, một khi được Người "rao giảng", "chữa lành" và "giải thoát", những tác động thần linh cứu độ vô cùng cao quí và trọng đại cho thấy Thiên Chúa hết tình yêu thương con người, và vì thế, họ cũng phải nhận biết tình yêu ấy và đáp ứng tình yêu ấy, như Thánh Gioan Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay nhắc nhở: "Các con thân mến, chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, vì Người đã thương yêu chúng ta trước".


Tuy nhiên, con người là tạo vật không thể nào đáp trả được tình yêu vô cùng bất tận và trọn lành của Thiên Chúa, họ cùng lắm chỉ có thể trả nợ tình cho Thiên Chúa bằng tình họ yêu thương tha nhân là đồng loại ngang hàng với họ; thế nhưng, cho dù là thế, họ cũng vẫn không thể nào yêu thương tha nhân như Chúa muốn và như Ngài yêu, nếu chính họ không yêu thương tha nhân bằng chính tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã yêu họ trước.  


Đó là lý do Thánh Gioan Tông Đồ, cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã nhắc nhở chúng ta là thành phần được Thiên Chúa yêu trước, thành phần vì thế cần phải và nhờ thế có thể yêu thương tha nhân đồng loại nói chung và những ai cũng được tái sinh bởi Thiên Chúa như chúng ta nói riêng, như sau:


"Nếu ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì là người nói dối. ... Ðây là giới răn chúng ta lãnh nhận nơi Thiên Chúa: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng phải thương yêu anh em mình nữa. Hễ ai tin Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, thì đã được sinh ra bởi Thiên Chúa. Vì hễ ai yêu mến Chúa là Ðấng đã sinh thành, thì cũng yêu mến những kẻ bởi Người mà sinh ra". 


Tình yêu thương tha nhân chẳng những là dấu chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng "đã yêu chúng ta trước", nơi "Lời ở cùng chúng ta", mà còn cho thấy đức tin chân chính và mãnh liệt của chúng ta vào Đấng Thiên Sai Cứu Thế nữa, một đức tin thắng vượt thế gian, thắng vượt con người cũ vị kỷ của mình để sống chết cho tha nhân như Chúa Kitô, và đức tin ấy như thế nào cùng với tác dụng thần linh ra sao đã được Bài Đọc 1 hôm nay cho biết như sau:


"Hễ ai tin Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, thì đã được sinh ra bởi Thiên Chúa... Hễ sự gì bởi Thiên Chúa mà sinh ra, thì thắng được thế gian, và đây là sự chiến thắng thế gian: đó là đức tin của chúng ta. Ai chiến thắng thế gian, nếu không phải kẻ tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa?"


Bài Đáp Ca hôm nay phản ảnh ý nghĩa của bài Phúc Âm nói chung và câu của Tiên Tri Isaia tiên báo về vai trò và sứ vụ chính yếu của Đấng Thiên Sai Cứu Thế nói riêng, một đoạn sách tiên tri đã được chính Chúa Giêsu công nhận là đã ứng nghiệm nơi bản thân của Ngưi là "Lời ở cùng chúng ta": 


1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. 


2) Người sẽ cứu tâm hồn họ khỏi bất công và đàn áp, giá máu của họ đáng kể trước mặt người. Họ sẽ cầu nguyện cho người luôn và sẽ chúc phúc người mãi mãi.


3) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. 

 

 


Thứ Sáu sau Hiển Linh 11/1


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: 1 Ga 5, 5 - 13

"Thánh Thần, nước và máu".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, ai là kẻ thắng được thế gian,nếu không phải là người tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật. Có ba chứng nhân: Thần Khí, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một điều. Chúng ta vẫn nhận lời chứng của người phàm, thế mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn, vì đó là lời chứng của Thiên Chúa, lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Ai tin vào Con Thiên Chúa,người đó có lời chứng ấy nơi mình.

Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống. Tôi đã viết những điều đó cho anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa, để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20

Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! Vì Người đã giữ chặt các then cửa thành ngươi; Người đã chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.

2) Người sắp đặt bờ cõi ngươi trong thanh bình, cho ngươi hưởng no nê những tinh hoa lúa miến. Người đã sai Lời Người xuống cõi trần ai, và Lời Người lanh chai chạy rảo. - Ðáp.

3) Người đã loan truyền Lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế; Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp. 

Alleluia: 1 Tm 3,36

Alleluia, alleluia. - Lạy Chúa Kitô, Ðấng được rao giảng cho lương dân, vinh danh Chúa! Lạy Chúa Kitô, Ðấng được tin kính ở thế gian, vinh danh Chúa! - Alleluia. 

Phúc Âm: Lc 5, 12-16

"Lập tức người ấy khỏi phong hủi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Xảy ra khi Chúa Giêsu đang ở trong một thành kia, thì có một người mình đầy phong hủi, thấy Chúa Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: "Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch". Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: "Ta muốn, hãy nên trơn sạch". Lập tức, người ấy khỏi phong hủi. Người ra lệnh cho người ấy không được nói với ai, nhưng: "Hãy đi trình diện với tư tế, và hãy dâng lễ vật như luật Môsê đã dạy, để làm chứng cho người ta biết ngươi được sạch". Nhưng tiếng đồn về Người cứ lan rộng, và dân chúng đông đảo kéo nhau đến để nghe Người và được chữa lành bệnh tật. Còn Người, thì lánh vào nơi hoang vắng và cầu nguyện.

Ðó là lời Chúa. 




Suy Nghiệm Lời Chúa

 


Emmanuel nguyên dạng    


 

Hôm nay, Thứ Sáu sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, Bài Phúc Âm theo chủ đề "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14) của chung Mùa Giáng Sinh, được thể hiện ở phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu, như Thánh ký Luca thuật lại nguyên văn từ đầu đến cuối như sau:


"Xy ra khi Chúa Giêsu đang ở trong một thành kia, thì có một người mình đầy phong hủi, thấy Chúa Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: 'Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch'. Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: 'Ta muốn, hãy nên trơn sạch'. Lập tức, người ấy khỏi phong hủi. Người ra lệnh cho người ấy không được nói với ai, nhưng: 'Hãy đi trình diện với tư tế, và hãy dâng lễ vật như luật Môsê đã dạy, để làm chứng cho người ta biết ngươi được sạch'. Nhưng tiếng đồn về Người cứ lan rộng, và dân chúng đông đảo kéo nhau đến để nghe Người và được chữa lành bệnh tật. Còn Người, thì lánh vào nơi hoang vắng và cầu nguyện".


Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy "Lời ở cùng chúng ta" vừa ẩn vừa hiện, đúng hơn lúc hiện lúc ẩn. Lúc hiện là lúc Người giao tiếp với con người, còn lúc ẩn là lúc Người giao tiếp với Thiên Chúa, nhưng lại là một việc giao tiếp thần linh với Thiên Chúa ở giữa con người, nơi nhân tính của Người và với nhân tính của Người.


Trước hết, "Lời ở cùng chúng ta" khi giao tiếp với con người. Chẳng hạn như trường hợp trong bài Phúc Âm hôm nay, Vì "ở cùng chúng ta" mà Người đã đáp ứng ý nguyện muốn "được sạch" của "một người mình đầy phong hủi" nhưng rất tin tưởng nơi Người, ở chỗ vừa "thấy Chúa Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: 'Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch'". 


Tất nhiên, là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa, một Lòng Thương Xót Chúa "ở cùng chúng ta", Người không thể nào không động lòng, chẳng những trước hình thù cùi hủi đã làm biến dạng thân xác vốn nguyên tuyền và lành mạnh hết sức đáng thương của nạn nhân, mà nhất là trước tấm lòng tan nát khiêm cung thiết tha cầu khẩn của nạn nhân nữa. Bởi thế, bài Phúc Âm cho biết thêm "Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: 'Ta muốn, hãy nên trơn sạch'. Lập tức, người ấy khỏi phong hủi".


Thật vậy, bởi nguyên tội, bản tính của loài ngươi chẳng khác gì như bị cùi hủi, coi đến ghê rợn, vì hình thù và tầm vóc nguyên tuyền lành mạnh từ ban đầu của nó khi mới được Thiên Chúa tạo dựng nên theo hình ảnh thần linh của Ngài và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 2:26) đã bị biến dạng, bị lệch lạch, bị méo mó một cách gian ác trá hình, bởi bị tiêm nhiễm nọc độc của Con Khủng Long Luxiphe, nên đã bị biến thành hình ảnh quái gở tương tự như Satan và bọn ngụy thần của hắn. 


Bởi thế, "Lời ở cùng chúng ta", nhờ "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), đã mặc lấy bản tính nhân loại bị cùi hủi biến dạng của loài người, mà bản tính của loài người ở nơi Người, một bản tính nhờ được ngôi hiệp với thiên tính của Người ngay từ giây phút hoài thai trong cung dạ trinh nguyên của Mẹ Người, đã được phục hồi nơi nhân phẩm là người và nhân cách làm người của Con Thiên Chúa. 


Nếu nguyên tội gây ra bởi con người ngay từ ban đầu, qua hai nguyên tổ, đã trở nên cùi hủi là vì bề ngoài đã bất tuân mệnh lệnh của Thiên Chúa, và bề trong đã coi trọng cùng tin tưởng rắn quỉ Satan gian trá hơn kính trọng cùng tin tưởng Vị Thiên Chúa chân thật nên mới nghe theo hắn thay vì tuân lệnh Thiên Chúa, thì để phục hồi nguyên trạng hình hài và tầm vóc của con người, chẳng những "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" mà Người còn phải "vâng lời cho đến chết dù có chết trên thập tự giá" (Philiphe 2:8).


Tinh thần tuân phục của "Lời ở cùng chúng ta" đã được tỏ hiện ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, khi Người bảo nạn nhân phong cùi rằng: "Hãy đi trình diện với tư tế, và hãy dâng lễ vật như luật Môsê đã dạy, để làm chứng cho người ta biết ngươi được sạch". 


Sau nữa, "Lời ở cùng chúng ta" khi giao tiếp với Thiên Chúa: "Còn Người, thì lánh vào nơi hoang vắng và cầu nguyện". Tác động cầu nguyện của Chúa Giêsu ở đây là gì, nếu không phải là Người giao tiếp thần linh với Thiên Chúa là Cha của Người "trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24) nơi nhân tính của Người. Bởi vì, về thiên tính, Người đồng bản thể với Cha của Người, Người cũng là Thiên Chúa như Cha, không cần cầu nguyện.


Thế nhưng, với bản tính của nhân loại, Người vẫn cần phải cầu nguyện, một tác động giao tiếp thần linh với Cha, một tác động hiệp nhất nên một với Cha, như tác động của Người vẫn cần phải tỏ ra tuân phục ý muốn Cha là Đấng đã sai Người. 


Nghĩa là, cho dù nhờ mầu nhiệm ngôi hiệp, mầu nhiệm mà hai bản tính của Người đã trở nên một nơi Ngôi Vị duy nhất là Con Thiên Chúa, nhưng Người vẫn luôn ý thức về thực tại nên một và tình trạng hiệp nhất nhân thần này, vẫn liên tục chủ động gắn bó nhân tính với thiên tính trong cuộc đời trần thế của Người, vẫn luôn thể hiện mối hiệp thông thần linh Ngôi Vị này, bằng việc Người luôn luôn làm theo ý Cha của Người để chứng tỏ Người thực sự là Đức Kitô Thiên Sai "ở cùng chúng ta". 


Chính nhờ những giây phút âm thầm cầu nguyện cùng Cha của mình như thế, mà Người càng chứng tỏ Người "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), và Người mới có thể tiếp tục thi hành vai trò và sứ vụ Thiên Sai của mình trên trần gian này, bằng việc "rao giảng" như một ngôn sứ, "chữa lành" như một tư tế và "giải thoát" như một đế vương, hoàn toàn ứng nghiệm Lời Tiên Tri Isaia tiên báo về Người và được Người xác nhận là đúng trong bài Phúc Âm hôm qua.


Chính những giây phút cầu nguyện này đã càng làm cho "Lời ở cùng chúng ta" trở thành nguồn mạch thông ban sự sống thần linh của Thiên Chúa cho nhân loại, đó là việc Người thông ban cho chúng ta kiến thức thần linh về Thiên Chúa (xem Gioan 17:3) của Người, qua chính mạc khải thần linh nơi "Lời ở cùng chúng ta" và của "Lời ở cùng chúng ta". Đó là lý do Thánh Gioan Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay đã khẳng định rằng: "Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống".


Nếu Con Thiên Chúa chính là "sự sống đời đời" thì chỉ có "những ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), thành phần con cái này không phải sinh ra "bởi huyết nhục" theo thể lý, "bởi ước muốn nhục dục" theo bản năng và "bởi ý muốn loài người" theo tâm lý (xem Gioan 1:13), mà là bởi chính Thiên Chúa, tức là bởi "Thần khí, nước và máu", như được đề cập đến trong Bài Đọc 1 hôm nay. 


Bài Đáp Ca hôm nay diễn tả về thực tại "Lời ở cùng chúng ta", khi Thiên Chúa "đã Lời Người xuống cõi trần ai, và Lời Người lanh chai chạy rảo" - "để loan truyền Lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel". Bởi thế, câu 1 và câu 3 của Bài Đáp Ca đã kêu gọi dân Do Thái được Ngài tuyển chọn và được "Lời ở cùng chúng ta" rằng: "Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! Vì Người đã giữ chặt các then cửa thành ngươi; Người đã chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội", và "Người đã không làm cho dân tộc nào như thế; Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người". 


 

 

Thứ Bảy sau Hiển Linh 12/1


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: 1 Ga 5, 14-21

"Chúa nhậm lời chúng ta kêu cầu".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, này là sự chúng ta tin tưởng nơi Chúa: là hễ chúng ta xin sự gì hợp ý Người, thì Người nhậm lời chúng ta. Và chúng ta biết Người nghe nhận mọi điều chúng ta xin, vì chúng ta biết rằng chúng ta có kêu cầu Người. Ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa tới sự chết, thì hãy cầu xin và Người sẽ ban sự sống cho kẻ phạm thứ tội đó. Có thứ tội đưa đến sự chết, tôi không bảo ai cầu xin cho người phạm tội ấy đâu. Mọi sự gian tà đều là tội, và có thứ tội đưa đến sự chết.

Chúng ta biết rằng ai sinh ra bởi Thiên Chúa, thì không phạm tội, chính sự sinh ra bởi Thiên Chúa gìn giữ họ, và ma quỷ không làm gì được họ. Chúng ta biết rằng chúng ta bởi Thiên Chúa mà ra, và toàn thể thế gian đều phục luỵ ma quỷ. Và chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và đã ban cho chúng ta ơn thông hiểu, để chúng ta nhận biết Chúa chân thật, và được ở trong Con chân thật của Người. Chính Ngài là Thiên Chúa chân thật và là sự sống đời đời. Các con thân mến, hãy giữ mình xa các tà thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5 và 6a và 9b

Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy vui mừng vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.

2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.

3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Dt 1, 1-2

Alleluia, alleluia. - Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 3, 22-30

"Bạn hữu của tân lang vui mừng vì tiếng nói của tân lang".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ Người đến đất Giuđêa. Người ở lại đó với họ và làm phép rửa. Cũng có Gioan làm phép rửa tại Ainon, gần Salim, vì ở đó có nhiều nước, và người ta đến để chịu rửa. Vì chưng, khi ấy Gioan chưa bị tống ngục. Xảy ra có cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và người Do-thái về việc thanh tẩy. Họ đến cùng Gioan và nói với ông: "Thưa Thầy, người đã ở với Thầy bên kia sông Giođan, mà Thầy đã làm chứng cho, nay cũng làm phép rửa và ai nấy đều đến cùng người!" Gioan trả lời rằng: "Người ta không tiếp nhận gì mà không phải bởi trời ban cho. Chính các ngươi đã làm chứng cho tôi là tôi đã nói: Tôi không phải là Ðấng Kitô, nhưng tôi được sai đến trước Người. Ai cưới vợ, thì là người chồng, còn bạn hữu của tân lang đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Vậy niềm vui của tôi như thế là đầy đủ. Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại".

Ðó là lời Chúa.




Suy Nghiệm Lời Chúa


 

  Emmanuel Hôn Phu   

 


Ngày Thứ Bảy cuối Tuần Lễ Hiển Linh ngay trước Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay, Bài Phúc Âm theo chủ đề "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14) của chung Mùa Giáng Sinh, có liên hệ với Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, Vị sẽ làm phép rửa cho Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm ngày mai, như Thánh ký Gioan Tông Đồ thuật lại như sau:


"Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ Người đến đất Giuđêa. Người ở lại đó với họ và làm phép rửa. Cũng có Gioan làm phép rửa tại Ainon, gần Salim, vì ở đó có nhiều nước, và người ta đến để chịu rửa. Vì chưng, khi ấy Gioan chưa bị tống ngục. Xảy ra có cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và người Do-thái về việc thanh tẩy. Họ đến cùng Gioan và nói với ông: 'Thưa Thầy, người đã ở với Thầy bên kia sông Giođan, mà Thầy đã làm chứng cho, nay cũng làm phép rửa và ai nấy đều đến cùng người!' Gioan trả lời rằng: 'Người ta không tiếp nhận gì mà không phải bởi trời ban cho. Chính các ngươi đã làm chứng cho tôi là tôi đã nói: Tôi không phải là Ðấng Kitô, nhưng tôi được sai đến trước Người. Ai cưới vợ, thì là người chồng, còn bạn hữu của tân lang đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Vậy niềm vui của tôi như thế là đầy đủ. Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại'".


Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu không đóng vai chính như các bài phúc âm của những ngày trước, ngoài một chi tiết ở đầu bài Phúc Âm: "Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ Người đến đất Giuđêa. Người ở lại đó với họ và làm phép rửa". Tuy nhiên, qua chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong cùng bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy "Lời ở cùng chúng ta" như "là người chồng" mà Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được đóng vai "bạn hữu của tân lang" đã cảm thấy hân hạnh và mãn nguyện lắm rồi: "niềm vui của tôi như thế là đầy đủ". 


Với chứng từ của mình, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đã: 1- tái xác nhận một lần nữa rằng ngài không phải là Đức Kitô Thiên Sai như Chúa Giêsu; 2- nên ngài chỉ đóng vai phụ, với tư cách là "bạn hữu của tân lang", chứ không thể át được vai chính tân lang; 3- và chính vì Người là Đấng Thiên Sai nên Người được dân chúng mộ mến tuốn đến với Người là phải: "Thưa Thầy, người đã ở với Thầy bên kia sông Giođan, mà Thầy đã làm chứng cho, nay cũng làm phép rửa và ai nấy đều đến cùng người!"; 4- ngài chẳng những không ghen tương theo tinh thần cạnh tranh mà còn phải hết sức vui mừng nữa: "đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại".  


Ở chứng từ đặc biệt lần này, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã thêm một hình ảnh rất tuyệt vời về "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta", liên quan đến mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh của Người, đó là hình ảnh Người là một "tân lang", "là người chồng", một hình ảnh ám chỉ đến hai thực tại, thực tại thiên tính của Người nên một với nhân tính của Người, và thực tại Người là vị hôn phu của Giáo Hội nhiệm thể của Người.


Không phải "Lời ở cùng chúng ta" chỉ ở nơi Con Người Giêsu sống động trong xã hội Do Thái thời của Người, ở nơi việc Người giao tiếp với đủ mọi hạng người thời bấy giờ, ở nơi việc Người gắn bó với người nghèo và thành phần tội nhân vào lúc ấy v.v., mà còn ở chỗ chung nhân loại ở với Người nơi nhân tính của Người, một nhân tính đã chia sẻ với những nỗi yếu hèn của họ, một nhân tính đã gánh vác tội lỗi của họ, một nhân tính đã hy hiến mạng sống của mình làm giá chuộc họ và cho những ai tin vào Người thành nhiệm thể Giáo Hội của Người.


Chính vì "Lời ở cùng chúng ta" và nhờ đó chung nhân loại chúng ta và riêng nhiệm thể Giáo Hội của Người được dự phần với Người, được kiến thức thần linh như Người và với Người, tức là được sự sống đời đời là chính bản thân Người, đúng như những gì Thánh Gioan Tông Đồ đã viết trong Bài Đọc 1 hôm nay: "chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và đã ban cho chúng ta ơn thông hiểu, để chúng ta nhận biết Chúa chân thật, và được ở trong Con chân thật của Người. Chính Ngài là Thiên Chúa chân thật và là sự sống đời đời". 


Vì "Lời ở cùng chúng ta", nhờ đó chúng ta được ở với Người, tức được sự sống đời đời, và những ai được lãnh nhận sự sống đời đời vô cùng quan trọng và cao trọng không thể nào không cất tiếng ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa cùng với Bài Đáp Ca hôm nay: 


1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy vui mừng vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. 


2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. 


3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.