SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

M
ùa Thường Niên Tuần V Năm B và Năm Lẻ

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: G 7, 1-4. 6-7

"Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối".

Trích sách Gióp.

Bấy giờ Gióp nói rằng: "Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: "Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối". Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 146, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Hãy chúc tụng Chúa, Ðấng cứu chữa những kẻ giập nát tâm can (c. 3a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa, vì Người hảo tâm; hãy ca mừng Thiên Chúa chúng ta, vì Người êm ái, thực Người rất đáng ngợi khen. Chúa xây dựng lại Giêrusalem, tập họp con cái Israel phân tán. - Ðáp.

2) Chính Người chữa những kẻ giập nát tâm can, và băng bó vết thương của lòng họ. Người ấn định con số các ngôi sao, và gọi đích danh từng ngôi một. - Ðáp.

3) Chúa chúng ta cao cả và mãnh liệt quyền năng, sự khôn ngoan của Người thực là vô lượng. Chúa nâng cao những kẻ khiêm cung, Người đè bẹp đứa ác nhân xuống tận đất. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 9, 16-19. 22-23

"Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Tin Mừng, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm trọn nghĩa vụ đã giao phó cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Chiên của Ta nghe biết tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 1, 29-39

"Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.

Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.

Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mk 1, 29-39

 

 

Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

 

ĐỨC KITÔ - KHU TRỪ MA QUỈ

 

 

 

Chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) cho Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh vẫn tiếp tục một cách hết sức xác đáng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật Thứ V Năm B Thường Niên tuần này. Ở chỗ, Người Con "đầy ân sủng" này "chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ", và ở chỗ Người Con "đầy chân lý" này "đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ".

 

Thật vậy, loài người, sau nguyên tội lại càng trở thành đáng thương hơn bao giờ hết và hơn ai hết, đến độ Thiên Chúa đã phải đích thân hóa thành nhục thể nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô để nên giống con người mọi bề ngoại trừ tội lỗi, nhờ đó, qua Con của Ngài, bằng nhân tính của Con Ngài như dấu chỉ hiện diện, như phương tiện cứu độ và như bí tích thông ban, Ngài có thể chữa lành cho họ về phần xác, khu trừ ma quỉ cho họ về phần tâm linh và tha thứ tội lỗi cho họ về phần lương tri.

 

Bởi nguyên tội, bản tính của loài người đã bị băng hoại, và hoàn toàn bị mất đi mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa cùng mối liên hiệp với thiên nhiên tạo vật, khiến cuộc sống của con người được sinh ra trên trần gian này chẳng khác gì như là một "bể khổ" (theo cảm quan của Phật giáo), hay như là một cuộc lưu đầy ở trong thung lũng châu lệ (theo cảm nhận của Kitô giáo trong Kinh Salve Regina Lạy Nữ Vương), một cảm nhận đầy tính chất bi quan như được Ông Gióp bày tỏ trong Bài Đọc I hôm nay:

 

"Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: 'Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối'. Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".

 

Tuy nhiên, chính vì cuộc đời bất hạnh của mình trên trần gian này mà con người, theo lý thuyết, mới không bị hay khó bị trói buộc vào những gì là tạm bợ mau qua trên trần gian này, trái lại, có thể nhờ đó mà họ tìm kiếm những gì là hạnh phúc nhất, chân thật nhất và thiện hảo nhất, tìm kiếm một sự sống viên mãn vô cùng bất tận, bằng một lòng tin tưởng vào Đấng Tối Cao, hơn là tin vào mình, tin vào khả năng tự độ ảo tưởng của mình, một Đấng Tối Cao toàn năng có thể giải cứu họ, nhất là vào những lúc họ cảm thấy đau thương đến độ "giập nát tâm can", như tâm tình của họ được chất chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Hãy ngợi khen Chúa, vì Người hảo tâm; hãy ca mừng Thiên Chúa chúng ta, vì Người êm ái, thực Người rất đáng ngợi khen. Chúa xây dựng lại Giêrusalem, tập họp con cái Israel phân tán.

2) Chính Người chữa những kẻ giập nát tâm can, và băng bó vết thương của lòng họ. Người ấn định con số các ngôi sao, và gọi đích danh từng ngôi một.

3) Chúa chúng ta cao cả và mãnh liệt quyền năng, sự khôn ngoan của Người thực là vô lượng. Chúa nâng cao những kẻ khiêm cung, Người đè bẹp đứa ác nhân xuống tận đất.

 

Đúng thế, con người không thể nào tự cứu được mình cho khỏi hầu quả của nguyên tội là đau khổ và chết chóc về thể lý, cùng với những băng hoại về tâm linh, bao gồm tình trạng mù quáng nơi trí khôn và yếu nhược nơi ý chí, đến độ cuộc chiến nội tâm của họ giữa lành và dữ, nếu họ còn lương tâm, đã khiến họ phải cùng với Thánh Phaolô than lên rằng: "Bởi đó tôi khám phá ra cái luật là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy xuất hiện ngay sự ác. Con người nội tâm của tôi vui thích luật của Thiên Chúa; nhưng các chi thể của tôi lại hướng về một thứ luật khác chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong thứ luật tội lỗi vẫn tiềm tàng trong các chi thể của tôi. Tôi thật là một con người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi cái thân xác chết chóc này đây? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!" (Roma 7:21-25).

 

Phải, chính "Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta", "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" mới có thể cứu loài người đã vướng mắc nguyên tội chúng ta mà thôi, thành phần đã từ thân phận làm con cái Thiên Chúa ngay từ ban đầu tự nguyện trở thành nô lệ của Satan và đồng bọn ngụy thần của hắn, những tác nhân "gieo rắc sự chết ngay từ ban đầu" (Gioan 8:44), cho đến khi Chúa Giêsu Kitô xuất hiện để phá hủy vương quốc của ma quỉ và thiết lập vương quốc của Thiên Chúa: "Ai phạm tội, thì là người của ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sỡ dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá hủy công việc của ma quỷ" (1Gioan 3:8).

 

Đó là lý do, trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở cả hai câu chính yếu nhất về việc làm và lời nói của Chúa Giêsu, Thánh ký Marco đều nhắc đến cùng một sự kiện then chốt bất khả thiếu, và đều liên quan đến ma quỉ (được người viết gạch dưới để chứng thực): "Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn... Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người."... "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa. Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ".

 

Nếu Chúa Kitô chỉ chữa lành bệnh tật mà không khu trừ ma quỉ thì Người giống như vị thày thuốc chỉ chữa triệu chứng mà không chữa cho tận tuyệt gốc chứng bệnh vậy. Nếu việc chữa lành bệnh nạn tật nguyền của con người là chữa lành hậu quả của nguyên tội nơi con người, thì việc trừ quỉ cho con người là việc giải thoát con người khỏi thân phận làm nô lệ ma quỉ, là việc chiếm lại thành phần nạn nhân con tin nhân loại đã và đang bị lọt vào tay bọn cướp ma quỉ. Nếu hiện tượng quỉ ám liên quan tình trạng con người nạn nhân nào đó bị ma quỉ chi phối điều khiển bao gồm cả thân xác của họ, thì hiện tượng quỉ ám này cũng có thể áp dụng cho bất kỳ trường hợp nào con người chiều theo chước cám dỗ của ma quỉ. Thật ra, nói chung, ở một nghĩa nào đó, con người ai cũng bị quỉ ám, bởi nơi bất kỳ ai trong họ cũng đều có sẵn nội công của thần dữ, có nọc độc của rắn quỉ, đó là các thứ đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, những độc chất gian dối chết chóc do ma quỉ tiêm nhiễm vào trần gian ngay từ ban đầu qua hai nguyên tổ nói chung và qua nữ nguyên tổ Evà nói riêng.

 

Một hoa trái tuyệt vời cho thấy cuộc vượt qua từ sự chết gây ra bởi ma quỉ mà vào sự sống được thông ban từ Chúa Kitô, "Người Con duy nhất đến từ Cha.. đầy ân sủng và chân lý", đó là chàng thanh niên Saulê, một tín đồ nhiệt thành (đến cuồng tín) với Do Thái giáo một cách chân tình, nhưng lại hoàn toàn nhầm lạc, cho tới khi chàng bị quật ngã trong lúc hung hăng đi bách hại Kitô hữu tiên khởi, bởi một ánh sáng từ trời (xem Tông Vụ 9:3-4). Sau khi được giải phóng, chàng đã trở thành một Đại Tông Đồ Dân Ngoại, cho đến độ ngài không thể không rao giảng Tin Mừng ngài đã lãnh nhận và dám hy sinh tất cả cho phần rỗi của anh em mình, như chính ngài đã tự thú trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo đoàn Corintô trong Bài Đọc II hôm nay: 

 

"Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.... Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng".

 

 


 

Thứ Hai


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 1, 1-19

"Thiên Chúa phán: và xảy ra như vậy".

Trích sách Sáng Thế.

Từ nguyên thủy Thiên Chúa đã tạo thành trời đất. Ðất còn hoang vu trống rỗng, tối tăm bao trùm vực thẳm, và Thần trí Thiên Chúa bay sà trên mặt nước.

Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng". Và có ánh sáng. Thiên Chúa thấy ánh sáng tốt đẹp, Người phân rẽ ánh sáng khỏi tối tăm. Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, tối tăm là đêm. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.

Thiên Chúa phán: "Hãy có một vòm trời ở giữa nước, phân rẽ nước với nước", và Thiên Chúa làm nên vòm trời, và phân rẽ nước phía trên vòm trời với nước dưới vòm trời. Và xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là trời. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.

Thiên Chúa phán: "Nước dưới trời hãy tụ tại một nơi, để lộ ra chỗ khô cạn. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ khô cạn là đất, và Người gọi khối nước là biển. Thiên Chúa thấy tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán: "Ðất hãy trổ sinh thảo mộc xanh tươi mang hạt giống, và cây ăn trái phát sinh trái theo giống nó, và trong trái có hạt giống, trên mặt đất. Và đã xảy ra như vậy. Tức thì đất sản xuất thảo mộc xanh tươi mang hạt theo giống nó, và cây phát sinh trái trong có hạt tuỳ theo loại nó. Và Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.

Thiên Chúa còn phán: "Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên hai vầng sáng lớn: Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm chủ ban đêm; và Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi sáng trên mặt đất, và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối tăm. Thiên Chúa thấy tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 103, 1-2a. 5-6. 10 và 12. 24 và 35c

Ðáp: Nguyện cho Chúa hân hoan vì công cuộc của Chúa (c. 31b).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Ngài rất ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác. - Ðáp.

2) Ngài dựng vững địa cầu trên nền tảng, cho tới muôn đời nó chẳng lung lay. Ngài dùng biển che phủ nó như áo che thân, trên ngọn núi non muôn ngàn nước đọng. - Ðáp.

3) Ngài lệnh cho mạch nước tràn ra thành suối, chúng chảy rì rào giữa miền non núi. Bên cạnh chúng, chim trời cư ngụ, từ trong ngành cây vang ra tiếng hót. - Ðáp.

4) Lạy Chúa, thực nhiều thay công cuộc của Ngài! Ngài đã tạo thành vạn vật cách khôn ngoan, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa. - Ðáp.

  

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 6, 53-56

"Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh.

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 


   

Suy niệm

 

 

 

    "Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh" - "qua một buổi chiều và một buổi sáng"


Hôm nay, Thứ Hai Tuần V Thường Niên, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kéo dài tới Thứ Tư Lễ Tro mở đầu Mùa Chay hằng năm, lại càng rõ nét hơn bao giờ nơi Bài Phúc Âm hôm nay, một bài phúc âm được Thánh ký Marco thuật lại về quyền năng chữa lành của Người như sau:

"Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Thật vậy, cảnh tượng được Bài Phúc Âm hôm nay trình thuật đã làm cho chúng ta thấy được hình ảnh đáng thương của thành phần dân chúng đau khổ bởi tật nguyền bệnh nạn cần được chữa lành luôn sống trong hy vọng, đợi chờ và tìm kiếm Đấng Cứu Tinh của mình: "nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng". 

Bài Phúc Âm hôm nay còn cho thấy cả hình ảnh chính yếu về một Đấng Cứu Thế đầy quyền lực, đến độ Người không cần trực tiếp giơ tay đụng đến bất cứ một bệnh nhân hay một người bị tật nguyền nào, thế mà họ vẫn được chữa lành, chỉ cần họ tin tưởng sờ đến gấu áo của Người (chứ không phải hay không cần chạm đến thân xác của Người) là đủ: "tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".

Hiện tượng chữa lành hay được chữa lành kiểu mới, hoàn toàn không theo truyền thống này, xuất phát từ sáng kiến và hành động đầy đức tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm ở bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước, một người đàn bà đã được Chúa Giêsu có ý công khai hóa việc bà làm giữa một đám thật đông đang chen nhau theo Người lúc ấy. Biết được cái mẹo vặt mà tuyệt này, dân chúng bảo nhau làm, vừa giản tiện vừa mau chóng nữa, giúp cho chính Chúa Giêsu cũng có thể nhờ đó chữa lành nhiều người trong một thời gian ngắn. 

Hiện tượng chữa lành như trong bài Phúc Âm hôm nay còn xẩy ra cả ở nơi Thánh Tông Đồ Phêrô nữa, như Sách Tông Vụ thuật lại ở đoạn 5 câu 15-16, một vị thánh có một thần lực đến độ cả đến bóng của ngài đi ngang qua phủ trên ai thì người ấy được chữa lành, một thần lực bề ngoài có thể hơn cả chính bản thân Chúa Kitô, Đấng đã khẳng định trước với các môn đệ ở Bữa Tiệc Ly rằng "ai tin vào Thày ... họ sẽ làm được những việc lớn lao hơn những gì Thày làm, vì Thày về cùng Cha(Gioan 14:12).

Đúng thế, cho dù thành phần tật nguyện bệnh hoạn không cần sờ đến gấu áo của Thánh Phêrô, như gấu áo của Chúa Kitô, mà chỉ cần được bóng của ngài thoáng qua thôi đã được chữa lành, thì thần lực xuất phát từ ngài cũng không phải tự ngài và của ngài, mà là bởi Chúa Kitô ở trong ngài, như cây nho thông nhựa sống của mình cho cành nho, nhờ đó và vì thế chỉ có cành nho (là các môn đệ của Người) mới sinh trái và mới có thể sinh hoa trái, chứ hoa trái không bao giờ xuất phát từ chính thân nho (là Chúa Kitô).

Vấn đề chính yếu ở đây có thể chứng thực Đức Giêsu Nazarét là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" là thần lực của Người và là thần lực từ Người xuất phát, ngoài ra không bao giờ có một con người thuần túy nào ở trên đời này như Người, có thể chữa lành cho con người ta, không phải chỉ bằng cách trực tiếp đặt tay, đụng chạm đến con người cần được chữa lành, mà chỉ cần bằng gấu áo của Người, thậm chí còn qua cả thành phần môn đệ trung gian của Người sau này nữa.

Cách thức chữa lành bằng gấu áo và qua trung gian môn đệ như thế là hình bóng tiên báo về bản chất thần linh cùng tác dụng thần linh nơi các Bí Tích của Chúa Giêsu, những khí cụ thần linh được Người thiết lập để tiếp tục hiện diện với Giáo Hội cho đến tận thế, và qua thừa tác vụ của Giáo Hội trong việc cử hành cùng ban phát các Bí Tích Thánh, Người tiếp tục chữa lành cho chung nhân loại và riêng đàn chiên của Người, đến độ chính Giáo Hội đã trở thành bí tích cứu độ của Người và cho Người (xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 1).

Thế nhưng, về phần người được chữa lành hay muốn được chữa lành thì vấn đề quan trọng và then chốt đối với họ là tin tưởng. Bằng không, cho dù Chúa Kitô có thần lực đến đâu chăng nữa, Người cũng chẳng có tác dụng thần linh gì nơi họ, dù họ có tật nguyện bệnh nạn về cả phần xác lẫn phần hồn đáng thương đến đâu chăng nữa.

Như thế không phải là thần lực của Chúa Giêsu có giới hạn và bị bất lực trước những ai không chấp nhận Người, và do đó Người không làm gì được họ, cho dù Người hết sức muốn thông ban và cứu độ, trái lại, chính đương sự tự vô hiệu hóa thần lực cứu độ vô cùng linh hiệu của Người nơi bản thân của họ, và chính bản thân họ cũng chứng thực là thần lực chữa lành của Người chỉ giành cho người nào xứng đáng lãnh nhận mà thôi, một thứ vô cùng quí báu của Người như thế không thể nào lấy quẳng cho loài chó hay loài heo dơ bẩn (xem Mathêu 7:6).

"Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày nhất..., thứ hai..., thứ ba..., thứ tư". Đó là câu Thánh Kinh của Sách Khởi Nguyên ở Bài Đọc 1 hôm nay, một câu cho thấy rất thích hợp với sự kiện Chúa Giêsu chữa lành cho các bệnh nhân bằng thần lực của Người trong Bài Phúc Âm hôm nay. Tại sao theo quan niệm và cảm nhận chung của nhân gian từ trước đến nay thì một ngày được bắt đầu từ sáng đến tối, đằng này 6 ngày tạo dựng của Thiên Chúa lại hoàn toàn ngược hẳn, từ chiều tối tới sáng mai?

Đúng thế, đó là định luật tạo dựng của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mọi sự từ mầm mống ("chiều") chứ không phải vừa tạo dựng nên tất cả mọi sự đã hoàn toàn nguyên vẹn hình hài tầm vóc của mình, đã toàn hảo ("sáng"), và chỉ từ mầm mống chưa thành toàn ấy hay còn bất toàn ấy mới phát triển cho tới khi thành toàn đúng như tầm vóc theo từng giống loại riêng biệt của mình, đúng như ý định và dự án tạo dựng của Thiên Chúa Hóa Công vô cùng thiện hảo, khôn ngoan và toàn năng, Đấng, qua việc quan phòng thần linh của mình, tiếp tục ở với tạo vật của mình cho tới khi tất cả những gì Ngài muốn được thể hiện nơi chúng nói chung và loài người nói riêng.

Bởi vậy mà chung tạo vật và riêng loài người được dựng nên để Thiên Chúa tỏ mình ra, và chúng càng bất toàn thì lại càng sáng tỏ Vị Thiên Chúa toàn thiện. Sự kiện Chúa Giêsu chữa lành cho đủ mọi thứ bệnh nhân bằng thần lực cứu độ của Người là một chứng thực cho dự án thần linh tạo dựng và quan phòng của Thiên Chúa theo chiều hướng: "Qua một buổi chiều và một buổi sáng": "Đó là ngày Chúa đã làm nên; chúng ta hãy hoan hỉ và mừng vui về ngày ấy" . (Thánh Vịnh 118:24).


Thánh Giêrônimô Emiliani và Thánh Josephine Bakhita Trinh Nữ

8/2

 

 

8 Tháng Hai
Thánh Giêrôme Emiliani
(1481 - 1537)





Năm 1528, người miền bắc Ý phải trải qua một nạn đói thê thảm do sự bóc lột của bọn quân phiệt Tây Ban Nha. Quay lại cuốn phim cảnh đói khổ của đồng bào họ, trong đầu óc người dân Ý không một ai mà không phải rùng mình kinh sợ. Những phần đất đai trù phú nhất cũng hoá hoang vu, nơi hoành hành của từng bầy sói đói. Từ năm 1528 cơn đói đã lên tới tột độ. Dân chúng trước đây vẫn không quen ăn thịt chó, mèo, chuột, nay coi đó như những món cao lương mỹ vị. Những con người sống giở chết giở vì đói lũ lượt kéo về thành Vênêtia (Venise) khiến ở đây cũng bị đói lây. Bên những bàn tay thực dân bóc lột, trước những cùng cực khốn khổ đó, người ta thấy không thiếu những bàn tay anh hùng, quảng đại, bác ái và hăng hái hoạt động, đã giang rộng ra để đón tiếp, nâng đỡ và xoa dịu những nhịp đập cồn cào của bao tử rỗng tuếch. Trong số những vị anh hùng ân nhân của nhân loại đó, phải kể vào hàng đầu, con người quý phái của thành Vênêtia là Giêrônimô Êmilianô mà chính tên theo tiếng ý là Girolamo Miani.
Phải chăng con người có đức bác ái anh hùng đó sinh ra đã sẵn có một nếp sống như thế, hay cũng đã phải ba chìm bẩy nổi rồi mới được như thế? Cứ nhìn vào con người thánh Inhaxiô vị sáng lập Dòng Tên, chúng ta đã có một câu trả lời khá đầy đủ rõ rệt.
Vênêtia, thuộc Ý, về mạn đông bắc, trên bờ biển Adriatica, là một thành phố thơ mộng “bồng bềnh” giữa làn nước biếc. Năm 1481, Vênêtia hân hạnh được đón nhận một em bé chào đời, em bé đó mai ngày sẽ là vinh dự cho Vênêtia nói riêng và cho Giáo hội Công giáo nói chung: Girolamo Miani hay Giêrônimô Êmilianô.
Lớn lên, Êmilianô gia nhập quân đội như Inhaxiô. Nhưng Inhaxiô luôn sống trong trật tự với một tinh thần kiêu hãnh sẵn có trong huyết thống Tây Ban Nha; còn Êmilianô có thể nói được lại sống thời thanh xuân bạt tử, hiếu chiến và vui chơi như bao quân nhân đồng thời đồng hương của ngài.
Khi còn là một sĩ quan đầy tự tin và khô đạo, chỉ huy một pháo đài của thành phố Venice, Giêrôme Emiliani bị bắt sau vụ tấn công của địch thủ là Liên Minh Cambrai, quân bảo hoàng của thành Castelnôvô gần Trêvi (Trévise) ngài bị bắt và bị xiềng xích. và bị nhốt trong một tháp canh. Chính trong thời gian tù đầy này, Giêrôme đã có thời giờ suy nghĩ, và ngài quyết định thoát khỏi xiềng xích ràng buộc chính mình. Ngài khước từ mọi quyến luyến của thế gian và trở về với Thiên Chúa.
 
Sau khi vượt thoát ngục tù, ngài treo xiềng xích ở nhà thờ Treviso gần đó - như để nói lên lòng biết ơn đã được tự do không những về phần xác mà còn được giải thoát phần tinh thần.

Nhân bị chiến thương mà đã xoay hẳn lại cuộc đời. Và cũng như Inhaxiô, Êmilianô vừa được Đức Mẹ cứu một cách lạ, liền đến tạ ơn Đức Mẹ thành Trêvi mà dân thành Vênêtia rất sùng mộ, và quyết tâm hiến thân phụng sự Người. Để chuộc lại quãng đời quá khứ không tốt đẹp mấy, ngài hằng ra sức thống hối và thực hành bác ái. Ngài thường nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu nhân từ, xin hãy đối xử với con như vị cứu tinh của con, chứ đừng như vị quan án công thẳng”.
Ít lâu sau Êmilianô được thăng làm thị trưởng thành phố Castelnuôvô một thời gian. Nhưng ngài đã không màng tưởng công danh, ngài lui về Vênêtia, chuyên cần giáo huấn các cháu và lo tự trau dồi học thức chuẩn bị chịu chức linh mục. Năm 1518, ngài thụ phong linh mục và từ đó tận hiến hoàn toàn cho công cuộc bác ái và kết thân với Gioan Phêrô Carapha Giám mục thành Kiêti đồng thời nhận Carapha làm cha linh hướng.
Năm 1528 một năm đói kém khủng hoảng, như đã nói trên, lại thêm bệnh truyền nhiễm lan tràn đó đây khiến tử thần càng thêm lộng hành dữ dội. Người chết đầy đường không ai chôn cất. Cha Êmilianô bán tất cả đồ đạc của ngài để cứu trợ những người đồng hương khốn khổ, đêm đêm ngài đi lượm xác chết đem chôn táng cẩn thận. Vì quá tận tâm ngài đã bị lây bệnh và cơn bệnh đã nên một dịp tập luyện rất tốt cho cuộc đời trọn lành của ngài. Được khỏi bệnh, cha bán hết mọi của tư hữu, để hoà mình hoàn toàn với những kẻ đói nghèo mà ngài yêu mến; ngài ăn vận như những người ăn mày. Nhất là khi thấy từng bầy trẻ mồ côi, vất vưởng, không ai màng đến, ngài thu tập chúng lại, lập thành cô nhi viện tại San Rocco. Ở đây ngài lo săn sóc chúng hồn xác. Ngài thật là một nhà dậy giáo lý nhiệt thành, có biệt tài về cách dậy giáo lý theo phương pháp đối thoại, đồng thời cha chăm lo dậy thủ công cho chúng. Nhờ đó ngay từ thiếu thời, chúng đã quen chịu khó để không ăn bám vào người khác như lời người cha hiền của chúng thường nhắc nhủ chúng: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, cũng như thánh Phaolô xưa thường khuyên nhủ giáo đoàn Texalonica rằng: “Ai không làm thì không được ăn” (2 Tx 3, 11)
Lòng bác ái của cha Êmilianô thực như nước triều dâng; dâng qua miền bãi biển Vênêtia, rồi tràn vào mãi trong nội địa các thị trấn Brescia, Bergame và cả Milanô nữa. Ở Brescia và Bergame ngài thiết lập nhiều cô nhi viện. Riêng ở Bergamô ngài còn lập một nhà cải huấn những thiếu nữ trụy lạc để đưa họ về đường ngay nẻo chính. Ngài còn lo khuếch trương chương trình hoạt động của mình bằng cách giáo huấn dân chúng nông thôn, săn sóc bệnh nhân. Có nhiều linh mục ưu tú và giáo dân sốt sắng cộng tác với ngài. Nhờ thế mà ngài thành lập được một tu hội, trước hết chuyên lo điều khiển các cô nhi viện do ngài sáng lập, sau đó lo cho cả những kẻ khốn khó, những người nghèo nàn, đau yếu, dốt nát. Nhân việc đặt trụ sở tại Somasca gần Bergamô năm 1532 mà dòng ngài lập mang tên là dòng Somasca và được Đức Giáo Hoàng Phaolô III chấp nhận với sắc lệnh đề ngày 05-07-1540.
Vì quá nhiệt tâm với những con bệnh dịch tễ, nên cha đã lây bệnh mà chết tại Somasca ngày 08-02-1537. Chết đi ngài không kịp chỉ ai nối vị. Vì thế các bạn ngài theo thói quen như cha vẫn làm là hỏi ý kiến nơi Carapha, bấy giờ là Hồng Y và là vị sáng lập dòng Têatinh (Théatinh). Các ngài muốn sát nhập vào dòng Têatinh và Đức Giáo Hoàng uỷ thác công việc cứu xét ý định ấy cho Đức Hồng Y Carapha. Sau bao cuộc thăm dò ý kiến đôi bên, Đức Hồng Y Carapha quyết định ưng chuẩn và được Đức Giáo Hoàng chấp thuận ngày 08-10-1546. Nhưng thực ra mãi năm 1547 mới sát nhập thực sự. Đến năm 1555 hai dòng lại tách ra và năm 1565 các tu sĩ Somasca mới có nhà chính ở nhà thờ thánh Mayô. Pavia lại đứng ra lập thành một dòng riêng biệt lấy tên là dòng “Các Giáo sĩ dòng thánh Mayơ đệ Pavia”. Dòng này hiện nay có mười nhà và tất cả đều ở trên đất Ý.

Nhân loại vẫn chưa hết sự bóc lột đói khổ, bệnh tật… Nhân loại đang chờ đợi kêu gào những bàn tay bác ái lăn xả vào mà nâng đỡ những cơ cực của họ. Chúng ta hãy noi theo tinh thần thánh Êmilianô, biết quên mình phụng sự cho hạnh phúc nhân loại, hầu làm cho đời sống của những người xung quanh ta được bớt phần đau khổ và cay cực một phần nào. Hãy rộng tay ban phát cho kẻ nghèo khó thì sẽ được Chúa thương và trả gấp lại trăm.
Xiềng xích cuối cùng của Cha Giêrôme được tháo bỏ là khi ngài lâm bệnh vì chăm sóc bệnh nhân. Ngài từ trần năm 1537 hưởng thọ 56 tuổi.
 
Ngài được phong Thánh năm 1767, và năm 1928, Ðức Piô XI đặt ngài làm quan thầy các trẻ mồ côi và các em bị bỏ rơi.
 
Lời Bàn
Trong cuộc đời chúng ta, nhiều khi phải tự "giam hãm" mình để thoát khỏi xiềng xích của cái tôi. Khi chúng ta bị "kẹt" trong những trường hợp mà mình không muốn, lúc đó chúng ta mới nhận ra sức mạnh giải thoát của một Ðấng khác. Và chỉ lúc ấy chúng ta mới có thể trở nên một người khác cho những "kẻ tù đầy" và các em "cô nhi" chung quanh chúng ta.
 
Lời Trích
"'Cha của các em cô nhi và người bảo vệ các bà goá là Thiên Chúa trong sự hiện diện thánh thiêng của Ngài. 'Thiên Chúa ban nơi trú ngụ cho những kẻ bị bỏ rơi; Ngài dẫn các tù nhân đến chỗ thành công; chỉ kẻ phản loạn mới phải ở trong phần đất khô khan' (TV 68). Chúng ta không thể quên đi số người ngày càng gia tăng vì bị gia đình và cộng đồng bỏ rơi: đó là người già, trẻ cô nhi, người đau yếu và những người bị tẩy chay. Chúng ta phải chuẩn bị để lãnh nhận nhiệm vụ mới và chức năng mới trong mọi sinh hoạt của con người, và nhất là trong tổ chức xã hội, nếu thực sự muốn thể hiện sự công bằng. Trên tất cả, hành động của chúng ta phải nhắm đến những người và những quốc gia mà, vì những hình thức đàn áp và vì yếu tính của xã hội, họ không có tiếng nói và là nạn nhân của sự bất công" (Sự Công Bằng Trong Thế Giới, Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới 1971).


http://www.sudiepchuaden.com/2018/02/thanh-gierome-emiliani.html và Người Tín Hữu (mầu nâu)

THÁNH JOSÉPHINE BAKHITA

Có một cô bé người dân tộc Châu Phi đang sống an vui hạnh phúc với gia đình ở một miền rừng thì bị bọn buôn người từ miền xuôi đến bắt cóc. Lúc đó em mới mười tuổi thôi. Em nói một thứ tiếng mà bọn buôn người không thể hiểu được nên chúng tự tiện đặt tên em là Duyên May (Bakhita), ra chiều em sa vào tay bọn chúng là một may mắn cho em vì em được theo chúng về thành phố sống. Chúng hành hạ em đủ trò, từ tinh thần đến thể chất. Lúc nào chúng cũng lấy xích sắt tròng vào cổ em. Sau khi chán chê, chúng mang em ra chợ, bán em làm con ở cho một tay nhà giầu. Tay này, sau khi lấy được cái gì hắn có thể, cũng chán em nốt và sang em lại cho một tay khác.

Sau cùng, may mắn cũng đến với em vì em được một người công giáo tử tế bỏ tiền ra mua, mang em về nhà sống chung với gia đình ông một thời gian. Sau đó ông này dọn nhà đi về quê và muốn trả tự do cho em. Nhưng nay em tứ cố vô thân, còn biết đi đây nữa, nên em xin ông mang em theo. Quê ông là một xứ công giáo, mọi người đều tốt với em, em được sống hạnh phúc.

Đúng thế, khi vị lãnh sự trở về Ý vì lý do chính trị thì Bakhita cũng xin tháp tùng gia đình ông. Mặc dù sau đó cô tiếp tục làm công cho một gia đình khác, cuộc đời Bakhita ở Ý là một cuộc đời hạnh phúc. Cô được đối xử tử tế và được tôn trọng.

Cô cũng làm quen với các nữ tu dòng Bác Ái Canossa ở Venice; chính họ là những người đã nói với cô về Thiên Chúa là Ðấng mà tự nhiên cô bị thu hút đến với Người. Sau nhiều tháng học hỏi, cô được tháp nhập vào Giáo Hội qua các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Rước Lễ. Cô lấy tên mới là Josephine để đánh dấu một cuộc đời mới trong Ðức Kitô.

 

Vài năm sau Josephine gia nhập tu viện Bác Ái Canossa ở Venice. Trong 50 năm tiếp đó, cô là một nữ tu nổi tiếng về đạo đức và công việc bác ái. Trong suốt cuộc đời tu trì, sơ Josephine đảm trách các công việc rất tầm thường nhưng cần thiết cho nhà dòng - nấu ăn, may vá, giữ cửa tu viện ở Schio, gần Padua. Thái độ hiền lành, hòa nhã và giọng nói êm ả của sơ là sự an ủi cho những người nghèo và người đau khổ thường đến với nhà dòng xin giúp đỡ.
 
Mặc dù tuổi tác đem lại sức khỏe yếu kém, sơ Josephine vẫn là một nhân chứng của hy vọng và thiện tâm. Trong những giờ phút cuối đời, dường như sơ sống lại những ngày kinh hoàng của đời nô lệ. Người ta nghe sơ rên rỉ nói người y tá rằng "Làm ơn nới lỏng cái xích sắt ấy một chút... nó nặng quá!"
 
Sơ được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước năm 1992. Vào năm kế đó, khi Ðức Thánh Cha thực hiện cuộc tông du sang Phi Châu, mẹ bề trên dòng Canossa đã dâng lên ngài các di tích của Chân Phước Josephine. Trong bài giảng, Đức giáo hoàng nói: "Hãy vui lên, hỡi tất cả Phi Châu! Bakhita đã trở lại với ngươi: ngài là con gái của Sudan, bị bán làm nô lệ như một món hàng, tuy thế ngài vẫn tự do: tự do của các thánh".
 
Vào tháng Mười 2000, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài.
 
Lời Trích
"Khi nhìn thấy mặt trời, mặt trăng và muôn tinh tú, tôi tự nhủ: 'Ai có thể là Chủ Nhân của những vật mỹ miều ấy?' Tôi vô cùng khát khao để thấy Người, để biết Người và để thần phục Người" (Chân Phước Josephine Bakhita).
 

 

Người Tín Hữu / Theo Vết Chân Người và http://giaophanvinhlong.net/thanh-bakhita-josephine.html




 

 

 

 

 

 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) St 1, 20 - 2, 4a

"Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta".

Trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa phán: "Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát và loài chim bay trên mặt đất, dưới vòm trời". Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật sống động mà nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt đất". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.

Thiên Chúa lại phán: "Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc, loài bò sát và dã thú dưới đất tuỳ theo loại". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã dựng nên dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc và mọi loài bò sát dưới đất tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp; và Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất". Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa; Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt đất, và thống trị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.

Thế là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Chúa chúc phúc và thánh hoá ngày thứ bảy, vì trong ngày đó, Người nghỉ việc tạo thành.

Ðó là gốc tích trời đất khi được tạo thành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 8, 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu (c. 2a).

Xướng: 1) Khi con ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, vầng trăng và muôn tinh tú mà Chúa gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa nhớ tới? con người là chi mà Chúa để ý chăm nom? - Ðáp.

2) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang, Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. - Ðáp.

3) Nào chiên nào bò, thôi thì tất cả, cho tới những muông thú ở đồng hoang, chim trời với cá đại dương, những gì lội khắp nẻo đường biển khơi. - Ðáp.

  

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 1-13

"Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy". Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mark 7, 1-13


Suy niệm


  

    Thành phần biệt phái và luật sĩ thuộc loại chính hiệu "made in Jerusalem"


Hôm nay, Thứ Ba Tuần V Thường Niên, Bài Phúc Âm vẫn tiếp tục chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kéo dài tới Thứ Tư Lễ Tro mở đầu Mùa Chay hằng năm.

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tỏ mình ra, đúng hơn, thông mình ra, hay thông ban ân sủng của mình ra qua việc chữa lành bệnh nạn tật nguyền, thậm chí bằng cả gấu áo của Người cho những ai tin tưởng chạm đến gấu áo ấy, thì trong Bài Phúc Âm hôm nay, Người tỏ mình ra "là chân lý" (Gioan 14:6), Người thông ban chân lý của Người và từ Người ra cho những ai mù quáng, hay nói cách khác, Người mang chân lý đến cho những ai về tâm linh cần chữa lành cái vô thức hay mù quáng của họ, như những người bị bệnh nạn tật nguyền về phần xác cần được Người chữa lành về thể lý vậy.

Thật thế, thành phần mù quáng về tâm linh cần được "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" chữa lành cho đó là "những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem", tức là thành phần giữ luật, thông luật và dạy luật thuộc loại thế giá, thế lực, thuộc loại chính qui, chính gốc, bởi họ có dính dáng tới giáo đô "Giêrusalem", như thể các vị giáo sĩ ở các nước Công giáo trên khắp thế giới ngoài Âu Châu và Tây phương, như ở Á Châu hay Phi Châu hoặc Mỹ Châu Latinh có bằng cấp ở Giáo đô Roma vậy. 

Thành phần biệt phái và luật sĩ thuộc loại chính hiệu "made in Jerusalem" này đã bị khuyết tật hay bị mắc tật nguyền bẩm sinh di truyền mù quáng này ở chỗ nào, nếu không phải ở chỗ đúng như lời Chúa Giêsu nhận định và khiển trách họ trong bài Phúc Âm hôm nay: 

"Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". 

Phải, cái tật nguyền mù quáng của họ là ở chỗ "giả hình", bôi bác ngoài "môi miệng" chứ không thật "lòng", sống một cuộc đời "giả dối", ở chỗ "dạy những giáo lý và những luật lệ loài người", như những gì được Thánh ký Marco liệt kê trong Bài Phúc Âm hôm nay: "không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng". 

Đáng lẽ, nếu thực sự xứng danh là thành phần thông luật thì họ phải nắm bắt được tất cả sự thật của luật và về luật, liên quan đến mục đích của luật và tinh thần của luật, từ đó họ mới có thể dạy luật cho dân chúng hiểu mà theo, để cả họ lẫn dân đều giữ luật đúng với những gì Thiên Chúa là Đấng ban luật qua Moisen mong muốn. 

Đằng này, chính vì  họ coi trọng loài người hơn Thiên Chúa, hay nói ngược lại, coi Thiên Chúa không bằng loài người, coi giá trị nhân bản cao hơn giá trị thần linh, như chính Chúa Giêsu nhận định "các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy", mà họ đã giảng dạy một cách sai lầm, điển hình là họ đã dạy sai lạc điều răn thảo kính cha mẹ trong 10 Điều Răn Chúa dạy, như Chúa Giêsu đã vạch ra cho họ thấy trong Bài Phúc Âm hôm nay:

"Thật vậy, Môsê đã nói: 'Hãy thảo kính cha mẹ', và 'ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử'. Còn các ngươi thì lại bảo: 'Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)', và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi hủy bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".

Sở dĩ thành phần chính hiệu Giêrusalem biệt phái và luật sĩ thông luật trong bài Phúc Âm hôm nay bị Chúa Giêsu vạch trần bộ mặt giả hình và lối sống giả dối của họ ra như vậy là vì họ đã dẫn giải sai ý nghĩa của lề luật liên quan đến ý của Đấng ban lề luật cho con người, và những dẫn giải của họ hoàn toàn theo khuynh hướng tự nhiên muốn sống hưởng thụ và dễ chịu hơn là hy sinh và chịu khó, kể cả đối với những bậc sinh thành dưỡng dục họ. 

Hiện tượng và tình trạng thiên lệch đầy chủ quan và vị kỷ này của "những người biệt phái và luật sĩ từ Giêrusalem" này cũng không có gì là khó hiểu, bởi vì một khi họ coi nhẹ Thiên Chúa, coi luật của Ngài không bằng tục lệ loài người, thì cha mẹ loài người của họ cũng đâu có giá trị gì đối với họ mấy nữa. 

Và như thế, ở một nghĩa nào đó, họ đã lấy họ làm cùng đích, khi họ coi luật lệ của Thiên Chúa chỉ là phương tiện để họ hưởng thụ, ở chỗ, một đàng bề ngoài họ có vẻ tuân thủ kỹ lưỡng lề luật đấy, nhưng về tinh thần họ lại tuân thủ lề luật một cách chủ quan, nghĩa là, việc họ giữ luật là đường lối tinh ranh để họ có thể nhờ đó thỏa mãn ý riêng của họ một cách chính đáng, và như thế cùng nhờ thế họ mới có thể làm chủ lề luật, thay thế vị trí của chính Đấng lập luật và ban luật cho họ.

Cho dù con người có vô tình hay cố ý phủ nhận quyền hành của Thiên Chúa về phương diện lề luật luân lý và đạo lý, nhưng họ vẫn phải tuân theo định luật thiên nhiên tuần hành chi phối đời sống của họ, nhất là chi phối đến chính sự sống của họ. Ở chỗ, chính họ không biết được giờ họ qua đời, cũng như chính họ cũng chẳng được quyền chọn sinh ra làm người hay chăng, chọn phái tính, chọn tương lai, chọn cách chết... là tất cả những gì thuộc quyền hành của Đấng quan phòng mọi sự theo dự án thần linh vô cùng khôn ngoan của Người trong việc tiếp tục công cuộc tạo dựng của Ngài, một công cuộc tạo dựng được ghi dấu bằng các định luật bất di bất dịch nơi thiên nhiên tạo vật liên quan đến nguồn gốc của chúng cũng như vị trí của chúng trong vũ trụ bao la hầu như bất tận này. Chẳng hạn những định luật được Sách Khởi Nguyên trong Bài Đọc 1 hôm nay ấn định sau đây:

1- Nước là nguồn sống của các sinh vật: "Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát và loài chim bay trên mặt đất, dưới vòm trời. Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật sống động mà nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp";

2- Mỗi loài tự chúng có khả năng bảo tồn và phát triển theo giống loại của mình: "Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: 'Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt đất'";

3- Đất là chất liệu làm nên các loài thú vật: "'Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc, loài bò sát và dã thú dưới đất tuỳ theo loại'... Thiên Chúa đã dựng nên dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc và mọi loài bò sát dưới đất tuỳ theo giống".

4- Con người được tạo dựng nên theo hình ảnh thần linh có nam có nữ: "Thiên Chúa phán: 'Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất'. Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa; Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ".

5- Con người được Thiên Chúa ban quyền thay Ngài làm chủ và phát triển trái đất: "Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: 'Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt đất, và thống trị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất'. Thiên Chúa phán: 'Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất'".

 

 

 

Thứ 


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 2, 4b-9. 15-17

"Thiên Chúa đặt con người vào vườn địa đàng".

Bài trích sách Sáng Thế.

Trong ngày Thiên Chúa tạo dựng trời đất, thì chưa có bụi cây nào mọc ngoài đồng, không có một cây rau cỏ nào nẩy mầm ngoài đồng ruộng, vì Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa rơi xuống đất, và chưa có người để trồng trọt, nhưng lúc đó mạch nước từ đất vọt lên, tưới khắp mặt đất.

Vậy Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống.

Thiên Chúa lập một vườn tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên.

Thiên Chúa cho từ đất mọc lên mọi thứ cây trông đẹp, ăn ngon, với cây sự sống ở giữa vườn, và cây biết lành dữ.

Vậy Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa và coi sóc vườn.

Và Thiên Chúa truyền lệnh cho con người như sau: "Ngươi được ăn mọi thứ trái cây trong vườn, nhưng chớ ăn trái cây biết lành dữ, vì ngày nào ngươi ăn nó, ngươi sẽ phải chết".

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 103, 1-2a 27-28, 29bc-30

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa (1a).

Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi, Ngài rất ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác. - Ðáp.

2) Hết thảy mọi vật đều mong chờ ở Chúa, để Ngài ban lương thực cho chúng đúng thời giờ. Khi Ngài ban cho thì chúng lãnh, Ngài mở tay ra thì chúng no đầy thiện hảo. - Ðáp.

3) Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga. 15, 15b

Alleluia, alleluia - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.- Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7,14-23

"Những gì từ con ngùi ta xuất ra, đó là cái làm cho người ta ra ô uế"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".

Lúc Người lìa dân chúng mà về nhà, các môn đệ hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn ấy.

Người liền bảo các ông: "Các con cũng mê muội như thế ư? Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra".

Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch.

Người lại phán: "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.

Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".

Ðó là Lời Chúa.

 

Image result for Mark 7,14-23

 

 

Suy niệm

 

 

Ổ Chuột Lòng Người

 

 

Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho ngày Thứ Tư tuần V thường niên hôm nay liên quan đến yếu tố chính yếu làm cho con người ta ra dơ bẩn: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế".

 

Sở dĩ Chúa Giêsu cần phải nhắc đến và khẳng định như thế là vì, ở mấy câu ngay trước bài Phúc Âm hôm nay, đã xẩy ra chuyện lệch lạc là  "những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu" (Marco 7:1) để hạch hỏi Người rằng: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" (Marco 7:5), một thứ lệch lạc được Chúa Giêsu lợi dụng ngay vấn đề của họ để vạch ra cho họ thấy khuynh hướng sai lầm của họ như sau: 


"Người đáp: 'Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: 'Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người'. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người'" (Marco 7:6-7)


Ở đây, qua câu Chúa Giêsu công khai khiển trách này, Người không hề có ý chê trách "tập tục của tiền nhân" là những gì hay và có lợi, ít là liên quan đến sức khỏe về thể lý và lịch sự tối thiểu, nên giữ và cần giữ (xem Mathêu 23:23). Và thành phần thày dạy trong dân là luật sĩ và biệt phái này cũng phân biệt kỹ lưỡng đâu là luật Chúa và những điều nào thuộc về luật Chúa, nên trong câu hạch hỏi của mình họ đã sử dụng chính xác cụm từ "tập tục của tiền nhân" chứ không phải luật Chúa hay luật Moisen v.v.


Tuy nhiên, vấn đề thành phần thày dạy trong dân Do Thái này có khuynh hướng và tỏ ra coi thường những cái trọng và coi trọng những cái thường bị Chúa Giêsu là vị Đại Tôn Sư khiển trách đó là, họ chỉ chú ý tới những cái phụ thuộc mà bỏ qua những cái chính yếu. Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã thẳng thắn cho họ biết rằng: "các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người'".

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay hoàn toàn không nhắc gì tới thành phần giả hình đã bắt bẻ các môn đệ của Người về việc các vị không rửa tay trước khi ăn uống, mà nhấn mạnh riêng đến các môn đệ của Người, như thể Người sợ các vị bị ảnh hưởng "men" giả hình (xem Luca 12:1) của thành phần đạo hạnh trí thức giữ luật và dạy luật ấy.

 

 

Bởi thế, ngay sau khi Người đính chính công khai với dân chúng về "những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế", Người mới lợi dụng cơ hội chính các tông đồ tí nữa đã bị tác dụng của men giả hình, ở chỗ các vị đã không thật sự nắm bắt được tất cả ý nghĩa sâu xa của những gì Thày của các vị vừa khẳng định với chung dân chúng. Điều này chứng tỏ thành phần môn đệ tông đồ của Chúa Giêsu thật sự là kém trí thức và đơn sơ thật thà đến dễ bị lôi kéo theo tự nhiên, theo gương mù gương xấu mà không biết. Đó là lý do Chúa Giêsu đã giải thích thêm cho các vị về cả về tiêu cực lẫn tích cực như sau:

 

 

"Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra. Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".


Nghĩa là: 1- Cái xấu từ trong mà ra chứ không phải từ ngoài mà vào; 2- Cái xấu là những gì liên quan đến nội tâm của con người, đến luân lý, đến tội lỗi của con người chứ không phải đến chính sự vật hay sự việc khách quan bên ngoài, cho dù chúng có là gương mù gương xấu là những gì không thể nào không xẩy ra trên thế gian này (xem Mathêu 18:7); 3- Cái xấu là do con người tạo nên chứ không phải từ Thiên Chúa, là do ý con người muốn những gì không đúng ý Chúa, không hợp ý Chúa, phạm đến luật Chúa, trái với lương tâm, hại tới công lý, và chính vì thế mà đó là lý do Chúa Kitô đã bảo móc mắt và chặt tay nếu chúng nên dịp tội cho mình (xem Mathêu 5:29-30).


Nguyên tắc cái xấu là những gì liên quan đến nội tâm của con người và do nội tâm của con người gây ra hoàn toàn trái với ý muốn vô cùng khôn ngoan và hoàn thiện của Thiên Chúa như thế là những gì đã có ngay từ đầu ở trong Vườn Địa Đường, lúc mà Thiên Chúa mới dựng nên loài người, khi Người, trong Bài Đọc 1 hôm nay, phán cùng nguyên tổ của chúng ta như đặt giới hạn giữa Ngài là Đấng vô hạn và con người là tạo vật hữu hạn của Ngài rằng: "Ngươi được ăn mọi thứ trái cây trong vườn, nhưng chớ ăn trái cây biết lành dữ, vì ngày nào ngươi ăn nó, ngươi sẽ phải chết".


"Cây biết lành biết dữ" 
đây là gì nếu không phải là một hình ảnh tượng trưng cho lương tâm của con người, một lương tâm được Thiên Chúa đặt vào (build-in) trong con người là loài linh ư vạn vật để làm địa bàn hướng dẫn họ trong việc làm lành lánh dữ theo đúng như ý muốn thần linh của Ngài. Con người không được đụng đến lương tâm, bằng không, họ sẽ phải chết khi phạm đến lương tâm, nghĩa là làm mất lòng Chúa, mất ơn nghĩa với Ngài, khi họ gạt bỏ tiếng lương tâm mà theo ý riêng của mình, để thỏa mãn những gì mình thích và mình muốn, cho dù là tốt mấy chăng nữa, lợi mấy chăng nữa theo ý nghĩ chủ quan của họ, nhưng trái với ý muốn của Thiên Chúa. 

 

 

 

Ngày 10 tháng 2

Thánh Cô-lát-ti-ca, trinh nữ

lễ nhớ bắt buộc

Thánh nữ là em của thánh Biển-đức, nhà lập luật cho các đan sĩ Tây phương. Thánh nữ chào đời ở Nuốc-xi-a, I-ta-li-a, quãng năm 480. Thánh nữ sống đời thánh hiến ở chân núi Cát-xi-nô, nơi thánh Biển-đức đã lập ra một đan viện nổi tiếng. Thánh nữ qua đời không bao lâu trước anh người (+ năm 547). Chính vì thế, các nữ đan sĩ Biển-đức tôn kính thánh nữ Cô-lát-ti-ca như người mẹ tinh thần của mình.



Tay trinh nữ cầm đèn sáng chói,
Nàng bước vào tiệc cưới thiên thu,
Chính là hôn lễ Đức Vua,
Nước Trời hoan hỷ tung hô chúc mừng.

Nàng dự yến trong cung danh dự,
Sánh duyên cùng Thiên Tử quang vinh,
Chữ trinh xe kết chữ tình,
Nết na đức hạnh công trình bao năm.

Xin chỉ dạy cách ăn thói ở,
Lấy hồng ân che chở phù trì,
Mưu thù cho dẫu tinh vi,
Quyết tâm chống lại, gian nguy chẳng sờn.

Xin Đức Mẹ là gương trinh thục
Hằng cầu thay nguyện giúp chúng nhân,
Ơn thiêng Thánh Tử tuôn tràn,
Tha hương lãnh nhận muôn vàn đỡ nâng.

Lời vinh tụng, quỳ dâng lên Chúa
Đã ban cho trinh nữ thành công,
Triều thần thiên quốc một lòng,
Nghìn thu ca ngợi hát mừng Thánh Danh.

 

Người yêu mến hơn thì mạnh thế hơn

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 10/2 - Bài đọc 2

Trích sách Đối thoại của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng.

Cô-lát-ti-ca là em ruột của thánh Biển-đức ; bà đã sống tận hiến cho Chúa toàn năng từ thời thơ ấu. Bà quen đến thăm anh, mỗi năm một lần. Người của Thiên Chúa đi xuống gặp em ở bên ngoài cổng cách một quãng không xa trong phần đất thuộc đan viện.

Một ngày kia, theo thông lệ, bà đến và người anh khả kính cùng với các môn đệ đi xuống gặp bà. Cả ngày họ cùng nhau ca tụng Thiên Chúa và nói chuyện đạo đức. Khi màn đêm buông xuống, họ dùng bữa với nhau.

Đang lúc còn mải mê nói chuyện đạo đức mà trời mỗi lúc một khuya, thì nữ đan sĩ xin với anh rằng : “Em xin anh đừng bỏ em đêm nay ; chúng ta hãy trao đổi với nhau cho đến sáng về những niềm vui của đời sống trên trời.” Người anh trả lời : “Em ơi, em nói gì vậy ? Anh đâu có thể ở lại ngoài tu phòng.”

Nghe anh từ chối, nữ đan sĩ đặt hai bàn tay lên bàn, các ngón đan vào nhau, rồi gục đầu xuống trên hai tay cầu xin Chúa toàn năng. Khi bà ngẩng đầu lên thì sấm chớp ầm ầm nổi dậy và một cơn mưa như trút nước đổ xuống, khiến cả cha Biển-đức khả kính lẫn các anh em tháp tùng người không sao nhấc chân ra khỏi ngưỡng cửa nơi họ đang đứng.

Bấy giờ người của Thiên Chúa buồn bã bắt đầu than trách rằng : “Em ơi, xin Thiên Chúa toàn năng tha thứ cho em, em đã làm gì vậy ?” Bà trả lời : “Này, em đã xin anh mà anh không chịu nghe, thì em đã xin Thiên Chúa của em và Người đã nghe. Bây giờ nếu anh đi được thì cứ đi, cứ để em lại đây mà về đan viện.”

Như thế là người đã không tự ý ở lại, nhưng bị cầm chân tại chỗ ngoài ý muốn, và cả hai thức suốt đêm, tha hồ trao đổi với nhau những chuyện về đời sống thiêng liêng.

Nếu thánh nữ mạnh thế hơn ông anh, thì đó không phải là chuyện lạ, vì như lời thánh Gio-an đã nói : Thiên Chúa là Tình Yêu. Bà mạnh thế hơn vì yêu mến nhiều hơn, thì đó quả là điều chí lý.

Ba ngày sau, khi người của Thiên Chúa đang ở trong tu phòng, ngước mắt lên thì thấy linh hồn em gái mình lìa khỏi xác vào thiên cung dưới hình chim bồ câu. Vui mừng vì em được vinh quang như thế, người hát thánh vịnh thánh ca tạ ơn Thiên Chúa toàn năng, rồi sai anh em đưa xác bà về đan viện đặt trong ngôi mộ người đã chuẩn bị cho chính mình.

Thế là nấm mồ cũng không thể ngăn cách được thân xác của những người vẫn một lòng một ý với nhau trong Thiên Chúa.

Xướng đápTv 132 (133),1

XKhi bà đan sĩ nài van Thiên Chúa đừng để cho anh bà lìa xa bà, thì

Đvì lòng yêu mến của bà, Chúa ban cho bà hơn cả điều bà đã mong ước.

XNgọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau !

Đvì lòng yêu mến của bà, Chúa ban cho bà hơn cả điều bà đã mong ước.

Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính thánh nữ Cô-lát-ti-ca, xin cho chúng con theo gương người để lại là hết lòng mến yêu phụng thờ Chúa và cảm nghiệm tình thương Chúa ngọt ngào. Chúng con cầu xin




Thánh Scholastica và Thánh Bênêđictô (Anh em sinh đôi)
Ðọc sách Khởi Nguyên trong bộ Thánh Kinh Cựu Ước, ít ra người ta thấy hai trường hợp anh em sinh đôi được diễn tả thật rõ ràng: Ngay từ thai nhi, hai anh em đã "lục ục" tranh giành với nhau. 

Trường hợp hai đứa con sinh đôi của bà Thamar: cậu anh vừa đưa tay ra ngoài và được bà đỡ cột sợi chỉ điều vào tay để đánh dấu đứa nào ra trước, liền bị thằng em " sinh sự" giằng co trong dạ mẹ; cậu anh đành phải rút tay vào, "đi chỗ khác chơi" có trật tự, "nhường lối" cho em ra ngắm ánh mặt trời trước! Tình cảnh đó có lẽ không khỏi gây đau lòng cho bà Thamar. Thật là " gươm con" thâu "lòng mẹ"!  

 

Trường hợp Esau và Giacóp mới "lủng củng" hơn nữa! Hai anh em thường xuyên "chí chóe" với nhau trong bụng mẹ, đến nỗi mặc dầu hiếm con, bà Rêbecca cũng phải than rên đau khổ và xin Ðấng Gia-vê can thiệp! Tới khi Esau vừa lọt lòng mẹ thì bị cậu em Giacóp nắm chặt gót chân.  Cũng may mà Esau đã được nhìn ánh mặt trời trước! Nhưng chưa hết, về sau, Esau phải bán quyền trưởng nam cho Giacóp chỉ vì một bát cháo đậu; rồi bị Giacóp cướp mất chúc lành của cha.  Sự kiện đã khiến Esau nổi cơn lôi đình, quyết tìm dịp giết em.  Trong khi đó, Giacóp phải cao bay xa chạy để trốn mặt anh.  Trước tình cảnh đó, bà Rebecca phải đau lòng xiết bao! Hai anh em sinh đôi Esau-Giacóp đã trở nên " gươm hai lưỡi" đâm thâu lòng bà Rêbecca! 

          

Thế nhưng, lịch sử cho thấy có những trường hợp trái ngược: Hai anh em thương nhau "ra rít" như bóng với hình, thậm chí còn có cùng một ý hướng, một mong ước, cùng dìu dắt nhau tiến tới trên đường thánh đức. Hai anh em thánh Beneđictô và Scholastica là một thí dụ điển hình.

           

Bênêđictô là anh, còn Scholastica là em gái.  Hai anh em sinh đôi năm 480 trong một gia đình đạo hạnh và giầu sang tại thành Nursia, nước Ý. Ngay từ nhỏ cô cậu đã được hưởng một nền giáo dục đạo đời thật chu đáo.  Tình huynh đệ giữa hai anh em ngày càng phát triển sâu xa. Họ thương nhau tha thiết, đồng thời biết thúc giục và giúp đỡ nhau tập tành các nhân đức Công Giáo.  Tuổi hoa niên của Bênêđictô và Scholastica nơi gia đình trôi êm như một giấc mộng đẹp.

           

Về sau, Bênêđictô được gửi học tại Rôma.  Trí thức cũng như nhân đức của chàng tiến không ngừng.  Trong khi đó Scholastica nhan sắc và đức hạnh lưu lại gia đình, đành tạm rời xa anh một thời gian.  Nàng chuyên chăm các việc trong nhà, thích thú cầu nguyện, và ưa đời trầm lặng, mặc dầu nàng sẵn có tâm hồn tươi vui và hoạt bát.

            

Danh tiếng nhân đức và nhan sắc của Scholastica được loan truyền mau lẹ tới các miền lân cận.  Nhiều chàng công tử giầu sang đã ngấp nghé muốn hỏi nàng làm vợ.  Nhưng Scholastica đã quyết dâng hiến đời mình cho Chúa.  Trong khi đó, Bênêđictô chuyên chăm việc học tại Rôma. chàng nghe thấy tiếng Chúa âm thầm gọi chàng cách mầu nhiệm... Cuối cùng chàng đã đáp  lại tiếng Ngài, bằng cách trốn vào hoang địa Subiacô cách Rôma khoảng 40 dặm để sống đời tịch liêu thân mật với Thiên Chúa. 

         

Sau nhiều năm sống khổ hạnh nơi hang Subiacô, tiếng thơm nhân đức của Bênêđictô truyền tụng khắp nơi.  Nhiều người tuốn đến xin làm môn đệ.  Bênêđictô giảng dạy,  làm phép lạ và lập nhiều tu viện.  Tu viện chính được xây cất tại núi Cassinô, cách Rôma 80 dặm. 

          

Trước tấm gương xa lìa vinh hoa phú quí để theo Chúa sống đời khổ hạnh của anh. Scholastica ước ao mãnh liệt được theo gương anh.  Nàng phân chia của cải cho người nghèo, rồi cùng với một tớ nữ tiến về núi Cassinô để xin Bênêđictô hướng dẫn trên đường  nhân đức.  Bênêđictô rất hài lòng về dự tính của em, và xây cho nàng một tu phòng không xa tu viện Cassinô là bao, đồng thời tự tay soạn luật cho em.          

 

Tiếng tăm nhân đức của Scholastica ngày càng lan rộng. Nhiều trinh nữ giã từ xa hoa trần thế, tụ họp quanh nàng để xin cùng chung lý tưởng hiến dâng cuộc đời phụng sự Chúa.  Ðể dung nạp những tâm hồn thiện chí này, Bênêđictô đã khỡi công xây dựng một đan viện cho các chị dòng Biển Ðức tương lai. 

          

Scholastica đương nhiên được coi như vị sáng lập, và là nữ đan viện trưởng  đầu tiên của chị em Biển Ðức; trong khi Bênêđictô vị sáng lập và là tu viện trưởng đầu tiên của dòng anh em Biển Ðức.  Hai anh em sinh đôi đã có cùng một ước mơ, một chí hướng, và một lý tưởng phụng sự Chúa trong đời tu trì trầm lặng và khổ hạnh.                   

Thật vậy, Thánh Scholastica là em gái thánh Bênêđictô, tổ phụ của những người sống đời khổ tu bên Tây phương. Chúng ta biết được chút ít về đời sống của thánh nữ là do cuốn Dialogue, tập hai, của thánh Grêgôriô cả, cuốn sách ghi lại đời sống thánh Bênêđictô và các phép lạ của ngài. Như anh của ngài, thánh nữ Scholastica đã sinh ra tại quận Sabina miền Nursia.

Khi thánh Bênêđictô thiết lập tu viện tại Montê Cassinô, Scholastica cùng với các trinh nữ quây quần bên ngài đã đến ở bên núi, lập thành tu viện Palumbariola, ngài đặt mình dưới sự hướng dẫn của anh, vì ngài biết rằng: không có ai có thể hướng dẫn các linh hồn về trời cách chắc chắn hơn.

Nhưng ngài không hề làm rộn anh mình và chỉ gặp anh mỗi năm một lần vào trước mùa chay, trong một trang trại của tu viện ở miền núi. Một nguyện đường đã được dựng nên tại đây để ghi nhớ những giây phút khôn tả, mà thánh Bênêđictô thông cho em mình ánh sáng thần linh ngài thụ lãnh được và dạy dỗ em mình đường trọn lành của tu sĩ trong thống hối và yêu thương.

Kể từ đó, hai anh em mỗi năm chỉ gặp nhau có một lần tại căn nhà ngoài nội vi tu viện, trước sự chứng kiến của các thầy đồng hành với Bênêđictô.  Thực ra, những lần gặp gỡ này là chỉ để đàm thoại về Chúa và những sự siêu nhiên.

        

Lần cuối cùng hai anh em được gặp nhau xẩy ra ba ngày  trước khi Scholastica giã từ cõi thế.  Hôm đó, sau khi đã đàm thoại lâu giờ... họ đã trải qua một ngày để khen ngợi Chúa và cầu xin hạnh phúc trên trời, bên ngoài khí trời tươi mát vì đã vào xuân, bầu trời trong sáng lạ thường, thánh Scholastica say sưa cảm nếm hương vị của câu chuyện đàm thoại trong khi màn đêm buông dần xuống... lúc đó thánh Scholastica nói với thánh Bênêđictô: - Anh ơi trời khuya rồi, làm sao anh về được. Thôi mình tiếp tục nói chuyện tới sáng về niềm vui cuộc sống trên trời đi.         

Thánh Bênêdictô trả lời: - Em nói chi, anh không thể nhận lời em được. Anh không thể qua đêm ở ngoài nhà dòng được đâu. Tới đây chúng ta đã biết được câu chuyện kết thúc ra sao theo những gì được Thánh Giáo Hoàng Gêgôriô thuật lại trong cuốn Đối Thoại của ngài (mà chúng ta nghe hay đọc trên đây trong phần phụng vụ giờ kinh sách ngày 10/2 hôm nay)     

Anh em giã biệt nhau được ba ngày thì Scholastica từ trần, hưởng thọ 60 tuổi.  Lúc đó, đang cầu nguyện trong phòng, Bênêđictô trông thấy linh hồn em xinh đẹp như chim bồ câu nhẹ nhàng bay về thiên quốc.  Sau khi dâng lời ca tụng Chúa, Bênêđictô liền sai các thầy rước xác Scholastica về tu viện Cassinô và táng trong chính ngôi mộ Bênêđictô đã chuẩn bị cho mình.   

        

Sau cái chết của em, Bênêđictô còn sống thêm 7 năm trong chay tịnh, hy sinh  và hãm mình... Sáu ngày trước khi chết, Ngài ra lệnh mở sẵn cửa mồ. Ngày cuối đời, sau khi lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa như của ăn đàng, Bênêđictô được các thầy giúp đứng dậy, Ngài giơ cao đôi tay lên trời cầu nguyện. Và trong tư thế đó, Ngài thở hơi cuối cùng.  Ngày hôm ấy hai tu sĩ Biển Ðức, Một ở cùng tu viện với ngài, một đang ở xa, được thị kiến cùng một điềm lạ như nhau: họ trông thấy một đường sáng thật huy hoàng trải dài từ tu viện lên bầu trời về phía đông.  Bên cạnh con đường sáng đó có một người dáng vẻ đạo mạo, y phục lộng lẫy.  Người này hỏi hai thầy rằng họ đang chiêm ngắm con đường của ai đó.  Sau khi họ thú thật không biết, người lạ trả lời: - Ðó là con đường mà Bênêđictô, bạn yêu quí của Chúa, đã lên trời.        

           

Bênêđictô qua đời năm 547, hưởng thọ 67 tuổi. 

          

Hai đứa con sinh đôi của bà Thamar đã khởi sự tranh  giành nhau từ trong lòng mẹ.  Hai anh em sinh đôi Esau và Giacóp không  những " chí chóe" với nhau trong bụng mẹ, lại còn "kèn cựa" hiềm thù nhau nhiều năm trời! Nhưng trái lại, hai anh em sinh đôi Bênêđictô và Scholastica thương nhau từ tuổi ấu thơ, cùng dìu nhau về thiên quốc.  Chẳng những mang cùng một tâm tư, thân xác họ còn được chôn trong cùng một tấm mồ.  Tình huynh đệ thắm thiết từ khi lọt lòng mẹ, trải qua suốt cuộc sống, kéo dài tới lúc chết, và còn tồn tại mãi mãi trên trời. 

         

Hiện tại di hài của thánh nữ Scholastica và thánh Bênêđictô được yên nghỉ dưới bàn thờ trong tu viện ở Mont-Cassin. Từ cuối thế kỷ thứ VIII, lịch Phụng Vụ của Mont-Cassin định ngày kỷ niệm Scholastica vào ngày 10 tháng 02. Việc tôn kính thánh nữ được lan rộng, nhất là trong các Đan viện từ thế kỷ thứ IX.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp

 




Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) St 2, 18-25

"Người dẫn bà đến trước Ađam. Và cả hai nên một thân thể".

Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa phán: "Ðàn ông ở một mình không tốt, Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó".

Sau khi lấy bùn đất dựng nên mọi thú vật dưới đất và toàn thể chim trời, Thiên Chúa dẫn đến trước mặt Ađam để coi ông gọi chúng thế nào, và sinh vật nào Ađam gọi, thì chính đó là tên nó.

Ađam liền đặt tên cho mọi súc vật, chim trời và muông thú.

Nhưng Ađam không gặp một người nội trợ giống như mình.

Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Người lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại.

Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam.

Ađam liền nói: "Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra".

Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể.

Lúc ấy cả hai người, tức Ađam và vợ ông, đều khỏa thân mà không hề xấu hổ.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 127, 1, 2-3, 4-5

Ðáp: Phúc cho ai biết kính sợ Chúa. (1)

Xướng 1) Phúc cho ai biết kính sợ Chúa, và bước đi trong đường lối Người. Ngươi sẽ hưởng công khó của tay ngươi, ngươi có phúc và sẽ được may mắn. - Ðáp.

2) Vợ ngươi như cây nho sai trái, trong nội cung gia thất nhà ngươi. Con cái ngươi như chồi non cây dầu ở chung quanh bàn ăn của ngươi. - Ðáp.

3) Ðó là ơn phúc lành, cho người kính sợ Chúa. Từ Sion xin Chúa chúc lành cho ngươi. Chúc ngươi thấy Giêrusalem thịnh đạt suốt mọi ngày trong đời sống của ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sam 3,9

Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 24-30

"Những con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được. Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người.

Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrôphênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.

Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó".

Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".

Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi".

Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.

Ðó là Lời Chúa.

 

Image result for Mark 7, 24-30

 

Suy niệm

 

 

Con người như con chó

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần V thường niên theo Thánh ký Marco cũng giống bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu cho Thứ Tư trong Tuần XVIII Thường Niên, về việc Chúa Giêsu chữa cho con gái của người đàn bà xứ Canaan được khỏi bị quỉ ám, một người đàn bà dân ngoại nhưng có một đức tin đầy ma lực đến độ "muốn gì đưc nấy" (Phúc Âm Thánh Mathêu). 


Thế nhưng, để có một đức tin "muốn gì được nấy" này, người đàn bà ngoại bang Cannan "có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người"  này đã phải trải qua một một cơn thử thách phải nói là khủng khiếp, một trận đấu sinh tử, trận đấu thập tử nhất sinh, liên quan đến sắc tộc của bà cũng như đến chính phẩm giá của bà.


Cuộc thử thách đức tin liên quan đến sắc tộc của người đàn bà Canaan, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại: "Các môn đệ đến gần Người mà rằng: 'Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi'. Người trả lời: 'Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel'". Qua câu trả lời cho các môn đệ này, Chúa Giêsu như muốn nói rằng chỉ có dân Do Thái của Người là nhất, còn các dân ngoại chỉ là đồ thứ yếu, không đáng chú trọng cho bằng dân Do Thái. 


Cuộc thử thách đức tin liên quan đến phẩm giá làm người của người đàn bà "là người dân ngoại, dòng giống Syrôphênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà". Theo Thánh ký Mathêu thì sau khi bà ta "đến lạy Người mà nói: 'Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi'", một câu không có trong Phúc Âm Thánh ký Marco, nhưng cả hai Thánh ký đều thuật lại cùng một câu trả lời giống nhau của Chúa Giêsu cho người đàn bà phục lạy van xin khốn khổ này: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó'". Tuy nhiên Thánh ký Marco còn thêm câu trước đó là: "Hãy để con cái ăn no trước đã".

 

 

Đến đây, bị chạm tự ái như thế, bị coi như loài chó như vậy, không biết có ai còn nhẫn nại để tiếp tục với con người khinh bỉ mình và chửi mình như thế nữa hay chăng, hay là, gặp phải con người thời đại tột đỉnh văn minh và văn hóa ngày nay trọng quyền làm người hơn tình làm người, chắc chắn họ sẽ điên tiết quại lại bằng một câu hùng hổ nào đó như: "Này, ông đừng có tưởng rằng ông ngon lắm nghe, không đáp ứng những gì tôi xin thì thôi, chứ đừng có mà khinh bỉ tôi quá như vậy nhé. Tôi cóc cần ông nữa".  


Thế nhưng, cho dù người đàn bà Canaan bị một độc chưởng vô cùng lợi hại chỉ từ chết tới bị thương như vậy mà bà chẳng những vẫn không hề hấn gì, trái lại, bà còn tung lại một tuyệt chiêu vô cùng ngoạn mục: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái"một tuyệt chiêu đã làm cho đối thủ vô địch của bà đành chào thua bà lập tức"Người liền nói với bà: 'Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi'". Qua câu nói này Chúa Giêsu dường như muốn nói với bà rằng: "Chính đức tin của bà đã trừ quỉ cho con bà rồi đó".


Điều duy nhất người đàn bà ngoại bang Canaan này muốn đó là làm sao để người con gái của bà khỏi "bị quỷ ám khốn cực lắm" (Thánh ký Mathêu), đến độ, bà cảm thấy cái khổ của chính con bà như là của bà, nên bà đã xin Chúa Giêsu thương chính bản thân bà chứ không phải là đứa con gái của bà: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi" (Thánh ký Mathêu). Để rồi, nhờ đức tin "muốn gì được nấy" của bà mà thành quả gặt hái được đó là, theo Thánh ký Mathêu: "ngay lúc đó, con gái bà đã được lành", hay theo Thánh ký Marco: "Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi".

 

 

Nếu so sánh với đức tin của các tông đồ trong biến cố bị bão tố trên biển hồ và tông đồ Phêrô đi trên nước đến cùng Thày, thì quả thật nhân vật ma nữ cao thủ đức tin này đã hoàn toàn trổi vượt, ở chỗ, cho dù Chúa có tiếp tục chơi trò ma quái với cả bà là một kẻ thuộc dân ngoại chăng nữa, bà chẳng những đã không cảm thấy bị Người nát đến hoảng sợ thế nào, trái lại, còn nhìn thẳng vào Người, nên đã không bị chìm xuống như tông đồ Phêrô - Như thế phải chăng ma nữ cao thủ đức tin này chẳng những đi trên mặt nước mà còn bay trên mặt nước, bất chấp bão tố còn dữ dội kinh hoàng về tinh thần hơn là thứ phong ba bão tố về thể lý thử thách các tông đồ!?!

 

Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại sự kiện Adong nhận biết người nữ xuất thân từ chính bản thân mình và vì thế đã đi đến chỗ gắn bó nên một với nàng: "'Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra'. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể".

 

Nếu phụng vụ lời Chúa phải liên hệ với nhau, ít là  giữa hai bài đọc chính là Bài Đọc 1 và Bài Phúc Âm của từng ngày thì sự kiện trên đây của Bài Đọc 1 về sự kiện Adong nhận ra người nữ xuất thân từ mình, có tất cả những gì là của mình và đã gắn bó với nàng có liên hệ gì tới sự kiện người đàn bà ngoại giáo xin Chúa Giêsu trừ thần ô uế cho đứa con gái bị ám của bà ấy hay chăng? Nếu có thì ở chỗ nào??

 

Ở chỗ, Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy người nam bỏ cha mẹ mà theo vợ, mà gắn bó với vợ, nên một thân thể với vợ. Tuy nhiên, người nam từ ban đầu là Adong ấy không có cha mẹ trần gian thì làm sao bỏ cha mẹ được. Bởi thế, người nam này ám chỉ Con Thiên Chúa đã bỏ Cha mình ở trên trời để gắn bó nên một với loài người, khi mặc lấy nhân tính của họ, một nhân tính bao gồm toàn thể nhân loại, chứ không phải chỉ riêng dân Do Thái, cho dù Người có mang giòng máu Do Thái.

 

Do đó, vì mặc lấy nhân tính của con người, nên một với con người, tất cả những gì của con người cũng là của Người Con Thiên Chúa Làm Người, đến độ, Người đã gánh lấy tất cả tội vạ của con người, để nhờ đó, bằng nhân tính của mình, được Người sử dụng như bí tích cứu độ, nhất là bằng cuộc vượt qua của mình, Người chữa lành cho con người, cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết do ma quỉ gây ra cho họ. Cái đau của người đàn bà dân ngoại hôm nay chính Người cũng cảm thấy như của Người, và vì thế Người đã cứu con của bà cũng là con của Người khỏi bị quỉ ám. Và đó là lý do "phúc cho ai kính sợ Chúa" như câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận, điển hình là người đàn bà dân ngoại trong bài Phúc Âm hôm nay, nghĩa là biết nên một thân thể với Đấng là Emmanuel đang ở giữa chúng sinh... cho đến tận thế!

 

 


Lễ Mẹ Lộ Đức

11/2

 

 

 

Đức Mẹ Nói Cùng Tôi

(St. Marie Bernadette Soubirous, Ep. Ad P. Gondrand, a 1861:
cf. A. Ravier, Les Écrits de Sainte Bernadette, Paris 1961, pp 53-59)



Ngày kia tôi cùng với hai đứa con gái khác đi xuống bờ sông Gave, thì thình lình tôi nghe thấy một cái gì đó như tiếng gió vi vu. Tôi ngoảnh đầu lại hướng về phía đồng cỏ gần bờ sông, song cây cối vẫn lặng lẽ, rõ ràng là tiếng động không xuất phát từ chúng. Đoạn tôi nhìn lên và thấy ngay trong động đá một vị nữ lưu mặc chiếc áo trắng dễ thương với chiếc giây thắt lưng óng ánh. Trên chân của bà mỗi bên đều có một bông hồng mầu vàng nhạt, cùng mầu với những hột ở chuỗi mân côi của bà.

Thấy thế tôi giụi hai mắt, nghĩ rằng tôi đang thấy một cái gì đó, và tôi xỏ tay vào viền quần đựng cỗ tràng hạt. Tôi muốn làm dấu thánh giá, nhưng tôi không thể làm được, và tay tôi trở nên rụng rời. Bấy giờ vị nữ lưu này làm dấu thánh giá và tôi cố làm dấu như bà, mặc dù tay tôi run lẩy bẩy. Thế là tôi bắt đầu lần hạt mân côi, trong khi đó vị nữ lưu này lấy ngón tay đưa hạt chuỗi mà không nhép miệng gì cả. Khi tôi hết đọc Kinh Kính Mừng thì bà liền biến đi.

Tôi hỏi hai cô bạn của mình xem họ có thấy được điều gì chăng, họ nói không. Dĩ nhiên họ muốn biết tôi đã làm gì, và tôi cho họ biết rằng tôi đã thấy một vị nữ lưu mặc bộ áo trắng đẹp, mặc dù tôi không biết bà ấy là ai. Tôi dặn họ đừng nói điều gì về câu chuyện này, và họ cho tôi rằng tôi ngớ ngẫn với những thứ ấy. Tôi nói là họ sai rồi, và tôi đã cảm thấy bị thúc đẩy trở lại nơi này vào hôm Chúa Nhật sau đó …

Lần thứ ba tôi đến đó thì vị nữ lưu này đã mở miệng nói với tôi và xin tôi hãy trở lại hằng ngày trong vòng 15 ngày. Tôi nói tôi sẽ làm như thế, đoạn bà bảo tôi rằng bà muốn tôi nói với các vị linh mục hãy xây cất lên một nguyện đường ở đó. Bà cũng bảo tôi hãy uống nước ở rạch nước. Tôi đã đến con sông Gave là giòng nước duy nhất tôi thấy. Thế rồi bà làm tôi nhận ra rằng bà không nói về con sông Gave, mà là một tia nước nhỏ gần chỗ tôi đứng. Tới nơi, tôi chỉ thấy có một vài giọt nước, còn toàn là bùn. Tôi chụm tay lại để hớt lấy một chút nhưng không được, tôi liền cào đất lên. Tôi cố tìm lấy một ít giọt nước, nhưng mãi vào lần thứ bốn tôi mới có đủ lượng nước để uống. Đoạn người nữ lưu biến đi và tôi trở về nhà.

Tôi đã trở lại đấy 15 ngày, trừ một ngày Thứ Hai và một ngày Thứ Sáu, và lần nào bà cũng hiện ra và bảo tôi tìm một rạch nước mà tắm cũng như để xem chuyện các vị linh mục xây nguyện đường ở đó thế nào. Bà nói tôi cũng phải cầu nguyện nữa để cầu cho tội nhân ăn năn cải thiện đời sống. Tôi đã hỏi bà nhiều lần về ý định của bà, song bà chỉ mỉm cười. Sau cùng, với cánh tay giang ra và đôi mắt ngước lên trời, bà bảo tôi rằng bà là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Trong 15 ngày đó, bà đã nói với tôi ba điều bí mật, nhưng tôi không được phép nói với ai cả, và tôi vẫn giữ cho tới nay.
 


(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1343-1344)

 

 

Bí Mật Lộ Đức

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


 

    Theo diễn tiến của Biến Cố Thánh Mẫu nổi tiếng được chính thức công nhận xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay, thì người ta chỉ nghe nói đến Bí Mật Fatima và Bí Mật La Salette thôi, chứ đâu có bao giờ nghe đến Bí Mật Lộ Đức. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có Bí Mật Lộ Đức. Đúng thế, trong 18 lần hiện ra với thiếu nữ Bernadette 14 tuổi tại một hang động ở Massabielle, vào lần hiện ra thứ 7, 23/2/1858, người thiếu nữ quê mùa bần cùng thất học chưa được rước lễ lần đầu này cho biết là Mẹ Maria quả thực đã tiết lộ cho cô biết 3 bí mật riêng (three personal secrets), những bí mật nhiều người tò mò muốn biết nhưng cuối cùng chẳng ai được biết vì Mẹ Maria không cho cô nói lại với ai. Thậm chí cho tới nay, cho dù Bí Mật Fatima phần thứ ba là bí mật đầy rùng rợn (theo óc suy tưởng của nhiều người), tưởng chừng như không bao giờ được Tòa Thánh công bố, vì ích chung, cũng đã được lịch sử ghi nhận nội dung của nó khi nó được Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin chính thức tiết lộ ngày 26/6/2000, nhưng Bí Mật Lộ Đức vẫn hoàn toàn là một huyền nhiệm.

 

    Bí Mật Lộ Đức sở dĩ không được tiết lộ, trước hết, có thể là vì bí mật này chỉ liên quan tới bản thân của vị thụ khải Bernadette thôi. Nếu liên quan tới tình hình thế giới và Giáo Hội, chắc chắn không sớm thì muộn cũng được tiết lộ thôi, như trường hợp của Bí Mật Fatima phần thứ ba vậy. Có thể một trong ba bí mật được Mẹ Maria tiết lộ cho người con gái sống trên đời 35 năm ngắn ngủi đầy đau thương này liên quan tới thân phận của chị, như Mẹ đã tỏ cho chị biết vào lần hiện ra thứ ba, 18/2: “Mẹ không hứa với con hạnh phúc ở đời này mà là đời sau”, một lời cũng đã được tân Chân Phước Zélie Guérin (mới được tôn phong cùng chồng là Louis Martin vào Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2008 ở vương cung thánh đường Lisieux Pháp quốc), mẹ của chị Thánh Thérèse Hài Đồng Giêsu, cảm nghiệm khi đi hành hương Lộ Đức vào những ngày cuối đời nhưng không được phúc chữa lành. Người ta cũng có thể suy đoán thêm một trong 3 điều bí mật riêng tư được Mẹ Maria tiết lộ cho chị biết ấy liên quan tới ơn gọi tu trì của chị, vì chị đã bắt đầu sống đời tận hiến trong Dòng Chị Em Bác Ái ở Nevers ngày 4/7/1866, khi chị được 22 tuổi, sau Biến Cố Lộ Đức 8 năm, cho đến ngày chị qua đời 13 năm sau, 16/4/1879.

 

    Tuy nhiên, ngoài 3 bí mật tư riêng liên quan tới bản thân của vị thụ khải Bernadette, thực tế cho thấy có một Bí Mật Lộ Đức liên quan đến hết mọi người, bởi thế cần phải tìm hiểu và khám phá để có thể đáp ứng “dấu chỉ thời đại” nơi Biến Cố Thánh Mẫu 150 năm (1858-2008) đặc biệt này, nhất là vào dịp Giáo Hội hoàn vũ long trọng mừng Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/2008, một lễ liên quan tới danh xưng “Mẹ hoài thai vô nhiễm tội – Que soy era Immaculada Councepciou” của Mẹ ở Lộ Đức vào lần hiện ra thứ 16 ngày 25/3. Vậy cái được gọi là Bí Mật Lộ Đức đây là gì, nếu không phải là cái bí mật tại sao Lộ Đức là nơi có một danh xưng liên quan tới linh hồn vô nhiễm của Mẹ lại là nơi xẩy ra những phép lạ chữa lành xác thân con người? Đúng thế, có hai đặc điểm chính yếu và chuyên biệt ở Lộ Đức, thứ nhất đó là danh xưng “Mẹ hoài thai Vô Nhiễm Tội”, khác với ở danh xưng của Mẹ ở Fatima “Mẹ là Đức Bà Mân Côi” ngày 13/10/1917,  và thứ hai là các cuộc chữa lành bệnh nạn phần xác cho con người, một sự kiện không xẩy ra ở các Biến Cố Thánh Mẫu khác, dù biến cố ấy có thể nổi tiếng hơn như Fatima chẳng hạn. Nếu quả thực đây là Bí Mật Lộ Đức thì ý nghĩa của nó là gì và tại sao lại như thế?

 

    Vào ngày 13/6/2008, tôi có nhận được một điện thư của vị muốn giúp ý kiến về đề tài tĩnh tâm có lợi cho cả hai đoàn thể Đạo Binh Xanh và Đạo Binh Đức Mẹ: Thánh Mẫu học theo thánh An Phong hay thánh Long Mộng Phố, hoặc linh đạo Fatima. Tôi đã đề nghị trong năm 2008 là thời điểm Mừng Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức 150 năm, cũng là thời điểm Mừng 20 năm Phong Thánh cho Các Chứng Nhân Đức Tin trên Đất Việt, đề tài nên chọn là lời Mẹ nói với chị Thánh Bernadette vào lần hiện ra thứ ba 18/2/1858: ‘Mẹ không hứa với con hạnh phúc đời này mà là đời sau’. Đề tài này rất thích hợp với Bí Mật Fatima phần thứ ba liên quan tới thị kiến tử đạo. Trong phần hội thảo chung, tôi đề nghị nêu lên vấn nạn là: ‘Tại sao ở khi hiện ra ở Lộ Đức, Mẹ Maria tự xưng mình 'Mẹ Hoài Thai Vô Nhiễm Tội' ngày 25/3 là những gì liên quan đến phần hồn của Mẹ mà Mẹ lại biến Lộ Đức thành Trung Tâm Thánh Mẫu duy nhất nổi tiếng về các phép lạ chữa lành phần xác cho một số tâm hồn?’ Thế rồi vào ngày 11/8, vị này cho tôi biết rằng: “Đề tài này tuy vậy mà cũng khó, phải có những gợi ý”. Tôi đã hồi âm cho vị ấy là: “Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời được chất chứa trong lời ĐTC GPII huấn dụ trong huấn từ Truyền Tin ở Lộ Đức ngày 15/8/2004 như sau: ‘Từ tảng đá ở động Massabielle, Vị Trinh Nữ này đã hiện ra với Bernadette. Tỏ mình ra như Đấng đầy ơn phúc của Thiên Chúa, Mẹ đã kêu gọi thống hối và nguyện cầu. Mẹ đã chỉ cho Bernadette một mạch nước, và xin em uống mạch nước này. Mạch nước mới mẻ ấy đã trở thành một trong những biểu hiệu của Lộ Đức: một biểu hiệu của sư sống mới được Chúa Kitô ban cho tất cả những ai hướng về Người.”.

 

    Trong Bài Giảng cho Thánh Lễ Mẹ Đau Thương Thứ Hai 15/9/2008 cho Thành Phần Bệnh Nhân trước tiền đường của Đền Thờ Đức Mẹ Mân Côi Lộ Đức, ĐTC Biển Đức XVI, trong chuyến tông du Pháp quốc ngày 12-15/9/2008, đã tiếp tục khai triển chiều hướng trên đây của ĐTC Gioan Phaolô II liên quan tới biểu hiệu nước ở Lộ Đức, như thể hai vị tỏ ra muốn cùng nhau đi sâu vào tất cả những gì là huyền nhiệm ở Lộ Đức để hoàn toàn làm sáng tỏ cái thực sự là Bí Mật Lộ Đức này trước mọi người:

 

    “Nụ cười của Mẹ Maria là suối nước sự sống. Chúa Giêsu phán: ‘ai tin Tôi thì từ lòng họ sẽ vọt lên những giòng sông chảy nước sự sống’ (Jn 7:38). Mẹ Maria là người đã tin tưởng, và từ cung lòng của Mẹ, những giòng sông chảy nước sự sống đã tuôn ra tưới dội lịch sử loài người. Giòng suối mà Mẹ Maria chỉ cho Bernadette ở Lộ Đức đây là một dấu hiệu đơn sơ về thực tại thiêng liêng này. Từ trái tim tin tưởng của Mẹ, từ tấm lòng từ mẫu của Mẹ, chảy ra nước sự sống để thanh tẩy và chữa lành. Bằng việc dìm mình vào những bể tắm ở Lộ Đức, rất nhiều người đã khám phá ra và đã cảm nghiệm được tình yêu thương từ mẫu dịu dàng êm ái của Vị Trinh Nữ Maria này, bằng việc tỏ ra gắn bó với Mẹ để liên kết mình chặt chẽ hơn với Chúa! … Đó là lý do tại sao có rất nhiều bệnh nhân đến Lộ Đức đây để được giãn cơn khát của mình nơi ‘nguồn mạch yêu thương’ này, và để cho mình được Mẹ dẫn đến với nguồn cứu độ duy nhất là Chúa Giêsu Cứu Thế Con Mẹ”.

 

    Tóm lại, nếu ở Fatima, tất cả Bí Mật Fatima (3 phần) được Mẹ Maria tỏ cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết vào lần hiện ra thứ ba 13/7/1917, là “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria”, một trái tim liên quan tới định mệnh chung của nhân loại, đến trình trạng “nhiều linh hồn được cứu độ và thế giới được hòa bình”, thì tất cả Bí Mật Lộ Đức là ở nơi nụ cười của Mẹ Maria, một cử chỉ độc đáo chưa từng có trong lịch sử Biến Cố Thánh Mẫu, một nụ cười là suối nước sự sống tràn đầy “vui mừng và hy vọng”, có tác dụng gia tăng đức tin phần hồn, thậm chí chữa lành cả phần xác của một số tâm hồn thiên định nào đó.

 

    Nếu Biến Cố Thánh Mẫu Fatima liên quan đến lửa, (sự kiện mặt trời nhẩy múa trên trời ngày 13/10/1917), cũng như tới tước hiệu Mẹ Mân Côi, cả hai ám chỉ quyền thế của Mẹ đối với Thiên Chúa (như Bí Mật Fatima phần 3 cho thấy), thì Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức liên quan tới nước, (sự kiện mạch nước vọt lên từ đất ngày 25/2/1858), cũng như tới tước hiệu Mẹ Vô Nhiễm, cả hai ám chỉ tình trạng Mẹ dồi dào ân sủng là để mang lại sự sống cho con cái khổ đau, như ĐTC BĐXVI khẳng định trong huấn từ Truyền Tin CN 14/9/2008 ở Lộ Đức như sau:

 

    “Ơn Hoài Thai Vô Nhiễm được ban cho Mẹ Maria không phải chỉ là một ơn huệ của một cá nhân, mà là một ân sủng cho tất cả mọi người, một ân huệ được ban cho toàn thể dân Chúa. .. chúng ta là con cái của Mẹ Maria, chúng ta cũng được hưởng bổng lộc từ tất cả mọi ân huệ Mẹ có; phẩm vị khôn sánh Mẹ có được nhờ Hoài Thai Vô Nhiễm rạng ngời chiếu tỏa trên chúng ta là thành phần con cái của Mẹ”.

 

    Bí Mật Fatima và Bí Mật Lộ Đức có một liên hệ mật thiết với nhau thế này: nếu ở Fatima Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ được Mẹ tỏ cho Lucia biết “là nơi cho con nương náu và là đường đưa con đến cùng Thiên Chúa”, thì ở Lộ Đức, Đấng “hoài thai Vô Nhiễm Tội” đến là để “thông ơn Thiên Chúa” cho con cái của mình, được thể hiện rõ ràng nhất qua những lần Mẹ chữa lành phần xác cho một số cá nhân đặc biệt nào đó, trong vô số trường hợp được cho biết là mỗi năm có khoảng 40 vụ chữa lành trình báo cho giáo quyền địa phương Lộ Đức, nhưng Giáo Hội mới chính thức công nhận 67 phép lạ. Nếu việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật được thuật lại trong các Phúc Âm là những gì chứng thực Vương Quốc Thiên Chúa gần đến hay Ơn Cứu Độ sắp hoàn thành thế nào, thì những việc chữa lành phần xác cho con người ở Lộ Đức mãi đến ngày nay, trong một thời đại văn minh tân tiến tột độ về khoa học và kỹ thuật nhưng lại đang bị phá sản đức tin từ thế kỷ 19, cũng là những gì báo trước Nước Mẹ trị đến cho Nước Chúa vinh quang, Nước của “Đức Mẹ Mân Côi” cũng là “Đức Mẹ Thắng Trận”, Đấng đã khẳng định ở Fatima ngày 13/7/1917 cuối phần Bí Mật Fatima thứ hai là “cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng”!

 

 

 

 

 

 

Phép Lạ Lộ Đức: Tiến Trình Điều Tra và Công Nhận

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 


 

     Gần văn phòng y khoa bận bịu là một chỗ trưng bày hình ảnh lạ lùng của những người hành hương đã được chữa lành, với những hàng chữ nói về tình trạng tật nguyện bệnh nạn của họ. Vấn đề này là những gì được phổ biến công khai. Những cuộc lành bệnh này không phải tự nhiên xẩy ra mà là chất chứa cả một đức tin trong ấy, thế nhưng làm thế nào để có thể chứng thực được những gì xẩy ra liên  quan tới đức tin siêu nhiên như thế, nhất là giữa một thế giới thiên về duy thực dụng, coi khoa học như là chân lý ngày nay?

 

     Cũng chính vì con người trong thế giới văn minh ngày nay cần đến những chứng cớ về khoa học mà bằng chứng về y khoa liên quan tới những biến cố chữa lành này là những gì bất khả thiếu và hùng hồn cho thấy sự hiện diện thần linh của Đấng Vô Hình làm chủ lịch sử và định mệnh của từng người trên  thế gian này. Ngoài ra, Giáo Hội cũng cần đến những chứng cớ về y khoa để có thể công nhận các biến cố chữa lành được gọi là phép lạ thật sự ở Lộ Đức.

    

Tiến Trình Điều Tra

     Khi một người hành hương Lộ Đức cho rằng mình được chữa lành thì họ được vị bác sĩ ở đó khám nghiệm, trước khi chuyển đến các vị bác sĩ ở văn phòng y khoa là văn phòng được thiết lập chính thức vào năm 1947. Cơ quan này có trách nhiệm thẩm định đầu tiên để xem tính chất thực sự của việc chữa lành. Người hành hương được chữa lành này, cùng với những ghi nhận từ các cuộc khám nghiệm trước đó, được các vị bác sĩ chủ trị khám nghiệm, tất cả đều được chứng dự bởi vị giám đốc đền thánh và vị linh mục đặc trách khách hành hương.

 

     Những qui chuẩn đòi phải có đối với một việc chữa lành bao gồm ít là 4 điều sau đây: chứng bệnh phải thực sự xẩy ra và việc chẩn bệnh xác đáng; dự đoán về chứng bệnh phải rành mạch, kể cả những dự đoán về tính chất vĩnh viễn hay bất trị của nó; việc được chữa lành phải xẩy ra tức khắc, chứ không phải tình trạng hồi phục, hoàn toàn, dứt khoát và mãi mãi; việc chữa trị được qui định không góp phần gì vào biến cố lành mạnh cả.

 

     Khi biến cố chữa lành được khẳng định rồi, thì cuộc thẩm định chung đòi người bệnh gặp gỡ văn phòng y khoa 3 năm nữa. Nếu đa số các bác sĩ đồng ý, thì hồ sơ của bệnh nhân  được lành khỏi ấy sẽ được gửi đến cho Tiểu Ban Y Khoa Quốc Tế Lộ Đức (CMIL: Lourdes International Medical Committee) được thành lập vào năm 1954.

 

     Tiểu ban y khoa quốc tế này sẽ thẩm định những biến cố chữa lành trên 10 đến 15 năm để theo dõi việc phát triển của bệnh nhân. Sau khi văn phòng y khoa quốc tế này khẳng định việc chữa lành hoàn toàn vượt quá khả năng của y khoa thì hồ sơ của việc chữa lành được gửi đến cho các vị thẩm quyền của Giáo Hội.

 

Việc Công Nhận Phép Lạ

 

     Việc công bố phép lạ chữa lành là phận sự của vị giám mục nơi ở của người được chữa lành. Nhưng trước khi vị giám mục địa phương công bố thì vấn đề hay hồ sơ của người bệnh được chữa lành được cứu xét bởi một Ủy Ban Giáo Phận bao gồm các vị linh mục, các vị chuyên  gia về giáo luật, các thần học gia và các vị bác sĩ.

    

Y Khoa hay Phép Lạ chữa lành

 

     Căn cứ vào thời điểm văn phòng y khoa được thiết lập vào năm 1947, thì trước đó, mức độ được chữa lành trước năm 1914 là 1:100, từ 1914 đến 1928 là 1:700, thế nhưng từ 1928 đến 1947 là 1:1600. Tóm lại, có 5 ngàn vụ được cho là chữa lành trước năm 1947. Từ 1947 đến 1990 chỉ còn 1000, trong số đó chỉ có 56 vụ được công nhận trong thời gian này, trung bình là 1.3 vụ mỗi năm, khác với 57 vụ mỗi năm trước năm 1914.

 

     Căn cứ vào các dữ kiện ấy, người ta có thể suy ra rằng càng văn minh hay y khoa càng tiến bộ, bao gồm cả các thứ thuốc men được sáng chế thêm, thì bệnh tật được chữa lành bởi khoa học hơn là bởi phép lạ. Từ thập niên 1960 con số được cho là phép lạ đã thụt giảm hẳn xuống. Vấn đề có thể đặt ra ở đây là chính vì khoa học tân tiến mà người ta tin vào khoa học hơn là trời cao, nên không đến để xin chữa lành nhiều như trước nữa, do đó không có nhiều phép lạ chữa lành xẩy ra nữa.

 

     Giống như vấn đề tại sao ngày nay Âu Châu là nơi đã từng là chiếc nôi Kitô Giáo và lan truyền Kitô Giáo khắp thế giới, nay lại là nơi xuất phát ra nền văn hóa sự chết và cần tái truyền  bá phúc âm  hóa hơn  bao giờ hết. Phải chăng là vì Kitô Giáo đã lỗi thời, không còn tác lực cứu độ nữa? Vấn đề có thể đặt ngược lại là khoa học và kỹ thuật tân tiến hay văn minh của con người nếu quả thực là cứu tinh của con người, mang lại hạnh phúc thực sự và trọn vẹn cho con người, thì tại sao thế giới càng văn minh con người càng bạo loạn như thực tế không thể chối cãi ngày nay cho thấy! Như thế, vấn  đề ở đây là phải chăng vì con người bỏ Thiên Chúa, bị khủng hoảng đức tin con người mới trở nên đáng thương như thế, cần phải được chữa lành cả về (nhất là về) phần hồn nữa vậy.

 

     Kể từ ngày thành lập của mình, tiểu ban y khoa quốc tế này đã cứu xét 1300 vụ và đã nộp 29 vụ cho Giáo Hội và được thẩm quyền  Giáo Hội công nhận 19. Tư năm 1858 tới nay, tức sau 150 năm, Giáo Hội mới chính thức công nhận 67 phép lạ Lộ Đức. Sau đây là hai phép lạ cuối cùng, phép lạ thứ 66 và 67.

 

Phép Lạ thứ 66

 

     Phép Lạ thứ 66 xẩy ra cho ông Jean-Pierre Bély, một người Pháp, bị liệt bại, một chứng bệnh ông đã mắc từ năm 1972. Khi ông đi hành hương Lộ Đức năm ông 51 tuổi, tức vào năm 1987, bạn bè ông cho rằng ông không thể nào chịu nổi chuyến đi. Vào cuối cuộc hành hương, ông được lãnh nhận bí tích xức dầu kẻ liệt, để rồi, khi trở về đến nhà, ông đã bước đi được như một người bình thường. Hiện nay tất cả mọi dấu vết bệnh tật đã hoàn toàn biến mất. Bác sĩ Patrick Fontanaud, một nhà ngộ đạo thức, vẫn chăm sóc cho ông này đã phải thú nhận khoa học không thể nào cắt nghĩa được hiện tượng khỏi bệnh lạ lùng này. Vị làm đầu Văn Phòng Y Khoa Lộ Đức là bác sĩ Patrick Theillier đã nói với tờ Le Monde rằng còn hai phép lạ chữa bệnh nữa sẽ được nhìn nhận, đó là phép lạ xẩy ra cho một phụ nữ 25 tuổi người Pháp và một phụ nữ 60 tuổi người Ý, cả hai đều được khỏi bệnh vào năm 1995.

 

Phép Lạ thứ 67

 

     Còn Phép Lạ thứ 67 thì ĐTGM Gerardo Pierro giáo phận Salerno đã chính thức công bố hôm Thứ Sáu 11/11/2005 là một “việc chữa lành lạ lùng” xẩy ra cho một người đàn bà chịu bệnh khổ đau lâu dài và đã đến viếng Đền Thánh Mẫu Lộ Đức ở Pháp quốc năm 1952.

 

     Bệnh nhân này là bà Anna Santaniello ở giáo phận Salerno, nay đã 94 tuổi, đã chịu tật dị tim từ nhỏ, đã được các bác sĩ tuyên bố là không thể nào chữa khỏi.

 

     Vào năm 40 tuổi, tình trạng sức khỏe của bà bị suy kiệt trầm trọng, và bất chấp lời khuyên của các vị bác sĩ và gia đình của mình, bà quyết định đi viếng Đền Thánh Mẫu Lộ Đức. Bà đã cho Đài Phát Thanh Vatican biết phản ứng của ba bấy giờ như thế này:

 

     “Tôi nói với tất cả họ rằng: ‘Tôi muốn đi. Nếu tôi có chết đi chăng nữa thì tôi muốn chết khi trông thấy Đức Mẹ”.

 

     Bà cảm thấy rất khó thở và những tình nguyện viên ở Lộ Đức đã không muốn đưa bà từ nhà trọ cho bệnh nhân xuống hang Đức Mẹ, bà cũng cho Đài Phát Thanh Vatican biết phản ứng của bá lúc ấy như sau:

 

     “Tôi đã cầu nguyện lớn tiếng để Mẹ có thể nghe thấy tôi, ‘Đức Trinh Nữ ơi, Mẹ cần phải cứu giúp con. Con đã thấy một bóng tối, một bóng tối trên bầu trời thì thào bên tai tôi rằng: ‘Đừng có nghe họ, hãy cứ đi,  hãy cứ đi’. Hết mọi người đều cầu nguyện cho tôi, nam cũng như nữ. Họ đã cho tôi hôn tượng Đức Mẹ họ đang có ở đó trên bàn thờ nhỏ”.

 

     Tật di tim của bà làm cho bà khó khăn trong việc đi đứng và nói năng một cách rõ ràng. Nó đồng thời cũng làm cho mặt bà bị xanh tím cùng với những chỗ xưng ở hạ phần tứ chi.

 

     Ở Lộ Đức, các nữ tu đã đưa bà vào trong hồ nước và theo bà cho biết là bấy giờ “nước lạnh buốt. Thế nhưng tôi lập tức cảm thấy một cái gì đó sôi lên trong ngực của mình, như thể sự sống trở lại với tôi. Sau mấy giây đồng hồ, tôi đứng lên một mình và bắt đầu bước đi, không cần những người mang cáng giúp nữa, làm cho họ nhìn tôi không thể nào tin được”.

 

     “Tôi bảo họ rằng ‘Hãy đi giúp những người khác, vì tôi có thể tự làm lấy được rồi. Tôi bước ra và đi vào công trường, bắt đầu phục vụ bữa ăn trưa cho bệnh nhân. Vào lúc 4 giờ chiều, họ có một cuộc rước kiệu Thánh Thể và tôi đã tham dự, hát ca.

 

     “Tôi rất biết ơn Đức Mẹ vì tôi đã mất đi một người anh và một người chị cũng vì một chứng bệnh này: anh ấy bấy giờ 29 tuổi và chị ấy 33 tuổi”. 

 

     Trở về nhà, bà đã lấy hẹn gặp một vị bác sĩ nổi tiếng về tim, và vị này “nói với tôi rằng tôi chẳng có bị gì cả, tôi rất khỏe mạnh và ông ta không hiểu tại sao lại có tất cả những thứ chứng thư và khám xét đã được thực hiện trước đó”.

 

     Bà đã trở lại Lộ Đức vào một số dịp sau đó để tự nguyện giúp đỡ thành phần bệnh nhân. Bà, gia đình và bạn hữu bà đã đến tham dự lễ nghi công bố phép lạ của bà, lễ nghi được diễn ra tại Chủng Viện John Paul II Metropolitan ở Pontecagnano.

 

     “Việc hiện diện của nhiều bệnh nhân hành hương ở Lộ Đức, cũng như thành phần thiện nguyện viên đi kèm với họ, khiến chúng ta suy nghĩ đến việc chăm sóc từ mẫu và êm ái mà Vị Trinh Nữ này bày tỏ đối với nỗi đớn đau và khổ đau của loài người” (ĐTC Biển Đức XVI, Sứ Điệp Ngày Thế Giới Bệnh Nhân 11/2/2008).

 

     “Đấng Cứu Chuộc thần linh muốn đi sâu vào tâm hồn của hết mọi con người đau khổ bằng trái tim của Người Mẹ Thánh của Người, một con người cao cả đầu tiên và trên hết trong thành phần được cứu chuộc” (ĐTC John Paul II, Apostolic Letter, "Salvifici doloris," n. 26).

 

Phép Lạ thứ 70 

 

Phép lạ cuối cùng được thẩm quyền Giáo Hội chính thức chấp nhận vào năm 2013, và là phép lạ thứ 70 trong hơn 7 ngàn phép lạ từ đầu cho tới nay. Phép lạ thứ 70 này xẩy ra cho một nữ tu người Pháp là Bernadette Moriau, vị nữ tu bị chứng đau cột xương sống, phải ngồi trên xe lăn và hoàn toàn bị tàn tật từ năm 2008, và trong chuyến hành hương Lộ Đức Năm 2008, không hề xin ơn được chữa lành gì hết, nhưng sau khi lãnh nhận phép lành Thánh Thể cho bệnh nhân tham dự thì cảm thấy một dấu lạ xẩy ra nơi thân thể của mình, và khi về phòng riêng thì nghe thấy tiếng nói "hãy bỏ cái nẹp bó ra". Thế là vị nữ tu này từ đó tự nhiên bước ra khỏi xe lăn và không còn sử dụng thuốc giảm đau là morphine nữa.

 

 

 

Hành Hương Thánh Mẫu
 


Trong cuộc Hành Hương Năm Thánh 2000, tôi được dịp viếng thăm Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức, tôi chợt nghĩ ra một điều, một điều mà nếu không đến đây, tôi nghĩ chắc chắn tôi không bao giờ nghĩ ra và nghĩ được. Thật vậy, trong các Linh Địa Thánh Mẫu, kể cả Linh Địa Fatima, thì phải công nhận một điều không thể chối cãi được là Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức thật là thơ mộng, thật là hữu tình. Có dịp mà không đến thì đúng là mất nửa đời người! Tại sao? Cảm nghĩ của tôi tự nhiên có được sau khi mới từ Linh Địa Thánh Mẫu Fatima tới, đó là vì Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức là nơi duy nhất Đức Mẹ hiện ra tươi cười, chứ không hoàn toàn nghiêm trọng đến buồn thảm như ở các nơi khác, nhất là ở Fatima.


Sự Tích Mẹ Lộ Đức được bắt đầu từ 18 lần Đức Mẹ hiện ra với Bênađét, một thiếu nữ quê mùa nghèo nàn 14 tuổi tại một hang đá ở Lộ Đức thuộc miền Nam Nước Pháp. Trong 18 lần hiện ra này, những lần quan trọng nhất là những lần Mẹ tỏ cho Bênađét biết Mẹ là ai và muốn gì, như lần thứ ba ngày 18/2, lần thứ tám, 24/2, lần thứ chín, 25/2, lần thứ mười ba, 2/3 và lần thứ mười sáu, 25/3.


Vào lần hiện ra thứ ba ngày 18/2, để đáp lại việc Bênađét đưa giấy, bút và mực cho Mẹ để xin Mẹ viết xuống cho biết tên của Mẹ và Mẹ muốn gì, Mẹ đã trả lời như sau: “Những gì Mẹ muốn nói với con không cần phải viết ra. Con có sẵn lòng trở lại đây 15 ngày không? Mẹ không hứa với con được hạnh phúc ở đời này mà là ở đời sau”.


Vào lần hiện ra thứ tám ngày 24/2, Mẹ kêu gọi Bênađét: “Hãy ăn năn thống hối! Hãy ăn năn thống hối! Hãy ăn năn thống hối!” “Hãy cầu xin Thiên Chúa cho các tội nhân!”. “Con hãy bò bằng đầu gối vào hang đá và hãy hôn đất để tỏ dấu hiệu ăn năn thống hối thay cho các tội nhân”.


Vào lần hiện ra thứ chín ngày 25/2, theo lời Bênađét kể lại thì “Vị hiện ra bảo tôi hãy đi uống nước suối. Vì không thấy suối đâu, tôi đã đến uống nước sông (đó là con sông Gave, nhỏ song nước trong vắt và chảy suốt ngày đêm, theo trí nhớ của khách hành hương này). Người bảo tôi không phải nước tôi uống ở chỗ đó, rồi lấy tay chỉ ở dưới tảng đá. Tôi lại đó và chỉ thấy có một chút nước hơi mằm mặn. Tôi đặt bàn tay tôi vào chỗ đó song không thể lấy được một chút nước nào. Đoạn tôi lấy hai tay đào bới và đã lấy được chút đỉnh. Tôi đã đổ đi ba lần vì bẩn, cho đến lần thứ bốn tôi mới uống được. Người bảo tôi ăn một chút cỏ mọc chung quanh mạch suối ấy”.


Vào lần hiện ra mười ba, ngày 2/3, Bênađét đã thuật lại thế này: “Người bảo tôi đi nói với các vị linh mục là hãy xây cất một Ngôi Đền ở đó. Tôi đã đi vị linh mục giáo xứ nói cho ngài hay. Ngài trơ mắt nhìn tôi một lúc đoạn nói với tôi một cách chắc ăn là ‘Vậy thì tên của Bá đó là gì?’. Tôi trả lời ngài rằng tôi không biết. Ngài bảo tôi hãy đi hỏi tên của Người. Ngày hôm sau tôi hỏi Người thì Người chỉ nhoẻn miệng mỉm cười”.


Vào lần hiện ra mười sáu, ngày 25/3, Bênađét cho biết như sau: “Sau hai tuần lễ tôi đã hỏi Người tất cả là ba lần. Người cứ tiếp tục mỉm cười nên tôi không dám hỏi Người nữa. Tuy nhiên, lần này Người lại hướng mắt lên trời, chắp tay trước ngực mà nói cùng tôi rằng: ‘Ta là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Tội’. Đây là những lời cuối cùng Người nói với tôi. Đôi mắt của Người mầu xanh dương”.


Ở Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức có ba điều chuyên biệt: thứ nhất là mạch nước lạ, thứ hai là ngôi đền thờ, và thứ ba là tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội.


Thứ nhất là mạch nước lạ, mạch nước này ở ngay trong hang đá, về phía dưới ở bên phải chỗ Mẹ hiện ra. Mạch nước lạ này được đậy bằng một tấm pha lê trong và chảy về hai phía, một phía cho khách hành hương lấy phúc uống và một phía cho họ tắm. Phía nước uống được hệ thống hóa xong từ năm 1949 và khu nước tắm được hoàn thành từ năm 1955. ĐTC Gioan Phaolô II đã uống nước này vào ngày 14/8/1983. Và vô số phép lạ đã thực sự xẩy ra tại đây, được hội đồng y khoa địa phương được thành lập từ năm 1882 và hội đồng y khoa quốc tế thành lập từ từ năm 1952 công nhận, trong số đó, từ lần xẩy ra đầu tiên ngày 1/3/1858 đến ngày 28/6/1989, tất cả có 65 phép lạ được Giáo Hội chính thức công nhận.


Thứ hai là ngôi đền thờ, như Mẹ yêu cầu, đã được thực hiện, đó là Đại Thánh Đường Vô Nhiễm. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm này là một trong 4 đại thánh đường tại Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức. Ba đại thánh đường khác là Đại Thánh Đường Mân Côi, Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X, và Đại Thánh Đường Thánh Bênađét được thánh hiến năm 1988. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm được bắt đầu xây vào năm 1866, lúc mà Ngôi Nhà Nguyện Hầm nhỏ được xây nằm ở phía bên trên được hoàn tất cùng năm. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm được hoàn tất năm 1871 và được thánh hiến năm 1876. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm này ở tầng hai, dưới Ngôi Nhà Nguyện Hầm ở tầng nhất và trên Đại Thánh Đường Mân Côi ở tầng đất. Đại Thánh Đường Mân Côi được xây cất 30 năm sau biến cố Thánh Mẫu Lộ Đức và được thánh hiến vào năm 1901. Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X được thánh hiến năm 1958, kỷ niệm bách chu niên Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức, được xây dưới lòng đất theo hình chiếc tầu lật ngược, chứa được 27 ngàn người, nằm về phía Tây hang Mẹ hiện ra ở bên kia sông Gave, phải đi qua một chiếc cầu. Đại Thánh Đường Thánh Bênađét được thánh hiến năm 1988, chứa được 5000. Tổng Thánh Đường chính của Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức gồm có ba tầng: tầng nhất là Ngôi Nhà Nguyện Hầm nhỏ, tầng hai là Đại Thánh Đường Vô Nhiễm, và tầng ba là Đại Thánh Đường Mân Côi. Tổng Thánh Đường này, phía Tây ở bên hông dính liền với hang động chỗ Mẹ hiện ra, và phía Bắc trước mặt là Công Trường Lộ Đức hình trái tim.


Thứ ba là tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội, một tước hiệu nói lên đặc ân vô cùng cao cả của Mẹ đã được Giáo Hội, qua Á Thánh Giáo Hoàng Piô IX, chính thức tuyên tín thành tín điều vào chính ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/1854, gần bốn năm trước Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức.

Ngoài ra, tại Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức, chúng ta còn có thể đi viếng 14 Đàng Thánh Giá ở ngọn đồi phía Đông của Khu Đền Thờ ba tầng. Cả một ngọn đồi rộng được xây cất cho 14 Chặng Đường Thánh Giá, một chặng đường Thánh Giá vĩ đại tôi chưa từng thấy, và tôi thích nhất là chặng cuối cùng ở mãi sâu dưới chân đồi, hết sức tự nhiên, vì đó là một hang động đá hoàn toàn thiên nhiên, có thể nói lên ý nghĩa đích thực của ngôi mộ đá Chúa Giêsu được táng xác như Phúc Âm nhắc tới. Chưa hết, ngay trong khu Linh Địa, còn có Bảo Tàng Viện lưu niệm tất cả mọi di tích lịch sử về Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức. Bên ngoài khu Linh Địa, vế phía bắc, khách hành hương có thể ra khu phố có nhà ở của chị Bênađét nữa.


Vì Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức, ngoài tiếng tăm về phép lạ chữa lành, vừa thơ mộng hữu hình, vừa nguy nga tráng lệ nên thật sự đã thu hút khách hành hương tuốn về hết sức đông đảo và nhộn nhịp.


Đúng thế, những sinh hoạt hằng ngày chính yếu tại đây gồm có hai cuộc kiệu, đó là kiệu Thánh Thể ban chiều, từ Lều Tạm ở bên kia bờ sông Gave vào hầm Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X, các bệnh nhân ngồi trên xe lăn được theo kiệu và lĩnh phép lành Thánh Thể, và cuộc rước nến vào buổi tối, từ hang Mẹ hiện ra, qua công trường Lộ Đức, đến trước tiền đường Đại Thánh Đường Mân Côi, cho chung khách hành hương, bằng việc lần hạt bằng các thứ ngôn ngữ quốc tế. Riêng tại Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X còn có Thánh Lễ Quốc Tế vào các ngày Thứ Tư và Chúa Nhật hằng tuần. Ngoài ra, tại các Đại Thánh Đường khác, nhất là tại chính hang Mẹ hiện ra, lúc nào cũng có Thánh Lễ của hết phái đoàn hành hương này đến doàn hành hương kia.

Đó chính là lý do, để kết thúc về Sự Tích Đức Mẹ Lộ Đức, tôi xin chia sẻ kinh nghiệm hành hương tại Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức như sau. Muốn tránh cảnh nhộn nhịp với đủ mọi thứ tổ chức ban ngày lẫn ban tối ở đủ mọi nơi và mọi lúc như thế, nhất là để có thể thực sự cảm thấy cái linh thiêng được gần gũi với Mẹ Maria hơn, chúng ta hãy cố dậy từ sáng sớm, đến chính hang Mẹ hiện ra vào lúc 5 giờ sáng, giờ Mẹ thường hiện ra với chị Bênađét ngày xưa, và hãy qùi trước hang Mẹ mà cầu nguyện bằng chuỗi hạt Mân Côi trong tay với Mẹ, như Mẹ đã lần hạt với chị Bênađét xưa kia vậy. Amen.

Ngày Lễ Mẹ Lộ Đức hằng năm cũng đã được Giáo Hội chọn là Ngày Thế Giới Bệnh Nhân. Để hiệp thông với Giáo Hội Hoàn Vũ đang cử hành Ngày Thế Giới Bệnh Nhân lần thứ chín tại Giáo Đô Rôma vào Chúa Nhật ngày 11/2 kính Mẹ Lộ Đức cuối tuần này, cũng như để thông cảm và an ủi quí thính giả bệnh nhân rất thương mến của chúng ta, chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe lại huấn từ Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ thành phần bệnh nhân trong ngày Thứ Sáu 11/2 Năm Thánh 2000, khi họ qui tụ về Rôma để Mừng Ngày Năm Thánh của họ, ngày mà 200 người đại diện cho bao ngàn bệnh nhân được Đức Thánh Cha ban phép Xức Dầu Thánh tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Sau đây là lời của ĐTC:

“Đau đớn và bệnh nạn là số phận nơi mầu nhiệm của con người trên trái đất này. Dĩ nhiên con người vẫn có quyền chiến đấu với bệnh nạn, vì sức khỏe là một tặng ân của Thiên Chúa. Thế nhưng, người ta cũng cần phải làm sao để có thể nhận ra dự án của Thiên Chúa mỗi khi đau khổ đến gõ cửa nhà của chúng ta nữa. ‘Chìa khóa’ để có thể nhận thức được điều này ở nơi Thập Giá của Chúa Kitô. Lời nhập thể đã ôm lấy nỗi yếu đuối của chúng ta, mang lấy nó trong mầu nhiệm Thập Giá. Từ bấy giờ, tất cả mọi khổ đau có một ý nghĩa khả dĩ làm cho nó có một giá trị đáng kể. Từ ngày của Cuộc Khổ Nạn, qua 2000 năm rồi, Thập Giá vẫn chiếu sáng như là một cuộc bộc lộ tối hậu mối tình của Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Những ai có thể chấp nhận nó trong đời sống của mình đều cảm thấy rằng đau đớn theo ánh sáng đức tin đã trở thành nguồn hy vọng và cứu độ” (đoạn 3.1).


“Quí bệnh nhân thân mến, đây là giây phút tuyệt đỉnh của Cuộc Mừng Kỷ Niệm của các con! Bằng việc bước qua ngưỡng Cửa Thánh, các con hợp với tất cả những ai trên khắp thế giới đã bước qua đó và những ai sẽ bước qua đó trong Năm Mừng Kỷ Niệm này. Chớ gì việc bước qua Cửa Thánh là dấu hiệu của việc các con thiêng liêng tiến vào mầu nhiệm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc tử giá và phục sinh, Đấng vì yêu đã mang lấy ‘những sầu thương và gánh chịu những buồn phiền của chúng ta’ (Is 53:4)” (đoạn 4.2).(L’Osservatore Romano ấn bản Anh ngữ, 16/2/2000, trang 2)
 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)

 

 


Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) St 2, 18-25

"Các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh".

Bài trích sách Sáng Thế.

Con rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi dã thú mà Thiên Chúa tạo thành.

Nó nói với người nữ rằng: "Có phải Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn mọi thứ cây trong vườn?"

Người nữ trả lời con rắn: "Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa bảo: "Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không, sẽ phải chết".

Rắn bảo người nữ: "Không, các ngươi không chết đâu. Nhưng Thiên Chúa biết rằng ngày nào các ngươi ăn trái ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh".

Người nữ thấy cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh.

Bà hái trái cây ăn, rồi lại đưa cho chồng, người chồng cũng ăn. Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân.

Bấy giờ hai người nghe tiếng Thiên Chúa đi trong vườn địa đàng lúc chiều mát.

Ađam và vợ ông liền núp trong lùm cây trong vườn địa đàng cho khuất mặt Thiên Chúa.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 31, 1-2, 5, 6, 7

Ðáp: Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm. (1a)

Xướng 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian! - Ðáp.

2) Tôi xưng ra cùng Chúa, tội tôi đã phạm, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. - Ðáp.

3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nỗi những người nầy. - Ðáp.

4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin dạy bảo tôi về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn tôi trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 7, 31-37

"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh.

Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy.

Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.

Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng.

Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.

Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn.

Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

Ðó là Lời Chúa.


 

 

Suy niệm

 

 

Lưỡi Điếc

 

Hôm nay, Thứ Sáu Tuần V Thường Niên, Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết sự kiện "Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh", nơi  "người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy"  "Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng". Sau khi chữa lành cho nạn nhân bị điếc, "Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: 'Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được'".

 

Ở đây, căn cứ vào những gì được Thánh ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể suy ra mấy điều chính yếu sau đây:

 

1- Nạn nhân bị điếc chắc từ thuở mới sinh, hay từ khi còn rất nhỏ. Bởi thế, nạn nhân chẳng những bị điếc mà còn bị câm nữa. Bởi, theo tự nhiên, người câm không thể nói được thường là vì bị điếc, không nghe thấy gì nên chẳng biết nói. Câm điếc đi với nhau là như thế. Tại sao chúng ta dám khẳng định nạn nhân bị điếc trong bài Phúc Âm đồng thời cũng bị câm?

 

2- Xin thưa, có hai lý do, một liên quan đến cử chỉ chữa lành của Chúa Giêsu và một liên quan đến nhận định của dân chúng. Trước hết, Chúa Giêsu khi chữa lành cho nạn nhân, Người chẳng những "đặt ngón tay vào tai anh" mà còn "bôi nước miếng vào lưỡi anh"; sau nữa, trong lời dân chúng thán phục Người có bao gồm cả nghe và nói: "Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

 

3- Về cách chữa lành cho nạn nhân bị câm điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay cũng rất ư lạ lùng. Thật ra Chúa Giêsu chỉ cần phán một lời là xong. Trong trường hợp trừ thần ô uế cho đứa con gái của bà mẹ ngoại giáo ở Bài Phúc Âm hôm qua cho thấy Người chẳng cần đến gặp em mà em cũng thoát bị quỉ ám. Hay Người chỉ cần làm cử chỉ như dân chúng mang nạn nhân bị điếc đến cho Người là "xin Người đặt tay trên kẻ ấy". Vậy thì những cử chỉ Chúa Giêsu tỏ ra có vẻ phức tạp trong bài Phúc Âm hôm nay chắc hẳn phải có một ý nghĩa sâu xa nào đó?

 

4- "Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là 'hãy mở ra'". Cử chỉ của Chúa Giêsu trong việc chữa lành cho nạn nhân bị câm điếc này bao gồm 3 tác động rõ ràng: 1- "Người đem anh ta ra khỏi đám đông"; 2- "đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh"; 3- ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là 'hãy mở ra'".

 

5- Ba tác động chữa lành này của Chúa Giêsu có liên hệ chặt chẽ với nhau ở trường hợp Người chữa lành cho nạn nhân bị câm điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay: Trước hết, Người đem nạn nhân bị điếc ra khỏi đám đông, một tác động tỏ ra Người trân trọng từng con người một, nhất là con người bất hạnh xấu số hơn "đám đông", để Người có thể đáp ứng khát vọng và nhu cầu của từng con người cần Người cứu giúp tùy từng trường hợp.

 

6- Đối với trường hợp của nạn nhân bị điếc và vì thế cũng bị câm, Chúa Giêsu đã thực hiện tác động trực tiếp đến tật nguyền của nạn nhân, đó là "đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh". "Ngón tay" của Người đây ám chỉ Thần Linh (xem Mathêu 12:28 và Luca 11:20), tức "Thần Chân Lý" là Đấng làm cho con người nhận biết chân lý qua việc nghe biết (xem Gioan 16:13), bởi thế Người mới đặt "ngón tay vào tai anh" chứ không vào bất cứ chỗ nào khác, như vào đầu anh ta hay vào trán anh ta. Còn "lưỡi anh" thì được Người "bôi nước miếng" của Người, những gì xuất phát ra từ miệng của Người, như ám chỉ lời của Người, một lời quyền năng có thể đâm thủng hồn thiêng và xương tủy của con người ta (xem Do Thái 4:12). Chính vì thế mà ngay sau đó Chúa Giêsu đã sử dụng đến lời của Người để hoàn tất việc chữa lành: "hãy mở ra".

 

7- Việc chữa lành của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay có tính cách bí tích. Bởi các Bí Tích Thánh do chính Người thiết lập bao giờ cũng có 2 yếu tố chính yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly, đó là chất thể (matter) và mô thể (form). Chẳng hạn như Bí Tích Thánh Tẩy phải hội đủ chất thể là nước và mô thể là câu "tôi rửa anh/chị/em nhân danh Cha và Con và Thánh Thần", hay như Bí Tích Thánh Thể phải hội đủ chất thể là bánh không men và rượu nho cùng mô thể là lời Truyền Phép trên Bánh và Rượu. Trong phép lạ chữa lành nạn nhân bị điếc ở Bài Phúc Âm hôm nay cũng thế: chất thể là "nước miếng" của Người được bôi lên lưỡi của nạn nhân bị điếc, và mô thể là lời "Ephrata - hãy mở ra".

 

8- Việc chữa lành cho nạn nhân bị điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay chẳng những có tính cách bí tích mà còn có tính cách thiêng liêng nữa. Ở chỗ, "ngón tay" của Người ám chỉ Thần Chân Lý, và "nước miếng" của Người ám chỉ Lời của Người. Bởi thế, việc Người chữa lành cho nạn nhân bị điếc ở Bài Phúc Âm hôm nay không phải chỉ để cho anh ta có thể nghe thấy những tiếng nói của đám đông, và vì thế anh ta có thể bị ảnh hưởng và bị lôi cuốn bởi đám đông vốn chiều theo thế gian và những gì bất chính, mà là để cho anh ta nghe thấy Lời Chúa, nghe tiếng lương tâm chân chính mà sống đúng với ý muốn của Thiên Chúa nhờ đó mà được cứu độ. Bằng không, một khi tai đã nghe thấy có thể trở thành dịp tội cho chính nạn nhân, như trường hợp của hai nguyên tổ trong Bài Đọc 1 hôm nay.

 

Thật vậy, hai nguyên tổ loài người, ngay từ khi mới được tạo dựng nên, ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, cả hồn lẫn xác đều tuyệt vời tốt đẹp, chứ không bị điếc như nạn nhân trong Bài Phúc Âm hôm nay. Ấy thế mà, cho dù có tai lành mạnh đã nghe rõ ràng lệnh Thiên Chúa cấm "Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không, sẽ phải chết", đúng như nữ nguyên tổ đã nhắc cho rắn quỉ cám dỗ Satan biết, thế mà vẫn bị sa ngã, bao gồm cả chồng bà là Adong, người có tai lành mạnh hơn bà đấy nhưng cũng mù quáng đã nghe theo lời vợ cám dỗ: "Bà hái trái cây ăn, rồi lại đưa cho chồng, người chồng cũng ăn".

 

Như thế, hai nguyên tổ đã bị khuyết tật về tai ngay trước nguyên tội, ở chỗ không nghe tiếng Thiên Chúa mà chỉ nghe lời rắn quỉ. Tuy nhiên, không phải vì thế mà các vị hoàn toàn bị điếc, các vị cùng lắm chỉ bị hễnh hãng thôi. Nói đúng hơn cái tai của các vị bị dị ứng với Lời Chúa và thích thú nghe tiếng quỉ vì những lời của nó hợp với con người hơn là Lời Chúa đầy khó khăn cấm đoán hạn chế. Thế nhưng, trường hợp của các vị vẫn còn có thể cứu được. Ở chỗ, các vị vẫn còn "nghe tiếng Thiên Chúa đi trong vườn địa đàng lúc chiều mát", chứ chưa hoàn toàn bị điếc, bởi vẫn còn tỏ ra sợ hãi Đấng đã dựng nên mình sau khi phạm tội mất lòng Ngài: "Ađam và vợ ông liền núp trong lùm cây trong vườn địa đàng cho khuất mặt Thiên Chúa".

 

 

 

 

 

Thứ Bảy


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 3,9-21

"Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất".

Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: "Ngươi ở đâu?"

Ông đã thưa: "Tôi đã nghe tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng tôi sợ hãi, vì tôi trần truồng và đang ẩn núp".

Chúa phán bảo ông rằng: "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?"

Ađam thưa lại: "Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với tôi, chính nàng đã cho tôi trái cây và tôi đã ăn".

Và Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: "Tại sao ngươi đã làm điều đó?"

Người phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối tôi và tôi đã ăn".

Thiên Chúa phán bảo con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu, mi sẽ bò đi bằng bụng và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân người".

Chúa phán bảo cùng người phụ nữ rằng: "Ta sẽ làm cho ngươi gặp nhiều khổ cực khi thai nghén và đau đớn khi sinh con; ngươi sẽ ở dưới quyền người chồng, và chồng sẽ trị ngươi".

Người lại phán bảo Ađam rằng: "Vì ngươi đã nghe lời vợ mà ăn trái Ta cấm, nên đất bị nguyền rủa vì tội của ngươi. Trọn đời, ngươi phải làm lụng vất vả mới có mà ăn. Ðất sẽ mọc cho ngươi đủ thứ gai góc, và ngươi sẽ ăn rau cỏ ngoài đồng. Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi ngươi trở về đất, vì ngươi từ đó mà ra. Ngươi là bụi đất, nên ngươi sẽ trở về bụi đất".

Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.

Thiên Chúa cũng làm cho Ađam và vợ ông những chiếc áo da và mặc cho họ.

Và Người phán: "Nầy, Ađam đã trở thành như một trong chúng ta, biết thiện ác. Vậy bây giờ, đừng để hắn giơ tay hái trái cây trường sinh mà ăn và được sống đời đời".

Và Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất, là nơi ông phát xuất ra.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 89, 2, 3-4, 5-6, 12-13

Ðáp: Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng tôi dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia. (1)

Xướng 1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Ðáp.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm cạnh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.

3) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi; Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.

4) Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ, xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv. 94, 8ab

Alleluia, alleluia - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 8,1-10

"Họ ăn no nê".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: "Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến".

Các môn đệ thưa: "Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no".

Và người hỏi các ông: "Các con có bao nhiêu bánh?"

Các ông thưa: "Có bảy chiếc".

Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát.

Các ông chia cho dân chúng.

Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ.

Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát.

Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng.

Số người ăn độ chừng bốn ngàn.

Rồi Người giải tán họ, kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Ðammanutha.

Ðó là Lời Chúa.

 

Image result for Mark 8,1-10


Suy niệm


    

Sự sống dư thừa ... "giữa nơi hoang địa"

 

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Thứ Bảy Tuần V Thường Niên hôm nay về sự kiện Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai, một sự kiện chứng tỏ Chúa Giêsu rất quan tâm đến dân chúng, bao gồm cả nhu cầu về vật chất của họ: "Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: 'Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến'".

 

Trong trường hợp được Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại hôm nay, trước hết phải công nhận rằng Chúa Giêsu có một hấp lực thu hút mãnh liệt tới độ đám đông dân chúng theo Người "đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn". Lời của Người ở trong trường hợp này phải nói là chính lương thực thiêng liêng cho tâm hồn của họ, đến độ họ cảm thấy bụng của họ không đói và có thể nhịn ăn về thể xác trong 3 ngày trời: "Người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mathêu 4:4).

 

Tuy nhiên, sau khi nghe giảng xong, bấy giờ thân xác của dân chúng mới cảm thấy mệt mỏi và đói quặn lên, nhất là đối với "nhiều người từ xa mà đến", khó có gì để ăn ngay cho đỡ đói và nhờ đó mới đủ sức trở về đến nhà. Chính trong câu trả lời của các tông đồ đã cho thấy cái khó khăn tìm kiếm của ăn sau khi dân chúng giải tán: "Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no".

 

Chính trong hoàn cảnh khó khăn như thế Chúa Giêsu đã lợi dụng để tỏ mình ra cho dân chúng, để họ thấy Người chẳng những khôn ngoan giảng dạy mà còn yêu thương chăm sóc cho họ nữa, vì họ tin theo Người, Đấng không thể bất trung với họ và phản bội lòng cảm phục tin tưởng của họ, nên Người đã ra tay cứu vớt, khi hỏi các tông đồ: "Các con có bao nhiêu bánh?" một thứ món ăn quen thuộc nhất của dân chúng và là món ăn tiêu biểu cho chính Lời Chúa nữa.

 

Ngoài bánh ra, còn một món ăn nữa cũng hoàn toàn phổ thông với đại đa số quần chúng thuộc giới bình dân đó là cá, một món ăn cũng được chính Chúa Giêsu sử dụng để nuôi ăn 7 tông đồ trên bờ hồ Tibêria sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết (xem Gioan 21:9). Nếu bánh biểu hiệu cho lời Chúa, cho sự sống thần linh xuất phát từ hay được cung cấp từ lời Chúa, thì cá khô hay cá nướng biểu hiệu cho phần rỗi của các linh hồn, bởi các tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn và sai đi để "chài lưới người" (Luca 5:10), nghĩa là để làm cho con người nhận biết chân lý, nhận biết Lời Chúa, nhận biết Chúa Kitô (là Lời Chúa, là Bánh Sự Sống) mà được cứu độ.

 

Việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng theo đuổi Người để lắng nghe "những lời ban sự sống đời đời" (Gioan 6:68) của Người, ở một nghĩa nào đó như báo trước việc Người thiết lập Bí Tích Thánh Thể, việc Người trở thành tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng thành phần dân tân Ước của Người, thành phần tin tưởng Người và đã chấp nhận Phép Rửa để trở thành môn đệ của Người, trở thành chi thể thuộc Nhiệm Thể của Người, thành cành nho dính liên với Người là thân nho. Và việc hiệp lễ trong phụng vụ Thánh Lễ bao giờ cũng xẩy ra sau phần phụng vụ Lời Chúa, như trong Bài Phúc Âm hôm nay dân chúng sau khi nghe lời Chúa thì được ăn bánh của Chúa, "ăn no nê", đến độ "còn thừa lại được bảy thúng". Vì Chúa Kitô chính là "sự sống" (Gioan 11:25; 14:6), một sự sống thần linh vô cùng bất tận, và "đến cho họ được sống và sống một cách viên mãn" (Gioan 10:10) bằng chính bản thân Người nơi mầu nhiệm Vượt Qua.

 

Nếu trong Bài Phúc Âm dân chúng theo Chúa Kitô được ăn no nê sự sống, cả về phần hồn lẫn phần xác, thì ở trong Bài Đọc 1 hôm nay hai nguyên tổ của loài người chúng ta lại ăn cái chết: "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?" - chết cả về phần xác: "Ngươi là bụi đất, nên ngươi sẽ trở về bụi đất", lẫn phần hồn: "Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng".

 

Tuy nhiên, bản tính của con người dù mắc nguyên tội trở thành hư hại nhưng không hoàn toàn băng hoại đến độ không thể cứu chữa được nữa. Bởi thế, ngay trong bản án nguyên tội, Vị Thiên Chúa là Tình yêu vô cùng nhân hậu vẫn chừa cho con người con đường sống, đó là chịu khổ để đền tội. Đó là lý do "Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng" - "để cày ruộng đất, là nơi ông phát xuất ra". Nhưng con người ra khỏi vườn địa đường là để được sống và sống viên mãn hơn qua lời hứa cứu chuộc của Ngài nơi "miêu duệ người nữ", bởi thế mà trước khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đường con người đã được Thiên Chúa thương xót và quan tâm chở che bao bọc, ở chỗ: "Thiên Chúa cũng làm cho Ađam và vợ ông những chiếc áo da và mặc cho họ".

 

Đó là tất cả ý nghĩa vô cùng thấm thía về cả thân phận khốn nạn đáng thương của con người trước Lòng Thương Xót Chúa vô cùng bất tận trong Bài Đáp Ca hôm nay: "Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng tôi dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia".

 

1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm cạnh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".

3) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi; Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô.

4) Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ, xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.