SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Chay Tuần 2

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18

"Của hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi".

Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 115, 10 và 15. 16-17. 18-19

Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv 114, 9).

Xướng: 1) Tôi đã tin cậy ngay cả trong lúc tôi nói: "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực!" Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. - Ðáp.

2) Ôi lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa, con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con. Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. - Ðáp.

3) Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giê-rusalem hỡi! - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 8, 31b-34

"Thiên Chúa không dung tha chính Con mình".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta? Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Ðấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta?

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 17, 5

Từ trong đám mây sáng chói, có tiếng Chúa Cha phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người".

 

Phúc Âm: Mc 9, 1-9

"Ðây là Con Ta rất yêu dấu".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"

Ðó là lời Chúa.

Image result for MARK 9, 1-9

 

 

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Hy tế Người Con biến hình

 

 

Hôm nay, Chúa Nhật 2 Mùa Chay Năm B, điểm qui tụ của cả 3 bài đọc trong phụng vụ lời Chúa đều tập trung vào hy tế của Người Con Duy Nhất. Thật vậy, cho dù bài Phúc Âm được Thánh ký Marco (9:1-9) thuật lại biến cố biến hình trên “núi cao” của Chúa Giêsu, một biến cố hoàn toàn ngược lại với biến cố Người chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang địa trong bài Phúc Âm tuần 1 Mùa Chay vừa rồi, nhưng theo chiều hướng của bài đọc 1 (Khởi Nguyên 22:1-2,9a,10-13,15-18) và bài đọc 2 (Roma 8:31b-34) thì cốt lõi của cả 3 bài đọc đều qui về hy tế của Người Con Duy Nhất này.

 

Đúng thế, trong bài Phúc Âm là bài đọc chính yếu, dù ở phần đầu là một Chúa Kitô “biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết”, và ở phần giữa Người được Cha trên trời chứng nhận và tuyên dương: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”, thế nhưng, ở câu kết thúc của bài Phúc Âm, Người Con đẹp lòng Cha và biến hình rực rỡ rạng ngời này lại là “Con Người từ cõi chết sống lại”, tức là phải chịu khổ nạn và tử giá, mới vượt qua từ cõi chết mà vào sự sống, nhờ đó mới “cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Gioan 10:10).

Giáo Hội cố ý chọn đọc hai bài Phúc Âm cho Chúa Nhật I Mùa Chay và Chúa Nhật II Mùa Chay tương phản nhau, chay tịnh và biến hình, hai biến cố tiêu biểu là để báo trước cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, Đấng sẽ phải vượt qua từ khổ giá (được biểu hiện nơi sự kiện chay tịnh) tới phục sinh (được biểu hiện nơi sự kiện biến hình). Cả hai biến cố chay tịnh và biến hình đều liên quan trực tiếp đến thân xác của Người. Phúc Âm Thánh ký Marco cho Năm B hôm nay chỉ nói đến "Áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết”, chứ không hề nói đến trước đó "mặt Người" cũng được biến đổi, như ở Phúc Âm Thánh Mathêu (17:2) và Luca (9:29). Nếu "mặt Người" biểu hiệu cho linh hồn của Người thì "áo Người" biểu hiệu cho thân xác của Người.

Thế nhưng, ngay trong biến cố biến hình đi nữa, cả 3 Phúc Âm Nhất Lãm đều có cùng một chi tiết giống nhau đó là có sự hiện diện của "Moisen và Elia". Chúng ta không biết tại sao tông đồ Phêrô chỉ là một hậu sinh trong giòng Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái, chưa hề sống ở thời Moisen và Elia, chưa biết mặt mũi hai vị tiền bối nổi tiếng này như thế nào, mà bấy giờ lại nhận ra hai vị và "lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: 'Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia'". Phải chăng tông đồ Phêrô nói theo tác động Thần Linh, vì ngay sau đó Thánh Ký Marco ghi nhận thêm chi tiết: "Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ", nghĩa là theo tự nhiên tông đồ Phêrô hoàn toàn không biết, nếu không được soi động.

Tại sao lại có sự kiện "Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu" ở sự kiện biến hình của Chúa Kitô, và các vị đã "đàm đạo với Chúa Giêsu" những gì, nếu không phải về cuộc Vượt Qua của Người, như chính Người sau này, sau khi sống lại từ trong kẻ chết đã chứng minh Người Vượt Qua bằng chính chứng từ Thánh Kinh Cựu Ước liên quan đến hai vị này như sau: "Hết mọi sự viết về Thày trong luật Moisen và các tiên tri cùng thánh vịnh đều đã được nên trọn" (Luca 24:44; xem cả 24:27). Như thế, biến cố biến hình của Chúa Kitô cũng bao gồm cả cuộc khổ giá của Người, một cuộc khổ giá đã được Người dọn mình và báo trước bằng sự kiện chay tịnh của Người.

 

Biến cố Vượt Qua của Chúa Kitô chẳng những được tiên báo trong Luật Moisen và các tiên tri mà còn ngay nơi sự kiện được Sáng Thế Ký thuật lại ở Bài Đọc 1 hôm nay, sự kiện tổ phụ Abraham sẵn sàng tuân theo ý định vô cùng oái oăm nghiệt ngã của một Thiên Chúa hứa ban cho vị tổ phụ này người con theo lời hứa, một người con là mầm mống của một dân tộc đông như sao trời cát biển (xem Khởi Nguyên 15:1-6), mà lại bắt vị tổ phụ ấy giết chết người con ấy đi “dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”.

 

Người con duy nhất của lời hứa này của tổ phụ Abraham là Isaac không phải là hình ảnh của một “Người Con duy nhất đến từ Cha đầy ân sủng và chân lý” (Gioan 1:14) hay sao? Và hy tế Isaac xẩy ra “trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi” đây không ám chỉ đến “núi sọ” Canvê của Con Thiên Chúa sau này hay sao? Nếu Abraham chỉ có một người con duy nhất theo lời hứa là Isaac cần phải được sát tế đi theo ý muốn của Thiên Chúa thì Chúa Giêsu Kitô cũng là Người Con duy nhất của Ngài là Cha trên trời, Đấng “đã không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó nộp Con vì tất cả chúng ta” (Roma 8:32 – bài đọc 2).

 

Thế nhưng, Thiên Chúa là Cha trên trời không hy sinh Con Một của Ngài một cách vô ích, mà là để cứu chuộc loài tạo vật đã được Ngài ngay từ ban đầu dựng nên theo hình ảnh thần linh của Ngài và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-27), nhờ đó Ngài hoàn tất lời hứa với tổ phụ Abraham, trong bài đọc 1, về một giòng dõi “đông như sao trời cát biển… mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi”, một miêu duệ được Ngài tuyển chọn để tỏ mình ra cho họ mà tột đỉnh mạc khải thần linh của Ngài là “vào thời điểm viên trọn / thời điểm ấn định Thiên Chúa đã sai Con của Ngài hạ sinh bởi một người nữ sinh ra theo lề luật để giải cứu những ai lệ thuộc lề luật, hầu chúng ta có được thân phận trở thành những dưỡng tử của Ngài” (Galata 4:4). 

Phần Isaac, cho dù có thấy cha mình là "Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình", nhưng vẫn không chống cự và vùng vẫy cho khỏi bàn tay sát tế của cha mình, Chúa Kitô cũng vậy, cho dù biết trước số phận vô cùng đau thương khốn nạn của mình, Người vẫn âm thầm chấp nhận, nên "trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại". Bài Đáp Ca hôm nay đã phần nào nói lên tâm nguyện của Isaac và của Chúa Kitô trong thân phận hy tế của một Người Con Duy Nhất cho phần rỗi muôn dân:

 

1) Tôi đã tin cậy ngay cả trong lúc tôi nói: "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực!" Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài.

2) Ôi lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa, con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con. Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa.

3) Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giê-rusalem hỡi!

 

 

 

Thứ Hai


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ðn 9, 4b-10

"Chúng con đã phạm tội và đã làm điều gian ác".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Lạy Chúa là Thiên Chúa cao cả và đáng kính sợ, Ðấng giữ lời giao ước và lòng từ bi đối với những ai kính mến Người và tuân giữ những giới răn của Người. Chúng con đã phạm tội và làm điều gian ác; chúng con đã bỏ các giới răn và lề luật Chúa. Chúng con đã không nghe lời các tiên tri tôi tớ Chúa, những người đã nhân danh Chúa nói với các vua chúa, thủ lãnh, cha ông và toàn dân trong xứ chúng con. Lạy Chúa, sự công chính thuộc về Chúa, còn phần chúng con là phải chịu hổ mặt như ngày hôm nay, chúng con là những người thuộc dòng dõi Giuđa, những dân cư ở Giêrusalem, toàn dân Israel, những kẻ gần xa, sống trong mọi nước mà Chúa đã phân tán họ tới đó, vì tội ác mà họ đã phạm nghịch cùng Chúa. Lạy Chúa, điều dành cho chúng con, các vua chúa, thủ lãnh, cha ông chúng con là phải chịu hổ mặt, vì đã phạm tội. Lòng từ bi và tha thứ thuộc về Chúa là Thiên Chúa chúng con, vì chúng con phản bội cùng Chúa. Chúng con đã không vâng theo tiếng Chúa là Thiên Chúa chúng con, để sống theo lề luật mà Chúa đã dùng các tiên tri, tôi tớ Chúa, rao giảng cho chúng con.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 78, 8. 9. 11 và 13

Ðáp: Lạy Chúa, xin đừng xử với chúng con như chúng con đáng tội (Tv 102, 10a).

Xướng: 1) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi! - Ðáp.

2) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài. - Ðáp.

3) Xin cho tiếng tù binh rên siết vọng tới thiên nhan; xin ra tay thần lực giải thoát người mang án tử. Phần chúng con là thần dân Chúa, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi, chúng con sẽ ca tụng Chúa tới muôn đời; đời nọ sang đời kia, chúng con loan truyền lời ca khen Chúa. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 3, 16

Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Người; mọi kẻ tin Ngài, thì được sống đời đời.

 

Phúc Âm: Lc 6, 36-38

"Hãy tha thứ thì các con sẽ được thứ tha".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán thì các con khỏi bị xét đoán; đừng kết án thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho thì sẽ cho lại các con: Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!"

Ðó là lời Chúa.

 


 

Suy niệm

 

     

Sự Sống nhân ái

 


Ngày Thứ Hai trong Tuần 2 Mùa Chay hôm nay, chủ đề "Tôi đã tự ý bỏ sự sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17) cho toàn Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh được phản ảnh trong phụng vụ lời Chúa trong ngày, ở chỗ nhờ việc Người "đã tự ý bỏ sự sống mình đi" bằng cuộc khổ nạn và tử giá của Người mà Người đã "lấy nó lạinơi việc làm cho con người nhờ đó có thể nhận biết Lòng Thương Xót của Cha Người mà được "sự sống và là sự sống viên mãn hơn" (Gioan 10:10) của Người và với Người.

Thật vậy, trong Bài Phúc Âm hôm nay, "Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán thì các con khỏi bị xét đoán; đừng kết án thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho thì sẽ cho lại các con: Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!'"

Nội dung của Bài Phúc Âm hôm nay, cũng là những gì Chúa Giêsu muốn nói hay muốn dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay, đó là huấn dụ các môn đệ của Người làm sao để cho thể sống "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ", một đời sống "nhân từ như Cha" được thể hiện hay được chứng tỏ ở những hành động, về phần tiêu cực: "Ðừng xét đoán ... đừng kết án", và về phần tích cực "hãy cho" đi một cách đầy đặn, một cách "tràn đầy", đến độ "như Cha các con là Ðấng nhân từ". 

Đúng thế, để biết được mình có thật sự "nhân từ" hay "thương xótchăng, và "nhân từ" hay "thương xótđến đâu, có trọn vẹn và hoàn toàn chăng, cần phải căn cứ vào mẫu mực tối hậu của "nhân từ", của "thương xót" là chính "Cha các con là Ðấng nhân từ / thương xót". 

Trước hết, về phần tiêu cực, liên quan đến việc "Ðừng xét đoán ... đừng kết án", nếu Thiên Chúa mà "xét đoán" và "kết án" thì chẳng có một tạo vật "nhân vô thập toàn" nào thoát khỏi ánh mắt vô cùng nghiêm minh thưởng phạt của Ngài, trái lại, Ngài đã "nhân từ", đã "thương xót" thành phần loài người vô cùng thấp hèn và khốn nạn trước nhan Ngài mà đã dám cả gan xúc phạm đến Ngài là Đấng vô cùng thánh hảo và uy nghi cao cả.

Và thực sự là thế, đến độ Thiên Chúa là "Cha thương xót" chẳng những không "đoán xét" và "kết án" con người chỉ là một tạo vật mà đã cả gan phạm thượng, ở chỗ đã dám nghe theo tên dối trá quay ra bất tuân ý muốn chân thật và thiện hảo tối thượng của Ngài, ngược lại, Ngài còn vô cùng cảm thương và cứu độ họ nữa, bằng cách, đã "kết án" chính Con Một của mình là Bản thân Ngài, ở chỗ, Ngài "đã không dung tha cho Con Một của mình, một đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32), đến độ "vì chúng ta Thiên Chúa đã làm cho Đấng không biết đến tội lỗi thành tội lỗi để trong Người chúng ta được trở nên chính sự thánh thiện của Thiên Chúa" (1Corinto 5:21). 

Sau nữa, về phần tích cực, liên quan đến việc "cho" đi một cách đầy đặn bằng "đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc" còn một cách "đầy tràn", "Cha các con là Ðấng nhân từ / thương xót" cũng đã làm gương và đã thực hiện ở chỗ, chẳng những "đã yêu thế gian đến ban Con Một của mình, để những ai tin vào Người thì không phải chết nhưng được sự sống" (Gioan 3:16), mà nhất là ở chỗ ban Thánh Linh của Ngài cho Giáo Hội là Nhiệm Thể Con của Ngài, để nhờ Giáo Hội chứng nhân của Con Ngài mà "canh tân bộ mặt trái đất" (Thánh Vịnh 104:30) như Ngài mong muốn thành một "trời mới đất mới" (Khải Huyền 21:1). 

Ý nghĩa của "đấu hảo hạng" được Chúa Giêsu diễn tả trong Bài Phúc Âm hôm nay là một đấu: "đã dằn, đã lắc và đầy tràn", đến độ hai tay của con người không đủ chứa mà cần phải dùng đến "vạt áo" rộng hơn.

Tác động "dằn" ở đây ám chỉ lòng nhẫn nại và nhịn nhục của LTXC đối với loài người tội nhân vô cùng bất toàn mà lại mù quáng và cố chấp, nghĩa là, nếu nói theo kiểu trần gian, Thiên Chúa là Đấng toàn thiện và vô cùng công minh chính trực đã chẳng những phải "dằn" mình hay cầm mình, nén giận đối với con người vô cùng thấp hèn xấu xa mà cả gan dám xúc phạm đến Ngài, chẳng coi Ngài ra gì, chẳng bằng của cải vật chất hèn hạ trần gian, chẳng bằng đam mê nhục dục nhơ nhớp của họ, chẳng bằng tự ái tự phụ thối tha của họ v.v., và tác động "dằn" mình này của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi việc Ngài chịu đựng bị con người xúc phạm, nơi chính Người Con khổ nạn và tử giá của Ngài, Đấng đã gánh tội và đền tội nhân loại.

Tác động "lắc", tiếp theo tác động "dằn", ở đây ám chỉ thái độ LTXC "động lòng" trước con người bất toàn, yếu hèn, mù quáng, vô cùng khốn nạn đáng thương hơn là đáng phạt. Và thái độ "lắc" hay "động lòng" này của LTXC được tỏ ra một cách hết sức rõ ràng khi Con Thiên Chúa đang bị treo trên thập tự giá đã thốt lên lời đầu tiên trong 8 lời cuối cùng của Người, đó là "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34).

Hình ảnh "đầy tràn", sau hai tác động "dằn" - ám chỉ LTXC nhịn nhục và chịu đựng loài người tội nhân xúc phạm đến Ngài nơi Con của Ngài, và tác động "lắc" - ám chỉ LTXC động lòng về tình trạng con người tội lỗi chỉ vì bất toàn, yếu hèn và mù quáng đáng thương hơn là đáng phạt, là hình ảnh LTXC vô cùng bất tận hằng sẵn lòng tha thứ và hân hoan tha thứ cho con người tội nhân, mỗi khi họ thật lòng ăn năn thống hối xin Ngài thương thứ tha cho họ.

Thiên Chúa là "Cha nhân từ / thương xót" đã tha thứ cho con người tội lỗi bằng Thánh Linh của Ngài, Đấng được Ngài ban cho chung Giáo Hội cũng như cho từng chi thể của Nhiệm Thể Giáo Hội. Ở chỗ, Ngài đã ban Thánh Thần của Ngài chẳng những qua hơi thở của Chúa Kitô Phục Sinh (xem Gioan 20:22), mà còn với Chúa Kitô Thăng Thiên từ Cha sai Thánh Thần đến với chung Giáo Hội của Người nơi biến cố Thánh Thần Hiện Xuống trên các vị tông đồ ở Giêrusalem vào ngày Lễ Ngũ Tuần (xem Tông Vụ 2:1-4; Gioan 15:26:). 

Chúa Cha, nơi Phép Rửa được Giáo Hội thừa tác cử hành và ban phát các mầu nhiệm thánh, cũng đã ban Thánh Thần của Ngài cũng là của Chúa Giêsu Kitô đang ngự bên hữu Ngài cho từng Kitô hữu là phần thể của Nhiệm Thể Giáo Hội Chúa Kitô, ở chỗ: "tình yêu của Thiên Chúa được tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Đấng được ban cho chúng ta" (Roma 5:5).

Và chỉ nhờ Thánh Thần được "Cha nhân từ / thương xót" ban cho chung Giáo Hội cũng như cho riêng mỗi Kitô hữu mà Nhiệm Thể Chúa Kitô mới có thể được "Thần Chân Lý ... dẫn vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13) là Chúa Kitô, nhờ đó Giáo Hội mới có thể được sâu xa hiệp thông thần linh với Cha và Con (xem Gioan 16:14) cùng nên một như Cha và Con (xem Gioan 17:21), và nhờ đó Giáo Hội mới có thể thông ban "sự sống viên mãn" của mình cho thế giới bằng chứng từ của mình về Chúa Kitô cho tới tận cùng trái đất (xem Gioan 15:26 và Tông Vụ 1:8). 

Vị Thiên Chúa là "Cha nhân từ / thương xót" quả thực đã từng tỏ hiện bản chất "nhân từ / thương xót" này của Ngài ra nơi lịch sử cứu độ của dân Do Thái, như chính họ đã cảm nhận thấy thế trong Bài Đọc 1 được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên hôm nay: "Lạy Chúa là Thiên Chúa cao cả và đáng kính sợ, Ðấng giữ lời giao ước và lòng từ bi đối với những ai kính mến Người và tuân giữ những giới răn của Người".

Và sở dĩ dân Do Thái cảm nhận được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ "nhân từ / thương xót" là vì: 

1- Trong khi họ phản bội Ngài và bất tuân lệnh Ngài: 

"Chúng con đã phạm tội và làm điều gian ác; chúng con đã bỏ các giới răn và lề luật Chúa. Chúng con đã không nghe lời các tiên tri tôi tớ Chúa, những người đã nhân danh Chúa nói với các vua chúa, thủ lãnh, cha ông và toàn dân trong xứ chúng con". 

2- Ngài vẫn "công chính" ở chỗ không bỏ họ, chứ không bất chính như họ ở chỗ họ bỏ Ngài, và chính vì họ bỏ Ngài mà họ đã phải gánh chịu hậu hoạn của việc họ làm: 

"Lạy Chúa, sự công chính thuộc về Chúa, còn phần chúng con là phải chịu hổ mặt như ngày hôm nay, chúng con là những người thuộc dòng dõi Giuđa, những dân cư ở Giêrusalem, toàn dân Israel, những kẻ gần xa, sống trong mọi nước mà Chúa đã phân tán họ tới đó, vì tội ác mà họ đã phạm nghịch cùng Chúa. Lạy Chúa, điều dành cho chúng con, các vua chúa, thủ lãnh, cha ông chúng con là phải chịu hổ mặt, vì đã phạm tội".

3- Hơn thế nữa, trái lại, Ngài còn thương cảm và thương xót họ, bằng cách theo đuổi họ để đánh động họ và lôi kéo họ về với Ngài

"Lòng từ bi và tha thứ thuộc về Chúa là Thiên Chúa chúng con, vì chúng con phản bội cùng Chúa. Chúng con đã không vâng theo tiếng Chúa là Thiên Chúa chúng con, để sống theo lề luật mà Chúa đã dùng các tiên tri, tôi tớ Chúa, rao giảng cho chúng con".

Nếu dân Do Thái tỏ ra nhận biết tội lỗi của mình trong Bài Đọc 1 hôm nay, thì trong Bài Đáp Ca cùng ngày này, họ đã bày tỏ tấm lòng tan nát khiêm cung của họ nhận biết Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ là vị Thiên Chúa "nhân từ / thương xót", vị Thiên Chúa cứu độ của họ, cứu họ vì danh của Ngài hơn là chấp tội họ, nên Ngài đáng muôn đời chúc tụng ngợi khen

1) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi! 

2) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài. 

3) Xin cho tiếng tù binh rên siết vọng tới thiên nhan; xin ra tay thần lực giải thoát người mang án tử. Phần chúng con là thần dân Chúa, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi, chúng con sẽ ca tụng Chúa tới muôn đời; đời nọ sang đời kia, chúng con loan truyền lời ca khen Chúa. 


 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 1, 10. 16-20

"Các ngươi hãy học làm điều lành và tìm kiếm công lý".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Hỡi các Thủ lãnh thành Sôđôma, hãy nghe lời Chúa; hỡi dân thành Gômôra, hãy lắng nghe lề luật của Thiên Chúa chúng ta. Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, đừng làm điều xấu nữa, hãy làm điều lành; hãy tìm kiếm công lý, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những trẻ mồ côi và bênh vực người goá bụa.

Và Chúa phán: "Các ngươi hãy đến và đối chất với Ta: cho dầu tội lỗi các ngươi như màu đỏ thắm, cũng sẽ trở nên trắng như tuyết; cho dầu đỏ như vải điều, cũng sẽ trở nên trắng như len. Nếu các ngươi quyết tâm nghe Ta, các ngươi sẽ hưởng hoa màu ruộng đất; nhưng nếu các ngươi cố chấp không nghe và khiêu khích Ta, thì lưỡi gươm sẽ tiêu diệt các ngươi, vì miệng Chúa phán như thế".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 49, 8-9. 16bc-17. 21 và 23

Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).

Xướng: 1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận từ đoàn chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.

2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta, ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn, và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.

3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 6, 64b và 69b

Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời.

 

Phúc Âm: Mt 23, 1-12

"Họ nói mà không làm".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy, vì thế họ nới rộng thẻ Kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo, vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm



  

 Sự Sống thế giá   



Hôm nay, Thứ Ba trong Tuần 2 Mùa Chay, Bài Phúc Âm chất chứa những lời "Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ" về vai trò và uy tín của "các Luật sĩ và các người biệt phái".

Trước hết, về vai trò có quyền giảng dạy của họ là thành phần "ngồi trên toà Môsê", Chúa Giêsu khuyên giục cả "dân chúng và các môn đệ" của Người rằng: "những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ", cho dù cá nhân họ hay bản thân họ có thế nào chăng nữa, có không sống đúng như những gì họ giảng dạy, thậm chí sống ngược lại với những điều họ dạy, hoặc ít là không dám dạy những điều họ không sống hay sống trái ngược. 

Vì chính họ chỉ là phương tiện được Thiên Chúa sử dụng, không thể nào có thể làm cản trở được chính sứ điệp cứu độ của Ngài là sứ điệp tự bản chất có tác dụng thần linh cứu độ, chứ ơn cứu độ không xuất phát từ lời rao giảng của họ, từ tài thuyết phục của họ, từ sự khôn ngoan truyền đạt của họ, trái lại, từ chính Thánh Linh là Thần Chân Lý, Đấng gây tác dụng thần linh nơi thành phần thính giả, nhất là những ai chân thành tìm kiếm chân lý. 

Đó là lý do, trong Giáo Hội Công giáo, cho dù thừa tác viên tội lỗi bất xứng, mầu nhiệm thánh do ngài cử hành vẫn khách quan thành sự (valid), mặc dù chính ngài phạm thánh, như trường hợp một vị linh mục vừa mới phạm tội dâm dục xong lên làm lễ thì lễ vẫn thành, lời ngài truyền phép vẫn thành Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô, nhưng chính ngài lại phạm sự thánh nếu trước khi cử hành Thánh Lễ ngài chưa kịp xưng tội, hay ít là thật lòng ăn năn thống hối cách trọn với ý định sẽ xưng tội ngay sau Thánh Lễ do ngài cử hành.

Theo nguyên tắc thì như thế, thì sứ điệp cứu độ hoàn toàn tự mình có tác dụng cứu độ bởi Thần Linh của Thiên Chúa là Đấng sử dụng phương tiện thừa tác viên của Ngài, thế nhưng, thực tế cho thấy dầu sao uy tín và thế giá của sứ giả cũng rất ư là cần thiết và quan trọng, đến độ hầu như gắn liền bất khả thiếu và bất khả phân ly với chính sứ điệp họ loan truyền và giảng dạy, thậm chí nghe đến tên của họ một là người ta kéo đến hai là tránh xa. 

Tuy nhiên, về phía người nghe, nếu cởi mở và chỉ tìm kiếm chân lý mà thôi, thì vẫn có thể thấy được chân lý nơi tất cả mọi sự, kể cả nơi thành phần sư phụ bất xứng như "các Luật sĩ và các người biệt pháiđược Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Ở chỗ, họ thấy được cái mâu thuẫn nơi lời giảng và việc làm của sứ giả, và từ đó sứ điệp càng sáng tỏ hơn nơi chính những hành động hay thái độ sai quấy của thành phần sứ giả hay sư phụ sống hoàn toàn phản lại với sứ điệp mà thành phần "ngồi trên toà Môsê" này giảng dạy.

Nếu Chúa Giêsu khuyên bảo "dân chúng và các môn đệ" của Người "những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ", thì đồng thời ngay sau đó Người cũng vẫn cảnh giác "dân chúng và các môn đệ" của Người rằng "nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm". 

"Họ nói mà không làm" ở chỗ nào? Chúa Giêsu đã nói rõ hơn để cho "dân chúng và các môn đệ" của Người biết nhờ đó những người bình dân tầm thường này mới có thể "đừng noi theo hành vi của họ" đúng như Người cảnh giác và mong muốn. "Họ nói mà không làm", trước hết, ở chỗ: "Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử". 

Sau nữa, còn ở chỗ: "Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy, vì thế họ nới rộng thẻ Kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là 'thầy'". 

Và chính vì Chúa Giêsu muốn "dân chúng và các môn đệ" của Người biết rõ như thế để tránh lánh "đừng noi theo hành vi của họ" mà Người đã khuyên "dân chúng và các môn đệ" của Người hãy làm ngược lại với họ như sau: 

"Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo, vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi".

Đến đây chúng ta mới hiểu được ý nghĩa chủ đề "Tôi tự ý bỏ sự sống của mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17) của chung Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh qua bài Phúc Âm hôm nayỞ chỗ, Chúa Kitô là vị "chỉ đạo" duy nhất của chung nhân loại cũng như của riêng dân Do Thái, bao gồm cả thành phần dạy luật "mà không làmtrong bài Phúc Âm hôm nay, vị được các môn đệ của Người gọi rất chính xác "là Thày và là Chúa", thế mà đã cúi xuống rửa chân cho môn sinh của Người (xem Gioan 13:1-17), đúng như Người đã dạy trong bài Phúc Âm hôm nay: "Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi".

"Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên", như lời Chúa khẳng định để kết thúc bài Phúc Âm hôm nay, thì Chúa Kitô, Đấng đã "đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Matheu 20:28), lời Chúa Giêsu khẳng định về mình trong bài Phúc Âm ngày mai, quả thật đã hiện thực những gì Người đã tiên báo về chính bản thân của Người: "Tôi tự ý bỏ sự sống của mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17) cho phần rỗi của chung loài người, nhất là cho chiên của Người "được sự sống và là sự sống viên mãn hơn" (Gioan 10:10).

Tuy nhiên, việc Chúa Kitô phục vụ đến cùng bằng giá hiến mạng của mình như thế lại chỉ "làm giá chuộc cho nhiều người" thôi chứ không phải cho tất cả mọi người, không phải vì tự việc cứu độ của Người chỉ có giá trị hạn hữu chứ không vô cùng, mà là chỉ giành cho những ai xứng đáng với ơn cứu chuộc vô giá của Người, những ai chấp nhận Người, những ai nhận mình là bệnh nhân cần được cứu chữa bởi một vị lương y như Người, nhờ đó, "cho dầu tội lỗi các ngươi như màu đỏ thắm, cũng sẽ trở nên trắng như tuyết; cho dầu đỏ như vải điều, cũng sẽ trở nên trắng như len".

Đó là lý do ở Bài Đọc 1 hôm nay, Tiên Tri Isaia đã chẳng những khẳng định về thành quả cứu độ bằng câu vừa được trích dẫn trên đây, mà còn kêu gọi "thủ lãnh thành Sôđôma" và "dân thành Gômôra": 1- trước hết là trở về với Chúa qua lề luật của Ngài: "hãy lắng nghe lề luật của Thiên Chúa chúng ta"; 2- sau nữa là thống hối bản thân: "hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, đừng làm điều xấu nữa, hãy làm điều lành"; và 3- sau hết là sống công bằng chính trực với tha nhân và yêu thương đặc biệt những ai yếu thế cần giúp đỡ: "hãy tìm kiếm công lý, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những trẻ mồ côi và bênh vực người goá bụa".

Chỉ có những ai thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và tin tưởng vào Ngài là vị Thiên Chúa từ bi hay tha thứ mới có thể "thấy ơn Thiên Chúa cứu độ" vì bản thân họ đã cảm nhận được tâm trạng của Vị Thiên Chúa này ở trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận từ đoàn chiên ngươi những con dê đực. 

2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta, ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn, và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? 

3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ.



Thứ Tư


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Gr 18, 18-20

"Hãy đến, và chúng ta hành hạ nó".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Thiên hạ nói rằng: "Các ngươi hãy đến và chúng ta tìm cách chống lại Giêrêmia: vì tư tế không thiếu lề luật, người khôn ngoan không thiếu lời chỉ bảo, tiên tri không thiếu lời giảng dạy! Hãy đến, chúng ta hãy dùng lời nói mà tố cáo nó và đừng để ý đến các lời nó dạy".

Lạy Chúa, xin lưu tâm đến con, và nghe tiếng quân thù của con! Làm lành mà phải gặp dữ sao, vì họ đào lỗ chôn con? Xin Chúa hãy nhớ lại con đã đứng trước nhan thánh Chúa để biện hộ cho họ, Chúa đã nguôi giận họ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 30, 5-6. 14. 15-16

Ðáp: Lạy Chúa, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa (c. 17b).

Xướng: 1) Chúa dẫn con xa lưới dò chúng ngầm trương ra để hại con, vì Ngài là chỗ con nương náu. Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa; lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu chữa con. - Ðáp.

2) Con đã nghe thấy lũ đông bàn tán, nỗi sợ sệt gieo nặng khắp đôi nơi; cùng một lúc, chúng tụ họp phản đối con; chúng đã âm mưu sát hại mạng con. - Ðáp.

3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài, con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con! Vận mạng con ở trong tay Ngài, xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người bách hại. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ge 2, 12-13

Chúa phán: "Vậy từ đây các ngươi hãy thật lòng quay về với Ta, vì Ta nhân hậu và từ bi".

 

Phúc Âm: Mt 20, 17-28

"Họ đã lên án tử cho Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, đem riêng mười hai môn đệ đi theo. Dọc đường, Người nói với họ: "Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các vị thượng tế và luật sĩ. Người ta sẽ lên án tử cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại để chúng nhạo báng, đánh đòn, rồi treo Người lên thập giá, nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ sống lại".

Bấy giờ bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Người. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: "Bà muốn gì". Bà ta thưa lại: "Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài". Chúa Giêsu đáp lại: "Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây Ta sắp uống chăng?" Họ nói với Người: "Thưa được". Người bảo họ: "Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai, thì người ấy mới được". Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em: Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: "Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người".

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm

 

 

Sự Sống vượt qua   

 

Ngày Thứ Tư trong Tuần 2 Mùa Chay hôm nay, Bài Phúc Âm được Thánh ký Mathêu trình thuật lại 4 sự kiện liền, thứ nhất là sự kiện Chúa Giêsu tỏ ra cho riêng các môn đệ biết về cuộc vượt qua của Người, thứ hai là sự kiện bà mẹ của cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan đến xin với Chúa Giêsu cho hai người con của bà một đặc ân, thứ ba là sự kiện Chúa Giêsu đáp lại lời yêu cầu xin đặc ân của ba mẹ con này, và thứ bốn là sự kiện Chúa Giêsu huấn dụ chung các tông đồ nhân biến cố xin đặc ân ấy.

Thứ nhất là sự kiện Chúa Giêsu tỏ ra cho riêng các môn đệ biết về cuộc vượt qua của Người, bài Phúc Âm hôm nay thuật lại rằng: "Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các vị thượng tế và luật sĩ. Người ta sẽ lên án tử cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại để chúng nhạo báng, đánh đòn, rồi treo Người lên thập giá, nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ sống lại".

Thứ hai là sự kiện bà mẹ của cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan đến xin với Chúa Giêsu cho hai người con của bà một đặc ân: "Bấy giờ bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Người. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: 'Bà muốn gì'. Bà ta thưa lại: 'Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài'". 

Thứ ba là sự kiện Chúa Giêsu đáp lại lời yêu cầu xin đặc ân của ba mẹ con này: "Chúa Giêsu đáp lại: 'Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây Ta sắp uống chăng?' Họ nói với Người: 'Thưa được'. Người bảo họ: 'Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai, thì người ấy mới được'".

Thứ bốn là sự kiện Chúa Giêsu huấn dụ chung các tông đồ nhân biến cố xin đặc ân ấy: "Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em: Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: 'Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người'".

Giáo Hội chọn bài Phúc Âm hôm nay, căn cứ vào chiều hướng chung của phụng vụ lời Chúa trong ngày, thì sự kiện nổi bật nhất trong 4 sự kiện ở bài Phúc Âm không phải là sự kiện việc yêu cầu của 3 mẹ con hai anh em tông đồ Giacôbê và Gioan, mà là sự kiện 1 và 4 liên quan đến chính số phận của Chúa Kitô, là Đấng, như Người khẳng định ở câu kết của bài Phúc Âm: "đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người", đúng như lời Người tiên báo ở đầu bài Phúc Âm về bản thân Người: "Con Người sẽ bị nộp cho các vị thượng tế và luật sĩ. Người ta sẽ lên án tử cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại để chúng nhạo báng, đánh đòn, rồi treo Người lên thập giá, nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ sống lại".

Đúng thế, chính vì "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh, mà Người "đã tự ý bỏ sự sống mình đi", ở chỗ, "Con Người sẽ bị nộp cho các vị thượng tế và luật sĩ. Người ta sẽ lên án tử cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại để chúng nhạo báng, đánh đòn, rồi treo Người lên thập giá", không phải để hoàn toàn và vĩnh viễn bị hủy diệt, bị tiêu tan, bị sự dữ lấn át, trái lại "để lấy nó lại", ở chỗ: "nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ sống lại", tức để tỏ mình ra là Thiên Chúa hằng sống, bất diệt, Đấng đã hóa thân làm người và chiến thắng tội lỗi và sự chết, nhờ đó, qua nhân tính của mình, thông ban sự sống thần linh và Thánh Linh của Người, cho Giáo Hội "được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10;10). 

Giáo Hội được thừa hưởng sự sống viên mãn này của Chúa Kitô Phục Sinh, nhất là sau Biến Cố Thánh Thần Hiện Xuống ở Giêrusalem trong Ngày Lễ Ngũ Tuần mà các tông đồ là nền tảng của Giáo Hội (xem Epheso 2:20), vậy để có thể hoàn thành sứ vụ làm chứng nhân tiên khởi của mình, Giáo Hội nói chung, qua các tông đồ bấy giờ, cũng cần phải được thông phần vào cuộc vượt qua của Thày các vị và với Thày của các vị, bởi "tôi tớ không hơn chủ và môn đệ không hơn Thày. Môn đệ cần phải hân hoan được nên giống như Thày mình và tôi tớ được nên giống như chủ mình" (Mathêu 10:24-25).

Đó là lý do, bài Phúc Âm hôm nay còn bao gồm cả sự kiện 3 mẹ con của cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan, những con người, cho dù sau khi nghe thấy Chúa Giêsu báo trước về cuộc vượt qua kinh hoàng khủng khiếp của Người, ngoài sức tưởng tượng và lòng mong ước của các vị cũng là của chính đại chúng Do Thái, đã dám dấn thân theo Người bằng việc sẵn sàng "uống chén" của Người và với Người, không sợ, nhờ đó hai vị tông đồ này đã hiện thực đúng như lòng mong ước của Chúa Giêsu: "Môn đệ cần phải hân hoan được nên giống như Thày mình và tôi tớ được nên giống như chủ mình" (Mathêu 10:25).

"Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai, thì người ấy mới được". Lời Chúa Giêsu nói đây để đáp lại tinh thần dấn thân tham phần vào cuộc vượt qua của Người và với Người không phải chỉ là một lời có vẻ thoái thác quyền hạn của Người mà là, ở một nghĩa sâu xa nào đó, ám chỉ đến số phận đặc biệt của riêng hai vị tông đồ là "những đứa con sấm xét" này (xem Marco 3:17) đã được "Cha Ta chuẩn bị" rồi, để "Thày ở đâu các con cũng được ở đó với Thày" (Gioan 14:3).

Thật vậy, cuối cùng, cả hai vị tông đồ này đều được toại nguyện: Tông đồ Gioan là người môn đệ được ngồi bên phải Người khi vị này trở thành người môn đệ duy nhất được đứng dưới chân thập giá của Người (xem Gioan 19:26), và tông đồ Giacôbê là người môn đệ được ngồi bên tả Người khi vị này trở thành vị tử đạo đầu tiên trong các tông đồ và ở tại Giêrusalem như Người (xem Tông Vụ 12:2).

Số phận của Chúa Kitô, vị Ngôn Sứ chính yếu và tối hậu được Thiên Chúa sai đến trần gian nơi dân Do Thái, cũng như số phận làm ngôn sứ như Thày và với Thày của các tông đồ nói chung và của 2 người môn đệ là những đứa con sấm xét Giacôbê và Gioan trong bài Phúc Âm hôm nay nói riêng, đã được báo trước nơi các vị tiên tri, ngôn sứ ngày xưa trong lịch sử dân Do Thái, mà tiên tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay là tiêu biểu điển hình, như chính vị tiên tri này bày tỏ:

"Thiên hạ nói rằng: 'Các ngươi hãy đến và chúng ta tìm cách chống lại Giêrêmia: vì tư tế không thiếu lề luật, người khôn ngoan không thiếu lời chỉ bảo, tiên tri không thiếu lời giảng dạy! Hãy đến, chúng ta hãy dùng lời nói mà tố cáo nó và đừng để ý đến các lời nó dạy'. Lạy Chúa, xin lưu tâm đến con, và nghe tiếng quân thù của con! Làm lành mà phải gặp dữ sao, vì họ đào lỗ chôn con? Xin Chúa hãy nhớ lại con đã đứng trước nhan thánh Chúa để biện hộ cho họ, Chúa đã nguôi giận họ".

Đúng thế, số phận của các vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến để truyền đạt sự thật là ý muốn tối hậu của Ngài, bao gồm cả chính Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, như dụ ngôn của bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần này sẽ cho thấy, đều cảm thấy số phận bất hạnh của mình, đó là "làm lành mà phải gặp dữ": "làm lành" ở chỗ "con đã đứng trước nhan thánh Chúa để biện hộ cho họ, Chúa đã nguôi giận họ", "mà phải gặp dữ" ở chỗ "họ đào lỗ chôn con". 

Bởi thế, một trong những dấu hiệu chắc chắn nhất và chân thật nhất để thấy được ai là ngôn sứ thật sự của Thiên Chúa và được Thiên Chúa sai đến đó là số phận "làm lành mà phải gặp dữ" của họ, bởi họ loan truyền sự thật, một sự thật tự bản chất có sức giải phóng (xem Gioan 8:32) nhưng lại là sự thật phũ phàng làm mất lòng, gây phản kháng và trù dập, nhưng chính số phận bất hạnh này đã chứng thực cho vai trò ngôn sứ của họ cũng như cho sứ điệp cứu độ từ họ, chứ họ không phải là những thứ tiên tri giả, kitô giả, mị dân, sợ dân, sợ sự thật, nên không bao giờ bị hoạn nạn, trái lại, còn được quần chúng mộ mến, tôn sùng như thần tượng của thế gian!

Tuy nhiên, để có thể chu toàn vai trò ngôn sứ đích thực của mình, thành phần thiên sai cần phải có một niềm tin tưởng mãnh liệt vào chính Đấng đã sai mình, bằng những cảm nhận thần linh và tâm tình siêu nhiên như trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Chúa dẫn con xa lưới dò chúng ngầm trương ra để hại con, vì Ngài là chỗ con nương náu. Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa; lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu chữa con. 

2) Con đã nghe thấy lũ đông bàn tán, nỗi sợ sệt gieo nặng khắp đôi nơi; cùng một lúc, chúng tụ họp phản đối con; chúng đã âm mưu sát hại mạng con. 

3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài, con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con! Vận mạng con ở trong tay Ngài, xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người bách hại. 


Ngày 03/3: Thánh Catharine Drexe

Nếu quý vị có cha là một trùm tư bản ngân hàng quốc tế và mỗi khi đi tầu hỏa quý vị có hẳn một toa riêng sang trọng thì một cuộc sống khó nghèo tự nguyện xem ra rất là xa vời đối với quý vị. Nhưng nếu quý vị có một bà mẹ mỗi tuần mở cửa nhà ba ngày để đón tiếp người nghèo và một ông bố của quý vị mỗi chiều dành ra nửa tiếng để cầu nguyện thì việc dâng hiến cuộc sống để phục vụ người nghèo và cho đi hàng triệu đô-la cũng có thể nằm trong tầm tay của quý vị. Katharine Drexel đã làm được kỳ tích này.

Cô chào đời năm 1858 tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Một nền giáo dục lý tưởng và những cuộc du lịch khắp nơi dĩ nhiên là những điều bình thường nơi cô con gái một triệu phú. Với lắm tiền nhiều của thì con đường vào đời của cô rộng thênh thang. Nhưng khi cô chăm sóc bà mẹ kế trong ba năm liệt giường sau cùng, cô thấy rõ ràng rằng tất cả của cải của gia tộc Drexel cũng không thể bảo vệ cô khỏi đau khổ và cái chết. Từ đó cuộc đời cô có một bước ngoặt sâu xa.

Cô luôn quan tâm đến tình cảnh khốn khổ của những người da đỏ và cô càng xúc động vô vàn khi đọc cuốn sách "Một Thế Kỷ Ô Nhục" của Helen Hunt. Trong một lần du lịch Âu Châu cô gặp Ðức Giáo Hoàng Lê-ô 13 và xin ngài cử thêm các nhà truyền giáo đến Wyoming trợ giúp bạn cô là Ðức Giám Mục James O'Connor. Ðức Thánh Cha chỉ nhẹ nhàng gợi ý cho cô: "Tại sao chính con không trở thành một nhà truyền giáo?" Câu trả lời của ngài làm cô bàng hoàng và đã mở ra những chân trời mới cho cô.

Quay về tổ quốc, cô đến thăm dân da đỏ Dakotas, gặp mặt lãnh tụ của dân Sioux là Mây Ðỏ và bắt đầu việc trợ giúp có hệ thống cho việc truyền giáo cho dân da đỏ.

Cô đã có thể dễ dàng lập gia đình. Nhưng sau nhiều cuộc thảo luận với Ðức Giám Mục O'Connor, cô ghi lại vào năm 1889: "Lễ Thánh Cả Giu-se đã mang đến cho tôi hồng ân dâng hiến đời mình cho người da đỏ và người da đen." Các tờ báo vào thời đó đã phải la toáng lên: "Một cô gái đã cho đi bẩy triệu đô-la!" (Theo thời giá thì phải bằng hàng trăm triệu đô-la hiện nay)

Sau ba năm rưỡi đào luyện, cô và nhóm Nữ Tu tiên khởi (Chị Em Thánh Thể vì Người Da Ðỏ và Da Ðen) thiết lập một ngôi trường nội trú tại Santa Fe. Hàng loạt các ngôi trường khác tiếp nối hình thành. Vào năm 1942 cô đã có một hệ thống các ngôi trường Công Giáo trong 13 tiểu bang, thêm vào đó là 40 trung tâm truyền giáo và 23 ngôi trường tại miền quê. Bọn phân chủng điên cuồng chống đối cô, chúng còn đốt cả một ngôi trường tại Pennsylvania. Tổng kết, cô đã thiết lập được 50 cơ sở truyền giáo cho người da đỏ tại 16 tiểu bang.

Hai đấng thánh đã gặp nhau khi Mẹ Cabrini (1850 - 1917, người Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh, đấng đã sáng lập Dòng các Chị Em Thánh Tâm năm 1880) cố vấn cho cô về cách thức xin Rô-ma châu phê Hiến Pháp của Dòng do cô thành lập. Thành quả lớn lao của cô là thiết lập Ðại Học Xavier tại New Orleans, đại học đầu tiên tại Hoa Kỳ dành cho người da đen.

Vào năm 77 tuổi, cô bị một cơn đau tim và bắt buộc phải về hưu. Về mặt bề ngoài thì hiển nhiên là cuộc đời của cô đã qua đi. Nhưng về bên trong lại bắt đầu 20 năm sống trong thinh lặng và cầu nguyện mãnh liệt của cô trong một căn phòng nhỏ nhìn sang nhà nguyện. Những cuốn sổ nhỏ và các tờ giấy ghi chép đã ghi lại nhiều lời cầu nguyện, chiêm niệm và hoài bão của cô. Cô qua đời vào năm 96 tuổi và được phong Hiển Thánh vào năm 2000.

Các thánh luôn có một tiếng nói chung là: Cầu nguyện, khiêm nhường, đón chịu thập giá, yêu thương và tha thứ. Nhưng thật tuyệt vời khi ta có thể nghe những điều này nơi một cô gái đôi tám đài các, từ bé đã sống trong nhung lụa cực kỳ sa hoa, nhưng đã quyết tâm không ăn bánh ngọt, không ăn mứt, bé xíu đã đeo bông tai và đồng hồ (chỉ có trẻ em con nhà thật giàu vào thời đó mới có được những thứ đó), hay đuợc báo chí phỏng vấn, thường xuyên đi du lịch bằng xe lửa, mà lại thiết tha với việc truyền giáo cho người da đỏ. Ðây là một nhắc nhở cho chúng ta rằng sự thánh thiện có thể đạt được ở khắp mọi nơi, ngay ngày hôm nay tại đây cũng như ở Rô-ma và Giê-ru-sa-lem.

Thánh nữ Katharine Drexel đã nói: "Sự kiên trì khiêm nhường và nhẫn nại của Thập Giá - dù thực chất là gì đi nữa - là công việc tối thượng mà chúng ta phải làm. Nay đã 84 tuổi mà tôi còn xa vời biết bao trong việc trở thành một diện mạo của Chúa Giê-su như Ngài đã sống cuộc đời chí thánh của Ngài trên thế gian."

Lễ kính Thánh Katharine Drexel vào ngày 3 tháng 3 hàng năm.

 Hoàng Thiên Ân

 (Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 103, ngày 8/03/2003)

 


Thứ Năm


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: Gr 17, 5-10

"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời; phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Ðây Chúa phán: "Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn. Lòng người nham hiểm khôn dò, nào ai biết được? Còn Ta, Ta là Chúa, Ta thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can, trả công cho mỗi người tuỳ theo cách sống và hậu quả hành vi của họ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5a).

Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Lc 16, 19-31

"Con đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: "Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng:

"Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này. Abraham nói lại: "Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được".

Người đó lại nói: "Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này". Abraham đáp rằng: "Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài". Người đó thưa: "Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải". Nhưng Abraham bảo người ấy: "Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu".

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm


  

Sự Sống đức tin   


Hôm nay, Thứ Năm trong Tuần 2 Mùa ChayBài Phúc Âm của Thánh ký Luca về dụ ngôn Lazarô và người phú hộ, và theo chiều hướng của chung phụng vụ lời Chúa trong ngày, bao gồm cả Bài Đọc 1, thì Giáo Hội không phải chỉ muốn cảnh giác con cái mình về thái độ của nhà phú hộ mà còn kêu gọi họ sống thân phận theo tinh thần của một Lazarô bất hạnh nữa.

Trước hết, thái độ dửng dưng lạnh lùng của người phú hộ trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, và tinh thần sống nhẫn nhục của một Lazarô bất hạnh được Thánh ký Luca thuật lại theo lời Chúa Giêsu diễn tả như thế này:

"Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy". 

Tuy nhiên, dụ ngôn "Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái" ấy không phải chỉ cho thấy những gì xẩy ra ở trên trần gian này mà thôi, mà còn liên quan đến cả đời sau về hậu quả tai hại hay thành quả tốt đẹp của những gì con người đã làm trên đời này nữa:

"Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài..."

Ở đây, số phận đời đời, một được rỗi là Lazarô và một bị hư đi là người phú hộ, bất khả cứu vãn, bất khả đổi thay, đúng như lời khẳng định của tổ phụ Abraham đã nói với người phú hộ đang ở trong hỏa ngục: "giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được".

Số phận đời đời vô cùng quan trọng này hoàn toàn là kết quả từ cuộc sống trên trần gian của từng người, như được tổ phụ Abraham cho người phú hộ biết như sau: "Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ". Câu khẳng định của tổ phụ Abraham về số phận của con người ở trên trần gian liên quan đến số phận đời đời của con người ở đời sau này hoàn toàn phản ảnh một cách khách quan về Lời Chúa Giêsu vừa cảnh giác vừa trấn an về 4 cái khốn lẫn 4 cái phúc được Phúc Âm Thánh Luca ghi lại: Khốn cho các ngươi giầu sang, no đủ, vui cười và đưoọc ca tụng; và phúc cho các con vì nghèo khổ, đói khát, khóc than và bị khinh bỉ (6:20-26).

Thế nhưng, tất cả những gì được trần gian gọi là "may lành", tự chúng không xấu, nhưng chúng lại dễ trở thành dịp tội cho con người vốn xu hướng sống hưởng thụ và vị kỷ đến chỗ bỏ Chúa và không còn để ý đến anh chị em khốn khổ của mình, thậm chí còn ăn tươi nuốt sống anh chị em của mình bằng lòng tham vô đáy của mình nữa, lợi dụng tình trạng bất hạnh của các nạn nhân thiên tai hay nhân tai để gây quĩ trục lợi, gây chiến tranh tàn khốc để trục lợi kinh tế v.v. như vẫn đang diễn ra trên thế giới ngày nay. Trái lại, những cái "khốn khổ" trên đời này tự chúng là sự dữ, nhưng nếu biết lợi dụng thì chúng là dịp để con người dễ dàng ngườc lên trời cao và trông cậy và sự trợ giúp của trời cao.

Chính vì thể mà số phận đời đời được rỗi của Lazarô hay hư đi của người phú hộ không phải chỉ ở chỗ "chịu khốn khổ" như Lazarô hay "được toàn sự lành" như người phú hộ. Bởi vì, thực tế cho thấy, không phải ai "được toàn sự lành" trên thế gian này đều hư đi như người phú hộ, và cũng không phải ai "chịu khốn khổ" trên đời này đều tự động được rỗi như Lazarô đâu, mà là ở chỗ họ, trong hoàn cảnh may lành hay khốn khổ của họ, có biết thực hiện nguyên tắc "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6) hay chăng!

Ở dưới hỏa ngục, nơi chỉ toàn là ghen ghét, giống hệt như tâm trạng bất di bất dịch của ma quỉ và nơi ma quỉ, là tác nhân chết chóc và là cha các thứ dối trá (xem Gioan 8:44), thì cả ma quỉ lẫn các linh hồn hư đi ở đó không muốn ai được cứu rỗi, trái lại, chỉ muốn cho tất cả mọi người xuống hỏa ngục với mình và như mình. 

Thế mà, người phú hộ ở trong hỏa ngục bấy giờ hình như đã được biến đổi bản tính ghen ghét của hỏa ngục nơi mình, đến độ thay vì ghen ghét lại tỏ ra thương yêu các người thân yêu của mình còn sống trên trần gian này mà lên tiếng van xin cùng tổ phụ Abraham là cha của các kẻ tin (xem Roma 4:11) rằng: "tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này... nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải".

Cho dù xẩy ra như thế đi nữa, nghĩa là cho dù các linh hồn bị hư đi trong hỏa ngục hay ma quỉ ở đó có biết thương yêu những người còn sống và chỉ muốn cho những người ấy được lên thiên đàng hơn là xuống hỏa ngục như họ và với họ, một sự kiện không thể nào có, không thể nào xẩy ra và không bao giờ xẩy ra chăng nữa, cũng không thể nào cứu được một con người còn sống trên thế gian này, nếu người còn sống ấy không tự mình sống đức tin: "Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài... Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu".

Như thế có nghĩa là Lazaro được rỗi sau cuộc đời "chịu khốn khổ" trên đời này là nhờ Lazarô đã sống đức tin, và hình ảnh Lazarô ở trong "lòng Abraham" là cha của các kẻ tin đã chứng thực điều này. Bởi vậy, chúng ta đã không thấy chỗ nào trong dụ ngôn Chúa nói ở bài Phúc Âm hôm nay cho thấy một Lazarô kêu ca, than thân trách phận, hay nguyền rủa người phú hộ, trái lại vẫn cam chịu thân phận bị khinh rẻ và bỏ rơi, cho dù chỉ có một ước muốn vô cùng tầm thường song vẫn không được đáp ứng, đó là "ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy".

Về phần người phú hộ cũng thế, nếu Lazaro "chịu khốn khổ" được cứu rỗi nhờ đức tin của mình thì người phú hộ bị hư đi cũng là do không có đức tin, hay đúng hơn không sống đức tin, một "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6). Bài Phúc Âm không hề đề cập đến bất cứ một cử chỉ hay hành động nào lỗ mãng của người phú hộ đối với Lazarô, chẳng hạn như chửi bới hay đánh đuổi Lazarô đi, mà chỉ tỏ ra lãnh đạm dửng dưng không chịu giúp đỡ Lazarô là một con người hết sức khốn nạn đáng thương "nằm bên cổng nhà ông", không thể nào ông không thấy, và cho dù có thấy ông vẫn không hề động lòng thương, không hề bố thí cho Lazarô một tí nào, trong khi đó người phú hộ này quá ư là giầu sang hoan hưởng dư thừa: "vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình".

Bài Đọc 1 hôm nay chẳng những thích đáng với một Lazarô khốn khổ mà còn với cả người phú hộ hoan hưởng may lành trong Bài Phúc Âm hôm nay nữa.

Thật vậy, không phải hay sao, người phú hộ trong Bài Đọc 1 hôm nay là thành phần xuất hiện ở phần đầu với những diễn tả không sai về một con người giầu sang phú quí theo tự nhiên hoàn toàn không có đức tin

"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. 

Trong khi đó, Lazarô xuất hiện ở phần thứ hai của Bài Đọc 1 này, những diễn tả rất chí lý và chính xác về đời sống của một con người sống đức tin trong cuộc đời bần cùng khốn khổ của mình:

"Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn. Lòng người nham hiểm khôn dò, nào ai biết được?" 

Câu cuối cùng của Bài Đọc 1 cũng phản ảnh dụ ngôn có hậu, một cái hậu liên quan đến vấn đề thưởng phạt thích đáng và công minh của việc con người làm trên thế gian này, được Chúa Giêsu cảnh giác trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay: "Còn Ta, Ta là Chúa, Ta thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can, trả công cho mỗi người tuỳ theo cách sống và hậu quả hành vi của họ".

Bài Đáp Ca hôm nay cũng tấu lên cùng một lời ca và cùng một nhạc điệu như Bài Đọc 1 về hai thành phần sống trên trần gian này, một theo đức tin và một không theo đức tin, như trường hợp tiêu biểu điển hình là Lazaro và người phú hộ trong Bài Phúc Âm hôm nay:

1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. 

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. 

3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. 

 

 

                                                                                                Thánh Caximia (Casimir) (1458-1484)

Hoàng tử
Người trẻ và trái tim yêu thương

 

 

 

Tiểu Sử

Thánh Ca-xi-mia (Casimir), hoàng tử của Ba Lan, được mừng vào ngày 04 tháng 3, kỷ niệm ngày qua đời của thánh nhân, lúc được 25 tuổi. Vị thánh này có giá trị biểu trưng cho hai đất nước đã chọn ngài làm thánh quan thầy: Ba Lan và Lituanie.

Casimir được sinh ra trong một gia đình vương tộc của Ba Lan và được mẹ giáo dục theo đức tin Kitô giáo. Vào thời niên thiếu, thánh nhân đã có lòng nhân từ và tinh thần sám hối; ngài được chọn làm vua xứ Hungarie thay cho nhà độc tài Mathias Corvin, bị triều đình đuổi đi; với tuổi 13, ngài không chấp nhận vương quốc biến thành đội quân. Nhưng sau khi hoà giải người Hungarie với vị vua của mình, ngài thoái vị, chỉ chấp nhận tham gia triều chính Ba Lan như một thủ trưởng tại Radom, trong khi cha ngài là Casimir IV đang ở Lituanie. Trong cơ hội này, ngài nêu gương cẩn mật và đạo đức. Vào năm 1483, ngài làm Phó Thủ Tướng ở Vilnius vùng Lituanie, nhưng sau đó ngài trở về Grodno, ngã bệnh lao phổi và qua đời ngày 04.03.1488, vừa được 25 tuổi.

Đức Giáo Hoàng Lêo phong thánh cho ngài vào năm 1521, dựa theo lòng yêu kính của dân chúng. Người ta gán cho lời cầu bầu của ngài trong việc giải phóng thành Polok, bị người Nga bao vây vào năm 1518. Ngày nay, xứ Lituanie vẫn tôn kính di hài của ngài trong nhà nguyện tại Lâu đài Vilnius.


Casimir lớn lên trong một thế giới mà đó không phải là cuộc đời ngài mong muốn. Là hoàng tử Ba Lan, con trai thứ hai của Vua Casimir IV và Hoàng Hậu Elizabeth của Áo, cuộc đời ngài được đặt định để nối tiếp quyền bính của vua cha và gia tăng quyền thế của Ba Lan.
Ngay từ nhỏ, Casimir đã cảm thấy cuộc đời mình thuộc về một người nào đó, mà vị Vua ấy cao cả hơn cha ngài nhiều. Bất kể những áp lực, nhục nhã và bị tẩy chay, ngài vẫn giữ sự trung tín ấy trong suốt cuộc đời.
Ngay từ nhỏ Casimir đã dâng mình cho Chúa. Một trong những động lực tận hiến ấy là nhờ người giám hộ, John Dlugosz, mà sự thánh thiện của ông đã khuyến khích Casimir trên hành trình cuộc đời.

Ngài đặc biệt sùng kính Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Mỗi lần nhìn lên thánh giá là mỗi lần nước mắt ngài chảy ra vì thương mến Chúa. Ngoài ra, thánh nhân cũng hết lòng tôn kính Đức Mẹ. Ngài gọi Đức Maria là " Mẹ hiền " của ngài. 

Nơi thánh nhân, còn nổi bậc hai nhân đức bác ái và công bằng, như một tác giả đương thời với ngài đã làm chứng: 

" Ca-xi-mia có một lòng bác ái hầu như không thể tin được. Lòng bác ái không giả dối, nhưng chân thật, do Chúa Thánh Thần nhóm lên để ngài yêu mến Thiên Chúa toàn năng. Nó đầy ngập lòng Ca-xi-mia đến nỗi tràn ra ngoài, Nó tràn từ thâm tâm ra đến bên ngoài để yêu thương tha nhân. Đền nỗi, đối với ngài, không có gì vui sướng và hợp với nguyện vọng của ngài hơn, là không những phân phát của cải đi mà còn được hiến thân và cư xử rộng rãi thật sự và hoàn toàn cho những người nghèo của Đức Kitô, cho kẻ lữ hành, cho người đau ốm, cho kẻ tù tội và cho mọi người đau khổ. Ngài ở với quả phụ, mồ côi và những kẻ bị áp bức. Không những như người bảo trợ và quản lý mà còn như cha, như con và anh em của họ. Sẽ phải viết một cuốn sách rất dài nếu muốn thuật lại mọi việc bác ái yêu thương của ngài đối với Thiên Chúa và tha nhân. 

Khó có thể nói và nghĩ về mức độ ngài vun trồng đức công bình , quý trọng đức tiết độ, biểu thị đức khôn ngoan, tỏ ra kiên nhẫn và can đảm như thế nào. Đặc biệt, ở tuổi mà người ta tự nhiên có khuynh hướng dễ dàng muốn lao mình vào tội lỗi. 

Hằng ngày, ngài khuyên cha mình lấy đức công bình mà trị quốc và chư hầu. Và khi nào, vì chểnh mảng hay vì ngu xuẩn mà người ta sơ xuất trong việc cai tù, thì ngài không hề bỏ qua cơ hội dùng lời lẽ vừa phải phàn nàn với cha mình. Ngài bênh đỡ các vụ kiện của những người túng thiếu hay khổ sở như mình; và đứng về phía họ, nên được dân tôn là người bênh vực kẻ nghèo khổ. Và mặc dầu là hoàng tử thuộc dòng họ quý phái, ngài chẳng bao giờ khó tính với ai trong cách đối xử và ăn nói, cho dù là đối với người tầm thường và hèn hạ nhất. 

Ngài luôn thích ở giữa những người hiền lành và nghèo khó trong lòng, là những kẻ được hứa ban Nước Trời làm của mình, hơn là sống giữa những người sang trọng quyền thế ở đời này. Chẳng bao giờ ngài ham muốn quyền bính, và từ chối khi cha ngài trao cho. Đức Kitô Chúa chúng ta đã gọi của cải là gai nhọn; ngài sợ nó đâm vào tâm hồn ngài và linh hồn sẽ ra ô uế khi đụng vào các việc ở đời".

Thật khó để chúng ta tưởng tượng rằng đời sống vương giả lại là một áp lực. Nhưng đối với Casimir, sự sang trọng chung quanh ngài là những cám dỗ để phản bội sự trung tín đích thực. Ðể chống đối những quần áo sang trọng, đắt tiền mà người ta cho rằng ngài sẽ vui thích, ngài mặc những quần áo bình dân nhất.
Khước từ ngay cả sự tiện nghi bình thường, ngài ngủ ít và dành thời giờ ban đêm để cầu nguyện. Và thay vì nằm trên giường nệm, ngài ngủ trên sàn nhà. Mặc dù ngài là hoàng tử, nhiều người chung quanh đã nhạo cười ngài về những điều ấy. Tuy nhiên, trước bất cứ áp lực nào, Casimir vẫn thản nhiên và thân thiện.
Chắc chắn cha ngài phải kinh ngạc về thái độ của con mình, nhưng có lẽ ông cũng nhìn thấy và thán phục sức khỏe của Casimir. Lầm tưởng về điều ấy nên ông đã sai Casimir dẫn một đạo quân sang xâm chiếm Hungary, theo như lời yêu cầu của một số nhà quý tộc ở đây. Mặc dù cảm thấy cuộc viễn chinh thật sai lầm, Casimir cũng đã vâng lời vua cha. Nhưng mỗi một bước tiến ngài linh cảm rằng đó là sự bất tuân Cha trên trời. Do đó khi binh lính bắt đầu bỏ trốn vì không được trả lương, ngài rất hân hoan nghe theo lời khuyên của các sĩ quan mà đưa quân trở về nhà. Khi được biết Ðức Giáo Hoàng Sixtus IV chống đối cuộc xâm lăng ấy, Casimir biết rằng linh cảm của mình là đúng.
Tuy nhiên, vua cha quá tức giận vì hoạch định của ông bị thất bại, nên ông đã trục xuất Casimir, lúc ấy mới 15 tuổi, đến một lâu đài ở Dobzki, hy vọng rằng sự tù đầy sẽ thay đổi ý định của Casimir. Nhưng trong thời gian lưu đầy, ý định ban đầu của Casimir mà ngài tin là đúng lại càng gia tăng mạnh mẽ hơn, và ngài từ chối cộng tác trong mọi hoạch định của vua cha bất kể bất cứ áp lực nào. Ngài từ chối cả cuộc hôn nhân do cha ngài sắp đặt. Ngài chỉ cộng tác với chương trình của vị Vua đích thực qua sự cầu nguyện, học hỏi và giúp đỡ người bất hạnh.
Ngài từ trần vì bệnh phổi khi mới 23 tuổi trong thời gian đến thăm Lithuania, mà ngài cũng là Ðại Công Tước của quốc gia này. Ngài được mai táng ở Vilna, Lithuania.
Ngài được đặt làm thánh quan thầy của Ba Lan và Lithuania.

Gương Mẫu

“Phục vụ Thiên Chúa là cai trị... Lời Nguyện Nhập Lễ nhắc nhở chúng ta như thế. Cho dù thuộc gia đình vương tộc và phải tham gia vào các vấn đề của đất nước do cha trao phó, nhưng Casimir vẫn là con người cầu nguyện, sám hối và khiết tịnh.

Việc tôn thờ bí tích Thánh Thể, chiêm ngắm cuộc khổ nạn lôi kéo ngài luôn mãi; đồng thời ngài cũng yêu mến Đức Mẹ và cầu nguyện cùng Mẹ.

Tình yêu Thiên Chúa làm cho ông hoàng trẻ tuổi này rất nhạy cảm trước nổi khổ của dân chúng; vì thế ngài được tiếng là “cha và là kẻ bảo vệ kẻ nghèo và bất hạnh”. Đối với những người phê phán ngài về cách hoạt động không thích hợp với một ông hoàng, ngài trả lời: “Có gì vinh dự cho bằng phục vụ Chúa Kitô trong các chi thể đau khổ của Người ?”

Khi mở quan tài thánh nhân vào năm 1604, người ta tìm thấy dưới đầu thánh nhân có một tờ giấy viết lời kinh dâng lên Đức Maria, có lẽ của thánh Bênađô, mà ngài đọc và cầu nguyện hằng ngày: “Omni die dic Mariae...Mỗi ngày hãy nói với Đức Maria...” Ngài gọi Đức Trinh Nữ Maria là “Bà Mẹ tốt lành”.

Thánh Casimir hết sức quý mến Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa; đặc biệt là ngài yêu thích bài thánh ca Latinh về Ðức Mẹ, “Omni die dic Mariae” (Ca Ngợi Mẹ Hàng Ngày). Ngài đã yêu cầu bản nhạc ấy được chôn theo với ngài.

Hạnh Thánh Casimir do một người cùng thời viết, được Phụng Vụ Giờ Kinh Sách hôm nay trích lại có những nhận định sau đây:

“Ngài là một hoàng tử, miêu duệ một gia đình quí tộc, nhưng không bao giờ kiêu ngạo trong lời nói cũng như trong giao tiếp với bất cứ người nào; đó là một con người khiêm tốn và yếu đuối nhất.”

“Ngài luôn muốn có mặt trong số những kẻ dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, vì chính những kẻ này mới có được Nước Trời, hơn là hiện diện giữa hàng trí thức và quyền lực của thế giới.”

“Ngài sống khiết tịnh cho đến cuối đời. Đó là điều mọi người xác nhận, ngay cả những người hầu và thư ký cũng đều nói như thế.”


Trong nhiều năm trời, các quốc gia Ba Lan và Lithuania đã mờ nhạt trong nhà tù vĩ đại bên kia Bức Màn Sắt. Bất kể những đàn áp, người Ba Lan và Lithuania vẫn kiên trì giữ vững đức tin, mà đức tin ấy đã trở nên đồng hoá với tên của họ. Vị thánh quan thầy trẻ tuổi đã đem cho họ một hy vọng: Hòa bình không thể chiếm được bằng chiến tranh; đôi khi ngay cả nhân đức cũng không chiếm được sự an bình thoải mái, nhưng sự bình an của Ðức Kitô có thể thấm nhập vào cả các bức màn sắt.

 

Trong Tông huấn Đức Kitô đang sốngĐức thánh Cha  Phanxicô đã nói với các bạn trẻ trong Tông Huấn Chúa Kitô Đang Sống, đoạn 163, rằng: “Sự tăng trưởng thiêng liêng của các bạn được biểu lộ trước hết bằng sự tăng trưởng của các bạn trong tình yêu huynh đệ, rộng lượng và nhân hậu.”, rồi ở đoạn 165 cùng Tông Huấn, ngài nói tiếp: “Chúa yêu niềm vui của người trẻ. Người muốn các bạn đặc biệt chia sẻ niềm vui của tình hiệp thông huynh đệ, niềm vui cao siêu của những người biết chia sẻ với người khác, vì “cho có phúc hơn nhận” (Cv 20:35). Tâm tình này sẽ được minh họa rõ nét hơn bằng cuộc đời thánh Caximia, qua lời kể của một tác giả cùng thời ở bài đọc 2 của Giờ Kinh Sách cho lễ về vị thánh trẻ này thì: “Nơi Caximia bừng lên một lòng mến lạ lùng, không giả tạo nhưng chân thành đối với Thiên Chúa toàn năng, nhờ Chúa Thánh Thần. Lòng mến đó vừa lai láng trong tâm hồn người, vừa dạt dào tựa cõi lòng thâm sâu của người đến nỗi trào ra bên ngoài, lan tới tha nhân, khiến người không lấy gì làm thích thú và đáng ước ao hơn là phân phát của cải mình có. Chẳng những vậy, người lại còn trao tặng và dâng hiến toàn thân mình cho người nghèo khó của Đức Kitô, cho khách lữ hành, cho kẻ yếu đau, cho người tù tội và những ai sầu khổ...”

Bài học yêu thương, giải thích thì đơn giản nhưng thực hành lại khó biết bao. Tuy vậy, nơi thánh Caximia tình thương mến không bị giới hạn nhưng luôn hướng cao về Thiên Chúa và mở rộng đến với tha nhân. Giây phút này, chúng ta cầu nguyện cho chúng ta đặc biệt là cho các bạn trẻ, biết rèn luyện cho mình một trái tim quảng đại yêu thương. 

Thánh Caximia sinh năm 1458, thân phụ của ngài là vua nước Balan. Thời niên thiếu, thánh nhân đã được nhiều người biết đến vì có lòng nhân từ và tinh thần sám hối. “Ngài là một hoàng tử, miêu duệlà một gia đình quí tộc, nhưng không bao giờ kiêu ngạo trong lời nói cũng như trong giao tiếp với bất cứ người nào; đó là một con người khiêm tốn và yếu đuối nhất.”Tình yêu Thiên Chúa làm cho ông hoàng trẻ tuổi này rất nhạy cảm trước nổi khổ của dân chúng; vì thế ngài được tiếng là “cha và là kẻ bảo vệ kẻ nghèo và bất hạnh.”Có lẽ do Caximialuôn yếu đau, nên ngài đồng cảm và chia sẻ hết tình với những người đau khổ như ngài. Đối với những người phê phán ngài về cách hoạt động không thích hợp với một ông hoàng, ngài trả lời họ: “Có gì vinh dự cho bằng phục vụ Chúa Kitô trong các chi thể đau khổ của Người?”

Con đường yêu thương của Caximia kết thúc sớm vì chứng lao phổi lúc ngài hai mươi sáu tuổi, để lại cho dân chúng hình ảnh đẹp về một vị hoàng tử trẻ tuổi, thông minh và quảng đại. Điều đáng để nhớ nhất về thánh Casimia
, theo bài đọc 2 của Giờ Kinh Sách cho lễ về vị thánh trẻ này, đó là: "ngài sống rất nhiệm nhặt, siêng năng cầu nguyện yêu thích việc tưởng niệm về cuộc Thương Khó của Đức Chúa Giêsu, kết hợp mật thiết với Đức Trinh Nữ Maria và với Chúa Kitô Thánh Thể".

Qua đôi dòng về thánh Caximia ta nhận ra rằng: cần lắm việc nghiêm túc rèn luyện một trái tim yêu thương. Ngày nay, người trẻ thích đầu tư trong các lãnh vực công nghệ, kinh doanh, tin học...  điều đó thật đáng quý. Tuy nhiên, cuộc sống sẽ tròn đầy nếu mỗi người trẻ có trái tim yêu thương hướng đến cộng đồng. Theo văn hào Elei Wiesel “Hãy nhớ rằng: Phản nghĩa của yêu thương không phải là thù ghét mà là dửng dưng...” Chúng ta, cách riêng là những người trẻ, đừng bao giờ để mình rơi vào tình trạng cô lập với tha nhân. Vì vậy rèn luyện để có trái tim biết thương yêu không phải là bài học được giới hạn trong một khoảng thời gian của cuộc đời, nhưng là một hành trình kéo dài không ngừng. Quả vậy, trong Tông Huấn Chúa Kitô Đang Sống, đoạn 50, ĐTC Phanxicô lại nhắn nhủ giời trẻ rằng: “dầu thơm thánh thiện lấy từ đời sống tốt lành của vô số người trẻ có thể chữa lành các vết thương của Giáo hội và cứu thế giới, đưa chúng ta trở về với sự viên mãncủatình yêu...”. Ước gì, qua những phút cầu nguyện và chiêm ngắm thánh Caximia, mỗi bạn trẻ cũng được tác động và thêm động lực làm cho tâm hồn mình đẹp lên nhờ có trái tim biết chia sẻ yêu thương.

Lạy Chúa, rất nhiều người trong thời đại hôm nay coi trọng mọi sự chỉ trừ tình yêu thương. Nhờ lời chuyển cầu của thánh Caximia, xin Chúa cho các bạn trẻ thắng vượt những cám dỗ vật chất và quyền lực. Xin Chúa giúp các bạn hiện diện trong cộng đoàn đức tin, cộng đoàn xã hội và nhân loại bằng một trái tim biết yêu thương, sẵn sàng rèn luyện và thực hành các nghĩa cử yêu thương tha nhân trên hành trình sống thành nhân của mình. Amen

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp

 

 

 

 



Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I: St 37, 3-4. 12-13a. 17b-28

"Này thằng chiêm bao đến kia rồi, anh em hãy lại đây, chúng ta bắt giết nó".

Trích sách Sáng Thế.

Israel mến thương Giuse hơn mọi đứa con khác, vì ông sinh ra Giuse trong lúc tuổi già. Ông may cho Giuse một chiếc áo nhiều mầu. Các anh của Giuse thấy cha mình thương Giuse hơn mọi đứa con, nên sinh lòng ghen ghét và không thể nói chuyện thân mật với Giuse.

Khi các anh Giuse đi chăn những đoàn chiên của cha mình tại Sikem, thì Israel nói với Giuse: "Có phải các anh con đang chăn chiên ở Sikem không? Con hãy lại đây, cha sai con đi tìm các anh con".

Giuse đi tìm các anh mình và gặp các anh tại Ðôtain. Khi các anh thấy Giuse từ đằng xa tiến lại gần, họ liền âm mưu tìm cách giết Giuse. Họ nói với nhau rằng: "Này thằng chiêm bao đến kia rồi, anh em hãy lại đây, chúng ta bắt giết nó, ném xác nó xuống một cái giếng cạn và nói nó bị thú dữ ăn thịt, rồi xem các điềm chiêm bao của nó sẽ ra sao?"

Ruben nghe nói thế, liền định cứu Giuse khỏi tay anh em, nên nói rằng: "Chúng ta đừng giết nó, đừng làm đổ máu, song ném nó xuống giếng nơi hoang vu này, và như thế, tay các em không phải vấy máu". Ruben nói như thế, vì có ý muốn cứu Giuse khỏi tay các anh em, để đem Giuse về cho cha mình. Khi Giuse vừa đến gần, các anh liền cởi áo dài Giuse đang mặc, và bắt ném xuống giếng cạn.

Ðang khi các ông ngồi ăn bánh, thì thấy một đoàn người Ismael từ Galaad tiến về Ai-cập, các con lạc đà của họ chở đầy hương liệu, nhựa thơm và dầu thơm. Giuđa nói với các anh em rằng: "Chúng ta giết em chúng ta và giấu máu nó đi, thì có ích lợi gì? Tốt hơn là chúng ta đem bán nó cho người Ismael và tay chúng ta không phải vấy máu, vì Giuse là em ruột thịt chúng ta". Các anh em nghe theo lời Giuđa, nên khi các người lái buôn từ Mađian đi ngang qua đó, các ông kéo Giuse lên khỏi giếng và đem bán cho các người Ismael với giá hai mươi đồng bạc, và họ dẫn Giuse sang Ai-cập.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 16-17. 18-19. 20-21

Ðáp: Các ngươi hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm (c. 5a).

Xướng: 1) Chúa đã gọi cảnh cơ hàn về trên đất nước, và rút đi mọi sự nâng đỡ bằng cơm bánh. Ngài đã sai một người đi trước họ: Giuse đã bị bán để làm nô lệ. - Ðáp.

2) Thiên hạ đã lấy xiềng để trói chân người, và cổ người bị cột bằng xích sắt, cho tới khi ứng nghiệm lời tiên đoán của người, lời của Chúa đã biện minh cho người. - Ðáp.

3) Vua đã sai cởi trói cho người, Chúa của chư dân cũng đã giải phóng người. Vua đã tôn người làm chủ của mình, và làm chúa trên toàn diện lãnh thổ. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab

Hôm nay các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe lời Chúa phán.

 

Phúc Âm: Mt 21, 33-43. 45-46

"Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em, chúng ta hãy giết nó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh; đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Ðến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: "Ðứa con thừa tự kia rồi: Nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó". Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào? Các ông trả lời: "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi". Chúa Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh sao:

"Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta?" Bởi vậy, Ta bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".

Các Thượng tế và biệt phái nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri.

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm



  
Sự Sống cách mạng   


Tuần 2 Mùa Chay được tiếp tục với ngày Thứ Sáu hôm nay, có Bài Phúc Âm về dụ ngôn liên quan hết sức chặt chẽ với chủ đề chung cho Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh là: "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17). 

Câu chính yếu của bài Phúc Âm hôm nay chứng thực chủ đề của Mùa Chay này đó là câu: "'Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta?' Bởi vậy, Ta bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".

Đúng thế, cả dụ ngôn trong Bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nói về số phận của "viên đá bị bọn thợ loại ra" là chính bản thân Người, được hiện thân nơi người con một duy nhất của ông chủ vườn nho, một vườn nho đã được ông chủ này "rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh; đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa". 

Chính vì "vườn nho của Chúa là nhà Israel" (Isaia 5:7) mà thành phần "tá điền" được "thuê" để làm vườn nho cho vị chủ vườn nho này chính là thành phần lãnh đạo của dân Do Thái, dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, mà đại diện cho chung thành phần này bấy giờ đang nghe Chúa Giêsu nói về dụ ngôn ấy là "các trưởng tế và các kỳ lão trong dân", và vì thế mà cuối cùng họ mới có phản ứng tiêu cực được Phúc Âm ghi nhận như sau: "Các Trưởng tế và biệt phái nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri".

Các người "đầy tớ" được chủ vườn nho là Thiên Chúa sai "đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi" đây là ai, nếu không phải là các vị tiên tri, các vị ngôn sứ của Thiên Chúa, để nhắc nhở họ về giao ước của Thiên Chúa, về lề luật họ cần phải tuân giữ, về tội tôn thờ ngẫu tượng và ngoại tình của họ mà họ cần phải từ bỏ hầu quay về với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ.

Thật ra, vườn nho là dân Do Thái này đã được Thiên Chúa "rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh", ở chỗ Ngài đã ban lề luật cho họ, như thể Ngài "rào dậu chung quanh" họ, Ngài đã thử thách đức tin của họ, như thể Ngài "đào hầm ép rượu" nơi họ, và Ngài đã liên tục tỏ mình ra cho họ bằng các cuộc thần hiển hay qua các sự lạ dấu kỳ, như thể Ngài "xây tháp canh" trên họ. Chưa hết, vườn nho này còn được canh tác bởi thành phần "tá điền" là thành phần lãnh đạo dân Do Thái được Ngài sử dụng để phục vụ cho lợi ích của vườn nho như Ngài mong muốn. 

Thế nhưng, thành phần "tá điền", với tư cách chỉ là kẻ làm thuê cho chủ, chẳng những đã không chịu nộp phần hoa lợi cho chủ qua thành phần "đầy tớ" là các vị ngôn sứ đại diện được chủ sai đến thu hoa lợi, mà thậm chí lại còn "bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác", hết đợt này đến đợt khác, chứ không phải một đợt đầu tiên: "Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy".

Tuy nhiên, vị chủ vườn nho vẫn nhân từ và đầy nhẫn nại, lại còn tỏ ra có vẻ hết sức ngây thơ đến độ điên cuồng dại dột dám sai cả đứa con trai cưng độc nhất của mình tới với bọn tá điền hung dữ tàn ác đầy sát máu này, với ý nghĩ quá ư là thành thực, tin tưởng hết cỡ vào thành phần "tá điền" được ông thuê mướn nhưng đã từng tỏ ra không coi ông ra gì khi ra tay sát hại bao nhiêu là đợt "đầy tớ" của ông, được ông sai đến với họ: "Họ sẽ kính nể con trai mình".

Quả thực không sai, bọn "tá điền" đang hăng máu đã thừa thắng xông lên, sẵn con mắt còn đang khát máu và bàn tay còn đang đẫm máu các đợt "đầy tớ" của chủ sai đến bị họ sát hại, nên đã tiến tới chỗ giết cả chính người con trai duy nhất vô cùng yêu quí của chủ vườn nho, theo tham vọng giết người cướp của, ở chỗ, theo họ, một khi họ giết được đứa con thừa tự của chủ thì tất cả gia tài của chủ mà họ đang nắm giữ trong tay là vườn nho họ đang canh tác tự nhiên sẽ thuộc về họ: "Ðứa con thừa tự kia rồi: Nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó'. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết". 

Thực tế cho thấy xẩy ra đúng như vậy, thành phần lãnh đạo dân Do Thái đã nhân danh Thiên Chúa, hay đã bênh vực vinh quang của Thiên Chúa, mà lên án tử cho chính Con Thiên Chúa mà họ cho rằng nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét chỉ thuần túy là một con người như họ mà đã dám cả gan lộng ngôn phạm thượng, xưng mình là Con Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa (xem Mathêu 26:63-66 và Gioan 10:33).

Thế nhưng, vị chủ vườn nho này không quá ngu dại và điên cuống như đám "tá điền" gian ác tham lam ấy tưởng tí nào cả, trái lại, chính những mưu đồ xấu xa và việc làm quái gở của họ, hoàn toàn theo tính toán khôn ngoan nhất của họ, theo tự do đến độ lộng hành của họ, mà lại trở thành cơ hội vô cùng thuận lợi cho ý định cứu độ của Ngài, đúng như Con của Ngài đã tiên báo cho thành phần lãnh đạo đang nghe Người bấy giờ biết: "Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta?"

Thậm chí cho dù biết như thế đấy, ở chỗ "nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri", thành phần lãnh đạo dân Do Thái ấy nhất định vẫn không chấp nhận Người, vẫn muốn tình nguyện bất đắc dĩ trở thành "bọn thợ" nhúng tay vào việc "loại ra" "chính viên đá" theo thiên định chắc chắn sẽ "trở nên viên đá góc".

Hình ảnh và số phận của "viên đá" bị "loại ra đã trở thành viên đá góc" là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay đã được báo trước nơi số phận của tổ phụ Giuse, một trong 12 anh em trai của tổ phụ Giacóp, và được bố Giacóp thương nhất trong số các con của ông, nên đứa con trai thứ 11 này của ông, cùng cha khác mẹ với 10 người anh, đã bị các anh ghen ghét đến độ muốn sát hại, chẳng những cho bõ ghen tức mà còn để phá vỡ mộng mị của đứa em lên mặt này của họ.

Giuse là đứa em được bố tổ phụ Giacóp thương nhất, đến độ Giuse đã trở thành cái gai trước mắt các anh mình: "Israel mến thương Giuse hơn mọi đứa con khác, vì ông sinh ra Giuse trong lúc tuổi già. Ông may cho Giuse một chiếc áo nhiều mầu. Các anh của Giuse thấy cha mình thương Giuse hơn mọi đứa con, nên sinh lòng ghen ghét và không thể nói chuyện thân mật với Giuse".

Tuy nhiên, không phải vì thương Giuse nhất mà bố tổ phụ Giacóp không thương những đứa con còn lại, trái lại, ông vẫn quan tâm đến mọi đứa con của ông, như có lần ông sai Giuse đến với các anh của chàng: "Khi các anh Giuse đi chăn những đoàn chiên của cha mình tại Sikem, thì Israel nói với Giuse: 'Có phải các anh con đang chăn chiên ở Sikem không? Con hãy lại đây, cha sai con đi tìm các anh con'".

Không ngờ cơ hội tốt đã đến, các anh của người con cưng của cùng một người cha khác mẹ với họ đã lọt vào tay họ một cách ngon lành, để họ nhờ đó có thể dễ dàng thực hiện ý đồ gian ác của họ là sát hại đứa em vô tội của họ, rồi bỏ xác của nó xuống một cái giếng cạn để phi tang tung tích của nó, nhưng sau theo gợi ý có lý của người anh thứ tư là Giuđa, họ đã chuyển mưu đồ giết em thành bán em của họ cho đám lái buôn đang đi sang Ai Cập.

"Giuse đi tìm các anh mình và gặp các anh tại Ðôtain. Khi các anh thấy Giuse từ đằng xa tiến lại gần, họ liền âm mưu tìm cách giết Giuse. Họ nói với nhau rằng: 'Này thằng chiêm bao đến kia rồi, anh em hãy lại đây, chúng ta bắt giết nó, ném xác nó xuống một cái giếng cạn và nói nó bị thú dữ ăn thịt, rồi xem các điềm chiêm bao của nó sẽ ra sao?'"

"Ðang khi các ông ngồi ăn bánh, thì thấy một đoàn người Ismael từ Galaad tiến về Ai-cập, các con lạc đà của họ chở đầy hương liệu, nhựa thơm và dầu thơm. Giuđa nói với các anh em rằng: "Chúng ta giết em chúng ta và giấu máu nó đi, thì có ích lợi gì? Tốt hơn là chúng ta đem bán nó cho người Ismael và tay chúng ta không phải vấy máu, vì Giuse là em ruột thịt chúng ta". Các anh em nghe theo lời Giuđa, nên khi các người lái buôn từ Mađian đi ngang qua đó, các ông kéo Giuse lên khỏi giếng và đem bán cho các người Ismael với giá hai mươi đồng bạc, và họ dẫn Giuse sang Ai-cập". 

Thế nhưng, cũng như bọn "tá điền" trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay, hoàn toàn tự do mưu tính và hành động theo sự khôn ngoan nhất của mình, thế mà Vị Thiên Chúa toàn năng quan phòng tất cả mọi sự như chủ tể lịch sử loài người vẫn có thể hoàn tất được tất cả những gì Ngài định liệu, bằng chính những âm mưu ác độc xấu xa và việc làm gian ác hung dữ của họ, như Bài Đáp Ca hôm nay chứng thực:

1) Chúa đã gọi cảnh cơ hàn về trên đất nước, và rút đi mọi sự nâng đỡ bằng cơm bánh. Ngài đã sai một người đi trước họ: Giuse đã bị bán để làm nô lệ. 

2) Thiên hạ đã lấy xiềng để trói chân người, và cổ người bị cột bằng xích sắt, cho tới khi ứng nghiệm lời tiên đoán của người, lời của Chúa đã biện minh cho người. 

3) Vua đã sai cởi trói cho người, Chúa của chư dân cũng đã giải phóng người. Vua đã tôn người làm chủ của mình, và làm chúa trên toàn diện lãnh thổ. 



Thứ Bảy


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Mk 7, 14-15. 18-20

"Chúa ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển".

Trích sách Tiên tri Mikha.

Lạy Chúa, với cây trượng của Chúa, xin chăn dắt dân Chúa, chăn dắt những con chiên thuộc quyền sở hữu của Chúa, sống lẻ loi trong rừng, ở giữa núi Carmêlô. Tất cả được chăn dắt ở Basan và Galaad như ngày xưa. Như ngày ra khỏi Ai-cập, xin tỏ cho chúng con thấy những việc lạ lùng.

Có Chúa nào giống như Chúa là Ðấng dẹp tan mọi bất công, và tha thứ mọi tội lỗi của kẻ sống sót thuộc về Chúa? Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích lòng từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển. Chúa ban cho Giacóp biết sự trung thành của Chúa và cho Abraham biết lòng từ bi mà Chúa đã thề hứa với tổ phụ chúng tôi từ ngàn xưa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 9-10. 11-12

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.

3) Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa điều oan trái chúng tôi. - Ðáp.

4) Cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b

Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Lc 15, 1-3. 11-32

"Em con đã chết nay sống lại".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:

"Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: "Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con". Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: "Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha". Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: "Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa". Nhưng người cha bảo các đầy tớ: "Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.

"Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: "Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ". Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng anh trả lời: "Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó". Nhưng người cha bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".

Ðó là lời Chúa.

 


Suy niệm


    

Sự Sống hiệp thông 


Hôm nay là Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần 2 Mùa Chay. Bài Phúc Âm về một dụ ngôn chỉ có trong Phúc Âm Thánh Luca vẫn được gọi là dụ ngôn người con hoang đàng, một dụ ngôn cũng liên quan đến chủ đề chung cho Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh là: "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi (ở chỗ chia gia tài cho đứa con phung phá) để rồi lấy nó lại (khi đứa con phung phá trở về với cha của nó như chết mà sống lại)" (Gioan 10:17). 

Trong tuần Thứ 2 Mùa Chay này, Giáo Hội cố ý chọn 3 dụ ngôn cho 3 ngày cuối tuần này: Thứ Năm với dụ ngôn Lazarô và người phú hộ vô tâm, Thứ Sáu với dụ ngôn vườn nho và bọn tá điền gian ác, và Thứ Bảy hôm nay với dụ ngôn phải được gọi là người cha thương xót hơn là dụ ngôn người con hoang đàng.

Thật vậy, theo chiều hướng chung của phụng vụ lời Chúa hôm nay, bao gồm cả Bài Đọc 1, thì Giáo Hội, qua dụ ngôn của Bài Phúc Âm trong ngày này, cố ý nhấn mạnh đến tấm lòng vô cùng nhân hậu của người cha chẳng những đối với người con hoang đàng, hơn là đến việc hoán cải trở về cùng cha của người con hoang đàng ấy, mà còn đến cả người con trưởng lầm lạc đáng thương nữa.

Đúng thế, ngay ở đầu bài Phúc Âm, câu Phúc Âm mở màn đã khiến chúng ta thấy ngay được vai chính của dụ ngôn sau đó là người cha hơn là người con, một người cha có 2 đứa con chứ không phải một, và đứa con nào cũng được ông hết tình xót thương, trong đó bao gồm cả người con lớn, đứa con tiêu biểu cho thành phần "những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: 'Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng'", cũng chính là thành phần được Chúa Giêsu "phán bảo họ dụ ngôn này", một dụ ngôn bao gồm cả họ lẫn "những kẻ tội lỗi" là thành phần được tiêu biểu nơi người con thứ phung phá. 

Quả thực qua dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được người cha có hai người con trai này nhân hậu biết là chừng nào, một tình nhân hậu đúng là "như Cha trên trời là Đấng xót thương" (Luca 6:36), một tầm mức xót thương vô cùng trọn lành và cao cả, không một người cha người mẹ trần gian nào có thể đạt được hay vươn tới hoặc làm nổi, và vị nghĩ ra dụ ngôn này cũng phải là một vị Thần Linh mới có thể nói về một thực tại thần linh hoàn toàn siêu việt không thể nào xẩy ra trên trần gian này như thế.

Trước hết, lòng thương xót vô cùng siêu việt của người cha trong dụ ngôn được Thánh ký thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay đối với người con thứ hoang đàng phung phá. Ở chỗ, trước hết, sẵn sàng chia gia tài cho nó, dù biết rằng nó đòi chia gia tài cho nó là để nó bỏ đi, không muốn sống với ông nữa. Vì nếu nó còn ở nhà với ông như người con trưởng anh nó thì đâu cần phải chia gia tài cho nó mà làm gì. 

Và ông biết chắc rằng gia tài ông chia cho nó để nó bỏ ông mà đi như thế sẽ bị tan hoang hết thôi. Nhưng ông vẫn không can ngăn nó, không nói năng gì, cứ sẵn sàng đáp ứng yêu cầu tuy chính đáng của nó nhưng nguy hiểm cho nó và thiệt hại đến cả ông nữa. Hình như ông muốn để cho xẩy ra như vậy để cho đứa con dại khờ của ông sau khi hoang đàng trở về sẽ thấy được tất cả tấm lòng ông thương nó, bằng không, tình thương của ông không thể nào thi thố hết cỡ như với nó vậy

Nhưng ông làm sao có thể biết được là đứa con hoang đàng phung phá này của ông, một khi đã trở nên cùng cực, sẽ trở về với ông như một thân tàn ma dại: 

"Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: 'Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha'". 

Đó là cái bí mật của lòng thương xót nơi ông, cái nghệ thuật siêu đẳng làm cha của ông, ở chỗ, ông biết con ông hơn chính nó biết nó, và thương nó hơn chính nó thương nó, đến độ, ông không sợ mất nó, sẵn sàng để nó đi, vì ông biết rằng nó sẽ không thể nào tìm được hạnh phúc thật và sự sống thật ngoại trừ trở về với cha của nó, sống với cha nó, và chỉ ở trong nhà của cha nó tiêu biểu cho mối hiệp thông với cha mới có sự sống mà thôi

Không phải hay sao: 1- "Khi nó tiêu hết tiền của": ám chỉ linh hồn phạm tội trọng bị mất Ơn Nghĩa Chúa, mất Thánh Sủng, như trong trường hợp Kitô hữu Công giáo; 2- "thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu": ám chỉ tình trạng linh hồn mất Ơn Nghĩa Chúa cũng đồng thời thiếu ơn Chúa để có thể sống tốt lành; 3- "Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo": ám chỉ linh hồn trọng tình trạng tội trọng đang làm tôi cho ma quỉ và "người trong miền" mà linh hồn làm tôi là ma quỉ này bao giờ cũng xui khiến họ sống theo xác thịt đê hèn như loài "heo"; 4- "Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho": ám chỉ linh hồn thèm khát những gì con heo xác thịt tìm kiếm như đồ ăn bẩm sinh bất khả thiếu của nó là thế gian, nhưng không thỏa mãn...

Thế gian cùng với các thứ hào nhoáng thu hút của nó vô cùng thích hợp với bản tính tự nhiên của con người dù sao vẫn không thể nào hoàn toàn và tận tuyệt thỏa mãn con người, bởi tâm hồn của con người, dù tội lỗi đến đâu cũng đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa cao cả nên chỉ có thể được thỏa mãn nơi những gì chân thật thiện hảo xứng hợp với nó mà thôi... Do đó, như một khả năng được "build-in" - sẵn có nơi lòng của con người, đứa con hoang đàng từ đó và do đó, khi đã xuống tới đáy vực thì bật lên hay dội lại. Vì thế dụ ngôn mới được tiếp ngay đến chi tiết đứa con hoang đàng phung phá bật lên hay dội lại như thế này: "Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: 'Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi..."

Phải chăng đó là lý do cho dù có thương con đến thế nào chăng nữa, người cha cũng vẫn chẳng cần đi tìm đứa con dại hoang đàng phung phá của mình, mà chỉ cần ở nhà chờ nó trở về với ông, bằng tất cả tấm lòng bao dung tha thứ sẵn sàng của ông, bởi ông đã tha cho nó ngay từ khi nó xin ông chia gia tài cho nó để nó bỏ ông mà đi theo đam mê dục vọng đê hèn của nó, coi đam mê dục vọng của mình hơn tình phụ tử cao vời của ông với nó?!

Chính vì người cha đã tha cho con mình ngay từ đầu, và thấu hiểu con mình hơn ai hết như thế, mà "khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa'. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình". 

Người cha chẳng những đã vui mừng vì đứa con hoàng đàng phung phá trở về và đã tự động mau mắn tha thứ cho nó trước khi nó lên tiếng xin lỗi ông, mà còn phục hồi lại cho nó tất cả những gì nó đã tự đánh mất khi xa ông trong đời sống bê tha hoang đàng bất xứng, đó là chức làm con, được tiêu biểu nơi việc "mặc" "áo đẹp nhất", nghĩa là được có cùng huyết nhục của cha và với cha; quyền làm con, được tiêu biểu nơi việc "đeo nhẫn vào ngón tay cậu", nghĩa là được quyền thay mặt cha khi cha còn sống và thừa hưởng phần gia tài của cha sau khi cha qua đời; và phận làm con, được tiêu biểu nơi "giầy ở chân cậu", nghĩa là ở vai trò làm chủ của thành phần nô lệ và tôi tớ trong nhà, thành phần theo văn hóa bấy giờ lúc nào cũng đi chân không.

Tình của người cha xót thương đứa con hoang đàng phung phá này đã khiến cho người con trưởng cảm thấy bất mãn và ghen tức với cả người cha lẫn người em của hắn, đến độ, hắn "nổi giận và quyết định không vào nhà", một thái độ tiêu biểu cho việc tuyệt tình và tuyệt giao của hắn với cả cha hắn với em hắn, không còn muốn hiệp thông liên hệ gì với họ nữa, cho dù cả hai đều là ruột thịt của hắn. 

Đến đây chúng ta mới thấy tình thương của người cha không phải chỉ giành riêng cho đứa con hoang đàng phung phá mà còn cho cả đứa con ở nhà với ông nữa. Có thể nói ông tỏ ra thương người con trưởng hơn cả người con thứ nữa. Ở chỗ, trong khi ông không đi tìm người con thứ hoang đàng phung phá, thì ông lại đi tìm người con trưởng của ông, vì nó ở gần ông đấy nhưng lại hoàn toàn lạc mất ông và chẳng hiểu ông bằng người con thứ hoang đàng phung phá.

Có thể nói người con trưởng mới là con chiên lạc, đến độ người cha đã phải bỏ 99 con đang linh đình dự tiệc mừng người con hoang đàng phung phá trở về ở trong nhà mà đi tìm con chiên lạc loài một mình đang sống cô lập bên ngoài mối hiệp thông cha con và huynh đệ, bằng cách người cha đã "ra xin anh vào". Nghĩa là trong khi người con thứ hoang đàng phung phá tìm về với người cha, không cần người cha đi tìm nó, thì người cha lại đi tìm người con trưởng để mang nó về đàn với em của nó.

Người con trưởng quả thực là con chiên lạc cần được người cha tìm về hơn người con thứ. Bởi vì trong khi người con thứ biết thân phận làm con của mình vì hoang đàng phung phá đã không còn xứng nữa nên chỉ xin làm đầy tớ cho cha và của cha, miễn là được cha chấp nhận cho về sống với cha và trong nhà của cha, thì người con trưởng ở nhà với cha lại chỉ muốn làm đầy tớ của cha và cho cha, chứ không muốn làm con của cha, vì hắn làm gì cũng tính công, cũng đòi công như thành phần đầy tớ: "Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn". 

Chính vì tinh thần làm công như một tên đầy tớ của cha và cho cha như thế mà người con trưởng đã không nghĩ rằng "tất cả của cha là của con", bao gồm cả đứa em của hắn, một đứa em còn quí báu hơn tất cả gia tài vật chất của người cha nữa, đến độ, người cha không thể nào không ăn mừng khi thấy đứa con hoang đàng phung phá tự động trở về với tấm lòng thương xót bất khả chống cưỡng của ông đối với nó: "Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".

Người cha trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay chính là hình ảnh về một Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu, đã tỏ mình ra cho dân được Ngài tuyển chọn như vị mục tử chăn dắt họ là đàn chiên của Ngài, vị mục tử được tiên tri Mica cảm nhận trong Bài Đọc 1 hôm nay như sau

"Lạy Chúa, với cây trượng của Chúa, xin chăn dắt dân Chúa, chăn dắt những con chiên thuộc quyền sở hữu của Chúa, sống lẻ loi trong rừng, ở giữa núi Carmêlô. Tất cả được chăn dắt ở Basan và Galaad như ngày xưa. Như ngày ra khỏi Ai-cập, xin tỏ cho chúng con thấy những việc lạ lùng".

Lịch sử cứu độ của dân Do Thái đã cho thấy không phải là dễ dàng gì mà chăn dắt họ. Bởi họ là một dân tộc rất ngang tàng bướng bỉnh, bất chấp có được Vị Thiên Chúa của cha ông họ tỏ mình ra cho thấy Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ "nhiều lần bằng nhiều cách" (Do Thái 1:1). 

Bởi thế, họ là cả một đàn chiên lạc chứ không phải chỉ lạc có một con, và vị mục tử của họ không thể nào chăn dắt họ nếu không nhẫn nại với họ, nếu cứ chấp tội họ, nếu không luôn đi tìm họ, không theo đuổi họ hơn là họ theo đuổi ngài, một vị Thiên Chúa đúng như cảm nhận và xác tín của tiên tri Mica trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Có Chúa nào giống như Chúa là Ðấng dẹp tan mọi bất công, và tha thứ mọi tội lỗi của kẻ sống sót thuộc về Chúa? Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích lòng từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển. Chúa ban cho Giacóp biết sự trung thành của Chúa và cho Abraham biết lòng từ bi mà Chúa đã thề hứa với tổ phụ chúng tôi từ ngàn xưa".

Phải, chỉ có ai cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa, ở chỗ cho dù mình có là một tội nhân nhưng đã được và hằng được Thiên Chúa vô cùng yêu thương nhận hậu tha thứ, hơn là đối xử với mình đáng tội của mình, mới có được những cảm nhận và tâm tình của Bài Đáp Ca và như Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. 

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. 

3) Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa điều oan trái chúng tôi. 

4) Cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi.