SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Vọng Tuần III Năm C và Năm Chẵn
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật


Lời Chúa

Bài Ðọc I: Xp 3, 14-18a

"Chúa sẽ hân hoan vì người".

Trích sách Tiên tri Xôphônia.

Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.

Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng. Những kẻ hư hỏng bỏ lề luật, Ta sẽ quy tụ họ lại, vì họ cũng là con cái ngươi.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6

Ðáp: Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả (c. 6).

Xướng: 1) Ðây Thiên Chúa, Ðấng Cứu Chuộc tôi. Tôi sẽ tin tưởng mà hành động, tôi không run sợ: vì Thiên Chúa là sức mạnh của tôi và là Ðấng tôi ca ngợi. Người trở nên phần rỗi của tôi. - Ðáp.

2) Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng cứu độ: Hãy tung hô Chúa, hãy kêu cầu thánh danh Người, hãy công bố cho các dân tộc biết các kỳ công của Người, hãy nhớ rằng danh Người rất cao trọng. - Ðáp.

3) Hãy hát mừng Chúa, vì Người đã làm những việc cả thể, hãy công bố việc này trên khắp địa cầu. Hỡi dân Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi, có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả. - Ðáp. 

Bài Ðọc II: Pl 4, 4-7

"Chúa gần đến".

Trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa. 

Alleluia: Is 61, 1 (x. Lc 1, 18)

Alleluia, alleluia! - Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó. - Alleluia. 

Phúc Âm: Lc 3, 10-18

"Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: "Vậy chúng tôi phải làm gì?" Ông trả lời: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy". Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?" Gioan đáp: "Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi". Các quân nhân cũng hỏi: "Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?" Ông đáp: "Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình".

Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: "Có phải chính ông là Ðức Kitô chăng?" Gioan trả lời cho mọi người rằng: "Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Ðấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, - chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!" Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng.

Ðó là lời Chúa.

 


Suy niệm

 

Nhập thể bóng dáng 


Chủ đề chung Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể" lại càng hiện tỏ hơn vào Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay là thời điểm Chúa gần đến, như phụng vụ hôm nay của Giáo Hội mang một mầu hồng tươi vui chứ không còn mầu tím xám hối nữa.

Đúng thế, ngay trong Tuần Ba Mùa Vọng này, Giáo Hội sẽ bắt đầu tuần bát nhật trước Giáng Sinh, từ ngày 17 đến hết 24 tháng 12, một thời điểm với những bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến biến cố nhập thể và giáng sinh của Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế.

Bởi vậy, Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay đây chẳng khác gì như một dạo khúc về mầu nhiệm và biến cố "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng sắp đến với dân của Chúa là thành phần đang trông đợi (thậm chí cho đến bây giờ) Người đến như một Vị Thiên Sai Cứu Độ.

Đó là lý do chúng ta thấy Bài Đọc 1 và 2, kể cả bài Đáp Ca đều có nội dung hân hoan vui mừng và đều kêu gọi dân Chúa hãy vui lên. 

Bài Đọc 1 hôm nay Tiên Tri Xôphônia đã kêu gọi dân Chúa hãy vui lên như sau: "Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa. Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng. Những kẻ hư hỏng bỏ lề luật, Ta sẽ quy tụ họ lại, vì họ cũng là con cái ngươi".

Bài Đáp Ca hôm nay Tiên Tri Isaia cũng kêu gọi dân Chúa hãy vui lên như thế này:

1) Ðây Thiên Chúa, Ðấng Cứu Chuộc tôi. Tôi sẽ tin tưởng mà hành động, tôi không run sợ: vì Thiên Chúa là sức mạnh của tôi và là Ðấng tôi ca ngợi. Người trở nên phần rỗi của tôi. 

2) Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng cứu độ: Hãy tung hô Chúa, hãy kêu cầu thánh danh Người, hãy công bố cho các dân tộc biết các kỳ công của Người, hãy nhớ rằng danh Người rất cao trọng. 

3) Hãy hát mừng Chúa, vì Người đã làm những việc cả thể, hãy công bố việc này trên khắp địa cầu. Hỡi dân Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi, có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả. 

Bài Đọc II Thánh Phaolô Tông Đồ cũng hợp với Bài Đọc 1 và Bài Đáp Ca đồng thanh kêu gọi Kitô hữu Giáo Đoàn Philiphê như sau: "Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô". 

Bài Phúc Âm hôm nay, tuy không thấy tỏ tường bầu khí và tính cách kêu gọi "hãy vui lên... vì Chúa đã gần đến" như Bài Đọc 1, Bài Đáp Ca và Bài Đọc 2, chúng ta cũng cảm thấy như có một cái gì đó gần đến khi thấy một Tiền Hô Gioan Tẩy Giả xuất hiện bằng chính ngôn từ của ngài, những ngôn từ được Thánh ký Luca kết thúc bài Phúc Âm hôm nay cho biết tính chất vui mừng ở lời của ngài như sau: "Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng".

Thật vậy, theo tiến trình của phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng chu kỳ Năm C, thì Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chưa hoàn toàn xuất hiện cho đến chính Chúa Nhật III Mùa Vọng này. Ở bài Phúc Âm Chúa Nhật II Mùa Vọng, ngài mới chỉ được Chúa Kitô nói tới, và ở 3 ngày (Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy) cuối Tuần Thứ Hai Mùa Vọng vừa rồi cũng thế, ngài cũng chỉ mới được Chúa Giêsu nói tới mà thôi.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đang đích thân thực hiện sứ vụ "rao giảng tin mừng cho dân chúng" chẳng những bằng lời nói của ngài mà còn bằng chính bản thân của ngài nữa. 

Trước hết, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đang thực hiện sứ vụ "rao giảng tin mừng cho dân chúng" bằng lời nói của ngài:

"Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: 'Vậy chúng tôi phải làm gì?' Ông trả lời: 'Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy'. Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: 'Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?' Gioan đáp: 'Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi'. Các quân nhân cũng hỏi: 'Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?' Ông đáp: 'Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình'".

Sau nữa, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đang thực hiện sứ vụ "rao giảng tin mừng cho dân chúng" bằng chính bản thân của ngài:

"Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: 'Có phải chính ông là Ðức Kitô chăng?' Gioan trả lời cho mọi người rằng: 'Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Ðấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, - chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!' Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng".

Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy một Tiền Hô Gioan Tẩy Giả xuất hiện để báo trước một Đấng đến sau ngài. Đầu tiên, ở phần đầu, ngài dọn lòng cho dân chúng đủ mọi thành phần đón chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế, rồi sau đó, ở phần cuối, ngài chính thức nói về Đấng Thiên Sai Cứu Thế là Đấng đến sau ngài cũng là Đấng cần ngài được sai đến trước để dọn đường cho Người.

Ngài đã dọn lòng cho dân chúng tùy theo hoàn cảnh xã hội của họ. Tiêu biểu cho những ai đến với ngài là ba thành phần: dân chúng nói chung, thu thuế và binh lính. Với cả 3 thành phần tiêu biểu trong dân chúng đến với ngài này, cho dù hoàn cảnh khác nhau, nhưng ngài vẫn khuyên một điều giống nhau đó là sống công bình bác ái yêu thương: 1- "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy" (với dân chúng); 2- "đừng đòi gì quá mức đã ấn định" (với thu thuế); và 3- "Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình" (với binh lính).

Ngài quả thực đã thực hiện sứ mệnh dọn đường cho Đấng đến sau nơi dân chúng bằng cách, như bài Phúc Âm Chúa Nhật II Mùa Vọng tuần trước đã nói về những gì ngài cần phải làm đó là: "sửa đường Chúa cho ngay thẳng (với chung dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay), lấp mọi hố sâu và bạt mọi núi đồi (với thành phần thu thuế); uốn ngay đường lối cong queo, san bằng đường lối gồ ghề (với thành phần binh lính)", nhờ thế "mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa", hay mới có thể nhận biết Đấng Thiên Sai Cứu Thế được ngài báo trước.

Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã chính thức làm chứng về Chúa Kitô, trước hết bằng cách phủ nhận mình không phải là "Đức Kitô" như dân chúng tự nhiên cảm nhận, một "Đức Kitô" là Đấng đến sau ngài nhưng lại là "Ðấng quyền năng hơn tôi - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Ở chỗ, trong khi ngài chỉ "lấy nước mà rửa", một phép rửa chỉ có tính cách thống hối chứ không có thể tha tội, thì "chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa", một phép rửa tái sinh con người để con người chẳng những được sự sống mà còn được sự sống viên mãn (xem Gioan 10:10), đến độ họ có thể trở thành chứng nhân cho Chúa Kitô như các vị tông đồ ở Giêrusalem trong ngày Lễ Ngũ Tuần sau khi đã lãnh nhận "phép rửa trong Thánh Thần" với hình lưỡi lửa đậu trên đầu từng vị (xem Tông Vụ 1:5,8;2:1-13).

Phần Kitô hữu chúng ta, đã "được tái sinh bởi trên cao" (Gioan 3:3), "bởi nước và Thánh Linh" (Gioan 3:5), khi lãnh nhận Phép Rửa, và sau đó cũng đã được rửa "trong lửa" nơi Bí Tích Thêm Sức để có thể làm chứng về Chúa Kitô và cho Chúa Kitô, "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14).

Thế nhưng, thực tế cho thấy, Kitô hữu chúng ta tự bản chất "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14) với vai trò là "chứng nhân của Thày cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8) chẳng những không làm chứng về Chúa Kitô và cho Chúa Kitô mà còn có những xu hướng, ý nghĩ, ước muốn, chọn lựa, quyết định, ngôn từ, tác hành và phản ứng hoàn toàn phản chứng, chỉ là những gì phản Kitô, như hưởng thụ hơn phục vụ, gian dối hơn thành thật, tự cao hơn tự hạ, hận thù hơn tha thứ v.v.

Trong Mùa Vọng để dọn mừng đón Chúa Giáng Sinh năm nay cũng như hằng năm, nếu chúng ta là một người đang đứng chờ tới phiên xưng tội, chúng ta không cần phải hỏi "chúng tôi phải làm gì?" như 3 thành phần dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay hỏi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vì họ chưa biết Chúa Kitô là ai, nên mới hỏi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả mà họ tưởng là "Đức Kitô" như vậy. 

Kitô hữu chúng ta, theo đức tin, đã biết Người, Đấng đã đến, là ai, và vì thế chúng ta đã có thể biết được chúng ta đã sống xứng với Người hay chưa, để mà quyết tâm làm sao mỗi ngày một hơn Người có thể "thần hiển - theophany" một cách rạng ngời nơi thành phần chứng nhân chúng ta trước những ai đang khao khát thần linh và Ơn Cứu Độ của Vị Thiên Chúa vô cùng yêu thương nhân hậu của chúng ta. 

 


Thứ Hai


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ds 24, 2-7. 15-17a

"Ngôi sao từ nhà Giacóp mọc lên".

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, Balaam ngước mắt lên nhìn Israel cắm trại theo từng bộ lạc, và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên ông, ông liền tuyên sấm và nói: "Lời sấm của Balaam, con ông Beor, lời sấm của người đang mở mắt; lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người chiêm ngắm Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Hỡi nhà Giacóp, doanh trại của ngươi đẹp biết bao! Hỡi Israel, chỗ cư ngụ của ngươi tốt dường nào! Nó rộng lớn như thung lũng, như những vườn bên dòng sông, như cây trầm hương mà Thiên Chúa đã trồng, như cây hương nam bên suối nước. Nước tràn ra khỏi thùng chứa, và hạt giống của ngươi được tưới dư dật. Vua ngươi sẽ trổi vượt Agag, và vương quốc ngươi sẽ uy hùng".

Balaam lại tuyên sấm và nói: "Lời sấm của Balaam, con của Beor, lời sấm của người đang mở mắt, lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người biết ý nghĩ Ðấng Tối Cao, của người xem thấy hình ảnh Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Tôi thấy Người, chưa phải bây giờ. Tôi thấy Người không phải gần. Một ngôi sao từ Giacóp mọc lên. Một phủ việt từ Israel xuất hiện".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa (c. 4b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúa đến, hãy ra đón Người; chính Người là Hoàng tử Bình an. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 21, 23-27

"Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy Chúa Giêsu vào Ðền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: "Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?" Chúa Giêsu trả lời: "Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. - Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?" Họ bàn tính với nhau rằng: "Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri". Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi không được biết". Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó".

Ðó là lời Chúa.

 


Suy niệm

 

nhập thể chứng từ


   

Hôm nay, Thứ Hai Mùa Vọng Tuần Thứ Ba, Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại lời đối đáp giữa "các trưởng tế và kỳ lão trong dân" hỏi Chúa Giêsu trong "đền thờ" về thẩm quyền của Chúa Kitô, Đấng vừa ra tay đánh đuổi thành phần dân chúng buôn bán trong đền thờ, và cả câu Người trả lời họ.

"Khi ấy Chúa Giêsu vào Ðền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: 'Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?' Chúa Giêsu trả lời: 'Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. - Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?' Họ bàn tính với nhau rằng: 'Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri'. Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: 'Chúng tôi không được biết'. Chúa Giêsu nói với họ: 'Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó'".

Ở đây, chúng ta không bàn đến những chi tiết nào khác ngoài chi tiết liên quan đến Mùa Vọng cũng là chi tiết liên quan tới chính bản thân của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng như đến phép rửa của ngài được Chúa Giêsu nhắc đến trong câu vừa trả lời vừa chất vấn của Người.

Tại sao Chúa Giêsu lại nhắc đến Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người ở đây, trong trường hợp này, liên quan đến thẩm quyền thanh tẩy đền thờ của Người, và vào thời điểm sắp sửa xẩy ra biến cố Vượt Qua của Người? Vẫn biết, để chứng tỏ mình là ai và từ đâu đến, Chúa Giêsu chỉ cần chứng từ bởi trời là Cha của Người qua những việc Người làm cũng đủ và mới chính xác, chứ không cần đến chứng từ của loài người là Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này, như Người đã khẳng định cùng dân Do Thái như thế:

"Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gio-an: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi".
Đúng vậy, chỉ vì lợi ích của chính thành phần lãnh đạo trong dân chất vấn Người mà Chúa Giêsu đã lấy chính chứng từ loài người để nhắc nhở họ, vì chính họ biết rằng Tiền Hô Gioan Tẩy Giả không phải là "Đức Kitô" mà là Đấng sau ngài, như chính vị tiền hô này đã chẳng những minh định mà còn chỉ cho dân chúng (bao gồm cả họ trong đó) thấy: "Kìa, Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Gioan 1:29). 
Chúa Giêsu còn nhắc nhở họ về việc họ đã từng tìm đến tận nơi ở và gặp tận mặt Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này: "Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật", như chính Thánh ký Gioan ghi lại về sự kiện không thể chối cãi này như sau: 
"Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: 'Ông là ai?' Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: 'Tôi không phải là Đấng Ki-tô'. Họ lại hỏi ông: 'Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?' Ông nói: 'Không phải'. - 'Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?' Ông đáp: 'Không'. Họ liền nói với ông: 'Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?' Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. Họ hỏi ông: 'Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?' Ông Gio-an trả lời: 'Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người'. Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa".

Qua câu vấn đáp giữa họ và vị mà họ tưởng là Đức Kitô, họ đã nghe chính miệng của vị này tuyên bố về tính chất trần gian nơi phép rửa của mình - "phép rửa trong nước", so với Đấng thẩm quyền hơn ngài nhưng đến sau ngài là Đấng "đang ở giữa các ông mà các ông không biết". 
Lời của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi thành phần lãnh đạo dân Do Thái này, ngay lúc bấy giờ, lúc Chúa Kitô vừa trả lời vừa chất vấn họ và gợi ý cho họ về bản thân Người, về Đấng được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả nói đến, có thẩm quyền hơn cả ngài mà họ không biết, cho dù ngay lúc ấy Người đã tỏ uy quyền của Người ra trước mắt họ bằng việc đánh đuổi dân chúng bán buôn trong đền thờ linh thiêng, một hành động có tính cách thanh tẩy, như Người vừa làm phép rửa để tẩy sạch tất cả những gì là trần tục nhơ nhớp nơi dân của Người nói chung cũng như nơi đền thờ bị họ làm ô uế nói riêng, một hành động như thể báo trước về chính phép rửa Người sắp phải lãnh nhận nơi cuộc Vượt Qua của Người. 
Tuy nhiên, dầu sao thì họ vẫn có thiện chí tìm kiếm chân lý, cho dù chưa nhận ra chân lý, bởi thành kiến trần gian và khả năng thiển cận của họ. Bởi thế, Chúa Giêsu mới tiếp tục dùng hết cách để tỏ mình ra cho họ, và bởi thế họ mới cần được Người cứu độ. 
Câu hỏi của thành phần lãnh đạo trong dân về thẩm quyền của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay, ở một khía cạnh nào đó và một nghĩa nào đó, cũng cho thấy họ đang tìm kiếm chân lý và mong đợi Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng đã được mạc khải Cựu Ước tiên báo qua nhiều hình thức, bao gồm cả "lời sấm của Balaam" là một tiên tri dân ngoại, được sai đến để nguyền rủa dân Do Thái nhưng lại nói tiên tri ám chỉ về Đức Kitô
"Lời sấm của Balaam, con ông Beor, lời sấm của người đang mở mắt, lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người biết ý nghĩ Ðấng Tối Cao, của người xem thấy hình ảnh Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Tôi thấy Người, chưa phải bây giờ. Tôi thấy Người không phải gần. Một ngôi sao từ Giacóp mọc lên. Một phủ việt từ Israel xuất hiện".
Bài Đáp Ca hôm nay thật sự là phản ảnh những gì Chúa Giêsu làm với thành phần lãnh đạo dân Do Thái trong bài Phúc Âm hôm nay, một Đấng Cứu Độ nhân từ và nhẫn nại trong việc thông cảm và dẫn dắt con người mù tối và lầm lạc về với chân lý và theo chân lý của Người:

 

1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. 

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. 

 

 

THÁNH LUCIA

13/12

A. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

 

Lucia sinh ra tại Syracusas ở đảo Sicilia thuộc nước Ý. Cô mồ côi cha ngay từ khi còn bé. Cô đã theo đạo ngay từ nhỏ, và đã được giáo dục đức tin vào Chúa thật chu đáo. Cô cũng đã có ước nguyện dành trọn của đời của mình để thờ phụng Chúa.

 

Cuộc sống tưởng sẽ êm đềm trôi, ai dè khi vừa tới tuổi trưởng thành  thì một sự việc đã xảy ra ngoài ý muốn của cô. Mẹ của cô, một người gốc Hy Lạp tên là Eutychia đã ép buộc cô phải lập gia đình với một chàng thanh niên giàu có của một gia đình quen biết theo tập tục thời bây giờ, bất chấp sự thoả thuận của đôi nam nữ này.

 

Rất may một biến cố bất ngờ xảy ra trong gia đình giúp Lucia "thoát nạn". Bà mẹ của cô bị một cơn bệnh "thập tử nhất sinh" nhưng cuối cùng bà đã qua khỏi. Lucia cho rằng bà được khỏi là do phép lạ của Chúa, do việc cầu nguyện của cô. Chính sự việc này đã khiến bà đổi ý không còn bắt Lucia phải kết hôn nữa. Từ đó Lucia thêm phần tin tưởng vào Chúa. Cô bán tất cả phần gia tài mình có rồi phân phát cho kẻ nghèo khó.

 

Sự việc tưởng như thế là xong nhưng có dè đâu chàng thanh niên bị từ chối kết hôn vẫn còn say mê Lucia. Vì bị từ chối kết hôn, anh ta cảm thấy cay cú nên đã tố cáo Lucia với Hoàng đế Roma là Ðiôclêtianô lúc đó. Ông vua này vốn là một người không có cảm tình gì với người Kitô hữu. Ngược lại còn căm ghét những người có đạo một cách điên cuồng. Lucia bị bắt và bị giam cầm chỉ vì cô là người có đạo và  hiện đang theo đạo.

 

Lính tráng đã giải cô đến trước mặt vị quan Paschase. Paschase đã dụ dỗ cô dâng hương tế thần nhưng cô không đồng ý, sau đó ông này âm mưu muốn hủy hoại đời trinh tiết của Lucia bằng cách để cho số thanh niên đâm đãng làm nhục cô cho đến chết. Nhưng tình thương của Chúa thật nhiệm màu. Chúa đã làm phép lạ gìn giữ Lucia làm cho thân xác Lucia hoá ra nặng như đá nên không kẻ nào có thế làm hại được nàng.

 

Sau đó với sự nóng giận của một người thua cuộc, quan Paschase đã đã cho quân lính tẩm dầu vào thân xác Lucia và đốt cháy cho đến chết. Lucia đã hy sinh ví Chúa 304.

 

B. LÒNG CAN ĐẢM CỦA MỘT CHỨNG NHÂN

 

Lucia bị bắt. Người ta điệu người ra trước mặt quan Paschase. Quan khuyên người bỏ đạo, Lucia đáp:

 

 - Thưa quan, tôi chỉ kính thờ một Thiên Chúa chân thật mà thôi. Vì yêu mến Người trên hết mọi sự, nên tôi đã phân phát gia tài tôi cho người nghèo, bây giờ còn chính mạng sống tôi đây, tôi sẵn sàng tận hiến để làm lễ vật tiến dâng Người.

- Cô hãy nói thế cho người có đạo nghe. Ở đây tôi chỉ biết vâng  lệnh hoàng đế Rôma thôi.

- Quan biết vâng phục mệnh lệnh vua chúa dưới đất thì tôi càng phải vâng giữ giới răn của Thiên Chúa trên trời. Ngài muốn làm gì tôi thì làm, tôi chỉ một mực trung thành với Chúa tôi thờ mà thôi.

- Chúa bà gì cô? Người ta tố cáo với tôi là cô đã phung phá sản nghiệp ông cha để lại cho tình nhân.

- Phải, tôi chỉ có một tình nhân mà tôi say mến, và vị đó chính là Chúa Giêsu Kitô.

- Ta truyền lệnh đánh đòn cô, xem cô còn nói hay được mãi hay không .

- Thưa quan, lời hay lẽ phải tôi chẳng lo thiếu. Vì chính Chúa Thánh Thần dùng miệng tôi mà nói, chứ không phải tôi nói đâu.

- Vậy trong cô có Chúa Thánh Thần ư ?

- Vâng, ai sống đạo đức và khiết trinh thì người ấy là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự.

- Được rồi. Ta sẽ giam cô vào một nhà chứa và những thanh niên xấu nết trong thành làm ô uế cô, như thế chắc Chúa Thánh Thần sẽ bỏ cô.

- Thưa quan, nếu bị cưỡng ép mà người ta xúc phạm đến thân xác tôi, thì linh hồn tôi vẫn còn thánh thiện. Sức mạnh của cánh tay loài người không thể phá nổi đền thờ thiêng liêng của

 

Thiên Chúa đâu. Nếu người ta hãm hiếp trái ý muốn của tôi thì tôi sẽ đẹp gấp đôi.

Nghe những lời đối đáp cứng rắn của một thiếu nữ như thế ông Paschase tức giận điên lên, liền hạ lệnh cho lính lôi Lucia đến một nhà chứa và cho phép mọi thanh niên được  tự do ra vào.

 

Nhưng lạ thay, Thiên Chúa đã làm cho thánh nữ hoá nặng như núi đá: dù quan đã phải huy động một số lính lực lưỡng khoẻ mạnh thậm chí còn dùng cả những cặp bò khoẻ mạnh để kéo, nhưng cũng chẳng động một ly. Trước phép lạ nhãn tiền như thế, ông Paschase đỏ mặt xấu hổ đến tột cùng. Không những ông đã không mở mắt ra để nhìn nhận quyền phép của Thiên Chúa mà lại còn căm hờn hơn để báo thù. Ông ra lệnh lấy nhựa và dầu trét kín thân thể Lucia rồi đốt. Nhưng một lần nữa Thiên Chúa đã dùng quyền phép giữ gìn Người trọn vẹn trong đống lửa: dù một sợi tóc cũng không bỉ cháy. Sau cùng lính phải dùng gươm mà chém đầu Lucia. Hôm ấy là ngày 13.12. 304.

 

Theo lời kể của Sigebert (1030-1112) một tu sĩ ở Genbloux trong sách "Sermo de Sancta Lucia" thì thi hài của Lucia được an táng tại Sicilia hơn 400 năm, cho đến khi Quận công Spoleto chiếm được đảo và cho di chuyển Thánh tích về Corfinium ở Ý. Năm 972, Thánh tích lại được dời chuyển một lần nữa bởi hoàng đế Otho I về nhà thờ Thánh Vincent tại Metz. Một cánh tay của Thánh nữ được cắt ra cho tu viện Luitburg thuộc giáo phận Spires. Một phần Thánh tích của Thánh nữ Lucia được tìm thấy tại Constantinopolis năm 1204 và chuyển về tu viện Thánh Geremia. Thánh tích được an vị tại đây hơn 777 năm.

 

Sau đó ngày 07 tháng 11 năm 1981, hai tên trộm người Sicilia đập vỡ hòm kiếng lấy hài cốt của Thánh nữ đem đi chỉ còn chừa lại xương sọ và mặt nạ. Thánh tích lại được trả về một tháng sau đó theo lời khẩn khoản yêu cầu của giáo quyền của đảo Sicilia.

Nguồn:tgpsaigon.net


C- Gương Thánh Nhân

Các thiếu nữ có tên thánh là Lucia chắc phải thất vọng khi muốn tìm hiểu về vị thánh quan thầy của mình. Các sách cổ viết dài dòng nhưng rất ít chi tiết liên hệ đến truyền thuyết. Các sách mới đây cũng dài dòng dẫn chứng một sự kiện là những truyền thuyết này không có trong lịch sử. Chỉ có một chi tiết về Thánh Lucia còn sót lại đến ngày nay, đó là người cầu hôn với thánh nữ vì bị từ chối nên đã tố cáo ngài là Kitô hữu, do đó ngài bị xử tử ở Syracuse thuộc Sicily vào năm 304. Nhưng cũng đúng là tên của thánh nữ đã được nhắc đến trong lời cầu nguyện Rước Lễ Lần Ðầu, có những địa danh và một bài dân ca mang tên thánh nữ, và qua bao thế kỷ, hàng chục ngàn thiếu nữ đã hãnh diện chọn ngài làm quan thầy.


Các bạn bè của Lucia có lẽ cũng ngạc nhiên về Ðấng mà Lucia yêu quý, đó là một người đi rao giảng khắp nơi, sống trong một dân tộc nô lệ và đã bị tiêu diệt cách đó 200 năm. Người từng là một người thợ mộc, từng bị chính dân của Người kết án và chết trên thập giá. Với tất cả tâm hồn, Lucia tin tưởng rằng chính Người đã sống lại từ cõi chết. Thiên Chúa đã minh chứng tất cả những gì Người nói và hành động. Ðể làm chứng cho đức tin ấy, thánh nữ đã thề giữ mình đồng trinh.
Thật là một điều khôi hài đối với các bạn ngoại giáo của thánh nữ! Giữ mình trong trắng trước khi thành hôn là một lý tưởng cổ hủ của người Rôma, ít người còn giữ nhưng không ai kết án lý tưởng ấy. Tuy nhiên, ngay cả cô ta không muốn kết hôn thì điều đó thật quá đáng. Chắc cô ta phải có điều gì xấu xa cần giấu diếm, như miệng lưỡi thế gian thường đồn đãi.

 

Cũng dễ để hiểu những khó khăn của một thiếu nữ Kitô Giáo, khi phải chiến đấu trong một xã hội trần tục như ở Sicily vào năm 300. Cũng tương tự như xã hội ngày nay, nhiều thói tục của xã hội đã ngăn cản chúng ta sống xứng đáng là người theo Ðức Kitô.

 

Chắc chắn Thánh Lucia đã nghe biết về nhân đức anh hùng của các vị đồng trinh tử đạo. Ngài muốn trung thành với tấm gương của các đấng ấy, cũng như theo gương của người thợ mộc, là Người mà ngài tin là Con Thiên Chúa.

Lời Bàn

Nếu bạn chọn Thánh Lucia làm quan thầy thì đừng thất vọng. Vị quan thầy của bạn thực sự là một nữ anh thư, hơn hẳn mọi người, là một hứng khởi vô tận cho bạn và cho mọi Kitô hữu. Sự can đảm sống luân lý của người thiếu nữ Sicilian tử đạo ấy đã tỏa sáng, như để soi dẫn giới trẻ ngày nay, cũng như giới trẻ trong thời đại ấy.

 

 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Xp 3, 1-2. 9-13

"Chúa hứa ban ơn cứu độ cho những người nghèo khó".

Trích sách tiên tri Xôphônia.

Chúa phán: Khốn cho thành phản nghịch và ô uế, cho thành làm sự hung bạo. Nó không nghe lời, không chịu sửa dạy, không tin tưởng vào Thiên Chúa, không đến gần Chúa mình.

Bấy giờ Ta sẽ cho dân Ta môi miệng thanh sạch để mọi người kêu cầu danh Chúa và nhất tâm phụng sự Người. Từ phía bên kia các sông xứ Ethiôpi, con cái những kẻ tha hương kêu cầu Ta, đem lễ vật đến dâng cho Ta.

Ngày đó, ngươi sẽ không còn phải xấu hổ vì các lỗi lầm của ngươi đã phạm đến Ta. Vì Ta sẽ cất xa khỏi ngươi những kẻ chiến thắng kiêu căng và từ đây, ngươi sẽ mãi mãi được vinh quang trên núi thánh Ta. Ta sẽ để lại giữa ngươi một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại sẽ không làm điều gian ác, không nói dối, người ta không thấy chúng nói lời phỉnh gạt. Chúng sẽ như đàn chiên ăn cỏ và nghỉ ngơi, và sẽ không ai làm phiền chúng.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 6-7. 17-18. 19 và 23

Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Ngài. Trong Chúa, linh hồn tôi hãnh diện. Bạn nghèo hãy nghe và hãy vui mừng. - Ðáp.

2) Hãy nhìn về Chúa, để các bạn sẽ vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Ngài đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.

3) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.

4) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương tan nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Này đây Chúa đến để cứu dân Người; hạnh phúc thay những ai sẵn sàng đón rước Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 21, 28-32

"Gioan đến và những kẻ tội lỗi tin ngài".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn cho cha!" Nó thưa lại rằng: "Con không đi". Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: "Thưa cha, vâng, con đi". Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất". Chúa Giêsu bảo họ: "Quả thật, Ta bảo các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài".

Ðó là lời Chúa.

 

 


Suy niệm


 

nhập thể nhận thức    


Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Mùa Vọng trong Tuần Thứ Ba hôm nay, tiếp theo ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua, vẫn liên quan đến Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả và vẫn với thành phần lãnh đạo dân do Thái.

 

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu mới đặt vấn đề với thành phần lãnh đạo trong dân này, như để gợi ý cho họ suy nghĩ, một thành phần trả lời lập lửng nửa vời như chối từ sự thật được Người gợi lên trong câu trả lời mang tính cách chất vấn của Người, và chính câu trả lời "chúng tôi không biết" của họ đã cho thấy niềm tin của họ tới đâu và ra sao.

Bởi thế không lạ gị Chúa Giêsu đã phải sử dụng đến một dụ ngôn nữa ám chỉ về chính họ, hy vọng họ sẽ không còn chạy quanh chối cãi về tình trạng quanh quéo giả hình của họ nữa, đó là dụ ngôn 2 người con trước ý muốn của người cha mong đứa nào của ông cũng đi làm vườn nho cho ông. 

"Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: 'Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn cho cha!' Nó thưa lại rằng: 'Con không đi'. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: 'Thưa cha, vâng, con đi'. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?'" 

Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua câu vừa trả lời vừa chất vấn của Chúa Giêsu với thành phần lãnh đạo trong dân chúng này liên quan đến phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã gián tiếp trả lời cho họ về thẩm quyền của Người được họ hạch hỏi Người họ không muốn trả lời, thì trong bài Phúc Âm hôm nay họ đã mắc bẫy Người khi lắng nghe dụ ngôn về 2 người con được cha sai đi làm vườn nho cho cha mình: "Họ đáp: 'Người con thứ nhất'". 

   Thấy họ đã rơi vào bẫy sự thật để nhờ đó sự thật mới có thể giải phóng họ (xem Gioan 8:32), "Chúa Giêsu bảo họ: 'Quả thật, Tôi bảo các ông hay, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài'".

   Ở đây, Chúa Giêsu như nhắc nhở thành phần lãnh đạo dân Do Thái này về hiện tượng Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã được chính Thánh ký Mathêu của bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ở phần đầu Phúc Âm của ngài, liên quan đến chung dân chúng, trong đó bao gồm cả "những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài" cũng như chính thành phần lãnh đạo này như sau:

   "Hồi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: 'Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần'. Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối...".

Căn cứ vào câu trả lời của thành phần lãnh đạo dân Do Thái cũng như vào câu xác nhận của Chúa Giêsu về câu trả lời đúng thật của họ, thì người con thứ nhất trong dụ ngôn hai người con được cha sai đi làm vườn nho cho ông là "những người thu thuế và gái điếm" (còn có thể bao gồm cả dân ngoại vốn bị chung dân Do Thái cho là tội lỗi - đồ bỏ), và người con thứ ám chỉ thành phần lãnh đạo dân Do Thái (bao gồm cả đa số thành phần biệt phái và luật sĩ giả hình đã bị Chúa Giêsu thậm tệ quở trách cho mà mở mắt ra - xem Mathêu nguyên đoạn 23)
Tuy Thánh ký Mathêu trong bài Phúc Âm hôm nay không cho biết phản ứng của thành phần lãnh đạo dân Do Thái khi bị Chúa Giêsu ghép cho họ là hạng người con thứ có vẻ làm theo ý cha của mình nơi việc giữ kỹ lề luật nhưng thật ra chỉ là giả hình, không theo tinh thần của lề luật, không đúng như ý cha mong muốn, nhưng khi họ nghe xong dụ ngôn thứ hai về thành phần tá điền gian ác bất trung ngay sau đó (xem Mathêu 21:33-44), họ mới thật sự có thái độ về cả 2 dụ ngôn như thế này: "Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ" (câu 45-46). Có nghĩa là họ vẫn mù quáng và cứng lòng!
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa cũng đã dùng miệng Tiên Tri Xôphônia để nói trước về dụ ngôn 2 người con được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay. 
Trước hết, về người con thứ mù quáng bất tuân: "Khốn cho thành phản nghịch và ô uế, cho thành làm sự hung bạo. Nó không nghe lời, không chịu sửa dạy, không tin tưởng vào Thiên Chúa, không đến gần Chúa mình". Sau đó về người con trưởng: "Bấy giờ Ta sẽ cho dân Ta môi miệng thanh sạch để mọi người kêu cầu danh Chúa và nhất tâm phụng sự Người. Từ phía bên kia các sông xứ Ethiôpi, con cái những kẻ tha hương kêu cầu Ta, đem lễ vật đến dâng cho Ta".
Bài Đọc 1 hôm nay còn cho thấy một Vị Thiên Chúa cứu độ qua Chúa Kitô là "Con Người đến để tìm kiếm và cứu với những gì hư hoại" (Luca 19:10)  những ai thuộc thành phần người con trưởng hoang đàng nhưng biết thống hối trở về với Ngài, "một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại" như sau:

"Ngày đó, ngươi sẽ không còn phải xấu hổ vì các lỗi lầm của ngươi đã phạm đến Ta. Vì Ta sẽ cất xa khỏi ngươi những kẻ chiến thắng kiêu căng và từ đây, ngươi sẽ mãi mãi được vinh quang trên núi thánh Ta. Ta sẽ để lại giữa ngươi một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại sẽ không làm điều gian ác, không nói dối, người ta không thấy chúng nói lời phỉnh gạt. Chúng sẽ như đàn chiên ăn cỏ và nghỉ ngơi, và sẽ không ai làm phiền chúng".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa tâm tình hân hoan vui sướng của những con người cảm nghiệm thần linh về một Vị Thiên Chúa cứu độ của mình như sau:

1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Ngài. Trong Chúa, linh hồn tôi hãnh diện. Bạn nghèo hãy nghe và hãy vui mừng.

2) Hãy nhìn về Chúa, để các bạn sẽ vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Ngài đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. 

3) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. 

4) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương tan nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. 



 

 

 

 

 

 

 

Ngày 14 tháng 12

Thánh Gio-an Thánh Giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

 

Thánh Gio-an Thánh Giá chào đời năm 1542 ở Phon-ti-vê-rốt, nước Tây Ban Nha. Sau một ít năm sống trong dòng Các-men, và được thánh nữ Tê-rê-xa thành A-vi-la khuyến khích, thánh Gio-an đã muốn thực hiện việc cải cách trong dòng. Điều này khiến thánh nhân phải chịu đựng muôn vàn đau khổ, thử thách. Người qua đời tại U-bê-đa, nổi tiếng là một bậc khôn ngoan, thánh thiện, như chúng ta có thể nhận thấy qua các tác phẩm của người.

 

 

Nhận biết mầu nhiệm được ẩn giấu nơi Chúa Ki-tô Giê-su

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách - Bài đọc 2

Trích bài ca thiêng liêng của thánh Gio-an Thánh Giá, linh mục.

 

Dù các bậc thánh sư đã khám phá ra bao điều mầu nhiệm, lạ lùng, đồng thời nhiều tâm hồn đạo đức ngay ở đời này đã được cảm nghiệm những điều ấy, thế nhưng vẫn còn rất nhiều điều cần phải nói ra, cần được hiểu biết.

 

Chính vì vậy, ta phải đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Người như thể một hầm mỏ phong phú, chứa nhiều tầng kho tàng quý giá ở bên trong. Có hết sức đào, cũng chẳng bao giờ hết. Hơn thế nữa, ở mỗi tầng, chỗ này hay chỗ nọ, người ta còn khám phá ra những lớp kho tàng mới.

 

Vì thế, thánh Phao-lô đã nói về Chúa Ki-tô : Trong Người, có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa. Các kho tàng đó, linh hồn không thể vào, cũng không thể tới được, nếu trước đó không chịu những đau khổ thấm thía bên trong lẫn bên ngoài, không được Thiên Chúa ban cho ơn hiểu biết và nhạy cảm, không kiên trì tập luyện về đời sống thiêng liêng.

 

Thật vậy, tất cả những điều này còn ở cấp độ thấp và mới chỉ là những điều kiện giúp ta vươn tới thâm cung cao thẳm là hiểu biết các mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Đó mới là đỉnh cao của sự khôn ngoan ta có thể đạt tới khi còn ở đời này.

 

Ôi ! Ước chi sau cùng con người hiểu được rằng mình không thể nào đạt tới các kho tàng cũng như sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa, nếu trước đó không chịu đau khổ thấm thía và nhiều cách đến độ coi đó là niềm vui và ước muốn của mình ! Linh hồn nào thật sự khao khát sự khôn ngoan của Thiên Chúa, thì trước tiên phải ao ước đi vào mầu nhiệm thẳm sâu của thập giá.

 

Vì thế, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Ê-phê-xô kẻo họ nản chí khi gặp gian truân, ngõ hầu họ được mạnh mẽ và nhờ được bén rễ sâu, được xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể các thánh, họ đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài, rộng, cao, sâu và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy họ sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.

 

Thánh giá chính là cửa ngõ phải qua để rồi vào kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Đó là cửa hẹp. Có nhiều người muốn hưởng những hoan lạc xuất phát từ thánh giá, nhưng lại ít có người chịu đi qua cửa này.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Gio-an linh mục lòng nhiệt thành yêu mến thánh giá và hoàn toàn từ bỏ chính mình, xin ban cho chúng con hằng biết noi gương sáng của người, để mai sau được chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin

 

 

 

 

Tiểu Sử

Gioan de Yepes sinh tại Phontiveros, gần Avila. Tây Ban Nha ngày 24-6-1542. Cha ngài làm thợ dệt, bị gia đình giàu có làm nghề buôn bán loại trừ vì đã cưới một người vợ kém hơn. Mẹ ngài là một người đàn bà thánh thiện, trở thành goá phụ sau khi sinh Gioan. Không nguồn lợi, với 3 đứa con, bà đã làm thuê cho một thợ dệt. Bé Gioan dần dần đã học nghề thợ mộc, may vá, điêu khắc, hội hoạ trong tình yêu mến Chúa Giêsu Kitô.

Trong mọi việc, ngài có thói quen tự hỏi: “Vào trường hợp tôi, Chúa Giêsu sẽ làm gì?”

Ngài không trốn tránh một hy sinh nào. Lúc 12 tuổi, Gioan được học đọc, học viết với các nữ tu ở Medina del Campo. Đức bác ái của ngài bao la: tư hồi còn niên thiếu, ngài đã dùng giờ rảnh để phục vụ các bệnh nhân ở nhà thương, dầu vẫn theo học văm phạm và triết học nơi các cha dòng Tên.

Năm1563, Gioan gia nhập dòng Carmêlô và năm sau được gửi học tại Đại học Salamanca. Năm 1567, ngài thụ phong linh mục ở Medina và đã gặp thánh nữ Avila. Thánh nữ đã khuyên ngài thực hiện việc cải tổ dòng Camêlô như thánh nữ đang làm. Thánh nữ nói với ngài: “Đây là công trình đòi hy sinh và máu. Tôi không biết cha sẽ phải chịu khổ tới đâu nhưng chắc chắn cha phải chịu khổ”.

Gioan trở thành người con thiêng liêng của người nữ tu Carmêlô này. Cha 25 tuổi và chị 52 tuổi. Chị gửi cha đến với hai người bạn ở Duruelô trong cảnh cô tịch và đây là nguồn gốc của dòng Carmêlô canh tân đi chân không, ngài lấy tên là Gioan Thánh Giá. Sự nghèo túng thật khủng khiếp, ngài chỉ sống bằng cỏ, nhưng vẫn dùng những khúc ca tạ ơn Chúa vì đã chỉ cho biết phải sống và cư xử cách nào. Ngài hành động cách khác thường trên những người chung quanh, giải thoát họ khỏi những việc hư hỏng, tạo cho họ một lòng yêu thích hy sinh.

Sau khi chống lại đoàn thể các tu sĩ Carmêlô ở Alcala de Hélenrés, Ngài trở thành tuyên uý của tu viện Avila trong 5 năm, thánh nữ Têrêxa giới thiệu với con cái mình: “Cha là vị thánh”.

Sự thánh thiện của Gioan vượt quá nhiều người và trở nên khó hiểu, sự canh tân khiến ngài bị tố cáo là nổi loạn. Các thầy dòng Carmêlô chước giảm chống lại các thầy dòng Carmêlô đi chân không. Cuối cùng, sau những nhục mạ dữ dội, ngài bị cầm tù ở Tolêđô. Người ta đối xử cứng rắn với ngài, 3 lần mỗi tuần họ đưa ngài tới nhà cơm và đánh đập không nương tay. Nhưng ngài cảm thấy đang đi đúng đường Chúa muốn và tạ ơn Chúa vì đã chịu được hạ nhục và chịu khổ cực. Những bắt bớ tăng thêm đức tin và lý tưởng của ngài. Đáp lại, ngài yêu mến nhiều hơn và trong hầm tối thiếu khí trời, ngài trước tác những vần thơ bí nhiệm làm thành cuốn “Thánh ca thiêng liêng” (cantiques spirituelles).

Được 9 tháng, thánh nhân vượt ngục. Trước khi đến tu viện định tới, ngài dừng lại trong một dòng nữ. Ngài nghe một nữ tu ca hát về “hạnh phúc của đau khổ” và bỗng ngài phải bám chặt vào cửa sắt nhà khách. Ngài đã xuất thần. Ý tưởng được chịu khổ vì Chúa đã làm cho ngài cả thấy dư tràn hạnh phúc. Phép lạ này trong tâm hồn, như muốn lôi kéo cả thân xác đổi mới theo... thánh Têrêxa nói: “Không có cách gì để nói về Thiên Chúa với cha Gioan Thánh Giá. Ngài xuất thần ngay và lôi kéo người khác theo”.

Một ngày kia quỳ bên song sắt, thánh nữ nghe cha nói về Chúa Ba Ngôi, thì thánh linh như muốn nâng ngài lên. Khiêm tốn, ngài nắm lấy tay vào thành ghế. Nhưng hoạt động thần linh đã nâng ngài lên tới trần nhà. Têrêxa ở trước mặt ngài cũng xuất thần và bay bổng. Một nữ tu tiến vào, cảm kích và cảnh tượng vội đi gọi các nữ tu khác đến chiêm ngưỡng cả hai vị thánh được Chúa chúc phúc.

Đức Thánh Cha và vua Philipphe II ủng hộ những cuộc cải cách và bây giờ Gioan phải nhận nhiều trọng trách. Ngài làm bề trên dòng Calvariô. Ngài lập cộng đoàn Carmêlô Baeza và 3 năm sau được chọn làm tu viện trưởng ở Grenade. Đi đường qua các thành Tây Ban Nha, ngài chinh phục các linh hồn về cho Chúa Kitô, chính ngài đã xây dựng một thuỷ lộ, một tu viện. Trong 15 ngày, ngài đã viết cuốn “Ngọn lửa tình yêu sống động” (La vive flamme d'amour). Cuối cùng ngài trở thành Tổng Đại diện Andalousia.

Sự trong trắng của thánh nhân đã tạo cho ngài một quyền năng trên quỷ thần. Ngài đã giải thoát nhiều bị quỷ ám. Người ta nói rằng, bằng những dấu thánh giá ngài dẹp tan cơn bão, bằng lời nguyện, ngài dập tắt một hoả hoạn. Các thú vật quý mến ngài. Để giữ mình trong sạch, thánh nhân tự nhận lấy đau khổ nhưng lại rất thương cảm những đau khổ của người khác, ngài còn tế nhị hơn nữa đối với những đau khổ tinh thần mà ngài gọi là “đêm tối của tâm hồn”. Nhưng ngài hiểu rằng, những đau khổ này thanh tẩy tâm hồn rất nhiều. Không kết hợp với Chúa được nếu không có khổ hạnh trong tâm hồn.

Thường nhà dòng nghèo khó đến độ có ngày không có bánh ăn. Tập họp ở nhà ăn, thánh nhân nói với các tu sĩ về hạnh phúc được chịu khổ vì Chúa Giêsu Kitô. Họ khóc vì nhiệt tâm và lui ra. Bỗng chuông reo, một người vô danh đã đem bánh cho nhà dòng. Các tu sĩ trở lại phòng ăn. Lần này, thánh nhân khóc và nói: “Ôi, vậy là Chúa đã thấy sự yếu đuối của chúng con không chịu thử thách được lâu. Ngài đã sớm thương hại chúng ta”.

Lần kia, ngài đã trả lời Chúa Giêsu khi ngài hỏi về phần thưởng ngài muốn rằng: “Lạy Chúa, xin cho con được chịu khổ và bị khinh miệt vì Chúa”.

Và Ngài đã xin 3 ơn này là: đừng có ngày nào mà không được chịu đau khổ, đừng là bề trên vào lúc chết và được chết trong khiêm hạ. Thiên Chúa đã nhận lời Ngài.

Những tháng bị giam cầm, với bao đau khổ dữ dằn người ta đối xử, đã huỷ hoại thân thể ngài. Mệt nhọc vì du hành tới Andalousia, làm thánh nhân bị thiêu đốt ở chân, các vết thương mở rộng. Ngài chịu đau đớn kinh khủng đến nỗi lần kia ngài nói với người đối thoại:

- Xin lỗi, tôi không trả lời nổi. Tôi bị đay nghiến và đau nhức.

Thánh nhân được chọn một trong hai nơi để chữa bệnh, hoặc ở Baeza, nơi người ta quý mến, hoặc ở Ubeda, nơi tu viện trưởng có ác cảm với ngài. Ngài đã chọn tu viện Ubeda. Những cư xử nghiêm nhặt làm cho ngài đau đớn thêm. Nhưng ngài càng ôm chặt Thánh Giá vào lòng. Vị tu viện trưởng cảm động vì sự dịu dàng không mệt mỏi, vì lòng bác ái sâu xa của bệnh nhân, cuối cùng đã hiểu và xin ngài tha thứ.

Gioan báo trước mình sẽ chết đêm 14-12 (năm 1591). Các tu sĩ đọc kinh phó linh hồn, ngài xin đọc sách Diễn tình ca. Các cơn đau không ngừng gia tăng khi chuông reo giờ kinh sáng, ngài cầm thánh giá nói: “Lạy Chúa, con phó linh hồn trong tay Chúa”.

Ngài còn nhìn các tu sĩ, hôn Chúa Kitô và tắt thở. Ngài đã viết: “Vào xế chiều cuộc sống này, bạn được phán xét về tình yêu”.

Gioan Thánh Giá để lại nhiều sách luôn được suy gẫm như: Đường lên Carmêlô, Đêm tối tâm hồn, Ngọn lửa tình yêu sống động, Thánh ca thiêng liêng. Ngài được phong thánh năm 1726. Và Đức Piô XI đã đăt ngài làm Tiến sĩ Hội Thánh năm 1962.
 
 Trích trong Theo Vết Chân Người (Chân dung các thánh nhân)

 

http://truyen-tin.net/BiographyOfSaints.aspx?SID=240

 

Gương Sống

“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8, 34).
Câu Kinh thánh này được thể hiện rõ nét trong cuộc đời của Thánh Gioan Thánh Giá, con người của đam mê, bí ẩn và tin tưởng cùng phương châm sống của Ngài là “tình yêu và hy sinh” dệt nên con người sống hoàn toàn vì tình yêu trong tâm tình tạ ơn suốt cả cuộc sống ngài. Ngài sống trọn cuộc sống trong đau đớn nhưng vẫn hằng cảm tạ Chúa như trong Thánh vịnh 41 “Con ngâm nga bài thánh nhạc thâu đêm, Thành kinh nguyện dâng Chúa Trời hằng sống” (Tv 41,9). Thật khó để có thể tìm được một con người như ngài, dù cuộc sống có là chi, có bị đối xử bất công thế nào, bị đánh đập dã man, hay bị ngưỡi đãi vì sự ghét ghen của anh em mình,… thì ngài vẫn không ngừng cất lên lời ca tạ ơn vì Thiên Chúa đã ban cho ngài được như vậy, ngài đem tình yêu thương đến tận mọi nơi trong cộng đoàn, trong mọi người và trong chính sâu thẩm của tâm hồn ngài. Chính vì lẽ đó, ngài đã thốt lên “Có ai thấy Thiên Chúa bởi sự tàn nhẫn đâu ?” hay “Ở đâu không có tình yêu, hãy đem lại tình yêu và bạn sẽ tìm thấy tình yêu.” .

Đối với ngài, Thiên Chúa không bao giờ có sự tàn nhẫn, không bao giờ có bất công nhiều người trong chúng ta chúng ta chắc hẳn, khi gặp một biến cố, một khó khăn nào đó có thể sẽ thốt lên những lời than trách, những câu thở dài, nhưng với Gioan đó không phải là những hình phạt hay nói một cách tế nhị hơn “thánh giá Chúa gửi đến”. Những đau khổ mà ngài chịu là những kinh nghiệm sống, những lời tạ ơn cho thế hệ chúng ta hôm nay đang từng bước theo ngài, theo lại lối xưa ngài đã từng dấn thân và bước đi, để hôm nay ngài đã được ở lại trong Thiên Chúa của tình yêu. Ngài cũng muốn mời gọi chúng ta gieo rắc tình yêu của chính mình, tình yêu phát xuất tự trong tâm hồn sâu thẳm để dành cho mọi người xung quanh, để tất cả mọi nơi là tình yêu, và hy sinh cho nhau cách khiêm nhu trọn vẹn.

Khi suy niệm về cuộc đời của ngài, chúng ta có thể tìm thấy nhiều tâm tình tạ ơn của Thánh nhân để lại trong những tác phẩm của ngài, những tâm tình đó có thể được thốt lên bằng những vần thơ du dương, hay những hy sinh thường ngày của cuộc sống. Trong tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc sống ngài luôn sống với sự tạ ơn và niềm vui đến từ Thiên Chúa, có lẽ vì điều này mà con người của ngài toát lên được vẻ đẹp của thánh thiện và lòng trắc ẩn mà ngài cảm nghiệm được từ nơi Thiên Chúa đã dành cho nhân loại và chính ngài đã sống điều này suốt cả chặng đường theo Đức Kitô. Ngài dạy rằng, chỉ khi nào chúng ta dám cắt bỏ sợ dây dục vọng thì chúng ta mới có thể bay lên cùng Thiên Chúa. “Sợi dây dục vọng” mà Gioan muốn nhắc tới thiết nghĩ không đơn thuần chỉ là những thú vui xác thịt, xa hoa trần thế chóng qua, mà còn là những ước mơ danh vọng, những suy tính trong tương lai của một con người đang dấn thân, đang tìm kiếm. Có thể thấy rằng, chính ngài đã sống điều này trước khi dạy chúng ta sống, ngài đã sống điều ngài muốn nói và ngài tìm gặp được Chúa ngay trong cuộc sống trần thế.

“Vào trường hợp tôi, Chúa Giêsu sẽ là gì?” Thói quen đặt câu hỏi trong tất cả mọi công việc của mình làm đã khiến ngài không tránh né một hy sinh nào, vì ngài biết rõ việc mình đang làm và tâm tình mà Thiên Chúa muốn trao gửi vào công việc ấy qua bàn tay thánh thiện của ngài. Ngài yêu thương các bệnh nhân, đặc biệt là các bệnh nhân nghèo cách đặc biệt, yêu như Chúa đã yêu họ vậy. Gioan như gắn cuộc sống của mình với họ, họ đau mình cũng đau, họ thiếu vắng tình yêu, mình phải đem tình yêu đến và trao cho họ như là điều Thiên Chúa muốn và đã làm vậy. Sống mật thiết với Thiên Chúa trong tất cả con người của ngài đã tạo nên nơi ngài một đức ái bao la ngay từ lúc còn trẻ, thể hiện trong các công việc phục vụ bệnh nhân với tâm tình yêu thương và hy sinh mà rất nhiều người cảm phục và mến mộ.

Gioan Thánh Giá rất thích cuộc sống khó nghèo, và sự nghèo túng khủng khiếp không bao giờ lay chuyển được tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa. Ngài luôn dùng những khúc ca tạ ơn Chúa vì đã cho ngài biết ngài phải sống và cư xử cách nào. Vì vậy, ngài hành động khác thường trên những người xung quanh, giải thoát họ khỏi những việc hư hỏng tạo cho họ một lòng yêu thích hy sinh. Sự thánh thiện của ngài vượt quá nhiều người và trở nên khó hiểu, công cuộc canh tân cải tổ nhà dòng của ngài (cùng với Thánh nữ Têrêxa Avila) bị người khác cho là nổi loạn và đã trừng phạt ngài. Người ta đối xử cứng rắn với ngài, ba lần mỗi tuần họ đưa ngài tới nhà cơm và đánh đập không nương tay. Nhưng ngài cảm thấy đang đi đúng con đường của Chúa muốn, và tạ ơn Chúa vì đã chịu được hạ nhục và chịu được khổ cực. Những bắt bớ làm tăng thêm đức tin và lý tưởng của ngài. Đáp lại, ngài yêu mến nhiều hơn và trong hầm tối thiếu khí trời, ngài dệt nên những vần thơ từ đau khổ tạo thành cuốn “thánh ca thiêng liêng” mang phong thái riêng của ngài, tác phẩm của tình yêu và tạ ơn ngài dâng lên Thiên Chúa.

Thánh nhân đã nhận lấy đau khổ để đổi lấy sự trong sạch cho bản thân, thế nhưng ngài lại thương cảm cho những đau khổ của người khác, ngài còn tế nhị hơn với những đau khổ tình thần mà ngài diễn tả đó là “đêm tối của tâm hồn”.Nhưng ngài hiểu rằng, những đau khổ kia thanh tẩy tâm hồn rất nhiều. Ngài từng chia sẻ, chúng ta không thể kết hợp được với Thiên Chúa nếu không có khổ hạnh trong tâm hồn. Khi con người chúng ta đang lo nghĩ, đang suy tư về những danh vọng, những vinh hoa hay vinh quanh cho bản thân, là khi chúng ta chưa có thể kết hợp được với Thiên Chúa, chưa đi vào con đường mà tình yêu phải bước đi. Những đố kị, ghen ghét nhau trong cộng đoàn, trong anh em là những lệch lạc của con đường tình yêu mà ngài dạy. Sự trong sạch phải luôn đi kèm với tình yêu trao ban, cho dù chính bản thân bị thiệt thòi, bị đau khổ, chỉ có thế, chúng ta mới tìm thấy sự trong sạch cho tâm hồn được. Phải luôn đồng cảm với những con người khổ hạnh vì bệnh tật và trao gửi tình yêu của mình cho họ, để giúp họ ngày một nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa ngày đêm đang dành cho họ và không bao giờ ngưng.

“Lạy Chúa, xin cho con chịu khổ hạnh và khinh miệt vì Chúa”. Lời cầu nguyện ấy đã được Thiên Chúa nhậm lời khi mà Thiên Chúa đã ban cho ngài ngày nào cũng được chịu khổ hình, đau khổ, chết trong khiêm hạ và tâm nguyện của ngài đừng là bề trên trong giờ lâm chung. Có bao giờ chúng ta giống thánh nhân chưa? Cầu nguyện xin được đau khổ… điều đó không có nghĩa, ngày hôm nay chúng ta cứ xin cho được chịu đau khổ, chịu khinh miệt, nhưng ngài muốn qua cuộc sống của ngài, chúng ta hãy bắt chước noi theo, luôn tạ ơn Thiên Chúa trong tất cả các hoàn cảnh của cuộc sống, không cầu mong danh vọng, vinh quang cho bản thân, sống khiêm nhu và ngợi khen Chúa mỗi ngày.

Cuộc đời của ngài là một nổ lực quả cảm, dám sống trọn vẹn với tên gọi của ngài : “Gioan Thánh Giá”. Sự điên rồ của thập giá xưa thể hiện nơi Đức Kitô thế nào để nhân loại hứng lấy được tình yêu mà Thiên Chúa ban tặng, thì nay cũng tái diễn lại nơi cuộc sống của ngài như vậy dành cho hết thảy mọi người. Thánh giá, chỉ có những người có đức tin mới có thể chấp nhận được hình hài ô nhục của nó, chẳng phải người Do Thái từng cho đó là sự bỉ ổi, sự xấu xa đó sao? Chỉ có những người trộm cướp, những tên giết người mới bị dùng đến hình phạt này, nhưng Chúa Giêsu đã phải mang lấy hình phạt nhục nhã này, để chúng ta được giải thoát, được trở về với Chúa Cha và để minh chứng cho tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Gioan đã không sợ khi nhận lấy cái tên mới của mình, cái tên của “sự điên rồ thế gian” – Gioan Thánh Giá, để cũng mang vào mình bao sự bất công, dò xét, đánh đập mà những người khác dành cho mình. Thế nhưng, hoàn cảnh nào đi nữa, ngài luôn sống với một tâm tình của Tình yêu – Tạ ơn – Hy sinh. Thánh Gioan Thánh Giá cũng mời gọi chúng ta mỗi ngày cùng bước vào những chặng đường của hành trình tìm kiếm Đức Kitô, từ bỏ bản thân hay những ảo tưởng của mình bằng cách sống nhiệm nhặt và thật lòng khiêm nhường, cam chịu đau khổ thiệt thòi. Cuộc đời của ngài đã chứng minh cho chúng ta rằng đau khổ làm cho linh hồn chúng ta tinh khiết, ví tựa như thanh củi được đốt trong lò sưởi, lửa cháy thiêu đốt là làm tan nát thanh củi nhưng tạo nên được ngọn lửa hồng rực sáng.

Không am tường được hết ý nghĩa và tâm tình của ngài nơi cuộc đời cũng như những tác phẩm của ngài để lại nếu chúng ta không đi sâu vào cuộc đời tu hành của Gioan. Suốt cuộc đời tu hành bị anh em đày đọa nhưng không bao giờ oán hận, có lẽ trong thâm tâm Gioan vẫn im lặng chấp nhận với nụ cười nhân ái và tha thứ mà họ không thể nào hiểu được. Chính những hành hạ bất công đó đã làm cho Gioan ngày càng thêm gần gũi với Chúa Tình Yêu hơn. Có bao giờ, chúng ta đã im lặng để suy nghĩ, để học hỏi ngài về những nhân đức mà ngài đã sống chưa?

Lạy Thánh Gioan Thánh Giá, xin giúp chúng con từ bỏ con người, từ bỏ cái tôi tội lỗi thấp hèn của chúng con để sống cuộc sống vì Thiên Chúa, vì cộng đoàn và vì anh em xung quanh chúng con. Xin cũng cho chúng con luôn biết chấp nhận hy sinh, đau khổ vì tình yêu, vì lòng yêu mến như ngài đã từng sống và dạy chúng con. Trên Thiên quốc, xin hãy ngày đêm để mắt đến những công việc chúng con đang làm cũng như những gì chúng con đang suy nghĩ… Xin cho chúng con biết học đòi được nhân đức bác ái của ngài, để qua cuộc sống hôm nay của chúng con, nhiều người cũng nhìn ra Thiên Chúa là tình yêu nữa.
Francis John Mary MG

https://dongcatminh.org/gioan-thanh-gia-tinh-yeu-va-hy-sinh/

 

Thánh Gioan Thánh Giá

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI – Huấn Từ Triều Kiến Chung Thứ Tư 16/2/2011

Bài 132 Giáo Lý Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền 138 bài

  

 

 

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Hai tuần trước tôi đã trình bày về vị đại thần bí gia Tây Ban Nha Teresa of Jesus. Hôm nay, tôi muốn nói về một vị thánh quan trọng khác của mảnh đất này, một người bạn thiêng liêng của Thánh Teresa, một cải cách nhân, và như Thánh Teresa, cũng là phần tử của gia đình Dòng Carmelo, đó là Thánh Gioan Thánh Giá, vị thánh được Đức Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1926 công bố là một trong những vị tiến sĩ của Hội Thánh, và là vị theo truyền thống được nói đến như là “Vị Tiến Sĩ Thần Bí – Doctor Mysticus”.

 

Thánh Gioan Thánh Giá được sinh ra vào năm 1542 tại một khu làng nhỏ Fontiveros, gần Avila, ở Castilla la Vieja, con của ông bà Gonzalo de Yepes và Catalina Álvarez. Gia đình của ngài rất nghèo vì người cha, thuộc giòng quí tộc Toledo, bị tẩy chay khỏi gia đình và không cho hưởng gia tài bởi đã ông đã lập gia đình với Catalina, một thợ dệt tơ thường hèn. Cha của Thánh Gioan chết khi ngài còn rất trẻ, và vào năm lên 9 tuổi, Thánh Gioan đã cùng với mẹ và người anh em Phanxicô của mình đến Medina del Campo, gần Valladolid, một trung tâm thương mại và văn hóa.  đây ngài đã theo học "Colegio de los Doctrinos", đồng thời cũng thi hành các việc làm thấp hèn cho các nữ tu thuộc tu viện nhà thờ Magdalen.

 

Về sau, nhờ phẩm chất nhân bản và thành quả học vấn của mình, đầu tiên ngài được nhận làm y tá ở  Hospital of the Conception rồi  Học Viện các Cha Dòng tên vừa được thiết lập  Medina del Campo. Thánh Gioan vào nay name 18 tuổi và học các khoa về xã hội, hùng biện và các ngôn ngữ cổ điển trong vòng 3 năm. Vào cuối những ngày đào luyện của mình, ngài đã cảm thấy ơn gọi của mình rất rõ ràng, đó là sống đời tu sĩ, và trong số nhiều dòng tu hiện hữu  Medina bay giờ, ngài cảm thấy ơn gọi vào Dòng Carmelo.

 

Vào mùa thu name 1563, ngài bắt đầu thời gian tập sinh của mình giữa các tu sĩ Dòng Carmelo của thành phố ấy, với tên tu sĩ là Mathêu. Năm sau ngài được gửi đến Đại Học Salamanca danh tiếng, nơi ngài học Triết Lý và Nghệ Thuật 3 năm. Vào name 1567, ngài thụ phong linh mục và trở về Medina del Campo để cử hành Thánh Lễ mở tay với đầy những thong mean của gia đình ngài.


Chính ở nơi nay đã xẩy ra cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Thánh Gioan và Teresa of Jesus. Cuộc gặp gỡ này là cuộc gặp gỡ quan trọng cho cả hai vị: Thánh Teresa phác họa dự án của mình để canh tân Dòng Carmelo cho cả ngành nam nữa, và đề nghị Thánh Gioan cộng tác thực hiện “cho Thiên Chúa được vinh quang hơn”. Vị linh mục trẻ này cảm thấy được thu hút theo các ý nghĩ của Thánh Teresa cho đến độ trở thành một đại trợ tá viên của dự án này. Cả hai đã làm việc với nhau mấy tháng trời, chia sẻ với nhau các tư tưởng và dự thảo để sớm bao nhiêu có thể mở nhà đầu tiên cho các Đan Sĩ Carmelo Đi Chân Không (Discalced Carmelites). Việc khai trương này xẩy ra vào ngày 28/12/1568, ở Duruelo, một địa điểm hiu quạnh ở địa hạt Avila.

 

Nhờ Thánh Gioan, cộng đồng nam giới đầu tiên được hình thành với 3 đồng bạn khác. Khi tái khan dòng theo Luật Primitive, cả 4 vị đã nhận những tên mới: Thánh Gioan bay giờ gọi mình là Gioan “Thánh Giá”, một danh xưng sau này ngài được oàn vũ biết đến. Vào cuối name 1572, theo yêu cầu của Thánh Teresa, ngài trở thành vị giải tội và đại diện của Đan Viện Nhập Thể ở Avila là nơi Thánh Teresa là đan viện mẫu. Các vị có những năm tháng hợp tác chặt chẽ và thân hữu thiêng liêng giúp cho nhau trở nên phong phú hơn. Trong giai đoạn này các tác phẩm quan trọng nhất của Thánh Teresa và những bản văn đầu tiên của Thánh Gioan được viết ra.

 

Việc thiết tha canh tân Dòng Carmelo không trôi chảy xuôi may dễ dàng, thậm chí nó còn gây đau khổ trầm trọng cho Thánh Gioan nữa. Sự vụ thê thảm nhất đó là việc ngài bị bắt và giam giữ vào năm 1577 ở tu viện của các tu sĩ Dòng Carmelo Giữ Luật Cũ ở Toledo, gây ra bởi một cáo buộc bất chính. Vị thánh ở trong tù 6 tháng trời, chịu đựng thiếu thốn và kiềm chế về thể lý cũng như luân lý. Ở nay ngài đã sáng tác, trong số các bài thơ, thi phẩm nổi tiếng “Ca Khúc Linh Thiêng - Spiritual Canticle”. Sau heat, vào đêm 16 rạng 17 tháng 4 năm 1578, ngài đã có thể thoát thân một cách mạo hiểm liều lĩnh, trú ẩn ở đan viện các Đan Sĩ Carmelo Đi Chân Không của thành phố này. Thánh Teresa và các đồng bạn của Thánh Gioan đã heat sức vui mừng cử hành việc thoát thân này của Thánh Gioan, và sau một thời gian ngắn để lấy lại sức khỏe, Thánh Gioan được sai đến Andalucia, nơi ngài đã sống 10 năm ở mấy tu viện, nhất là ở Granada. Ngài đã càng ngày càng nắm giữ các chức vụ quan trọng trong hội dòng, từ từ trở thành vị đại diện tỉnh dòng, và hoàn thành việc biên soạn các luận đề về đời sống thiêng liêng.

 
Sau đó ngài trở về quê quán của mình, như một phần tử của việc tổng quản trị gia đình tu trì Thánh Teresa, một gia đình bấy giờ đã được toàn quyền tự lập. Ngài đã sống tại Đan Viện Carmelo ở Segovia, thi hành vai trò làm bề trên của cộng đồng này. Vào năm 1591, ngài đã được thôi hết tất cả mọi trách nhiệm để nhắm tới một Tỉnh Dòng tu trì mới ở Mễ Tây Cơ. Trong khi sửa soạn cho cuộc hành trình dài này với 19 đồng bạn, ngài đã rút về một tu viện quạnh hiu gần Jean, nơi ngài trở bệnh nặng.

 

Ngài đã phải đương đầu những khổ đau khủng khiếp một cách thanh thản và nhẫn nại đầy gương sáng. Ngài đã chết vào đêm ngày 13 rạng 14 Tháng 12 năm 1591, trong khi các an hem của ngài đang nguyện Kinh Ban Mai. Ngài đã giã từ họ khi nói rằng: “Hôm nay tôi về Trời hát Kinh Phụng Vụ”. Di hài của ngài được đưa về Segovia. Ngài được Đức Clemente X phong chân phước vào năm 1675 và được Đức Benedict XIII phong thánh năm 1726.

 

Thánh Gioan được coi như là một trong những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Tây Ban Nha. Những tác phẩm quan trọng nhất của ngài gồm có 4 cuốn sau đây: “Lên Núi Cát Minh - Ascent of Mount Carmel”, “Đêm Tối Linh Hồn - Dark Night of the Soul”, Ca Khúc Linh Thiêng - Spiritual Canticle”, và “Lửa Sống Yêu Thương - Living Flame of Love".

 

Trong cuốn “Ca Khúc Linh Thiêng”, Thánh Gioan trình bày con đường thanh tẩy của linh hồn, tức là việc gia tăng hoan hỉ chiếm hữu Thiên Chúa cho tới khi linh hồn cảm thấy rằng nó kính mến Thiên Chúa bằng chính tình yêu nó được Ngài yêu thương.

 


Cuốn “Lửa Sống Yêu Thương” tiếp tục chiều hướng này, diễn tả chi tiết hơn cuộc hiệp nhất biến đổi với Thiên Chúa. Thí dụ được Thánh Gioan sử dụng là thí dụ về ngọn lửa: khi lửa cháy và đốt củi tì nó trở thành ngọn lửa rực sáng thế nào thì Thánh Linh cũng vậy, Đấng trong thời gian đêm tăm tối thanh tẩy và “rửa sạch” linh hồn, sau đó, qua thời gian, soi chiếu và sưởi ấm linh hồn như một ngọn lửa. Sự sống của linh hồn là việc liên tục cử hành của Thánh Linh, để con người có thể thấy được vinh quang của mối hiệp nhất với Thiên Chúa trong cõi vĩnh hằng.

 

 

Cuốn “Lên Núi Cát Minh” trình bày cuộc hành trình thiêng liêng theo chiều hướng của cuộc thanh tẩy tiến triển của linh hồn, cần thiết để tiến lên đỉnh trọn lành Kitô giáo, được biểu hiệu bằng đỉnh Núi Cát Minh. Việc thanh tẩy này được nêu lên như một cuộc hành trình con người trải qua, hợp tác với tác động thần linh trong việc giải thoát linh hồn khỏi tất cả mọi thứ dính bén hay quyến luyến ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Cuộc thanh tẩy này, một cuộc thanh tẩy tiến đến chỗ hiệp nhất với Thiên Chúa, cần phải là một cuộc thanh tẩy toàn diện, bắt đầu với đường lối của các giác quan và tiếp tục với cuộc thanh tẩy chiếm được nhờ ba thần đức - tin cậy mến – đó là cuộc thanh tẩy về ý hướng, ký ức và ý muốn.

 

 

Cuốn “Đêm Tối” diễn tả khía cạnh “thụ động”, tức là khía cạnh Thiên Chúa nhúng tay can thiệp vào tiến trình “thanh tẩy” của linh hồn. Thật vậy, tự mình, nỗ lực của loài người không thể vào tận căn gốc sâu xa của những xu hướng và thói quen xấu xa: Nó có thể kềm chế chúng nhưng không thể làm cho cúng hoàn toàn bật gốc. Để làm điều ấy cần đến tác động đặc biệt của Thiên Chúa, tác động thanh tẩy tâm linh  một cách toàn diện và sửa soạn nó cho xứng với cuộc hiệp nhất yêu thương với Ngài. Thánh Gioan diễn tả việc thanh tẩy này là ‘thụ động” chính là vì, mặc dù được linh hồn chấp nhận, nó được hiện thực bởi tác động mầu nhiệm của Thánh Linh, Đấng là một ngọn lửa, thiêu đốt hết mọi ô nhơ. Trong tình trạng ấy, linh hồn phải trải qua tất cả mọi thứ thử thách, như thể nó ở trong đêm tăm tối vậy.

 


Những nhận định này về các tác phẩm cính của vị thánh này giúp chúng ta tiến đến những điểm nổi bật trong giáo huấn về thần bí bao rộng và sâu xa của ngài, một giáo huấn có mục tiêu bày tỏ cho thấy con đường vững chắc để đạt tới sự thánh thiện, đến tình trạng trọn lành Thiên Cúa kêu gọi tất cả mọi người chúng ta. Theo Thánh Gioan Thánh Giá, hết mọi sự hiện hữu, được Thiên Chúa dựng nên đều tốt lành. Nhờ các tạo vật, chúng ta có thể khám phá ra Đấng đã lưu lại dấu vết của Ngài nơi chúng. Tuy nhiên, đức tin là nguồn duy nhất được ban cho con người để họ nhận biết Thiên Chúa chính xác như Ngài là, như Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi. Tất cả những gì Thiên Chúa muốn truyền đạt cho con người Ngài đều nói nơi Chúa Giêsu Kitô, Lời hóa thành nhục thể của Ngài. Chúa Giêsu Kitô, Đấng là đường lối duy nhất và tối hậu đến cùng Cha (cf. John 14:6). Bất cứ một sự gì khác được tạo dựng nên chẳng là gì so với Thiên Chúa, và không một sự gì chân thực ngoài Ngài ra. Bởi thế, để có được một tình yêu Thiên Chúa trọn hảo, hết mọi tình yêu khác cần phải nên giống như tình yêu thần linh trong Chúa Kitô.

 

Đó là điểm xuất phát ra việc nhấn mạnh của Thánh Gioan Thánh Giá về nhu cầu cần phải được thanh tẩy và trống rỗng nội tâm để được biến đổi trong Thiên Chúa, Đấng là cùng đích duy nhất của sự trọn lành. Cuộc “thanh tẩy” này không phải là ở chỗ chỉ thiếu thốn về thể lý các sự vật hay việc sử dụng chúng. Trái lại, những gì linh hồn tinh tuyền và tự do làm đó là loại trừ đi hết mọi sự lệ thuộc lệch lạc vào các sự vật. Hết mọi sự cần phải được đặt trong Thiên Chúa như là tâm điểm và là cùng đích của đời sống. Tiến trình thanh tẩy dài lâu và khó khăn này đòi hỏi sự cố gắng của con người, nhưng vai chính thực sự vẫn là Thiên Chúa: tất cả những gì con người có thể làm đó là “phó mình”, là cởi mở trước tác động thần linh và đừng gây trở ngại cho tác động thần linh này.

 

Khi sống các thần đức, con người được thăng hoa và cống hiến giá trị cho nỗ lực của mình. Nhịp điệu gia tăng của đức tin, đức cậy và đức mến là những gì song hành với việc thanh tẩy cũng như với một hiệp nhất gia tăng với Thiên Chúa cho tới khi họ được biến đổi trong Ngài. Khi người ta tiến đến đích điểm ấy, thì linh hồn được chìm ngập vào chính sự sống của Ba Ngôi, tới độ Thánh Gioan khẳng định rằng linh hồn có thể yêu mến Thiên Chúa bằng chính tình yêu Thiên Chúa yêu thương linh hồn, vì Ngài yêu thương nó trong Thánh Linh. Đó là lý do tại sao Vị Tiến Sĩ Thần Bí này chủ trương rằng không có vấn đề hiệp nhất yêu đương với Thiên Chúa nếu không đạt đến tột đỉnh nơi cuộc hiệp nhất Ba Ngôi. Ở trong tình trạng cao cả này, linh hồn thánh hảo biết hết mọi sự trong Thiên Chúa và không còn phải qua tạo vật để đến với Ngài nữa. Bấy giờ linh hồn cảm thấy tràn ngập tình yêu thần linh và hoàn toàn hoan lạc trong tình yêu này.

 

Anh chị em thân mến, cuối cùng vấn nạn còn lại là: Vị thánh giảng dạy về thần bí cao cả này, về đường lối gian khổ để đạt đến đỉnh trọn lành này, phải chăng muốn nói với chúng ta một điều gì đó, nói với thành phần Kitô hữu bình thường sống trong các oàn cảnh của cuộc đời ngày nay, hay ngài chỉ là một mẫu gương, một mô phạm cho một ít linh hồn được tuyển chọn có thể thực sự thực hiện đường lối thanh tẩy này, đường lối tiến lên huyền nhiệm ấy? Để có thể thấy được câu trả lời, trước hết chúng ta cần phải nhớ rằng đời sống của Thánh Gioan Thánh Giá không phải là một “chuyến bay ngang qua các đám mây huyền nhiệm”, mà là một cuộc đời rất khó nhọc, rất thực tế và cụ thể, vừa là một con người cải cách hội dòng đến gặp phải nhiều chống đối, và vừa là bề trên tỉnh dòng, bị giam giữ bởi anh em dòng ngài, bị những xỉ nhục không thể nào tưởng tượng nổi cũng như việc đối xử tàn tệ về thể lý. Nó là một đời sống khó nhọc, thế nhưng, chính trong những tháng ngày ở trong tù ngục ấy, ngài đã viết một trong những tác phẩm tuyệt vời nhất của mình. Nhờ đó chúng ta mới có thể hiểu được rằng đường lối với Chúa Kitô, bước đi với Chúa Kitô là “Đường Lối” không phải là một đè nén chồng chất lên trên gánh nặng vốn đã đủ, mà là một cái gì hoàn toàn khác hẳn, nó là một thứ ánh sáng, là một thứ sức mạnh giúp chúng ta có thể mang vác gánh nặng ấy.

 

Nếu một người có tình yêu cao cả trong Ngài thì tình yêu này như cống hiến cho họ đôi cánh, và họ chịu đựng những trục trặc trong đời sống một cách dễ dàng hơn, vì họ có trong chính mình một thứ ánh sáng là đức tin: được Thiên Chúa yêu thương và để mình được yêu thương bởi Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Tác động để mình được yêu thương này là ánh sáng giúp chúng ta mang vác gánh nặng hằng ngày của mình. Thánh thiện không phải là công việc của chúng ta, là công việc khó khăn của chúng ta, mà đúng ra nó chính là “sự cởi mở”, ở chỗ mở ra các cánh cửa sổ của linh hồn để ánh sáng của Thiên Chúa có thể lọt vào bên trong, đừng lãng quên Thiên Chúa, vì chính lúc cởi mở trước ánh sáng của ngài linh hồn có được sức mạnh cũng như niềm vui của kẻ được cứu chuộc. Chúng ta hãy cầu cùng Chúa để Ngài giúp chúng ta tìm thấy sự thánh thiện ấy, đó là việc hãy để mình được Thiên Chúa yêu thương, một ơn gọi của tất cả mọi người chúng ta cũng là việc cứu chuộc thực sự vậy. Cám ơn anh chị em.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/2/2011

 

 

Thứ Tư


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 45, 6b-8. 18. 21b-26

"Trời cao, hãy đổ sương mai!"

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chính Ta là Chúa, và không có Chúa nào khác. Ta đã dựng nên ánh sáng và tối tăm. Ta đã dựng nên hạnh phúc và tai hoạ. Chính Ta là Thiên Chúa đã làm những sự ấy. Trời cao, hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính! Ðất hãy mở ra và trổ sinh Ðấng Cứu Ðộ, và đồng thời sự công chính hãy xuất hiện. Chính Ta là Chúa đã dựng nên loài người. Vì Thiên Chúa, Ðấng đã dựng nên các tầng trời, chính Người đã dựng nên địa cầu, đã tạo ra và làm cho (nó) bền vững. Người không dựng nên địa cầu hoang vu, nhưng đã dựng nên cho người ta ở, chính Người phán: Ta là Chúa và không có Chúa nào khác. Nào Ta chẳng phải là Chúa, và ngoài Ta, còn có Chúa nào khác đâu? Không có Thiên Chúa công bình và cứu độ nào khác ngoài Ta.

Hỡi các người ở tận cùng trái đất, hãy trở lại cùng Ta và các ngươi sẽ được cứu thoát. Vì Ta là Thiên Chúa và không có Chúa nào khác. Ta lấy tên Ta mà thề; lời công chính phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở lại: mọi gối sẽ quỳ xuống trước mặt Ta, và mọi lưỡi sẽ lấy tên Ta mà thề rằng: Nhờ Chúa mà tôi sẽ được công chính và sức mạnh. Người ta sẽ đến cùng Chúa, và mọi kẻ chống đối Người sẽ phải hổ thẹn. Toàn thể dòng dõi Israel sẽ được công chính hoá và được hiển vinh.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14

Ðáp: Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai! Hỡi ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính! (Is 45,8).

Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng ta. - Ðáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh từ trời nhìn xuống. - Ðáp.

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng ta sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúa đến, hãy ra đón Người, chính Người là Hoàng tử Bình an. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 7, 19-23 (Hl 18b-23)

"Hãy thuật lại với Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Gioan gọi hai người trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?" Khi những người này đến cùng Chúa Giêsu, họ thưa Ngài rằng: "Gioan Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Ngài: Ngài có phải là Ðấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?" Ngay lúc đó, Chúa chữa những người khỏi bệnh hoạn tật nguyền và quỷ ám, và cho nhiều người mù được thấy. Ngài đáp lại rằng: "Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy: người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng; và phúc cho ai không vấp phạm vì Ta".

Ðó là lời Chúa.


 

Widow's Son in Nain | JerusalemPerspective.com Online

 

 

Suy niệm

 

 

nhập thể phải đến   


 

   Tại sao có câu hỏi "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?". Theo bài Phúc Âm hôm nay thì đó là do Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, bấy giờ đang bị quận vương Hêrôđê giam trong ngục, đã "gọi hai người trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu" như thếVấn đề quan trọng được đặt ra ở đây là phải chăng vấn nạn này của chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, hay từ các môn đệ của vị tiền hô?

   Chẳng lẽ Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cảm thấy chán nản ở trong tù, vì không thấy Đấng đến sau ngài và quyền năng hơn ngài đến cứu ngài mà ngài có nẩy lên ý nghĩ ngờ vực về Đấng đã được ngài chẳng những tự mình nhận biết (xem Gioan 1:33-34) mà còn giới thiệu cho chung dân chúng (xem Gioan 1:29) cũng như cho riêng môn đệ của ngài (xem Gioan 1:35-36)? 

   Cũng không phải là không có thể xẩy ra với Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này như thế, như đã từng xẩy ra cho vị đại tiên tri Elia mà ngài là hậu thân như một Elia cần phải đến trước, như trong Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước cho biết, một Elia ngày xưa vừa mới làm cho toàn dân Do Thái mở mắt ra mà bỏ thần Baal quay về với Thiên Chúa, lại cảm thấy lo sợ bị bà hoàng hậu vốn tôn sùng vị thần này hăm dọa lấy mạng, đến độ chạy trốn và tỏ ra chán nản (xem Sách Các Vua, quyển 1, đoạn 18 và 19).

   Nếu câu hỏi này không phải của chính Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thì có thể từ các môn đệ của ngài thắc mắc về các công việc Chúa Giêsu làm, những việc làm theo như họ nhận xét có thể không được chính xác với những lời giới thiệu to tát của thày các vị trước kia về một Đấng đến sau, và vì thế nên các vị được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả khuyên họ nên đi tìm chính Đức Kitô mà hỏi, như thành phần lãnh đạo Do Thái xưa đến hỏi ngài có phải là Đức Kitô chăng?

Không cần biết câu hỏi "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?" từ chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả hay từ các môn đệ của ngài, chúng ta chỉ biết rằng, dường như là của chính Thánh Gioan Tẩy Giả, vì trong câu trả lời, Chúa Giêsu có nói rằng: "Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy", và đồng thời cũng có thể là từ các môn đệ của ngài, bởi thế trong câu trả lời của mình, Chúa Giêsu đã tỏ cho họ thấy quyền năng của Người vượt hẳn thày của các vị: "người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng". 

 Vấn đề chính yếu trong bài Phúc Âm hôm nay không phải là câu hỏi "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?" được đặt ra từ đâu mà có, từ chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả hay từ các môn đệ của ngài, nhưng là chính nội dung của câu Chúa Giêsu trả lời, một nội dung được Người vạch ra cho thấy sứ vụ cứu độ của Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, một sứ vụ được thể hiện vào lúc ban đầu như dấu báo Ơn Cứu Độ sắp tới, qua việc Người chẳng những chữa lành phần xác cho dân chúng là thành phần đang trông chờ Người đến ("người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại"), mà còn cứu rỗi cả phần hồn ("kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng").

Phải, Thiên Chúa sai Con của Ngài xuống trần gian là để cứu độ trần gian, bởi Ngài là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Đấng đã tự hứa cứu độ loài người ngay từ ban đầu (xem Khởi Ngyên 3:15) thì Ngài không thể nào không hoàn thành, bằng bất cứ phương cách nào khôn ngoan thượng trí nhất (kể cả chuyện gây ra tai họa), lời hứa của Ngài, Đấng đã dựng nên con người là để cho họ được sống và sống viên mãn chứ không phải chết, như những gì Thiên Chúa đã nói qua miệng Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Chính Ta là Chúa, và không có Chúa nào khác. Ta đã dựng nên ánh sáng và tối tăm. Ta đã dựng nên hạnh phúc và tai hoạ. Chính Ta là Thiên Chúa đã làm những sự ấy. Trời cao, hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính! Ðất hãy mở ra và trổ sinh Ðấng Cứu Ðộ, và đồng thời sự công chính hãy xuất hiện. Chính Ta là Chúa đã dựng nên loài người. Vì Thiên Chúa, Ðấng đã dựng nên các tầng trời, chính Người đã dựng nên địa cầu, đã tạo ra và làm cho (nó) bền vững. Người không dựng nên địa cầu hoang vu, nhưng đã dựng nên cho người ta ở, chính Người phán: Ta là Chúa và không có Chúa nào khác. Nào Ta chẳng phải là Chúa, và ngoài Ta, còn có Chúa nào khác đâu? Không có Thiên Chúa công bình và cứu độ nào khác ngoài Ta".

Bởi thế, muốn được cứu độ, con người cần phải tin tưởng vào Ngài và trông chờ chỉ một mình Ngài mà thôi, như Ngài kêu gọi con người ở đoạn cuối của Bài Đọc 1 hôm nay: 

"Hỡi các người ở tận cùng trái đất, hãy trở lại cùng Ta và các ngươi sẽ được cứu thoát. Vì Ta là Thiên Chúa và không có Chúa nào khác. Ta lấy tên Ta mà thề; lời công chính phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở lại: mọi gối sẽ quỳ xuống trước mặt Ta, và mọi lưỡi sẽ lấy tên Ta mà thề rằng: Nhờ Chúa mà tôi sẽ được công chính và sức mạnh. Người ta sẽ đến cùng Chúa, và mọi kẻ chống đối Người sẽ phải hổ thẹn. Toàn thể dòng dõi Israel sẽ được công chính hoá và được hiển vinh".

Bài Đáp Ca hôm nay bày tỏ tấm lòng của con người hướng về Chúa và mong chờ Ơn Cứu Độ của Ngài, một Ơn Cứu Độ xẩy ra như một cuộc hội ngộ thần linh giữa trời và đất, giữa "lòng nhân hậu và trung thành", giữa "đức trung thành và đức công minh". 


1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng ta. 

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh từ trời nhìn xuống. 

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng ta sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. 


 

 

 

Thứ Năm

 

 

Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 54, 1-10

"Chúa kêu gọi ngươi như gọi người thiếu phụ sầu khổ".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa phán: Hỡi người son sẻ, hãy reo mừng! Hãy vui mừng, hãy hân hoan, hỡi người không sinh nở. Vì con cái người phụ nữ bị bỏ rơi sẽ nhiều hơn con cái người có đôi bạn. Hãy mở rộng trại ngươi ở, hãy giăng trướng nhà ngươi, chớ để chật hẹp; hãy giăng dây cho dài, đóng cọc cho chắc. Ngươi sẽ bành trướng ra bên tả bên hữu, dòng dõi ngươi sẽ được các nước làm gia nghiệp.

Ðừng sợ, vì ngươi sẽ không phải thất vọng, đừng xấu hổ, vì ngươi sẽ quên sự hổ thẹn thời niên thiếu, và nỗi nhục nhã của thời goá bụa, ngươi cũng quên đi. Vì Ðấng thống trị ngươi là Ðấng đã tạo thành ngươi, Danh Ngài là Chúa Thiên Binh; Ðấng Cứu Chuộc ngươi là Ðấng Thánh Israel, Người là Thiên Chúa khắp địa cầu.

Chúa ngươi phán: như người thiếu phụ bị bỏ rơi và sầu muộn, Chúa gọi ngươi. Sao có thể ly dị người vợ trong buổi thanh xuân? Trong một thời gian ngắn, Ta đã bỏ ngươi, nhưng với lượng từ bi, Ta sẽ đón nhận ngươi. Chúa Cứu Chuộc ngươi phán: Trong cơn nóng giận, Ta đã ẩn mặt khỏi ngươi, nhưng trong tình yêu vĩnh cửu, Ta xót thương ngươi. Cũng như trong thời Noe, Ta đã thề rằng nước lụt Noe sẽ không tràn ra trên đất nữa, thì Ta cũng thề rằng Ta sẽ không giận ngươi, không trách ngươi nữa. Chúa thương xót ngươi phán: Dù núi dời, dù đồi chuyển, tình yêu của Ta đối với ngươi không hề thay đổi, và giao ước bình an của Ta luôn vững bền.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11-12a và 13b

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Này đây Chúa đến để cứu dân Người. Hạnh phúc thay những ai sẵn sàng đón rước Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 7, 24-30

"Gioan là sứ thần dọn đường Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi những người Gioan sai đến đi rồi, Chúa Giêsu nói với đám đông về Gioan rằng: "Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc óng ả và đời sống xa hoa thì ở trong cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Chính về ông đã có lời chép rằng: "Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con". Ta nói cho các ngươi biết, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan, nhưng người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông".

Toàn thể dân chúng đã nghe Ngài, cả những người thu thuế đều vâng lời Thiên Chúa, và chịu phép rửa của Gioan. Còn những người Biệt phái và Luật sĩ đã khinh chê ý định của Thiên Chúa, và họ không chịu để Gioan thanh tẩy cho.

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm

 

 

Hôm nay, Thứ Năm Tuần III Mùa Vọng, Bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay là bài Phúc Âm chuyển tiếp rất hay, rất khít khao với Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh (17-24/12). Ở chỗ, chuyển từ Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là vị được sai đến trước sang Đức Giêsu Kitô là Đấng đến sau ngài. 

 

Thật vậy, từ 3 ngày trong tuần cuối cùng của Tuần II Mùa Vọng cho tới hôm qua, Thứ Tư Tuần III Mùa Vọng, chúng ta thấy Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả xuất hiện qua những lời Chúa Giêsu nói trong các bài Phúc Âm khác nhau. Thế nhưng, hôm nay, trước khi bước vào Tuần Bát Nhật trước Giáng Sinh, với những bài Phúc Âm liên quan trực tiếp hướng đến hay dẫn đến biến cố Giáng Sinh, một Đức Giêsu Kitô xuất hiện nơi vấn nạn được các môn đệ của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đặt ra cho Người: "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?", trong Bài Phúc Âm hôm qua, mà còn qua lời khen tặng vị tiền hô của chính mình trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô như xác nhận rằng Người thật sự là Đấng đến sau vị tiền hô, đúng như vị tiền hô đã giới thiệu và báo trước rằng dù là Đấng đến sau nhưng Người lại cao trọng hơn chính vị tiền hô, như chúng ta sẽ thấy ở trong các bài phúc âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho Tuần Bát Nhật trước đại lễ Giáng Sinh (17-24/12).


Nếu để ý chúng ta sẽ thấy, trong khi các bài Phúc Âm cho các Chúa Nhật trong Mùa Vọng thì Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đóng vai chính trong sứ vụ ngài nói về hay làm chứng hoặc giới thiệu Đấng đến sau ngài là Chúa Giêsu Kitô, hay kêu gọi dân chúng dọn đường cho Đấng đến sau ngài, thì ở những bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho các ngày thường trong Mùa Vọng, chẳng hạn trong tuần III này, Chúa Giêsu lại đóng vai chính trong việc nói về Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người. Tại sao vậy?

 

Xin thưa, theo cảm nhận và nhận thức của người viết ở đây, chính vì Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là một trong những tiên tri sát với Người, "tiên tri của Đấng tối cao" (Luca 1:76), "nhận ra Người (xem Gioan 1:33 và Mathêu 3:13-14), làm chứng về Người (xem Gioan 1:34), giới thiệu Người cho cả dân chúng lẫn môn đệ của ngài (xem Gioan 1:29, 36), và là hình ảnh về Người (xem Mathêu 17:10-13), đến độ, nếu dân chúng thật sự tin tưởng vào vị tiền hô này thì mới có thể nhận ra Người là Đấng Thiên Sai, Đấng đến sau nhân vật đến trước mình, Đấng cao trọng và quyền năng hơn vị tiền hô của mình, đúng như vị tiền hô đã xác nhận (xem Gioan 1:27, 30).

 

Sau này Chúa Giêsu còn nói rõ Người, ngoài chứng từ do Người tự chứng về Người, Người còn hai chứng từ nữa, một bởi trời là Cha của Người và một bởi người ta là chính vị tiền hô Gioan Tẩy Giả của Người, một chứng từ tuy không cao trọng bằng chứng từ bởi trời nhưng dù sao vẫn cần thiết, bởi Người là một Vị Thiên Chúa hóa thân làm người, một Ngôi Vị Thần Linh có hai bản tính:

 

"Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Ðấng khác làm chứng về tôi và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gioan, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điêu này để các ông được cứu độ. Ông Gioan là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi" (Gioan 5:31-36).

 

Thật vậy, vai trò của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thật là quan trọng và cần thiết, ở chỗ, theo ý định thần linh cứu độ của Thiên Chúa, ngài cần phải được sai đến trước để dọn đường cho Người là Đấng đến sau, nên chính bản thân của vị tiền hô này cũng đã được thụ thai cách lạ trước Người 6 tháng (xem Luca 1:36), và là vị "còn hơn một tiên tri nữa", như Chúa Kitô đã minh định ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, bởi vì ngài còn là "sứ thần" của Thiên Chúa, một vai trò tương đương với vai trò của sứ thần Gabiên từ trời xuống truyền tin cho thân phụ của ngài (xem Luca 1:19), hay cho thân mẫu của Chúa Giêsu (xem Luca 1:26), vị sứ thần đã được Trời Cao sai đến với dân Do Thái nên đã được chính Thánh Kinh Cựu Ước của dân này tiên báo, như Chúa Giêsu đã trích lại trong lời Người nói về vị tiền hô của mình: "Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con",  là vị được Chúa Kitô trong cùng bài Phúc Âm hôm nay hết lời khen tặng, khen tặng hết lời: "Ta nói cho các ngươi biết, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan, nhưng người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông".

 

Chính vì cần phải tin vào Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được sai đến trước Chúa Kitô mới có thể tin Chúa Kitô mà cuối bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca đã viết cảm nhận của chính bản thân ngài là một trong hiếm nhân vật được linh ứng viết ra Phúc Âm và là cuốn Phúc Âm thứ ba mới quả quyết rằng: "Toàn thể dân chúng đã nghe Ngài, cả những người thu thuế đều vâng lời Thiên Chúa, và chịu phép rửa của Gioan. Còn những người Biệt phái và Luật sĩ đã khinh chê ý định của Thiên Chúa, và họ không chịu để Gioan thanh tẩy cho". Như thế có nghĩa là, chỉ có ai thật lòng khao khát và trông đợi Đấng Thiên Sai, một Đấng Thiên Sai đích thực của Thiên Chúa (chứ không phải của loài người, theo ý riêng hay định kiến của loài người liên quan đến quyền năng về chính trị), mới có thể nhận biết vị "sứ thần" loài người này của Thiên Chúa, nhờ đó mới sẵn sàng "chịu phép rửa của Gioan".

 

Vấn đề then chốt được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Kitô lại cần phải có tiền hô dọn đường? Tự mình Người không thể tỏ mình ra cho dân Do Thái được hay sao?? Xin thưa, theo cảm nhận và nhận thức của người viết ở đây, vì Chúa Kitô là một Vị Thiên Chúa hóa thân làm người, bởi thế, Con Người Lịch Sử Giêsu Nazarét là Thiên Chúa Nhập Thể đây, là Đấng Thiên Sai Cứu Thế đây, nơi thân phận của một con người thuần túy trước mắt thế gian, cần phải đươc một nhân chứng trực tiếp giới thiệu cho chung dân chúng cũng như cho riêng thành phần lãnh đạo và trí thức trong dân, nhờ đó họ mới có thể nhận biết Người, mà nhân vật có thế giá nhất trong dân bấy giờ không ai khác hơn là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, một con người đã khiến chung dân chúng cảm phục và tin theo, mà còn làm cho thành phần trí thức cùng lãnh đạo dân chúng phải thắc mắc tưởng ngài là Đấng Thiên Sai (xem Gioan 1:19-27).

 

Tuy nhiên, ơn cứu độ của Thiên Chúa bao gồm tất cả mọi người, nhất là những con người có vẻ cứng lòng tin, giả hình, cao ngạo như thành phần biệt phái và luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay. Họ mới thật sự đáng thương và cần phải cứu trước hết và trên hết. Phải chăng họ chính là thành phần tiêu biểu trong dân Do Thái được Tiên Tri Isaia nói tới trong Bài Đọc I hôm nay: 1- "son sẻ" không sinh hoa trái bởi đời sống nông cạn thuần hình thức của họ; 2- "chật hẹp" ở chỗ thiển cận theo phán đoán trần gian của họ về những gì Thiên Chúa tỏ ra cho họ, nên họ cần phải "mở rộng" con mắt đức tin để có thể "bành trướng ra bên tả bên hữu" là sống lòng thương xót đối với tha nhân. Lời Chúa qua miệng tiên tri Isaia đã kêu gọi và phấn khích họ như sau:

 

"Ðừng sợ, vì ngươi sẽ không phải thất vọng, đừng xấu hổ, vì ngươi sẽ quên sự hổ thẹn thời niên thiếu, và nỗi nhục nhã của thời goá bụa, ngươi cũng quên đi. Vì Ðấng thống trị ngươi là Ðấng đã tạo thành ngươi, Danh Ngài là Chúa Thiên Binh; Ðấng Cứu Chuộc ngươi là Ðấng Thánh Israel, Người là Thiên Chúa khắp địa cầu. Chúa ngươi phán: như người thiếu phụ bị bỏ rơi và sầu muộn, Chúa gọi ngươi. Sao có thể ly dị người vợ trong buổi thanh xuân? Trong một thời gian ngắn, Ta đã bỏ ngươi, nhưng với lượng từ bi, Ta sẽ đón nhận ngươi. Chúa Cứu Chuộc ngươi phán: Trong cơn nóng giận, Ta đã ẩn mặt khỏi ngươi, nhưng trong tình yêu vĩnh cửu, Ta xót thương ngươi. Cũng như trong thời Noe, Ta đã thề rằng nước lụt Noe sẽ không tràn ra trên đất nữa, thì Ta cũng thề rằng Ta sẽ không giận ngươi, không trách ngươi nữa. Chúa thương xót ngươi phán: Dù núi dời, dù đồi chuyển, tình yêu của Ta đối với ngươi không hề thay đổi, và giao ước bình an của Ta luôn vững bền".

 

 

Phụ Thêm: Tiền Hô Gioan Tẩy Giả - Dấu Báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế

 

Tiền Hô Gioan Tẩy Giả - Dấu Báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế, có thể nói, được chứng thực và tỏ hiện qua tiến trình Phúc Âm trong một thời gian 8 ngày liền, ngay trước Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh (17-24/12).

 

Thật vậy, tiến trình từ Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đến Đấng Đến Sau là Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai Cứu Thế, được Giáo Hội sửa soạn bằng những bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến vị Tiền Hô của Chúa Kitô, vị được chính Chúa Kitô là Đấng Đến Sau nói về như một nhân vật lịch sử đã đến trước của mình, không phải là để Người làm chứng về vị tiền hô của mình, như chính vị tiền hô làm chứng về Người, mà là để chứng thực Thánh Gioan Tẩy Giả quả thực là Vị Tiền Hô của Người, xứng đáng là Tiền Hô của Người, liên quan đến cả bản thân, ơn gọi, cũng như sứ vụ với sứ điệp cùng hoạt động của vị tiền hô này. Đó là lý do, từ Thứ 5 tuần thứ II Mùa Vọng đến hết Thứ 6 tuần thứ III Mùa Vọng (tới Thứ 6 Tuần III Mùa Vọng chỉ khi nào Lễ Giáng Sinh rơi vào Chúa Nhật), ngay trước Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh (17-24/12).

 

Chúng ta có thể thấy được toàn bộ 8 bài Phúc Âm về Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong Mùa Vọng hằng năm của Giáo Hội theo chiều kích Mùa Vọng - Chân Trời Giáng Sinh, nghĩa là theo chiều hướng ngưỡng vọng đến Chúa Kitô Cao Trọng Đến Sau Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, và cũng ngay trong chiều hướng từ Tiền Hô đến Đấng Thiên Sai Cứu Thế này, trước hết, chúng ta thấy được rằng không ai được Chúa Kitô nói đến hay nói về nhiều, (còn hơn là Mẹ Maria hay bất cứ một tông đồ nào nữa), như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhưng từ vị tiền hô này của mình, Người muốn tỏ mình ra Người thực sự là Đấng Đến Sau cao trọng hơn chính Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người, như chúng ta có thể phân tách từng bài phúc âm theo thứ tự sau đây:

 

Phúc Âm Thứ 5 Tuần II Mùa Vọng: "Trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả... chính Gioan là Elia, kẻ phải đến". Qua câu nói này, Chúa Giêsu muốn nói về một con người được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Tiền Hô cho Con Ngài, và vì thế nên con người ấy cần phải xứng đáng với vai trò Tiền Hô của mình, ở chỗ được truyền tin thụ thai cách lạ, được trời cao đặt tên cho, và được tràn đầy Thánh Linh ngay trong lòng mẹ khi mới là một thai nhi 6 tháng tuổi v.v. (xem Luca 1:13,41), những đặc ân xứng hợp với vị Tiền Hô này, như những đặc ân mà người nữ được Thiên Chúa chọn là Mẹ của Đấng Đến Sau ngài cũng cần phải đươc trang bị, xứng là một đệ nhất tạo vật về ân sủng.

 

Phúc Âm Thứ 6 Tuần II Mùa Vọng: "Gioan đến, không ăn không uống...". Bằng câu nói này, Chúa Giêsu muốn nói đến nhân cách và đức hạnh trổi vượt nơi Vị Tiền Hô của Người, một nhân vật không chiều theo khuynh hướng tự nhiên như chung loài người bị nhiễm nguyên tội với bản tính đã bị hư đi, mang mầm mống tội lỗi, với đầy những đam mê nhục dục và tính mê nết xấu, luôn hướng hạ về những gì là trần tục phù du giả dối, và chính đời sống khắc khổ cả về nơi trú ngụ, lẫn thực phẩm và y phục của nhân vật Tiền Hô này như thế, mới có thể và xứng đáng loan báo và phản ảnh Người là Đấng Đến Sau, Đấng đã sống trong hoang địa 40 ngày đêm để chay tịnh (x Mathêu 4:1-11) đã luôn tìm những nơi hoang vắng để cầu nguyện.

 

Phúc Âm Thứ 7 Tuần II Mùa Vọng: "Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ.... Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả". Đến đây Chúa Giêsu xác nhận vai trò của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, ở chỗ, ngài quả thực là Tiền Hô của Người, vì ngài đóng vai Elia cần phải đến trước để dọn đường cho Người là dân Do Thái và lòng dân, như Tiên Tri Elia ngày xưa, vị tiên tri đã làm cho dân Do Thái đã bỏ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ mà ngoại tình với tà thần Baan, mãi cho đến khi được tỏ tường chứng kiến thấy phép lạ nhãn tiền, từ lời chuyển cầu thần thế đầy tin tưởng của vị đại tiên tri Elia này (xem 1 Chư Vương 18:1-40), họ mới có thể trở về với Thiên Chúa.

 

Phúc Âm Thứ 2 Tuần III Mùa Vọng: "Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?" Câu chất vấn này, cũng chính là cầu Chúa Giêsu trả lời cho thành phần trưởng tế và kỳ lão có thẩm quyền ở Đền Thờ Giêrusalem muốn xem Người lấy quyền nào mà dám ra tay thanh tẩy đền thờ, đánh đuổi thành phần buôn bán trong đền thờ đã được họ cho phép, và cho dù họ không dám trả lời cho Người thì họ vẫn không thể nào phủ nhận được sự thật của vấn đề được Chúa Giêsu gợi ý đặt ra cho họ, hoàn toàn vì lợi ích thiêng liêng của họ, sự thật đó là phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chỉ là phép rửa thống hối, "bởi người ta", một dấu chứng thực lòng thống hối của những ai lãnh nhận, như thành phần thu thuế và gái điếm tin vào ngài, và là một cách thức dọn mình xứng đáng để lãnh nhận Phép Rửa tha tội "bởi trời" của Người, sau khi Người Vượt Qua, bằng lòng tin vào Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế.

 

Phúc Âm Thứ 3 Tuần III Mùa Vọng: "Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài". Ở đây, với câu này, Chúa Giêsu muốn nói đến một Tiền Hô "công chính" của Người, một thứ công chính không phải như kiểu giả hình của thành phần biệt phái và luật sĩ Do Thái, mà là một thứ công chính trong chân lý, ở chỗ, ngài chẳng những "không ăn không uống" trong "sa mạc", hơn là ở ngoài đường phố hay chiếm chỗ danh dự nơi các bữa tiệc như thành phần công chính giả hình, mà còn chối bỏ bản thân mình, không phải là Đấng Thiên Sai, hơn là tiếng kêu trong hoang địa, loan báo Đấng Đến Sau cao trọng hơn, đến độ, ngài không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người, đúng như ngài đã công khai tự thú và làm chứng, khi thấy dân chúng bắt đầu kéo đến với Đấng Đến Sau hơn ngài: "Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi" (Gioan 3:30).

 

Phúc Âm Thứ 4 Tuần III Mùa Vọng: "Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy". Câu nói này của Chúa Giêsu nhắn gửi cho Vị Tiền Hô của Người, bấy giờ đang bị quận vương Hêrôđê nhốt vào ngục, ngay từ khi Người bắt đầu công khai thừa tác vụ của Người, không hẳn là Người cho rằng vị Tiền Hô của Người đã tỏ ra hồ nghi về Người là Đấng Đến Sau, Đấng ngài nghe các môn đệ của ngài thuật lại có hành vi cử chỉ cấp tiến, như để cho các môn đệ sống thoải mái chẳng chay tịnh gì, thậm chí để cho họ lỗi luật Ngày Hưu Lễ nữa..., nên ngài cần phải sai hai môn đệ đến chất vấn xem "Người có phải là Đấng phải đến hay chăng?", trái lại, những gì Người nhắn cho ngài, qua các môn đệ của ngài, là cố ý nhắm đến chính các môn đệ của ngài, thành phần cần phải thấy ứng nghiệm những gì thày họ nói về Đấng Đến Sau quyền năng hơn thày họ, ở chỗ Người thương xót chữa lành.

 

Phúc Âm Thứ 5 Tuần III Mùa Vọng: "Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Chính về ông đã có lời chép rằng: 'Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con'". Đến đây Chúa Giêsu nói đến vai trò Tiền Hô của Gioan Tẩy Giả, một vai trò còn cao trọng hơn cả vai trò tiên tri như trong Cựu Ước nữa, hay nói đúng hơn, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chẳng những là vị tiên tri, bởi cũng nói tiên tri, nói về tương lai, về Đấng Đến Sau, mà còn là một đại tiên tri, vì là vị tiên tri duy nhất trong các tiên tri, được báo trước bởi chính vị tiên tri trước ngài là tiên tri Isaia, thậm chí còn hơn thế nữa, ngài còn là chứng nhân của Chúa Kitô, của Đấng Đến Sau, Đấng mà ngài chưa hề gặp hay quen biết để mà làm chứng, như thành phần các tông đồ sau này, nhờ được mắt thấy tai nghe đụng chạm (1Gioan 1:1), nghĩa là được trực tiếp sống với Chúa Kitô 3 năm, (sau khi phản Thày, bỏ Thày và chối Thày), mới có thể nhận biết Người mà làm chứng cho Người, nhất là Vị Tiền Hô còn đóng vai "bạn của chàng rể", giới thiệu chàng rể với cộng đồng dân Chúa nữa, như vị trung gian giữa Cựu Ước và tân Ước vậy (xem Gioan 3:29)

 

Phúc Âm Thứ 6 Tuần III Mùa Vọng: "Gioan là đèn cháy sáng, và các ngươi trong một lúc đã vui mừng vì ánh sáng đó. Nhưng phần Ta, Ta có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan". Câu cuối cùng này, trong loạt 8 bài Phúc Âm liền về Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong Mùa Vọng, của Chúa Kitô cho chúng ta thấy tất cả sự thật về ơn gọi và vai trò Tiền Hô của Thánh Gioan Tẩy Giả, và ý nghĩa cùng mục đích của những gì Người nói về vị Tiền Hô vô tiền khoáng hậu này của Người, trong suốt 7 ngày qua, ở các bài Phúc Âm chúng ta đã theo dõi và phân tích, đó là "Gioan (chỉ) là đèn cháy sáng" thôi, Người mới là "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), Đấng, khi "hóa thành nhục thể" (Gioan 1;14), là "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Gioan 1:5), bởi thế, đúng như Thánh Ký Gioan đã khẳng định trong đoạn mở đầu phúc âm của mình về mối liên hệ bất khả phân ly, nhưng vô cùng cách biệt, giữa vị Tiên Hô Gioan Tẩy Giả với Đấng Thiên Sai Cứu Thế đến sau ngài như thế này: "Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người". (Gioan 1:6-9).

Thế rồi, trong chính Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh (17-24/12), Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả nổi bật này còn được 4/8 bài Phúc Âm trực tiếp trình thuật lại nữa, vì ngài bất khả phân ly với Đấng Thiên Sai Cứu Thể, trong cả mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh của Người, đó là các bài Phúc Âm cho ngày thứ ba trong Tuần Bát Nhật 19/12, ngày thứ năm trong Tuần Bát Nhật 21/12, ngày thứ bảy và thứ tám trong Tuần Bát Nhật là 23 và 24/12, như chúng ta sẽ theo dõi và suy niệm trong từng ngày trong Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh, tức trước Khi "Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta. Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) 

 

 

 

 

Thứ Sáu - Ngày 17/12


Lời Chúa


Bài Ðọc I: St 49, 2. 8-10

"Phủ việt sẽ không cất khỏi Giuđa".

Bài trích sách Sáng Thế.

Ngày ấy, Giacóp triệu tập con cái lại và nói rằng: "Hỡi con cái Giacóp, hãy hợp lại và nghe cha đây. Hỡi nhà Israel, hãy nghe lời cha của các con. Giuđa, anh em con sẽ ca tụng con. Bàn tay con sẽ đè trên ót quân thù; con cái của cha con sẽ phục lạy con. Giuđa là sư tử con, hỡi con của cha, con đã chồm lên bắt mồi, con đã nằm xuống nghỉ ngơi, như giống sư tử đực, tựa nòi sư tử cái, ai dám khiêu khích nó? Phủ việt sẽ không cất khỏi Giuđa, gậy chỉ huy không rời khỏi chân nó, cho đến lúc Ðấng thiên sai ngự đến, là Ðấng chư dân đợi trông".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 3-4ab. 7-8. 17

Ðáp: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người tới muôn đời (x. c. 7).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người xét đoán dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.

2) Núi non đem an hoà cho dân, và nổng đồi mang lại đức công chính. Người bênh chữa kẻ hèn trong dân, và cứu thoát con cái nhóm nghèo. - Ðáp.

3) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.

4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Thượng Trí của Ðấng Tối Cao, Ngài an bài mọi sự cách mạnh mẽ và dịu dàng, xin hãy đến dạy dỗ chúng con con đường khôn ngoan. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 1, 1-17

"Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara bởi bà Thamar; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.

Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.

Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Sala-thiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.

Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.

Ðó là lời Chúa.


 

 

 

Suy niệm


 

Nhập Thể: Gia Ph Đấng Thiên Sai Cứu Thế


Hôm nay, ngày 17 trong tháng 12 trong Tuần III Mùa Vọng, ngày đầu tiên của Tuần Bát Nhật trước đại lễ Giáng Sinh, một thời điểm sẽ kéo dài cho tới Đêm Vọng Phục Sinh 24/12.

 

Phụng niên của Giáo Hội chỉ có 2 đại lễ có Tuần Bát Nhật, đó là Đại Lễ Giáng Sinh và Đại Lễ Phục Sinh, được gọi là Tuần Bát Nhật Giáng Sinh và Tuần Bát Nhật Phục Sinh, kể từ chính ngày của 2 đại lễ này. Tuy nhiên, cũng chỉ có 2 đại lễ này mới có thêm một tuần bát nhật đặc biệt trước chính đại lễ nữa. 

Đúng thế, nếu Đại Lễ Phục Sinh có Tuần Thánh, từ Chúa Nhật Lễ Lá mở màn cho Tuần Thương Khó và Tam Nhật Vượt Qua bao gồm cả chính Chúa Nhật Phục Sinh là 8 ngày, thì Đại Lễ Giáng Sinh cũng có tuần bát nhật trước, kể từ ngày 17/12 đến hết 24/12 hay đến Đêm Vọng Giáng Sinh.

Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh là thời điểm sát với mầu nhiệm và biến cố Giáng Sinh, nên bao gồm những Bài Phúc Âm liên quan trực tiếp đến mầu nhiệm và biến cố Giáng Sinh, vừa hướng đến vừa dẫn đến Giáng Sinh, như chúng ta sẽ thấy. Chẳng hạn Bài Phúc Âm hôm nay về gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế Giêsu Kitô. 

Bài Phúc Âm hôm nay, nghe đọc có vẻ buồn chán, vì trong đó chất chứa toàn là tên với tên, và rất ư là đơn điệu, cứ lập đi lập lại cùng một công thức ngoại trừ thay tên của các nhân vật theo thứ tự được liệt kê trong gia phả. Thế nhưng, về nội dung lại rất ư là quan trọng và bất khả thiếu? Tại sao - vì chính gia phả này là chứng cớ hiển nhiên và hùng hồn nhất cho thấy có một nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét thật, có cha mẹ và tổ tiên trần gian đàng hoàng, chứ không phải là một nhân vật hoang đường, do loài người tạo tĩnh như trong tiểu thuyết hoặc thuộc dã sử. 

Có hai gia phả được hai thánh ký thuật lại, nhưng hoàn toàn ngược chiều nhau. Gia phả thứ nhất được Thánh ký Mathêu ghi lại, và vì Phúc Âm của ngài được viết cho dân Do Thái nên gia phả ngài ghi lại để mở đầu của cuốn Phúc Âm của ngài (1:1-17), tính từ tổ phụ Abraham trở xuống dưỡng phụ Giuse của Chúa Kitô, còn gia phả được Thánh ký Luca thuật lại (3:23-38), và vì Phúc Âm của ngài viết cho dân ngoại, nên tính ngược lại từ chính chúa Giêsu về tới Adong là tổ tông của chung loài người.

Sở dĩ Giáo Hội không chọn gia phả trong Phúc Âm Thánh Luca, cho dù là chu kỳ phụng vụ Năm C, là vì gia phả của vị thánh ký này được liệt kê ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, chứ không phải ngay từ đầu trước khi Chúa Kitô sinh vào trần gian như Thánh ký Mathêu. Vả lại, Chúa Giêsu tuy mặc lấy chung bản tính loài người nhưng lại sinh ra bởi giòng dõi Do Thái, nên cần phải căn cứ vào gia phả liên quan đến huyết thống của Người nơi dân Do Thái, từ tổ phụ Abraham và vương phụ Đavít của Người

Gia phả theo Thánh ký Mathêu trong Bài Phúc Âm hôm nay được chia làm 3 giai đoạn đều nhau, cứ 14 đời một giai đoạn, như chính bài Phúc Âm cho thấy: "Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời". 

   Ngoài chi tiết về đặc điểm có 3 giai đoạn đều nhau này, gia phả theo Thánh ký Mathêu trong bài Phúc Âm hôm nay còn có một đặc điểm khác nữa đó là bao gồm cả nữ giới thay vì chỉ có nam nhân như trong gia phả theo Thánh ký Luca. Mà thành phần nữ giới 5 vị này không phải toàn tòng Do Thái và hoàn toàn thánh đức. Chẳng hạn như 4 trong 5 phụ nữ au đây:

   1- "Bà Thamar", vợ của Giuđa sinh ra Phares, đồng thời bà này cũng chính là con dâu góa chồng của tổ phụ Giuđa, đã đánh lừa để ăn nằm với chính bố chồng của mình vì ông không giữ lời hứa gả đứa con trai thứ ba cho cô (xem Khởi Nguyên 38:1-30);  

 

   2- "Bà Rahab", vợ của Salmon sinh ra Boaz, ông cố tổ của Vua Đavít, vốn là một con điếm thuộc dân ngoại, người đã từng cứu các thám tử của dân Do Thái dò tham Đất Hứa và đang bị truy lùng (xem Gioduệ 2:1-24);  

 

   3- "Bà Ruth", vợ của ông Boaz sinh ra Giobed là ông nội của Vua Đavít, là một người đàn bà xuất thân từ dân ngoại (xem Ruth 1:1-22);  

 

   4- "Vợ của Uria", vợ của Vua Đavít sinh ra Vua Solomon, người đàn bà đã ăn nằm với Vua Đavít khi chồng còn sống khi được vua triệu vào cung (xem 2Samuel 11:1-27).

   Như thế, trong 5 người phụ nữ được liệt kê tên trong gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế này, 2 thuộc dân ngoại và 2 không trong sạch (ngoại tình), đúng hơn là 3 vì có một phụ nữ vừa dân ngoại vừa làm điếm nữa, chỉ có một mình Mẹ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu trọn đời trinh nguyên. Chúng ta có thể đặt vấn đề là tại sao Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa lại được sinh ra bởi một giòng dõi bao gồm những người nữ chẳng những thuộc dân ngoại mà còn không trong sạch nữa? 

   Xin thưa, vì là giòng dõi loài người mắc nguyên tội không thể nào tránh khỏi những gì là xấu xa gây ra bởi mầm mống nguyên tội, và vì thế bản tính bị hư hoại bởi nguyên tội mới cần phải được cứu chuộc bằng việc chính Con Thiên Chúa làm người mặc lấy. Tuy nhiên, chính nhân tính của Người được sử dụng như phương tiện bất khả thiếu để cứu chuộc nhân loại lại hoàn toàn không bị ảnh hưởng huyết thống hư hoại tội lỗi này. Vì Người được thụ thai và hạ sinh bởi một trinh nữ và bởi quyền phép Thánh Linh chứ không phải bởi huyết nhục loài người.

   Bài Đọc 1 hôm nay ghi lại lời tổ phụ Giacóp trước kia qua đời đã nói tiên tri về Giuđa là đứa con trai thứ tư trong 12 người con trai của ông, vì Đấng Thiên Sai Cứu Thế được xuất phát từ chi họ Giuđa này: 

"Ngày ấy, Giacóp triệu tập con cái lại và nói rằng: 'Hỡi con cái Giacóp, hãy hợp lại và nghe cha đây. Hỡi nhà Israel, hãy nghe lời cha của các con. Giuđa, anh em con sẽ ca tụng con. Bàn tay con sẽ đè trên ót quân thù; con cái của cha con sẽ phục lạy con. Giuđa là sư tử con, hỡi con của cha, con đã chồm lên bắt mồi, con đã nằm xuống nghỉ ngơi, như giống sư tử đực, tựa nòi sư tử cái, ai dám khiêu khích nó? Phủ việt sẽ không cất khỏi Giuđa, gậy chỉ huy không rời khỏi chân nó, cho đến lúc Ðấng thiên sai ngự đến, là Ðấng chư dân đợi trông'".

Bài Đáp Ca hôm nay cũng hướng về Đấng Cứu Thế Thiên Sai được gọi là "hoàng tử", một vị hoàng tử hòa bình với một triều đại vô cùng bất tận:

1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người xét đoán dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. 

2) Núi non đem an hoà cho dân, và nổng đồi mang lại đức công chính. Người bênh chữa kẻ hèn trong dân, và cứu thoát con cái nhóm nghèo. 

3) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. 

4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.

  

 

 

 



Thứ Bảy - Ngày 18/12


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: Gr 23, 5-8

"Ta sẽ gây cho Ðavít một mầm giống công chính".

Bài trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Này đây, đã tới những ngày Ta gây cho Ðavít một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan, thực hiện công lý và đức công bình trên đất nước. Những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Israel sẽ được an cư, và chúng sẽ gọi tên Người là "Chúa công bình của chúng ta".

Chúa phán: "Vì thế, đã đến ngày chúng không còn nói được rằng: "Chúa hằng sống, Người đã đưa con cái Israel ra khỏi đất Ai-cập", nhưng chúng nói: "Chúa hằng sống, Người đã đưa dòng dõi nhà Israel ra khỏi đất Bắc"; (và) từ các nước chúng bị Ta phân tán, Ta dẫn đưa chúng về quê hương.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 12-13. 18-19

Ðáp: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người tới muôn đời (x. c. 7).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người xét đoán dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.

2) Người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. - Ðáp.

3) Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Israel, một mình Người làm những việc lạ lùng. Chúc tụng muôn đời vinh danh Chúa, khắp hoàn cầu đầy dẫy vinh quang Người. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Lạy Ðấng Thủ lãnh nhà Israel, Ngài đã ban lề luật cho Môsê trên núi Sinai, xin hãy đến mà ra tay cứu chuộc chúng con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 1, 18-24

"Chúa Giêsu sẽ sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse, thuộc dòng dõi Ðavít".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".

Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.

Ðó là lời Chúa.


 

 

Suy nghiệm Lời Chúa

 

nhập thể trinh nguyên  


Bài Phúc Âm cho ngày 18/12 trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm cho ngày 17/12 hôm qua. Vì bài Phúc Âm hôm qua ghi lại gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế, từ tổ phụ Abraham tới dưỡng phụ Giuse của Người, và hôm nay về chính vị dưỡng phụ Giuse này.


"Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: 'Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội'".


Theo gia phả của Đấng Thiên Sai, như chúng ta đã thấy, trong 5 người phụ nữ được liệt kê, có đến 3 người không trong sạch liên quan đến chuyện xác thịt: 1 con điếm dân ngoại và 2 người vợ ngoại tình, còn 1 người nữa là dân ngoại cũng kể như không trong sạch trước mắt dân Do Thái. Trường hợp của người đàn bà thứ năm là Maria, theo con mắt tự nhiên nói chung, nhất là trước con mắt của người chồng đã đính hôn của nàng là Giuse vốn là một "con người công chính" thì kể như nàng thậm chí còn tệ hơn nữa, vì nàng là người vợ chưa cưới nhưng đã "chửa hoang"!


Chính trong trường hợp này, trường hợp thật sự là bất khả chấp trước con mắt thế gian nói chung và những ai "công chính" nói riêng, như người chồng chưa cưới Giuse của nàng Maria, một con người luôn hết mình coi trọng và hết sức tuân giữ lề luật của Chúa với lương tâm chân chính, thì nàng Maria, đáng lẽ theo luật, cần phải bị tố cáo và bị ném đá chết, như trường hợp của người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình ở Phúc Âm Thánh Gioan (xem 8:1-11).


Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan thượng trí đã cố ý muốn, (chứ không phải làm ngơ để xẩy ra như vậy), câu chuyện tình duyên của hai con người phải nói là thánh thiện nhất loài người được Ngài liên kết trong tình nghĩa vợ chồng đây xẩy ra một cách vô cùng oái oăm oan nghiệt như vậy. Để làm gì? Phải chăng chỉ để khách quan cho thấy rằng: Đấy nhé, Đấng Thiên Sai là Con của Ngài được Ngài sai xuống trần gian hoàn toàn được "thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần", chứ "không phải bởi huyết nhục, bởi ý muốn nhục dục, hay bởi ý muốn của nam nhân" (Gioan 1:13).


Ở đây, ngay trong trường hợp này, chúng ta đã thấy được bóng thánh giá của Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, ở chỗ, vừa mới được thụ thai được ít lâu, khoảng hơn 3 tháng, tức sau biến cố thai mẫu của Người đi thăm viếng người chị họ Isave về (xem Luca 1:56), đã bị coi như là một đứa "con hoang" trước mắt trần gian, cùng với người mẹ đồng công của Người, cũng bị coi như là một người vợ chưa cưới "cha hoang" theo cảm nghĩ của người đời.


Thế nhưng, chính vì là việc của Thiên Chúa, mà cho dù nàng Maria có linh cảm được cái nguy hiểm gây ra bởi những bất hạnh theo luật có thể xẩy ra cho nàng, vì trong thời gian đính hôn, có những lúc nàng không thể nào tránh né được chuyện gặp mặt vị hôn phu chưa cưới của nàng, nàng vẫn nhất định không hề đính chính hay tự vệ tí nào, trái lại vẫn tiếp tục hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, như nàng đã tin tưởng đến độ vô cùng liều lĩnh khi đáp lời truyền tin của thiên sứ Gabiên trong việc chấp nhận thụ thai "Con Đấng Tối Cao... Con Thiên Chúa" (Luca 1:32,35).


Quả thật, vì là việc của Thiên Chúa, nên chính Ngài đã ra tay can thiệp cho Con của Ngài cũng là cho người nữ đã được Ngài tuyển chọn từ đời đời làm người mẹ trinh nguyên thụ thai, cưu mang và hạ sinh Con của Ngài trên trần gian, như được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại. 


Việc Thiên Chúa can thiệp đây đồng thời cũng là việc Thiên Chúa muốn cứu cả vị hôn phu chưa cưới của người mẹ đồng công và là vị dưỡng phụ tương lai của người con cứu chuộc này, một con người công chính đã có một quyết định, theo chủ quan, thật là bác ái yêu thương, mặc dù, theo khách quan, vẫn có thể nguy hại cho người vợ chưa cưới của ngài, ở chỗ, khi nàng sinh con mà lại không thấy chồng nàng đâu, nàng cũng bị ném đá chết thôi.


Và như thế, tất cả những gì được tiên báo về hai mẹ con được Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã tiền định cùng nhau mang lại Ơn Cứu Độ cho trần gian (xem Khởi Nguyên 3:15) hoàn toàn được ứng nghiệm, chẳng những nh lòng tin của người mẹ mà còn nhờ đức công chính theo tinh thần bác ái yêu thương hơn là duy luật của vị dưỡng phụ nữa, một cặp vợ chồng thật lý tưởng của Con Thiên Chúa làm người, như được Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:


"Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: 'Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta'. Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu".

 

 

Thật vậy, câu Phúc Âm trên đây là câu chính yếu và quan trọng nhất trong bài Phúc Âm hôm nay, một câu mạc khải thần linh về một Vị Thiên Chúa xuống thế làm người được sinh ra bởi một trinh nữ, chứ không phải bởi một người nữ bình thường, một người nữ làm vợ và ăn ở với chồng theo tự nhiên. Đó là lý do Mẹ Maria là người nữ mới đóng vai chính trong bài Phúc Âm này: trước hết, "Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần", sau nữa, Mẹ là nhân vật được lời tiên tri nói tới chứ không phải Thánh Giuse: "Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu".

 

 

Chính vì lời tiên tri Isaia báo trước về người trinh nữ làm mẹ của Vị Thiên Chúa làm người như thế mà Phúc Âm đã có những chi tiết ăn khớp chặt chẽ với lời tiên báo này. Ở chỗ, vì Con Thiên Chúa được sinh ra bởi một trinh nữ, nên đầu bài Phúc Âm mới có chi tiết: "trước khi về chung sống với nhau", và ở cuối bài Phúc Âm mới có thêm chi tiết "nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng", một chi tiết thứ hai cho thấy Mẹ Maria thật sự trinh khiết cả sau khi đã thụ thai Lời Nhập Thể nữa, chứ không phải thụ thai xong lại có liên hệ sinh dục tự nhiên với chồng của mình.

 

 

Tuy nhiên, chính vì chi tiết thứ hai lợi hại này "không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng", mà anh chị em Tin Lành cho rằng Mẹ Maria chỉ đồng trinh khi thụ thai Con Thiên Chúa thôi, còn sau khi sinh rồi thì mất trinh, vì sau đó Phúc Âm quả thực còn nói đến một số anh chị em của Chúa Kitô nữa (xem Mathêu 12:46-50). Giáo Hội Công Giáo, qua Công Đồng Laterano năm 649, tin rằng Mẹ Maria đồng trinh cả trước, đang và sau khi sinh con, nghĩa là trọn đời đồng trinh. Nếu Mẹ Maria còn sinh con thì những người con không phải là Chúa Giêsu và sau Chúa Giêsu là con người thuần túy chứ không phải là Thiên Chúa làm người như Người. Như vậy Mẹ Maria sẽ phải mang nặng đẻ đau như một người đàn bà bình thường vướng mắc nguyên tội, trong khi Mẹ Maria duy nhất vô nhiễm nguyên tội. Một đàng họ không tin Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, đàng khác, họ lại chấp nhận một con người tội lỗi như Mẹ Maria, một con người bị làm tôi cho ma quỉ như họ vì vướng mắc nguyên tội, thực sự đã trở thành Mẹ của Chúa Giêsu Kitô là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14). Hoàn toàn mâu thuẫn: một tội nhân như Mẹ Maria làm sao có thể xứng đáng về cả tư cách lẫn khả năng để làm mẹ của "Con Đấng Tối Cao" (Luca 1:32), làm mẹ của "Con Thiên Chúa" (Luca 1:35), làm mẹ của "Đấng không hề biết đến tội lỗi" (xem 2Corinto 5:21), làm mẹ của Vị Thiên Chúa vô cùng chí thánh chí tôn hóa thân làm người chứ!?!

 

 

Ngoài ra, anh chị em Tin Lành cũng không tin Mẹ Maria đồng trinh đang khi sinh con, tức đang khi Mẹ sinh hạ Chúa Giêsu, bởi thế mới xẩy ra trong các cuốn phim họ trình chiếu về cảnh Giáng Sinh, Mẹ Maria chẳng khác gì một người mẹ trần gian, cũng quằn quại sinh con, cũng được ông chồng Giuse đỡ đẻ cho vợ.... Nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người, được thụ thai bởi Phép Chúa Thánh Thần mà lại sinh ra như một con người thuần túy thì có xứng đáng với phẩm vị của một vị Thiên Chúa hay chăng, của một Ngôi Vị Thần Linh hay chăng? Và nếu được sinh ra một cách tự nhiên như mọi con người trần gian thuần túy như vậy thì Con Thiên Chúa sẽ không còn hay không cần phải được thụ thai bởi quyền phép của Thánh Thần nữa.

 

 

Chưa hết, một khi Mẹ Maria đã được thụ thai, cưu mang Con Thiên Chúa, thì bản thân Mẹ nói chung và thân xác của Mẹ nói riêng đã trở thành đền thờ ngự trị của Thiên Chúa, nơi không thể nào bị tục hóa, hay đã trở thành ngai tòa Chúa ngự, không một người đàn ông nào trên trần gian này có thể nhẩy lên ngồi vào đó. Vả lại, Mẹ Maria chí thánh tự bản chất "đầy ơn phúc" (Luca 1:28) tràn đầy thánh đức, có một vẻ đẹp uy nghi linh thánh, khiến con người nói chung và nam nhân nói riêng, gần Mẹ hay nhìn thấy Mẹ cảm phục Mẹ hơn là gợi dục, và Thánh Giuse "là một con người công chính" lại càng kính phục Mẹ hơn ai hết, không thể nào có những thèm muốn xác thịt khi nhìn thấy dung nhan của Mẹ hay thân mình của Mẹ.

 

 

Là con người vướng mắc nguyên tội, luôn xu hướng hạ, với đầy những đam mê nhục dục nên con người có xu hướng tục hóa tất cả những gì con người không làm được, dù là những gì Thiên Chúa làm được (xem Luca 1:37) như trinh nữ thụ thai và sinh con ở trường hợp Mẹ Maria! Đó là lý do trong Mùa Vọng, lời tiên tri Isaia, được lập lại bởi vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là "hãy dọn đường của Chúa - prepare the way of the Lord", hơn là dọn đường cho Chúa. Bởi Chúa đi con đường của Chúa, là nhập thể bởi một trinh nữ, một con đường đã bị con người vướng mắc nguyên tội theo xu hướng tự nhiên hèn hạ bóp méo làm cho cong queo ngoằn nghèo lồi lõm trồi lên lõm xuống theo ý nghĩ, ý thích và ý riêng của họ, ở chỗ biến Vị Trinh Nữ Mẹ của Người thành một người đàn bà vướng mắc nguyên tội, một người đàn bà bất xứng làm Mẹ của Người..., và chính vì thế, vì không đi đúng "đường của Chúa" mà là con đường của họ, mà họ đã không gặp được Chúa, không thấy được vinh hiển của Người! Như một dân Do Thái cho tới nay vẫn trông đợi Đấng Thiên Sai của họ chứ không phải của Thiên Chúa.


Biến cố và sự kiện Đấng Thiên Sai Cứu Thế xuất hiện trên trần gian này không thể nào không xẩy ra, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa với hai nguyên tổ ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15). Bởi thế, không có gì có thể gây trở ngại hay làm hỏng chuyện này, như trường hợp được Phúc Âm hôm nay ghi lại ở phần đầu. 


Con Thiên Chúa chẳng những được tiên báo sinh ra bởi một trinh nữ mà còn, theo gia phả của mình, từ giòng dõi Vua Đavít nữa, bên dưỡng phụ Giuse của Người cũng thuộc về chính giòng dõi vương đế này, một giòng dõi ám chỉ đến vương quốc bất diệt của Người (xem Luca 1:32-33), đã được Thiên Chúa qua Tiên Tri Giêrêmia nhắc lại trong Bài Đọc 1 hôm nay để trấn an dân Ngài và tác động lòng trông đợi của họ:


"Này đây, đã tới những ngày Ta gây cho Ðavít một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan, thực hiện công lý và đức công bình trên đất nước. Những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Israel sẽ được an cư, và chúng sẽ gọi tên Người là 'Chúa công bình của chúng ta'".


Bài Đáp Ca hôm nay mang một tâm tình trông ngóng hướng về Vị "Thiên Chúa Israel" và về Đấng Thiên Sai được Ngài sai đến như một "đức vua", như một "hoàng tử" để cứu độ những ai đáng thương của Ngài:


1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người xét đoán dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. 


2) Người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. 


3) Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Israel, một mình Người làm những việc lạ lùng. Chúc tụng muôn đời vinh danh Chúa, khắp hoàn cầu đầy dẫy vinh quang Người.