SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Chay Tuần 5

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Chúa Nhật

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Gr 31, 31-34

"Ta sẽ ký kết giao ước mới và Ta sẽ không còn nhớ tội lỗi nữa".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Chúa phán: "Ðây tới ngày Ta ký kết giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa, giao ước này không giống như giao ước Ta đã ký kết với tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi đất Ai-cập; giao ước ấy chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng". Chúa phán: "Ðây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta". Chúa phán: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em rằng: "Ngươi hãy nhìn biết Chúa", vì mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 12-13. 14-15

Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

3) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 5, 7-9

"Người đã học vâng phục và đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời".

Trích thư gởi tín hữu Do-thái.

Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 12, 26

Chúa phán: "Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó".

 

Phúc Âm: Ga 12, 20-33

"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu". Philip-phê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp: "Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha". Lúc đó có tiếng từ trời phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một thiên thần nói với Ngài". Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.

Ðó là lời Chúa.

 

John 12: 20-33

 

Phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật V Mùa Chay tiếp tục hướng về Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô theo dự án cứu độ đầy yêu thương của Cha trên trời. Thật vậy, nếu như trong bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay Năm B, Chúa Giêsu ví mình là đền thờ bị phá nhưng được Người dựng lại nội trong ba ngày, ám chỉ Mầu Nhiệm Vượt Qua, và trong bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm B, Chúa Giêsu ví Người như Đấng bị treo lên để ai tin Người sẽ được sự sống, cũng ám chỉ Mầu Nhiệm Vượt Qua, thì trong bài Phúc Âm Chúa Nhật V Mùa Chay tuần này (Gioan 12:20-33) cũng ám chỉ Mầu Nhiệm Vượt Qua, khi Chúa Giêsu ngấm ngầm ví mình như "hạt lúa mì rơi xuống đất... thối đi" bị mục nát đi để nhờ đó "sinh nhiều bông hạt".  

Chúa Giêsu quả thưc là "hạt lúa miến rơi xuống đất" nơi mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh của Người, và Người cũng đúng là "hạt lúa miến bị mục nát đi" nơi Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Tử Giá của Người, rồi Người còn là hạt lúa miến "sinh nhiều bông hạt" nơi Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người. Mầu Nhiệm Vượt Qua này đã được chính Chúa Kitô xác nhận và khẳng định ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta".

 

Mầu Nhiệm Vượt Qua này của Chúa Kitô đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô cảm nhận và tuyên xưng trong thư gởi tín hữu Do Thái (5:7-9) như sau: "Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người".

 

Nhờ cuộc phục sinh của Người mà loài người tội lỗi nói chung và dân Chúa nói riêng mới chẳng những được cứu khỏi tội lỗi và sự chết mà còn được sự sống và là sự sống viên mãn nữa, nhờ Thánh Thần được Chúa Kitô thông ban cho các tông đồ từ thân xác phục sinh của Người sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết.

 

Đó là lý do, trong bài đọc 1, trích từ Sách Tiên Tri Giêrêmia (31:31-34), "Chúa phán: 'Ðây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta'", một thứ giao ước mới tràn đầy sự sống và Thần Linh: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em rằng: 'Ngươi hãy nhìn biết Chúa', vì mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta", chứ không phải như giao ước cũ, giao ước "sau những ngày đó" - "giao ước Ta đã ký kết với tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi đất Ai-cập; giao ước ấy chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng".

Trong Bài Phúc Âm hôm nay có một câu Chúa Giêsu nói có vẻ khó hiểu và mâu thuẫn, đó là câu: "Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha". Phải chăng câu than lên cùng Cha của mình này của Chúa Giêsu là câu sẽ được Người lập lại trong Vườn Cây Dầu vào Đêm Thứ Năm Tuần Thánh: "Cha ơi, Cha có quyền thực hiện tất cả mọi sự. Xin hãy cất chén này khỏi Con. Nhưng xin cứ ý Cha hơn là ý của Con" (Marco 14:36). Ở Vườn Nhiệt thì Người không được Cha hồi đáp, vì Cha Ngài đã lên tiếng hồi đáp rồi, trong lần Người đang ở giữa dân chúng, bao gồm cả thành phần dân ngoại Hy Lạp muốn gặp Người trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Lúc đó có tiếng từ trời phán: 'Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa'".

Cha Người "đã làm vinh danh" Ngài thế nào hay ở chỗ nào, và "còn làm vinh danh" Ngài ra sao nữa, nếu không phải, trước hết, Ngài "đã làm vinh danh" Ngài trong thời Cựu Ước, qua "giao ước Ta đã ký kết với tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi đất Ai-cập" (Bài Đọc 1), nghĩa là Ngài đã trung thực với những gì Ngài tự động hứa với tổ phụ của dân Do Thái, bất chấp "chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng", xứng với danh xưng "Ta là Ta / Ta là Đấng Có" mà Ngài đã tỏ cho Moisen biết ở bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi (xem Xuất Hành 3:14).

Sau nữa, Ngài "còn làm vinh danh" Ngài nữa, ở giao ước mới, "giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta" (Bài Đọc 1), khi Ngài tuôn đổ Thánh Linh của Ngài xuống trên họ, qua Chúa Kitô Vượt Qua Con Ngài, và nhờ Thánh Linh của Ngài mà họ, tự mình không thể nhận biết Ngài và liên lỉ phản bội Ngài, có thể "mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta" (Bài Đọc 1). Thực tế cho thấy cho đến nay dân Do Thái vẫn chưa nhận biết Ngài nơi Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế Con Ngài. Thế nhưng, tự mình, Ngài đã tôn vinh Ngài bằng cách tỏ hết mình ra nơi Người Con Vượt Qua của Ngài, Người Con trong Bài Phúc Âm hôm nay tuyên bố "đã đến giờ Con Người được tôn vinh", được Cha là Đấng đã sai Người tôn vinh trên cây thập tự giá để Người có thể tỏ hết mình ra "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), nhờ đó Cha của Người được nhận biết là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, là tình yêu vô cùng nhân hậu "cho những ai tín phục Người" (Bài Đọc 2).

 

Đúng thế, Ngài đã làm vinh danh Ngài ở chỗ Ngài đã hoàn toàn được toại nguyện nơi tất cả những gì Con Ngài làm trên trần gian này, Người Con mà Ngài đã hai lần lên tiếng là đẹp lòng Ngài, lần đầu khi Con Ngài chịu phép rửa ở Sông Jordan (xem Marco 1:11) và lần sau khi Con Ngài biết hình trên núi cao (xem Marco 9:7), và Ngài sẽ còn làm vinh danh Ngài nữa ở chỗ Con Ngài chấp nhận uống chén của Ngài, bằng cuộc khổ nạn và tử giá, bởi vì nhờ Con của Ngài mà Ngài có thể tỏ hết bản tính là Tình Yêu vô cùng nhân hậu của Ngài ra cho nhân loại khốn nạn tội lỗi đáng thương, một tình yêu toàn năng mạnh hơn tội lỗi và sự chết, được thể hiện qua việc Ngài làm cho Chúa Kitô Con Ngài bị tay loài người sát hại phục sinh vinh hiển.

 

Thế nhưng, ơn cứu độ của Thiên Chúa thực hiện theo nguyên tắc cho chung tất cả mọi người nhưng trên thực tế chỉ "cho tất cả những kẻ tùng phục Người" mà thôi. Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu mới nói với dân chúng về tiếng Cha của Người vang ra từ trời rằng: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta", nghĩa là làm cho "mọi người" nhận biết Người để được cứu độ, đúng như Thánh Phaolô xác tín và tuyên bố trong bài đọc 2: "Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người", tức là không cho những "ai yêu sự sống mình" mà là những "ai ghét sự sống mình ở đời này", như Chúa Giêsu khẳng định và cảnh báo trong bài Phúc Âm hôm nay.

 

Bởi thế mà bài đáp ca, được trích từ Thánh Vịnh 50, Thánh Vịnh Thống Hối (3-4,12-13,14-15), mới vang lên ở câu đáp như là chính tâm nguyện mà Kitô hữu chúng ta cần dâng lên Chúa trong Chúa Nhật Thư 5 Mùa Chay là: "Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch", nhờ đó, Chúa sẽ không "loại con khỏi thiên nhan Chúa" và "thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con" để "ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ". 

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.

2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.

3) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.

 

 

Thứ Hai


                                                                     

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Thứ Hai


Lời Chúa

                                                                     

Bài Ðọc I: Ðn 13, 1-9. 15-17. 19-30. 33-62 (Bài dài)

"Ðây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.

Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về những kẻ ấy rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Ðến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.

Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hãy mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm".

Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà Susanna và nói: "Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn".

Bà Susanna thở dài và nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!" Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.

Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các người hãy đi tìm bà Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim". Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.

Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa. Hai vị kỳ lão nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng". Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.

Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".

Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này". Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà".

Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: "Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão". Ðaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".

Khi hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: "Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính". Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây chò". Ðaniel liền nói: "Ðúng là ông nói dối. Ðây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông". Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Ðaniel nói với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Ðaniel liền nói: "Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".

Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan.

Ðó là lời Chúa.

 Hoặc đọc bài vắn này: Ðn 13, 41c-62 từ chỗ "họ lên án tử hình cho bà"

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 5ab).

Xướng: 1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b

Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Ga 8, 1-11

"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for john 8, 1-11

 

Suy niệm Năm A

 

Phụng Vụ Lời Chúa cho Thứ Hai Tuần V Mùa Chay (cho những năm mà Chúa Nhật hôm trước không phải là Năm C). Nếu để ý về bố cục của các bài Phúc Âm cho ngày thường trong cả 2 tuần lễ cuối cùng của Mùa Chay, tuần 4 và tuần 5, chúng ta thấy Giáo Hội cố ý sắp xếp các bài Phúc Âm như thế này:

 

1- Toàn là bài Phúc Âm theo Thánh Gioan, và hầu hết là các bài Phúc Âm cho thấy cuộc đụng độ càng ngày càng gay go quyết liệt giữa Chúa Giêsu và thành phần dân chúng nói chung nhất là thành phần trí thức và lãnh đạo Do Thái giáo nói riêng;

 

2- Các bài Phúc Âm của Thánh Gioan được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày thưởng ở 2 tuần cuối Mùa Chay bao gồm 2 yếu tố chính yếu làm nên Thánh Kinh và việc linh ứng Thánh Linh, đó là mạc khải thần linh (nơi Chúa Kitô) và đức tin cứu rỗi (nơi dân Do Thái);

 

3- Qua các bài Phúc Âm của Thánh Gioan ở 2 tuần cuối Mùa Chay này, chúng ta thấy tình trạng đụng độ quyết liệt giữa mạc khải thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai về chính căn tính của Người, với đức tin của thành phần Do Thái giáo vốn tin có một Thiên Chúa chân thật duy nhất trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ;

 

4- Cuộc đụng độ quyết liệt giữa mạc khải thần linh được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai tỏ cho đức tin truyền thống của Do Thái giáo gay go kinh hoàng đến độ họ đã chẳng những không thể nào chấp nhận Người, mà còn ném đá Người và tìm cách sát hại Người;

 

5- Và đó là lý do tột đỉnh của cuộc đụng độ sống còn giữa mạc khải thần linh (được tỏ ra nơi Con Thiên Chúa làm người) và đức tin tuân phục nơi con người (mà dân Do Thái đại diện) là ở Tuần Thánh, được mở ra với Chúa Nhật Lễ Lá, và kết thúc với Tam Nhật Thánh cũng gọi là Tam Nhật Vượt Qua của Chúa Kitô, Đấng khổ nạn tử giá và Phục Sinh vinh quang.

 

Nếu theo dõi kỹ hơn nữa, chúng ta còn thấy Giáo Hội cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho 2 tuần cuối Mùa Chay ở ngày thường như thế này nữa, đó là bài Phúc Âm ở đầu mỗi tuần, bài Phúc Âm ở giữa mỗi tuần và bài Phúc Âm ở mỗi cuối tuần trong 2 tuần này.

 

Nếu bài Phúc Âm ở mỗi đầu tuần (Thứ Hai và Thứ Ba - tuần 4; Thứ Hai - tuần 5) trong 2 tuần cuối này là một câu truyện (đều về ơn cứu độ, cả với dân ngoại vô thần lẫn Do Thái tật nguyền - tuần 4; và với tội nhân - tuần 5), liên quan đến các nhân vật bày tỏ đức tin trước mạc khải thần linh (về lòng thương xót) được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét tỏ ra cho họ, bằng việc Người cụ thể làm cho họ (phép lạ về phần xác - tuần 4; và giải cứu về phần hồn - tuần 5),

 

Thì bài Phúc Âm giữa mỗi tuần trong 2 tuần này toàn là chính lời Người nói về chính bản thân Người, về căn tính của Người, về nguồn gốc của Người, để rồi bài Phúc Âm ở cuối mỗi tuần (Thứ Bảy) cho thấy thành quả hay tác dụng của tất cả những gì Người đã mạc khải trong tuần (tình trạng chia rẽ chẳng những trong dân chúng mà còn cả hội đồng đầu mục Do Thái - tuần 4; chia rẽ chính nội bộ hội đồng đầu mục Do Thái, để đi đến quyết định tiên tri của vị thượng tế là một người chết thay cho toàn dân, một quyết định cuối cùng ngay trước khi tiến vào Tuần Thương Khó và Tam Nhật Vượt Qua).

 

Riêng bài Phúc Âm cho Thứ Hai đầu tuần 5 Mùa Chay hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa cho chúng ta thấy trường hợp của 2 người phụ nữ liên quan đến tội ngoại tình:

 

Trước hết là người phụ nữ ở trong Sách Tiên Tri Đaniên ở Bài Đọc 1, đó là một người vợ đẹp Suzanna, hoàn toàn bị oan ức, nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự đã giải thoát cho nàng khỏi bị chết oan, nhờ đó, qua chàng tiên tri thiếu niên Đaniên, Ngài đã tỏ mình ra cho những ai tham dự vào vụ án ngoại tình này nói chung, đặc biệt cho hai tay quan án bất lương gian dâm âm mưu hãm hiếp nàng bất thành nên vu oan cho nàng để giữ lấy danh dự và uy tín của mình, để họ tin vào Ngài hơn.

 

Sau nữa là người phụ nữ ở trong bài Phúc Âm, người phụ nữ quả thực phạm tội ngoại tình và đã bị bắt quả tang. Nếu chị vô tội mà thành phần luật sĩ và biệt phái dám mang đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng thấu suốt mọi sự thì Người đã chẳng khuyên riêng chị ở cuối bài Phúc Âm rằng "Chị hãy về và từ đây đừng phạm tội nữa". Tuy nhiên, trong khi họ gài bẫy bắt Người bằng con mồi phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình ấy, thì Người lại sử dụng chính gậy ông đập lưng ông.

 

Ở chỗ, Người chẳng những không sa lưới của họ mà còn cứu họ, ở chỗ Người chẳng những cứu cả hồn lẫn xác của nữ tội nhân ngoại tình mà còn cứu cả thành phần công chính tố cáo chị với Người nữa. Thật vậy, Người đã không bất đồng hay đồng tình ném đá chị trước vấn đề được họ đặt ra: đồng ý ném đá thì Người tác hành phản lại với lòng thương xót hằng có nơi Người và vẫn được Người tỏ ra qua các phép lạ Người làm; ngược lại Người cũng chẳng bảo đừng ném đá chị, bằng không Người đã xui họ làm một điều hoàn toàn trái với luật Moisen, như thể Người dung dưỡng tội nhân và chấp nhận tội lỗi. Đằng này, Người dùng chính tội lỗi của chị để mở mắt cho thành phần luật sĩ và biệt phái vốn tự hào mình công chính.

 

Qua ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được Lòng Thương Xót Chúa vô cùng tuyệt vời, qua việc Chúa Kitô giải quyết vấn đề người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đáng bị ném đá chết. Vẫn biết bài Đáp Ca hôm nay am hợp với trường hợp của người vợ duyên sắc được Chúa cứu cho khỏi bị chết vì oan ức ở Bài Đọc 1 hôm nay, nhưng, ý nghĩa và tâm tình của những câu Thánh Vịnh 22 được Giáo Hội chọn đọc hôm nay, vẫn có thể áp dụng và rất thích đáng cho cả trường hợp của chị phụ nữ tội nhân đáng bị ném đá chết lẫn thành phần công chính biệt phái cùng luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay.

1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.

2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.

 

 

(Trong năm C, khi bài Tin Mừng được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Hai hôm nay đã được đọc ở Chúa Nhật, thì hôm nay đọc bài Tin Mừng ngay sau bài hôm nay dưới đây:)

Phúc Âm: Ga 8, 12-20

"Ta là sự sáng thế gian".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".

Những người biệt phái nói: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".

Chúa Giêsu trả lời: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".

Họ nói: "Cha của ông đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".

Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.

Ðó là lời Chúa.

 


Suy niệm Năm C

 

    

nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến

thì Người không phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của nhân loại    


Ngày Thứ Hai trong Tuần V Mùa Chay vẫn tiếp tục với bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu tự làm chứng về Người.

Nếu bài Phúc Âm tuần trước cả dân chúng lẫn thành phần lãnh đạo đều chia rẽ nhau về nguồn gốc của Chúa Kitô thì tuần này Người tự mình chính thức làm sáng tỏ nguồn gốc thần linh của Ngưòi. Nếu tuần trước Người nói Người không tự làm chứng về mình thì tuần này Người không thể không tự làm chứng về Người bởi không ai biết Người bằng chính Người.

Thật vậy, tuần trước,
 các bài Phúc Âm nói chung theo Thánh ký Gioan, cách riêng bài Phúc Âm cho Thứ Năm của tuần trước ấy, Chúa Giêsu đã không tự chứng hay chưa tự làm chứng về Người: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà là minh chứng về mình bằng 3 chứng từ khác nhau liên quan đến bản thân và nguồn gốc của Người: 

1- Chứng từ thần linh liên quan đến Cha là Đấng đã sai Người: "Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực"; 

2- Chứng từ nhân loại liên quan đến Tiền Hô Gioan Tẩy Giả: "Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật"; 

3- Chứng từ Thánh Kinh liên quan đến mạc khải thần linh: "Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống".

Tuần này, ngay ở bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần, Chúa Giêsu bắt đầu chính thức và công khai tự làm chứng về Người và cho Người, vì tự Người và chính Người là "chân lý", là "sự thật" (Gioan 14:6), một chân lý tỏ mình ra như ánh sáng không thể nào không soi chiếu, nên ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay Người đã ngang nhiên và trịnh trọng tuyên bố: "với những người biệt phái rằng: 'Tôi là sự sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".

Tất nhiên, khi Người xưng mình ra như thế, đối với trần gian thì có vẻ như Người khoe khoang, ngạo mạn, nên một giòng điện dương khi chạm phải cùng một giòng điện dương chắc chắn không thể nào không tóe lửa, nghĩa là vì cho Người tỏ ra khoe khoang ngạo mạn như thế mà thành phần bản chất vốn khoe khoang ngạo mạn thính giả của Người bấy giờ là "những người biệt phái" đã không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố của Người: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã biện minh cho việc Người tự làm chứng về Người và cho Người là những gì hoàn toàn chân thực và chính xác, qua chính câu Người trả lời cho thành phần không tin Người và không chấp nhận lời tuyên bố của Người: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".

Thật vậy, nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến thì Người không phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của nhân loại, mà chỉ là một trong thành phần con người thuần túy chúng ta, thành phần thuần nhân cho tới chết cũng chưa hoàn toàn biết mình, bởi thế vẫn liên tục sa ngã phạm tội là những gì sai lạc, không đúng sự thật về bản thân họ cũng như không đúng sự thật Thiên Chúa muốn nơi họ và cho họ, và chính vì thế họ chỉ được giải phóng cho đến khi họ nhận biết sự thật mà thôi (xem Gioan 8:32).

Muốn biết mình thực sự là ai thì con người cần phải biết mình "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu", chứ không phải chỉ biết mình "từ đâu tới" song chẳng biết mình sẽ "đi đâu" là đủ biết mình một cách chân thực và chính xác. Chẳng hạn, theo đức tin của mình, Kitô hữu chúng ta tin rằng, về nguyên ủy, hay nguồn gốc, "từ đâu tới" chúng ta được dựng nên từ hư vô, bởi được Thiên Chúa yêu thương, nhưng trong cuộc sống, về cùng đích "đi đâu" là nơi chúng ta sẽ tới và cần phạt đạt tới, chúng ta lại sống như thể không có đời sau, không có Thiên Chúa, chỉ luôn tìm kiếm và theo đuổi những gì thuộc về hạ giới hợp với xác thịt của chúng ta hơn là Nước Trời và thay vì vĩnh phúc trường sinh bất diệt.

Chúa Giêsu thật sự biết được Người "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu": Người từ Thiên Chúa mà tới, Đấng đã sai Người tới: "Thày từ Cha mà đến và đã đến trong thế gian(Gioan 16:28), và vì thế nơi Người "đi đâu" không còn chỗ nào khác ngoài chính nơi Cha của Người muốn Người tới, nghĩa là Người được sai đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, chứ không phải làm theo ý của Người, đúng như Người đã tuyên bố với người Do Thái: "Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai tôi" (Gioan 6:38). 

Mà ý của Cha là nơi Người phải tới, mà Người phải làm theo và chu toàn đây là gì, chính Người cũng biết rõ ràng và chắc chắn Người mới có thể làm theo đúng và đáp ứng thật: "Ý muốn của Đấng đã sai Tôi đó là Tôi không được làm mất một sự gì Ngài đã ban cho Tôi, trái lại, Tôi phải làm cho nó sống lại trong ngày sau hết" (Gioan 6:39). 

"Ngày sau hết", trong câu Chúa Giêsu nói đến ở đây, chúng ta thường hiểu về ngày tận thế, nhưng ở đây có thể hiểu là chính thời điểm của Người, một thời điểm "viên trọn" (Galata 4:4), thời điểm "sau hết" Thiên Chúa đã tỏ mình ra nơi chính Người là Con của Ngài theo giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái là lịch sử mà mạc khải thần linh đã được Thiên Chúa từ từ tỏ hiện cho đến tột đỉnh nơi Chúa Giêsu Kitô vào thời "sau hết" như Thánh Phaolô viết ở ngày đầu Thư Do Thái của thánh nhân (xem Do Thái 1:1-3).

"Sống lại", cũng trong lời Chúa Giêsu nói ở đây, là "sống lạivào "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) tức là vào "ngày sau hết", một "sống lại" trước hết và trên hết về phần hồn của con người đã bị hư đi theo nguyên tội và từ nguyên tội, một "sống lại" bởi cuộc Vượt Qua của Người, khi Người tỏ hết mình ra để bằng cuộc phục sinh của mình, Người chẳng những chiến thắng tội lỗi và sự chết mà còn thông ban sự sống và Thánh Linh cho chung nhân loại qua Giáo Hội của Người mà đầu tiên ở nơi các tông đồ của Người (xem Gioan 20:21-23).

Về nguồn gốc của Chúa Kitô, tức về xuất xứ của Người "từ đâu đến", đã trở thành sự kiện then chốt và đã từng làm cho dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo của họ nói riêng chia rẽ hết sức trầm trọng, như trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần vừa rồi cho thấy, thì về nơi "đi đâu" của Người hay về việc Người "đi đâu" lại càng là một mầu nhiệm vô cùng bí ẩn, họ làm sao biết được và cũng không thể nào biết được. 

Cho dù Người có nói ra chăng nữa, như Người đã từng tiết lộ cho các môn đệ thân tín của Người ba lần, mà các vị vẫn "không thể nào đến được", hiểu được, đúng như Người đã quả quyết với các vị như đã quả quyết với dân Do Thái (xem Gioan 13:33), chứ chưa nói gì đến chuyện các vị có thể đến được nơi Người "đi đâu", cho đến khi Người đi dọn chỗ cho các vị trở về đón các vị đi với Người (xem Gioan 14:2-3). 

Đó là lý do Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thành phần thính giả của Người biết lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người về chính bản thân Người là Đấng đã biết rõ về mình, "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", chỉ vì: 

"Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".

Trong câu này, Chúa Giêsu chẳng những cho thính giả của Người bấy giờ thấy được lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người là vì họ "xét đoán theo xác thịt" chứ không theo chân lý, mà còn cho họ thấy rằng chứng từ của Người là đúng, vì theo nguyên tắc thì chứng của hai người là chứng thật, và vì thế chứng từ của Người là xác thực bởi cả có 2 người làm chứng là chính bản thân Người lẫn Cha của Người là Đấng đã sai Người làm chứng cùng một điều về Người. 

Và chính vì Chúa Giêsu nại đến Cha của Người là một trong hai người làm chứng về Người nên Người đã được thành phần thính giả của Người thách thức đặt vấn đề: "Cha của ông đâu?", Đấng mà Người đến "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) qua bản thân Người, đến độ "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9), nên Người đã cho thành phần thính giả chất vấn Người về Cha của Người rằng: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".

Bài Đọc 1 hôm nay được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên về câu chuyện của bà Suzanna công chính nhưng bị mang đi ném đá chết bởi bà bị kết án theo luật căn cứ vào chứng từ của 2 người chứng, một chứng từ gian dối nhưng hoàn toàn lấn át lời tự chứng của người phụ nữ nạn nhân đáng thương này, chẳng khác nào như Chúa Giêsu tự làm chứng cho mình mà chẳng ai tin vào Người vậy.

Trước hết là lời chứng của hai nhân chứng, tức là của hai lão già đang giữ vai trò làm thẩm phán trong dân thường sử dụng ngôi nhà rộng rãi sang trọng của vợ chồng bà để xử các vụ kiện cáo của dân chúng, đã âm mưu chiếm hưởng thân xác kiều mỹ hấp dẫn của bà khi bà đang tắm kín đáo một mình trong vườn nhà của bà vào một buổi trưa nóng bức:

"Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng".

Sau nữa là lời chứng của chính đương sự bị tố cáo là bà Suzanna, như Bài Đọc 1 cho biết, "bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa", và khi bị hai tên "thẩm phán kỳ lão" ở Babylon "phải lửa dục mê đắm... mất lương tâm" rình mò bà và bất ngờ tấn công tình dục bà, nhưng bà đã cương quyết chống trả bất chấp số mệnh ra sao thì ra

"Bà Susanna thở dài và nói: 'Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!' Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà".

Thế nhưng, chỉ cần căn cứ vào chứng của hai người, mà hai chứng nhân này lại là hai vị thẩm phán đáng kính có tuổi và có thế trong dân thì người vợ thủy chung với chồng và kính sợ Thiên Chúa chỉ có chết, đến độ dân chúng mù quáng cả tin cả nể chẳng cần nghe bà thanh minh gì cả đã "lên án tử hình cho bà"

Khi bị lên án tử rồi, người đàn bà đáng kính đáng phục này chỉ còn biết kêu đến trời và phó thác mọi sự trong tay Ngài là Đấng bà kính sợ và tin tưởng, Đấng bà đã không sợ chết mà xúc phạm đến Ngài, nhất định không chịu chiều theo ý muốn nhục dục của hai lão già gian ác tồi bại, Đấng duy nhất có thể thấy được tất cả sự thật: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".

Nếu bên đối phương tấn công bà có hai nhân chứng, và như Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay cũng có 2 nhân chứng về Người là chính bản thân Người và Cha của Người, thì người đàn bà nạn nhân vô tội bị oan ức này cũng có đủ 2 nhân chứng, đó là chính bản thân bà, vì bà biết bà hơn tất cả mọi người khác biết về bà, một sự thật về bà đúng như Thiên Chúa là nhân chứng thứ hai biết về bà. Bởi thế, Thiên Chúa cũng đã nhúng tay vào làm chứng về bà, như Bài Đọc 1 cho biết tiếp như sau:

"Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: 'Còn tôi, tôi không vấy máu bà này'. Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: 'Lời mi nói có ý nghĩa gì?' Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: 'Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà'".

Phải, Thiên Chúa đã sử dụng một trang thiếu niên trẻ trung đứng ra xét sử hai lão già thẩm phán trong dân, để chẳng những chứng tỏ cho dân của Ngài thấy rằng: 1- ai tin vào Ngài sẽ được Ngài chở che bênh đỡ, và 2- "bóng tối không thể nào át được ánh sáng" (Gioan 1:5): 

"Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan".

Không biết khi được Thiên Chúa minh oan cho, bà Suzanna đã cảm thấy ra sao, nhưng chắc chắn tâm can của bà đã trải qua một cảm nghiệm thần linh rất sâu xa lạ lùng: "Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương", và từ đó tấm lòng tri ân cảm tạ của bà đã trào dâng lên những tâm tình càng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa hơn: "dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con", đúng như trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. 

2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. 

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. 



 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9

"Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, các người Do-thái rời bỏ núi Hor, theo con đường về phía Biển Ðỏ, để vòng quanh xứ Eđom. Dân chúng đi đường xa mệt nhọc, nên nản chí, kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này".

Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người, họ chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn". Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 101, 2-3. 16-18. 19-21

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa (c. 2).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.- Ðáp.

3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab

Hôm nay các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.

 

Phúc Âm: Ga 8, 21-30

"Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới được".

Người Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói "Nơi Ta đi các ông không thể tới được"?"

Chúa Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các ông".

Vậy họ liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang nói với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng Ðấng đã sai Ta là Ðấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây, chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài".

Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: "Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài". Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào Người.

Ðó là lời Chúa.

 

 


Suy niệm



  Sự Sống nhìn lên    


Chủ đề chung cho Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh là "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng rõ nét trong phụng vụ lời Chúa hôm nay, Thứ Ba trong Tuần V Mùa Chay, bao gồm cả Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.

Ở Bài Phúc Âm, "Tôi tự ý bỏ sự sống của mình đi", ở chỗ, như Chúa Giêsu đã báo trước cho "những người biệt phái rằng": "Khi nào quí vị đưa Con Người lên cao", nghĩa là khi nào quí vị hô hoán đòi "đóng đanh nó vào thập giá, đóng đanh nó vào thập giá" (Luca 23:21; Marco 15:13-15). 

Nhưng "Tôi lấy nó lại", ở chỗ, chính khi quí vị thách đố Tôi xuống khỏi thập tự giá Tôi cũng không xuống (xem Matthew 27:39-43; Mark 15:29-32; Luke 23:35-36) thì lại là lúc quí vị bấy giờ mới biết Tôi thật sự là Đấng Thiên Sai, như Tôi đã nói, Tôi xuống thế gian này là để làm theo ý Cha là Đấng sai Tôi chứ không phải làm theo ý của Tôi (xem Gioan 6:38).

Ở Bài Đọc 1 cũng thế, chủ đề "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" được báo trước ngay trong lời Thiên Chúa phán với Moisen rằng: "'Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống'. Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành".

Hình ảnh "con rắn bằng đồng" có thể chữa lành cho những ai bị "rắn lửa cắn" khi họ nhìn lên con rắn treo lên được đúc bằng đồng ấy ám chỉ Chúa Kitô tử giá, và thành phần bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn bằng đồng được treo lên ấy ám chỉ thành phần tội nhân tin tưởng ("nhìn lên") vào Đấng chịu đóng đanh, bao gồm cả dân ngoại: "Người này quả là một con người vô tội" (Luca 23:47) lẫn dân Do Thái: "Khi đám đông qui tụ lại trước cảnh tượng ấy nhìn thấy những gì đã xẩy ra thì trở về đấm ngực" (Luca 23:48). 

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, tại sao con rắn vốn tiêu biểu cho những gì là độc dữ, đã từng bị chính Thiên Chúa nguyền rủa ngay từ ban đầu sau khi nó là tác nhân gây ra nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:14; Gioan 8:44), mà trong Bài Đọc 1 trích từ Sách Dân Số hôm nay, lại ám chỉ Chúa Kitô tử giá? Phải chăng là vì Thiên Chúa muốn "lấy của độc giải độc", ở chỗ, thương đau và chết chóc gây ra bởi rắn thì chữa lành và sồng còn cũng bởi rắn? 

Thật ra, tự bản thân của mình, Chúa Kitô là chính Con Thiên Chúa, là Đấng vô cùng thánh hảo, không có một chút hèn hạ và xấu xa nhơ nhớp nào, thế nhưng, vì Người cũng chính là Đấng Cứu Thế mà Người đã cần phải "trở nên" "Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Gioan 1:29), để nhờ đó có thể cứu nhân loại nhiễm lây nguyên tội bởi rắn quỉ cắn trong vườn địa đường khỏi tội lỗi và sự chết do chính rắn quỉ gây ra cho bản tính của họ, bằng cách chính Người đã phải "trở thành tội lỗi(2Corinto 5:21) và "bị nguyền rủa" như một tử tội trên thập tự giá (Galata 3:13), nghĩa là Người đã trở nên như một con rắn bằng đồng thôi, chứ không phải rắn thật, một hình tượng tiêu biểu cho tội lỗi và chết chóc.  

Đó là một mầu nhiệm vô cùng thâm sâu con người không thể nào thấu hiểu. Vì theo lập luận của loài người thì Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh hảo và toàn năng không thể nào lại trở thành một con người hay không thể nào làm người vô cùng thấp hèn, bất toàn và bất lực được, chứ chưa nói đến lại còn "trở thành tội lỗi" và "bị nguyền rủa" vô cùng khốn nạn như thế. 

Bởi vậy mà trong bài Phúc Âm hôm nay chính Chúa Giêsu đã vừa khẳng định vừa tiên báo cho "những người biệt phái rằng: 'Tôi ra đi, quí vị sẽ tìm kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Nơi Tôi đi quí vị không thể nào tới được'", tức loài người như họ không thể nào hiểu được, chứ chưa nói gì đến việc chấp nhận được.

Ngay câu Người nói ấy mà họ chưa hiểu nổý nghĩa sâu xa huyền nhiệm của những gì Người muốn nói huống chi khi họ tận mắt chứng kiến thấy sự thật xẩy ra, do đó"Người Do-thái nói với nhau rằng: 'Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói: Nơi Ta đi các ông không thể tới được?"

Mà thật, lý do con người bất khả thấu hiểu mầu nhiệm Chúa Kitô này là vì tầm mức chênh lệnh giữa tạo hóa với tạo vật, và tạo vật không thể nào bằng tạo hóa cùng hiểu được như tạo hóa, khoảng cách biệt hơn trời với đất. Thế nên, Chúa Giêsu đã chẳng những cho họ biết lý do họ không hiểu mà còn cho họ biết nguyên do phạm tội chính khi họ "tìm kiếm" Người nữa, đó là: 

"Quí vị thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Quí vị thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Vì, nếu quí vị không tin Ta, quí vị sẽ chết trong tội của quí vị". 

Thật sự là thế, chính vì "quí vị không tin Ta" mà "quí vị sẽ chết trong tội của quí vị", đúng như Người đã quả quyết và cảnh báo: "quí vị sẽ tìm kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị", ở chỗ, chính khi họ "tìm kiếm" Người bằng cách cuối cùng "nhân danh Thiên Chúa hằng sống", qua vị thượng tế Caipha của họ hỏi Người một cách chính thức và hết sức trịnh trọng có phải là "Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa hay chăng?" (xem Mathêu 26:63) thì họ, sau khi nghe Người cho họ biết tất cả sự thật về Người, lại "chết trong tội" của họ: "Hắn lộng ngôn... Hắn đáng chết... Họ bắt đầu nhổ vào mặt Người" (Mathêu 26:66-67). 

Và sở dĩ họ không tin Người hay tin lời Người nói là vì họ chưa nắm bắt được tất cả sự thật về Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho biết, qua câu họ hỏi Người: "Ông là ai?" Bấy giờ Người chưa tỏ hết mình ra như khi Người phải đối diện với toàn thể Hội Đồng Đầu Mục Do Thái và được thẩm quyền cao nhất của họ hạch hỏi, như trên đây, mà chỉ mới tỏ mình ra một cách xa xa nhưng rất chính xác về Người rằng: "Là Nguyên thủy đang nói với các ông đây!" 

Thế nhưng, Người càng nói, càng tỏ mình ra, họ càng "không hiểu". Bởi vậy, chỉ còn một cách duy nhất là bằng chính cái chết của Người mà thôi: "Khi nào quí vị đưa Con Người lên cao, quí vị sẽ nhận biết Ta là ai". Bởi vì, chỉ có cách ấy mới có thể chứng thực một cách sống động rằng Người quả thực là Đấng Thiên Sai, ở chỗ: "Tôi không tự mình làm điều gì. Ðiều Tôi nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Tôi. Ðấng đã sai Tôi đang ở với Tôi; Ngài không để Tôi một mình, bởi vì Tôi luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài".

Đúng thế, khi Người nói những gì liên quan đến Chúa Cha: "Tôi có nhiều điều phải nói và đoán xét về quí vị, nhưng Ðấng đã sai Tôi là Ðấng chân thật, và điều Tôi nói ra trong thế gian đây, chính là điều Tôi đã nghe biết ở Ngài", thì "họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha", nhưng khi Người nói về chính bản thân Người liên hệ với Chúa Cha, ở chỗ làm theo ý Cha, "thì có nhiều kẻ tin vào Người".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa lời nguyện cầu của một tâm hồn phiền muộn, tiêu biểu cho những ai bị rắn lửa cắn trong Bài Đọc 1 hay thành phần những người biệt phái dầu sao cũng có thiện chí tìm hiểu về Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay, một tâm hồn tìm kiếm Chúa là Vị Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, tỏ mình ta cho con người và muốn cứu độ con người nói chung cùng những ai tin tưởng cậy trông nơi Ngài nói riêng:

1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. 

2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.

3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. 

 

Ngày 23/03: Thánh Turibiô Môngrôvêjô (1538-1606)

Ngày 23/03: Thánh Turibiô Môngrôvêjô (1538-1606)

 

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Turibio Alfonso de Mongrovejo, được sinh ra tại vùng Léon xứ Tây Ban Nha vào khoảng năm 1538; học luật tại Salamanca trước khi trở thành tỉnh trưởng Grenada. Dù được phong thánh từ năm 1726, nhưng việc nhớ đến ngài cũng mới đây thôi.

Thánh Turibio là vị Tông Đồ vĩ đại của Pêru và những vùng Châu Mỹ La Tinh. Đất nước này bị Pizarro chinh phục theo lệnh nhà vua Tây Ban Nha, được vua Philippe II thiết đặt một Tổng Giáo Phận mới tại Lima và Turibio được gọi làm tổng giám mục vào năm 1580, khi ngài còn là giáo dân. Lima được nâng lên thành tòa giám mục vào năm 1541 và thẩm quyền của ngài vươn dài trên tất cả các nước nằm giữa Panama và Rio de La Plata. Địa phận mà ngài lãnh nhận từ năm 1581, trải dài 520 km dọc Thái Bình Dương: đi từ Nicaragua của Paraguay đến Argentina. Từ lúc khởi đầu sứ vụ, thánh Turibio cố gắng triệu tập nhiều Công Đồng và Công Nghị để tạo dựng hàng giáo sĩ và nâng cao nền luân lý của dân chúng, đặc biệt của người Indiens. Ngài những nơi cư trú của dân nghèo địa phương để củng cố họ. Ngài qua đời ngày 23.03.1606 trong một cộng đoàn người Indiens, vào cuối cuộc hành trình mục vụ. Đó là ngày thứ Năm Tuần Thánh. Ngài ao ước trong những giây phút cuối đời, người ta hát cho ngài nghe Thánh Vịnh 115 và 30, có đệm đàn, trong khi người ta giơ Thánh Giá cho ngài. Di hài của ngài được chuyển về Lima vào năm 1607.

2. Thông điệp và tính thời sự

Phụng Vụ gợi lên “những hoạt động Tông Đồ” của thánh Turibio và “tình yêu của ngài đối với chân lý”, đã làm cho Hội Thánh phát triển. Với một lòng can đảm, vị Tân Tổng Giám Mục Lima đảm nhiệm công tác Phúc Âm hóa và canh tân, đối mặt với các gương xấu làm cho sứ vụ của ngài hóa ra khó khăn, cũng như đối mặt với sự kháng cự của chính quyền thực dân và của một số Dòng tu chống lại sự nhiệt tình của ngài. Đối lại với những người kết án ngài cứ theo phong tục, ngài luôn nhắc lại lời của Tertullien: “Đức Giêsu không nói “Tôi là phong tục”, nhưng Người nói “Tôi là chân lý”.

Thánh Turibio rất được người Indiens yêu mến vì ngài nói chuyện với họ bằng ngôn ngữ của họ. Ngài đã thăm viếng mục vụ 3 lần trong địa phận mênh mông. Ngài thành công tái lập lại kỷ luật khi triệu tập 13 công nghị địa phận và công bố các sắc lệnh của Công Đồng miền; trong đó có Công Đồng Lima vào năm 1582-1583, có thể so sánh với Công Đồng Tridentinô đối với Châu Mỹ La Tinh. Ngài cho thấy mức độ tình yêu của mình trong lúc dịch tả hoành hành đến độ dám hy sinh mạng sống mình vì ơn cứu độ cho đoàn chiên.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV đã so sánh thánh Turibio với thánh Charles Borromêô. Thật vậy, sự quảng đại của ngài đã làm cho dân Chúa được lớn dậy trong “một đức tin và một sự thánh thiện luôn tiến triển”, đã làm cho ngài trở thành một mẫu người truyền giáo. Bản văn được trích dẫn trong Phụng Vụ Giờ Kinh, rút từ các Sắc Lệnh của Công Đồng Vaticanô II (Trách nhiệm mục vụ của các giám mục), khuyến khích các giám mục trình bày giáo lý Kitô giáo có sự hoà hợp và luôn phải bảo vệ. Cũng thế, như tài liệu dạy, “trong việc chuyển đạt, các ngài phải xác tín sự lo lắng của Mẹ Hội Thánh đối với mọi người ...Các ngài phải đặc biệt lo cho người nghèo và người bần khổ”. Các điều này đã được thánh Turibio thực hiện cách tuyệt vời, qua việc mình sống cho mọi người, để canh tân Hội Thánh của Pêru. Trong lo lắng để mang đến cho mọi người ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, thánh Turibio đã trở thành hình ảnh của Người Mục Tử nhân lành, hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Ngài nói: “Thiên Chúa sẽ bảo tôi tường trình mọi hoạt động của tôi, nhất là trong việc thực hành sứ vụ. Ích gì khi tôi cứu được nhiều người, mà lại bỏ sót một người vì lỗi của tôi.”

Enzo Lodi (Nguồn:tgpHaNoi)

https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/23-03-thanh-turibio-mongrovegio-giam-muc-le-nho-tuy-chon/

3- Tiểu sử:

Có những trẻ em như đã biết Chúa làm gì, trong khi những người khác lo tìm kiếm. Những trẻ này biết an ủi và giúp đỡ người khác. Chẳng hạn dân Mayorga nước Tây Ban Nha, ngày kia, được thấy một em bé đến bên một phụ nữ đang giận dữ. Bà này mất một vật mà không mong tìm lại. Đứa trẻ nhã nhặn giải thích cho bà rằng: đừng nên làm như vậy bởi vì điều đó làm phiền lòng Thiên Chúa. Đứa trẻ tốt lành và tế nhị này tên là Turibiô, con thứ của lãnh chúa Mongrôvejô.

Ở trường Valladolid rồi ở Salamanca, Ngài thường nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo, Ngài còn muốn thống hối thay cho các tội nhân đến nỗi Ngài bị buộc phải bỏ những hy sinh. Người ta có thể tiên đoán là người sẽ thành một tông đồ bởi Ngài đã biết sống đúng đắn.

Khi đã lớn đủ, cùng với sự khôn ngoan, thông hiểu khá vững chãi, Ngài được vua Philippê II đặt làm chánh án tòa án Granada. Khi địa phận Lima trống ngôi năm 1578, thật ngạc nhiên khi người được chỉ định là một giám mục lại là Turibinô một giáo dân. Nghe tin này, Turibinô khóc ròng, Ngài quì dưới chân thánh giá viết thư cho nhà vua, trong đó Ngài tự diễn tả như một kẻ thù tồi tệ của vua vì những bất xứng của mình. Nhưng các lý lẽ ấy đã không lay chuyển được ai. Ngài thụ phong linh mục rồi giám mục và nhậm địa phận năm 1581.

Địa phận dành cho Turibiô có những khó khăn đến nỗi có thể ngăn chặn Ngài lại nếu Ngài không phải là một vị thánh. Địa phận có chu vi là sáu trăm dặm, gồm nhiều thành phố và làng mạc rải rác trên hai dãy núi Andes.

Người Tây Ban Nha khai phá tân thế giới, ức hiếp dân chúng cách man rợ. Muốn cải hóa bằng roi, họ bắt dân làm nô lệ và muốn khai hóa dân thì họ lại chỉ thông cho dân những tật xấu của mình. Nhìn dân da đỏ say sưa liên lỉ, Turibiô không thể cầm được nước mắt Ngài quở trách những người chinh phục vì những lạm dụng cướp bóc của họ và tuyên cáo rằng: những cớ vấp phạm ấy phải dừng lại cho chân lý và tình thương ngự trị.

Vị mục tử đi tìm kiếm mọi con chiên của mình. Sa mạc nóng cháy, núi cao tuyết phủ, thú rừng hung tợn, tất cả đều không làm Ngài nản chí, những người Tây ban Nha quyền thế trở thành phó vương, rồi đến vua Philippe II, do những báo cáo sai lầm đã trách cứ Ngài. Nhưng tất cả những lề luật nghiêm khắc đó đã không làm cho Ngài tháo lui. Ngài biện hộ rằng: Chính Chúa Kitô chứ không phải thế gian sẽ phán xét Ngài.

Turibiô học ngôn ngữ dân Peru, Ngài dạy dỗ dân da đỏ như một người cha nhân từ. Lòng bác ái nhân từ của Ngài đối với họ không có giới hạn. Khi Ngài tới một làng hẻo lánh, dân chúng đổ xô đến với Ngài. Trước hết Ngài thăm hỏi những người đau yếu và không chữa chạy cho họ được, Ngài dạy cho họ biết chết lành. Khi phân phát tình yêu Chúa Kitô, Ngài cũng tái lập sự công bình. Dần dần các thành phố và cả những nơi cô quạnh có người Kitô hữu cư ngụ đông đảo. Thánh Turibiô thiết lập các chủng viện, các viện cứu tế.

Trong hai mươi lăm năm, Ngài đi thăm viếng giáo phận rộng lớn và hoang dã của mình ba lần, mỗi lần phải mất tới bảy năm. Ngài kiên trì ngồi tòa mỗi sáng. Người ta nói rằng: khi cầu nguyện, Ngài tỏa chiếu từ khuôn mặt một tia sáng siêu nhiên. Mệt nhọc đã là một việc sám hối rồi, Ngài còn hy sinh và ăn chay thêm nữa. Khi có ôn dịch trong giáo phận, Ngài tăng gấp đôi lời cầu nguyện hãm mình, Ngài cũng tổ chức nhiều cuộc rước, khi tham dự chính Ngài rơi lệ uớt cả thánh giá cầm trong tay.

Trong khi bất dầu cuộc kinh lý mớí, Ngài đã ngã bệnh tại Santa, Ngài chỉ biết lập lại lời thánh Phaolô: “Tôi ao ước thoát khỏi những ràng buộc của thể xác để kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô”.

Gần chết Ngài xin những người chung quanh hát lời thánh vịnh: - Tôi vui mừng khi nghe nói cùng tôi: chúng ta đi về nhà Thiên Chúa

Thế là cái chết của Ngài được coi như một thánh lễ. Lời cuối cùng của Ngài là lời chính chúa Kitô: - Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay Chúa. Ngài tự đi tới thánh đường Santa để lãnh các bí tích cuối cùng và kết hiệp với Thánh Thể, Ngài qua đời năm 1606.

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-23-03-thanh-turibio-mogrovejo-giam-muc-1536-1606-53750

 

4- Thánh Turibiô: 400 năm qua đời

SỨ ĐIỆP ĐỨC THÁNH CHA GỬI CÁC GIÁM MỤC PERU

LIMA. Trong sứ điệp gửi các GM toàn nước Peru, ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các giáo phận tại đây hăng say truyền giảng Tin Mừng, theo gương thánh Toribio.

Sứ điệp của ĐTC được gửi tới các GM Peru, công bố ngày 24-4-2006 tại Vatican, nhân dịp mừng kỷ niệm 400 năm qua đời của thánh Toribio de Mogrovejo, TGM giáo phận Lima, bổn mạng hàng GM Mỹ châu la tinh. Các buổi lễ kỷ niệm đã được gửi sự hôm 22-1 năm nay với thánh lễ đồng tế trọng thể của tất cả các GM Peru tại Nhà thờ chính tòa Lima.

ĐTC cũng đã cử ĐHY Nicholas de Jesus Lopez Rodriguez, TGM giáo phận Santo Domingo, làm Đặc Sứ của ngài, chủ sự các lễ nghi kỷ niệm kết thúc, tiến hành từ ngày hôm qua, 24-4, đến 29-4-2006 tại Lima. Đặc biệt có một hội nghị quốc tế tiến hành từ ngày 24 đến 28-4 này về đề tài: ”Thánh Toribio de Mogrovejo: mục tử, thánh nhân và ngôn sứ”.

Thánh Toribio sinh năm 1538 tại tỉnh Leon bên Tây Ban Nha, và tuy là một giáo dân, ngài được vua Filipo II bổ nhiệm làm chánh án pháp tòa điều tra (Inquisition) tại thành phố Granada. 8 năm sau đó, ngài được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Lima, Peru. Ngài thụ phong trước khi lên đường sang nhận giáo phận.

Trong sứ điệp gửi các GM Peru, ĐTC đề cao tấm gương của thánh Toribio xả thân và tận tụy xây dựng và củng cố các cộng đoàn Giáo Hội. Thánh nhân đã triệu tập Công nghị thứ 3 của giáo tỉnh Lima (1582-1583), soạn thảo sách giáo lý, và thành lập Đại chủng viện Lima vẫn còn hoạt động cho đến nay. ĐTC cầu mong chủng viện này tiếp tục mang lại những hoa trái phong phú, trong một thời đại đang cần cấp thiết thăng tiếng ở gọi LM và tu sĩ, để đáp ứng trách vụ kiến tạo các cộng đoàn Kitô..

ĐTC nhắc lại rằng: ”Tinh thần truyền giáo sâu xa của thánh Toribio đã thúc đẩy Người cố gắng học nhiều ngôn ngữ khác nhau để đích thân rao giảng cho mọi người được ủy thác cho sự săn sóc mục vụ của Thánh Nhân. Đồng thời Thánh Toribio cũng chứng tỏ lòng tôn trọng phẩm giá của mọi người, dù họ thuộc giai tầng nào trong xã hội; Người luôn nỗ lực hoạt động để họ cảm thấy mình thực sự là con cái Thiên Chúa” (SD 24-4-2006)

G. Trần Đức Anh OP
 

 

5- “Thánh Turibiô: tấm gương của người mục tử châu Mỹ Latinh”

Bước sang ngày cuối cùng, 21-01, trong chuyến tông du Chilê và Pêru, vào buổi sáng, lúc 10g30, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ các giám mục Pêru tại Tòa Tổng giám mục Lima.Tại cuộc gặp, Đức Thánh Cha chia sẻ với các giám mục Pêru những suy tư về Thánh Turibiô Mogrovejo, Tổng giám mục giáo phận Pêru và là bổn mạng của hàng giám mục châu Mỹ Latinh, tấm gương về một mục tử hết lòng vì đoàn chiên, chuyên chăm “xây dựng sự hiệp nhất của Hội thánh” và không ngừng suy tư, sáng tạo những phương cách truyền giáo mang lại hiệu quả cao nhất. Sau đây là toàn văn huấn từ của Đức Thánh Cha.

Đề tài chuyến tông du này là hiệp nhất và hy vọng. Đề tài này là cả một chương trình tuy đầy thách đố nhưng lại thôi thúc chúng ta, khiến chúng ta nhớ đến những thành tựu đầy quả cảm của Thánh Turibiô Mogrovejo, Tổng giám mục của giáo phận này và là bổn mạng của hàng giám mục châu Mỹ Latinh, tấm gương “xây dựng sự hiệp nhất của Hội thánh”, như Thánh Gioan Phaolô II, vị tiền nhiệm của tôi, đã nói về ngài trong chuyến tông du đầu tiên của ngài đến đất nước này.[1]

Đặc biệt, vị thánh giám mục này vẫn được mô tả là một “Môsê mới”. Như anh em biết, tại Vatican có bức họa Thánh Turibiô băng qua một con sông lớn, nước rẽ ra trước mặt ngài như trong biến cố Biển Đỏ, nhờ đó ngài sang được bờ bên kia, nơi có đông đảo sắc dân bản địa đang đợi ngài. Đằng sau Thánh Turibiô là cả một đoàn người đông đảo, tượng trưng cho đoàn dân trung tín bước theo vị mục tử thực thi sứ mạng Phúc âm hóa.[2] Hình ảnh này có thể dùng làm điểm tựa cho suy tư tôi muốn chia sẻ với anh em. Thánh Turibiô, một con người muốn tới được bờ bên kia.

Chúng ta gặp ngài từ lúc ngài nhận bài sai đến những vùng đất này với sứ mạng làm một người cha và vị mục tử. Ngài rời bỏ sự an toàn của khung cảnh cuộc sống quen thuộc để bước vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ, chưa từng biết đến và đầy thử thách. Ngài lên đường đến vùng đất hứa dưới sự hướng dẫn của đức Tin “một bảo đảm cho những niềm hy vọng” (Dt 11, 1). Đức Tin và sự tín thác vào Chúa đã thôi thúc ngài, khi ấy và suốt quãng đời còn lại, để sang tới bờ bên kia, nơi chính Chúa đang đợi ngài giữa cả một đoàn người đông đảo.

1. Thánh nhân muốn sang bờ bên kia để tìm người xa lạ và kẻ lạc lối. Như vậy, ngài phải bỏ lại đằng sau cuộc sống tiện nghi ở tòa giám mục và ngược xuôi khắp lãnh thổ được trao phó cho mình trong những chuyến đi thăm mục vụ; ngài cố gắng đến thăm và ở lại bất cứ nơi nào đang cần đến ngài! Ngài đi ra gặp gỡ mọi người men theo những con đường, theo lời kể của cha bí thư, dê rừng nhiều hơn người. Turibiô phải đương đầu với khí hậu thất thường và địa hình đủ loại, “trong 21 năm làm giám mục, thì 18 năm sống bên ngoài thành phố, ba lần rảo khắp giáo phận”.[3] Ngài biết đây là cách duy nhất để làm một chủ chăn: sống gần gũi đoàn chiên của mình, ban các bí tích, và không ngừng khuyến khích các linh mục của mình cũng làm như vậy. Ngài không chỉ dùng lời nói, mà còn qua chứng từ, bằng cách đi đầu trong công cuộc Phúc âm hóa. Ngày nay chúng ta có thể gọi ngài là giám mục “đường phố”. Một giám mục mang đôi giày cũ sờn vì cuốc bộ, di chuyển không ngừng, bước ra ngoài để “rao giảng Tin Mừng cho mọi người: ở mọi nơi, trong mọi dịp, không chút chần chừ, miễn cưỡng và sợ hãi. Niềm vui Tin Mừng thì dành cho mọi người: không thể gạt ai ra ngoài”.[4] Thánh Turibiô thấu hiểu điều đó biết bao! Không chút sợ hãi và chần chừ, ngài để mình chìm vào lục địa của chúng ta để loan báo Tin Mừng.

2. Ngài muốn sang tới bờ bên kia không chỉ về mặt địa lý mà còn về phương diện văn hóa. Vì thế, ngài làm nhiều cách để Phúc âm hóa bằng ngôn ngữ của người bản địa. Với Công nghị Lima lần thứ ba, ngài soạn sách dạy giáo lý và dịch sang tiếng Quechua và Aymara. Ngài khuyến khích hàng giáo sĩ học ngôn ngữ của đoàn chiên mình coi sóc để ban các bí tích cho họ cách nào họ hiểu được. Tuy thường thăm viếng và sống với đoàn chiên, nhưng ngài thấy thế vẫn chưa đủ, vì mới chỉ hiện diện bằng thể xác, mà còn phải học ngôn ngữ của mọi người, vì chỉ bằng cách này, họ mới hiểu Tin Mừng và để Tin Mừng chạm vào cõi lòng họ. Đường hướng này cần thiết cho chúng ta biết bao, những mục tử của thế kỷ hai mươi mốt! Bởi vì chúng ta đang phải học những ngôn ngữ hoàn toàn mới, chẳng hạn, ngôn ngữ kỹ thuật số của thời đại chúng ta. Học để biết ngôn ngữ hiện nay của giới trẻ, của các gia đình, của con cái chúng ta… Như Thánh Turibiô, không những phải hiểu rõ, hiện diện và chiếm lĩnh không gian, mà còn phải có khả năng xây dựng phương pháp tiếp cận cuộc sống con người, để đức Tin có thể bén rễ và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Để làm điều đó, chúng ta phải nói được ngôn ngữ của họ. Chúng ta phải đến được những nơi có những câu chuyện và những loại hình mới đang sinh sôi nảy nở, để mang lời Chúa Giêsu đến tận trái tim các thành phố và người dân chúng ta.[5] Việc Phúc âm hóa nền văn hóa đòi hỏi chúng ta phải bước vào tận thâm sâu của nền văn hóa đó, khai sáng nó tận bên trong bằng Tin Mừng.

3. Thánh Turibiô muốn sang tới bờ bên kia của đức ái. Đối với vị thánh bổn mạng của chúng ta, không thể Phúc âm hóa mà không có đức ái. Ngài hiểu rằng hình thức cao nhất của Phúc âm hóa là cuộc sống chúng ta phải noi theo gương Chúa Giêsu tự hiến mình vì yêu thương mọi người nam nữ. Bằng cách này sẽ nhận ra được con cái Thiên Chúa và con cái sự dữ: tất cả những ai không thực hành sự công chính đều không xuất phát từ Thiên Chúa, và những ai không yêu thương anh em, chị em mình, thì cũng vậy (x. 1 Ga 3, 10). Trong những chuyến thăm viếng mục vụ, ngài thấy những lạm dụng và hà khắc mà người bản địa phải gánh chịu, nên vào năm 1585, ngài đã không chùn tay ra vạ tuyệt thông cho viên Corregidor (quan Án sát) ở Catajambo, tự đặt mình vào thế chống lại toàn bộ hệ thống tham quan nhũng lại và cả một mạng lưới lạm quyền, chính vì thế “ngài lãnh đủ sự thù hằn của nhiều người”, trong đó có viên Phó vương.[6]Chúng ta thấy, người mục tử là thế đó, là người hiểu rằng không bao giờ điều tốt đẹp phần hồn lại tách khỏi điều tốt đẹp phần xác, hơn nữa, khi danh dự và phẩm giá con người bị đe dọa. Tinh thần ngôn sứ của vị giám mục là: không sợ tố cáo những lạm dụng và sự hà khắc đối với dân mình. Qua đó, Thánh Turibiô lưu ý toàn thể xã hội và từng cộng đồng rằng đức ái bao giờ cũng đi đôi với công bình. Đồng thời không thể thật sự Phúc âm hóa nếu không vạch trần và lên án mọi tội lỗi chống lại sự sống của anh chị em mình, nhất là những người dễ bị tổn thương nhất.

4. Thánh Turibiô muốn sang tới bờ bên kia trong việc đào tạo hàng linh mục của mình. Ngài thành lập chủng viện đầu tiên theo tinh thần hậu công đồng Triđentinô tại phần đất này của thế giới, nhờ đó đã khuyến khích việc đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ. Ngài nhận thấy việc đi thăm khắp nơi và nói cùng một ngôn ngữ thì không đủ: Giáo hội cần gầy dựng các mục tử người địa phương của mình và từ đó trở thành người mẹ sinh nhiều con cái. Để đạt mục tiêu này, ngài bảo vệ việc truyền chức linh mục cho các mestizos (thổ dân lai da trắng) – một vấn đề gây tranh cãi hồi đó – và tìm cách cho mọi người thấy rằng: nếu hàng giáo sĩ cần phải trổi vượt trong bất cứ lĩnh vực nào, thì vì sống thánh thiện chứ không phải do nguồn gốc chủng tộc.[7] Việc đào tạo này không giới hạn trong việc học hành ở chủng viện, mà còn được tiếp tục qua những cuộc thăm viếng mục vụ không ngừng của ngài. Tại những nơi đến thăm, ngài có thể thấy tận mắt “tình trạng các linh mục của mình” và nói cho họ biết những lưu ý của mình. Người ta thuật lại câu chuyện vào đêm Vọng Giáng sinh, người chị gái tặng ngài một chiếc áo mặc trong các dịp lễ. Ngay hôm đó, ngài đi thăm một linh mục, và thấy hoàn cảnh sống của vị linh mục này, ngài đã lấy chiếc áo vừa được tặng đem biếu vị linh mục.[8] Từng làm cha sở, nên ngài hiểu các linh mục của mình. Vị mục tử cố gắng đi thăm các linh mục, đồng hành, khích lệ và góp ý với các ngài. Ngài nhắc các linh mục nhớ mình là mục tử chứ không phải người trông coi cửa hàng, vì vậy phải chăm sóc và bảo vệ đoàn chiên indios như con mình.[9] Ngài không ngồi bàn giấy mà thực hiện điều đó, nên biết rõ đoàn chiên của mình và đoàn chiên nhận ra tiếng ngài, đó là tiếng của người mục tử nhân lành.

5. Ngài muốn sang tới bờ bên kia của sự hiệp nhất. Với một cách thức đáng khâm phục và mang tính tiên tri, ngài thực hiện việc mở ra các khả năng cho những thành phần khác nhau trong cộng đoàn dân Chúa được hiệp thông với nhau và tham gia vào việc chung. Thánh Gioan Phaolô II đề cập đến việc này khi nói chuyện với các giám mục Pêru; ngài lưu ý: “Công nghị Lima lần thứ ba chính là kết quả của nỗ lực đó, được thánh Turibiô hướng dẫn, khích lệ và chỉ đạo; công nghị mang lại hoa trái dồi dào là sự hiệp nhất trong đức Tin, những chuẩn mực mục vụ và tổ chức, và quan điểm thiết thực về việc hội nhập châu Mỹ Latinh như từng mong ước”[10] Chúng ta biết rất rõ sự hiệp nhất và đồng thuận này đạt được từ một bối cảnh căng thẳng với những xung đột gay gắt. Chúng ta không thể phủ nhận những căng thẳng và khác biệt; cuộc sống không thể không có sự xung khắc. Tuy nhiên chúng đòi hỏi chúng ta, là con người và là Kitô hữu, phải đương đầu và đối phó với chúng. Nhưng để đối phó với chúng trong tinh thần hiệp nhất, trung thực và đối thoại chân thành, mặt đối mặt, thì phải lưu ý đừng rơi vào cám dỗ lãng quên quá khứ, hoặc cứ bị giam cầm trong quá khứ, thiếu tầm nhìn để xem xét những con đường dẫn đến hiệp nhất và hòa bình. Công nghị đó là nguồn mang lại sự khích lệ trong cuộc hành trình của Hội đồng Giám mục chúng ta, để biết rằng sự hiệp nhất luôn chiếm ưu thế so với xung đột.[11] Anh em hãy lưu tâm xây dựng sự hiệp nhất. Đừng giam mình mãi trong những chia rẽ phát sinh bè phái và ngăn cản ơn gọi của chúng ta là trở nên bí tích hiệp thông. Anh em hãy nhớ: sức thu hút của Giáo hội tiên khởi là nhờ các tín hữu yêu thương nhau. Đó chính là – hiện tại và mai sau vẫn là – cách tốt nhất để Phúc âm hóa.

6. Đã đến lúc Thánh Turibiô tới bến bờ cuối cùng, tới miền đất ngài đã nếm trước tại mỗi bờ bến ngài để lại sau lưng. Nhưng lần này, ngài không một mình rời bến. Như trong bức họa tôi đã nhắc đến trên đây, ngài đi gặp các thánh được cả một đoàn người đông đảo vây quanh. Ngài là vị mục tử chất vào “túi xách của mình” các tên tuổi và những gương mặt. Họ là giấy thông hành đưa ngài về trời. Tôi không muốn bỏ qua giai điệu cuối cùng này, giây phút vị mục tử trao linh hồn mình cho Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện điều đó giữa dân mình, rồi một thổ dân tấu lên khúc sáo chirimíagiúp linh hồn ngài được thư thái bình an. Thưa anh em, mong sao lúc chúng ta bước vào cuộc hành trình cuối cùng này, chúng ta cũng được như vậy. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được hồng phúc ấy.[12]

 


Thứ Tư


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ðn 3, 14-20. 91-92. 95

"Người đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ Người".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: "Hỡi Sidrach, Misach và Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng ta đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn, tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp mình thờ lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ cứu thoát các ngươi khỏi tay ta". Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với vua Nabucôđônôsor rằng: "Tâu lạy vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên".

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach, Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và truyền lệnh các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và Abđênagô, và ném vào lò lửa cháy bừng.

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần rằng: "Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?" Các ông trả lời với vua rằng: "Tâu lạy vua, thật có". Vua nói: "Ðây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa". Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: "Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô, Ðấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56

Ðáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).

Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.

2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26

Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời".

 

Phúc Âm: Ga 8, 31-42

"Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: "Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi". Họ thưa lại Người: "Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói "Các ngươi sẽ được tự do"?". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi". Họ đáp lại: "Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu nói: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!" Chúa Giêsu nói: "Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến".

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm

 

 

   Sự Sống về nguồn   

 


Nếu Chúa Nhật Lễ Lá cũng là Chúa Nhật Thương Khó là ngày thứ 40 của Mùa Chay kể từ Thứ Tư Lễ Tro thì hôm nay là ngày thứ 36 của Mùa Chay, Thứ Tư trong Tuần V Mùa Chay.

"Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, cho thấy sắp sửa trở thành hiện thực ở biến cố Vượt Qua của Chúa Kitô trong Tuần Thánh, nhất là Tam Nhật Vượt Qua.

Nếu biến cố tử nạn và phục sinh của Người là tột đỉnh của tất cả mạc khải thần linh, cho chung con người nhất là cho riêng dân Do Thái, thì những gì Người tỏ mình ra cho dân Do Thái, qua lời nói của Người, ở các bài Phúc Âm ngày thường từ Thứ Tư tuần trước, Tuần IV Mùa Chay, cho đến hết Tuần V Mùa Chay này, là dạo khúc tiến đến tột đỉnh mạc khải thần linh ấy, một mạc khải Thiên Chúa tỏ hết mình ra cho loài người biết Ngài là ai và như thế nào nơi Con của Ngài là nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, Đấng bị chính dân của Người phủ nhận, loại trừ và lên án tử!

Thật vậy, bằng lời chứng của mình, Chúa Giêsu đã từ từ tỏ mình ra cho dân Do Thái. Nếu căn cứ vào thứ tự các bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc theo Thánh ký Gioan, thì Người tỏ mình ra từ xa tới gần, rất tài tình, khéo léo và đầy ngoạn mục như sau:

Ở bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần IV Mùa Chay vừa rồi, chính Người khẳng định và tuyên bố rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà ở bài Phúc Âm Thứ Hai đầu Tuần V Mùa Chay này, Người lại khẳng định và tuyên bố hoàn toàn ngược hẳn lại: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".

Để rồi, từ đó, từ chỗ "Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu" như thế, một sự thật vô cùng quan trọng chẳng những đối với phần rỗi của chung loài người và riêng dân Do Thái, mà còn đối với cả chính bản thân của Người nữa. Bởi vì, nếu Người không biết mình là ai, ở chỗ, từ đâu tới và sẽ đi đâu, thì Người quả là một con người thuần túy, không phải là "Đức Kitô (Thiên Sai), Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), và vì thế Người không phải là Đấng Cứu Thế, không có tư cách và khả năng cứu độ trần gian.

Bởi thế, tự biết mình là một mầu nhiệm thần linh siêu việt, cho dù có tỏ mình ra, không một ai trên trần gian này có thể nào hiểu được, kể cả thành phần môn đệ thân tín của Người, huống chi là dân Do Thái, thành phần mà Người đã thừa biết, như Người đã khẳng định với họ về tầm kiến thức thấp hèn hạn hẹp của họ trong bài Phúc Âm hôm qua, rằng "các người thuộc về hạ giới... thuộc về thế gian", nên không thể nào hiểu được Người là Đấng "bởi trời cao".

Thậm chí, cho dù họ có muốn biết, rất muốn biết về Người, nhưng khốn thay, họ càng muốn biết thì họ lại càng vấp phạm, nhất là vào chính lúc họ thấy rõ được tất cả sự thật về Người do chính Người cuối cùng buộc phải công nhận theo câu hỏi dứt khoát về Người bởi lệnh truyền tối thượng của vị thượng tế Caipha đại diện họ thay mặt Thiên Chúa (xem Mathêu 26:63-67), như Người cũng đã khẳng định với họ về số phận của họ trong cùng bài Phúc Âm hôm qua: '"Tôi ra đi, quí vị sẽ tìm kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Nơi Tôi đi quí vị không thể nào tới được". 

Trong bài Phúc Âm Thứ Tư Tuần V Mùa Chay hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục dẫn họ tiến sâu hơn nữa vào mầu nhiệm về Người, liên quan đến nguồn gốc thần linh của Người, khi Người khéo léo đưa họ về lại từ đầu, về chính nguồn gốc thần linh của chính họ, về vị tổ phụ đu tiên của họ là Abraham, người cha đẻ ra dân tộc của họ về tự nhiên, từ đó, Người dẫn họ tới chính Đấng là Cha của họ về siêu nhiên, Đấng đã tự xưng mình với Moisen là vị cứu tinh dân tộc họ, Ngài là "Thiên Chúa của Abraham..." (Xuất Hành 3:6,15).

Trước hết, Chúa Giêsu đã khéo léo đưa dân Do Thái, qua những người đại diện đang nghe Người bấy giờ, về lại từ đầu, thoạt tiên về vị tổ phụ Abraham là người cha đẻ ra dân tộc của họ về tự nhiên: 

"'Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi'. Họ đáp lại: 'Cha chúng tôi chính là Abraham!'" 

Sau nữa, từ người cha về tự nhiên này, Chúa Giêsu đã bí mật và kỳ diệu dẫn họ tới chính Thiên Chúa là Cha của họ về siêu nhiên: 

"'Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!' Họ lại nói: 'Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!' Chúa Giêsu nói: 'Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến'".

Trong câu chuyện đối đáp giữa Chúa Giêsu và thành phần thính giả đại diện cho dân Do Thái bấy giờ liên quan đến nguồn gốc của họ, từ lãnh vực tự nhiên dính dáng đến tổ phụ Abraham, lên lãnh vực siêu nhiên đụng chạm tới chính Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, và cả hai, tổ phụ Abraham và Thiên Chúa, đều được dân Do Thái nhận là cha và gọi là cha: "Cha chúng tôi chính là Abraham!"; "Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!".

Tuy nhiên, lần nào cũng thế, mỗi lần họ khẳng định và công nhận với Người cha của họ là tổ phụ Abraham hay Thiên Chúa, Chúa Giêsu đều công nhận họ nói đúng về lý thuyết nhưng hoàn toàn không đúng về thực tế, bởi vì họ có một thứ "cha" nào đó không phải là tổ phụ Abraham hay Thiên Chúa của họ: "các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi"... "các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!". 

Vậy "cha" của dân Do Thái được Chúa Giêsu nói đến ở đây, không phải là tổ phụ Abraham cũng không phải là Thiên Chúa thì là ai vậy? Phải chăng là Moisen, vị trung gian môi giới giữa họ và Thiên Chúa là Đấng đã ban cho họ lề luật qua Moisen, vị được Ngài chọn và sai đến với họ để giải thoát họ khỏi tình trạng làm nô lệ cho người Ai Cập mà dẫn họ về miền Đất Hứa tự do của riêng họ, được Thiên Chúa hứa ban cho họ qua tổ phụ Abraham của họ, và vì thế vị cứu tinh trung gian môi giới Moisen này đối với họ có thể được họ coi như một người cha đã tái sinh họ từ sự chết vào sự sống?

Rất tiếc không phải như thế, nếu chúng ta tiếp tục đọc thêm một chút nữa, chỉ sau bài Phúc Âm hôm nay 1 câu nữa thôi, tức ở câu 44 cùng đoạn 8 với bài Phúc Âm hôm nay (chấm dứt ở câu 42), chúng ta sẽ thấy ngay chân tướng của thứ "cha" được Chúa Giêsu thực sự muốn nói tới liên quan đến dân Do Thái ở đoạn Phúc Âm hôm nay. Ai vậy? Dạ, xin thưa, đó là "ma quỉ": "Người cha mà các người xuất phát là ma quỉ và các người sẵn sàng làm theo những gì hắn muốn...". 


 
"các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi", Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!"  "các người sẵn sàng làm theo những gì hắn muốn..." đây là gì, nếu không phải là phản kitô, không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt (xem 1Gioan 2:22; 2Gioan 7), như hình ảnh tiêu biểu được Thánh ký Gioan thị kiến thấy trong Sách Khải Huyền (12:4) về môt con khủng long (ám chỉ Luxiphe hay Satan) rình chực trước người nữ sinh con để nuốt con trẻ do người nữ sinh ra (ám chỉ Chúa Kitô, vị Thiên Chúa nhập thể). 


Thật ra dân Do Thái không hế biết như vậy, nhưng chính Chúa Giêsu đã vạch ra cho họ thấy như thế, căn cứ vào việc làm và hành động khách quan của họ. Tự mình họ thuộc về hạ giới và thế gian đã không thể nào hiểu được mầu nhiệm Chúa Kitô, cho dù có được chính Người tỏ ra cho, như bài Phúc Âm hôm qua đặc biệt cho thấy, họ lại còn bị ma quỉ giật giây, chi phối bởi mầm mống nguyên tội ở nơi họ, mầm mống chống đối như ma quỉ, mà họ đã tác hành những gì 
"đã thấy nơi cha các ngươi", "của cha các ngươi!"  "theo những gì hắn muốn...".

Wow, cả là một đụng chạm kinh hoàng, chưa bao giờ xẩy ra... Bởi thế, chúng ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này của họ, và vì vậy, trong khi họ được Chúa Giêsu tiếp tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai), cũng như ở nơi mối liên hệ với chính Thiên Chúa (bài Phúc Âm ngày kia, Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay).

Bài Đọc 1 hôm nay, 3 nhân vật tiêu biểu cho niềm tin của Do Thái giáo là "Sidrach, Misach và Abđênagô" đã chứng tỏ niềm tin bất khuất của mình vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân tộc họ, bất chấp cái chết về thể xác, nhờ đó họ đã làm cho cả vị vua dân ngoại vô thần và thờ tà thần cùng coi mình là thần này ra lệnh giết họ phải nhận biết Thiên Chúa của họ:

"Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần rằng: 'Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?' Các ông trả lời với vua rằng: 'Tâu lạy vua, đúng vậy thật'. Vua nói: 'Ðây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa'. Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: 'Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô, Ðấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ'".

Đức tin bất khuất của 3 chứng nhân trẻ trung này trước mặt quyền bính thế gian bấy giờ, như họ đã hiên ngang tỏ ra: "Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên", thật sự là một đức tin xứng đáng chứng tỏ họ quả là con cháu của tổ phụ Abraham, cha của tất cả những kẻ tin (xem Roma 4:16), một đức tin Chúa Giêsu muốn thấy nhưng rất tiếc không thấy nơi thành phần thính giả của Người bấy giờ trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham!"

Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 về niềm tin tưởng vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Đấng "đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời":

1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. 

2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 

3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 

4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 

5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 




Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I: St 17, 3-9

"Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc".

Trích sách Sáng Thế.

Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng: "Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".

Chúa lại phán cùng Abraham rằng: "Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).

Xướng: 1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.

2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Am 5, 14

Các ngươi hãy tìm điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để các ngươi được sống và Chúa sẽ ở cùng các ngươi.

 

Phúc Âm: Ga 8, 51-59

"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"

Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".

Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.

Ðó là lời Chúa.


 

Suy niệm



  Sự Sống nguyên ủy 

 

  

Hôm nay, Thứ Năm Tuần V Mùa Chay, chỉ còn đúng 3 ngày nữa là hết Mùa Chay, Chúa Nhật Lễ Lá, thời điểm bắt đầu Tuần Thánh cũng gọi là Tuần Thương Khó.

Đúng như hôm qua đã cảm nhận "chúng ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này của họ, và vì vậy, trong khi họ được Chúa Giêsu tiếp tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai)".

Trước hết, trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở câu cuối, chúng ta đã thấy phản ứng dữ dội đầu tiên của người Do Thái đối với Người, như Thánh ký Gioan cho biết: "Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ". 

Phải chăng trong Tuần V Mùa Chay xẩy ra sự kiện "Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ" này mà kể từ Chúa Nhật V Mùa Chay đầu tuần, các nhà thờ Công giáo, cách riêng ở Hoa Kỳ, đã che phủ các ảnh tượng và Thánh Giá lại, cho đến sau cử hành nghi thức khổ nạn của Chúa Kitô Thứ Sáu Tuần Thánh mới bỏ khăn che Thánh Giá ra và cho tới Lễ Vọng Phục Sinh mới mở các tấm che các ảnh tượng khác ra?

Sự kiện theo truyền thống của Giáo Hội che đi các ảnh tượng và Thánh Giá vào thời điểm này còn có thể hiểu, hay tự nó mang một dụng ý là mầu nhiệm về Chúa Kitô, một mầu nhiệm thần linh liên quan đến cuộc khổ nạn tử giá của Người và đạt tới tột đỉnh của mình nơi biến cố Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm thần linh con người nói chung và dân Do Thái nói riêng tự mình không thể nào hiểu được, dù có nghe thấy chính lời tự chứng của Chúa Kitô.

Tuy nhiên, mầu nhiệm thần linh vô cùng siêu việt về Chúa Kitô ấy sẽ hoàn toàn được tỏ hiện ở chính vào lúc con người, qua dân Do Thái bấy giờ, "treo Con Người lên cao" (Gioan 8:28) - đó là lý do tấm che Thánh Giá được mở ra sau nghi thức Thương Khó Thứ Sáu Tuần Thánh, nhất là cho đến khi Người từ trong kẻ chết sống lại là lúc Người hoàn toàn tỏ mình ra cho thấy tất cả sự thật về Người là "Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16) - đó là lý do các ảnh tượng được che đi sẽ hoàn toàn lộ ra vào đêm Vọng Phục Sinh. 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được lý do tại sao dân Do Thái đã không còn chịu được Chúa Giêsu nữa, họ đã tiến từ chỗ nói rằng "ông bị quỷ ám" sang hành động bạo lực là "lượm đá ném Ngài". Hành động "lượm đá ném Ngài" này cũng chưa nặng bằng hành động "họ tìm cách bắt Ngườiở bài Phúc Âm ngày mai. Bởi vì, ở bài Phúc Âm hôm nay, Người mới nói đụng đến tổ phụ Abraham đáng kính của họ, còn ở bài Phúc Âm ngày mai, Người thậm chí còn dám nói chạm tới cả chính Thiên Chúa tối cao đáng tôn thờ của họ. 

Thế nhưng, Chúa Kitô đã nói gì trong bài Phúc Âm hôm nay đụng đến tổ phụ đáng kính Abraham mà thành phần thính giả đại diện dân Do Thái bấy giờ nghe thấy đã không thể nào chịu nổi, đến độ đã ném đá Người như thế. Sau đây là nguyên văn câu Người nói được thánh ký Gioan ghi lại đã quả thực không thể nào không gây chấn động toàn thể con người của những ai nghe người nói, cả bên trong (tức giận) lẫn bên ngoài (ném đá):

"'Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng'. Người Do-thái liền nói: 'Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?' Chúa Giêsu trả lời: 'Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi'".

Lời khẳng định và công khai tuyên bố này của Chúa Kitô về nguồn gốc thần linh của Người, đúng như Người biết mình là Đấng "bởi trời", như Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này, cũng là Đấng biết mình "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", như Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần này, nhưng đối với dân Do Thái, Người chỉ là một con người thuần túy như họ đã tỏ ra ngạo mạn hỗn láo, không thể nào chấp nhận được.

"Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi" chẳng những là câu Chúa Kitô đã tỏ nguồn gốc thần linh của Ngài ra, đồng thời cũng là câu Người trả lời cho họ khi họ hạch Người ở đầu Bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?". 

Như thế, Người là ai và nguồn gốc thần linh của Người có một liên hệ bất khả phân ly, Người là ai chính ở nơi nguồn ngốc thần linh của Người, và nguồn gốc thần linh của Ngài đã chứng tỏ cho thấy Người là ai. Cũng trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Người là ai có liên hệ mật thiết với nguồn gốc thần linh của Người, một nguồn gốc thần linh cho dù tổ phụ Abraham xưa kia cũng không bằng Người hay như Người. Tại sao? Nếu không phải tại vì: 

"Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Ngài là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Ngài. Còn Ta, Ta biết Ngài. Nếu Ta nói Ta không biết Ngài, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Ngài, và Ta giữ lời Ngài. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Đúng vậy, nguồn gốc thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, nhân vật bị dân Do Thái bấy giờ cho Người là "bị quỉ ám" rồi bị họ "ném đá", là ở chỗ Người biết Thiên Chúa: "Ngài là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Ngài. Còn Ta, Ta biết Ngài". Kiến thức thần linh siêu việt này không phải là người ai cũng có, thậm chí tổ phụ Abraham cũng chẳng có, mà chỉ được mạc khải cho biết mà thôi. Thế nên, Chúa Kitô đã nói về vị tổ phụ này rằng: "Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Nghĩa là, Chúa Kitô, tột đỉnh mạc khải thần linh được Thiên Chúa tỏ ra trong suốt giòng lịch sử cứu dộ của dân Do Thái, bắt đầu từ tổ phụ Abraham, chính là đối tượng chính yếu duy nhất của tất cả những gì tổ phụ Abraham tin tưởng hay hướng về, qua hình ảnh của lòng mong đợi "được thấy ngày của Ta", và chính nhờ đức tin mà quả thực "Ông đã thấy và đã vui mừng" cho dù Chúa Kitô là giòng dõi của ông chưa sinh ra. 


"Ông đã thấy và đã vui mừng" ở đây, vì có liên quan đến nguồn gốc thần linh của Chúa Kitô, Đấng có trước tổ phụ Abraham và vai trên của Abraham, nên có thể hiểu về vị thượng tế Melchizedek là vị thượng tế đã có một nguồn gốc hoàn toàn siêu phàm bí mật, đóng vai chúc lành cho Abraham và được Anbraham dâng chiến lợi phẩm của mình cho (xem Do Thái 7:1-10, nhất là câu 3:) "Không cha không mẹ hay tổ tiên gì hết, như Con Thiên Chúa, ông muôn đời là tư tế", và Con Thiên Chúa, trong thân phận làm người, được Thiên Chúa chứng nhận: "Con là linh mục đời đời theo giòng Melchizedek" (Do Thái 7:21). 

Ngoài ra, "Ông đã thấy và đã vui mừng" ở đây còn liên quan đến người con được sinh ra theo lời hứa cho ông. Thật vậy, Chúa Kitô đã hiện diện nơi Isaac con ông, người con duy nhất theo lời hứa Thiên Chúa đã ban cho ông khiến ông vui mừng, nhưng Ngài lại muốn ông sát tế nó cho Ngài, để nhờ đó ông vui mừng thấy được người con ông không tiếc cùng Thiên Chúa ấy, như chính Thiên Chúa đã không tiếc Con Một của Ngài (xem Roma 8:32), trở thành mầm mống cho một dân tộc bao gồm vô số muôn dân, đông như sao trời nhiều cát biển, không thể nào đếm được, là thành phần miêu duệ xuất phát từ ông là cha của tất cả những ai tin tưởng, thành phần được cứu chuộc bởi Chúa Kitô, đối tượng đức tin của ông và của giòng dõi như sao trời cát biển này của ông.

Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên, cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã có ý định muốn sử dụng nhân vật Abram là tổ phụ của một giòng dõi bao gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới, một giòng dõi tin tưởng được Chúa Kitô cứu độ, Đấng xuất thân từ dân tộc Do Thái, như Vị Thiên Sai của họ và là Đấng Cứu Thế cho toàn thể nhân loại. Chính Thiên Chúa đã tự động thiết lập giao ước với nhân vật Abram này bằng những lời lẽ bao gồm và mở đầu cho mạc khải thần linh của Ngài trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho tới khi mạc khải thần linh này lên tới tột đỉnh nơi Chúa Kitô "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4):

"Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa lời kêu gọi dân Do Thái là "miêu duệ Abrahamđược Thiên Chúa "kén chọn" "hãy luôn tìm kiếm thiên nhan Chúa" là Đấng "muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước... Ngài đã ký cùng Abraham", như Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại, và được chính Chúa Giêsu kín đáo nhắc lại trong Bài Phúc Âm cùng ngày: 

1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết.

2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. 

3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. 

 



 

 

Ngày 25 tháng 3

LỄ TRUYỀN TIN

lễ trọng

 

Chín tháng trước lễ Giáng Sinh, chúng ta mừng ngày Con Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Biến cố này được thánh Lu-ca tường thuật lại trong phần đầu sách Tin Mừng của người. Phụng vụ ngày hôm nay được soi sáng nhờ lời của tác giả thánh vịnh 39. Lời này đã được tác giả thư Híp-ri đặt lên miệng Chúa Ki-tô khi Người bước vào trần gian : “Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.”

Image: Saint Mary Annunciation of Angel 02 صورة

 

 

Phụng Vụ Giờ Kinh

Rực rỡ ngày lên báo tin lành,
Thiên thần mang đến Mẹ Đồng Trinh
Lời Thiên Chúa hứa và thực hiện
Cho cả trần gian hưởng thái bình.

Đấng tự ngàn đời đã sinh ra
Từ lòng muôn thuở Chúa Ngôi Cha,
Giáng trần phải chọn người thân mẫu
Sống kiếp phàm nhân chẳng nề hà.

Chân Lý ngàn thu nay nhập thể
Trong lòng Trinh Nữ chẳng ai ngờ,
Chỉ hồn trong trắng được chiêm ngưỡng,
Xin giãi sáng vào cõi bùn nhơ.

Được phúc cưu mang Đấng Cửu Trùng,
Dẫu là tỳ nữ rất khiêm cung,
Giờ đây Bà Chúa trên Thiên Quốc
Xin Mẹ hằng thương chúng con cùng.

Muôn tiếng ngợi khen dâng kính Chúa
Giáng trần sinh bởi Mẹ Đồng Trinh.
Ngài cùng Thánh Linh và Thánh Phụ
Thiên thu hiển trị cõi thiên đình.

 

Khắp cả trần gian hãy biết rằng
Tin Mừng giải thoát đã tràn lan,
Sau thời nô lệ đầy tăm tối
Đến lúc tự do ngập huy hoàng.

Lời sấm bao đời của Ê-sai
Về người Trinh Nữ, ứng nghiệm thay !
Thiên thần loan báo, và Trinh Nữ
Nhờ Chúa Thánh Linh, đã thụ thai.

Lời Chúa, Mẹ tin rất vững vàng,
Nay thành mầm sống Mẹ cưu mang,
Đấng trời cùng đất không chứa nổi,
Giờ hoá thai nhi sống ẩn tàng.

Này A-đam mới rửa tinh tuyền
Những gì nhơ nhớp bởi tội nguyên,
Tổ phụ kiêu căng làm đổ vỡ,
Cháu con khiêm tốn dựng xây lên.

Chúc tụng Ngôi Cha, Đấng tạo thành,
Hát mừng Thánh Tử, Vị Cứu Tinh,
Đấng đầu thai xuống lòng Trinh Nữ
Do bởi phép mầu Chúa Thánh Linh.

 

Hôm nay Thiên Chúa sai thiên sứ báo tin vui cứu độ cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Vậy ta hãy tha thiết nguyện cầu :

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Mẹ Chúa Cứu Thế, - xin rủ tình thương tất cả những ai đang mong chờ ơn cứu độ.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Chúa đã sai thiên sứ Gáp-ri-en báo tin mừng bình an cho Đức Mẹ, - xin cho toàn thế giới nhìn nhận rằng Con Một Người chính là Đấng nhân loại đợi trông.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã cho Ngôi Lời đến ngự trong lòng Đức Mẹ để ở giữa chúng con, - xin cho chúng con biết noi gương Đức Mẹ mà đón rước Ngôi Lời của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Chúa là Đấng thương xót kẻ nghèo hèn, và ban của đầy dư cho người đói khổ, - xin nâng đỡ những ai kiệt sức, trợ giúp kẻ cơ bần và an ủi người đang hấp hối.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Chỉ mình Chúa thực hiện những kỳ công vĩ đại, - xin thương cứu chúng con trong ngày Chúa cho kẻ chết được phục sinh.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ngôi Lời của Chúa mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a để cứu độ loài người. Này chúng con tuyên xưng Đấng Cứu Độ là Thiên Chúa thật và là người thật, xin cho chúng con cũng được thông phần bản tính Thiên Chúa của Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: Is 7, 10-14

"Này trinh nữ sẽ thụ thai".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!" Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử Chúa". Và Isaia nói: "Vậy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 11

Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).

Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.

2) Như trong cuốn sách đã chép về con, lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.

3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

4) Con chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng con; con đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa; con đã không giấu giếm gì với đại hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 10, 4-10

"Ở đoạn đầu cuốn sách đã viết về tôi là, lạy Chúa, tôi thi hành thánh ý Chúa".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, máu bò và dê đực không thể xoá được tội lỗi. Vì thế, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho con một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên con nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách. Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật". Ðoạn Người nói tiếp: "Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia hoặc Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 1, 14ab

(Mùa Chay: bỏ Alleluia)

Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người. -Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 26-38

"Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".

Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"

Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".

Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt Bà.

Ðó là lời Chúa. 

 

 

High Resolution Stock Art |The Annunciation, by Poussin - Restored  Traditions

 

 

"Hết mọi sự trong Giáo Hội, hết mọi cơ cấu và thừa tác vụ, bao gồm cả thừa tác vụ của Thánh Phêrô và của các vị thừa kế ngài, đều được ‘bao gồm’ trong áo choàng của Vị Trinh Nữ này"

 

ĐTC Biển Đức XVI chủ tế và giảng lễ Thánh Lễ Đồng Tế Với Tân 15 Hồng Y Thứ Bảy Lễ Mẹ Thai Lời ngày 25/3/2006 tại Quảng Trường Thánh Phêrô

 

Quí Hồng Y và Thượng Phụ thân mến,

Quí Huynh Khả Kính trong Hàng Giáo Phẩm và Linh Mục,

Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô!

 

Tôi cảm thấy hết sức hân hoan chủ sự đồng tế này với các vị tân hồng y sau cuộc mật nghị hồng y hôm qua, và tôi thấy là thích đáng thực hiện cuộc mật nghị hồng y này vào ngày lễ trọng Truyền Tin. Thật vậy, trong việc nhập thể của Con Thiên Chúa, chúng ta nhận thấy nguồn gốc của Giáo Hội. Hết mọi sự được bắt đầu từ đó. Hết mọi sự hiện thực của Giáo Hội về lịch sử và từng cơ cấu thuộc tổ chức Giáo Hội cần phải được hình thành bởi nguồn mạch nguyên khởi này.

 

Chúng phải được hình thành bởi Chúa Kitô, Lời nhập thể của Thiên Chúa. Chính Người là Đấng chúng ta liên lỉ chúc tụng là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Đấng mà nhờ Người ý muốn cứu độ của Thiên Chúa Ngôi Cha được hoàn tất. Tuy nhiên, ngày của mọi ngày hôm nay đây chúng ta chiêm ngưỡng khía cạnh này của mầu nhiệm ấy – khía cạnh suối nguồn thần linh tuôn chảy qua một mạch nước đặc biệt đó là Trinh Nữ Maria. Thánh Bênađô đã nói về điều này bằng hình ảnh ‘aquaeductus’ sống động (cf. "Sermo in Nativitate B.V. Mariae": PL 183, 437-448). Thế nên, khi cử hành việc nhập thể của Người Con, chúng ta không thể không tôn vinh Mẹ của Người.

 

Lời thiên thần loan báo cho Mẹ, Mẹ đã chấp nhận, và khi Mẹ đáp lại bằng tất cả tâm hồn của mình là ‘Này tôi… xin vâng như lời ngài truyền’ (Lk 1:38), thì Lời hằng hữu bắt đều hiện hữu như là một con người trong thời gian.

 

Mầu nhiệm khôn lường này không ngừng trở thành những gì là bàng hoàng ngỡ ngàng từ đời nọ đến đời kia. Thánh Âu Quốc Tinh tưởng tượng ra một cuộc đối thoại giữa ngài và vị thiên thần Truyền Tin, khi đặt vấn đề là: ‘Ôi Thiên Thần, xin nói cho tôi hay là tại sao điều này đã xẩy ra nơi Mẹ Maria?’ Câu trả lời được vị thiên sứ đáp lại chất chứa chính những lời chào kính: ‘Kính mừng đầy ơn phúc’ (x Sermo 291.6). Thật vậy, vị thiên thần, ‘khi hiện ra với Mẹ’, đã không gọi Mẹ theo tên trần gian của Mẹ là Maria, mà bằng tên thần linh của Mẹ, ‘Đầy ơn phúc – gratia plena’, một tên theo nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là ‘yêu dấu’ (x Lk 1:28) vì Mẹ luôn được Thiên Chúa biết đến và mang dấu vết Thiên Chúa. Giáo phụ Origen đã nhận định rằng không có danh xưng nào như thế được ban cho bất cứ một con người nào, và là một danh xưng duy nhất trong toàn bộ Thánh Kinh (cf ‘In Lucam’ 6:7). 

 

Nó là một danh hiệu ở thể thụ động, thế nhưng ‘cái thụ động’ này của Mẹ Maria, Vị luôn được và đang được Chúa mãi mãi ‘yêu thương’, bao gồm việc tự do ưng thuận của Mẹ, việc đáp ứng cá nhân và nguyên vẹn của Mẹ: Khi được yêu thương, Mẹ Maria hoàn toàn chủ động, vì Mẹ chấp nhận một cách quảng đại làn sóng yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên Mẹ. Cả ở việc này nữa, Mẹ cũng là người môn đệ trọn hảo của Con Mẹ, Đấng hiện thực tất cả tự do của mình qua việc tuân phục Chúa Cha.

 

Trong bài đọc thứ hai, chúng ta nghe một đoạn tuyệt vời được tác giả của bức Thư gửi Do Thái viết khi dẫn giải Thánh Vịnh 39 theo ý nghĩa nhập thể của Chúa Kitô: “Khi Chúa Kitô vào trần gian, Người đã thưa… ‘Này Con đây, Con xin đến để làm theo ý Cha, Ôi Thiên Chúa’” (10:5-7). Trước mầu nhiệm của hai lời ‘Này con đây’ của Chúa Kitô và Vị Trinh Nữ, lời này phản ảnh trong lời kia, làm nên câu Amen duy nhất dâng lên ý muốn yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy đầy những ngỡ ngàng và tri ân cảm tạ, và chúng ta cúi mình xuống tôn thờ.

 

Chư huynh thân mến, thật là một ân huệ cao cả biết bao khi thực hiện việc cử hành ý nghĩa này vào Lễ Trọng Truyền Tin đây! Chúng ta có thể nhận được dồi dào ánh sáng biết bao từ mầu nhiệm này cho đời sống chúng ta làm thừa tác viên của Giáo Hội đây! Nhất là các vị tân hồng y thân mến, chư huynh có thể lãnh nhận nhiều bổ dưỡng là chừng nào cho sứ vụ làm ‘Nghị Viên’ cao cả của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô! Cơ hội thích đáng này giúp chúng ta coi biến cố hôm nay đây, một biến cố nhấn mạnh đến nguyên tố Phêrô của Giáo Hội, theo chiều hướng của một nguyên tố khác, đó là nguyên tố Thánh Mẫu, một nguyên tố thậm chí còn quan trọng hơn nữa. Tầm vóc quan trọng của nguyên tố Thánh Mẫu trong Giáo Hội, sau công đồng chung Vaticanô II, được đề cao một cách đặc biệt bởi Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiền nhiệm yêu dấu của tôi, hợp với khẩu hiệu của ngài ‘Totus tuus’.

 

Trong linh đạo của ngài, cũng như trong thừa tác vụ liên lỉ của ngài, sự hiện diện của Mẹ Maria như là Người Mẹ và là Nữ Vương của Giáo Hội đã trở thành hiển nhiên trước mắt mọi người. Nhất là ngài đã quảng bá sự hiện diện từ mẫu của Mẹ nơi vụ ám sát ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Để tưởng nhớ biến cố bi thương này, ngài đã đặt một bức ảnh Đức Trinh Nữ bằng vi thạch ghép trên cao Tông Dinh Giáo Hoàng, nhìn xuống Quảng Trường Thánh Phêrô, để hỗ trợ những giây phút chính yếu và diễn tiến hằng ngày cho giáo triều dài lâu của ngài. Đúng một năm từ khi giáo triều của ngài đi vào giai đoạn cuối cùng, giai đoạn vượt qua đầy khổ đau nhưng thực sự là vinh thắng. Tấm hình Truyền Tin, hơn bất cứ tấm hình nào khác, giúp chúng ta thấy rõ lý do tại sao hết mọi sự trong Giáo Hội trở về với mầu nhiệm Mẹ Maria chấp nhận Lời thần linh, nhờ đó, qua tác động của Thánh Linh, giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại mới được hoàn toàn niêm ấn.

 

Hết mọi sự trong Giáo Hội, hết mọi cơ cấu và thừa tác vụ, bao gồm cả thừa tác vụ của Thánh Phêrô và của các vị thừa kế ngài, đều được ‘bao gồm’ trong áo choàng của Vị Trinh Nữ này, trong chân trời đầy ân phúc của lời Mẹ ‘xin vâng’ theo ý muốn của Thiên Chúa. Mối liên hệ này với Mẹ Maria tự nhiên khơi lên trong tất cả chúng ta một âm hưởng rất mến thương, thế nhưng, trước hết nó có một giá trị khách quan. Giữa Mẹ Maria và Giáo Hội thực sự có một mối liên hệ tự nhiên, được Công Đồng Chung Vaticanô II nhấn mạnh qua quyết định khéo léo của mình, trong việc đưa phần về Đức Trinh Nữ vào đoạn kết của hiến chế ‘Ánh Sáng Muôn Dân’ về Giáo Hội.

 

Đề tài về mối liên hệ giữa nguyên tố Phêrô và nguyên tố Thánh Mẫu cũng được thể hiện nơi biểu hiệu chiếc nhẫn mà tôi sắp sửa trao cho chư huynh. Chiếc nhẫn này luôn là dấu hiệu của hôn ước. Hầu hết tất cả chư huynh đã được một chiếc nhẫn vào ngày được tấn phong lên hàng giáo phẩm, như biểu lộ lòng trung thành và việc dấn thân của chư huynh trong vấn đề trông coi Hội Thánh là hiền thê của Chúa Kitô (x. Nghi Thức Tấn Phong Giám Mục). Chiếc nhẫn tôi trao cho chư huynh hôm nay đây, chiếc nhẫn hợp với phẩm tước hồng y, là để xác nhận và củng cố việc dấn thân ấy, việc dấn thân cũng xuất phát từ tặng ân hôn ước, từ việc nhắc nhở cho chư huynh nhớ rằng trước hết và trên hết chư huynh cần phải mật thiết kết hợp với Chúa Kitô để hoàn thành sứ vụ của chư huynh là thành phần phù rể của Giáo Hội.

 

Chớ gì việc chư huynh chấp nhận chiếc nhẫn này, đối với chư huynh, là việc chư huynh lập lại tiếng ‘xin vâng’ của mình, tiếng ‘này con đây’ của chư huynh, ngỏ cả cùng Chúa Giêsu là Đấng đã chọn chư huynh và ủy nhiệm chư huynh, lẫn Giáo Hội, một Giáo Hội chư huynh được kêu gọi để phục vụ bằng tình mến yêu của một người bạn đời. Bởi vậy mà hai chiều kích của Giáo Hội là Thánh Mẫu và Phêrô, gặp nhau ở giá trị cao cả của ‘đức ái’ là đức làm trọn mỗi nguyên tố. Thánh Phaolô nói rằng đức ái là đặc sủng ‘cao trọng nhất’, là ‘đường lối tuyệt hảo nhất’ (1Cor 12:31,13:13).

 

Hết mọi sự trên thế giới này sẽ qua đi. Trong cõi vĩnh hằng chỉ có tình yêu mới tồn tại mà thôi. Vì lý do này, Chư Huynh thân mến, lợi dụng dịp thuận lợi của mùa Chay này, chúng ta hãy quyết tâm bảo đảm là hết mọi sự trong đời sống riêng tư của mình, cũng như trong hoạt động của Giáo Hội chúng ta tham phần, đều được tác động bởi đức ái và dẫn tới đức ái. Cả về khía cạnh này nữa, chúng ta được chiếu soi bởi mầu nhiệm chúng ta đang cử hành hôm nay đây. Thật vậy, việc đầu tiên Mẹ Maria làm sau khi lãnh nhận sứ điệp của Thiên Thần là ‘vội vã’ lên đường tới nhà của người chị họ Isave để phục vụ người chị này (x Lk 1:39).

 

Động tác của Vị Trinh Nữ này là một động tác của đức ái chân thực, một động tác khiêm tốn và can đảm, được tác động bởi niềm tin tưởng vào lời Chúa và được Thánh Linh động viên trong lòng. Những ai yêu thương thì quên mình và dấn thân phục vụ tha nhân.

 

Ở đây chúng ta có được hình ảnh và mô phạm của Giáo Hội! Hết mọi cộng đồng giáo hội, như Người Mẹ của Chúa Kitô, đều được kêu gọi hoàn toàn quảng đại chấp nhận mầu nhiệm của Thiên Chúa là Đấng đến ngự trong Mẹ và dẫn Mẹ bước đi trên con đường yêu thương. Đó là con đường tôi đã chọn để khai triều của mình, khi mời gọi mọi người, bằng bức thông điệp đầu tiên của mình, trong việc xây dựng Giáo Hội trong đức ái như một ‘cộng đồng yêu thương’ (x Thiên Chúa Là Tình Yêu, phần 2).

 

Trong việc theo đuổi mục tiêu này, Chư Huynh Hồng Y khả kính, việc gắn bó về tinh thần và việc chủ động hỗ trợ của chư huynh là những gì hỗ trợ và an ủi tôi rất nhiều. Tôi cám ơn chư huynh về điều ấy, đồng thời tôi mời gọi tất cả mọi người trong chư huynh, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân, hãy liên kết với nhau trong việc kêu cầu Thánh Linh, xin cho Hồng Y Đoàn được nhiệt thành hơn trong đức ái mục vụ, hầu giúp cho toàn thể Giáo Hội chiếu rạng tình yêu của Chúa Kitô trên thế giới, để chúc tụng và tôn vinh Ba Ngôi Chí Tháhh. Amen!

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/3/2006  

 

 




Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Gr 20, 10-13

"Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.          

Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được.

Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa.

Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 5-6. 7

Ðáp: Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi (x.c. 7).

Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá, chiến luỹ, cứu tinh. - Ðáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.

3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi. Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. - Ðáp.

4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai Ngài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Ga 10, 31-42

"Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: "Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?"

Người Do-thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa".

Chúa Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: "Ta đã nói: các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng "Ông nói lộng ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".

Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin Người.

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm


  Sự Sống thần linh  


Ngày thứ 38 của Mùa Chay hôm nay, Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay, hành trình Mùa Chay dẫn chúng ta, cùng với Giáo Hội, qua phụng vụ lời Chúa nói chung và Bài Phúc Âm nói riêng, vào tới tận cùng của mầu nhiệm Chúa Kitô, một mầu nhiệm đã khiến Người bị loài người, qua các nhân vật lịch sử thời ấy, bao gồm cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, sát hại, nhưng nhờ thế mầu nhiệm về Người là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa càng trở nên rạng ngời sáng tỏ, đúng với chiều hướng thần linh của lịch sử cứu độ dân Do Thái, một mầu nhiệm làm nên tất cả lịch sử loài người.

Đúng thế, tận cùng của mầu nhiệm Chúa Kitô là gì, hay nói khác hơn, tột đỉnh của mầu nhiệm Chúa Kitô là chi, nếu không phải Người là Con Thiên Chúa. Trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Kitô đã dẫn dân Do Thái, qua thành phần thính giả đại diện họ đang nghe Người bấy giờ, vào đến cung thánh mầu nhiệm về Người, thì qua bài Phúc Âm hôm nay, Người đã dẫn họ vào tận nơi cực thánh là chính bản tính Thiên Chúa của Người.

Hôm qua, theo bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan, Chúa Kitô đã sử dụng ngôn từ của Người để tỏ mình ra, khi dẫn dân Do Thái vào tới cung thánh của mầu nhiệm về Người, ở chỗ, Người đã tỏ mình ra cho họ thấy Người là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai có trước tổ phụ Abraham: "Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi", Đấng mà chính vị tổ phụ là cha của tất cả những kẻ tin hướng về: "Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Hôm nay, bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu từ đó, từ chỗ Người là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, liên quan đến nhân tính của Người, dù trên trái đất này và trong xã hội Do Thái bấy giờ, Người chỉ là một con người lịch sử, Người vẫn là Đấng có trước cả tổ phụ Abraham và là Đấng chính tổ phụ Abraham phải hướng về ấy, Đấng cuối cùng đã dẫn dân Do Thái, qua thành phần thính giả của Người bấy giờ, vào tận nơi cực thánh của mầu nhiệm về Người là thần tính của Người.

Bởi vì, Đấng Thiên Sai như Người không phải chỉ là Đấng được Thiên Chúa sai đến, như các vị tiên tri trong Cựu Ước, mà là chính Đấng từ Thiên Chúa mà đến, Đấng tự mình biết Thiên Chúa: "Ta biết Ngài", như Người đã khẳng định 2 lần liền trong Bài Phúc Âm hôm qua, chứ kiến thức thần linh của Người không phải làm nên bởi những gì được Thiên Chúa tỏ mình ra bằng mạc khải thần linh của Ngài, như Ngài đã làm "bằng nhiều thể nhiều cáchvới các vị tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp, hay với Moisen hoặc với các vị tiên tri xưa (xem Do Thái 1:1).

Thần tính của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã được chính Người tự chứng bằng ngôn từ của Người như sau: "Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa". Và chính vì chủ trương này của Người, vì lời tuyên bố mà đối với người Do Thái có vẻ vô cùng bậy bạ đầy ngạo mạn ngông cuồng ấy, mà Người đã bị họ ném đá, như Thánh ký Gioan cho chúng ta biết chi tiết này ở đầu bài Phúc Âm hôm nay

"Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: 'Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?' Người Do-thái trả lời: 'Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa'".

Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nhẫn nại nhấn mạnh đến yếu tố then chốt nhất mà Người đã từng sử dụng để chứng thực về Người quả là ấng Thiên Sai", và cũng chính là "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16)ở chỗ, như Người tiếp tục dẫn chứng Người không bao giờ làm theo ý của Người mà là ý của Cha là Đấng đã sai Người

"Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".

Chứng từ Người tự chứng về Người thực sự vừa là Đấng Thiên Sai và vì thế cũng là Con Thiên Chúa ở chỗ chỉ làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người đã gây một tác dụng trái chiều, ở chỗ tự chứng ấy của Người đã khiến cho một số là thành phần thính giả bấy giờ vẫn không tin và không thể nào tin được, còn một số khác, ở nơi khác, lại tin vào Người, như phần kết của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy:

"Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: 'Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả'. Và có nhiều kẻ tin Người". 

Sở dĩ còn "có nhiều kẻ tin Người" là vì lòng họ còn cởi mở, còn tha thiết với sự thật, còn muốn biết tất cả sự thật hoàn toàn khách quan về một nhân vật mà trước khi nhân vật ấy xuất hiện, họ đã từng được nghe Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là vị họ coi như tiên tri nói tới là "Đấng đến sau tôi, nhưng hơn tôi vì Người có trước tôi..." (Gioan 1:30). Họ đã chấp nhận chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả về Đấng cao cả đến sau ngài mà họ nhờ đó đã có thể tin vào chính Đấng đến sau đó. 

Mầu nhiệm thần linh về một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, như được chính Chúa Kitô tỏ ra cho dân Do Thái biết vào "thời điểm viên mãn" (Galata 4:4), thời điểm "sau hết" (Do Thái 1:1) của Người bấy giờ, một mầu nhiệm đã trở thành nguyên cớ cho cuộc khổ nạn và tử giá của Người, từ chỗ "họ tìm cách bắt Người" trong bài Phúc Âm hôm nay, đến chỗ "họ quyết định giết Người" trong bài Phúc Âm ngày mai, đã được chính Người, qua miệng Tiên Tri Giêrêmia, trong Bài Đọc 1 hôm nay, thốt lên có vẻ thảm não như sau:

"Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: 'Người này gieo khủng bố khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó'. Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: 'Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó'. Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa".

Tuy nhiên, chính vì "Tôi tự bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, mà Người sẵn sàng chấp nhận những gì xẩy ra cho Người, vì Người là Đấng Thiên Sai, Đấng chỉ đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, dù ý của Ngài có khiến Người phải vô cùng khốn khổ đến đâu chăng nữa. 

Nhưng cuối cùng Người vẫn có thể "lấy lại sự sống" của Người, nghĩa là sự sống vô giá của Người không phải là đồ bỏ hay có thể bị tận diệt, mà là cái giá quí báu duy nhất bất khả thiếu để cứu chuộc nhân loại và để trở thành sự sống đời đời vô giá cho loài người nói chung và những ai tin Người nói riêng. 

Đó là lý do cuối Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Giêrêmia, Người đã tỏ ra hân hoan phấn khởi mà vang lên những lời lẽ đầy hứa hẹn như sau: "Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ".

Tâm tình của Chúa Kitô Thiên Sai trong Bài Đọc 1 hôm nay, phản ảnh Bài Phúc Âm cùng ngày, còn được tiếp tục âm vang ở Bài Đáp Ca trong ngày như sau:

1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá, chiến luỹ, cứu tinh. 

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. 

3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi. Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. 

4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai Ngài. 





Thứ Bảy


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ed 37, 21-28

"Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương. Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất của chúng, ở trên núi Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không còn là hai dân tộc, cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa.

Chúng sẽ không còn dơ nhớp vì thần tượng, vì các điều ghê tởm và mọi tội lỗi của chúng. Ta sẽ cứu thoát chúng khỏi mọi nơi tội lỗi. Ta sẽ thanh tẩy chúng; chúng sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng. Ðavit tôi tớ Ta sẽ là vua của chúng, chúng sẽ chỉ có một chủ chăn mà thôi. Chúng sẽ tuân giữ và thực thi các giới răn của Ta. Chúng sẽ cư ngụ trong đất mà Ta đã ban cho Giacóp tôi tớ Ta, và là đất tổ phụ chúng đã cư ngụ; chúng và con cái cùng cháu chắt của chúng sẽ cư ngụ ở đó đến muôn đời. Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Gr 31, 10. 11-12ab. 13

Ðáp: Chúa sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).

Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình". - Ðáp.

2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. - Ðáp.

3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Ga 11, 45-56

"Ðể quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, trong những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su. Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và nói: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta". Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: "Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt". Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối.

Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: "Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?" Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Suy niệm

 


   Sự Sống muôn dân

 

  

Hôm nay là ngày áp chót của Mùa Chay, cũng có thể nói là ngày cuối cùng (trong tuần) của Mùa Chay, ngày Thứ Bảy Tuần V Mùa Chay, chủ đề "Tôi tự bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng hiện lộ trong phụng vụ lời Chúa, cả ở Bài Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.

Cũng như Thứ Bảy tuần trước, bài Phúc Âm hầu như vắng bóng Chúa Giêsu, mà chỉ vang bóng của Người thôi, tức là về tình trạng dân chúng và thành phần lãnh đạo của họ chia rẽ nhau về Người, sau khi Người đã tự chứng về Người bằng ngôn từ hay bằng phép lạ.

Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy cái âm hưởng quá sức là mãnh liệt gây ra bởi phép lạ cả thể nhất Người làm, một phép lạ không được thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, mà ở trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Năm A (hay các Năm B và C nếu muốn thay thế các bài Phúc Âm theo chu kỳ Chúa Nhật) Tuần V Mùa Chay đầu tuần. 

Đó là phép lạ Người hồi sinh cho người bạn thân Lazarô chết đã 4 ngày của Người, để chứng tỏ một thực tại thần linh về Người, một thực tại thần linh đúng như Người đã xác nhận và tuyên bố với Matta là chị của người quá cố: "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25), và phép lạ này cũng là một dấu chỉ thần linh báo trước về biến cố Vượt Qua của Người, biến cố Người vượt qua từ cõi chết mà vào cõi sống, chẳng những hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết mà còn ban cho chung con người và riêng Giáo Hội của Người "sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10). 

Trước một phép lạ cả thế như thế, Thánh ký Gioan đã cho biết thành quả là: "những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su". Nhưng cũng chính vì phép lạ này, hay nói đúng hơn, chính vì tác dụng thần linh của phép lạ này nơi lòng tin của nhiều người được tận mắt chứng kiến thấy Đấng "là sự sống lại và là sự sống" tỏ mình ra bấy giờ, mà thành phần giáo quyền lãnh đạo không thể nào không chính thức ra tay can thiệp, như Thánh ký Gioan tường thuật như sau:

"Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và nói: 'Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta'. Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: 'Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt'". 

Ở đây chúng ta thấy rõ ràng là thành phần lãnh đạo Do Thái bấy giờ nói chung có thành kiến rất nặng về Chúa Giêsu, đến nỗi thành kiến đó đã làm cho họ trở thành mù quáng với đầy những ác cảm, đến độ họ bất chấp sự thật trước mắt họ, như họ cũng đã phải công nhận rằng: "người này làm nhiều phép lạ", ch không phải là nhân vật tầm thường như họ, chẳng làm được phép lạ như Người, chẳng được dân chúng tin theo như Người. 

Thế mà, vì thành kiến và ác cảm đã biến thành ghen tị, đố kỵ và ghen ghét, họ đã tìm cách triệt hạ Người, tìm cách loại trừ Người cho bằng được, với lý do bề ngoài có vẻ tốt đẹp theo công ích, mị dân, như Thánh ký Gioan cho chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá hủy nơi này và dân tộc ta". 

Lý do được viện ra này quả là tuyệt vời, hoàn toàn vừa che đậy được thành kiến, ác cảm, lòng ghen tị và ghen ghét của họ, vừa có tính cách lý tưởng cao cả cho toàn thể dân tộc của họ như thế, đã được vị có thẩm quyền nhất trong họ bấy giờ là thượng tế Caipha, như một tay túc cầu chuyên nghiệp ở hàng tiền đạo vừa được đồng bạn chuyền banh cho liền đá lọt lưới một cách ngoạn mục vào gôn (goal = đích) của đối phương:

"Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: 'Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt'". 

Thế nhưng, lạ lùng thay họ tưởng rằng họ đã thắng bằng quả banh họ chuyền nhau đã làm tung lưới đối phương là dự án cứu độ của Thiên Chúa, không ngờ lại là cú đá phản pháo đã phá lưới chính "gôn - đích nhắm, mưu đồ" của chính họ, như lời dẫn giải của v Thánh ký Gioan của bài Phúc Âm hôm nay ngay sau cú đá đầy ngoạn mục hết sức thần tình của vị thượng tế Caipha này: 

"Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".

Tuy nhiên, về phía họ, họ vẫn tưởng rằng họ đã nắm chắc phần thắng trong tay, nên họ đã bắt đầu lấy quyền bính của mình để "ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người", để có thể đạt được cái "gôn" của mình là "họ quyết định giết Người" cho bằng được, để diệt trừ hậu hoạn cho toàn dân. 

Chắc ai cũng biết được thượng lệnh bất tuân như thế, một thượng lệnh có lợi cho toàn dân đang bị quân đế quốc Rôma như vậy, nên đều tỏ ra hết sức quan tâm và muốn tuân hành, nhưng hình như chỉ ở giáo đô Giêrusalem thôi, chứ không bao gồm ở các nơi khác.

Bởi vậy mà Chúa Giêsu vẫn trở thành một nhân vật, cho dù "không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ", vẫn có sức thu hút dân chúng, có thể nói, chính sự vắng khuất của Người vào thời điểm quan trọng nhất trong năm lại càng khiến dân chúng chú ý đến Người hơn, như Thánh ký Gioan diễn tả cho thấy trong Bài Phúc Âm hôm nay:

"Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: 'Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?'" 

Câu phát ngôn tiêu biểu trên đây cho thấy thái độ như thể hào hứng trông mong của "nhiều người từ các miền lên Giêrusalem" và muốn "tìm Chúa Giêsu", để được gặp Người là Đấng họ cảm phục và trông đợi, nhưng lại là nhân vật, trái lại, như Thánh ký Gioan cho biết ở câu kết thúc của bài Phúc Âm hôm nay: "Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người". 

Đúng thế, chính vì "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, mà cho dù giáo quyền của dân Do Thái bấy giờ có muốn tận diệt Người chăng nữa, một cách hết sức khôn ngoan và hoàn toàn tự do theo lòng ác cảm và ghen ghét của họ, họ chẳng những không làm gì được Người mà còn trở thành dụng cụ bất đắc dĩ của dự án thần linh trong công cuộc cứu độ trần gian, trong đó bao gồm cả dân tộc của họ, không phải chỉ thoát khỏi quyền lực chính trị và quân sự, mà là quyền lực tội lỗi và sự chết.

Dự án cứu độ thần linh vô cùng huyền diệu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô đã được chính Thiên Chúa, qua miệng Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay, báo trước về một viễn tượng dân Do Thái thống nhất và duy nhất, đúng như ý Chúa muốn khi Ngài lập giao ước với tổ phụ Abraham của họ, một dân tộc bao gồm cả dân ngoại trong công cuộc cứu độ do Con của Ngài, Người Con về nhân tính thuộc giòng giống của họ thực hiện:

"Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương. Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất của chúng, ở trên núi Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không còn là hai dân tộc, cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa".

Hình ảnh về một dân Do Thái thống nhất và duy nhất tiêu biểu cho một dân tộc như sao trời cát biển bao gồm cả dân ngoại là tất cả những ai tin tưởng vào Chúa Kitô ấy, cũng đã được Thánh ký Gioan tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay: "Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối", một lời dẫn giải hoàn toàn hợp với những gì Thiên Chúa phán trong Bài Đọc 1 hôm nay qua miệng Tiên Tri Đaniên:

"Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những tâm tình tràn đầy hy vọng và hoan hỉ như thể ơn cứu độ thực sự đã đến, một ơn cứu độ được hiện thực nơi Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế vào thời điểm viên trọn của Người, một biến cố Vượt Qua chẳng những được dân Do Thái cử hành hằng năm mà còn được chính chung Kitô giáo và riêng Giáo Hội Công giáo Roma cử hành vào Tuần Thánh, nhất là vào Tam Nhật Vượt Qua, bắt đầu từ ngày mai, Chúa Nhật Lễ Lá, kết thúc Mùa Chay và bắt đầu Tuần Thương Khó:

1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình". 

2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. 

3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ.  


Bài Đáp Ca hôm nay, Thứ Bảy Tuần V Mùa Chay, chất chứa những tâm tình hân hoan như một dạo khúc hướng về một Chúa Nhật Lễ Lá ngày mai, thời điểm Chúa Kitô vinh quang tiến vào Thành Thánh Giêrusalem, giáo đô của Do Thái Giáo, nơi chứng kiến thấy tột đỉnh mạc khải thần linh của lịch sử cứu độ dân Do Thái cũng là tất cả mạc khải thần linh của lịch sử nhân loại nơi Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế trong Tam Nhật Vượt Qua của Người trong Tuần Thánh, kể từ Chúa Nhật Lễ Lá, bắt đầu Tuần Thương Khó của Người được Giáo Hội Nhiệm Thể Người hằng năm long trọng cử hành như tột đỉnh của phụng niên.

 

28/3/2015 (Thứ Bảy):

Phụng vụ Lời Chúa cho Thứ Bảy trong Tuần 5 Mùa Chay hôm nay dường như hoàn toàn tương phản nhau giữa bài đọc một (Ezekien 37:21-28) có vẻ tích cực và lạc quan: "Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương", trong khi bài Phúc Âm (Gioan 11:45-56) lại cho thấy bầu trời u ám đến ghê rợn, ở chỗ: "Từ ngày đó, họ quyết định giết Người", chứ không phải chỉ lên án Người là kẻ lộng ngôn, hay chỉ ném đá Người hoặc chỉ tìm bắt Người.

 

"Quyết định giết Người" này của giáo quyền Do Thái, một quyết định xẩy ra vào thời điểm sắp tới Lễ Vượt Qua, một quyết định gắt gao tới nỗi, như cuối bài Phúc Âm cho thấy: "các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người". Lý do hoàn toàn nhuộm mầu sắc lo sợ về chính trị: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta".

Như thế, giáo quyền Do Thái, cho dù công nhận "người này làm nhiều phép lạ", mà họ là một dân tộc ưa thích điềm lạ (xem 1Corinto 1:22), cái gì cũng đòi điềm lạ (xem Gioan 2:18), mà chỉ là điềm lạ theo ý của họ muốn thôi, chứ những điềm lạ như việc Người trừ quỉ hay chữa lành bệnh tật v.v. không ai làm được như Người, kể cả việc Người làm cho Lazarô hồi sinh từ một tử thi đã xông mùi mà họ vừa được tường trình cho biết (xem Gioan 11:43-44,46), cũng chẳng hợp với ý muốn của họ, vẫn không phải là điềm lạ họ đòi hỏi để tin, nên chẳng lạ gì họ vẫn tìm cách triệt hạ Người cho bằng được, không phải bởi lo sợ cho toàn dân hơn là, đúng như vị tổng trấn của đế quốc Rôma là Philatô đã nhận định: "vì ghen tương mà họ đã nộp Người cho ông" (Marco 15:10).

Chúng ta có thể tóm gọn tổng lược tiến trình tỏ mình ra của Chúa Kitô và phản ứng của người Do Thái trước mạc khải thần linh là Chúa Kitô trong Tuần Lễ 5 Mùa Chay như sau:


Tuần 5 Mùa Chay

Ý đồ người Do Thái

Chúa Giêsu tỏ mình cho người Do Thái

Phản ứng của người do Thái


Thứ 3 

Gioan 8:21-30

 

"Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới được"…  "Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”.

"Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói ‘Nơi Ta đi các ông không thể tới được?’"

"Ông là ai?"

“Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào Người”


Thứ 4 

Gioan 8:31-42

 

"Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông."… “Hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội… nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do”

“Chúng tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ”…

"Chúng tôi đâu phải là con hoang. Chúng tôi chỉ có một Cha: đó là Thiên Chúa!" 


Thứ 5 

Gioan 8:51-59

 

“Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết"…

“Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi”

"Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám… Ông cho mình là ai?”

“Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ”.


Thứ 6 

Gioan 10:31-42

 

"Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?"

“Dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc của Cha Ta, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha"

"Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa".

“Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ… Có nhiều kẻ đến cùng Người. .. Và có nhiều kẻ tin Người"

 


 

Thứ 7 

Gioan 11:45-56

(Sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hồi sinh Lazarô)

“có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm”.

“Từ ngày đó, họ quyết định giết Người”.

“Vì thế Chúa Giêsu không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ”.

“Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: ‘Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?’"

"Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người".

 

Thật ra, thái độ cứng lòng và mù quáng của chung người Do Thái và riêng thành phần giáo quyền lãnh đạo Do Thái tỏ ra trước Chúa Giêsu Kitô, dữ dội đến độ Người càng tỏ mình ra họ lại càng muốn tiêu diệt Người đi, cũng vẫn có thể thông cảm được. Bởi vì, chính thành phần tông đồ được Người tuyển chọn ở với Người để có thể nhận biết Người nhờ đó trở thành những chứng nhân tiên khởi cho Người sau này mà còn bán nộp Người và trắng trợn chối bỏ Người huống chi là họ. 

Cái lạ lùng quái quẩn ở đây nữa là thậm chí các tông đồ đã thực sự nhận biết và tuyên xưng Người một cách chính xác đúng như căn tính của Người rằng: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), ấy thế mà một người là Giuđa Íchca trong họ vẫn phản nộp Người và chính vị lãnh đạo tông đồ đoàn của họ lại trắng trợn chối bỏ Người, và "tất cả đều bỏ Người mà tẩu thoát" (Marco 14:50) khi Người bị bắt trong Vườn Cây Dầu vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh. 

Đó là lý do cả thành phần môn đệ yêu dấu thân cận nhất của Người, chung dân Do Thái và cách riêng thành phần lãnh đạo dân Do Thái, kể cả thành phần dân ngoại thuôc đế quốc Rôma lên án tử cho Người và hành hạ Người một cách vô cùng dã man vô nhân đạo, đều được bao gồm trong lời đầu tiên của Chúa Giêsu trên thập tự giá: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết việc họ làm" (Luca 23:34).

Đúng như câu đáp chính yếu của bài Đáp Ca hôm nay (Giêrêmia 31:10,11-12ab,13), Người quả là "mục tử chăn dắt đoàn chiên mình", một đoàn chiên bao gồm toàn thể loài người, bởi Người đã mặc lấy nhân tính của chung loài người, chứ không phải bản tính riêng của người Do Thái, nhưng lại mang chính giòng máu Do Thái, với tư cách là Đấng Thiên Sai của họ, nhờ đó mới là Đấng Cứu Thế xuất thân từ Do Thái, đúng như giao ước và lời hứa của Thiên Chúa Cha Người đã tự động ký kết với cha ông tổ phụ của họ và thực hiện trong lịch sử cứu độ của họ, bất chấp họ có trung thành với giao ước của Ngài hay chăng, cho đến khi Ngài hoàn tất hết mọi sự nơi Con của Ngài "khi đến thời điểm viên trọn" (Galata 4:4). 

Bởi thế, cho dù bài phúc âm hôm nay đượm mầu sắc và bầu khí đầy những ảm đạm cùng buồn thảm, nhưng trong bài đọc một lại hiện lên cả một chân trời sáng lánh rạng ngời theo dự án thần linh cứu độ của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất vô cùng yêu thương nhân hậu đã tỏ mình ra nơi Con của Ngài, một dự án thần linh cũng được le lói ngay trong bài phúc âm hôm nay, qua lời chú giải của vị thánh ký đóng vai tiên tri, đó là tông đồ Gioan, vị tông đồ tiên tri có thể nói duy nhất của Tân Ước, vì ngài còn là tác giả của Sách Khải Huyền liên quan đến "trời mới đất mới" (Khải Huyền 21:1), đến "một tân đô Giêrusalem" (Khải Huyền 21:2), đến "mọi sự mới" (Khải Huyền 21:5).

Đúng vậy, trong bài phúc âm hôm nay, ngay sau khi ghi lại lời của Thượng Tế Caipha liên quan đến mưu đồ sát hại Chúa Giêsu: "Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt", vị tông đồ được Chúa Giêsu yêu này đã chú giải "không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".


Vị tông đồ tiên tri này dường như đã chú giải theo chiều hướng của dự án thần linh đã được Tiên Tri Êzêkiên loan báo trong Cựu Ước, trong đó bao gồm chẳng những vai trò "chỉ có một chủ chăn mà thôi" của chính Chúa Kitô Thiên Sai, qua nhân vật biểu tượng Đavít là cha ông của Người và Người là dòng dõi theo huyết tộc, mà còn bao gồm cả "một giao ước vĩnh cửu" mà Người sẽ thiết lập bằng máu của Người, như Người đã long trọng tuyên bố trong Bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích Thánh Thể (xem Luca 22:20), với các tông đồ là nền tảng của một Giáo Hội được Người thiết lập như là một "nơi thánh", một "Nhà Tạm... đến muôn đời":


"Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".

Phải chăng những lời tiên tri này của Cựu Ước đã được ứng nghiệm ngay từ Chúa Nhật Lễ Lá (ngày mai), thời điểm Giáo Hội long trọng cử hành biến cố Chúa Kitô vinh quang tiến vào Thành Thánh Giêrusalem như một Đứa Vua và được hoan hô chúc tụng là “Hoan hô Con Vua Đavít” (Mathêu 21:9) hay “chúc tụng vương quốc Đavít cha ông của chúng ta đã đến” (Marcô 11:10).

Sự kiện Chúa Giêsu vinh quang tiến vào Thành Thánh Giêrusalem ấy là câu trả lời hùng hồn nhất cho thắc mắc của những người đã có mặt ở Giêrusalem bấy giờ, như bài phúc âm hôm nay thuật lại: “Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: ‘Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?’" 

Phải, Người phải đến, phải xuất hiện, vì “đã đến giờ Con Người được vinh hiển” (Gioan 12:23), không phải là vinh hiển khi Người tiến vào Thành Thánh Giêrusalem, được các môn đệ và đa số dân chúng đông đảo hoan hô chúc tụng nghênh đón, cho bằng cái vinh hiển của Người trên Sọ Trường (Golgotha) Canvê, với triều thiên là mạo gai, ngai tòa là Thánh Giá và vệ quân là hai tên tử tội trộm cướp, với tấm bảng được gắn ở cây thập tự giá: “Giêsu Nazarét – Vua Dân Do Thái” (Gioan 19:19).

Trong Mùa Chay, từ tuần lễ Thứ Tư trở đi, Giáo Hội đã cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan về tiến trình tỏ mình ra của Chúa Kitô Thiên Sai với dân Do Thái, trong đó bao gồm cả những thái độ cùng phản ứng ngược chiều của thành phần dân tuyển chọn này, cho đến khi dự án cứu độ thần linh vô cùng huyền diệu của Thiên Chúa được hiện thực một cách hoàn toàn ứng nghiệm nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô khổ nạn, tử giá và phục sinh, một biến cố tột đỉnh của tất cả Lòng Thương Xót Chúa cũng như của Phụng Niên, được cử hành trong Tuần Thánh, nhất là Tam Nhật Vượt Qua, bắt đầu từ ngày mai, Chúa Nhật Lễ Lá bắt đầu Tuần Thương Khó được kết thúc vào Chúa Nhật Phục Sinh.