SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XIII Thường Niên Năm B và Năm Lẻ

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Chúa Nhật 13 Quanh Năm Năm B

 

Lời Chúa

 

Chúa Nhật

 

Bài Ðọc I: G Kn 1, 13-15; 2, 23-25

"Bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian".

Trích sách Khôn Ngoan.

Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian.

Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11-12a và 13b

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Chúa đã đưa linh hồn con thoát xa âm phủ; Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Ngài, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Cr 8, 7. 9. 13-15

"Sự dư thừa của anh em bù đắp lại sự thiếu thốn của những anh em nghèo khó".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, cũng như anh em vượt trổi về mọi mặt: về lòng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết, về mọi hình thức nhiệt thành, cũng như về lòng bác ái của anh em, thì anh em cũng phải vượt trổi trong việc phúc đức này.

Vì anh em biết lòng quảng đại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: mặc dù giàu sang, Người đã nên thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Người, anh em nên giàu có. Nhưng không lẽ để cho kẻ khác được thư thái, mà anh em phải túng thiếu, nhưng phải làm sao cho đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, sự dư giả của anh em bù đắp lại chỗ thiếu thốn của họ, để sự dư giả của họ bù đắp lại sự thiếu thốn của anh em, hầu có sự đồng đều như lời đã chép rằng: "Kẻ được nhiều, thì cũng không dư; mà kẻ có ít, cũng không thiếu".

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 5, 21-43

"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.

{Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: "Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi 'Ai chạm đến Ta?'!" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: "Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh".}

Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: "Talitha, Koumi", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy và bảo họ cho em bé ăn.

Ðó là lời Chúa.


Image result for Mc 5, 21-43

tà áo chữa lành, bàn tay cải tử

Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh vẫn còn tiếp tục ở Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, như trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XIII Thường Niên Nam B hôm nay (Marco 5:21-43 hay 5:21-24,35a-43) cho thấy, qua phép lạ Chúa Giêsu hồi sinh người con gái đã chết của ông Giairô nhờ lòng tin tưởng của ông.
Thật vậy, thái độ "sụp lạy và van xin" của một trưởng hội đường như ông, được Thánh ký Marco diễn tả trong bài Phúc Âm hôm nay đã chứng tỏ đức tin của ông: "Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: 'Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống'". 
Chính Chúa Giêsu "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25) cũng muốn lợi dụng trường hợp người con gái của ông để tỏ mình ra. Bởi thế, cho dù đứa con gái của ông đã "chết rồi", như người nhà của ông báo cho ông biết và can ông rằng: "còn phiền Thầy làm chi nữa?" nhưng chính Chúa Giêsu bấy giờ lại đích thân trấn an ông và củng cố đức tin cho ông: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin".
Tại sao Chúa Giêsu lại tỏ ra ân cần với người cha trưởng hội đường này một cách đặc biệt như vậy? Phải chăng vì ông có đức tin? Bằng không, ông không thể nào bỏ đứa con gái đang hấp hối gần chết và chết bất cứ lúc nào của mình ở nhà để đích thân tìm đến với Người, nhỡ ở nhà con gái của ông chết thì sao, và như thế thì ông không được nhìn nó lần cuối. Để đề phòng ông có thể sai gia nhân hay thân nhân đi đến với Chúa Giêsu thay cho ông cũng được vậy, nhưng ông lại không làm thế, chứng tỏ ông hết lòng tin tưởng cậy trông nơi Đấng duy nhất có thể cứu con ông.
Chưa hết, nếu Chúa Giêsu không chậm trễ một chút bởi người đàn bà loạn huyết 12 năm được chữa lành trên đường Người đến nhà ông Giairô thì có thể Người đã đến nhà ông ngay trước khi người con gái của ông chết. Thế nhưng, vì Người có quyền cải tử hoàn sinh cho bất cứ một con người nào, như sau này Người đã làm cho Lazarô chết 4 ngày vẫn có thể hồi sinh (xem Gioan 11:43-44), mà Người đã không cần hấp tấp hối hả. Có lẽ vì việc chữa lành cho người đàn bà loạn huyết 12 năm này không hợp với chủ đề "sự sống" nên Giáo Hội không buộc phải đọc đoạn liên quan đến người đàn bà này.
Về những trường hợp người chết được Chúa Giêsu cải tử hoàn sinh, như trường hợp Lazarô đã chết mà Người bảo là đang ngủ (xem Gioan 11:11) thế nào thì trường hợp của người con gái ông Giairô này cũng thế, như Thánh ký marcô thuật lại: "Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: 'Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó'".
Thật vậy, Chúa Giêsu đến trần gian này không phải chỉ để cứu vớt linh hồn người ta mà cả thân xác của họ nữa, nghĩa là Người cứu toàn thể bản tính của con người (bao gồm cả hồn lẫn xác), bằng chính nhân tính Người mặc lấy để có thể tử giá và phục sinh, nhờ đó, nơi Người, nhân tính của loài người đã bị hư đi bởi nguyên tội, được giải cứu khỏi tội lỗi và sự chết. 
Thế nên, đối với người và theo công cuộc cứu độ của Người thì con người chết đi chẳng khác gì như là một giấc ngủ để chờ ngày phục sinh từ trong cõi chết. Cái chết đáng sợ nhất, cái chết thật sự là chết, không còn bao giờ hồi sinh sống lại nữa, vĩnh viễn hư đi, không thể nào còn cứu được nữa đó là "cái chết lần thứ hai", như được Sách Khải Huyền nói tới (xem 2:11; 20:6,14; 21:8).
Theo dự án thần linh của mình, Thiên Chúa tạo dựng nên loài người là để cho họ được hiệp thông thần linh với Ngài, được sống sự sống thần linh của Ngài và với Ngài muôn đời muôn kiếp, chứ không phải để đầy đọa họ, bởi thế, sau khi họ bị tiêm nhiễm nọc độc sự chết từ ma quỉ, Ngài chẳng những không trừng phạt họ như trừng phạt ma quỉ mà còn sai Con Một của Ngài xuống trần gian vô cùng thấp hèn và chịu chết vô cùng khốn khổ nhục nhã để giải cứu họ khỏi sự chết và tội lỗi cùng ban sự sống cho họ. 
Sách Khôn Ngoan (1:13-15; 2:23-25) trong bài đọc 1 hôm nay đã cảm nhận, xác tín và tuyên xưng như thế: "Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian. Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó".
Thánh Phaolô Tông Đồ, ở bài đọc 2 hôm nay, qua Thư 2 gửi Giáo Đoàn Corinto (8:7,9,13-15), cũng đã căn cứ vào gương sống quảng đại của Chúa Kitô, "Vị mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên... cho chiên được sống và sống viên mãn" (Gioan 10:11,10): "mặc dù giàu sang, Người đã nên thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Người, anh em nên giàu có", để huấn dụ Kitô hữu ở đây sống bác ái yêu thương nhau được thể hiện bằng việc bù đắp tình trạng thiếu thốn của nhau: "Trong hoàn cảnh hiện tại, sự dư giả của anh em bù đắp lại chỗ thiếu thốn của họ, để sự dư giả của họ bù đắp lại sự thiếu thốn của anh em". 
Trước tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người để cho họ được sống, và cho dù có đã chết đi cũng đã được Ngài cải tử hoàn sinh nơi Người Con của Ngài, mà loài người nói chung và những ai thuộc về Dân Chúa nói riêng cần phải có một tâm tình tri ân cảm mến chúc tụng Ngài, như Bài Thánh Vịnh 29 (2 và 4,5-6,11-12a và 13b) trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Chúa đã đưa linh hồn con thoát xa âm phủ; Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. 

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Ngài, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. 

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. 



Thánh Cyrilo Alexandria Giám Mục Tiến Sĩ
27/6

A Profile of Saint Cyril of Alexandria | MYSTAGOGY RESOURCE CENTER

Năm 412 thánh Cyrillô kế vị cậu Ngài là Theophilô làm giám mục Alexandria. Khi ấy Ngài đã vào khoảng trung tuần. Người ta không biết gì về cuộc sống Ngài trước đó, trừ trường hợp, Ngài có mặt trong vụ kết án thánh Gioan Kim Khẩu năm 408. Hiển nhiên là Ngài đã có thời sống như một ẩn sĩ trong sa mạc và đã được giáo dục kỹ lưỡng về văn chương Hy Lạp.

Vào thế kỷ V, các giáo phụ Alexandria đã trở thành những giám mục giàu có và uy quyền nhất trong đế quốc. Trở thành Kitô, người Ai cập vẫn còn mang những gì còn lại trong tâm tình dân tộc của mình. Các giám mục tự mô tả như là những Đấng kế vị thánh Marcô, nhưng cũng kế nhiệm các thượng tế Amen Ra và có phong cách nào đó của Pharao.

Suốt 15 năm đầu làm giám mục, thánh Cyrillô đã đập tan thế hệ cầm quyền và những nhà đổi tiền Do thái ở Alexandria. Việc thực thi đức ái của Ngài đối với người nghèo khó, bệnh hoạn cũng như lòng thương cảm sâu xa của Ngài với mọi tội nhân hối cải, luôn kèm theo một chút cứng rắn. Chắc chắn là các kẻ thù của Ngài cũng là kẻ thù của Thiên Chúa. Nhiệt tâm với các linh hồn và say mê bảo vệ đức tin Kitô giáo, Ngài sẵn sàng dùng đến mọi phương tiện trong tay như là của cải, tài khích lệ quần chúng và lực lượng các thầy dòng. Điều này giúp chúng ta hiểu được tại sao cuộc tranh luận về Kitô học mà Ngài giữ một vai trò lớn lao đã có màu sắc pha trộn chính trị lâu dài như vậy.

Năm 438, thầy dòng Nestôriô trở thành thượng phụ Constantinople. Dường như ông ta đã làm giám mục tại triều đình có tham vọng mãnh liệt, tin vào hiệu quả lớn mạnh do đời sống cầu nguyện của mình và có ý tiêu diệt mọi lạc thuyết. Đàng khác, không chắc rằng ông đã muốn trở thành lạc giáo. Vào đầu thế kỷ V, các thần học gia đều nhận rằng: Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Dầu vậy chưa có định tín về mối tương quan giữa Thiên tính và nhân tính của Người như thế nào. Thánh Cyrillo chủ trương rằng: cả hai bản tính kết hợp mật thiết với nhau, đến độ Mẹ Chúa Kitô cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Nestôriô thì phân biệt rằng Mẹ Con Trẻ Giêsu chỉ được gọi là Mẹ Chúa Kitô mà thôi. Mỗi bên đều tố cáo bên kia là lạc giáo.

Thánh Cyrillo liên kết với các tu sĩ Đông phương Ngài còn được Đức giáo hoàng nâng đỡ và cử làm Vị đại diện ở Đông phương. Với mệnh lệnh này, năm 430 Ngài kết án Nestôriô là lạc giáo tại một hội nghị ở Alexandria. Mùa hè năm 431, Ngài triệu tập và chủ tọa cộng đồng chung ở Ephesô. Nestôriô không những bị kết án mà còn bị truất phế nữa. Đức trinh Nữ được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa.

Công đồng Ephêsô được Đức giáo hoàng chuẩn nhận. Nhưng hoàng đế lại không công nhận vì thánh Cyrillo đã không đợi 43 giám mục có thiện cảm với Nestôriô tới họp. Thánh Cyrillo bị bắt ở Tiểu Á và bị giam tù trong hai tháng. Thánh phụ Antiôkia và các người dưới quyền cắt đứt hiệp thông với Ngài. Thánh nhân trốn về Ai cập và năm 433 kết hợp lại được với Antiôkia. Từ đó Ngài lại thúc đẩy hoàng đế chấp nhận các sắc lệnh của công đồng Ephêsô. Hoàng đế vẫn nghi ngờ Ngài cho đến khi Ngài qua đời vào năm 444. Thánh Cyrillo vẫn còn dấn thân vào cuộc tranh luận Kitô học này cho đến chết.

Không có nhà thần học Hy Lạp nào lớn hơn thánh Cyrillo. Ngài có khả năng tổng hợp và nhận định có thể so sánh được với thánh Augustinô. Không có thánh nhân nào bị phê bình tàn khốc như thánh nhân, nhưng ít có thánh nhân nào đã hăng hái như Ngài. Cả những người ghen ghét cũng không thể chất vấn về sự cao cả của Ngài. Bên dưới sự hăng hái của Ngài là cả một tình yêu mạnh mẽ đối với đức Kitô với niềm tin mãnh liệt vào lòng thương xót của Người. Đức giáo hoàng Celestinô xưng tụng Ngài là đấng bảo vệ Giáo hội và Đức tin”.

Thánh Cyrillô Alexandria là gương sáng cho chúng ta về lòng can đảm, dám đứng lên đấu tranh cho sự thật, bảo vệ đức tin. Xin Chúa vì công nghiệp của Thánh nhân ban cho mỗi chúng ta ơn can đảm làm chứng cho Chúa, bảo vệ đức tin vì lòng yêu mến Chúa và Giáo hội.

(tổng hợp)

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-27-6-thanh-cyrillo-alexandriatien-si-hoi-thanh-48352

https://giaophanvinhlong.net/thanh-cyrillo-alexandrino-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-444.html

http://giaoxutrungdong.com/phung-vu/hanh-cac-thanh/ngay-276-thanh-cyrillo-alexandrino-giam-muc-tien-si-hoi-thanh.html

Thánh Cyril sinh ở Alexandria, Ai Cập. Ngài là cháu của Ðức Theophilus, thượng phụ của Alexandria. Sau khi học xong kinh điển và thần học, ngài được chính bác của mình tấn phong linh mục và tháp tùng Ðức Theophilus đến Constantinople để tham dự Thượng Hội Ðồng Oak nhằm truất phế Ðức Gioan Kim Khẩu (sau này mới biết là bị kết tội oan).
 
    Khi Ðức Theophilus từ trần vào năm 412, ngài lên kế vị bác của mình sau cuộc tranh đấu với phe ủng hộ người đối thủ là Timotheus. Ngay sau khi lên ngôi, Ðức Cyril bắt đầu tấn công lạc thuyết Novatianô với việc đóng cửa các nhà thờ; đuổi những người Do Thái ra khỏi thành phố; và phản bác một số hành động của quan đầu tỉnh Orestes là người theo phe Novatianô.
 
    Vào năm 430, Ðức Cyril lại xung đột với Nestorius, thượng phụ của Constantinople, là người cho rằng Ðức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa vì Ðức Kitô là Thiên Chúa chứ không phải con người, hậu quả là không thể dùng chữ theotokos (người-mang-Thiên-Chúa) áp dụng cho Ðức Maria. Ðức Cyril thuyết phục được Ðức Giáo Hoàng Celestine I triệu tập một công đồng ở Rôma nhằm lên án Nestorius, và chính ngài cũng hành động tương tự trong công đồng Alexandria.
 
    Vào năm 431, Ðức Giáo Hoàng Celestine ra lệnh cho Ðức Cyril truất phế Nestorius. Trong Ðại Công Ðồng Ephêsô lần thứ ba, với sự tham dự của hai trăm giám mục và dưới sự chủ tọa của Ðức Cyril, công đồng đã lên án mọi giáo thuyết của Nestorius là sai lầm trước khi Ðức Tổng Giám Mục Gioan ở Antiôkia và bốn mươi hai môn đệ ủng hộ giáo thuyết của Nestorius kịp đến tham dự. Khi thấy mọi sự đã lỡ, họ tổ chức một công đồng riêng để truất phế Ðức Cyril. Hoàng Ðế Theodosius II bắt giữ cả hai người, Ðức Cyril và Nestorius nhưng sau đó đã trả tự do cho Ðức Cyril khi các đại diện của đức giáo hoàng xác nhận các quyết định của công đồng.
 
    Hai năm sau, Ðức Tổng Giám Mục Gioan, đại diện cho các giám mục ôn hòa ở Antiôkia, đã ký kết một thỏa ước với Ðức Cyril và cùng lên án Nestorius. Trong quãng đời còn lại, Ðức Cyril đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ học thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể nhằm ngăn chặn lạc thuyết Nestorius và Pelagian khỏi ăn sâu vào cộng đồng Kitô Hữu.
 
    Ngài là thần học gia sáng chói nhất của truyền thống Alexandria. Văn bút của ngài có đặc tính chính xác về tư tưởng, lập trường rõ ràng, và lý luận sắc bén. Các văn bản của ngài gồm các nhận định về Thánh Gioan, Thánh Luca, và ngày lễ Ngũ Tuần, các luận thuyết về thần học tín lý, cũng như các thư từ và bài giảng. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên xưng là tiến sĩ Giáo Hội vào năm 1882.
   
    Trích từ NguoiTinHuu.com

http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&tabId=392&ArticleID=60102 

 

Thứ Tư 3/10/2007 – Bài Giáo Lý 52 - Thánh giáo phụ Cyril Thành Alexandria

(ĐTC Biển Đức XVI)




Thứ Hai


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 18, 16-33

"Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao?"

Trích sách Sáng Thế.

Khi những vị ấy chỗi dậy, ra khỏi thung lũng Mambrê, liền trông về phía thành Sôđôma. Abraham cùng đi để tiễn chân các đấng. Chúa phán: "Nào Ta có thể giấu Abraham điều Ta sắp làm không? Vì Abraham sẽ trở nên một dân tộc vĩ đại và hùng cường, và muôn dân thiên hạ chẳng nhờ đó mà được chúc phúc sao? Ta biết Abraham sẽ truyền dạy cho con cháu và gia tộc mai sau phải tuân theo đường lối của Chúa, ăn ở ngay lành công chính, để Thiên Chúa ban cho Abraham những gì Người đã hứa cùng ông". Vậy Chúa phán: "Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ".

Các vị ấy bỏ nơi đó, đi về hướng thành Sôđôma. Nhưng Abraham vẫn còn đứng trước mặt Chúa. Ông tiến lại gần Người và thưa: "Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao? Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ, đừng đối xử với người công chính như với kẻ dữ! Xin đừng làm thế! Chúa phán xét thế giới, Chúa không xét đoán như thế đâu". Chúa phán cùng Abraham rằng: "Nếu Ta tìm thấy trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, Ta sẽ vì họ mà tha thứ cho cả thành". Abraham thưa lại: "Dù con chỉ là tro bụi, con đã bắt đầu nói, nên con xin thưa cùng Chúa con: Nếu trong số năm mươi người công chính đó còn thiếu năm người thì sao? Vì thiếu năm người Chúa có tàn phá cả thành không?" Chúa phán: "Nếu Ta tìm thấy bốn mươi lăm người công chính, Ta sẽ không phá huỷ cả thành". Abraham lại thưa cùng Chúa rằng: "Nhưng nếu có bốn mươi người thì Chúa sẽ làm gì?" Chúa phán: "Ta sẽ vì bốn mươi người đó mà không trừng phạt cả thành". Abraham thưa: "Lạy Chúa, nếu con lên tiếng, xin Chúa đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?" Chúa phán: "Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không phạt". Abraham nói: "Vì con đã trót nói thì con sẽ thưa cùng Chúa: Nếu trong thành tìm được hai mươi người công chính thì sao?" Chúa phán: "Vì hai mươi người đó Ta sẽ không tàn sát". Abraham thưa: "Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?" Chúa phán: "Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá".

Khi đã nói với Abraham xong, Chúa ra đi, và Abraham trở về nhà mình.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 8-9. 10-11

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi ân sủng. - Ðáp.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. - Ðáp.

4) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên trái đất, lòng nhân hậu Người siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 18-22

"Con hãy theo Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng vây quanh Người, thì Người ra lệnh sang qua bờ bên kia. Một luật sĩ đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, bất cứ Thầy đi đâu, con cũng xin theo Thầy". Chúa Giêsu trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu". Một môn đệ khác thưa Người rằng: "Thưa Thầy, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã". Chúa Giêsu trả lời: "Con hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết".

Ðó là lời Chúa.

 

Jesus com Tiago e João.

 

 


Suy Niệm

 

 

"kẻ chết chôn kẻ chết"

 

 

 

Bài Phúc Âm cho ngày trong tuần hôm nay rất ngắn gọn, chỉ bao gồm 2 câu trả lời của Chúa Giêsu cho 2 trường hợp khác nhau. Trường hợp thứ 1 về "Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo'" , và trường hợp thứ 2 về "Một người khác là người môn đệ thưa với Người: 'Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.'" 


Chúa Giêsu đã trả lời cho vị kinh sư rằng "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu", và trả lời cho người môn đệ rằng: "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ".  


Trước hết, chúng ta thấy nơi 2 câu Chúa Giêsu trả lời như thế này: câu thứ nhất cho vị kinh sư hoàn toàn có tính chất khách quan, thách đố và mời gọiđể vị kinh sư này suy nghĩ xem có thể theo Người là một tôn sư homeless vô gia cư để rồi tự quyết định lấy. 

Trái lại, câu trả lời thứ hai của Người (hình như) cho một trong thành phần môn đệ đã theo Người ngỏ lời xin phép Người cho về nhà lo phần an táng thân phụ của mình, có tính cách chủ quan, cương quyết và nghiêm ngặt, như thể đã theo Người thì không được coi ai hơn Người, dù là thân nhân ruột thịt của mình, và vì thế đừng lo chuyện thế gian, hãy để cho thế gian lo chuyện thế gian, "phần con, hãy theo Thày" (Gioan 21:22). 

Cả 2 câu trả lời này đều phản ảnh Bài Giảng Trên Núi về các Phúc Đức Trọn Lành mà Người đã huấn dụ các môn đệ của Người. Câu trả lời thứ nhất liên quan đến mối phúc đức trọn lành "ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật, vì chưng Nước Chúa Trời là của họ" (Mathêu 5:3), và câu trả lời thứ hai liên quan đến lời huấn dụ của Người: "Trước hết hãy tìm Nước Chúa và sự cống chính của Ngài, còn tất cả mọi sự khác sẽ được ban cho sau" (Mathêu 6:33). 

Tóm lại, qua hai câu trả lời này, Chúa Giêsu kêu gọi ai muốn theo Người thì phải sống trọn lành hơn, một sự sống như Người (câu trả lời 1) và với Người (câu trả lời 2), một sự sống nhờ đó mới có thể "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48). 

Câu Chúa Giêsu huấn dụ người môn đệ nào đó "xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã" rằng "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ" không phải là một thứ huấn dụ dạy con cái bất hiếu với cha mẹ của mình, trái lại, Người muốn thăng hóa và thánh hóa tình nghĩa xác thịt, như Người đã đối xử với chính Mẹ của người sau khi Mẹ Người tìm thấy Người trong đền thờ sau 3 ngày lạc mất Người (xem Luca 2:49), hay khi Mẹ Người và anh chị em họ của Người ở bên ngoài muốn gặp Người (xem Luca 8:20). 

 

Bởi thế, phải hiểu cái "chết" trong câu Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây không phải chỉ hoàn toàn về phần xác mà còn nhất là về phần hồn. Và vì thế lời khuyên của Chúa Giêsu ở đây có thể hiểu là ai muốn theo Người và muốn làm môn đệ đích thực của người thì phải làm sao sống vượt lên trên thế gian, đừng chiều theo khuynh hướng chết chóc của thế gian, khuynh hướng "chuộng tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), khuynh hướng thích đi vào con đường rộng dẫn đến diệt vong (xem Mathêu 7:13). Nhờ đó, họ chẳng những thoát khỏi cái chết của thế gian mà còn có thể cứu được thế gian nữa bằng thế giá thánh đức của họ trước nhan Chúa. 

 

Tổ phụ Abraham trong Bài Đọc 1 hôm nay quả thật là cha của kẻ tin nên mới có thế giá trước mặt Thiên Chúa như vậy, mới thân tình với Thiên Chúa như thế, đến độ Ngài không thể giấu ông những gì Ngài đang có ý định thực hiện: "Nào Ta có thể giấu Abraham điều Ta sắp làm không?" Đó là ý định hủy diệt Thành Sodoma và Gomora vì "tội lỗi chúng quá nặng nề!" 

 

Khi biết được ý định của Thiên Chúa, nhờ thân tình với Ngài, và vì mối thân tình thần linh không thể nào lại là một mối thân tình vị kỷ, chỉ biết hoan hưởng mối hiệp thông thần linh giữa mình với Chúa, bất chấp mọi sự khác liên quan đến phần rỗi đời đời của tha nhân. Thiên Chúa sở dĩ tỏ cho Abraham biết ý định của Ngài không phải để cho Abraham biết vậy thôi, mà có ý muốn Abrahm can thiệp với Ngài cho 2 thành tội lỗi quá mức đáng bị hủy diệt này, nghĩa là bao giờ Thiên Chúa cũng vẫn tỏ lòng thương xót trước khi Ngài bất đắc dĩ phải thi hành công lý của Ngài. 

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, trích từ Sách Khởi Nguyên, cho dù tổ phụ Abraham đã vì thân tình với Thiên Chúa mà mặc cả cùng Ngài về số người công chính có thể cứu cả thành, không dám xuống thấp hơn 10 người, nhưng Thiên Chúa vô cùng nhân hậu thật ra cũng chẳng cần đến 10 người công chính, mà chỉ cần một người công chính cũng được, như chính một mình bản thân của Abraham là cha của kẻ tin, như Ngài sau này chỉ vì một mình Mose van xin mà Thiên Chúa đang bừng cơn thịnh nộ sẽ tha chết cho cả một dân tộc ương ngạnh, cứng đầu và nổi loạn (xem Xuất Hành 32:11-14). 

 

Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới có câu đáp chính yếu là "Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót" một câu đáp sau mỗi một tâm tình tri ân cảm tạ và chúc tụng ngợi khen Lòng Thương Xót của Ngài:

 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi ân sủng.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn.

4) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên trái đất, lòng nhân hậu Người siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người.

 

 

 

 

Ngày 28 tháng 6

Thánh I-rê-nê, giám mục, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

Saint Irene High Resolution Stock Photography and Images - Alamy

Chào đời khoảng năm 130, lớn lên học ở Xi-miếc-na, I-rê-nê trở thành môn đệ của thánh Pô-ly-cáp, giám mục thành này. Năm 177, người chịu chức linh mục tại Ly-ông (Pháp). Sau đó một thời gian ngắn, người làm giám mục giáo phận này. Trong nhiệm vụ mục tử, người lo loan báo Tin Mừng cho các dân xứ Gô-lơ, nhưng người cũng lo bảo vệ đức tin tinh tuyền chống lại những sai lầm của phái ngộ đạo. Các tác phẩm của người cho ta có được cái nhìn sâu sắc về kế hoạch của Thiên Chúa, về ơn gọi của con người và mầu nhiệm Hội Thánh. Người lãnh nhận triều thiên tử đạo khoảng năm 200.

 

Bài đọc 2

Con người sống là vinh quang của Thiên Chúa,
còn sự sống của con người là nhìn thấy Thiên Chúa

Trích khảo luận Chống lạc giáo của thánh I-rê-nê, giám mục.

Vinh quang của Thiên Chúa làm cho sống, nên ai thấy Thiên Chúa thì đón nhận được sự sống. Vì thế, Đấng mà loài người không thể dò thấu, không thể lãnh hội, không thể thấy được thì lại tỏ mình ra cho họ thấy, cho họ lãnh hội và dò thấu, để ban sự sống cho những ai đón nhận và thấy Người. Vì không thể sống mà không có sự sống, nên sự sống chỉ tồn tại khi nó thông phần vào sự sống của Thiên Chúa, mà thông phần vào sự sống của Thiên Chúa là được thấy Thiên Chúa và vui hưởng lòng nhân hậu của Người.

Vì vậy, nếu muốn được sống thì con người phải thấy Thiên Chúa ; nhờ được thấy như thế, họ trở thành bất tử và đạt tới chính Thiên Chúa. Như tôi đã nói trên đây, đó là điều mà các ngôn sứ đã diễn tả một cách bóng bẩy, vì những ai mang thần khí Thiên Chúa và đợi chờ Thiên Chúa đến thì được thấy Người. Và như ông Mô-sê nói trong sách Đệ nhị luật : Trong ngày ấy, chúng tôi sẽ thấy, vì Thiên Chúa nói với con người và họ sẽ được sống.

Đấng thực hiện mọi sự nơi mọi người, Đấng cao cả và vô cùng lớn lao, Đấng vô hình và khôn tả đối với muôn loài Người đã dựng nên, Đấng ấy lại không phải là Đấng không ai biết đến. Thật vậy, nhờ Ngôi Lời của Người, vạn vật học biết rằng có một Thiên Chúa là Cha, Đấng bao trùm vạn vật và làm cho chúng hiện hữu như trong Tin Mừng có lời chép : Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chính Con Một, Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, không tỏ cho biết.

Vậy, Đấng tỏ cho biết, từ đầu đã là Con của Chúa Cha, vì từ đầu Người vẫn ở với Chúa Cha. Người là Đấng đã tỏ cho loài người một cách tuần tự, hài hoà và đúng thời đúng lúc, những thị kiến tiên tri, những ân điển và tác vụ khác nhau để tôn vinh Chúa Cha, đồng thời mưu ích cho nhân loại. Quả vậy, ở đâu có tuần tự thì ở đó có hài hoà, ở đâu có hài hoà thì ở đó đúng thời đúng lúc, và ở đâu đúng thời đúng lúc thì ở đó có ích lợi.

Bởi thế, vì lợi ích của nhân loại, Ngôi Lời đã trở thành Đấng phân phát ân sủng của Chúa Cha. Chính vì nhân loại mà Người đã thực hiện biết bao việc diệu kỳ, để mặc khải Thiên Chúa cho con người và tỏ bày con người với Thiên Chúa. Một đàng, Người vẫn tôn trọng tính vô hình của Chúa Cha, để con người không coi thường Thiên Chúa, trái lại luôn biết phải hướng về mục tiêu nào ; đàng khác, qua nhiều việc kỳ diệu, Người lại cho nhân loại thấy được Thiên Chúa, kẻo họ hoàn toàn xa lìa Thiên Chúa mà không còn tồn tại. Thật vậy, con người sống là vinh quang của Thiên Chúa, còn sự sống của con người là nhìn thấy Thiên Chúa. Quả thế, nếu việc Thiên Chúa được nhận biết qua thụ tạo đã mang lại sự sống cho mọi kẻ hiện hữu trên mặt đất, thì việc Chúa Cha được nhận biết qua Ngôi Lời càng mang lại sự sống hơn biết bao cho những ai nhìn thấy Thiên Chúa.

 

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh giám mục I-rê-nê thành công bênh đỡ đức tin chân chính và xây dựng sự thuận hoà trong Giáo Hội. Xin nhậm lời thánh nhân chuyển cầu mà củng cố niềm tin và lòng mến của chúng con, để chúng con đem hết sức mình làm cho mọi người luôn đồng tâm nhất trí. Chúng con cầu xin

 

 

Thánh Irênê sinh tại Tiểu Á vào giữa thế kỷ II. Chúng ta biết được phần nào ngày sinh của Ngài, dựa vào bản tường thuật Ngài viết về thánh Policarpô. Ngài viết cho Flôrinô:

- “Tôi có thể nói với ông nơi thánh Pôlicarpô ngồi khi Ngài rao giảng lời Chúa, tôi được thấy Người ra vào. Bước chân, phong thái, cách sống và lời Ngài nói in sâu vào lòng tôi. Tôi như còn nghe thấy Người kể lại cách người đàm luận với thánh Gioan và các tông đồ khác đã thấy mặt Chúa. Người nói lại cho chúng tôi những lời nói và những điều các Ngài đã học được liên quan đến Chúa Giêsu. Các phép lạ và giáo thuyết của Chúa.”

Thánh Irênê còn phấn khởi ghi thêm:

- “Tôi ghi nhận các hành vi và lời nói ấy không phải trên bảng viết mà là trong sâu thẳm tâm hồn. Thiên Chúa cho tôi được ơn không ngừng nhớ lại những kỷ niệm ấy trong lòng.”

Như vậy, thánh Irênê luôn nhớ mãi hình ảnh sống động của thánh Policarpô qua đời năm 155. Vậy có thể là thánh Irênê ra đời khoảng từ năm 130 đến 135, và Ngài được giáo dục tại Smyrna, làm môn đồ của thánh Pôlicarpô. Hấp thụ nền giáo dục gần với các tông đồ. Nhất là với thánh Gioan, thánh Irênê còn ở trong vòng ánh sáng mà tâm điểm là tình yêu đằm thắm giữa thánh Gioan với Chúa Kitô. Trong tác phẩm dài “Adversus Haereses” của Ngài. Chúng ta cảm thấy Ngài là người được thấm nhiễm một trực giác hiếm có.

Thánh Pôlicarpô gọi Irênê sang Gaule. Tại đây thánh Pôthinô, Giám mục Lyon phong chức linh mục cho Ngài. Phần đóng góp của thánh Irênê cho Giáo Hội thật lớn. Ngài chú tâm tới mọi khoa học, chuyên cần suy gẫm Thánh Kinh. Khi nghiên cứu huyền thoại và các hệ thống triết học ngại giáo, Ngài biết tìm ra nguồn gốc các sai lầm và bác bỏ các lạc thuyết pha trộn huyền thoại vào Kitô giáo. Tertulianô đã tuyên nhận rằng không có ai nỗ lực tìm tòi hơn là thánh Irênê. Thánh Hiêrônimô, nại đến thánh nhân để củng xố uy tín của mình. Ngài được coi như là ánh sáng các vùng Gaules ở Phương Tây.

Năm 177, thánh Irênê được cử làm đại diện về Rôma, bên cạnh Đức Giáo Hoàng để thực hiện một sứ mệnh tế nhị là dàn xếp ngày mừng lễ Phục sinh

Trở lại Lyon, thánh Irênê gặp lại một giáo đoàn côi cút. Marcô Aureliô vừa mới giết hại các Kitô hữu. Đức cha Pothinô đã bị sát hại. Thánh Irênê được bầu lên kế vị. Ngài trở thành thủ lãnh Giáo Hội tại xứ Gaule, bận rộn với công việc rao giảng, thánh nhân vẫn viết sách để chống đỡ chân lý. Ngài phải chiến đấu không ngừng, bởi vì cuộc bách hại tưởng chấm dứt khi Marcô Aureliô qua đời, nhưng các lạc giáo lại nổi lên chống phá Giáo Hội. Thánh Irênê dùng hết tâm trí và đức tin chống lại các lạc thuyết nhưng vẫn yêu thương những lẻ lầm lạc, Ngài cầu nguyện cho họ van nài họ trở về với Giáo Hội thật:

- “Hợp nhất với Chúa là sự sống và là Sự sống... Khốn khổ cho ai lìa xa sự hợp nhất ấy. Hình phạt đổ xuống họ không phải do Thiên Chúa mà do chính họ, vì khi chọn quay mặt khỏi Thiên Chúa, họ đánh mất mọi tài sản.”

Các tác phẩm lừng danh Ngài đã soạn khiến cho Ngài đáng được gọi là “Ánh sáng bên trời Tây.”

Dưới sự dẫn dắt của thánh Irênê, Lyon đã trở thành một trường dạy phụng sự Chúa đào tạo nhà tri thức và có khả năng truyền giáo. Thế hệ đầu tiên của trường đã bảo vệ đức tin tinh tuyền bằng những nghiên cứu và sách vở của họ. Thế hệ thứ hai phổ biến Tin Mừng đến những miền khác.

Hoàng đế Seltinô – Severô tái diễn cuộc bách hại. Ông gia hình cho đến chết những ai kiên trì với đức tin. Lyon là thành phố diễn ra cuộc hãm xác tập thể các Kitô hữu thật khủng khiếp. Máu chảy thành suối trên đường phố tiếp nối dòng máu các Giám mục tử đạo, thánh Irênê, cũng bị hạ sát với đàn chiên mình. Một tài liệu cố tìm được cho thấy có đến 19 ngàn Kitô hữu cùng chịu khổ chịu chết vì đạo với Ngài.

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-irene-giam-muctu-dao-42722

 

https://giaophanvinhlong.net/thanh-irene-giam-muc-tu-dao-130202.html

 

Thánh Irênê sinh vào khoảng năm 135 tại Smyrna, tức Ízmir, Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay. Ngài xuất thân từ một gia đình Ki-tô giáo gốc Hy-lạp, và là người có học thức. Có lẽ Thánh Nhân là môn sinh của Thánh Polykarpo Giám mục thành Smyrna. Khi lớn lên, Irênê đã đi tới nước Pháp và lập cư tại Lyon. Tại đó, anh đã làm việc trong một nhóm thương gia gốc Tiểu Á nói tiếng Hy-lạp. Nhóm này càng ngày càng thêm đông số và cần có một Linh mục phụ trách. Vì thế, Irênê đã được phong chức Thánh và được chỉ định phụ trách Cộng Đoàn nói tiếng Hy-lạp đó.

Khi chủ thuyết Montano xuất hiện và lan rộng, một số các Ki-tô hữu đến từ thành phố Viên cũng như đến từ thành phố Lyon đã cử Cha Irênê về Rô-ma để thỉnh ý Giáo hội Mẹ về chủ thuyết nói trên. Trong lúc Cha Irênê trẩy đi Rô-ma thì tại Lyon đã xảy ra một cuộc bách hại lớn nhắm vào các Ki-tô hữu. Đức Giám mục của Giáo phận Lyon lúc ấy là Pothinus đã bị bắt giam cùng với nhiều Ki-tô hữu khác, và đều được phúc Tử Đạo. Khi rời Rô-ma để trở về Lyon, Cha Irênê đã được số Ki-tô hữu còn sót lại của Cộng Đoàn này bầu làm Giám mục. Thời gian Ngài trở thành Giám mục được xác định là năm 177.

Vào năm 180, trong cuộc tranh luận với giáo thuyết của bè rối Duy Tri cũng như với những luồng tư tưởng khác cùng thời với Ngài, Thánh Irênê đã viết một bộ Bút Chiến gồm năm cuốn mang tính kinh điển với tựa đề „Adversus haereses“ nhằm chống lại những lạc thuyết đó. Với tác phẩm này, Thánh Irênê đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về Đức Tin Ki-tô giáo, rồi với những bằng chứng cặn kẽ được trích từ Kinh Thánh, đã vạch trần và bác bỏ lạc thuyết được gọi là Duy Tri. Mãi tới năm 1904 người ta mới phát hiện ra một tác phẩm ngắn của Ngài về những lời chứng của các Tông Đồ đã được dịch sang tiếng A-ram. Với tư cách là những bài Giáo Lý, tác phẩm này muốn trình bày sứ điệp Ki-tô giáo qua việc giải thích các bản văn Kinh Thánh Cựu Ước dưới nhãn quan Ki-tô học.

Thánh Irênê đã đặt Giáo hội vào trong sự nguyên sơ, vào tính phổ quát và vào tính thống nhất của chính Giáo hội để chống lại các lạc thuyết đang bị ghi đậm dấu ấn của sự chệch hướng cũng như của sự phân hóa. Ngài nhấn mạnh tới tính hợp pháp của Giáo hội nhờ vào việc kế vị các Tông Đồ của các Giám mục, chẳng hạn như các Đức Giám Mục thành Rô-ma, cũng như nhờ vào việc theo sát các bản văn Cựu và Tân Ước mà chỉ duy chúng mới có thẩm quyền với tư cách là quy điển chân lý. Thánh Nhân cũng phát triển một khoa chú giải Kinh Thánh dựa vào phương pháp luận.

Nhằm chống lại những giáo thuyết của phái Duy Tri, Thánh Irênê còn nhấn mạnh tới Đức Tin vào một Thiên Chúa duy nhất và là Đấng sáng Tạo, Đấng chứng thực cho sự sống trên thế giới, cũng như nhấn mạnh tới tầm quan trọng của nền luân lý, và sự mong chờ cuộc tái lâm của Chúa Ki-tô. Theo Thánh Nhân, con người được Thiên Chúa tạo dựng nên từ chính đôi tay của Ngài sẽ luôn hướng tới sự hoàn thiện theo nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa; tội lỗi của A-đam đã bị bãi bỏ nhờ Mầu Nhiệm Làm Người của Chúa Ki-tô. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, con người sẽ càng ngày càng được đến gần hơn với Thiên Chúa, và khát khao hưởng sự phục sinh cả thể xác lẫn linh hồn, có nghĩa là được dự phần vào Thần Khí của Thiên Chúa, Đấng duy nhất có khả năng làm cho sống.

Trong các tác phẩm của mình, Thánh Irênê đã viện dẫn một số các tác giả lớn đến từ Tiểu Á, chẳng hạn như Thánh Polykarpo thành Smyrna và Papias thành Hierapolis. Theophilos thành Antiochia cũng là tác giả được Ngài trưng dẫn nhiều. Ngoài ra, Ngài còn biết tới các tác phẩm của Đức Giáo Hoàng Clemens I, của Thánh Ignatio thành Antiochia, cũng như của Thánh Justinô.

Thánh Irênê là một trong những sáng lập viên của nền Thần Học Ki-tô giáo. Vì thế, người ta đã gọi Ngài với tước hiệu danh dự là Tổ Phụ ngành Tín Lý và Ngọn Đèn Sáng của Phương Tây. Và do đó, Ngài được liệt vào số các Giáo Phụ.

Thánh Giê-rô-ni-mô đã gọi Thánh Irênê là Thánh Tử Đạo. Còn Thánh Grê-gô-ri-ô thành Tour thì nói về Giám mục của thành Lyon rằng, Thánh Irênê đã được phúc Tử Đạo vào năm 202 dưới triều hoàng đế Lucius Septimius của Rô-ma. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy Thánh Irênê đã chết với tư cách là một vị Tử Đạo cả. Truyền thống vẫn cho rằng Ngài qua đời vào ngày 28 tháng 06 năm 202 tại Lyon, Pháp Quốc. Và theo truyền thuyết thì sau khi qua đời, thi hài của Thánh Irênê đã được người môn đệ thân tín của mình là Linh mục Clemens mai táng. Các tín hữu đã sớm tôn kính Ngài không chỉ với tư cách là một vị Thánh, nhưng cũng còn với tư cách là một vị Tử Đạo nữa.

Giáo hội Công giáo mừng Kính Thánh Irênê Giám mục Tử Đạo vào ngày 28 tháng 06 với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III. Các Giáo hội Tin lành và Anh giáo cũng mừng kính Ngài vào ngày 28 tháng 06. Nhưng Giáo hội Chính thống và Giáo hội Armenie thì lại mừng kính Ngài vào ngày 23 tháng 08.

Lm. Đa-minh Trần Tiến Thiệu, O.Cist

 

http://hoidongxitothanhgia.com/thu-vien/thanh-irene-giam-muc-tu-dao-3444.html

 

 

Thứ Tư 28/3/2007 – Bài 35: Thánh Irênê Thành Lyon

 

 

 

Thứ Ba

Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 19, 15-29

"Chúa cho mưa sinh diêm và lửa xuống trên thành Sôđôma và Gômôra".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, các thiên thần hối thúc ông Lót rằng: "Hãy chỗi dậy đem vợ và hai con gái của ngươi đi, kẻo chính ngươi cũng phải chết lây vì tội của thành Sôđôma!" Khi ông Lót còn đang do dự, các thiên thần nắm tay ông cùng vợ ông và hai con gái ông, vì Chúa muốn cứu thoát ông. Các thiên thần kéo ông ra ngoài thành và nói: "Ngươi muốn sống thì hãy chạy đi, đừng nhìn lại phía sau; cũng đừng dừng lại nơi nào cả trong miền quanh đây, nhưng hãy trốn lên núi, để khỏi chết lây!" Ông Lót thưa: "Lạy Chúa tôi, tôi van xin Ngài: Tôi tớ Chúa đã được Chúa thương yêu, và Chúa đã tỏ lòng khoan dung đại độ gìn giữ mạng sống tôi. Tôi không thể trốn lên núi kẻo gặp sự dữ mà chết mất. Gần đây có một thành phố nhỏ, tôi có thể chạy tới đó và thoát nạn. Thành đó chẳng nhỏ bé sao, xin cho tôi ẩn tránh tại đó để được sống". Thiên thần nói: "Thôi được, ta cũng chiều ý ngươi xin mà không tàn phá thành ngươi đã nói tới. Ngươi hãy mau mau trốn thoát tới đó, vì ta chẳng làm được gì trước khi ngươi đi tới đó". Bởi đó đã gọi tên thành ấy là Sêgor.

Mặt trời vừa mọc lên thì ông Lót vào đến thành Sêgor. Vậy Thiên Chúa cho mưa sinh diêm và lửa từ trời xuống trên thành Sôđôma và Gômôra. Người huỷ diệt các thành này, cả miền chung quanh, toàn thể dân cư trong thành cùng các giống xanh tươi trên đất. Bà vợ ông Lót nhìn lại phía sau, nên đã biến thành tượng muối.

Sáng sớm (hôm sau) ông Abraham thức dậy, đi đến nơi ông đã đứng hầu Chúa trước đây, ông nhìn về phía thành Sôđôma, và Gômôra và cả miền ấy, ông thấy khói từ đất bốc lên cao như khói một lò lửa hồng.

Khi Chúa phá huỷ các thành trong miền ấy, Người đã nhớ đến Abraham mà cứu ông Lót thoát cảnh tàn phá tại các thành mà ông đã cư ngụ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 25, 2-3. 9-10. 11-12

Ðáp: Lạy Chúa, con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt (c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin hãy thăm dò và thử thách con, xin Ngài luyện lọc thận tạng và tâm can. Vì con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt, và con sống theo chân lý của Ngài. - Ðáp.

2) Xin đừng cất linh hồn con cùng linh hồn người tội lỗi, đừng cất mạng sống con cùng mạng sống kẻ sát nhân; bọn người này nắm chặt tội ác trong tay, và tay hữu chúng ôm đầy lễ vật. - Ðáp.

3) Phần con, con vẫn sống tinh toàn, xin Ngài giải thoát và xót thương con. Chân con đứng vững trong đường bằng phẳng, trong các buổi hội họp, con sẽ chúc tụng Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 23-27

"Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, có các môn đệ theo Người. Và đây biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ. Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!" Chúa phán: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?" Bấy giờ Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ! Cho nên những người ấy kinh ngạc mà rằng: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?"

Ðó là lời Chúa.


Sailing Through the Storms(Matthew 8:23-27) – A Christian Magazine for  Young People


Suy Niệm



Muốn sống thì đừng nhìn lại

Bài Phúc Âm hôm nay của Thánh ký Mathêu (8:23-27) tương tự như bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Chúa Nhật XII Thường Niên Năm B. 
Tương tự ở 3 điểm sau đây: 1- thày trò đang ở trên cùng một thuyền thì "biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ"; 2- cảm thấy hoảng sợ "Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!'"; 3sau khi thấy Người dẹp yên bão tố xong thì các môn đệ tỏ vẻ kinh ngạc về Người: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?".
Thế nhưng, có một chi tiết hơi khác nhau giữa 2 bài phúc âm cùng thuật về một biến cốđó là thái độ của Chúa Giêsu trước tâm trạng của các môn đệ khi gặp nạn bấy giờ. Trong khi ở bài Phúc Âm Thánh ký Marco Chúa Giêsu dẹp yên sóng gió đã rồi mới lên tiếng khiển trách lòng tin của các môn đệ: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?", thì ở bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay Người lại khiển trách các vị trước khi ra tay dẹp yên bảo tố: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?" 
Trong câu Chúa Giêsu khiển trách sau khi dẹp yên bão tố, vấn đề sợ hãi trước rồi mới tới đức tin sau, như thể Người muốn nói với các vị rằng: "Vì các con sợ nên các con mới yếu tin, nên Thày đã tỏ quyền năng của Thày ra để các con tin vào Thày hầu sau này có bị nạn các con không sợ hãi nữa"; còn ở câu Người khiển trách trước khi ra tay khuất phục sóng gió, vấn đề đức tin trước sợ hãi sau, như thể Người muốn nói với các vị rằng: "Vì các con yếu tin nên các con mới sợ, bởi vậy Thày sẽ tỏ cho các con biết Thày là ai để các con lần sau không cảm thấy sợ hãi nữa khi Thày đang ở với các con". 

Trong bài đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, từ Sách Khởi Nguyên (19:15-29), Thiên Chúa cũng đã ra tay cứu Lot và gia đình của người cháu Abraham này khi Ngài ra tay thiêu hủy thánh Sođôma và Gômôra, và sở dĩ gia đình người cháu này được cứu là nhờ ở vị tổ phụ công chính luôn tin tưởng vào Chúa ấy: "Khi Chúa phá huỷ các thành trong miền ấy, Người đã nhớ đến Abraham mà cứu ông Lót thoát cảnh tàn phá tại các thành mà ông đã cư ngụ.".
Thiên Chúa đã vì Abraham mà cứu cháu Lot của ông và gia đình cháu, đến độ, như Sách Khởi Nguyên trong bài đọc 1 hôm nay kể: "Khi ông Lót còn đang do dự, các thiên thần nắm tay ông cùng vợ ông và hai con gái ông, vì Chúa muốn cứu thoát ông. Các thiên thần kéo ông ra ngoài thành và nói: 'Ngươi muốn sống thì hãy chạy đi, đừng nhìn lại phía sau; cũng đừng dừng lại nơi nào cả trong miền quanh đây, nhưng hãy trốn lên núi, để khỏi chết lây!'"
Sở dĩ người cháu này của tổ phụ Abraham tỏ ra lưỡng lự không phải vì tiếc của hay vì không tin vào thần sứ của Thiên Chúa cho bằng xin chạy đi lánh nạn ở một thành phố nhỏ gần đó hơn là lên núi: "Lạy Chúa tôi, tôi van xin Ngài: Tôi tớ Chúa đã được Chúa thương yêu, và Chúa đã tỏ lòng khoan dung đại độ gìn giữ mạng sống tôi. Tôi không thể trốn lên núi kẻo gặp sự dữ mà chết mất. Gần đây có một thành phố nhỏ, tôi có thể chạy tới đó và thoát nạn. Thành đó chẳng nhỏ bé sao, xin cho tôi ẩn tránh tại đó để được sống".
Thiên Chúa chẳng những đã chiều theo ý của người cháu này mà còn vì người cháu ấy mà không thiêu hủy thành mà người cháu ấy ngỏ ý muốn đến trú ẩn nữa: "'Thôi được, ta cũng chiều ý ngươi xin mà không tàn phá thành ngươi đã nói tới. Ngươi hãy mau mau trốn thoát tới đó, vì ta chẳng làm được gì trước khi ngươi đi tới đó'. Bởi vậy thành ấy được gọi là Segor. Mặt trời vừa mọc lên thì ông Lót vào đến thành Segor. Vậy Thiên Chúa cho mưa sinh diêm và lửa từ trời xuống trên thành Sôđôma và Gômôra". 
Như thế, chúng ta thấy, chính nhờ đức tin được thể hiện qua đời sống công chính mà Abraham đã cứu được gia đình cháu Lot của ông khỏi bị thiêu hủy trong thành mà cháu đã sống, và cũng nhờ đức tin công chính của người cháu Lót này của ông mà thành phố có sự hiện diện của người cháu ấy đã thoát bị thiêu hủy. 

Trong Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịnh 25 (2-3,9-10,11-12), tâm tình của thành phần công chính, như của tổ phụ Abraham hay của Cháu Lot của ông, đã được bày tỏ cùng Thiên Chúa như sau:

1) Lạy Chúa, xin hãy thăm dò và thử thách con, xin Ngài luyện lọc thận tạng và tâm can. Vì con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt, và con sống theo chân lý của Ngài. 

2) Xin đừng cất linh hồn con cùng linh hồn người tội lỗi, đừng cất mạng sống con cùng mạng sống kẻ sát nhân; bọn người này nắm chặt tội ác trong tay, và tay hữu chúng ôm đầy lễ vật.

3) Phần con, con vẫn sống tinh toàn, xin Ngài giải thoát và xót thương con. Chân con đứng vững trong đường bằng phẳng, trong các buổi hội họp, con sẽ chúc tụng Chúa. 




Ngày 29 tháng 6
THÁNH PHÊ-RÔ VÀ THÁNH PHAO-LÔ, TÔNG ĐỒ

St. Peter and St. Paul Holding Up the Church — Graber | Found

lễ trọng

Thánh Phê-rô và thánh Phao-lô không giống nhau về tính khí, cũng không giống nhau về phạm vi hoạt động. Hoàn cảnh các vị gặp Chúa đã tạo nên nét đặc biệt cho sứ vụ tông đồ của mỗi vị. Rồi tài ba của thánh Phao-lô quả là có một không hai trong Ki-tô giáo. Nhưng hai vị liên kết với nhau nhờ lòng tin sâu xa và lòng yêu mến nhiệt thành đối với Đức Ki-tô. Các vị đã đổ máu mình để làm chứng cho Chúa Ki-tô, tại Rô-ma : có lẽ thánh Phê-rô năm 64 và thánh Phao-lô năm 67.

Cuộc thương khó của hai thủ lãnh
Đã làm nên ngày thánh huy hoàng,
Phê-rô thắng trận vẻ vang,
Phao-lô chỉ cách bạn vàng ít lâu.

Cùng dòng máu anh hào tử tiết,
Kết giao thành bạn thiết nghìn thu,
Niềm tin vào Đức Ki-tô
Kiện toàn cuộc sống phượng thờ Chúa Cha.

Phê-rô thật chính là anh cả,
Nhưng Phao-lô cũng chả thua chi,
Bình vàng Chúa chọn ai bì,
Niềm tin son sắt kém gì hiền huynh.

Cây giá ngược chẳng kinh chẳng sợ,
Si-mon làm rạng rỡ Thánh Danh,
Nhớ câu Thầy nhắn nhủ mình,
Thân treo thập giá đóng đinh như Thầy.

Lòng sùng bái từ đây vươn mạnh,
Cả Rô-ma thành kính dâng lên,
Máu ai thắm đỏ tinh tuyền,
Máu Phê-rô đã thấm nền thánh đô.

Ai ngờ thiên hạ nô nức tới,
Người bốn phương trẩy hội nơi này.
Kinh thành vạn quốc là đây,
Ngai toà của Đấng làm thầy muôn dân.

Nguyện xin Chúa khoan nhân từ ái
Khấng nghe lời con cái nài van,
Ban cho hưởng phúc thiên đàng
Cùng hai thánh cả hát vang muôn đời.


Bài đọc 2

Các ngài được thấy thể hiện điều các ngài đã rao giảng

Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.

Cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ diễm phúc là thánh Phê-rô và thánh Phao-lô đã làm cho ngày hôm nay trở thành ngày thánh đối với chúng ta. Các thánh chúng ta nói tới hôm nay không phải là những vị tử đạo vô danh nào đó. Thật ra, tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. Một khi các ngài đã đi theo đường công chính vì tuyên xưng và chết cho chân lý, thì giờ đây các vị tử đạo này được thấy thể hiện điều các ngài đã rao giảng.

Thánh Phê-rô, thủ lãnh các Tông Đồ, con người say mê Chúa Ki-tô, đã xứng đáng nghe lời này : Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô. Quả vậy, vì trước đó chính ông Phê-rô đã nói : Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, nên Đức Ki-tô đáp lại : Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây dựng đức tin mà anh tuyên xưng. Đối lại điều anh vừa nói : Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Tên anh quả là Phê-rô. Phê-rô lấy từ “tảng đá”, chứ không phải tảng đá lấy từ Phê-rô. Ki-tô hữu lấy từ danh Ki-tô thế nào, thì Phê-rô cũng lấy từ “tảng đá” như vậy.

Như anh em đã biết, trước khi chịu thương khó, Chúa Giê-su đã chọn một số môn đệ mà Người gọi là Tông Đồ. Trong số các ngài, hầu như bất cứ nơi đâu, chỉ một mình ông Phê-rô là xứng đáng đại diện cho toàn thể Hội Thánh. Chính vì là đại diện duy nhất của toàn thể Hội Thánh, nên ông xứng đáng được nghe Chúa nói : Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời. Không phải một cá nhân, nhưng cả Hội Thánh duy nhất đã lãnh nhận chìa khoá này. Do đó, địa vị nổi bật của Phê-rô được đề cao, vì chính ông tiêu biểu cho đặc tính phổ quát và duy nhất của Hội Thánh, khi Chúa nói với ông : Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá mà Thầy đã trao cho tất cả. Vì chưng, để anh em biết Hội Thánh đã lãnh nhận chìa khoá Nước Trời thế nào, thì hãy nghe điều Chúa nói với tất cả các Tông Đồ ở một đoạn khác : Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Rồi Người tiếp : Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.

Sau khi phục sinh, Chúa cũng đã trao đoàn chiên của Người cho chính ông Phê-rô chăn dắt. Trong số các môn đệ, không phải chỉ mình ông xứng đáng chăn dắt đoàn chiên của Chúa ; nhưng khi Chúa nói với một người, là Chúa dạy phải giữ sự duy nhất ; dạy ông Phê-rô trước tiên, vì ông là người thứ nhất trong các môn đệ. Thưa thánh Phê-rô, xin ngài đừng buồn ; xin hãy đáp lời Chúa một lần, đáp lần thứ hai nữa, rồi lần thứ ba. Ước chi lời tuyên xưng vì yêu mến thắng thế ba lần, bù lại lòng quá tự tin đã thất bại ba lần vì sợ hãi. Ngài đã ba lần cột trói, thì cũng phải ba lần tháo cởi. Ngài đã cột trói vì sợ hãi, thì hãy tháo cởi vì yêu mến. Thế mà Chúa vẫn trao đoàn chiên của Người cho ông Phê-rô một lần, hai lần, rồi đến ba lần.

Một ngày kính chung cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ. Nhưng hai vị xưa kia chỉ là một ; dù các ngài chịu tử hình những ngày khác nhau, các ngài cũng chỉ là một. Thánh Phê-rô đi trước, rồi thánh Phao-lô theo sau. Đối với chúng ta, ngày lễ chúng ta cử hành hôm nay là một ngày thánh, vì đã được ghi bằng máu của các Tông Đồ. Chúng ta hãy quý chuộng đức tin, đời sống, công lao khó nhọc và những khổ hình của các ngài, quý chuộng những lời các ngài tuyên xưng, những điều các ngài rao giảng.

Nguồn Ánh Sáng thiên thu soi vạn kỷ,
Khai mở ngày muôn tia nắng điểm tô,
Ngày tôn vinh hai thủ lãnh Tông Đồ,
Bao tội lỗi phàm nhân được tha thứ.

Đấng mở cửa Nước Trời lên thập tự,
Vị Tông Đồ dân ngoại phải đầu rơi !
Thẩm phán trần gian, ánh sáng soi đời,
Nay vinh hiển khải hoàn vào thiên quốc.

Rô-ma hỡi, ngươi quả là diễm phúc
Nhuốm máu hồng hai chiến sĩ hùng oai,
Nhờ anh linh, nhờ công đức các ngài,
Ngươi trổi vượt mọi kỳ quan thế giới.

Quỳ dâng Chúa Ba Ngôi bài ca ngợi,
Đấng quang vinh và hạnh phúc trường tồn,
Nắm chủ quyền trên vũ trụ càn khôn
Từ muôn thuở tới muôn đời muôn kiếp. 

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con được vui mừng hoan hỷ nhân ngày đại lễ kính hai thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Chính nhờ các ngài mà Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, thì xin cho Hội Thánh cũng luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Chúng con cầu xin

 


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Cv 12, 1-11

"Bây giờ tôi biết thật Chúa đã cứu tôi khỏi tay Hêrôđê".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, vua Hêrôđê làm khổ mấy người trong Hội thánh. Ông đã dùng gươm giết Giacôbê anh của Gioan. Ông thấy việc ấy đẹp lòng người Do-thái, nên lại cho bắt cả Phêrô. Bấy giờ là ngày lễ Bánh Không Men. Bắt được người, vua cho tống ngục, giao cho bốn đội binh, mỗi đội bốn người canh giữ, có ý đợi sau lễ Vượt Qua, sẽ điệu người ra cho dân. Phêrô bị giam trong ngục, nhưng Hội thánh vẫn luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa cho người. Ðến khi vua Hêrôđê sắp điệu người ra, thì đêm ấy, Phêrô phải mang xiềng xích, nằm ngủ giữa hai tên lính, và có quân canh giữ trước cửa ngục. Bỗng có thiên thần Chúa đứng kề bên, một luồng ánh sáng chiếu giãi vào ngục; thiên thần đập vào cạnh sườn Phêrô, đánh thức người dậy mà rằng: "Hãy chỗi dậy mau". Xiềng xích liền rơi khỏi tay người. Thiên thần bảo người rằng: "Hãy thắt lưng và mang giày vào". Người làm y như vậy. Thiên thần lại bảo rằng: "Hãy khoác áo vào mà theo ta".

Người liền đi ra theo thiên thần, mà chẳng biết việc thiên thần làm có thật chăng, người tưởng như trong giấc mộng. Qua khỏi chặng thứ nhất và chặng thứ hai, thì đến cửa sắt thông ra thành. Cửa ấy tự nhiên mở ra. Thiên thần và Phêrô rảo qua một phố nọ, rồi thiên thần biến đi. Phêrô hoàn hồn và nói rằng: "Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Chúa đã cứu tôi khỏi điều lo sợ (c. 5b).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ. - Ðáp.

3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.

4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Tm 4, 6-8. 17-18

"Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện. Nhưng có Chúa phù hộ giúp sức cho cha, để nhờ cha, việc giảng đạo nên trọn, và tất cả Dân Ngoại được nghe giảng dạy: và cha đã thoát được khỏi miệng sư tử. Nguyện cho Người được vinh quang muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Mt 16, 18

Alleluia, alleluia! - Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 13-19

"Con là Ðá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".

Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở".

Ðó là lời Chúa.



ĐTC Phanxicô Giảng Lễ và Huấn Từ Truyền Tin Lễ Thánh Phêrô và Phaolô  


Thứ Tư


Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 21, 5.8-20

"Con của người nữ tỳ không được thừa hưởng gia tài cùng với con tôi".

Trích sách Sáng Thế.

Khi Abraham được một trăm tuổi, thì Isaac sinh ra.

Ðứa trẻ lớn lên và thôi bú.

Ngày Isaac thôi bú, Abraham thết tiệc linh đình.

Bà Sara thấy con của Agar, người đàn bà Ai Cập, chơi với Isaac, con của bà, liền nói với Abraham rằng: "Hãy đuổi mẹ con người tì nữ này đi, vì con của người đầy tớ không được thừa hưởng gia tài cùng với con tôi là Isaac".

Abraham lấy sự ấy làm đau lòng cho con mình.

Chúa phán cùng Abraham rằng: "Người đừng buồn vì con trẻ, và con của nữ tì ngươi. Bất cứ Sara nói gì, ngươi hãy nghe theo vì nhờ Isaac, sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Nhưng Ta cũng sẽ cho con trai của nữ tì trở thành một dân tộc lớn, vì nó thuộc dòng dõi của ngươi".

Sáng sớm, Abraham chỗi dậy,lấy bánh mì và bầu nước, đặt lên vai người nữ tì, trao con trẻ cho nàng rồi bảo nàng đi.

Sau khi ra đi, nàng đến rừng Bersabê.

Và khi đã uống hết bầu nước, nàng bỏ con trẻ dưới gốc cây trong rừng.

Nàng ra ngồi cách xa đó khoảng tầm một tên bắn.

Vì nàng nói: "Tôi chẵng nỡ thấy con tôi chết", và nàng ngồi đó, thì bên trong đứa bé cất tiếng khóc.

Chúa đã nghe tiếng khóc của đứa trẻ, và thiên thần Chúa từ trời gọi Agar mà rằng: "Agar, ngươi làm gì thế? Ngươi đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe tiếng đứa trẻ khóc từ chỗ nó đang nằm kia.

Ngươi hãy chỗi dậy, ẵm con đi, và giữ chặt tay nó, vì Ta sẽ cho nó trở thành một dân tộc vĩ đại".

Và Thiên Chúa mở mắt cho Agar, nàng thấy một giếng nước và đến múc đầy bầu nước cho đứa trẻ uống.

Chúa phù trợ đứa trẻ; nó lớn lên, cư ngụ trong rừng vắng, và trở thành người có tài bắn cung tên.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33,7-8.10-11,12-13

Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe. (7a)

Xướng 1) Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. Thiên thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ. - Ðáp.

2) Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. - Ðáp.

3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia. - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8,28-34

"Ông đến lúc này để hành hạ các quỷ".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên thuyền sang bờ bên kia, đến miền Giêrasa, thì gặp hai người bị quỷ ám từ các mồ mả đi ra, chúng hung dữ đến nỗi không ai dám qua đường ấy.

Và chúng kêu lên rằng: "Lạy Ông Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng tôi có can chi đến ông? Ông đến đây để hành hạ chúng tôi trước hạn định sao?"

Cách đó không xa có một đàn heo lớn đang ăn.

Các quỷ nài xin Người rằng: "Nếu ông đuổi chúng tôi ra khỏi đây, thì xin cho chúng tôi nhập vào đàn heo".

Người bảo chúng rằng: "Cứ đi".

Chúng liền ra khỏi đi nhập vào đàn heo.

Tức thì cả đàn heo, từ bờ dốc thẳng, nhào xuống biển và chết chìm dưới nước.

Các người chăn heo chạy trốn về thành, báo tin ấy và nói về các người bị quỷ ám. Thế là cả thành kéo ra đón Chúa Giêsu. Khi gặp Người, Họ xin Người rời khỏi vùng của họ.

Ðó là Lời Chúa.


FreeBibleimages :: Jesus heals the demoniacs :: Jesus sails to the other  side of Galilee to deliver two demon possessed men (Matthew 8:28-34)


Suy Niệm



Tần Số Tội Lỗi và Cám Dỗ Remote Control

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Phúc Âm Thánh Ký Mathêu (8:28-34) cho Thứ Tư Tuần XIII Thường Niên, Thánh ký Mathêu thuật lại việc Chúa Giêsu trừ quỉ cho hai người bị quỉ ám.
Có mấy chi tiết hay hay trong câu chuyện trừ quỉ lần này có một không hai của Chúa Giêsu: trước hết là chi tiết không phải thân nhân của hai nạn nhân xin Chúa Giêsu trừ quỉ cho họ; sau nữa là chi tiết "hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người", trong khi đó có lẽ 2 người này chưa bao giờ đã từng gặp Chúa Giêsu mà lại nhận ra Người, chắc là nhờ đám quỉ tinh quái ám họ; sau hết là chi tiết chính Chúa Giêsu không trực tiếp ra tay trừ bọn quỉ ấy, mà chính bọn quỉ muốn xuất khỏi hai người bị chúng ám này, để tránh khỏi bị Người khu trừ: "Bọn quỷ nài xin Người rằng: 'Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo kia'". 

Qua câu chuyện này chúng ta thấy ma quỉ nhận biết Chúa Kitô là ai và đến thế gian để làm gì: "Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?" Đúng như lời Thánh Gioan viết trong Thư Thứ Nhất của ngài: "Chính là để phá hủy các công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (3:8). 
Công việc của ma quỉ là gì, nếu không phải là những gì liên quan đến chết chóc, nên hai người bị quỉ ám đã sống ở nơi "mồ mả" chết chóc, và chết chóc lại liên quan đến xác thịt (cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - "khuynh hướng của xác thịt thiên về sự chết" - Roma 7:6), nên bọn quỉ đã xin nhập vào đàn heo là loài vật vốn được tiêu biểu cho xác thịt, khiến cho "tất cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối hết".
Quả vậy, sau nguyên tội, con người như bị quỉ ám, bởi bản tính của loài người đã bị nọc độc tội lỗi và chết chóc của ma quỉ tiêm nhiễm vào, khiến họ bắt đầu xu hướng về tội lỗi và rất dễ sa ngã phạm tội. Bởi nơi bản thân họ đã chất chứa sẵn mầm mống tội lội là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, những thứ mầm mống tội lỗi đóng vai trò làm nội công cho ma quỉ, như thể con người bị ma quỉ cài đặt sẵn tần số tội lỗi nơi họ, đến độ nó chẳng cần cám dỗ con người mà chỉ cần sử dụng bộ phận viễn khiến - remote control từ hỏa ngục là con người cũng đủ quay cuồng mù quáng làm theo ý muốn gian ác của chúng.
Cho dù con người có lãnh nhận Phép Rửa chăng nữa, họ chỉ được khỏi nguyên tội (nếu mới sơ sinh) và tư tội (nếu đã khôn lớn) cùng với các hình phạt kèm theo tội lỗi, nhưng bản tính của họ vẫn còn nguyên mầm mống nguyên tội là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu và vẫn phải chịu hậu quả nguyên tội là đau khổ và chết chóc. Tuy nhiên, bởi Phép Rửa họ có được sự sống thần linh, một sự sống của Đấng Vượt Qua "nắm toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), nhờ đó họ có thể cùng với Chúa Kitô Phục Sinh chiến thắng tội lỗi và sự chết. 
Trong bài đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên (21:5,8-20), chúng ta thấy xuất hiện đứa con sinh bởi xác thịt của tổ phụ Abraham với người tỳ nữ Ai Cập Agar. Đứa con mang tên Ismael này cho dù không phải là đứa con sinh bởi lời hứa như Isaac, và vì thế không được thừa hưởng gia nghiệp của vị tổ phụ này theo lời hứa của Thiên Chúa, nhưng "vì nó là dòng dõi ngươi" mà nó cũng được Thiên Chúa quan tâm chăm sóc theo thân phận và sứ mệnh thiên định của nó

"Thiên Chúa nghe thấy tiếng đứa trẻ và từ trời sứ thần Thiên Chúa gọi Hagar và nói: 'Sao thế, Hagar? Đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa trẻ, ở chỗ nó nằm. Đứng lên! Đỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay, vì Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn'. Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và nàng thấy một giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da, rồi cho đứa trẻ uống. Thiên Chúa ở với đứa trẻ, nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành người bắn cung". 

Phải chăng giòng dõi của Ismael này là khối Ả Rập Hồi giáo hiện nay, một khối dân hầu hết theo Hồi giáo cũng tin kính tổ phụ Abraham, và giòng dõi của đứa con của lời hứa Isaac là dân Do Thái, tuy nhỏ bé cả về địa dư lẫn dân số (khoảng hơn kém 15 triệu dân khắp thế giới) giữa một khối Ả Rập khổng lồ bao gồm cả 22 quốc gia hùng hậu cả về dân số (khoảng 422 triệu dân) lẫn địa dư, hầu hết tập trung ở vùng Trung Đông và Tiểu Á, nhưng vẫn ngang nhiên tồn tại một cách hết sức gai mắt đối với Khối Ả Rập mà khối khổng lồ này vẫn không thể nào ăn tươi nuốt sống họ nổi?

Phải chăng Thiên Chúa để như vậy cho có lợi cho cả đôi bên: bên Khối Ả Rập Hồi giáo nhận biết rằng Thiên Chúa ở cùng dân tộc được Ngài tuyển chọn, và bên Dân Do Thái luôn ý thức về thân phận của mình được Thiên Chúa ưu tuyển giữa chư dân và cho chư dân nói chung, nhất là Khối Ả Rập Hồi giáo là anh em cùng tổ phụ Abraham với họ?

Phải chăng trận chiến thiêng liêng giữa xác thịt hùng mạnh và thánh sủng thiêng liêng trong linh hồn cũng thế, cũng liên lỉ kéo dài như tới thiên thu bất tận, và thường xác thịt thắng thế nhưng chẳng những vẫn không làm gì nổi thánh sủng mà còn nhờ thánh sủng trong linh hồn mà được thanh tẩy và thánh hóa nữa?





Các Thánh Tử Đạo Roma Tiên Khởi 30/6


the-First-Martyrs-of-the-Church-of-Rome.jpg

“Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi. Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gẫy” (Tv 33, 20-21).

Các Thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Roma đã anh dũng bảo vệ đức tin để làm chứng cho Chúa Giêsu. Các Ngài đã làm vinh danh Chúa và đã làm cho đức tin rực sáng. Các Ngài xứng đáng lãnh nhận triều thiên Nước Trời và góp phần xây dựng giáo đoàn Roma trần thế.

Các Thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Roma là các vị anh hùng gồm một số rất đông đã đổ máu đào để tuyên xưng danh Chúa, làm chứng cho Chúa dưới thời bạo Chúa Néron: Các Ngài đã bị người ta vu khống là đã đốt thành Roma, phá hủy thành, nên các Ngài đã bị Néron ra lệnh hành quyết, xử tử bằng mọi cực hình, bằng mọi phương cách tàn bạo, dã man. Có những vị đã bị nhốt tù, đánh đập tàn ác, bỏ đói cho đến chết. Có những vị bị thú vật cắn xé, dầy vò, đùa giỡn, những vị khác bị đốt, bị nung trên giường sắt, có những vị bị treo ngược trên thập giá, có những vị khác bị đốt cháy sáng như những ngọn đuốc trong đêm đen. Tuy nhiên, cảm nghiệm Lời Chúa nói: "Anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp gian nan thử thách. Vì thế, Thầy sẽ ban quyền cai trị cho anh em để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy, trên vương quốc của Thầy” (Lc 22, 28 - 30) hoặc “Các thánh đã theo chân Đức Kitô, được vui mừng trên thiên quốc. Các Ngài đã đổ máu mình ra, vì lòng yêu mến Đức Kitô, nên luôn được hoan hỷ với Người" (Ca nhập lễ, lễ nhiều Thánh tử đạo). Các thánh tử đạo đã hân hoan chịu chết.

“Hạt giống gieo xuống đất không thúi đi...”, các Thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Roma là những môn đệ của các tông đồ, các Ngài đã được Chúa thương, tuyển lựa để nên như của lễ đầu mùa hiến dâng cho Thiên Chúa và trở nên hạt giống đức tin gieo vào lòng đất cho hoa trái được nẩy nở tốt tươi. Các Ngài đã đổ máu ra để làm phát sinh Hội Thánh Roma. Các Ngài xứng đáng được Chúa thưởng công và Giáo Hội tôn vinh vì các Ngài vẫn một lòng gắn bó với Chúa (Lc 22, 28).

Lạy Chúa, Chúa đã dùng máu các thánh tử đạo thánh hiến giáo đoàn Roma trong những bước đầu. Vì các thánh đã chiến đấu anh dũng để bảo vệ đức tin, xin cho cuộc chiến thắng vẻ vang của các Ngài làm cho chúng con được bền lòng vững chí (Lời nguyện nhập lễ, lễ các Thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Roma).

(Sưu tầm)

https://tgpsaigon.net/bai-viet/cac-thanh-tu-dao-tien-khoi-cua-giao-doan-roma-42710

 

Sau khi Chúa Giê-su về trời, và đặc biệt là sau cuộc bách hại nhắm vào các Ki-tô hữu tại Giê-ru-sa-lem, các môn đệ của Ngài đã mau chóng có mặt tại rất nhiều nơi. Và trong một thời gian ngắn sau đó, các Ki-tô hữu đã hiện diện tại kinh thành muôn thuở. Vì là một nhóm nhỏ, lại có lối sống khác biệt một cách căn bản đối với dân ngoại, nên các Ki-tô hữu tiên khởi của Giáo đoàn Rô-ma đã bị nhìn xem với con mắt nghi kỵ. Trong các năm đầu tiên của Giáo hội, các Ki-tô hữu luôn phải sống trong sự chế nhạo và dè bửu. Dù vậy, cộng đoàn Ki-tô hữu càng ngày càng lớn mạnh, càng thêm đông số và càng được nhiều người biết tới.

Khi các cộng đoàn Ki-tô giáo càng lớn mạnh, và khi toàn bộ tư tưởng Ki-tô giáo càng ngày càng được biết tới, trong khi tư tưởng này lại biện phân một cách căn bản với giới ngoại giáo, thì cũng là lúc sự chống đối nhắm vào tôn giáo non trẻ có vẻ như rất nguy hiểm cho nhà nước này, cũng càng ngày càng tăng lên. Hoàng đế Nê-rô (54-68) đã phát động một cuộc bách hại nhắm vào các Ki-tô hữu, và cuộc bách hại này đã kéo dài tới hơn 250 năm. Vào tháng 07 năm 64, một cuộc hỏa hoạn đã xảy ra tại thành phố Rô-ma. Theo tương truyền, chính hoàng đế Nê-rô đã ra lệnh thực hiện cuộc hỏa hoạn đó để lấy hứng làm thơ. Tuy nhiên, cuộc hỏa hoạn đã diễn ra ngoài tầm kiểm soát và đã gây ra rất nhiều thiệt hại, nên đã khiến dân chúng nổi loạn. Để tìm cách chối tội và trấn an dân chúng, hoàng đế Nê-rô đã đổ lỗi cho các Ki-tô hữu rằng, họ là những người đã thiêu đốt thành phố. Và vì thế, rất đông tín hữu đã bị bắt giam. Tất nhiên, các tín hữu đã không bao giờ thừa nhận việc gây hỏa hoạn, nhưng họ lại công khai tuyên xưng Đức Tin Ki-tô giáo của mình. Và việc công khai tuyên xưng Đức Tin như thế là đủ để bị khép vào án tử hình. Và để thực hiện án tử hình trên các Ki-tô hữu, hoàng đế Nê-rô đã không cho phép thi hành việc hành hình họ một cách đơn giản, nhưng ông ta đã nghĩ ra những cuộc tra tấn và những cách hành hình hết sức man rợ, chẳng hạn như cho sư tử đói vào xé xác các Ki-tô hữu, hay cho đóng đi các Ki-tô hữu vào Thập Giá rồi tẩm dầu vào thân thể họ, sau đó châm lửa đốt như một ngọn đuốc sống v.v…

Sử gia Tacitus, người Rô-ma và cũng là một người ngoại giáo, đã mô tả lại trong cuốn thứ 15 bộ biên niên sử của ông về cuộc bách hại này. Theo những lời ông viết, một số người rất đông đã bị hành hình:

Để tránh tiếng đồn rằng, chính ông là người đã đốt thành phố Rô-ma, „hoàng đế Nê-rô đã tìm cách đổ lỗi cho người khác, và ra lệnh trừng phạt những người bị căm thù vì tội ác của họ, đó là những người mà dân chúng gọi là Ki-tô hữu. Danh xưng này bắt nguồn từ ông Ki-tô; ông này đã bị hành hình bởi tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô, dưới thời trị vì của hoàng đế Tiberius… Vì thế, trước tiên người ta bắt giam tất cả những ai tuyên xưng rằng, mình là Ki-tô hữu; sau đó, những người này khai ra rằng, họ thuộc về một đám người rất đông. Họ không chỉ bị kết tội là những kẻ gây ra vụ đốt phá, nhưng còn bị quy cho tội rằng, họ là những kẻ thù ghét tất cả mọi người. Người ta biến những kẻ bị kết án tử hình thành những vở kịch. Người ta nhốt họ vào trong những chiếc chuồng dành cho thú vật, và để cho họ bị cắn xé bởi những con chó, người ta đóng đinh họ vào Thập Giá rồi châm lửa để đốt họ, và sau khi màn đêm ập xuống, người ta đốt họ như là đốt những ngọn đuốc. Hoàng đế Nê-rô đã giao vườn thượng uyển của hoàng cung cho người ta thực hiện những vở kịch này, cũng như đã ra lệnh tổ chức một hý trường để biểu diễn những màn kịch này: Trong cảnh một người lái xe, ông hòa mình vào giữa đám đông, hay đứng trên xe của mình…“

Người ta cho rằng, số các Ki-tô hữu bị hành hình trong cuộc bách hại của hoàng đế Nê-rô là rất nhiều và không thể đếm nổi. Còn theo Thánh Hieronymus, có tổng cộng 979 Ki-tô hữu đã bị hành hình trong vụ này. Hầu hết những Ki-tô hữu đó đều là những người vô danh, giờ đây không ai biết đến danh tánh hay tên tuổi của họ. Vì thế, trong suốt một thời gian dài, các vị Tử Đạo này đã không được Giáo hội cử hành Lễ kính nhớ.

Mãi tới năm 1923, một Đại Lễ kính chung tất cả các Thánh Tử Đạo mới được cử hành lần đầu tiên tại Rô-ma. Sau đó, từ năm 1969, với cuộc cải tổ Lịch Phụng Vụ, ngày Lễ này đã chính thức được ghi vào trong lịch Kính Các Thánh chung của toàn Giáo hội Công Giáo, và được đổi tên thành Lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Tiên Khởi của Giáo đoàn Rô-ma. Kể từ đó, Giáo hội cử hành Lễ này vào ngày 30 tháng 06, sau Đại Lễ Kính Hai Thánh Phê-rô và Phao-lô Tông Đồ, ở bậc Lễ Nhớ không buộc.

Lm. Đa-minh Thiệu

https://daminhtamhiep.net/2016/06/cac-thanh-tu-dao-tien-khoi-cua-giao-doan-ro-ma/

 

Những người mà chúng ta mừng kính hôm nay đều có một điểm chung: đó là các ngài đã hy sinh từ bỏ mạng sống mình vì Chúa Kitô. Các ngài được phúc tử vì đạo bởi các ngài là những người đã noi theo lối Đức Chúa Giêsu.

Những người mà chúng ta mừng kính hôm nay đều có một điểm chung: đó là các ngài đã hy sinh từ bỏ mạng sống mình vì Chúa Kitô. Các ngài được phúc tử vì đạo bởi các ngài là những người đã noi theo lối Đức Chúa Giêsu. Vào năm 64, khi đám cháy bất ngờ phát tỏa trong thành Rôma ngày 16 tháng Bảy. Người ta đều cho rằng chính hoàng đế là người phải lãnh trách nhiệm. Khi hai phần ba thành phố Rôma bị thiêu rụi, sự căm tức phẫn nộ bắt đầu dâng cao. Nêrô hoảng hồn lo sợ. Ông cần một người đứng mũi chịu sào; và thế là, ông đã đổ tội vụ gây ra hỏa hoạn cho các Kitô hữu.

Các thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Rôma
Tất cả những vị đó đều là môn đệ của các thánh tông đồ, các ngài đã được hiến dâng cho Chúa như của lễ đầu mùa

Taxitô, một sử gia danh tiếng thời ấy, đã ghi nhận rằng các Kitô hữu đã phải chịu những cái chết thật dã man hiểm độc. Một số bị ném cho các thú hoang ăn thịt. Số khác bị trói vào các cột trụ và trở nên những “ngọn đuốc người” thắp sáng các đường phố Rôma. Chúng ta không biết được chính xác tổng số các vị anh hùng là bao nhiêu, nhưng chứng từ đời sống và lễ vật của các ngài đã gây một ấn tượng đặc biệt cho mọi người. Cuộc bách hại khủng bố đầu tiên của Nêrô dù là hoàng đế Rôma cũng chẳng kéo dài mãi được. Giáo hội càng bị bách hại thì Giáo hội càng phát triển. Các thánh tử vì đạo đã trả một giá rất đắt để những ai bước theo các ngài sẽ có được cơ hội giữ vững đức tin.

 Chúng ta hãy cầu xin các thánh tử đạo tiên khởi Rôma ban cho lòng can đảm để trung thành với những điều Giáo hội truyền dạy. Các thánh tử đạo này cũng nhắc nhớ chúng ta hãy nên nghiêm túc học hỏi về đức tin và đọc các sách vở Công giáo lành mạnh.

(theo tinmung.net)

http://www.cgvdt.vn/lich/hanh-cac-thanh/cac-thanh-tu-dao-tien-khoi-cua-giao-doan-roma_a3007

 

Sau Jerusalem và Antioch, Roma là trung tâm quan trọng nhất của Giáo Hội thời sơ khai. Nhiều tín hữu đã đến sinh sống tại Roma: một số là Do Thái, nhưng phần đông là dân ngoại tòng giáo.

Hôm nay, chúng ta mừng kính các tín hữu đã chịu bách hại dưới thời bạo vương Nero, sau cuộc hỏa hoạn năm 64 tại Roma.

Sống gương mẫu giữa thế gian.

Đức tin Kitô Giáo đã sớm lan truyền đến Roma, trung tâm của thế giới văn minh vào thời kỳ ấy. Có lẽ các tín hữu đầu tiên tại thủ đô của đế quốc Roma là những người Do Thái tòng giáo. Họ đã tiếp nhận đức tin tại Jerusalem hoặc một thành phố nào đó thuộc miền Tiểu Á, nơi đã được thánh Phaolô giảng đạo. Đức tin được truyền bá từ người này sang người nọ, giữa những nhóm bạn hữu và thân nhân… Thánh Phêrô đã đến Roma vào khoảng năm 43 và củng cố cho cộng đồng Kitô Giáo bé nhỏ tại đây. Từ Roma, đạo thánh đã lan truyền sang nhiều miền khác của đế quốc. Hoàn cảnh an bình của đế quốc Roma thời ấy tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu các luồng tư tưởng và thông tin về những điều mới lạ, tất cả đều góp phần cho việc truyền bá Kitô Giáo. Các con đường khởi từ Roma dẫn đến các vùng xa xăm nhất của đế quốc, các đoàn tàu thương mại thường xuyên vượt Địa Trung Hải, tất cả đều thuận lợi cho việc truyền bá Kitô Giáo khắp đế quốc.1

Thật khó mà trình bày tiến trình cải hóa và trình tự của kinh nghiệm tác động đến từng cá nhân trở lại với Kitô Giáo tại Roma trong thế kỷ I, cũng như hiện nay, vì mỗi cuộc trở lại luôn là một phép lạ của ơn thánh và sự đáp ứng của từng cá nhân với ơn Chúa. Chắc chắn cuộc sống gương mẫu của các tín hữu, hương thơm của Chúa Kitô – bonus odor Christi2 – cũng là một tác nhân có tính quyết định, ảnh hưởng đến môi trường làm việc qua các yếu tố như niềm vui, đức bác ái, sự cảm thông dành cho mọi người, đời sống khổ hạnh, và tư cách nhân bản cao thượng… Các tín hữu nam nữ là những người phấn đấu sống đức tin trọn vẹn giữa những hoạt động thường ngày. Daniel là một thanh niên, Joseph là một nô lệ. Có người như Aquila làm nghề bán vải nhuộm trong một cửa hàng; người thì làm lính canh ngục; có người như Cornelius làm bách quân trưởng; Timothêu là người yếu bệnh; Onesimus là nô lệ bỏ trốn. Tất cả những loại người khác nhau này đều được đức tin qui hồi. Những nghề nghiệp và điều kiện của họ không tạo nên ngãng trở. Mọi người đều có thể nên thánh, nam và nữ, trẻ và già, nô lệ và tự do, binh lính và dân thường.3

Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại cho chúng ta một câu chuyện thật hay về tinh thần hiếu khách của các tín hữu Roma đối với thánh Phaolô khi ngài bị giải về đó như một người tù. Thánh Luca viết, Các anh em ở Roma nghe tin chúng tôi tới thì đến tận chợ Appius và Ba Quán để đón chúng tôi. Thấy họ, Phaolô tạ ơn Thiên Chúa và thêm can đảm.4 Thánh Phaolô đã được thêm can trường nhờ những biểu hiệu của tình bác ái huynh đệ.

Các tín hữu thời ấy không bỏ những hoạt động xã hội và nghề nghiệp. Bằng cuộc sống và lời nói, các tín hữu coi mình là thành viên trong thế giới, và tin Chúa muốn họ phải là muối, là ánh sáng. Một tác giả cổ thời đã tóm tắt điều ấy như sau: Linh hồn đối với thể xác là gì, thì các tín hữu đối với thế giới cũng như vậy.5

Hôm nay, chúng ta hãy xét xem chúng ta có như các tín hữu tiên khởi, nêu gương sáng trong những công việc chúng ta làm để lôi kéo tha nhân về với Chúa Kitô hay không? Chúng ta có xây đắp tha nhân bằng cuộc sống điều độ, cách tiêu dùng, thái độ vui tươi, cách làm việc tử tế, sống trung tín và công bình khi làm việc với thuộc quyền và đồng nghiệp, tham gia các việc từ thiện, và không bao giờ nói xấu bất kỳ ai hay không?

Thái độ trong nghịch cảnh.

Các tín hữu tiên khởi thường gặp những trở ngại và hiểu lầm nghiêm trọng, và không ít trường hợp, các ngài đã hy sinh mạng sống để bảo toàn niềm tin vào Thầy Chí Thánh. Hôm nay, chúng ta mừng kính chứng từ của các vị tử đạo Roma, những người đã chịu chết sau cuộc hỏa hoạn năm 64.6 Tai ương này đã nên cớ cho nhà cầm quyền tiến hành cuộc bách hại thảm khốc đầu tiên. Chúng ta đọc trong một bản văn cổ thời của Kitô Giáo như sau: Mô phạm rạng sáng nhất cho chúng ta là thánh Phêrô và thánh Phaolô, hai đấng đã được kể thêm vào số đông các người được ưu tuyển, những người đã chịu nhiều đau khổ và nhục hình chỉ vì sự ganh ghét.7

Những tân toan và hiểu lầm mà các giáo hữu tân tòng phải chịu không hẳn lúc nào cũng đưa họ đến phúc tử đạo. Họ thường phải chịu những điều mà Chúa Thánh Thần đã cảnh báo trong Thánh Kinh: Thực vậy, những ai ước muốn sống đời sống trong Chúa Giêsu Kitô sẽ phải chịu bắt bớ.8 Nhiều khi sự thù nghịch của dân ngoại đối với các môn đệ Chúa Kitô bộc phát chỉ vì họ không thể chịu nổi kết quả mỹ mãn và lòng sùng kính rộ nở trong sinh hoạt của Kitô Giáo. Đôi khi, cuộc bách hại bùng lên chỉ vì các tín hữu kiêng lánh các nghi thức lễ giáo truyền thống vốn được coi là bằng chứng cho sự trung thành với đế quốc và hoàng đế. Hậu quả là hễ ai theo Kitô Giáo sẽ liều bị hiểu lầm và công kích vì không chịu đồng hóa, không sống như mọi người.

Rất có thể Thiên Chúa không đòi chúng ta phải đổ máu để minh chứng đức tin, nhưng nếu Người cho phép một cuộc thử thách như thế xảy ra, chúng ta hãy nài xin Chúa ban ơn để có thể hiến thân minh chứng tình yêu đối với Người. Tuy nhiên, bằng cách này hay cách khác, chúng ta sẽ gặp đủ các hình thức ganh ghét, bởi vì theo Chúa Giêsu nghĩa là chắc chắn sẽ gặp thập giá. Khi chúng ta phó mình trong tay Chúa, Người thường để chúng ta nếm mùi ưu phiền, cô đơn, chống đối, vu khống, lăng mạ, chế giễu. Những biến cố này có thể phát xuất từ bên trong lẫn bên ngoài Giáo Hội. Chúa muốn đào tạo nhào nặn chúng ta nên giống Người. Thiên Chúa thậm chí còn để chúng ta bị gọi là đồ điên dại và ngu xuẩn… Đây là cách Chúa Giêsu đào luyện những linh hồn Người ưu ái, nhưng đồng thời, Người không quên ban cho họ một niềm bình an và điềm tĩnh.9

Chúng ta phải lợi dụng những nghịch cảnh để sống bác ái một cách anh hùng, nhất là với những người có thể vì hiểu lầm mà không coi chúng ta ra gì. Thái độ của chúng ta có thể bao hàm một sự tự vệ chính đáng khi cần, nhất là để tránh gương mù hoặc gây tổn thương cho người thứ ba. Những nghịch cảnh rất hữu ích vì giúp thanh luyện chúng ta khỏi tội lỗi và khuyết điểm, cho chúng ta cơ hội để đền tạ giúp người khác, và sau cùng, là để thăng tiến trên đường nhân đức và tình yêu đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa nhiều khi muốn thanh luyện chúng ta như vàng trong lửa. Lửa tẩy luyện vàng khỏi cặn ghét và làm gia tăng giá trị của vàng thế nào, thì Thiên Chúa cũng đối xử các tôi trung, những người trông cậy và kiên trung giữa thử thách như thế.10

Nếu chỉ vì chúng ta theo Chúa Kitô mà phải chịu những nghịch cảnh và gian truân, khi ấy chúng ta hãy vui mừng tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã cho chúng ta được chịu đau khổ vì Người như các Tông Đồ xưa. Lòng họ hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu.11

Các Tông Đồ khi ấy chắc chắn đã nhớ lại lời Thầy Chí Thánh, như hôm nay chúng ta tưởng nhớ đến các ngài trong ngày lễ kính các thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Roma: Phúc cho các con khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, và vu khống đủ điều xấu xa. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng dành cho các con ở trên trời thật trọng hậu.12

Làm việc tông đồ trong mọi hoàn cảnh.

Mặc dù chịu vu khống, sỉ vả, lăng mạ đủ điều trong các cuộc bách hại, nhưng tiền nhân trong đức tin của chúng ta vẫn thực hiện việc tông đồ một cách hiệu quả. Các ngài vẫn nói cho mọi người về Chúa Kitô, kho tàng mà các ngài đã may mắn tìm được. Hơn nữa, thái độ chịu đựng thanh thản và vui tươi của các ngài giữa nghịch cảnh, ngay cả phải chết, đã trở thành lý do khiến nhiều người tìm đến với Thầy Chí Thánh.

Cái chết của các vị tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu.13 Giáo đoàn Roma sau cuộc bách hại đã mất rất nhiều tín hữu, nhưng vẫn được củng cố và vươn tiến mạnh mẽ. Những năm sau đó, Tertullian đã viết: Chúng tôi mới chỉ hôm qua, vậy mà đã lan tràn khắp thế giới và mọi sự của các người: các thành phố, hải đảo, thị trấn, làng mạc, quân đội, dinh thự, nghị viện, diễn đàn. Chúng tôi chỉ để lại cho các người những đền chùa mà thôi…14

Trong môi trường và hoàn cảnh hiện tại, nếu vì trung thành với đức tin mà chúng ta phải gặp một khó khăn nào đó, chúng ta hãy biết rằng sự phiền hà này sẽ trở nên ích lợi cho mọi người. Chính những lúc ấy, chúng ta có lý do và nhu cầu phải nói một cách hiền từ về những điều kỳ diệu của đức tin, về tặng ân lớn lao các bí tích, về vẻ đẹp của đời sống trinh khiết thánh thiện. Chúng ta hãy tin rằng chúng ta được kén chọn để chiến thắng trong cuộc chiến đời này, và cuộc sống quang vinh đời sau đang chờ đợi chúng ta không bao lâu nữa. Không gì có thể sánh được với hạnh phúc được sống với Chúa Kitô. Mặc dù chúng ta nghèo nàn, chịu nhiều bệnh tật đau đớn, bị vu khống sỉ vả, nhưng nếu có Chúa Giêsu là chúng ta có tất cả. Hiệu quả của sự ý thức này sẽ biểu hiện ra lối sống bên ngoài. Chúng ta biết, trong mọi lúc, ngay cả trong những cảnh ngộ ấy, chúng ta vẫn phải là muối đất, là ánh sáng thế gian, như Thầy Chí Thánh đã dạy chúng ta.

Đề cập đến các triết gia thời xưa, thánh Justin đã có lý khi nói rằng, Tất cả những điều tốt lành họ nói đều thuộc về chúng ta là các Kitô hữu, bởi vì chúng ta tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa. Ngôi Lời nhiệm xuất từ Thiên Chúa tự hữu, vì yêu thương chúng ta, đã nhập thể để chia sẻ những đau thương và chữa lành cho chúng ta.15

Với phụng vụ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã thánh hóa Giáo Hội Roma bằng máu các vị tử đạo tiên khởi. Xin cho chúng con tìm được sức mạnh từ sự can trường và hân hoan trong chiến thắng của các ngài.16

https://www.dongcong.net/DoiSongKH/LeQuanhNam/Thang6/21.htm



Khám phá Đấu trường Colosseum và La Mã cổ đại - Italyen




Hí trường Colosseum ở Rôma và Hang toại đạo Callixtus ...



Hang Toại Đạo – Catacombs – Giáo Xứ An Bằng



 Hang toại đạo | Nguyễn Mai Kha - Academia.edu





Thứ Năm

Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 22, 1-19

"Lễ hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi". Vì vậy ban đêm Abraham chỗi dậy, thắng lừa, dẫn theo hai đầy tớ và Isaac, con của ông; khi đã chặt củi dành để đốt của lễ toàn thiêu, ông đi đến nơi Chúa đã truyền dạy. Ðến ngày thứ ba, ngước mắt lên, ông thấy nơi còn xa xa; ông bảo các đầy tớ rằng: "Các ngươi và con lừa hãy đợi tại đây. Ta và con trẻ đi đến nơi kia, sau khi cử hành việc thờ phượng xong, chúng tôi sẽ trở lại đây với các ngươi". Ông lấy củi dành để đốt của lễ toàn thiêu mà đặt trên vai Isaac, con ông, còn ông thì cầm lửa và gươm. Khi cha con cùng đi trên đường, Isaac hỏi cha mình rằng: "Thưa cha". Ông Abraham trả lời: "Hỡi con, con muốn gì?" Isaac nói: "Củi và lửa có đây rồi, còn của lễ toàn thiêu ở đâu?" Ông Abraham đáp: "Hỡi con, Thiên Chúa sẽ dự liệu của lễ toàn thiêu". Vậy hai cha con tiếp tục cùng đi.

Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên đống củi trên bàn thờ. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham! Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây, Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Ông gọi tên nơi này là "Chúa trông thấy". Bởi vậy, mãi cho đến ngày nay, người ta quen nói rằng "Trên núi Chúa sẽ trông thấy".

Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".

Ông Abraham trở về cùng các đầy tớ, và họ cùng nhau đi về Bersabê, và lập cư tại đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 114, 1-2. 3-4. 5-6. 8-9

Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước Thiên nhan Chúa, trong miền đất của nhân sinh (c. 9).

Xướng: 1) Tôi mến yêu Chúa, vì Chúa đã nghe, đã nghe tiếng tôi cầu khẩn; vì Chúa đã lắng tai nghe lời tôi trong ngày tôi kêu cầu Chúa. - Ðáp.

2) Thừng chão tử thần đã quấn lấy tôi, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người tôi; tôi đã rơi vào cảnh lo âu khốn khó. Và tôi đã kêu cầu danh Chúa: "Ôi lạy Chúa, xin cứu vớt mạng sống con". - Ðáp.

3) Chúa nhân từ và công minh, và Thiên Chúa của chúng tôi rất từ bi. Chúa gìn giữ những người chất phác, tôi đau khổ và Người đã cứu thoát tôi. - Ðáp.

3) Bởi Người đã cứu tôi khỏi tử thần, cho mắt tôi khỏi rơi lệ và chân tôi không quỵ ngã. Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 1-8

"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi". Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: "Ông này nói phạm thượng". Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: "Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng "Tội con được tha rồi", hay nói "Hãy chỗi dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội". Bấy giờ Người nói với người bất toại: "Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con". Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế.

Ðó là lời Chúa.

 

GOSPEL REFLECTIONS DAILY: HEALING THE PARALYTIC – JULY 1ST THURSDAY (Mt 9:  1-8)



Suy Niệm


 Chữa lành phần xác là một dấu chỉ tha tội phần hồn

Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh tiếp tục với bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XIII Thường Niên hậu Phục Sinh hôm nay, trong đó, Thánh ký Mathêu (9:1-8) đã thuật lại việc Chúa Giêsu chữa một người bại liệt để tỏ quyền năng tha tội của Người, một sự kiện tha tội liên quan đến sự sống thần linh
"Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: 'Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!'" 

Thật vậy, chính vì nguyên tội mà con người đã bị chết về phần hồn (xem Khởi Nguyên 2:17) kèm theo cả cái chết về phần xác là hậu quả tất yếu của tội lỗi nữa (xem Khởi Nguyên 3:19). Tất cả những khổ đau con người phải chịu trên trần gian này đều là biểu hiệu của sự chết cả về tâm linh lẫn thể xác. Chứng bại liệt nơi thân xác của con người, như nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, chẳng những là hậu quả của nguyên tội mà còn là biểu hiệu cho tình trạng bất lực của con người mang bản tính nhiễm lây nguyên tội nữa. 

Đó là lý do, một khi con người được tha tội là con người được giải phóng về phần hồn, và vì bệnh nạn tật nguyền về phần xác gây ra bởi tội lỗi mà họ cũng có thể thoát được những chứng bệnh họ đang mắc phải, như trường hợp của người bất toại ở bài Phúc Âm hôm nay. Cho dù được khỏi tội mà không khỏi bệnh con người có tâm hồn trong sạch theo lòng tin tưởng vẫn có thể sống với bệnh tật một cách an bình, thậm chí còn lợi dụng được cả bệnh tật để làm vinh danh Chúa nữa (xem Gioan 9:3). 
Có ích gì cho con người nếu thân xác được lành mạnh mà lại lạm dụng nó để sống đời tội lỗi chứ. Nếu thà mất đi một phần thân thể mà được vào Nước Trời còn hơn lành cả thân xác mà bị quẳng vào hỏa ngục (xem Mathêu 5:29), thì đúng như Chúa Giêsu nói với thành phần "kinh sư nghĩ bụng rằng: 'Ông này nói phạm thượng'", "trong hai điều: một là bảo: 'Con đã được tha tội rồi', hai là bảo: 'Đứng dậy mà đi', điều nào dễ hơn?"

Đối với Thiên Chúa thì "con đã được tha tội rồi" thì "dễ hơn", còn đối với loài người thiển cận và dính bén với trần thế thì "đứng dậy mà đi" thì "dễ hơn", "dễ hơn" ở chỗ họ (nếu là nạn nhân) được "dễ" chịu hơn, vì được khỏi bệnh, và ở chỗ họ (thành phần khán giả hay chứng dự) "dễ" nhận hơn vì thấy được tỏ tường quyền năng thần linh. 
Bởi thế, Chúa Giêsu đã phải chiều theo khuynh hướng của loài người, hay nói đúng hơn, đã lợi dụng yếu điểm tò mò của loài người để tỏ mình ra cho họ, nhờ đó họ có thể thấy được vị thế thần linh siêu việt của Người, một vị thế vượt trên tất cả mọi vị tiên tri trong lịch sử của họ, hơn cả Moisen là vị cứu tinh dân tộc của họ cũng đã thực hiện không ít dấu lạ, một vị thế thần linh ở nơi quyền tha tội của Người, một con người như họ và ở giữa họ

"Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội - bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại liệt: 'Đứng dậy, vác giường đi về nhà!' Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà. Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế".

Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có quyền tha tội cho con người qua Con của Ngài một cách "dễ" dàng như thế, Ngài vẫn không "dễ" dãi với Con của Ngài, trái lại, Thiên Chúa "đã không dung tha cho Con của Ngài, một phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32), nghĩa là Ngài muốn, hay đúng hơn, Ngài "bắt" Người Con duy nhất vô cùng dấu yêu của Ngài phải khổ nạn và tử giá vô cùng hèn hạ và ô nhục như một đệ nhất đại tội nhân trên trần gian này, như một hy tế đền bù tội lỗi của nhân loại và cho nhân loại, một tội phạm đến Ngài là Đấng vô cùng thì cũng phải có một Đấng vô cùng là Con Ngài đền thay mới cân xứng.

Cuộc khổ nạn và tử giá của Người Con duy nhất chí ái này của Thiên Chúa cho phần rỗi của chung loài người, như trong bài đọc 1 hôm nay trích Sách Khởi Nguyên (22:1-19) cho thấy, đã được tiên báo ở biến cố tổ phụ Abraham (hình bóng của Thiên Chúa Cha) sẵn sàng sát tế Isaac là người con duy nhất (hình bóng Chúa Giêsu Kitô: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu") được sinh ra theo lời hứa cho một dân tộc "đông như sao trời cát biển" (ám chỉ thành phần dân thánh Chúa, thành phần tin vào Ngài, thành phần được cứu độ).

Thế nhưng, chính lúc "Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình" thì "sứ thần Thiên Chúa từ trời gọi ông: 'Abraham! Abraham!... Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!... Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta'".

 


Thứ Sáu


Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 23, 1-4. 19; 24, 1-8. 62-67

"Isaac yêu thương Rêbecca, cho nên ông tìm được niềm an ủi, vì thương nhớ mẹ đã qua đời".

Trích sách Sáng Thế.

Bà Sara được một trăm hai mươi bảy tuổi thì qua đời tại thành Cariatharbê, tức là Hêbron, trong đất Canaan. Ông Abra-ham đến khóc lóc thương tiếc bạn mình. Khi lo việc chôn cất, Abraham chỗi dậy nói với các con ông Hét rằng: "Tôi là ngoại bang, là khách lạ giữa quý ông, xin quý ông nhượng cho tôi một phần mộ để chôn xác người nhà tôi qua đời". Rồi Abraham chôn cất bà Sara vợ ông trong Hang Ðôi ngoài đồng ruộng, đối diện với Mambrê, tức Hêbron, trong đất Canaan.

Khi ấy, Abraham đã già nua, và Chúa đã chúc lành cho ông trong mọi sự. Abraham nói với người đầy tớ lớn tuổi nhất trong nhà, cũng là người quản lý mọi của cải của ông rằng: "Ngươi hãy đặt tay vào dưới bắp vế ta mà thề trước mặt Chúa là Thiên Chúa trời đất, sẽ không cưới cho con ta một người vợ thuộc dân Canaan mà ta đang ở chung với họ đây. Ngươi hãy đi về quê họ hàng ta, mà cưới vợ cho con ta là Isaac". Người đầy tớ thưa lại: "Nếu người phụ nữ không muốn theo tôi về xứ này, thì tôi có phải đem con trai ông về quê quán của ông chăng?" Abraham trả lời rằng: "Ngươi hãy cẩn thận chớ bao giờ dẫn con ta về đó: Chúa là Thiên Chúa, đã đưa ta ra khỏi nhà cha ta và quê quán ta, đã phán và thề hứa cùng ta rằng: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi". Thiên Chúa sẽ sai thiên thần đi trước mặt ngươi, và ngươi cưới cho con trai ta một người vợ trong xứ đó. Nếu người phụ nữ không chịu theo ngươi về, thì ngươi không còn mắc lời đoan thề mà ta bảo người đây. Chỉ có một điều là đừng dẫn con trai ta về nơi đó".

Khi ấy, Isaac đi bách bộ trên đường dẫn đến cái giếng gọi là "Ðấng Hằng Sống và Trông Thấy", vì ông cư ngụ tại mạn nam. Lúc gần tối, Isaac đi ra ngoài cánh đồng để suy ngắm. Khi ngước mắt lên nhìn, thấy những con lạc đà đang trở về từ đàng xa. Rêbecca cũng ngước mắt nhìn thấy Isaac, nàng liền nhảy xuống khỏi lạc đà, và hỏi người đầy tớ rằng: "Người đang đi trong cánh đồng để ra đón chúng ta là ai vậy?" Người đầy tớ đáp: "Người đó là chủ tôi đấy". Nàng vội vàng lấy khăn che mặt. Người đầy tớ lại kể lại cho Isaac hay mọi việc mình đã làm. Isaac đưa Rêbecca vào nhà xếp của Sara mẹ ông, ông lấy nàng làm vợ và yêu thương nàng lắm, cho nên ông tìm được niềm an ủi bớt thương nhớ mẹ đã qua đời.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 1-2. 3-4a. 4b-5

Ðáp: Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu (c. 1a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói cho hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? - Ðáp.

2) Phúc cho ai tuân giữ những điều huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. - Ðáp.

3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 9-13

"Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ". Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".

Ðó là lời Chúa.

NGƯỜI LỮ HÀNH HY VỌNG: JANUARY 13, 2018 : SATURDAY OF THE FIRST WEEK IN  ORDINARY TIME



Suy Niệm

"với bọn thu thuế và quân tội lỗi"

Nếu bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến quyền năng tha tội của Chúa Giêsu thì bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XIII Thường Niên hôm nay (Mathêu 9:9-13), tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, liên quan đến tội nhân, đúng hơn liên quan đến sứ vụ của Người đối với thành phần tội nhân.
Đúng thế, sau khi gọi "một người tên là Mathêu đang ngồi tại trạm... 'Anh hãy theo tôi!'", Chúa Giêsu đã đến nhà của viên thu thuế này để "dùng bữa ... có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ", và hậu quả xẩy ra là: "Thấy vậy, những người Pharisiêu nói với các môn đệ Người rằng: 'Sao Thầy của các anh lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi như thế chứ?'".

Nếu chính vì loài người tội lỗi mà "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14), thì sứ vụ của Người đó là "tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10), nên Người càng cần phải làm sao để có thể đến gần với họ hơn ai hết và hơn bao giờ hết, nhờ đó họ có thể cảm nghiệm được tình thương của Người mà trở về nhà Cha của Người. Đó là lý do: 

"Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói: 'Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi'".
Trước mặt Thiên Chúa loài người không ai là người công chính, tất cả đều là tội nhân đáng thương và cần được cứu độ, bao gồm cả tổ phụ Abraham vốn được xưng "là cha của tất cả các kẻ tin" (Roma 4:11), thậm chí kể cả đệ nhất tạo vật về ân sủng là Mẹ Maria, cho dù được hoài thai vô nhiễm nguyên tội, cũng đã chân nhận là mình được cứu độ (được gìn giữ một cách đặc biệt nhờ hưởng trước ơn cứu chuộc của Chúa Kitô Con Mẹ), như lời Mẹ tuyên xưng trong Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hân hoan trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi" (Luca 1:46-47), huống chi là thành phần biệt phái (Pharisiêu) trong dân Do Thái, thành phần bị Chúa Giêsu thậm tệ quở trách là "đồ giả hình", "thứ gian trá", "những hướng đạo viên mù quáng" (xem Mathêu toàn đoạn 23). 
Đời sống và thái độ của họ tỏ ra như thể họ là "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc". Thế nhưng, họ đã hoàn toàn lầm lạc, chỉ sống theo chữ nghĩa của lề luật hơn là tinh thần của lề luật, và sử dụng chính lề luật để xét đoán xấu cùng lên án tha nhân và khinh bỉ thành phần "thu thuế và tội lỗi", nghĩa là để sát hại hơn là để cảm thông và cứu giúp, hoàn toàn ngược với cốt lõi của dự án thần linh, phản lại với cõi lòng yêu thương vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa. Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã khuyên thành phần biệt phái kiêu hãnh về đời sống công chính hoàn toàn giả tạo của họ rằng: "Hãy về mà học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân lành chứ đâu cần lễ tế".

Bài Phúc Âm hôm nay còn cho thấy mấy điểm rất lý thú như sau: điểm trước hết là thành phần tội nhân, bao gồm cả những nam nhân thu thuế tham lam và những nữ nhân đàng điếm
xác thịt, đáng khinh bỉ trước mặt biệt phái và luật sĩ, nhưng lại được ngồi đồng bàn với Chúa, và thậm chí còn được đối diện với Chúa nữa, ngồi phía bàn bên kia, trực diện với Chúa, hơn là các tông đồ cũng đồng bàn với Chúa mà lại ở hai bên Chúa nên không thấy Chúa cho bằng họ. Chính người thu thuế cầu nguyện trong đền thờ cúi mình xuống không dám ngẩng đầu lên mới đối diện với Chúa, còn người biệt phái nghênh đầu lên vênh váo lại chẳng thấy Chúa đâu.

Điểm lý thú thứ hai trong bài Phúc Âm hôm nay đó là thành phần biệt phái vốn khinh bỉ và xá lánh những thứ cặn bạ trong xã hội Do Thái bấy giờ là bọn thu thuế và gái điếm, thế mà, vì theo bám Chúa để rình mò bắt bẻ mà lại dám theo Người vào yận "hang trộm cướp" như nhà của chàng thu thuế Mathêu trong bài Phúc Âm hôm nay, nhưng vì họ là thành phần công chính, nên họ không muốn ngồi đồng bàn với những hạng người xấu xa ghê tởm ấy, và vì thể nên họ cũng không được đồng bàn với Chúa, trái lại, vì họ ở xa Chúa nên muốn giao tiếp với Người họ phải nói qua các vị tông đồ của Người, chứ không thể trực tiếp nói với Người, như họ chất vấn Chúa với các tông đồ của Người thôi, không dám trực tiếp với Người.

Điểm lý thú thứ ba đó là vấn đề họ thắc mắc với các tông đồ của Chúa Giêsu:
"Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?" đã được Chúa Giêsu trả lời trong câu Người nhắc nhỏ họ rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: 'Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ'. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi". Qua câu nói này, Chúa Giêsu như muốn nói với họ rằng: sở dĩ tôi "ăn uống với những người tội lỗi và thu thuế" là vì tôi là thày thuốc nhân lành cần chữa bệnh hoàn toàn miễn phí cho họ, không cần họ phải cống hiến cho tôi bất cứ một lễ vật gì tôi mới cứu chữa họ.
Thiên Chúa tỏ tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài ra ở mạc khải Thánh Kinh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, cho cả tội nhân (bằng việc tha thứ) cũng như chính nhân (bằng việc chăm sóc). Trong bài đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên (23:1-4,19; 24:1-8,62-67), chúng ta cũng thấy lòng nhân lành của Thiên Chúa được tỏ ra qua việc Ngài chăm sóc cho vị tổ phụ Abraham và Isaac con ông, khi Ngài sắp xếp cho người con được sinh ra bởi lời hứa này lấy được người vợ đúng như lòng mong ước của vị tổ phụ, một lòng mong ước trước hết ở chỗ trung thành với tất cả những gì Thiên Chúa muốn, không hề dám làm gì trái ý của Ngài.
Vị tổ phụ này cương quyết không muốn cho người con trai được sinh ra theo lời hứa này của ông lấy con gái xứ Canaan dân ngoại là nơi ông đang sống, và ông cũng không muốn cho người con trai quí báu này của ông lấy bất cứ người con gái nào ở nơi ông đã bỏ đi từ đó mà đến xứ Canaan này, nhưng lấy một người con gái thuộc chính gia tộc của ông. Ông đã dặn người lão bộc đã ở với ông ngay từ đầu như thế, bằng một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng thần linh nhân hậu của Thiên Chúa:
"'Chú hãy đặt tay dưới đùi tôi, và tôi xin chú nhân danh Thiên Chúa là Chúa trời đất, mà thề rằng chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ Canaan, nơi tôi đang sống. Nhưng chú sẽ về quê tôi, đến với họ hàng tôi, mà cưới vợ cho con tôi là Isaac'. Người lão bộc thưa với ông: 'Có thể người đàn bà ấy không chịu đi theo tôi về đất này; vậy tôi có phải đưa cậu con trai ông về đất mà từ đó ông đã ra đi không?' Ông Abraham bảo người ấy: 'Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó! Thiên Chúa là Chúa Trời, Đấng đã đưa tôi ra khỏi nhà cha tôi, khỏi quê hương tôi, Đấng đã phán với tôi và thề với tôi rằng: 'Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này', chính Người sẽ sai sứ thần Người đi trước mặt chú, để từ nơi đó chú cưới vợ về cho con tôi. Nếu người đàn bà không chịu đi theo chú, thì chú không còn buộc phải giữ lời thề với tôi nữa. Nhưng dù sao, cũng đừng đưa con tôi về đó".

 

Quả thực, qua đoạn Sách Khởi Nguyên không được trích dẫn (vì quá dài), giữa đoạn trên đây và đoạn dưới đây, chúng ta thấy được Thiên Chúa chính là Đấng xe duyên kết nghĩa cho con người được Ngài hứa cho xuất phát một dân tộc đông như sao trời cát biển, nhưng dân tộc đông như sao trời cát biển bao gồm tất cả những ai được cứu độ ấy lại cần phải được chung hưởng gia nghiệp với một giòng dõi được tuyển chọn là dân Do Thái, bắt đầu từ cặp vợ chồng Isaac và Rebeca:

"Khi ấy cậu Isaac đã bỏ vùng giếng Beer-lahai-roi, và đang ở trong miền Negeb. Cậu Isaac ra ngoài đồng dạo mát lúc chiều tà. Ngước mắt lên, cậu thấy một bầy lạc đà đang tiến đến. Ngước mắt lên, cô Rebeca thấy cậu Isaac, cô bèn từ trên lưng lạc đà nhảy xuống và hỏi người lão bộc: 'Người đang đi ngoài đồng tiến về phía chúng ta là ai đó?' Người lão bộc trả lời: 'Chủ tôi đấy!' Cô bèn lấy chiếc khăn che mặt. Người lão bộc thưa lại với cậu Isaac tất cả những gì ông đã làm. Cậu Isaac đưa cô Rebeca vào lều của bà Sara mẹ cậu; cậu lấy cô làm vợ, cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ". 



Thứ Bảy



Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 27, 1-5. 15-29

"Giacóp chiếm vị và trộm lấy chúc lành của anh".

Trích sách Sáng Thế.

Isaac đã già, mắt loà không còn trông thấy được nữa. Ông gọi con trai cả là Êsau mà bảo rằng: "Hỡi con". Êsau thưa: "Dạ, con đây". Ông nói tiếp: "Con thấy cha đã già rồi, cha không biết ngày nào cha chết. Con hãy lấy khí giới: cung, tên, rồi đi ra ngoài; khi săn được gì, con hãy lấy mà dọn món ăn mà con biết cha ưa thích, rồi đem cho cha ăn, và cha sẽ chúc lành cho con trước khi cha chết".

Bà Rêbecca nghe lời ấy (...) và khi Êsau ra đồng để thi hành lệnh của cha (...) thì bà lấy áo tốt của Êsau mà bà vẫn giữ trong nhà, đem mặc cho Giacóp. Bà lấy da dê mà bọc tay và quấn cổ Giacóp. Ðoạn bà lấy cháo và bánh đã nấu trao cho Giacóp...

Giacóp bưng lên cho cha mà nói rằng: "Thưa cha". Isaac nói: "Cha nghe rồi. Hỡi con, con là ai?" Giacóp thưa: "Con là Êsau trưởng nam của Cha. Con đã làm như cha dạy, xin cha chỗi dậy, ngồi ăn thịt con đã săn được để cha chúc lành cho con". Isaac lại nói với con: "Hỡi con, lẽ nào con săn được mau như thế?" Giacóp thưa: "Thánh ý Thiên Chúa đã định, nên con chóng được như ý muốn". Isaac bảo rằng: "Hỡi con, con hãy lại đây để cha rờ thử xem con có phải là Êsau con của cha hay không". Giacóp tiến lại gần cha. Isaac rờ con mà nói: "Tiếng nói là tiếng Giacóp, còn tay lại là tay Êsau". Ông không nhận ra được, vì tay (cậu) có lông như tay anh cả. Vậy ông chúc lành cho con mà nói: "Con có phải là Êsau con cha thật không?" Giacóp đáp: "Thưa phải". Ông nói tiếp: "Hỡi con, hãy đem cho cha ăn thịt săn của con, để cha chúc lành cho con". Khi ông ăn đồ con đem đến xong, con ông lại đem rượu cho ông uống. Uống xong, ông bảo con rằng: "Hỡi con, hãy lại đây hôn cha". Giacóp lại gần hôn cha; ông ngửi thấy mùi thơm của bộ áo con, thì chúc lành cho con mà rằng: "Mùi thơm của con ta như mùi hương cánh đồng phì nhiêu mà Chúa đã chúc phúc. Xin Thiên Chúa ban cho con những giọt sương trời, giải đất mầu mở, lúa miến và rượu nho dư đầy. Các dân tộc sẽ suy phục con, các chi họ sẽ sấp mình trước con. Con hãy làm chủ các anh em con, các con cái của mẹ con sẽ phủ phục trước mặt con. Ai nguyền rủa con, thì sẽ bị nguyền rủa; và ai chúc lành cho con, thì sẽ được đầy phúc lành".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 134, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Các ngươi hãy ngợi khen Chúa, vì Người nhân hậu (c. 3a).

Xướng: 1) Các ngươi hãy ngợi khen danh Chúa, hãy ngợi khen Chúa, hỡi các tôi tớ của Người là những kẻ đứng trong nhà Chúa, trong tiền đường nhà Chúa chúng ta. - Ðáp.

2) Các ngươi hãy ngợi khen Chúa, vì Người nhân hậu; hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người rất ngọt ngào. Vì Chúa đã chọn Giacóp cho mình, đã chọn Israel làm sở hữu. - Ðáp.

3) Tôi đã nhận biết Chúa cao cả, Thiên Chúa chúng tôi vượt lên trên hết thảy các thần. Mọi sự Chúa muốn Chúa đã làm, trên trời dưới đất, trong biển và nơi các vực thẳm. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 14-17

"Làm sao các phù rể có thể buồn rầu khi tân lang còn đang ở với họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, [Chúa Giêsu sang miền Giêsarênô,] các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?" Chúa Giêsu nói với họ rằng: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay. Không ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vải mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn".

Ðó là lời Chúa.


Jesus Is Questioned About Fasting | Neno-The Word

Suy Niệm

"rượu mới bầu mới"

Bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 9:14-17), Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên, ghi lại câu trả lời của Chúa Giêsu về vấn đề được "các môn đệ ông Gioan" (Tẩy Giả) đặt ra: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisiêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?".

Câu trả lời của Chúa Giêsu cho họ là: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay. Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai".
Bài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, mà bài Phúc Âm hôm qua về việc Chúa Giêsu cùng với các môn đệ của Người ngồi ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi ở nhà viên thu thuế Mathêu sau khi chàng được Người kêu gọi theo Người. Có thể vì thế mà việc thày trò của Người mới trở thành vấn đề (gương mù) ngứa mắt cho thành phần môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả  vốn chay tịnh nhiệm nhặt theo gương thày của họ. 
Bởi vì, thành phần môn đệ của vị tiền hô ấy chắc chắn không thể nào quên được những gì vị thày rất khả kính của họ đã hết lời nói hay nói tốt về Đức Kitô là "một Đấng đến sau nhưng cao trọng hơn tôi, tôi không đáng cởi giây giầy cho Người" (Gioan 1:27). Thế mà giờ đây nhân vật được thày họ ca tụng hết mình ấy lại ngồi "ăn nhậu" ngon lành với bọn thu thuế và tội lỗi đáng khinh bỉ và xa lánh trong xã hội!
Tuy nhiên, trong câu chất vấn của những người môn đệ theo Tiền Hô Gioan Tẩy Giả không hề đặt vấn đề với chính Chúa Giêsu mà chỉ đặt vấn đề về các môn đệ của Người mà thôi "Tại sao chúng tôi và các người Pharisiêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?". Có lẽ họ thấy các môn đệ hầu hết có vẻ quê mùa của Người ăn uống một cách tự nhiên thoải mái không kiêng cữ gì, chẳng những lần này ở nhà của viên thu thuế Mathêu mà còn ở những lần khác nữa hay chăng, trong khi Chúa Giêsu Thày của họ có ngồi chung bàn ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi cũng vẫn tỏ ra tư cách xứng đáng là một bậc sư phụ của các vị.
Trong câu trả lời của mình, Chúa Giêsu đã ám chỉ Người là "chàng rể" và các môn đệ của Người là thành phần "khách dự tiệc cưới". Không biết nhóm môn đệ chất vấn Chúa Giêsu có hiểu câu trả lời bóng bẩy nhưng đầy ý nghĩa sâu xa của Người hay chăng. 
Chỉ biết rằng, Người cố ý nói là khi Người còn ở với các môn đệ và sống với các môn đệ thì các vị chưa cần phải chay tịnh, "cho đến khi chàng rể bị đem đi rồi thì bấy giờ họ mới ăn chay", nghĩa là cho tới khi Người "đi để dọn chỗ cho các con" (Gioan 14:3), tức là "đi" tử nạn, nhờ đó cho dù "các con sẽ than van khóc lóc còn thế gian thì hân hoan, nhưng nỗi sầu thương của các con trong một thời gian sẽ trở thành niềm vui" (Gioan 16:20), như hai tông đồ Phêrô và Gioan đã cảm thấy "tràn đầy hân hoan" chính khi các vị bị cấm đoán và hành hạ (xem Tông Vụ 5:41). 
Trường hợp của hai tông đồ Phêrô và Gioan này đúng là trường hợp "rượu mới thì đổ vào bầu mới": nếu "rượu mới" đây ám chỉ giáo huấn trọn lành của Chúa Kitô, thì "bầu mới" (chứ không phải "bầu cũ" ám chỉ tinh thần vị luật như khuynh hướng và lối sống của nhóm luật sĩ và biệt phái) để có thể đựng thứ "rượu mới" này đó là tinh thần vị tha, là "lòng nhân lành" mà Chúa Kitô đã mong muốn trong bài Phúc Âm hôm qua, một "lòng nhân lành" rất thích hợp với thứ "rượu mới" là "giới răn mới" của Người (Gioan 13:34), và nhờ đó mới có thể hiện thực "giới răn mới" này được: ở chỗ "các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34). 
Bài đọc 1 hôm nay, trích từ Sách Khởi Nguyên (27:1-5,15-29), cũng cho thấy hai tính cách tương phản, chay tịnh (vất vả) và tiệc cưới (hân hoan), ở chỗ, trong khi Esau cần phải vất vả mới có thể đáp ứng những gì cha yêu cầu nhờ đó mới được cha chúc phúc cho, trong khi đó Giacóp lại chiếm được phúc của cha một cách dễ dàng vui vẻ không vất vả như anh của mình, nhờ có bà mẹ khôn khéo là Rebeca.
Thật vậy, bà Rebeca đã tỏ ra yêu con thứ hơn con trưởng, bởi Giacóp dường như luôn quanh quẩn ở nhà với mẹ, vụng về chứ không tài giỏi xông xáo như anh, nhưng lại dễ nghe lời mẹ và hoàn toàn cậy dựa vào mẹ của mình, nên được mẹ chăm sóc đặc biệt, nhất là trong lần được cha chúc phúc này, ở chỗ, bà chẳng những mách bảo ý định của cha cho Giacóp biết, mà còn tìm cách giúp cho Giacóp vừa không bị lộ lại vừa thỏa đáng món ăn cha thích. Sách Khởi Nguyên trong bài đọc hôm nay đã trình thuật như sau:
"Đang khi ông Isaac nói với Esau, con trai ông, thì bà Rebeca nghe được. Esau đi ra đồng để săn thú mang về.

Bà Rebeca lấy áo của Esau, con trai lớn của bà, áo sang nhất mà bà có ở nhà, và mặc cho Giacóp, con trai nhỏ của bà. Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và phần cổ nhẵn nhụi của cậu. Rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay Giacóp, con bà".

"Gia-cóp thưa với cha: 'Con là Esau, con trưởng của cha; con đã làm như cha bảo. Mời cha ngồi dậy xơi món thịt rừng của con, để cha đích thân chúc phúc cho con'. Ông Isaac hỏi con: 'Con ơi ! sao con tìm được mau thế?' Cậu thưa: 'Chúa, Thiên Chúa của cha, đã cho con gặp được may mắn'. Ông Isaac bảo Giacóp: 'Con ơi, lại gần đây, để cha rờ con, xem con có đúng là Esau, con cha, hay không'. Gia-cóp lại gần ông Isaac, cha ông; ông rờ cậu và nói: 'Tiếng thì tiếng Giacóp, mà tay là tay Esau'. Ông không nhận ra cậu, vì tay cậu lông lá như tay Esau, anh cậu; thế là ông chúc lành cho cậu. Ông hỏi: 'Con có đúng là Esau, con cha không?' Cậu thưa: 'Vâng, chính con'. Ông nói: 'Con ơi, bưng lại cho cha ăn món thịt rừng, để cha đích thân chúc phúc cho con'. Cậu bưng lại cho ông, ông ăn; rồi cậu đem rượu đến, ông uống. Ông Isaac, cha cậu, bảo: 'Con ơi, lại gần đây và hôn cha đi!' Cậu lại gần và hôn ông. Ông hít mùi áo cậu và chúc phúc cho cậu".

 

Ngày 3 tháng 7

THÁNH TÔ-MA, TÔNG ĐỒ

lễ kính

Thomas.jpg

Vào lúc Đức Giê-su chịu thương khó và phục sinh, khuôn mặt của thánh Tô-ma nổi bật. Trong bữa ăn tối, đáp lại thắc mắc của người, Đức Giê-su nói : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Khi nghe nói Đức Giê-su đã phục sinh, vị tông đồ này không tin ngay. Mãi tới lúc Đức Giê-su cho người thấy tay và cạnh sườn bị đâm thủng, người mới tuyên xưng : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28). Theo truyền khẩu thì thánh nhân đã đi loan báo Tin Mừng cho dân Ấn-độ. Từ thế kỷ IV, người ta mừng ngày rước hài cốt của người về Ê-đét-xa, tức là ngày 3 tháng 7.

Bài đọc 2

Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !

Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, về các sách Tin Mừng.

Một người trong nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Chỉ có người môn đệ này vắng mặt. Khi trở về, ông nghe thuật lại sự việc đã xảy ra nhưng không chịu tin những điều đã nghe. Chúa đến lần nữa và đưa cạnh sườn cho người môn đệ không tin chạm tay vào. Người đưa tay ra và, khi cho ông thấy các thương tích của Người, Người chữa lành vết thương cứng tin của ông. Anh em thân mến, trong chuyện này, anh em chú ý đến điều gì ? Lúc đầu, người môn đệ được chọn này vắng mặt, sau đó ông về và nghe kể lại, nghe rồi nghi ngờ, nghi ngờ rồi đưa tay chạm, chạm rồi tin, chẳng lẽ anh em cho tất cả chuyện này là tình cờ hay sao ?

Không, không phải tình cờ đâu, nhưng Thiên Chúa an bài cho xảy ra như thế. Thật vậy, Đấng từ bi cao cả đã hành động cách lạ lùng là cho người môn đệ hoài nghi đó chữa lành vết thương cứng tin nơi chúng ta khi ông chạm tay vào thương tích trên thân thể của Thầy mình. Đàng khác, đối với đức tin của chúng ta, sự cứng tin của ông Tô-ma còn hữu ích hơn đức tin của những môn đệ khác là những người đã tin. Vì ông đã chạm tay vào Chúa và đã tin, nên tâm trí chúng ta không còn hoài nghi nữa và được một đức tin vững mạnh. Thật vậy, người môn đệ nghi ngờ và được chạm tay vào Chúa đã trở thành người làm chứng Chúa đã sống lại thật.

Ông đã được chạm tay vào Chúa và đã kêu lên : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con. Đức Giê-su bảo : Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Thánh tông đồ Phao-lô lại nói : Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Vì thế, chắc chắn đức tin là bằng chứng của những điều không thể thấy đó. Thật vậy, những gì đã thấy thì không cần phải tin, nhưng phải nhìn nhận. Thế tại sao khi ông Tô-ma thấy và được chạm tay vào Chúa, Chúa lại bảo ông rằng : Vì đã thấy Thầy, nên anh tin ? Nhưng điều ông thấy là một chuyện, điều ông tin lại là chuyện khác. Người phàm phải chết không thể nhìn thấy Thiên Chúa được. Thế mà ông thấy một con người và ông tuyên xưng Thiên Chúa : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con ! Nhờ đã thấy nên ông đã tin : khi nhìn xem một con người thật, ông đã gọi người ấy là Thiên Chúa, Đấng ông không thể thấy được.

Lời tiếp theo còn làm cho chúng ta vui hơn : Phúc thay những người không thấy mà tin. Chắc chắn lời này đặc biệt nhắm đến chúng ta, vì chúng ta không thấy Chúa bằng giác quan nhưng lại gắn bó với Người bằng tâm trí. Câu ấy nhắm đến chúng ta, nhưng với điều kiện là chúng ta phải thể hiện đức tin bằng hành động. Vì chưng ai thực hành điều mình tin mới là người tin thật sự. Còn những ai chỉ tin ngoài môi ngoài miệng, thì thánh Phao-lô nói về họ rằng : Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa, nhưng trong hành động họ lại chối Người. Thánh Gia-cô-bê cũng nói : Đức tin không có hành động là đức tin chết.

 

Lạy Thiên Chúa toàn năng, hôm nay chúng con hoan hỷ mừng lễ thánh Tô-ma tông đồ. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22

"Anh em được xây dựng trên nền tảng các tông đồ".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, anh em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Ðức Giêsu Kitô làm Ðá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2

Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).

Xướng: 1) Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa! Hỡi ngàn dân, hãy ca tụng Người. - Ðáp.

2) Vì lòng từ bi Người vững bền trên chúng ta, và lòng trung kiên Người tồn tại đến muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 20, 29

Alleluia, alleluia! - Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 20, 24-29

"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđy-mô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".

Ðó là lời Chúa.

 

Thánh Thomas (Tôma) Tông Đồ hay cũng còn được gọi là là Đi-đy-mô, xuất thân từ một gia đình nghèo túng tại Galilea, Do-thái. Tuy nhiên, không ai biết về ngày tháng năm sinh của Ngài, cũng không ai biết Ngài đã sinh ra tại địa điểm cụ thể nào ở Galilea. Theo tương truyền,

 

Ngài đã đến Mailapur, một khu vực thuộc thánh phố Madras của Ấn-độ ngày nay, và đã chết tại đó vào năm 72 sau Chúa Ki-tô với tư cách là một vị Tử Đạo. Ngài là một trong nhóm 12 Tông Đồ, tức những môn đệ thân tín nhất của Chúa Giê-su, đã đồng hành với Chúa Giê-su suốt ba năm trường với tư cách là những người bạn và những môn sinh (xc. Ga 15,15). Tên của Ngài được đặt theo tiếng Aram: ta'am (Thomas), có nghĩa là „một cặp“ hay „người được sinh đôi“. Vì thế, trong Kinh Thánh, Thomas cũng được gọi là Didymos, vì từ Thomas được dịch sang tiếng Hy-lạp là δίδυμος (didymos). Theo truyền thống Syria, Thánh Nhân cũng còn được gọi là Judas Thomas, vì tại đó, Thomas được hiểu là tên đệm, hay tục danh.


Trong các Giáo hội Công giáo, Chính thống giáo và Anh giáo, Thánh Thomas được tôn kính với tư cách là vị Thánh Tông Đồ Tử Đạo. Trong các Giáo hội Tin Lành cũng có ngày tưởng nhớ tới Ngài.


1.Hình ảnh của Thánh Thomas trong Kinh Thánh:


Thánh Thomas được cả bốn Tin Mừng nhắc tới trong bảng danh sách các Tông Đồ. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, tức ba cuốn Tin Mừng đầu tiên, Ngài đứng bên cạnh Thánh Mát-thêu - viên quan ngành thuế (Mt 10,3; Mc 3,18; Lc 6,15). Trong sách Công Vụ Tông Đồ, người ta thấy Ngài đứng bên cạnh Tông Đồ Philiphê (Cv 1,13). Tin Mừng theo Thánh Gio-an đã cung cấp một số chi tiết đặc biệt về Thánh Nhân, mà những chi tiết đó đã mô tả một cách rõ nét về những tính cách nơi con người Ngài.


a.Thomas là người đa nghi:


Trước tiên, con đường dẫn tới việc tuyên xưng Đức Tin vào Con Thiên Chúa được trình bày nơi Thánh Thomas, dựa trên nền tảng căn bản phát xuất từ mối tương quan cá nhân của Ngài với Chúa Giê-su. Tin Mừng theo Thánh Gio-an (xc. Ga 20,19-29) đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn như thế:


Vào chiều ngày ấy, tức ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."


„Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"


Sở dĩ Thánh Thomas bị gọi là người „đa nghi“ là vì, như được trình bày trong đoạn văn Kinh Thánh nêu trên, trước khi tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giê-su Phục Sinh thì Ngài đã nghi ngờ về sự phục sinh của Chúa, cho tới khi chính Ngài tận mắt thấy được những vết đanh trên người của Đấng Phục Sinh.


b.„Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống“:


Một chi tiết tiếp theo về Thánh Thomas được ghi lại trong trình thuật về Bữa Tiệc Ly (xc. Ga 14,4). Trong Bữa Tiệc này, sau khi loan báo về cái chết đang đến gần của Ngài, Chúa Giê-su đã nói rằng, Ngài sẽ đi để dọn chỗ cho các Môn Đệ, để Ngài ở đâu thì các ông cũng sẽ được ở đó với Ngài; và Ngài đã giải thích cho các ông rằng: „Thầy đi đâu thì anh em cũng đã biết đường đến đó rồi“ (Ga 14,4). Nhưng Thánh Thomas đã xen vào và nói: „Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?“ (Ga 14,5). Câu hỏi của Thánh Nhân đã tạo điệu kiện cho Chúa Giê-su tuyên bố một lời rất nổi tiếng: „Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống“ (Ga 14,6).


c.“Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!:


Thánh Thomas lại xuất hiện một lần nữa trong Tin Mừng trước khi Chúa Giê-su làm cho La-gia-rô phục sinh. Trong một khoảnh khắc đầy nguy ngập đối với cuộc sống của Ngài, Chúa Giê-su đã quyết định đi tới Bê-ta-ni-a để làm cho La-gia-rô được sống lại, và như thế, Ngài đã lên đường trong sự nguy hiểm, vì Bê-ta-ni-a nằm rất gần Giê-ru-sa-lem, nơi các thủ lãnh của dân đã quyết định làm mọi cách để khử trừ Chúa Giê-su (xc. Ga 10,22-39), do đó, chỉ cần nói tới đi đến Giê-ru-sa-lem thôi thì tất cả các môn đệ của Chúa Giê-su lẫn những người đi theo Ngài đều cảm thấy kinh hoàng và sợ hãi (xc. Mc 10,32). Trước sự quyết tâm của Chúa Giê-su và trước nỗi do dự của các Tông Đồ khác, Thánh Thomas đã nói với họ: „Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!


2.Thánh Thomas đã nghi ngờ về cuộc Thăng Thiên của Đức Maria:


Theo tương truyền, Thánh Thomas cũng là một Tông Đồ duy nhất đã không có mặt trong cuộc Thăng Thiên của Đức Maria. Khi được các Tông Đồ khác thuật lại cho biết sự kiện vừa nêu, Ngài cũng đã tỏ ra nghi ngờ giống như Ngài đã từng nghi ngờ về cuộc Phục Sinh của Chúa Giê-su. Vì thế Đức Mẹ đã hiện ra với kẻ đa nghi này và trao cho Ngài dây thắt lưng của Mẹ như là bằng chứng về việc cả hồn lẫn xác của Mẹ đều đã được nghinh đón trên Thiên Đàng. Do đó, trong nền kiến trúc Barock, hình ảnh Đức Maria cầm dây thắt lưng chính là một Mô-típ rất được yêu chuộng và phổ biến trong nghệ thuật Ki-tô giáo.


3.Những tương truyền về hoạt động tông đồ của Thánh Thomas:


Cuốn Didache, tức cuốn Giáo Lý của các Thánh Tông Đồ - một trong những tác phẩm Ki-tô giáo cố nhất ngoài 27 cuốn sách của Tân Ước – xuất hiện vào khoảng năm 100 sau Chúa Ki-tô, chứa đựng những bằng chứng cổ nhất bằng văn bản về hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại Ấn-độ. Theo cuốn sách này, Ngài đã thành lập Giáo hội tại Ấn-độ và tại những khu vực lân cận.


Khoảng một trăm năm sau, những tài liệu được gọi là những văn kiện về Thánh Thomas mới xuất hiện. Những tác phẩm này đã tường thuật lại một cách khá giống nhau về những công việc của Thánh Thomas, nhưng được thêu dệt thêm bởi rất nhiều những tình tiết giầu tính tưởng tượng, và có vẻ như bị ảnh hưởng nhiều bởi ngộ đạo thuyết.


Giáo phụ Ô-ri-gen cho biết rằng, trước tiên Thánh Thomas đã đến loan báo Tin Mừng tại Irak và Iran. Sau đó Ngài mới đến miền Nam Ấn-độ để hoạt động Tông Đồ, và vì những hoạt động truyền giáo của mình, nên Ngài đã bị giết tại Mailapur – một khu vực thuộc miền Nam Ấn-độ - vào năm 70 của thế kỷ thứ nhất. Người ta vẫn còn giữ được nhiều văn bản nói về những hoạt động của Thánh Thomas tại Ấn-độ, nhưng những văn bản đó xuất hiện sau thời Ô-ri-gen. Trong đó có những bản văn của Thánh Hieronymô (347-420), và của những người sống cùng thời với Ngài là Thánh Gaudentiô thành Brescia và Thánh Paulinô thành Nola (354-431).


Thánh Grêgôriô thành Tours (538-594) đã không chỉ cho chúng ta biết rằng, Thánh Thomas Tông Đồ đã hoạt động và chết tại Ấn-độ, nhưng còn cho biết thêm là, Ngài đã được mai táng tại đó trong một thời gian dài, và sau đó, các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển tới Edessa, nhưng nơi có ngôi mộ nguyên thủy của Ngài vẫn còn được tiếp tục tôn kính tại Ấn-độ. Thánh Isidor thành Sevilla (560-636) cũng nói tương tự như thế về Thánh Thomas, và cũng nói về cách thức lãnh nhận ơn Tử Đạo của Ngài tại Ấn-độ.


Một truyền thống khác phát sinh tại Nam Ấn-độ, và có nguồn gốc từ thời các Thánh Tông Đồ, và luôn tồn tại từ đó tới nay, đã cho biết về những hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại đó, và cho biết rằng, Ngài đã thành lập 7 giáo đoàn đầu tiên tại vùng duyên hải Malabar, cũng như cho biết về cuộc Tử Đạo của Ngài tại Mailapur nằm đối diện với vùng duyên hải Coromandel. Ngay cả truyền thống có tính địa phương của Ấn-độ về Thánh Thomas cũng xác nhận về việc các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển một phần lớn về Edessa, mà tại đây, trong các cuộc khai quật sau sau này, người ta đã phát hiện ra một ít Thánh Tích vẫn còn sót lại của Ngài.


Ibas Edessa đã cho xây dựng một ngôi Thánh Đường tại quê hương của ông để tôn kính các Thánh Tích của Thánh Thomas. Còn hộp sọ được cho là của Thánh Thomas thì hiện tại đang được bảo quản trong Nhà Thờ Chính Tòa Sioni tại Tiflis, Giorgia, và được tôn kính tại đó bởi Giáo hội Tông Truyền Chính thống Giorgia như là Thánh Tích. Trong cuộc Thập Tự Chinh vào năm 1258, phần lớn Thánh Tích của Thánh Thomas đều được chuyển từ Edessa về Ortona, Ý, và những Thánh Tích đó vẫn đang được bảo quản tại đó cho tới tận ngày nay, trong một hòm đựng Thánh Tích đặt trong Nhà Nguyện nằm bên dưới Vương Cung Thánh Đường Ortona. Ngôi mộ nguyên thủy của Thánh Thoams tại Ấn-độ hiện đang là một điểm hành hương có sức lôi cuốn rất mạnh. Ngoài Vương Cung Thánh Đường kính Thánh Thomas được xây dựng ngay trên ngôi mộ trước đây của Ngài tại Mylapore, thuộc thành phố Chennai, thì tại khu vực phía Nam Ấn-độ cũng còn vô số những điểm hành hương khác, mà những điểm hành hương này đều có liên quan đến Thánh Thomas cũng như liên quan tới những hoạt động truyền giáo của Ngài tại đó. Sau đây là một số địa điểm nổi tiếng nhất:


1.Thánh Đường kính Thánh Thomas trên núi Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Ngài đã Tử Đạo tại đó;


2.Thánh Đường kính Thánh Thomas nằm trên một ngọn núi nhỏ khác tại Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Thánh Thomas đã đến ẩn náu tại đó trước khi chịu Tử Đạo;


3.Núi và Thánh Đường Malayattoor tại Kerala: đây là nơi được cho là Thánh Thomas đã đến sống ẩn dật tại đó trong một thời gian dài để cầu nguyện và suy niệm;


4.Thánh Đường Codungallur: theo tương truyền, nơi đây đã từng là một thành phố cảng nổi tiếng, và vào năm 52, Thánh Thomas đã cập bến tại đây, và là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy do Thánh Thomas thành lập. Một cánh tay của Thánh Nhân đang được tôn kính tại đây. Cánh tay này đã được chuyển đến từ Ortona, nước Ý, như là một món quà của Đức Pi-ô XII nhân dịp mừng kỷ niệm 1900 năm Ngày thánh Thomas đặt chân tới Ấn-độ.


5.Thánh Đường Palayur: đây là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy tại vùng duyên hải Malabar, và nguyên là một đền thờ của người Ấn giáo. Sau khi hầu hết các Giáo sĩ Bà-la-môn gia nhập Giáo hội Công giáo, Thánh Thomas đã biến ngôi đền này thành một ngôi Thánh Đường.


Theo một số truyền thống khác, mà những truyền thống này có lẽ có nguồn gốc từ ngộ đạo thuyết và từ phái Manichê, Thánh Thomas được coi là người anh em song sinh của Chúa Giê-su.


Thánh Thomas còn bị gán là tác giả của một cuốn Tin Mừng và của nhiều tác phẩm khác. Nhưng tất cả các tác phẩm này đều bị liệt vào số các sách Ngụy Thư.


4.Việc tôn kính Thánh Thomas:


Tại Châu Âu, ngoài việc được tôn kính với tư cách là Thánh Tông Đồ Tử Đạo, Thánh Thomas còn được tôn kính với tư cách là vị Bổn Mạng của những người làm nghề thợ nề và thợ mộc. Bên cạnh đó, Ngài còn được tôn kính là Bổn Mạng của các Thần Học Gia.


Trước đây Giáo hội mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12, nhưng từ năm 1969, với cuộc cải tổ Phụng Vụ, Giáo hội đã mừng kính Ngài vào ngày mồng 03 tháng 07 với bậc Lễ Kính, tức Lễ Bậc II. Ngày mồng 03 tháng 07 được coi là ngày di chuyển các Thánh Tích của Thánh nhân từ nơi Ngài được phúc Tử Đạo, tức từ Kalamina về Edessa hồi thế kỷ thứ III.


Giáo hội Chính Thống giáo mừng kính Thánh Thomas vào ngày mồng 06 tháng 10.


Còn các Giáo hội Tin Lành thì vẫn tiếp tục mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.


Và Giáo hội Anh giáo cũng mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.

 

Lm Đa-minh Thiệu O.Cist

http://conggiao.info/thanh-toma-tong-do-d-41872

 

Thứ Tư  27/9/2006 - Bài 19: Tông Đồ Tôma (ĐTC Biển Đức XVI)