SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Thường Niên Tuần IX 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Dẫn Nhập:

Phụng niên của Giáo Hội kéo dài 34/52 tuần lễ và bao giờ cũng có các Mùa chính yếu thứ tự như sau: 1- Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh; 2- Mùa Chay và Mùa Phục Sinh; 3- Mùa Thường Niên, một thời điểm phụng niên được chia thành 2 phần: hậu Giáng Sinh và hậu Phục Sinh.

Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh - thời khoảng kéo dài

Theo phụng vụ của Giáo Hội thì Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, nghĩa là thời khoảng phụng niên kéo dài bắt đầu từ Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa mở đầu Mùa Thường Niên sau Mùa Giáng Sinh đến hết Thứ Ba áp Thứ Tư Lễ Tro bắt đầu Mùa Chay, tùy theo năm, dài nhất có thể kéo dài đến tuần thứ 9 (rất hiếm thấy, như năm 2000 hay năm 2011), và ngắn nhất chỉ kéo dài đến tuần thứ 5 (như năm 1986, 1989, 1991, 1997, 2002, 2005, 2008, 2016).

Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh - thời điểm bắt đầu

Như thế, nếu Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh có thể kéo dài nhất cho tới 9 tuần thì bình thường Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh sẽ được tái tục vào Tuần X. Tuy nhiên, thực tế lại xẩy ra là nếu Mùa Thường Niên nào kết thúc sớm hay muộn thì được tái tục sớm hay muộn ở Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh.

Chẳng hạn Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh đã được kết thúc sớm ở Tuần Thứ V, như Năm 2013 hay Năm 2016 thì Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh của cả hai năm này đã được bắt đầu ở Tuần Thứ VIII. Còn Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh đã được kết thúc muộn ở Tuần Thứ IX, như Năm 2011, thì Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh của cả hai năm này đã được tái tấu vào Chúa Nhật Tuần XII.

Tuy nhiên, không phải Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh nào có thời khoảng kéo dài tuần lễ giống nhau đều tái tục ở Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh giống nhau. Chẳng hạn Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kết thúc ở tuần Thứ VIII, như năm 2014, 2017, 2019 và 2022, nhưng từng năm này đã được tái tục ở Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh đôi khi khác nhau, như Năm 2014 ở Tuần XI và Năm 2017 ở Tuần X, nhưng thường giống nhau ở Tuần XI, như Năm 2019 và Năm 2022 giống năm 2011.

Phụng Niên: Các Mùa Phụng Vụ theo niên lịch 52 tuần lễ

Vấn đề Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh được bắt đầu sớm muộn như thế nào chăng nữa miễn là làm sao phụng niên năm nào cũng có đầy đủ 34 tuần lễ Mùa Thường Niên, cùng với các Mùa Phụng Vụ chính yếu khác trong năm, như Mùa Vọng bao giờ cũng có 4 tuần, Mùa Giáng Sinh (hơn 2 tuần từ Lễ Giáng Sinh tới hết tuần Lễ Hiển  Linh), Mùa Chay (5 tuần rưỡi 40 ngày từ Thứ Tư Lễ Tro và nguyên Tuần Thánh là 6 tuần rưỡi), và Mùa Phục Sinh (8 tuần từ Chúa Nhật Phục Sinh tới Lễ Hiện Xuống, thời điểm vừa là tột đỉnh của Mùa Phục Sinh vừa mở màn cho Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh).

Nếu cộng lại các tuần lễ được tính như trên của một phụng niên thì lên tới 54 tuần (Mùa Thường Niên 34 + các Mùa Khác 20), nghĩa là dư mất 2 tuần hay hơn 2 tuần so với lịch dân sự chỉ có 52 tuần lễ.

Bởi thế, có hai thời điểm cần phải uyển chuyển ở đây cho đủ một năm dân sự 52 tuần lễ. Thời điểm thứ nhất cần phải uyển chuyển xẩy ra vào Mùa Giáng Sinh, tùy Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh: nếu Lễ Giáng Sinh 25/12 rơi vào đúng Chúa Nhật, thì Mùa Giáng Sinh chỉ có 2 tuần, nhưng nếu Lễ Hiển Linh chính thức cử hành vào ngày 6/1 hằng năm sau Giáng Sinh rơi vào ngay Chúa Nhật (chứ không phải được dời) thì Mùa Giáng Sinh có 3 tuần.

Thời điểm thứ hai cần phải uyển chuyển xẩy ra vào lúc giao điểm giữa Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh và Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh. Bởi thế chúng ta thấy có những phụng niên Mùa Thường Niên bị mất đi chỉ có 1 tuần, như năm 2012, 2017, 2018, 2023 v.v., nhưng bình thường là 2 tuần, như năm 2011 cùng những năm liên tiếp như 2013-2016 và năm 2019-2022, chứ không tiếp nối liên tục từ hậu Giáng Sinh đến hậu Phục Sinh.

Phụng Vụ: lịch dân sự trở thành Lịch Sử Cứu Độ

Sự kiện Mùa Thường Niên không bao giờ liên tục và thường bị mất đi 2 tuần lễ đã chứng tỏ con số 54 tuần phụng niên vượt quá 52 tuần theo lịch dân sự, cần phải uyển chuyển làm sao cho đủ.

Ngay ở chi tiết uyển chuyển của lịch phụng vụ với lịch dân sự hằng năm này cho thấy ý nghĩa sâu xa của Mầu Nhiệm Nhập Thể cũng như của chiều hướng hội nhập truyền giáo, nhờ đó có thể thăng hoa văn hóa của con người, bởi lịch dân sự được sử dụng để cử hành Mầu Nhiệm Thần Linh, Mầu Nhiệm Chúa Kitô nói chung và Mầu Nhiệm Vượt Qua là tột đỉnh của phụng niên nói riêng, một Mầu Nhiệm Cứu Độ đã biến đổi những gì là sự dữ và chết chóc thành ân sủng và sự sống bằng cuộc Tử Giá của Chúa Kitô, và đã chiến thắng tội lỗi cùng sự chết bằng cuộc Phục Sinh của Người, nhờ đó lịch sử của con người (biểu hiệu nơi lịch dân sự) trở thành Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa, một Lịch Sử Cứu Độ cho con người được Giáo Hội hằng năm nhắc nhở và cử hành theo lịch phụng vụ của Giáo Hội.

 

 

Chúa Nhật

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Thánh Thần Hiện Xuống

 


 

 



Thứ Hai


Trong đời sống đạo, đời sống thiêng liêng, đời sống đức tin, vì còn nguyên mầm mống nguyên tội trong bản thân, được lưu truyền từ nguyên tội và bởi nguyên tội ngay từ ban đầu qua bản tính loài người của mình, mà cuộc đời của Kitô hữu trên trần gian này mới trở thành hay mới được gọi là một cuộc hành trình đức tin, một cuộc sống theo đức tin hướng dẫn và trung thành với đức tin cho đến cùng, một cuộc sống siêu nhiên cao cả, ở ngay trong thế gian mà không thuộc về thế gian, một cuộc sống siêu thoát, hoàn toàn làm chủ thế gian, chẳng khác gì như "muối đất... (và như) ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:13-14), bất chấp mọi chước cám dỗ của ma quỉ, mọi quyến rũ của thế gian, nhất là liên quan đến lòng tham lam của cải sản vật thế gian như người thanh niên giầu có đạo hạnh trong bài Phúc Âm hôm nay, thậm chí còn thắng vượt mọi gian nan khốn khó bởi dám bơi ngược giòng đời.

Tuy nhiên, cũng chính vì mầm mống nguyên tội mà tự mình con người chỉ hướng hạ và thích đi vào con đường rộng dẫn đến diệt vong mà thôi (xem Mathêu 7:13) không thể nào nên trọn lành được, không thể nào, như người thanh niên giàu có trong bài Phúc Âm hôm nay, tự động và vui vẻ mau mắn bỏ đi những gì mình có, như của cải hay quyền lợi của mình là những gì vừa chính đáng vừa cần thiết, cho một lý tưởng mơ hồ nào đó, nếu họ không có đức tin và không được tác động bởi Trời Cao, không được "tuyển chọn" (Gioan 15:16), như các tông đồ ngày xưa.

Cho dù người thanh niên giầu có đưoọc Chúa Giêsu "trìu mến nhìn" ấy, ngay lúc bấy giờ không thể đáp ứng ngay lời kêu gọi nên trọn lành của Chúa Kitô, và cảm thấy buồn khổ, với một cuộc sống dù sang giầu nhưng vẫn khắc khoải ngôn nguôi ấy, có thể, vào một lúc nào đó trong đời, chẳng hạn bị thua lỗ hay bị trộm cướp v.v., đã nghĩ lại mà theo đuổi bậc trọn lành thì sao. Đó là lý do trong Bài Đọc 1 hôm nay, Sách Huấn Ca đã khuyên dạy và phấn khích niềm tin nơi những ai thành tâm thiện chí như sau:

"Thiên Chúa đã ban đường công chính cho người sám hối, nâng đỡ những kẻ mất niềm tin, và hướng dẫn họ đi vào đường chân lý. Hãy trở về với Thiên Chúa và hãy từ bỏ tội lỗi. Hãy kêu cầu trước tôn nhan Chúa, hãy chấm dứt những điều xúc phạm, hãy trở về cùng Chúa, hãy lánh xa những điều gian ác, và hãy chê ghét những điều xấu xa. Hãy nhận biết công minh và sự xét xử của Thiên Chúa. Hãy đứng vững và cầu xin với Thiên Chúa Tối Cao. Hãy thông công vào đời sống các thánh, và cùng với kẻ sống hãy xưng tụng Thiên Chúa.... Hãy ca tụng Thiên Chúa và ngươi sẽ được vinh hiển trong tình xót thương của Người. Lòng nhân lành của Chúa và sự tha thứ của Người đối với những kẻ trở lại với Người thật lớn lao dường nào!"

 

Theo chiều hướng của Bài Đọc 1 hôm nay, Bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa cảm nghiệm thần linh đầy tin tưởng vào Thiên Chúa như sau:

 

1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy. Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian.

2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi".

3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người Này.

4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ; Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ.

 


Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh

Lễ nhớ bắt buộc - Thứ Hai sau Đại Lễ Hiện Xuống


Tước hiệu Mẹ Hội Thánh được dành cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a vì chính Mẹ đã sinh hạ Đức Ki-tô là Đầu của Hội Thánh và trước khi Con lòng Mẹ trút hơi thở trên thập giá, Mẹ trở nên Hiền Mẫu của những kẻ được cứu chuộc. Đức Phao-lô VI đã long trọng xác nhận danh hiệu này trong diễn từ đọc trước các nghị phụ Công Đồng Va-ti-ca-nô II ngày 21-11-1964, và quyết định : “Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa.”


Sắc Lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích về việc cử hành trong lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh

 

Ngày 03 tháng 03 năm 2018, Toà thánh đã công bố Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích - ký ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức - về việc cử hành trong lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, theo lịch chung của Giáo Hội.

Sau đây là bản dịch Việt ngữ toàn văn Sắc lệnh, cùng bản văn phụng vụ với các bài đọc, và bài đọc II Giờ Kinh Sách của lễ này; bản dịch tiếng Việt của Uỷ ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.

* * *

Trong Hội Thánh hiện nay, việc hân hoan dâng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa, dưới ánh sáng của những suy tư về mầu nhiệm Chúa Kitô và về bản tính của chính Hội Thánh, luôn phải nhắc đến hình ảnh của một người nữ (x. Gl 4,4): Ðức Trinh nữ Maria, Ðấng vừa là Mẹ của Chúa Kitô vừa là Mẹ của Hội Thánh.

Ðiều này đã được khơi lên trong suy tư của Hội Thánh từ những gợi ý của thánh Augustinô và thánh Lêô Cả. Theo thánh Augustinô, Ðức Maria là mẹ của các chi thể Chúa Kitô, vì Mẹ đã yêu thương cộng tác vào việc tái sinh các tín hữu trong Hội Thánh; theo thánh Lêô, khi Ðầu được sinh ra thì toàn thân thể cũng được sinh ra, vì thế Ðức Maria vừa là mẹ của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, vừa là mẹ của các chi thể trong nhiệm thể Người chính là Hội Thánh. Ðây là những khẳng định liên quan đến tư cách Thánh Mẫu của Ðức Maria và sự kết hợp mật thiết của Mẹ với công trình của Ðấng Cứu thế, đạt đến cao điểm trong giờ hy tế thập giá.

Bên chân thập giá (x. Ga 19,25), Mẹ đã đón nhận lời trối đầy yêu thương của Chúa Giêsu Con Mẹ, và nơi người môn đệ được Chúa sủng ái, Mẹ đã tiếp nhận mọi người như những người con phải được tái sinh vào đời sống thần linh, và như thế, Mẹ đã trở nên người mẹ từ ái của Hội Thánh đã được tác sinh trên Thánh giá khi Chúa Kitô trao ban Thần Khí. Trong khi đó, cũng nơi người môn đệ yêu dấu, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ thay mặt Người thể hiện tình yêu thương đối với Ðức Maria, Người trao gửi để họ đón nhận Mẹ trong tâm tình thảo hiếu kính yêu.

Như một người hướng dẫn tận tâm của Hội Thánh vừa được thiết lập, Ðức Maria bắt đầu sứ mạng làm mẹ khi hiện diện với các Tông đồ nơi phòng Tiệc ly, cùng cầu nguyện đợi chờ Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,14). Trong tâm tình đó, suốt bao thế kỷ, nền đạo đức Kitô giáo đã tôn vinh Ðức Maria với những tước hiệu khác nhau, mang ý nghĩa tương tự nhau, chẳng hạn Mẹ các môn đệ, Mẹ các giáo hữu, Mẹ các tín hữu, Mẹ của tất cả những kẻ được tái sinh trong Chúa Kitô, và "Mẹ của Hội Thánh", tước hiệu này đã xuất hiện trong những tác phẩm của các tác giả tu đức cũng như trong các văn kiện Huấn quyền của Ðức Bênêđictô XIV và Lêô XIII.

Vào ngày 21 tháng 9 năm 1964, khi bế mạc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II, Ðức chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã dựa vào những yếu tố nói trên như cơ sở nền tảng để công bố Ðức Trinh Nữ Maria là "Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là Mẹ của toàn thể các Kitô hữu, giáo dân cũng như mục tử, những người vẫn gọi Mẹ là Mẹ vô cùng nhân ái", và Ðức Giáo hoàng xác lập việc "toàn thể đoàn dân Kitô giáo từ nay phải luôn gia tăng lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa dưới tước hiệu vô cùng dịu ngọt ấy".

Trong Năm Thánh Hòa giải 1975, Tòa Thánh đã biên soạn và đưa vào Sách Lễ Rôma bản văn lễ ngoại lịch kính Ðức Trinh Nữ Maria Mẹ Hội Thánh; tước hiệu này cũng được thêm vào Kinh cầu Ðức Mẹ (1980), một số bản văn khác cũng được phổ biến trong tập sách các lễ kính Ðức Trinh Nữ Maria (1986). Theo ý thỉnh nguyện, lễ này đã được phép ghi vào lịch riêng của một số quốc gia, giáo phận và hội dòng.

Ðức Giáo hoàng Phanxicô, sau khi thận trọng cân nhắc hiệu quả của việc sùng kính này có thể giúp nâng cao cảm thức làm mẹ của Hội Thánh, đồng thời cũng gia tăng lòng tôn kính Ðức Mẹ nơi các mục tử, tu sĩ và các tín hữu, đã quyết định đưa vào lịch chung của Hội Thánh Rôma, lễ nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, được cử hành hằng năm vào ngày thứ Hai sau lễ Hiện xuống.

Việc cử hành lễ này sẽ giúp chúng ta nhớ rằng, sự tăng trưởng của đời sống Kitô hữu phải luôn gắn kết với mầu nhiệm Thánh Giá, với hy tế của Chúa Kitô nơi bàn tiệc Thánh Thể cũng như với tâm tình hiến dâng của Ðức Trinh Nữ, Mẹ của Ðấng Cứu thế và của những người được cứu chuộc.

Lễ nhớ này phải được ghi trong lịch và sách phụng vụ để cử hành Thánh lễ và Phụng vụ Giờ kinh. Bản văn phụng vụ liên quan được phổ biến cùng với sắc lệnh này, và các bản dịch sẽ được công bố sau khi đã được các Hội Ðồng Giám Mục phê duyệt và Bộ Phụng Tự chuẩn nhận.

Tại những nơi đã được phép đặc biệt để cử hành lễ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, vào một ngày khác và với bậc lễ cao hơn, vẫn có thể tiếp tục cử hành như thế.

Bất chấp mọi điều trái nghịch.

Ban hành từ trụ sở Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích, ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức.

 

Hồng y Robert Sarah

Tổng trưởng

Tổng Giám mục Arthur Roche

Thư ký



Phụng Vụ Lời Chúa

Bài đọc I St 3,9-15.20

"Mẹ của toàn thể chúng sinh"

Bài trích sách Sáng thế

Sau khi Ađam ăn trái cấm,

9 Chúa là Thiên Chúa đã gọi ông

và nói cùng ông rằng: "Ngươi ở đâu vậy?"

10 Ông thưa: "Con nghe tiếng Ngài trong vườn, nhưng con sợ hãi,

vì con trần truồng và con ẩn núp".

11 Chúa hỏi ông: "Ai đã cho ngươi biết ngươi đang trần truồng?

Có phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi ăn không?"

12 Ađam thưa: "Người phụ nữ mà Ngài đã cho làm bạn với con,

chính bà ấy đã cho con trái cây và con đã ăn".

13 Chúa là Thiên Chúa nói cùng người phụ nữ rằng:

"Tại sao ngươi làm điều đó?"

Người phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối con, và con đã ăn".

14 Chúa là Thiên Chúa phán cùng con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều đó,

mi là thứ bị chúc dữ giữa mọi súc vật và thú hoang!

Mi sẽ bò bằng bụng và sẽ ăn bụi đất suốt đời mi.

15 Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ,

giữa miêu duệ mi và miêu duệ Bà,

người miêu duệ này sẽ đạp đầu mi, còn mi sẽ cắn gót chân người".

20 Rồi Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh.

Ðó là Lời Chúa.

 

Hoặc: Cv 1,12-14

"Các Tông đồ đồng tâm kiên trì cầu nguyện cùng với Ðức Maria, mẹ của Chúa Giêsu"

Bài trích sách Công vụ Tông đồ

12 Sau khi Chúa Giêsu lên trời,

các Tông đồ rời núi Cây Dầu trở về Giêrusalem,

núi này ở gần Giêrusalem,

chỉ cách một quãng đường được đi trong ngày sabbat.

13 Sau khi trở về thành, các ông lên phòng trên lầu.

Hiện diện tại đây có các ông Phêrô, Gioan, Giacôbê, Anrê,

Philipphê, Tôma, Bartôlômêô, Matthêu, Giacôbê con ông Alphê,

Simon nhiệt thành, và Giuđa con ông Giacôbê.

14 Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện,

cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria, mẹ của Chúa Giêsu,

và các anh em Người.

Ðó là Lời Chúa.

 

Thánh vịnh đáp ca Tv 86 (87) 1-2.3 và 5.6-7

Ðáp: Hỡi thành đô của Thiên Chúa,

mọi người truyền tụng những điều hiển hách về thành.

 

1 Nền móng Sion được đặt trên núi thánh,

2 Chúa yêu chuộng cửa thành

hơn mọi nơi cư ngụ của nhà Giacob.

3 Hỡi thành đô của Thiên Chúa.

Mọi người truyền tụng những điều hiển hách về thành. - Ð.

 

5 Nói đến Sion, thiên hạ bảo:

"Tại đó, người người đã sinh ra,

chính Ðấng Tối Cao củng cố thành". - Ð.

 

6 Thiên Chúa ghi vào sổ bộ các dân:

"Kẻ này người nọ đã sinh ra tại đó",

7 và họ múa nhảy hát ca:

"Mọi nguồn mạch của tôi ở nơi thành". - Ð.

 

Alleluia

Kính chào Ðức Trinh Nữ diễm phúc, Mẹ đã hạ sinh Chúa Giêsu.

Kính chào Mẹ Hội Thánh, Mẹ là Ðấng giữ gìn trong chúng con

Thần Khí của Thánh Tử Giêsu Kitô

 

Tin Mừng Ga 19, 25-27

Này là Con Bà. Này là Mẹ con.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan

Khi ấy, 25 đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người,

cùng với chị mẹ Người là bà Maria, vợ ông Clêôpas và Maria Mađalêna.

26 Khi thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu,

Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà".

27 Rồi Người nói với môn đệ: "Này là Mẹ con".

Và từ giờ đó môn đệ đã đón bà về nhà mình.

Ðó là Lời Chúa. 

Đức Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách - Bài đọc 2

 

Trích diễn từ của Đức Phao-lô VI, dịp kết thúc khoá III Công Đồng Va-ti-ca-nô II, ngày 21-11-1964.

Khi suy xét những mối tương quan liên kết chặt chẽ Đức Ma-ri-a với Hội Thánh, để tôn vinh Đức Thánh Trinh Nữ và để an ủi mọi người chúng ta, chúng tôi công bố : Đức Ma-ri-a rất thánh là Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là của toàn dân Ki-tô giáo, cả tín hữu lẫn mục tử, vốn gọi Người là Mẹ rất mực yêu thương, và chúng tôi quyết định rằng : Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa mà dâng lên Người những lời khẩn nguyện.

Chư huynh đáng kính, đây không phải là danh hiệu lạ lẫm đối với lòng đạo đức của các Ki-tô hữu, mà trái lại, các tín hữu Ki-tô và toàn thể Hội Thánh vẫn thích kêu cầu Đức Ma-ri-a bằng danh hiệu là Mẹ hơn các danh hiệu khác. Thật vậy, danh hiệu này dẫn đến lý do đích thực cho lòng sùng kính Đức Ma-ri-a, vì đặt nền vững chắc trên chính phẩm tước đã được ban cho Đức Ma-ri-a là Mẹ của Ngôi Lời Nhập thể.

Vì, cũng như thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa làm cho Đức Ma-ri-a có những tương quan hết sức đặc biệt với Đức Ki-tô và làm cho Mẹ hiện diện trong công trình cứu độ loài người do Đức Ki-tô Giê-su thực hiện, thì cùng một cách ấy, những tương quan giữa Đức Ma-ri-a và Hội Thánh cũng đặc biệt phát sinh từ thiên chức làm Mẹ, bởi lẽ Đức Ma-ri-a là Mẹ Đức Ki-tô, Đấng ngay khi nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng đồng trinh của Mẹ, đã lập tức liên kết thân mình mầu nhiệm của Người là Hội Thánh với bản thân Đấng là Đầu. Vậy Đức Ma-ri-a, với tư cách là Mẹ Đức Ki-tô, cũng phải được xem là Mẹ của mọi tín hữu và mọi mục tử, tức là của Hội Thánh.

Bởi thế, chúng ta có lý do để, dù bất xứng, dù yếu hèn, cứ lấy tinh thần đức tin và tình yêu con thảo mà đưa mắt sốt sắng nhìn lên Mẹ. Xưa kia Mẹ đã trao ban cho chúng ta Đức Giê-su là nguồn suối ân sủng từ trời, thì nay Mẹ không thể không đem lại cho Hội Thánh sự phù trợ từ mẫu của Mẹ, nhất là khi Hiền Thê của Đức Ki-tô đang hăng say nhiệt thành và nỗ lực chu toàn trọng trách mang ơn cứu độ cho mọi người.

Niềm tín thác này, chúng ta được khuyên dạy hãy bền lòng hơn nữa mà dưỡng nuôi và củng cố cho vững vàng, vì giữa Mẹ chúng ta trên trời với loài người vẫn có những mối ràng buộc hết sức chặt chẽ. Mặc dầu được Thiên Chúa ban dư đầy những hồng ân rất trọng đại và tuyệt vời để nên Thân Mẫu xứng đáng của Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ vẫn rất gần gũi chúng ta. Mẹ là nữ tử của A-đam như chúng ta và do đó cũng là chị em với chúng ta vì cùng chung bản tính loài người. Thực ra, Mẹ được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ nhờ công trạng sau này của Đức Ki-tô ; nhưng ngoài các ơn Chúa ban, Mẹ còn nêu gương đức tin hoàn hảo khiến Tin Mừng ca tụng : “Bà thật có phúc vì đã tin”.

Trong cuộc đời phải chết này, khi diễn tả mẫu người môn đệ hoàn hảo của Đức Ki-tô, Mẹ đã nêu gương mọi nhân đức và đã hoạ lại đầy đủ các mối phúc Đức Ki-tô rao giảng. Vì thế, khi quãng diễn sức sống thiên hình vạn trạng và đầy năng động nhiệt thành của mình, toàn thể Hội Thánh nhận Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa làm mẫu gương tuyệt vời mà bắt chước Đức Ki-tô cách hoàn hảo.

Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, khi chịu đóng đinh trên thập giá, Con Một Chúa đã muốn Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, thân mẫu Người, làm Mẹ chúng con ; xin cho Hội Thánh Chúa đang ngày một thêm đông, nhờ tình thương Mẹ hiền nâng đỡ, được vui mừng vì đoàn con thánh thiện và vì lôi cuốn muôn dân về với mình. Chúng con cầu xin

 

 

 


 

 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) Tob 2, 10-23

"Tuy bị mù lòa, ông cũng không phiền trách Thiên Chúa".

Trích sách Tobia.

Xảy ra trong một ngày nọ, Tobia đi chôn xác mệt nhọc, trở về nhà, ông liền nằm ngủ bên vách tường, thì phân nóng chim én từ tổ rơi xuống mắt ông, khiến ông bị mù.

Chúa cho phép ông chịu thử thách như thế, để nêu gương nhẫn nại cho hậu thế như thánh Gióp xưa.

Vì từ lúc còn bé, ông có lòng kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn của Người, tuy bị mù lòa, ông cũng không phiền trách Thiên Chúa.

Trái lại, ông vẫn một lòng kính sợ Thiên Chúa, và tạ ơn Người hằng ngày trong đời ông.

Vả các vua xưa nhạo báng thánh Gióp thế nào, thì nay bà con họ hàng cũng chê cười đời sống của ông mà rằng: "Hy vọng của ông ở đâu? Ông làm phúc và chôn xác được ích gì?"

Nhưng Tobia quở trách họ rằng: "Các ngươi đừng nói vậy, vì chúng ta là con cái các thánh, chúng ta trông đợi cuộc sống mà Thiên Chúa sẽ ban cho những ai không bao giờ thay đổi lòng tin vào Người".

Còn bà vợ của ông là Anna, hằng ngày đi dệt vải, hễ kiếm được gì bởi tay mình làm để nuôi thân, bà đem về, bởi đó, có lần bà nhận được một con dê đem về nhà; ông ông chồng nghe tiếng dê be be, liền nói: "Coi chừng, kẻo lỡ phải của ăn trộm đó. Hãy dắt đem trả cho chủ nó, vì chúng ta không được phép dùng đến của ăn trộm".

Bà vợ ông nổi giận trả lời rằng: "Rõ là niềm hy vọng của ông ra vô ích, và kết quả việc bố thí của ông nay đã rõ ràng!"

Và bà tiếp tục nói những lời như thế mà mạt sát ông.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: TV. 111, 1-2, 7bc-8,9

Ðáp: Lòng người công chính vững vàng trông cậy vào Chúa.

Xướng 1) Ph1uc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.

2) Người không kinh hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng, cậy trông vào Chúa. Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, cho tới khi nhìn thấy kẻ thù phải hổ ngươi. - Ðáp.

3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Pr 1, 25

Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 13-17

"Các ông hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?" Nhưng Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền". Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: "Hình và ký hiệu này là của ai?" Họ thưa: "Của Cêsarê". Người liền bảo họ: "Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa". Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.

Ðó là lời Chúa.





Suy Niệm Cảm Nghiệm


"Chúa đã dựng nên con cho Chúa nên lòng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa"
(Thánh Augustino: Tự Thú I,1).

Suy Niệm

Bài Phúc Âm Thứ Ba Tuần IX Thường Niên hôm nay thuật lại câu Chúa Giêsu trả lời cho "nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê" là thành phần "lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói" đó là "
hãy trả về cho Cesa những gì của Cesa và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa".
Câu trả lời của Người dù đã làm cho "họ rất đỗi kinh ngạc về Người", như bài Phúc Âm kết thúc, thế nhưng, trước khi trả lời cho câu họ đặt ra: "Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsa không?", một câu hỏi thật hóc búa, Người trả lời đằng nào cũng chết, "có" thì theo đế quốc Roma phản dân tộc, còn "không" thì tỏ ra xui dân phản loạn với đế quốc này, Người đã phải căn cứ vào một vật thể, đó là "đồng tiền", vì vấn đề "nộp thuế cho Cêsa" liên quan đến "đồng tiền" của đế quốc Rôma. 
Thế rồi sau khi "họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: 'Hình và ký hiệu này là của ai đây?' Họ thưa: 'Của Cêsa'. Người liền bảo họ: 'Vậy thì của Cêsa, hãy trả cho Cêsa; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa'". 
Câu trả lời này của Chúa Giêsu không phải chỉ là một nguyên tắc cần phải áp dụng vào lãnh vực chính trị, ám chỉ phải tuân phục quyền bính thích hợp, mà còn có một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, đó là dù có tuân phục quyền bính trần gian ("trả cho Cêsa") nhưng với một tinh thần đức tin siêu nhiên vì Chúa ("trả cho Thiên Chúa"), ở chỗ, vì Chúa là Đấng quan phòng làm chủ lịch sử hơn là vì sợ con người có quyền bính: "Đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không thể nào hủy hoại được linh hồn. Đúng ra hãy sợ Đấng có thể hủy hoại cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục" (Mathêu 10:28).
Chưa hết "của Cesa trả cho Cesa, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa" còn có nghĩa là "người ta không sống nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mathêu 4:4). Cho dù cần phải "có thực mới vực được đạo", thế nhưng, vì con người được dựng nên để được sống đời đời chứ không phải chỉ sống trên thế gian mau qua tạm gửi này thôi, nên "chính thần trí mới cống hiến sự sống chứ xác thịt là thứ vô dụng" (Gioan 6:63): "cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh" (Gioan 3:6).
Bởi thế, trong Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi, Chúa Kitô đã khẳng định với thành phần môn đệ của Người là "không ai có thể làm tôi hai chủ ... Các con không thể vừa làm tôi cho Thiên Chúa vừa làm tôi cho tiền của được" (Mathêu 6:24). Nghĩa là "của Cesa hãy trả cho cesa và của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa" là thế. 
Nếu "hình và ký hiệu" trên đồng tiền được thành phần âm mưu bắt bẻ Người bảo là "của Cesa" ở đây và vì thế "của Cesa hãy trả cho Cesa", thì con người được nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27), có thể so sánh như một đồng tiền quí giá, nếu không muốn nói là vô giá, chứ không phải đồ bỏ vì mang "hình và ký hiệu" của Thiên Chúa nên cần phải trả về cho Ngài những gì thuộc về Ngài, nghĩa là cần phải sống xứng đáng với ơn gọi và thân phận thần linh của mình. Ở chỗ, như Thánh Âu Quốc Tinh (Augustine), sau cuộc đời vừa lạc giáo về tâm thần vừa trác táng về xác thể, đã có được một cảm nghiệm rất chí lý và xác thực là: "Chúa đã dựng nên con cho Chúa nên lòng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa" (Tự Thú I,1).

Cảm Nghiệm

Thật vậy, nếu con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) thì quả thực chỉ có một mình Thiên Chúa là tất cả moị sự của con người và cho con người, là nguyên ủy và là cùng đích của họ, ngoài Ngài ra con ngưòi chắc chắn sẽ bị lầm lạc và chẳng bao giờ có hạnh phúc chân thật, trọn hảo và bất tận, nếu con người không tìm kiếm Ngài, nhận biết Ngài, chấp nhận Ngài và đáp ứng Ngài.

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, nhân vật Tobia cha, trước mắt trần gian có vẻ bị bất hạnh và khốn nạn đấy, nhưng trước nhan Thiên Chúa, nhân vật này quả thực đã tỏ ra mình là một đồng tiên quí giá mang "hình và huy hiệu" của Thiên Chúa, bằng đời sống tin tưởng Ngài và kính sợ Ngài của ông: "Từ lúc còn bé, ông có lòng kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn của Người", Đấng vì thế phải chăng đã càng cần phải làm cho "hình và huy hiệu" của Ngài càng trở thành đậm nét hơn nữa nơi con người và cuộc đời của nhân vật này bằng những gian nan khốn khó: "Xảy ra trong một ngày nọ, Tobia đi chôn xác mệt nhọc, trở về nhà, ông liền nằm ngủ bên vách tường, thì phân nóng chim én từ tổ rơi xuống mắt ông, khiến ông bị mù. Chúa cho phép ông chịu thử thách như thế, để nêu gương nhẫn nại cho hậu thế như thánh Gióp xưa".

Quả thực nhân vật Tobia cha này đã chẳng những "trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa" ở chỗ: "tuy bị mù lòa, ông cũng không phiền trách Thiên Chúa. Trái lại, ông vẫn một lòng kính sợ Thiên Chúa, và tạ ơn Người hằng ngày trong đời ông", mà còn "trả về cho Cesa những gì của Cesa" là thế gian được tiêu biểu nơi thành phần "bà con họ hàng cũng chê cười đời sống của ông mà rằng: 'Hy vọng của ông ở đâu? Ông làm phúc và chôn xác được ích gì?'" như thế này: "Các ngươi đừng nói vậy, vì chúng ta là con cái các thánh, chúng ta trông đợi cuộc sống mà Thiên Chúa sẽ ban cho những ai không bao giờ thay đổi lòng tin vào Người".

"Lòng người công chính vững vàng trông cậy vào Chúa", câu thưa chính của Bài Đáp Ca hôm nay thật là chính xác nơi trường hợp của nhân vật Tobia cha trong Bài Đọc 1 hôm nay, một nhân vật đã được chính Thiên Chúa càng in đậm nét "hình và huy hiệu" của Ngài nơi con người và trong cuộc đời của nhân vật này, một nhân vật thực sự đã biết "trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa, và trả về cho Cesa những gì của Cesa", một nhân vật đáng được Thánh Vịnh gia thán phục và ca ngợi trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.

2) Người không kinh hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng, cậy trông vào Chúa. Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, cho tới khi nhìn thấy kẻ thù phải hổ ngươi.

3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang.

 

 

 

Ngày 1 tháng 6

Thánh Giút-ti-nô, tử đạo


Thánh nhân là một triết gia và là anh hùng tử đạo. Người sinh tại Phơ-la-vi-a Nê-a-pô-li, ở Sa-ma-ri, trong một gia đình ngoại giáo, đầu thế kỷ II. Sau khi tin Chúa Ki-tô, người đã viết nhiều tác phẩm bênh vực Ki-tô giáo. Trong số đó, còn lại hai tác phẩm “Minh giáo” gửi cho hoàng đế An-tô-ni-ô và “Đối thoại với ông Tri-phông”, tranh luận với người Do-thái. Người cũng mở một trường dạy triết lý ở Rô-ma. Bị một đồng nghiệp tố cáo, người một lòng son sắt tuyên xưng đức tin trước mặt quan toà và đã được phúc tử đạo cùng với sáu Ki-tô hữu khác, quãng năm 165, thời hoàng đế Mác-cô Au-rê-li-ô.

Tôi đã theo đạo lý chân thật của các Ki-tô hữu

Bài đọc 2 giờ kinh sách ngày 1/6

Trích sử liệu về cuộc tử đạo của thánh Giút-ti-nô và các bạn.

Sau khi bị bắt, các thánh được điệu tới tổng trấn Rô-ma, tên là Rút-ti-cô. Lúc các ngài ra trước toà án, tổng trấn Rút-ti-cô nói với thánh Giút-ti-nô : “Trước hết ngươi phải tin các thần minh và tôn kính các hoàng đế.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Các ông không thể tố cáo hay bắt giam chỉ vì chúng tôi tuân lệnh Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng tôi.”

Quan Rút-ti-cô nói : “Nhà ngươi xưng tụng học thuyết gì vậy ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi đã cố học đủ mọi thứ học thuyết, nhưng tôi đã theo đạo lý chân thật của các Ki-tô hữu, dù đạo lý ấy không minh nhiên đối với những người đang chìm đắm trong sự lầm lạc.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Đạo lý ấy mà ngươi cho là minh nhiên ư, hỡi tên khốn kiếp ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Phải, vì giáo huấn đúng nên tôi theo đạo lý đó.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Giáo huấn đó thế nào ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Chúng tôi thờ Thiên Chúa của các Ki-tô hữu ; chúng tôi tin Người là Đấng Tạo Thành duy nhất từ ban đầu, là Hoá Công toàn thể thụ tạo hữu hình và vô hình ; và chúng tôi tin Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, Đấng được các ngôn sứ tiên báo sẽ đến rao giảng ơn cứu độ cho loài người và dạy dỗ các môn đệ Người tuyển chọn. Và vì tôi là người phàm, nên tôi nghĩ chỉ có thể nói được một vài điều, bởi lẽ thần tính của Người thì vô biên. Tôi công nhận uy tín của các ngôn sứ khi các ngài tiên báo Người là Con Thiên Chúa như tôi vừa nói. Quả thật, tôi biết các ngôn sứ được ơn trên báo cho biết trước về cuộc giáng lâm của Người đến với nhân gian.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi là Ki-tô hữu ư ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Đúng thế, tôi là Ki-tô hữu.”

Tổng trấn nói với thánh Giút-ti-nô : “Hãy nghe đây, hỡi kẻ được tiếng là thông thái và tưởng mình biết đạo lý thật : nếu ngươi bị đánh đòn và bị chặt đầu, ngươi có tin chắc là ngươi sẽ được lên trời không ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi hy vọng sẽ được ở trên đó, nếu tôi chịu được những điều này, vì tôi biết rằng cho đến tận thế, Chúa vẫn dành ơn ấy cho những ai ăn ở ngay lành.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi tưởng là ngươi sẽ được lên trời và nhận phần thưởng đích đáng sao ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Không phải là tưởng mà là biết rõ và chắc chắn như vậy.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Thôi, ta hãy đi vào vấn đề, vào công việc cần thiết và khẩn trương. Vậy các ngươi hãy đồng lòng tế thần đi.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Không ai là người có lương tri mà lại bỏ con đường đạo nghĩa để bước vào con đường vô đạo.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Nếu không tuân lệnh, các ngươi sẽ phải chịu khổ hình không chút xót thương.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Chúng tôi ao ước chịu khổ hình vì Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng tôi, để được cứu độ, vì điều ấy mang lại cho chúng tôi ơn cứu độ và làm cho chúng tôi vững tin trước toà chung thẩm của Chúa là Thiên Chúa và Đấng cứu độ chúng tôi.”

Các vị tử đạo khác cũng nói như sau : “Ngài muốn làm thế nào tuỳ ý, chúng tôi là Ki-tô hữu, chúng tôi không tế thần.”

Tổng trấn Rút-ti-cô tuyên án : “Ai không muốn tế thần và tuân lệnh hoàng đế, đều phải bị đánh đòn và mang đi chặt đầu, phải chịu án tử hình theo luật định.”

Các thánh tử đạo ngợi khen Chúa, đi tới pháp trường, bị chặt đầu và hoàn tất cuộc tử đạo khi tuyên xưng Đấng Cứu Độ.

Xướng đápx. Cv 20,21.24 ; Rm 1,16

XTôi đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, không chút sợ hãi.

ĐMạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận là làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.

XTôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp.

ĐMạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận là làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Giút-ti-nô tử đạo ơn hiểu biết sâu xa về Đức Ki-tô, nhờ suy tưởng mầu nhiệm Thập Giá mà thế gian coi là điên dại. Nhờ lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con thoát khỏi mọi tư tưởng sai lầm và cương quyết giữ vững niềm tin. Chúng con cầu xin

 

 

Thánh JUSTINO, Tử đạo (+165)

Thánh Giustinô tử đạo sinh tại Nablus, Samaria, ở vào đầu thế kỷ thứ II. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân thật. Với nhiệt tình này, ngài đã tiếp xúc với mọi người triết thuyết đường thời và không thoả mãn được các đòi hỏi của trí khôn.

Trong tác phẩm “Đối thoại với Tryphon” (Dialogus cum Tryphone), chính Thánh Giustinô kể lại cuộc tìm kiếm của mình: Trước hết, ngài tin tưởng vào một người theo phái khắc kỷ. Những người này chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói rằng sư hiểu biết ấy không cần thiết gì. Sau đó, ngài đến với một người theo thuyết của Aristote. Ông này đòi thù lao quá cao, khiến sinh viên trẻ là Giustinô phẫn uất: người ta không rao bán triết học.

Một người theo lý thuyết của Pythagore hỏi Ngài: Anh đã học âm nhạc, thiên văn và địa lý chưa? Bởi vì để chiêm ngưỡng điều góp phần tạo nên hạnh phúc cần phải biết học giải thoát tâm hồn khỏi các đối tượng hữu hình để có thể tiếp nhận được những đối tượng trong trí khôn và cho phép thấy được sự thiện mỹ nội tại.

Giustinô chưa biết gì về những môn học, nhưng lại thấy mình bị thúc bách tìm kiếm Thiên Chúa hơn. Ngài gặp một người theo phái Platon. Ngài nói: Sau nhiều đàm luận, tôi hiểu được những điều vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng thế giới tư tưởng chấp cánh cho tinh thần của tôi.

Dầu vậy, không có gì làm cho ngài thoả mãn được cơn khát chân lý. Tại Ephesô, Giustinô gặp một cụ già đầy khôn ngoan. Ông trách ngài đã thích lý sự về từ ngữ hơn sự kiện. Ông đã cho ngài một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc Kinh Thánh: phải vượt qua những giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong thời gian hơn các triết gia, phải nghe các tiên tri là những người nói bởi Chúa Thánh Thần, nhất là phải cầu nguyện vì: Không ai có thể thấy hay nghe được những điều này nếu Thiên Chúa và Đức Kitô không cho họ hiểu biết.

Theo lời khuyên này, Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo đảm hơn triết học nhiều. Từ đấy đức tin là quy luật xử thế và sự thánh thiện lý tưỏng của ngài, ngài mở một trường học tại Rôma và sống đời tông đồ đích danh. “Tôi sẽ nói sự thật, không một đắn đo sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm mảnh”.

Gương mẫu của các thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều: Thấy các ngài kiên vững trước cái chết, tôi thầm nói rằng họ không thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái lạc được nữa.

Ngài sẽ tìm được ở đâu sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là trong Kitô giáo? Bởi vậy, ngài đã tìm mở rộng môi trường hoạt động ra ngoài ranh giới lớp học và những cuộc tranh luận, bằng việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn giáo. Ngày nay, chúng ta chỉ còn giữ lại được 2 cuốn: Đối thoại với Tryphone, và Hộ giáo (Apologiae). Nhưng với hai tác phẩm ấy, Thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà minh giáo có thế giá được thế kỷ thứ II và là người đã phác hoạ ra nền thần học Kitô giáo.

Từ một đức tin vững chắc vào các chân lý Kitô giáo. Thánh Giustinô đã không ngần ngại tìm hết khả năng trổi vượt của trí khôn để 2 lần viết thơ can ngăn các bạo vương. Lần thứ nhất vào năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux, và lần thứ hai cho Marcô Aurelio. Cả hai lần ngài cố gắng chỉ dẫn đến kết quả là bị kết án tử hình.

Giustinô và các bạn bị dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus, một người theo triết thuyết Khắc Kỷ. Ngài lớn tiếng tuyên xưng đức tin. - Không ai có lương tri mà lại bỏ rơi chân lý để theo sự lầm lạc cả.

Thánh nhân từ chối không chịu tố giác nơi các Kitô hữu hội họp. Sau cùng, ngài và các bạn bi đánh đòn rồi bị chém đầu. Tài liệu còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh nhân đã phát biểu trong cuộc đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: Mọi nguyên tắc chính đáng mà các triết gia và các nhà lập luật khám phá được và trình bày cũng phải nhớ ở điều mà Ngôi Lời đã diễn tả một phần.

Ngài còn nói: Không ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông ta dạy. Chính vì những lý do khác hẳn với lĩnh vực văn chương mà bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để ký nhận các công trình của các ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng các ngài.
Trích trong Theo Vết Chân Người (Chân dung các thánh nhân)

http://www.truyen-tin.net/BiographyOfSaints.aspx?SID=86

 

  1. Thánh Justin người Samaria (miền Trung nước Dothái thời Chúa Giêsu). Ông sống vào thế kỉ thứ 2. Cha ông không dạy ông về tôn giáo nào cả.

Khi còn nhỏ, Justin  ưa đọc văn thơ, lịch sử, khoa học. Lớn lên ông tiếp tục học như thế, nhưng trong lòng ông muốn tìm hiểu đạo nào là thật?

Người ta kể: Một hôm, trong khi đi dạo bờ biển, Justin gặp một ông già. Hai người nói chuyện. Justin nói rằng mình không có hạnh phúc và muốn tìm vị Chúa thật mà trong các sách chàng đọc, không thấy nói tới. Ông già chỉ cho Justin đọc Kinh thánh để biết về Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế. Ông khuyến khích Justin cầu nguyện để được hiểu biết về Thiên Chúa thật.

Justin từ hôm đó, bắt đầu cầu nguyện và đọc Kinh thánh, càng ngày ông càng thích thú Lời Chúa, ông cũng rất thán phục người Công giáo đã dám chết cho đức tin và tình yêu Chúa Giêsu.

Sau khi học đủ điều trong đạo, Justin xin được rửa tội để làm người Công giáo.

            2. Theo đạo, viết sách bênh đạo, chết vì đạo: Ông đến Rôma, mở trường triết học Kitô, tổ chức những cuộc tranh luận công khai về đạo.

            Một số người thời đó công kích niềm tin và sống đạo Kitô giáo, vì thế Justin bắt đầu nói và viết để bênh vực đạo Chúa. Các sách của ông giúp chúng ta hiểu hơn về Giáo hội Công giáo thời đầu. Ngày nay chỉ còn cuốn “Bênh đạo và cuốn Đối thoại với Trypho”. Nhờ đó ta biết về nghi lễ Rửa tội quãng năm 160, nghi lễ thời đó rất giống như nghi lễ ngày nay. Ông còn viết về sách “Nghi thức Thánh lễ Misa sáng Chúa nhật” của các cộng đoàn Kitô hữu thời đó gồm: đọc sách Thánh, bài dẫn giải Tin mừng, dâng bánh rượu, cho giáo dân rước lễ…

Năm 165, Justin bị bắt, vì ông là Kitô hữu. Nhưng ông quyết liệt không bỏ đạo Chúa để tế thần theo ý vua quan.

            3. Tranh luận bênh vực đức tin:

Chúa đã ban cho thánh Justinô nhiều ơn, và người đã dùng những ơn này đáp lại ơn Chúa kêu gọi. Khi người đã tìm ra sự thật, người đã theo đến cùng.

Quan Tổng Đốc Roma truyền lệnh :– Hãy tế thần và vâng lệnh hoàng đế.

– Justin nói: Chẳng ai có quyền bắt chúng tôi tuân lệnh tế thần,  vì chúng tôi đã theo Chúa Kitô,  Đấng Cứu Chuộc chúng tôi.

– Vậy anh theo chủ thuyết nào ?

– Tôi theo giáo lý chân thật của Chúa Kitô,  mặc dù giáo lý ấy các người lầm lạc không chấp nhận.

– Nếu không tuân lệnh,  các ngươi sẽ bị phạt không nương tay.

– Chúng tôi ao ước được chịu khổ vì Chúa Kitô,  vì sự khổ ấy sẽ đem chúng tôi về Thiên đàng trên trời.

–  Anh có nghĩ rằng anh sẽ được lên trời và lãnh phần thưởng xứng đáng không?

–  Không phải nghĩ, nhưng Thiên đàng có thực, tôi biết rất rõ và nắm vững chắc chắn.

– Tất cả những kẻ không chịu tế thần và bất tuân lệnh hoàng đế đều bị đánh đòn và bị chặt đầu đúng theo luật.

Quan án đã kết án tử hình cho ông Justin. Người đã bị chém đầu ngày 1 tháng 6 năm 166 tại Roma.

 Phần tôi, tôi có tìm Chúa trong Kinh thánh và cầu nguyện không? Xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho con.

http://linhthao.bplaced.net/2015/06/01/thanh-justino-tu-dao/

 

 

Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các văn bản ấy, chúng ta biết về cuộc đời ngài.

Thánh Justin sinh ở Flavia Neapolis, Samaria khoảng năm 100. Cha mẹ ngài là người ngoại giáo, gốc Hy Lạp. Ngài được giáo dục kỹ lưỡng và đặc biệt yêu thích khoa hùng biện, thi ca và sử học. Khi còn trai trẻ, ngài bị thu hút bởi triết thuyết Plato. Tuy nhiên, ngài nhận thấy chỉ có Kitô Giáo mới trả lời được những thắc mắc lớn lao về đời sống và sự hiện hữu.

Qua những tài liệu Kitô Giáo cũng như việc quan sát các gương anh hùng tử đạo, Thánh Justin đã trở lại Kitô Giáo khi ngài 30 tuổi. Ngài tiếp tục mặc áo choàng của các triết gia thời bấy giờ, và trở nên triết gia Kitô Giáo đầu tiên. Ngài tổng hợp Kitô Giáo với các yếu tính đặc sắc nhất trong triết lý Hy lạp. Theo quan điểm của ngài, triết lý là một nhà mô phạm của Ðức Kitô, một nhà giáo dục dẫn đưa người ta đến với Ðức Kitô.

Thánh Justin nổi tiếng là một người biện giáo thời bấy giờ. Ngài đi đây đó và tranh luận với các người ngoại giáo, lạc giáo và Do Thái Giáo. Khi người Kitô tiếp tục bị bách hại bởi nhà cầm quyền, ngài đã công khai bảo vệ Kitô Giáo qua lời giảng dạy cũng như văn bản. Trong các sáng tác của ngài, hiện nay chúng ta vẫn còn giữ được hai bản văn gửi cho hoàng đế Rôma và cho Thượng Viện.

Sau cùng ngài bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn Rôma là Rusticus. Khi được yêu cầu thờ cúng tà thần, Thánh Justin trả lời: “Người có suy nghĩ đúng đắn không vì sự giả trá mà chối bỏ sự thật”.

Thánh Justin bị chém đầu ở Rôma năm 165.

Lời Bàn

Là quan thầy các triết gia, Thánh Justin khích động chúng ta hãy dùng các sức mạnh tự nhiên (nhất là sức mạnh của sự hiểu biết) để phục vụ Ðức Kitô, và để hình thành đời sống Kitô Giáo trong nội tâm chúng ta. Vì con người dễ bị sai lầm, nhất là đối với các vấn đề sâu xa của đời sống và sự hiện hữu, chúng ta cũng phải sẵn sàng sửa đổi và kiểm soát lại tư duy chúng ta trong sự soi dẫn của chân lý Kitô Giáo. Do đó, chúng ta mới có thể nói như các thánh nhân uyên bác của Giáo Hội: Tôi tin để có thể hiểu, và tôi hiểu để có thể tin.

Lời Trích

“Triết lý là sự am tường những gì hiện hữu, và là sự hiểu biết rõ ràng về chân lý; và hạnh phúc là phần thưởng của sự am tường và sự hiểu biết đó” (Thánh Justin, Ðối Thoại Với Trypho, 3).

 

https://dongten.net/2019/05/31/hanh-cac-thanh-01-06-thanh-justino/

 

 

 

Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tb 3, 1-11. 24-25 (Hl 1-11. 16)

"Lời cầu nguyện của hai người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận".

Trích sách Tôbia.

Trong những ngày ấy, Tôbia thổn thức và khóc lóc cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, Chúa công bình, mọi sự xét đoán của Chúa đều công minh, mọi đường lối của Chúa là từ bi, chân lý và phán quyết. Lạy Chúa, giờ đây xin hãy nhớ đến con, xin đừng báo oán tội lỗi con, xin đừng nhớ đến những lỗi lầm của con và của cha ông con. Bởi chúng con đã không vâng theo các giới răn của Chúa, nên Chúa để cho chúng con bị cướp bóc, tù đày, chết chóc, nhạo báng, và khinh bỉ nơi các dân mà chúng con bị lưu đày. Lạy Chúa, giờ đây sự xét xử của Chúa thật cao cả và công bình, vì chúng con không sống theo giới răn Chúa, và không thành tâm tiến bước trước thánh nhan Chúa. Lạy Chúa, giờ đây xin cứ đối xử với con theo thánh ý Chúa, và xin hãy cho linh hồn con được an nghỉ; vì thà con được chết còn hơn sống!"

Cũng trong ngày đó, xảy ra là Sara, con gái của Raguel, người thành Mêđi, cũng bị một đứa đầy tớ gái của cha cô lăng mạ, bởi vì cô đã kết hôn với bảy người đàn ông, nhưng khi họ vừa đến gần cô, thì bị quỷ Asmođêô giết chết ngay. Vậy khi một đứa tớ gái có lỗi, cô quở mắng nó, nó liền trả lời rằng: "Ðồ sát chồng, chúng tôi sẽ không nhìn thấy con trai con gái của bà trên mặt đất này. Nào bà muốn giết tôi như đã giết bảy người chồng của bà đó sao?" Nghe lời đó, cô liền đi thẳng lên lầu nhà cô, và trong ba ngày đêm, cô không ăn uống gì cả, cô chỉ cầu nguyện, khóc lóc than van cùng Thiên Chúa, mong Người cứu thoát cô khỏi cảnh nhục nhã ấy.

Lúc ấy, lời cầu nguyện của hai người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận. Chúa liền sai thiên thần Raphael đến để cứu giúp hai người trong chính lúc họ dâng lời cầu nguyện lên trước tôn nhan Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 2-4a. 4b-5ab. 6-7bc. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, con vươn linh hồn lên tới Chúa (c. 1b).

Xướng: 1) Con tin cậy vào Chúa, xin đừng để con tủi hổ. Xin đừng để quân thù hoan hỉ về con. Phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi, hổ ngươi sẽ là những kẻ liều thân phản bội. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào Chúa. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

4) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối, Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 18-27

"Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc".

Ðó là lời Chúa.


Mark 12:18-27 – What will the Resurrection be like? | Fr. Charles Erlandson  Erlandson


Suy Niệm Cảm Nghiệm

"Thiên Chúa kẻ sống"

Suy Niệm


Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh trở lại một cách tỏ tường hơn 2 ngày đầu tuần này ở phụng vụ Lời Chúa hôm nay, Thứ Tư Tuần IX Thường Niên, qua lời Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (12:18-27), xác quyết với "
ít người phái Sađốc" là thành phần "không tin có sự sống lại" rằng: "
Ngài không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống"
Một trong những chứng cứ được phái Sađốc căn cứ vào để phủ nhận sự kiện sống lại, đó là chính câu họ đặt ra chất vấn Chúa Giêsu: 
"Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ".
Nghe như thế, Chúa Giêsu đã khẳng định với họ rằng: "các ông thật lầm lạc". Ở chỗ nào? Ở chỗ, như Người vạch ra cho họ thấy, trước hết về lý do họ lầm lạc"Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa", sau nữa về chính vấn đề vợ chồng liên quan đến việc sống lại: "khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: 'Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp'".
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" là một chân lý được chính Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay. 
Trước hết, "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" ám chỉ mầu nhiệm thân xác của con người sẽ được sống lại, dù họ là người lành hay kẻ dữ. Thật vậy, thân xác của loài người, sau nguyên tội và bởi nguyên tội, "đã từ đất bụi phải trở về với đất bụi" (Khởi Nguyên 3:19). Thế nhưng, nhờ "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) và Vượt Qua mà thân xác của con người đã được giải cứu khỏi sự chết về thể lý, nghĩa là sẽ được sống lại, trở thành thiêng liêng "như thiên thần", không còn vấn đề liên hệ xác thịt như trong đời sống vợ chồng nữa. Con người thực sự đã được Chúa Kitô cứu chuộc cả linh hồn lẫn thân xác chứ không phải chỉ nguyên một minh linh hồn bất t mà thôi, nhờ đó, thân xác thiêng liêng mới có thể cùng với linh hồn vô hình tồn tại đến muôn đời muôn kiếp.
Sau nữa, "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" còn ám chỉ Ngài là Thiên Chúa của thành phần công chính sống theo đức tin, như 3 vị tổ phụ tiêu biểu của dân Do Thái là "Abraham, Isaac và Giacóp", thành phần nhận biết Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất nên đã chấp nhận ý muốn của Ngài và đáp ứng những gì Ngài muốn, cho dù tương lai có mù mịt không biết bỏ quê cha đất tổ đi về đâu, thậm chí cho dù có phải chính tay sát hại đứa con duy nhất của một giòng dõi đông như sao trời nhiều như cát biển theo lời Chúa hứa, như trường hợp của tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 12:1-4 và 22:15-18), cha của các kẻ tin (xem Roma 4:9-12).
Thật vậy, tất cả mọi xác phàm đều sống lại, nhưng chỉ có kẻ nào tin tưởng "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô" (Gioan 17:3) mới được "sự sống đời đời" (cùng đoạn vừa dẫn), vi một thân xác phục sinh vinh hiển như thân xác phục sinh của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21). Tuy nhiên, kể cả thành phần bị hư đi trong hỏa ngục chăng nữa, thậm chí bao gồm cả Satan và ma quỉ, cho dù không muốn, bấy giờ, trong cõi đời đời, cũng vẫn "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô". 
Thế nhưng, sự "nhận biết" này ở trong cõi hư mất không phải bởi Thánh Linh của Thiên Chúa ở trong họ như khi họ chưa hư đi nữa, mà bởi họ không thể nào chối bỏ được sự thật bất diệt này, hay nói cách khác, bởi "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5) không thể nào không chiếu soi, cho dù con người có chấp nhận hay phủ nhận, một "ánh sáng thật" (Gioan 1:9): "Ánh sáng chiếu trong tăm tối, thứ tối tăm không thể nào át được ánh sáng" (Gioan 1:5). 

Cảm Nghiệm

 

Chính vì "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" mà Ngài đã chẳng những tỏ mình ra cho riêng dân Do Thái qua suốt giòng lịch sử cứu độ của họ cho tới khi Ngài tỏ hết mình ra "vào thời viên trọn" (Galata 4:4) nơi Con của Ngài là Lời Nhập Thể Vượt Qua, mà còn cho chung loài người qua chứng từ của Giáo Hội Chúa Kitô, một Nhiệm Thể được cấu trúc liên hợp giữa Chúa Kitô là Đầu và các chi thể Kitô hữu của Người, nhất là những chi thể gắn bó với Người như cành nho dính liền với thân nho để nhờ đó họ có thể sinh nhiều hoa trái bằng chứng từ "đức tin thể hiện qua đức ái" của họ (xem Galata 5:6). 

Thật vậy, trong Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Tobia, chúng ta đã thấy được chân lý "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" ở nơi 2 tâm hồn thống khổ, nhưng vẫn tin tưởng vào vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân tộc mình, nên chỉ còn biết bày tỏ nỗi lòng đớn đau nhức buốt của mình với Ngài thôi, đó là nhân vật Tobia bố và Sara là người con dâu tương lai của ông.

Nỗi đớn đau thống thiết của nhân vật Tobia bị vợ đay nghiến bởi việc làm bác ái yêu thương, qua việc liều mình chôn xác kẻ chết của đồng hương, và thái độ công chính của mình, về của cải trần gian, đã lên đến tột cùng, đến độ, sau khi nhận biết mình cùng ăn năn thống hối trước nhan Chúa, đã chân thành và tha thiết nguyện xin cùng Ngài rằng: "Lạy Chúa, giờ đây sự xét xử của Chúa thật cao cả và công bình, vì chúng con không sống theo giới răn Chúa, và không thành tâm tiến bước trước thánh nhan Chúa. Lạy Chúa, giờ đây xin cứ đối xử với con theo thánh ý Chúa, và xin hãy cho linh hồn con được an nghỉ; vì thà con được chết còn hơn sống!"

Còn nỗi đớn đau thống thiết của đứa con dâu ông là Sara, đối với thân phận nữ giới thời bấy giờ ở dân tộc Do Thái và với vai trò làm con của gia chỉ đầy quyền hành, bị một đứa nữ tỳ thậm tệ mỉa mai đay nghiến một cách hỗn xược, như một lời nguyền rủa: "Ðồ sát chồng, chúng tôi sẽ không nhìn thấy con trai con gái của bà trên mặt đất này. Nào bà muốn giết tôi như đã giết bảy người chồng của bà đó sao?". Bởi thế, thay vì quát tháo, chửi mắng và đuổi ngay con nữ tỳ quái gở ấy đi, thì phản ứng bác ái của nàng là: "Nghe lời đó, cô liền đi thẳng lên lầu nhà cô, và trong ba ngày đêm, cô không ăn uống gì cả, cô chỉ cầu nguyện, khóc lóc than van cùng Thiên Chúa, mong Người cứu thoát cô khỏi cảnh nhục nhã ấy".

Với hai tâm hồn sống "đức tin thể hiện qua đức ái" của họ (xem Galata 5:6) như thế, Vị "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" đã tỏ mình ra một cách thực tế ngay trong trường hợp của cả hai người như sau: "Lúc ấy, lời cầu nguyện của hai người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận. Chúa liền sai thiên thần Raphael đến để cứu giúp hai người trong chính lúc họ dâng lời cầu nguyện lên trước tôn nhan Chúa". Và đó là lý do những tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay rất thích hợp với hai tâm hồn tin tưởng vào Vị "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống", như sau:

1) Con tin cậy vào Chúa, xin đừng để con tủi hổ. Xin đừng để quân thù hoan hỉ về con. Phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi, hổ ngươi sẽ là những kẻ liều thân phản bội.

2) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào Chúa.

3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.

4) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối, Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.



Ngày 31 tháng 5

ĐỨC MA-RI-A THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT

lễ kính


Trong khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ Sinh Nhật thánh Gio-an Tẩy Giả, Hội Thánh mừng lễ Đức Ma-ri-a đi thăm viếng bà Ê-li-sa-bét. Lễ này mừng biến cố hai bà mẹ gặp nhau, nhưng nhất là, mừng Chúa Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ gặp gỡ vị Tiền Hô của mình trong lòng bà Ê-li-sa-bét. Lễ này tràn ngập niềm vui của bài thánh ca “linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”.

Phụng Vụ Giờ Kinh

Bài đọc 2

Đức Ma-ri-a ngợi khen Đức Chúa hoạt động nơi Người

Trích bài giảng của thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục.

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Qua những lời đó, trước hết Đức Mẹ muốn tuyên xưng những ơn riêng Chúa đã ban cho Người cách đặc biệt, sau là kể ra những ơn chung Thiên Chúa không ngừng ban cho nhân loại đến muôn đời.

Linh hồn ngợi khen Đức Chúa, khi đem hết mọi tình cảm con người bên trong ra mà ca ngợi phụng sự Chúa, khi tỏ ra luôn suy tưởng về quyền lực oai phong của Chúa qua việc tuân giữ các huấn lệnh của Người.

Thần trí hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, khi lấy làm vui vì tưởng nhớ đến một mình Chúa là Đấng Hoá Công và là Đấng ban cho niềm hy vọng được ơn cứu độ muôn đời.

Những lời đó thật thích hợp cho mọi người hoàn thiện, nhưng đặc biệt thích hợp cho Mẹ diễm phúc, khi Người tuyên xưng những lời ấy, vì nhờ đặc ân lạ lùng mà Người được cháy lửa yêu mến thiêng liêng đối với Đấng Người đã hoan hỷ cưu mang trong thân xác mình.

Người thật có lý để vui mừng một cách đặc biệt hơn các vị thánh khác trong Đức Giê-su, nghĩa là trong Đấng cứu độ Người, vì Người nhận biết Đấng là tác giả ơn cứu độ muôn đời sẽ sinh ra trong thời gian bởi thịt của Người, để trong cùng một ngôi vị duy nhất, Đức Giê-su thật sự vừa là con, vừa là Chúa của Người.

Bởi vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn. Người không kể gì là do công trạng riêng, vì cho tất cả sự cao trọng của mình là do ơn của Đấng tự bản tính vốn là quyền năng và vô cùng cao cả thường làm cho các tín hữu từ chỗ nhỏ bé thấp hèn nên mạnh mẽ cao sang.

Đức Mẹ còn khéo léo nói thêm : Danh Người thật chí thánh chí tôn, để khuyên nhủ thính giả và dạy tất cả những ai nghe được lời của Người biết mau đón nhận đức tin và kêu cầu danh Chúa, hầu chính họ có thể thông phần sự thánh thiện muôn đời và ơn cứu độ đích thực, như lời ngôn sứ : Phàm ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ. Đó chính là danh Đức Mẹ nói tới trong câu : Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Vì thế, trong Hội Thánh có thói quen rất tốt lành là hằng ngày mọi người hát thánh thi của Đức Mẹ khi nguyện kinh chiều, nhờ đó tâm hồn các tín hữu vừa năng tưởng nhớ đến mầu nhiệm của Chúa mà thêm lòng sốt mến, vừa năng suy niệm các gương lành của Thánh Mẫu mà thêm vững mạnh trên đường nhân đức. Đọc như thế vào giờ kinh chiều thật là thích hợp, vì tâm trí chúng ta sau một ngày làm việc mệt mỏi và ngổn ngang trăm mối, lúc sắp được nghỉ ngơi, có thể hồi tâm để cùng nhau suy gẫm.

Đấng cứu độ chúng ta đã chẳng nề sinh làm con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Ta hãy chúc tụng và tha thiết nguyện cầu :

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Mặt Trời soi đường công chính, đã muốn cho Đức Mẹ xuất hiện tựa hừng đông, - xin cho chúng con biết theo Người mà bước đi trong ánh sáng của ngày cứu độ.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Ngôi Lời hằng hữu, Thánh Mẫu Chúa đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, - xin cho chúng con hằng noi gương Thánh Mẫu mà gắn bó cùng Chúa trọn đời.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, Chúa đã muốn cho Đức Mẹ đứng kề bên thánh giá, - xin nhậm lời Người chuyển cầu mà cho chúng con hưởng nhờ ơn cứu độ.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Con Đức Trinh Nữ, và là anh của chúng con, xưa trên thánh giá, Chúa đã xin Đức Mẹ làm mẹ thánh Gio-an, - xin cho chúng con cũng nhận biết Người là mẹ, và trọn niềm hiếu thảo với Người.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

 

Thiên Chúa là Cha toàn năng đã muốn cho mọi đời phải ca ngợi Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Ki-tô. Vậy ta hãy tôn vinh Thiên Chúa Cha, và xin Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng ta :

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Thân Mẫu Chúa Giê-su, - xin cho các bà mẹ biết gây tinh thần bác ái và đời sống thánh thiện trong gia đình.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã đặt Đức Ma-ri-a làm Từ Mẫu của nhân loại, - xin cho tất cả những ai đang gặp cảnh gian truân được cảm nghiệm tình mẫu tử của Người.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã làm cho Đức Mẹ biết chăm chỉ lắng nghe lời Chúa, và tận tâm phục vụ Chúa, - xin cho chúng con được trở thành những môn đệ trung tín của Đức Ki-tô.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã phong Đức Ma-ri-a làm Nữ Vương thiên quốc, - xin cho các anh chị em đã lìa thế được chung hưởng vinh quang với thần thánh trên trời.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Thánh Mẫu Ma-ri-a vừa cưu mang Chúa Giê-su, Cha đã soi sáng cho Thánh Mẫu đi thăm viếng bà Ê-li-sa-bét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Đức Ma-ri-a ngợi khen Cha muôn đời. Chúng con cầu xin




Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: Xp 3, 14-18a

"Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi".

Trích sách Tiên tri Xôphônia.

Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi, và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.

Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: "Hỡi Sion, đừng sợ! Tay đừng bủn rủn! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Với ngươi, Người làm mới lại tình yêu của Người. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui, như thuở tao phùng".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc: Rm 12, 9-16

"Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà".

Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, đức ái không được giả hình: Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong tình bác ái huynh đệ. Hãy nhân nhượng tôn kính nhau. Hãy siêng năng, chớ biếng nhác: Hãy sốt mến trong tâm hồn và phụng sự Chúa. Hãy hân hoan trong niềm cậy trông, nhẫn nại trong gian truân và kiên tâm cầu nguyện. Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà.

Hãy chúc phúc cho những kẻ bắt bớ anh em: Hãy chúc phúc, chứ đừng chúc dữ. Hãy vui mừng với kẻ vui mừng, và khóc lóc với kẻ khóc lóc. Hãy đồng tâm hiệp ý với nhau: đừng tự cao tự đại, một hãy ưa thích những sự hèn kém. Ðừng tự đắc cho mình là khôn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6

Ðáp: Ðấng Thánh cao cả của Israel ở giữa ngươi (c. 6b).

Xướng: 1) Này là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi, tôi sẽ tin tưởng hành động và không sợ hãi: vì Chúa là sức mạnh và là sự ngợi khen của tôi, và Người đã đem lại cho tôi ơn cứu độ. - Ðáp.

2) Hãy tuyên xưng Chúa và kêu cầu thánh danh Người; hãy làm cho các dân tộc biết việc Chúa sáng tạo; hãy nhớ rằng danh Người thật cao sang. - Ðáp.

3) Hãy ca mừng Chúa, vì người đã làm những việc trọng đại; hãy công bố việc đó trong khắp hoàn cầu. Hỡi dân thành Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì Ðấng Thánh cao cả của Israel ở giữa ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: Lc 1, 45

Alleluia, alleluia! - Hỡi Trinh Nữ Maria, phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 39-56

"Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:

"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".

Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.

"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".

Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Viếng Thăm Là Dạo Khúc Cho Sứ Vụ Của Chúa Giêsu

 

1- Trong đoạn trình thuật về Cuộc Viếng Thăm, Thánh Luca cho chúng ta thấy, sau khi tràn đầy hồng ân Nhập Thể, Đức Maria đã mang ơn cứu độ và niềm vui đến cho gia đình bà Êlizabét ra sao. Đấng Cứu Thế nhân trần, được cưu mang trong lòng Mẹ mình, đã tuôn đổ Thánh Linh xuống, qua việc tỏ mình ra ngay từ lúc mới vào trần gian của mình.

Khi diễn tả việc khởi hành của Đức Maria lên đường đi xuống Giuđêa, Thánh Ký đã dùng động từ “anistemi”, nghĩa là “chỗi dậy”, là “bắt đầu di chuyển”. Nếu động từ này được các Phúc Âm sử dụng để nói đến việc Phục Sinh của Chúa Giêsu (Mk 8:31, 9:9,31; Lk 24:7,46), hay những tác động thể lý ám chỉ nỗ lực về tâm linh (Lk 5:27-28, 15:18,20), chúng ta có thể cho rằng Thánh Luca muốn dùng cách diễn tả này để nhấn mạnh đến cái nhiệt tình mạnh mẽ, theo ơn soi động của Thánh Linh, đã thúc đẩy Đức Maria ban tặng cho thế giới Vị Cứu Tinh của nó.

2- Bản văn Phúc Âm cũng trình thuật rằng Đức Maria “vội vàng” (Lk 1:39) lên đường. Ngay cả ghi chú về việc Người “đến một miền đồi núi”, Phúc Âm Thánh Luca cũng cho thấy một ý nghĩa sâu xa của nó, hơn là chỉ cố ý nói đến một địa dư vậy thôi, vì nó gợi lại cho chúng ta thấy hình ảnh một vị sứ giả loan báo tin mừng trong Sách Tiên Tri Isaia: “Đẹp thay trên các núi đồi bước chân của người loan báo tin vui, của người rao truyền an bình, của người mang tin thiện phúc, của người rao truyền ơn cứu độ, của người nói với Sion rằng: ‘Thiên Chúa của các người hiển trị’” (Is 52:7).

Như Thánh Phaolô, vị nhìn nhận đoạn sách tiên tri này đã được nên trọn ở việc loan truyền phúc âm (Rm 10:15), Thánh Luca hình như cũng muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn nơi Đức Maria như là “vị truyền bá phúc âm” tiên khởi, vị loan truyền “tin mừng”, khai mào các cuộc hành trình thừa sai cho Người Con thần linh của Người.

Sau hết, hướng đi trong cuộc hành trình của Đức Trinh Nữ cũng có một ý nghĩa đặc biệt, ở chỗ, Người đi từ Galilê xuống Giuđêa, giống như cuộc hành trình truyền giáo của Chúa Giêsu vậy (x 9:51).

Thật thế, cuộc viếng thăm bà Eâlizabét của Đức Maria là một dạo khúc cho sứ vụ truyền giáo của Chúa Giêsu, và ngay từ ban đầu, với vai trò làm mẹ cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Con mình, Người đã trở nên một mẫu gương cho những ai thuộc về Giáo Hội muốn ra đi mang ánh sáng của Chúa Kitô và niềm vui đến cho con người ở mọi thời và khắp mọi nơi.

3- Cuộc gặp gỡ bà Elizabét có tính cách của một biến cố cứu độ vui mừng, vượt lên trên những cảm xúc tự nhiên của tình nghĩa gia đình. Nơi đang ở vào hoàn cảnh bối rối về hành động thiếu tin tưởng, được tỏ hiện qua tình trạng bị câm lặng của ông Zacaria, thì Đức Maria đã làm bừng lên niềm vui của một đức tin mau mắn và cởi mở của Người: “Người đã vào nhà ông Zacaria và chào bà Elizabét” (Lk 1:40).

Thánh Luca cho thấy mối liên hệ này là: “Khi bà Elizabét nghe lời chào của Đức Maria thì con trẻ trong lòng bà liền nhẩy mừng” (Lk 1:41). Lời chào của Đức Maria đã khiến cho người con trai của bà Elizabét nhẩy lên vui sướng, ở chỗ, qua việc làm của Đức Maria, việc Chúa Giêsu vào nhà của bà Elizabét đã mang đến cho vị tiên tri thai nhi này một niềm vui được Cựu Ước tiên báo như là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Đấng Thiên Sai.

Với lời chào của Đức Maria, niềm vui cứu độ đã đến với cả bà Elizabét nữa, để rồi, “được đầy Thánh Linh… bà đã lớn tiếng kêu lên rằng ‘Người có phúc hơn mọi phụ nữ, và phúc cho hoa trái trong lòng của Người’ (Lk 1:41-42).

Nhờ được ơn soi sáng từ trên cao, bà hiểu được sự cao trọng của Đức Maria, vị còn hơn cả Jael và Judith là những nhân vật tiền thân của Người trong Cựu Ước, Người có phúc hơn mọi người nữ bởi quả phúc trong lòng Người là Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai.

4- Lời bà Elizabét hô lên ấy, hô một cách “lớn tiếng”, chứng tỏ cho thấy cả một tấm lòng nhiệt thành sốt sắng chân tình, một tấm lòng nhiệt thành sốt sắng chân tình sẽ được tiếp tục vang vọng trên môi miệng của tín hữu qua kinh “Kính Mừng”, một kinh nguyện như một bài ca của Giáo Hội chúc tụng những việc trọng đại được Đấng Tối Cao thực hiện nơi Người Mẹ của Con Ngài.

Trong việc tuyên tụng Người “có phúc hơn mọi người nữ”, bà Elizabét muốn nói đến đức tin của Đức Maria là lý do đã làm cho Người được diễm phúc: “Phúc cho Người vì đã tin rằng những gì Chúa nói cùng Người sẽ được thực hiện” (Lk 1:45). Sự cao cả và niềm vui của Đức Maria phát xuất từ việc Người là một con người tin tưởng.

Thấy được vai trò tuyệt hạng nơi Đức Maria, bà Elizabét cảm thấy cái vinh dự mình được Người đến viếng thăm: “Tôi làm sao lại có diễm phúc là được Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi?” (Lk 1:43). Bằng lời xưng tụng “Chúa tôi”, bà Elizabét đã nhìn nhận phẩm vị hoàng tộc, đúng hơn, phẩm vị thiên sai nơi Người Con của Đức Maria. Trong Cựu Ước, lời này quả thực được dùng để xưng tụng đức vua (x 1Kgs 1:13,20,21 v.v.) cũng như để nói về Vị Vua Thiên Sai (Ps 110:1). Thiên Thần đã nói về Chúa Giêsu rằng: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Đavít tổ phụ của Người” (Lk 1:32). “Được đầy Thánh Thần”, bà Elizabét cũng có cùng một minh thức như thế. Cuộc vinh hiển vượt qua của Chúa Kitô sau này mới tỏ cho thấy ý nghĩa cần phải hiểu về danh hiệu này, một ý nghĩa siêu việt (x Jn 20:28; Acts 2:34-36).

Bằng việc vang lên lời chúc tụng ấy, bà Elizabét mời gọi chúng ta hãy cảm nhận tất cả những gì do sự hiện diện của Đức Maria mang đến như là một ân phúc cho đời sống của mọi tín hữu.

Qua việc Viếng Thăm này, Người Trinh Nữ đã mang Chúa Giêsu đến cho mẹ của Vị Tẩy Giả, một Chúa Kitô là Đấng tuôn đổ Thánh Linh. Vai trò trung gian môi giới này phát xuất từ chính những lời của bà Elizabét: “Này, khi tai tôi vừa nghe thấy tiếng Người chào thì con trẻ trong lòng tôi liền nhẩy mừng” (Lk 1:44). Với tặng ân Thánh Linh được ban phát bấy giờ, sự hiện diện của Đức Maria đóng vai trò như một dạo khúc cho Cuộc Hiện Xuống, một Cuộc Hiện Xuống xác nhận việc hợp tác, được bắt đầu từ Biến Cố Nhập Thể, cần phải được thể hiện nơi toàn cục diện cứu độ thần linh.

(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 2/10/1996, Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 9/10/1996)

 

 

 






Thứ Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Tb 6, 10-11a; 7, 1. 9-17; 8, 4-10

"Thiên Chúa đã khiến các người đến nhà tôi để con gái tôi kết hôn với người trong thân tộc".

Trích sách Tôbia.

Trong những ngày ấy, Tôbia hỏi thiên thần rằng: "Ngài muốn chúng ta ở đâu?" Thiên thần trả lời rằng: "Ở đây có người tên là Raguel, người bà con thuộc chi tộc của anh; và ông này có người con gái tên là Sara". Thiên Thần và Tôbia đi vào nhà Raguel, và được Raguel vui mừng đón tiếp.

Sau khi trò truyện, Raguel bảo giết chiên dọn tiệc, rồi mời khách ngồi vào bàn ăn. Tôbia liền nói: "Hôm nay đây cháu không ăn uống gì cả, nếu bác không chấp nhận lời cháu thỉnh nguyện: xin bác hứa gả con của bác là Sara cho cháu".

Vừa nghe câu đó, Raguel hoảng sợ, vì biết việc đã xảy ra cho bảy người chồng trước, khi họ tới gần con gái của ông. Ông lo sợ kẻo người này cũng đồng số phận như vậy chăng. Trong lúc ông lưỡng lự, không biết phải trả lời làm sao với kẻ xin cưới con mình, thiên thần liền nói: "Ông đừng sợ gả con gái ông cho người này, vì con gái ông xứng đáng làm vợ người này vốn hay kính sợ Thiên Chúa; do đó, không ai khác cưới được nàng". Bấy giờ Raguel thưa: "Tôi không còn hồ nghi, vì Chúa đã chấp nhận lời tôi kêu cầu và nước mắt tôi chảy ra trước tôn nhan Người. Tôi cũng tin rằng vì thế mà Người khiến các người đến nhà tôi, để con gái tôi kết hôn với người trong thân tộc mình theo luật Môsê, và giờ đây tôi không ngần ngại gả con gái tôi cho cháu". Ông liền nắm tay con gái ông, đặt vào lòng tay mặt của Tôbia và nói rằng: "Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp ở cùng hai con, chính Người phối hợp hai con, xin Người ban tràn đầy ơn phúc lành của Người xuống cho hai con. Hai bên làm giấy hôn thú. Và sau đó họ ăn tiệc cưới cảm tạ Thiên Chúa.

Bấy giờ Tôbia khuyên bảo nàng trinh nữ rằng: "Hỡi Sara, hãy chỗi dậy, chúng ta hãy cầu nguyện cùng Thiên Chúa hôm nay, mai và mốt; trong ba đêm đầu, chúng ta hãy kết hợp với Thiên Chúa. Qua đêm thứ ba rồi, chúng ta mới giao hợp với nhau: vì chúng ta là con cái các thánh, chúng ta không thể giao hợp với nhau như những người dân ngoại không biết gì đến Thiên Chúa". Cả hai cùng chỗi dậy, cùng cầu nguyện không ngừng, để xin ơn được sống thanh sạch. Tôbia nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ phụ chúng con, danh Chúa đáng chúc tụng cho đến muôn đời! Hỡi trời đất, biển cả, sông ngòi và mọi tạo vật, hãy chúc tụng Chúa. Chúa đã lấy bùn đất mà dựng nên Ađam, và ban cho người một bà nội trợ là Evà. Và giờ đây, lạy Chúa, Chúa biết không phải vì dục tình mà con cưới em này làm vợ, song chỉ vì muốn có con cái nối dòng, để danh Chúa được chúc tụng muôn đời". Sara cũng nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, xin thương xót chúng con, xin cho hai chúng con được an khang trường thọ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5

Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa (x. c. 1a).

Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người: Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn; con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. - Ðáp.

3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con! - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 28b-34

"Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất và ngươi hãy kính mến Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?" Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó". Luật sĩ thưa Người: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất, và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác. Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh". Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.

Ðó là lời Chúa.

 




Suy Niệm Cảm Nghiệm


Tin Yêu Lẽ Sống


Suy Niệm

 

 

Phụng vụ Lời Chúa cho Thứ Năm của Tuần IX Thường Niên hôm nay bao gồm bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (12:28b-34) và bài đọc 1 trích từ Sách Tobia (6:10-11a; 7:1,9-17; 8:4-10) cùng với bài Đáp Ca trích từ Thánh Vịnh 127 (1-2,3,4-5), tất cả đều phản ảnh ý nghĩa của chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh ở một khía cạnh nào đó. 

Trước hết, lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm đã cho thấy "sự sống" thần linh là ở chỗ kính mến Thiên Chúa hết bản thân mình: "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức", cùng yêu thương tha nhân như bản thân mình: "hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". 

Giới răn thứ hai "yêu tha nhân như bản thân mình" là giới răn gắn liền bất khả phân ly với giới răn thứ nhất và là giới răn bất khả châm chước. Đến độ, Chúa Giêsu đã khẳng định với vị luật sĩ hỏi Người "trong các giới răn, điều nào trọng nhất?" về cả 2 giới răn bất khả phân ly này rằng: "Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó", một câu trả lời chí lý khiến nhà thông luật đặt vấn nạn đã phải công nhận một cách rất chính xác rằng: "Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh", một nhận thức tuyệt vời chỉ cần thực hành nữa là trọn vẹn nên vị luật sĩ đã được Chúa Giêsu vừa khen tặng vừa phấn khích rằng: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". 

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao "Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó"? Phải chăng "yêu thương là hoàn trọn lề luật(Roma 13:10)!? Và phải chăng yêu thương mới làm cho con người hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, ở chỗ tác động yêu thương chính là tác động con người nhận biết Ngài là "Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất", chỉ có Ngài là đáng yêu trước hết mọi sự và trên hết mọi sự, Đấng "đã yêu chúng ta trước" (1Gioan 4:19), như Ngài đã tự tỏ mình ra đúng là như thế trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái: Ngài đã yêu thương dân của Ngài tuyển chọn một cách nhưng không, đã yêu thương một cách trọn lành, đã yêu thương một cách thủy chung, bất chấp dân này phản bội Ngài và liên lỉ gian dâm ngoại tình với tà thần ngoại bang cùng ngẫu tượng của họ.

Vì Chúa Kitô "xuất hiện lần thứ hai là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28), tức những ai "bền đỗ cho đến cùng" 24:13) bằng lòng tin tưởng mãnh liệt vào Người, mà "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), một đức ái chính là hoa trái của đức tin, là tầm vóc viên mãn của đức tin. Bởi thế, trong cuộc chung thẩm, để được sự sống đời đời hay bị luận phạt, con người sẽ bị Vị Thẩm Phán Giêsu phán xét theo tiêu chuẩn đức ái về hành động đối với tha nhân - yêu thương nhau như bản thân mình, mà thật ra là đức tin về tinh thần đối với Thiên Chúa - kính mến Thiên Chúa hết mình (xem Mathêu 25:37-39,44).


Cảm Nghiệm
 

 

"Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó", ở chỗ con người phải kính mến Chúa hết mình và yêu tha nhân như mình; nhưng muốn được như thế, chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa, như ở nơi hai tâm hồn trong Bài Đọc 1 hôm nay, như được Sách Tobia thuật lại, đó là chàng Tobia con và nhân vật nhạc phụ tương lai của chàng, tương tự như trường hợp Tobia cha và nàng con dâu tương lai của ông trong Bài Đọc 1 hôm qua.

Chính vì kính mến Thiên Chúa hết mình và yêu tha nhân như mình mà ông bố của người vợ tương lai của chàng Tobia con mới lo sợ không dám gả con mình cho chàng, kẻo chàng cũng chịu chung số phận tử vong như 7 người chồng mới cưới khác trong ngay đêm động phòng của họ với con gái của ông. Cho tới khi ông nhận biết ý Chúa, qua lời thiên sứ Raphael mà ông cứ tưởng là bạn đồng hành với chàng con rể tương lai của ông, ông mới tin tưởng mau mắn tuân theo

"'Tôi không còn hồ nghi, vì Chúa đã chấp nhận lời tôi kêu cầu và nước mắt tôi chảy ra trước tôn nhan Người. Tôi cũng tin rằng vì thế mà Người khiến các người đến nhà tôi, để con gái tôi kết hôn với người trong thân tộc mình theo luật Môsê, và giờ đây tôi không ngần ngại gả con gái tôi cho cháu'. Ông liền nắm tay con gái ông, đặt vào lòng tay mặt của Tôbia và nói rằng: 'Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp ở cùng hai con, chính Người phối hợp hai con, xin Người ban tràn đầy ơn phúc lành của Người xuống cho hai con'". 
Về phần chàng Tobia con cũng thế, thậm chí hơn thế nữa, ở chỗ đã tin tưởng vào Vị Thiên Chùa chân thật duy nhất của cha ông mình, nên đã tỏ ra kính mến Ngài hết mình, qua lời cầu rất tuyệt vời của một người chàng rể lý tưởng nhất, có thể nói không thể tìm thấy trên trần gian này ở vào đêm động phòng, qua lời chàng khuyên vợ, nhất là lời chàng cầu với Thiên Chúa như sau: 

"'Hỡi Sara, hãy chỗi dậy, chúng ta hãy cầu nguyện cùng Thiên Chúa hôm nay, mai và mốt; trong ba đêm đầu, chúng ta hãy kết hợp với Thiên Chúa. Qua đêm thứ ba rồi, chúng ta mới giao hợp với nhau: vì chúng ta là con cái các thánh, chúng ta không thể giao hợp với nhau như những người dân ngoại không biết gì đến Thiên Chúa'. Cả hai cùng chỗi dậy, cùng cầu nguyện không ngừng, để xin ơn được sống thanh sạch. Tôbia nguyện rằng: 'Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ phụ chúng con, danh Chúa đáng chúc tụng cho đến muôn đời! Hỡi trời đất, biển cả, sông ngòi và mọi tạo vật, hãy chúc tụng Chúa. Chúa đã lấy bùn đất mà dựng nên Ađam, và ban cho người một bà nội trợ là Evà. Và giờ đây, lạy Chúa, Chúa biết không phải vì dục tình mà con cưới em này làm vợ, song chỉ vì muốn có con cái nối dòng, để danh Chúa được chúc tụng muôn đời'".

Những lời chúc tụng như thể chúc phúc trong Bài Đáp Ca hôm nay thật xứng đáng với chung đôi tân hôn trong Bài Đọc 1 hôm nay, cách riêng với người chàng rể đã yêu Chúa hết mình và yêu người như mình là chính người vợ của chàng trong giây phút động phòng có thể ngất ngây hưởng thụ ngay bấy giờ, bởi chàng thực sự thuần khiết yêu nàng như bản thân mình (xem Epheso 5:28):

1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người: Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn; con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa.

3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con!

 

 

Ngày 1 tháng 6

Thánh Giút-ti-nô, tử đạo

 


Thánh nhân là một triết gia và là anh hùng tử đạo. Người sinh tại Phơ-la-vi-a Nê-a-pô-li, ở Sa-ma-ri, trong một gia đình ngoại giáo, đầu thế kỷ II. Sau khi tin Chúa Ki-tô, người đã viết nhiều tác phẩm bênh vực Ki-tô giáo. Trong số đó, còn lại hai tác phẩm “Minh giáo” gửi cho hoàng đế An-tô-ni-ô và “Đối thoại với ông Tri-phông”, tranh luận với người Do-thái. Người cũng mở một trường dạy triết lý ở Rô-ma. Bị một đồng nghiệp tố cáo, người một lòng son sắt tuyên xưng đức tin trước mặt quan toà và đã được phúc tử đạo cùng với sáu Ki-tô hữu khác, quãng năm 165, thời hoàng đế Mác-cô Au-rê-li-ô.

 

Tôi đã theo đạo lý chân thật của các Ki-tô hữu

Bài đọc 2 giờ kinh sách ngày 1/6

Trích sử liệu về cuộc tử đạo của thánh Giút-ti-nô và các bạn.

Sau khi bị bắt, các thánh được điệu tới tổng trấn Rô-ma, tên là Rút-ti-cô. Lúc các ngài ra trước toà án, tổng trấn Rút-ti-cô nói với thánh Giút-ti-nô : “Trước hết ngươi phải tin các thần minh và tôn kính các hoàng đế.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Các ông không thể tố cáo hay bắt giam chỉ vì chúng tôi tuân lệnh Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng tôi.”

Quan Rút-ti-cô nói : “Nhà ngươi xưng tụng học thuyết gì vậy ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi đã cố học đủ mọi thứ học thuyết, nhưng tôi đã theo đạo lý chân thật của các Ki-tô hữu, dù đạo lý ấy không minh nhiên đối với những người đang chìm đắm trong sự lầm lạc.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Đạo lý ấy mà ngươi cho là minh nhiên ư, hỡi tên khốn kiếp ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Phải, vì giáo huấn đúng nên tôi theo đạo lý đó.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Giáo huấn đó thế nào ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Chúng tôi thờ Thiên Chúa của các Ki-tô hữu ; chúng tôi tin Người là Đấng Tạo Thành duy nhất từ ban đầu, là Hoá Công toàn thể thụ tạo hữu hình và vô hình ; và chúng tôi tin Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, Đấng được các ngôn sứ tiên báo sẽ đến rao giảng ơn cứu độ cho loài người và dạy dỗ các môn đệ Người tuyển chọn. Và vì tôi là người phàm, nên tôi nghĩ chỉ có thể nói được một vài điều, bởi lẽ thần tính của Người thì vô biên. Tôi công nhận uy tín của các ngôn sứ khi các ngài tiên báo Người là Con Thiên Chúa như tôi vừa nói. Quả thật, tôi biết các ngôn sứ được ơn trên báo cho biết trước về cuộc giáng lâm của Người đến với nhân gian.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi là Ki-tô hữu ư ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Đúng thế, tôi là Ki-tô hữu.”

Tổng trấn nói với thánh Giút-ti-nô : “Hãy nghe đây, hỡi kẻ được tiếng là thông thái và tưởng mình biết đạo lý thật : nếu ngươi bị đánh đòn và bị chặt đầu, ngươi có tin chắc là ngươi sẽ được lên trời không ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi hy vọng sẽ được ở trên đó, nếu tôi chịu được những điều này, vì tôi biết rằng cho đến tận thế, Chúa vẫn dành ơn ấy cho những ai ăn ở ngay lành.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi tưởng là ngươi sẽ được lên trời và nhận phần thưởng đích đáng sao ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Không phải là tưởng mà là biết rõ và chắc chắn như vậy.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Thôi, ta hãy đi vào vấn đề, vào công việc cần thiết và khẩn trương. Vậy các ngươi hãy đồng lòng tế thần đi.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Không ai là người có lương tri mà lại bỏ con đường đạo nghĩa để bước vào con đường vô đạo.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Nếu không tuân lệnh, các ngươi sẽ phải chịu khổ hình không chút xót thương.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Chúng tôi ao ước chịu khổ hình vì Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng tôi, để được cứu độ, vì điều ấy mang lại cho chúng tôi ơn cứu độ và làm cho chúng tôi vững tin trước toà chung thẩm của Chúa là Thiên Chúa và Đấng cứu độ chúng tôi.”

Các vị tử đạo khác cũng nói như sau : “Ngài muốn làm thế nào tuỳ ý, chúng tôi là Ki-tô hữu, chúng tôi không tế thần.”

Tổng trấn Rút-ti-cô tuyên án : “Ai không muốn tế thần và tuân lệnh hoàng đế, đều phải bị đánh đòn và mang đi chặt đầu, phải chịu án tử hình theo luật định.”

Các thánh tử đạo ngợi khen Chúa, đi tới pháp trường, bị chặt đầu và hoàn tất cuộc tử đạo khi tuyên xưng Đấng Cứu Độ.

Xướng đápx. Cv 20,21.24 ; Rm 1,16

XTôi đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, không chút sợ hãi.

ĐMạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận là làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.

XTôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp.

ĐMạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận là làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Giút-ti-nô tử đạo ơn hiểu biết sâu xa về Đức Ki-tô, nhờ suy tưởng mầu nhiệm Thập Giá mà thế gian coi là điên dại. Nhờ lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con thoát khỏi mọi tư tưởng sai lầm và cương quyết giữ vững niềm tin. Chúng con cầu xin

 

 

Thánh JUSTINO, Tử đạo (+165)
Thánh Giustinô tử đạo sinh tại Nablus, Samaria, ở vào đầu thế kỷ thứ II. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân thật. Với nhiệt tình này, ngài đã tiếp xúc với mọi người triết thuyết đường thời và không thoả mãn được các đòi hỏi của trí khôn.

Trong tác phẩm “Đối thoại với Tryphon” (Dialogus cum Tryphone), chính Thánh Giustinô kể lại cuộc tìm kiếm của mình: Trước hết, ngài tin tưởng vào một người theo phái khắc kỷ. Những người này chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói rằng sư hiểu biết ấy không cần thiết gì. Sau đó, ngài đến với một người theo thuyết của Aristote. Ông này đòi thù lao quá cao, khiến sinh viên trẻ là Giustinô phẫn uất: người ta không rao bán triết học.

Một người theo lý thuyết của Pythagore hỏi Ngài: Anh đã học âm nhạc, thiên văn và địa lý chưa? Bởi vì để chiêm ngưỡng điều góp phần tạo nên hạnh phúc cần phải biết học giải thoát tâm hồn khỏi các đối tượng hữu hình để có thể tiếp nhận được những đối tượng trong trí khôn và cho phép thấy được sự thiện mỹ nội tại.

Giustinô chưa biết gì về những môn học, nhưng lại thấy mình bị thúc bách tìm kiếm Thiên Chúa hơn. Ngài gặp một người theo phái Platon. Ngài nói: Sau nhiều đàm luận, tôi hiểu được những điều vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng thế giới tư tưởng chấp cánh cho tinh thần của tôi.

Dầu vậy, không có gì làm cho ngài thoả mãn được cơn khát chân lý. Tại Ephesô, Giustinô gặp một cụ già đầy khôn ngoan. Ông trách ngài đã thích lý sự về từ ngữ hơn sự kiện. Ông đã cho ngài một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc Kinh Thánh: phải vượt qua những giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong thời gian hơn các triết gia, phải nghe các tiên tri là những người nói bởi Chúa Thánh Thần, nhất là phải cầu nguyện vì: Không ai có thể thấy hay nghe được những điều này nếu Thiên Chúa và Đức Kitô không cho họ hiểu biết.

Theo lời khuyên này, Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo đảm hơn triết học nhiều. Từ đấy đức tin là quy luật xử thế và sự thánh thiện lý tưỏng của ngài, ngài mở một trường học tại Rôma và sống đời tông đồ đích danh. “Tôi sẽ nói sự thật, không một đắn đo sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm mảnh”.

Gương mẫu của các thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều: Thấy các ngài kiên vững trước cái chết, tôi thầm nói rằng họ không thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái lạc được nữa.

Ngài sẽ tìm được ở đâu sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là trong Kitô giáo? Bởi vậy, ngài đã tìm mở rộng môi trường hoạt động ra ngoài ranh giới lớp học và những cuộc tranh luận, bằng việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn giáo. Ngày nay, chúng ta chỉ còn giữ lại được 2 cuốn: Đối thoại với Tryphone, và Hộ giáo (Apologiae). Nhưng với hai tác phẩm ấy, Thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà minh giáo có thế giá được thế kỷ thứ II và là người đã phác hoạ ra nền thần học Kitô giáo.

Từ một đức tin vững chắc vào các chân lý Kitô giáo. Thánh Giustinô đã không ngần ngại tìm hết khả năng trổi vượt của trí khôn để 2 lần viết thơ can ngăn các bạo vương. Lần thứ nhất vào năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux, và lần thứ hai cho Marcô Aurelio. Cả hai lần ngài cố gắng chỉ dẫn đến kết quả là bị kết án tử hình.

Giustinô và các bạn bị dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus, một người theo triết thuyết Khắc Kỷ. Ngài lớn tiếng tuyên xưng đức tin. - Không ai có lương tri mà lại bỏ rơi chân lý để theo sự lầm lạc cả.

Thánh nhân từ chối không chịu tố giác nơi các Kitô hữu hội họp. Sau cùng, ngài và các bạn bi đánh đòn rồi bị chém đầu. Tài liệu còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh nhân đã phát biểu trong cuộc đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: Mọi nguyên tắc chính đáng mà các triết gia và các nhà lập luật khám phá được và trình bày cũng phải nhớ ở điều mà Ngôi Lời đã diễn tả một phần.

Ngài còn nói: Không ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông ta dạy. Chính vì những lý do khác hẳn với lĩnh vực văn chương mà bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để ký nhận các công trình của các ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng các ngài.
Trích trong Theo Vết Chân Người (Chân dung các thánh nhân)

http://www.truyen-tin.net/BiographyOfSaints.aspx?SID=86

 

  1. Thánh Justin người Samaria (miền Trung nước Dothái thời Chúa Giêsu). Ông sống vào thế kỉ thứ 2. Cha ông không dạy ông về tôn giáo nào cả.

Khi còn nhỏ, Justin  ưa đọc văn thơ, lịch sử, khoa học. Lớn lên ông tiếp tục học như thế, nhưng trong lòng ông muốn tìm hiểu đạo nào là thật?

Người ta kể: Một hôm, trong khi đi dạo bờ biển, Justin gặp một ông già. Hai người nói chuyện. Justin nói rằng mình không có hạnh phúc và muốn tìm vị Chúa thật mà trong các sách chàng đọc, không thấy nói tới. Ông già chỉ cho Justin đọc Kinh thánh để biết về Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế. Ông khuyến khích Justin cầu nguyện để được hiểu biết về Thiên Chúa thật.

Justin từ hôm đó, bắt đầu cầu nguyện và đọc Kinh thánh, càng ngày ông càng thích thú Lời Chúa, ông cũng rất thán phục người Công giáo đã dám chết cho đức tin và tình yêu Chúa Giêsu.

Sau khi học đủ điều trong đạo, Justin xin được rửa tội để làm người Công giáo.

            2. Theo đạo, viết sách bênh đạo, chết vì đạo: Ông đến Rôma, mở trường triết học Kitô, tổ chức những cuộc tranh luận công khai về đạo.

            Một số người thời đó công kích niềm tin và sống đạo Kitô giáo, vì thế Justin bắt đầu nói và viết để bênh vực đạo Chúa. Các sách của ông giúp chúng ta hiểu hơn về Giáo hội Công giáo thời đầu. Ngày nay chỉ còn cuốn “Bênh đạo và cuốn Đối thoại với Trypho”. Nhờ đó ta biết về nghi lễ Rửa tội quãng năm 160, nghi lễ thời đó rất giống như nghi lễ ngày nay. Ông còn viết về sách “Nghi thức Thánh lễ Misa sáng Chúa nhật” của các cộng đoàn Kitô hữu thời đó gồm: đọc sách Thánh, bài dẫn giải Tin mừng, dâng bánh rượu, cho giáo dân rước lễ…

Năm 165, Justin bị bắt, vì ông là Kitô hữu. Nhưng ông quyết liệt không bỏ đạo Chúa để tế thần theo ý vua quan.

            3. Tranh luận bênh vực đức tin:

Chúa đã ban cho thánh Justinô nhiều ơn, và người đã dùng những ơn này đáp lại ơn Chúa kêu gọi. Khi người đã tìm ra sự thật, người đã theo đến cùng.

Quan Tổng Đốc Roma truyền lệnh :– Hãy tế thần và vâng lệnh hoàng đế.

– Justin nói: Chẳng ai có quyền bắt chúng tôi tuân lệnh tế thần,  vì chúng tôi đã theo Chúa Kitô,  Đấng Cứu Chuộc chúng tôi.

– Vậy anh theo chủ thuyết nào ?

– Tôi theo giáo lý chân thật của Chúa Kitô,  mặc dù giáo lý ấy các người lầm lạc không chấp nhận.

– Nếu không tuân lệnh,  các ngươi sẽ bị phạt không nương tay.

– Chúng tôi ao ước được chịu khổ vì Chúa Kitô,  vì sự khổ ấy sẽ đem chúng tôi về Thiên đàng trên trời.

–  Anh có nghĩ rằng anh sẽ được lên trời và lãnh phần thưởng xứng đáng không?

–  Không phải nghĩ, nhưng Thiên đàng có thực, tôi biết rất rõ và nắm vững chắc chắn.

– Tất cả những kẻ không chịu tế thần và bất tuân lệnh hoàng đế đều bị đánh đòn và bị chặt đầu đúng theo luật.

Quan án đã kết án tử hình cho ông Justin. Người đã bị chém đầu ngày 1 tháng 6 năm 166 tại Roma.

 Phần tôi, tôi có tìm Chúa trong Kinh thánh và cầu nguyện không? Xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho con.

http://linhthao.bplaced.net/2015/06/01/thanh-justino-tu-dao/

 

 

Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các văn bản ấy, chúng ta biết về cuộc đời ngài.

Thánh Justin sinh ở Flavia Neapolis, Samaria khoảng năm 100. Cha mẹ ngài là người ngoại giáo, gốc Hy Lạp. Ngài được giáo dục kỹ lưỡng và đặc biệt yêu thích khoa hùng biện, thi ca và sử học. Khi còn trai trẻ, ngài bị thu hút bởi triết thuyết Plato. Tuy nhiên, ngài nhận thấy chỉ có Kitô Giáo mới trả lời được những thắc mắc lớn lao về đời sống và sự hiện hữu.

Qua những tài liệu Kitô Giáo cũng như việc quan sát các gương anh hùng tử đạo, Thánh Justin đã trở lại Kitô Giáo khi ngài 30 tuổi. Ngài tiếp tục mặc áo choàng của các triết gia thời bấy giờ, và trở nên triết gia Kitô Giáo đầu tiên. Ngài tổng hợp Kitô Giáo với các yếu tính đặc sắc nhất trong triết lý Hy lạp. Theo quan điểm của ngài, triết lý là một nhà mô phạm của Ðức Kitô, một nhà giáo dục dẫn đưa người ta đến với Ðức Kitô.

Thánh Justin nổi tiếng là một người biện giáo thời bấy giờ. Ngài đi đây đó và tranh luận với các người ngoại giáo, lạc giáo và Do Thái Giáo. Khi người Kitô tiếp tục bị bách hại bởi nhà cầm quyền, ngài đã công khai bảo vệ Kitô Giáo qua lời giảng dạy cũng như văn bản. Trong các sáng tác của ngài, hiện nay chúng ta vẫn còn giữ được hai bản văn gửi cho hoàng đế Rôma và cho Thượng Viện.

Sau cùng ngài bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn Rôma là Rusticus. Khi được yêu cầu thờ cúng tà thần, Thánh Justin trả lời: “Người có suy nghĩ đúng đắn không vì sự giả trá mà chối bỏ sự thật”.

Thánh Justin bị chém đầu ở Rôma năm 165.

Lời Bàn

Là quan thầy các triết gia, Thánh Justin khích động chúng ta hãy dùng các sức mạnh tự nhiên (nhất là sức mạnh của sự hiểu biết) để phục vụ Ðức Kitô, và để hình thành đời sống Kitô Giáo trong nội tâm chúng ta. Vì con người dễ bị sai lầm, nhất là đối với các vấn đề sâu xa của đời sống và sự hiện hữu, chúng ta cũng phải sẵn sàng sửa đổi và kiểm soát lại tư duy chúng ta trong sự soi dẫn của chân lý Kitô Giáo. Do đó, chúng ta mới có thể nói như các thánh nhân uyên bác của Giáo Hội: Tôi tin để có thể hiểu, và tôi hiểu để có thể tin.

Lời Trích

“Triết lý là sự am tường những gì hiện hữu, và là sự hiểu biết rõ ràng về chân lý; và hạnh phúc là phần thưởng của sự am tường và sự hiểu biết đó” (Thánh Justin, Ðối Thoại Với Trypho, 3).

 

https://dongten.net/2019/05/31/hanh-cac-thanh-01-06-thanh-justino/

 




Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tob 11, 5-17

"Chúa đã sửa phạt tôi, và lại cứu chữa tôi, đây tôi nhìn thấy con trai tôi"

Bài trích sách Tobia.

Trong những ngày ấy, mỗi ngày bà Anna đến ngồi ở vệ đường bên sườn núi, nơi đó có thể nhìn xa được.

Cũng tại chỗ đó, đang lúc bà ngóng chờ con bà trở về, thì bà thấy và nhận ra con bà từ đàng xa đi đến, bà chạy báo tin cho chồng rằng: "Kìa, con mình đang về tới kia".

Và Raphael nói với Tobia rằng: "Lúc bạn vào nhà rồi, lập tức bạn hãy thờ lạy Chúa là Thiên Chúa bạn, và cảm tạ Người, rồi bạn đến gần mà hôn cha của bạn. Liền sau đó, bạn hãy lấy mật cá đem theo mình, xức lên mắt ông. Mắt của ông sẽ mở ra, cha của bạn sẽ thấy ánh sáng mặt trời, và hân hoan trước mặt bạn".

Bấy giờ con chó đi theo Tobia, chạy về trước, nó vui mừng vẫy đuôi như báo tin. Người cha mù lòa của Tobia chỗi dậy, loạng choạng đi ra cửa đón con mình.

Ông đón lấy và hôn con ông và vợ nó.

Cả hai oà lên khóc vì vui mừng.

Sau khi thờ lạy và cảm tạ Thiên Chúa, họ cùng ngồi xuống.

Bấy giờ Tobia lấy mật cá, xức lên mắt cha mình.

Chờ đợi nửa giờ, thì một vẩy trắng tựa như màng trứng tách ra khỏi hai mắt.

Tobia cầm vẩy trắng ấy kéo ra khỏi mắt cha mình, ông liền thấy được.

Rồi ông, vợ ông và những người quen thuộc ca tụng Chúa.

Còn Tobia thì cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa sửa phạt tôi, và lại cứu chữa tôi; đây chính tôi đang nhìn thấy Tobia con trai của tôi".

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 145, 2abc, 7,8-9abc-10

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa. (2a)

Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa, tôi sẽ ngợi khen Chúa suốt cả cuộc đời, bao lâu còn có thân tôi, tôi còn ca ngợi Chúa. - Ðáp.

2) Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. - Ðáp.

3) Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.

4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi, quả phụ và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 35-37

"Sao họ có thể bảo Ðức Kitô là Con vua Ðavít?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: "Sao các luật sĩ lại nói Ðấng Cứu Thế là con vua Ðavít? Vì chính Ðavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con". Chính Ðavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Ðavít được?" Và đám dân chúng thích thú nghe Người nói.

Ðó là lời Chúa.

 




Suy Niệm Cảm Nghiệm

Sự sống chiếu soi


Suy Niệm

 

 

"Đám dân chúng thích thú nghe Người nói". Bài Phúc Âm hôm nay (Marco 12:35-37) đã được kết thúc như thế. Bởi vì, họ thấy vấn đề được Người đặt ra rất là kỳ lạ nhưng hết sức lý thú mà họ chắc chưa bao giờ nghe thấy, hoặc tự nghĩ ra hay đặt vấn đề.

Theo bài Phúc Âm của Thánh ký Marco thì đây không phải là vấn đề được thành phần thông luật vốn chất vấn ngài đặt ra, mà chính Người tự nêu lên: 

"Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: 'Sao các luật sĩ lại nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít? Vì chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con'. Chính Đavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Đavít được?'" 

Ở đây, trong bài Phúc Âm này, không thấy Thánh ký Marco thuật lại những lời giải đáp của Chúa Giêsu về vấn nạn chính Người tự nêu lên ấy. Thế nhưng, căn cứ vào chính vấn nạn tự đặt ra này của Chúa Giêsu: "Chính Đavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Đavít được?", chúng ta thấy dường như Người muốn kín đáo mạc khải cho dân Do Thái biết rằng Người là vị Thiên Chúa nhập thể, có 2 bản tính, thiên tính và nhân tính. 

Thiên tính ở chỗ: "Chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con'. Chính Đavít gọi Người là Chúa". Nhân tính ở chỗ: "Các luật sĩ lại nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít". 

Đây là một mạc khải thần linh do chính Đấng có 2 bản tính tỏ ra, chứ không phải do loài người suy luận. Loài người chỉ suy luận theo những dấu hiệu bề ngoài, và lập luận theo lý lẽ của trần gian mà thôi. Ở chỗ, nếu "Đấng Cứu Thế là con Vua Đavít", mà Vua Đavít là loài người thì tất nhiên con của vua cũng phải là loài người và chỉ là loài người như vua, chứ không thể nào lại là một Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả, tự hữu và hằng hữu có trước vua và dựng nên vua. 

Vấn đề ở đây là tại sao Chúa Giêsu lại đặt vấn đề này ở đây, với mục đích gì? Thánh ký Marco không cống hiến cho chúng ta một chút ánh sáng nào, trong khi đó Thánh Mathêu ở cuối đoạn 22, đã cho biết thêm mấy chi tiết như sau: chi tiết thứ nhất đó là sở dĩ Người đặt câu hỏi này là để răn cho thành phần Pharisiêu kiêu ngạo một bài học biết mình trước mặt Người.

Thật vậy, theo trình thuật của Thánh Mathêu thì sau khi thấy phái Sađốc vừa bị Chúa Giêsu bịt miệng về vấn đề sống lại, (được bài Phúc Âm hôm Thứ Tư tuần này thuật lại), nhóm người Pharisiêu đã qui tụ lại như thể muốn chứng tỏ họ khôn ngoan thông giỏi hơn nhóm Sađốc, với một câu hỏi khác còn độc hơn vấn đề của phái Sađóc nữa, đó là vấn đề giới răn trọng nhất (được bài Phúc Âm hôm qua Thứ Năm thuật lại). 

Thế rồi, sau khi Chúa Giêsu trả lời cho nhóm Pharisiêu xong, Thánh ký Mathêu liền cho biết tiếp thế này: "Chúa Giêsu đã đặt một câu hỏi ngược lại cho những người Pharisiêu qui tụ bấy gi" (22:41), đó là chính câu cũng được Thánh ký Marco thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, để rồi sau câu hỏi của Người, Thánh Ký Mathêu đã kết luận như sau: "Không ai có thể trả lời, vì vậy, từ hôm ấy trở đi, chẳng có ai dám hỏi Người bất cứ câu hỏi nào nữa" (22: 46). 

Thái độ tỏ ra thông luật mà lại mù tịt trước vấn đề được Chúa Giêsu đặt ra như thế chứng tỏ thành phần thông luật này chỉ là thứ đám con nít trước mặt một vị Đại Sư Thần Linh Giêsu vậy thôi. Đó là lý do ngày mai chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu càng tỏ ra thẩm quyền của mình đối với thành phần thông luật giả hình này như thế nào....


Cảm Nghiệm

 

 

 

Vần đề được Chúa Giêsu đặt ra trong Bài Phúc Âm hôm nay, theo mạc khải Thánh Kinh, đó là "các vị luật sĩ nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít", đúng như mạc khải Thánh Kinh của Thiên Chúa, nhưng họ chưa có thể áp dụng nhận thức thánh kinh này vào chính bản thân Chúa Kitô, tức họ chưa nhận ra Chúa Kitô, Đấng vì thế mà đang cố gắng giúp cho họ nhận ra Người khi cố ý gợi lên thắc mắc về nguồn gốc thần linh của "Đấng Cứu Thế là con vua Đavít" theo nguồn gốc trần gian bởi huyết nhục của Người: "Vì chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con'".

 

Vậy thì nội dung của Bài Phúc Âm hôm nay có liên hệ gì với câu truyện được Sách Tobia thuật lại trong Bài Đọc 1 hôm nay hay chăng, câu chuyện về sự kiện nhân vật Tobia bố được chữa lành con mắt đã bị đui mù sau khi ông thực hiện một việc bác ái, được xuất phát từ lòng tin của ông vào Thiên Chúa, là chôn xác đồng hương Do Thái của mình, cho dù nguy hiểm đến tính mạng?

 

Xin thưa có, ở chỗ, nếu cuối bài Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marcô ghi nhận rằng: "Đám dân chúng thích thú nghe Người nói", vì họ thấy vấn đề được Người đặt ra rất là kỳ lạ nhưng hết sức lý thú mà họ chắc chưa bao giờ nghe thấy, hoặc tự nghĩ ra hay đặt vấn đề, thì trong Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta cũng thấy thậm chí cả con vật cũng vui mừng nữa: "Bấy giờ con chó đi theo Tobia, chạy về trước, nó vui mừng vẫy đuôi như báo tin", nhất là thầy hai cha con Tobia tốt lành, tin Chúa yêu người: "Cả hai oà lên khóc vì vui mừng". Tại sao thế?

 

Tất nhiên tại vì hai cha con gặp lại nhau sau bao nhiêu ngày xa cách nhớ nhung, một nỗi nhung nhớ đến độ, như được tỏ hiện qua hành động của người mẹ cũng là người vợ của hai cha con này: "Trong những ngày ấy, mỗi ngày bà Anna đến ngồi ở vệ đường bên sườn núi, nơi đó có thể nhìn xa được. Cũng tại chỗ đó, đang lúc bà ngóng chờ con bà trở về, thì bà thấy và nhận ra con bà từ đàng xa đi đến, bà chạy báo tin cho chồng rằng: 'Kìa, con mình đang về tới kia'".

 

Chính vì gặp lại nhau mà cả nhà Tobia đã vui mừng hớn hở như thế thì họ còn vui mừng đến là chừng nào khi thấy ơn Chúa tuôn đổ xuống cho gia đình này, chẳng những trên cá nhân Tobia con đã lấy được người vợ đúng như Thiên Chúa xe định, cũng như trên cả Tobia bố, và tất nhiên bao gồm cả người vợ đã đay nghiến ông đến độ ông muốn chết đi cho xong, nhờ đó, qua những gì bà thấy được ơn Chúa xuống cho ông mà nhận biết Chúa hơn, và ơn đó chính là ơn ông được chính Thiên Chúa, qua trung gian của thiên sứ Raphael của Ngài, chữa lành đôi mắt bị mù lòa của ông, khiến ông đã dâng lên Ngài lời tri ân chúc tụng như sau: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa sửa phạt tôi, và lại cứu chữa tôi; đây chính tôi đang nhìn thấy Tobia con trai của tôi".

 

Phải chăng nhân vật Tobia con, vừa là con của Tobia bố vừa là tác nhân được Thiên Chúa sử dụng chữa lành cho bố, như "Đấng Cứu Thế là con vua Đavít" theo nhân tính, nhưng lại là "Chúa tôi" của vua?! Nhưng dù là Tobia bố, hay Tobia con, hoặc người vợ lắm mồm cay nghiệt của ông, thậm chí cả những ai thân quen của ông, qua sự kiện ông được Thiên Chúa chữa lành, đã như Bài Đọc 1 cho biết: "Rồi ông, vợ ông và những người quen thuộc ca tụng Chúa", những lời ca tụng chắc hẳn đã phản ảnh Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa, tôi sẽ ngợi khen Chúa suốt cả cuộc đời, bao lâu còn có thân tôi, tôi còn ca ngợi Chúa.

2) Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù.

3) Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.

4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi, quả phụ và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.

 

 


Thánh Marcellino và Phêrô, Tử Đạo (304)

 

Ngày 2/6

 

MarcellinusAndPeter.jpg

Dường như không có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai Thánh Tử đạo Marcellino và Phêrô cả. Lịch sử chép rất vắn tắt về đời sống hai Thánh Marcellino và Phêrô Tử đạo. Các ngài được phúc Tử đạo dưới thời hoàng đế Diocletiano.

Theo truyền thuyết, Marcellino là một Linh mục chuyên lo việc dạy giáo lý và Rửa tội cho tân tòng. Ngài nhiệt thành dạy đạo và đem nhiều người trở lại với Chúa, nên bị những kẻ thờ thần ganh ghét, tố cáo.

Còn Phêrô là một người trừ quỷ nổi tiếng ở La Mã. Thánh nhân đã cứu nhiều người khỏi ma quỷ ám hại, do đó, họ tin theo Chúa.

Nhờ được ơn trừ quỷ, Thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại cũng có nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Những người phù thủy ghen tương vì bị mất quyền lợi. Thế là cả hai vị Thánh đều bị tố giác, dưới thời hoàng đế Diocletiano bắt đạo. Tỉnh trưởng Serene ra lệnh tống giám Ngài. Bạn ông là Antemi có đứa con gái bị quỷ ám. Nghe biết Phêrô có quyền trừ quỷ, ông giới thiệu bạn mình tới ngục thất để gặp Thánh nhân. Gặp ông, Thánh nhân khuyên nhủ ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho rằng Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao Thánh nhân cứu nổi con ông được. Rồi ngay đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì Thánh nhân đã có mặt ở nhà Antemi. Cả gia đình Antemi bỡ ngỡ và xin theo đạo. Paulina, con gái Antemi được lành bệnh. Từ đó gia đình Antemi thành nơi tụ tập của các tín hữu, Phêrô thường hay lui tới dạy đạo và Rửa tội cho các tân tòng.

Tức giận, Sereno ra lệnh hành hạ hai Thánh nhân một cách dã man rồi giam ngục tối, nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các ngài cho chết. Tuy nhiên Chúa đã giải thoát cho các ngài trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng được chịu phép Rửa tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sereno ra lệnh giết cả gia đình ông.

Các ngài chịu thống khổ vì Chúa bao nhiêu, thì cũng được an ủi, được phần thưởng lớn lao bấy nhiêu, như Linh mục Origene xác quyết: “các sự thống khổ của Đức Kitô tràn đến chúng ta thế nào, thì nhờ Đức Kitô, sự an ủi chúng tôi cũng được tràn đầy thế ấy. Nếu vậy, thì chúng ta hãy hăm hở nhận lấy những sự thống khổ của Đức Kitô; và ước gì chúng tràn đến trên chúng ta, nếu chúng ta muốn được đầy tràn an ủi, bởi vì ai khóc lóc sẽ được an ủi, nhưng không bằng nhau cho hết mọi người đâu. Bởi vì, nếu sự an ủi bằng nhau cho hết mọi người thì đã không có lời chép rằng: Các sự thống khổ của Đức Kitô tràn đến chúng tôi thế nào thì sự an ủi chúng tôi cũng được đầy tràn thế ấy.

Sự chia sẻ những thống khổ của Đức Kitô thì tương đương với sự thống khổ mà họ chịu với Người. Điều này bạn hãy nghe Đấng đã nói rất tin tưởng rằng: chúng tôi biết rằng anh em đã thông phần thống khổ thế nào, thì cũng được thông phần an ủi thế ấy.

Các ngài bị hành hình khổ sở và giam trong ngục tối. Cuối cùng, khoảng năm 304, hai Thánh Marcellino và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành án quyết, đao phủ Dorote đã thấy linh hồn hai ngài bay về trời. Quá xúc động ông đã xin tòng giáo và qua đời cách lành Thánh. Còn xác hai Thánh nhân được chôn cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.

Khi Giáo Hội được sống trong an bình, hoàng đế Constantin cho xây trên mộ hai ngài một đại Thánh Đường rất nguy nga trên con đường Via Merulana, nằm giữa đại Thánh Đường Đức Bà Cả và Đền Thờ Laterano. Chính nơi đây hoàng đế đã cho chôn cất mẹ ngài. Tên hai Thánh nhân đã được nhắc đến trong lễ quy Roma.

Lạy Chúa, khi ban ơn cho hai Thánh Tử đạo Marcellino và Phêrô cùng anh dũng tuyên xưng đức tin, Chúa đã cho chúng con nghiệm thấy rằng: Chúa hằng gìn giữ che chở Giáo Hội. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Nguồn: Hạnh Các Thánh

https://danchuahiepthong.wordpress.com/2017/06/02/thanh-marcellino-va-phero-tu-dao-304/

Không có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai thánh tử đạo Marcellino và Phêrô cả. Các Ngài được phúc tử đạo dưới thời Diocletianô.

 

Thánh Marcellino được ơn tử đạo còn thánh Phêrô được ơn trừ quỉ.

 

Nhờ được ơn trừ quỉ, thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại cũng có nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Tỉnh trưởng Sêrênô ra lệnh tống giam Ngài. Bạn ông là Antêmi có đứa con gái bị quỉ ám. Nghe biết Phêrô có quyền trừ quỉ, ông giới thiệu bạn mình tới ngục thất để gặp thánh nhân. Gặp ông, thánh nhân khuyên nhủ ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho rằng: Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao thánh nhân cứu nổi con ông được. Rồi ngay đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì thánh nhân đã có mặt ở nhà Antêmi. Cả gia đình Antêmi bỡ ngỡ và xin theo đạo. Paulina, con gái Antêmi được lành bệnh. Từ đó gia đình Antêmi thành nơi tụ tập thường hay lui tới dạy đạo và rửa tội cho các tân tòng.

 

Tức giận, Sêrênô ra lệnh hành hạ hai thánh nhân một cách dã man rồi giam ngục tối, nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các Ngài cho chết. Tuy nhiên Chúa đã giải thoát cho các Ngài trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng được chịu phép rửa tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sêrênô ra lệnh giết cả gia đình ông.

 

Cuối cùng hai thánh nhân Marcellinô và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành án quyết, đao phủ Đorotê đã thấy linh hồn hai Ngài bay về trời. Quá xúc động ông đã xin tòng giáo và qua đời cách lành thánh. Còn xác hai thánh nhân được chôn cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.

 

Khi Giáo hội được sống trong an bình, người ta xây cất trên mộ hai Ngài một thánh đường rất nguy nga. Tên Hai thánh nhân đã được nhắc đến trong lễ quy Roma.

 

http://conggiao.info/thanh-marcellino-va-phero-tu-dao-304-d-16084

Ca hiệp lễ, lễ chung các thánh tử đạo có ghi:” Anh em đã một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp gian nan thử thách. Vì thế, Thầy sẽ ban quyền cai trị cho anh em, để anh em  được đồng bàn ăn uống với Thầy,  trên vương quốc của Thầy”( Lc 22, 28-30 ). Thánh Marcellinô và Phêrô là những chứng nhân cho Chúa, đã đổ máu đào để minh chứng cho tình yêu của Chúa.

 

THÁNH MARCELLINÔ VÀ THÁNH PHÊRÔ:

Lịch sử không ghi lại nhiều về hai thánh này, người ta chỉ biết rõ rằng thánh Phêrô được đặc ân Chúa ban cho trừ quỉ, Ngài đã làm nhiều phép lạ do tình thương của Chúa, xua trừ ma quỉ ra khỏi nhiều người bị chúng ám hại. Tiếng tăm của Ngài được loan truyền khắp nơi, Ngài đã thu hút được nhiều thành phần trong xã hội, có nhiều người mộ mến Ngài, nhưng cũng lắm kẻ ghen ghét, ganh tỵ, hận thù Ngài vì Ngài được nhiều người quí mến, yêu chuộng. Thánh nhân đã sống đúng lời Chúa:” Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”  ( Mc 8, 35 ). Chính vì Ngài có ảnh hưởng rộng lớn và lôi cuốn được nhiều người  theo Chúa. Viên tỉnh trưởng Sérène bắt Ngài và ra lệnh tống ngục Ngài. Trong tù, thánh nhân đã làm gương sáng: sống hiền lành, khiêm nhượng, làm phép lạ và đời thánh thiện của Ngài đã làm cho cả gia đình Antêmi trở lại theo Chúa do phép lạ thánh nhân đã chữa khỏi bệnh cho con gái Antêmi.

Thánh Marcellinô cũng bị tống ngục vì tội rao giảng và tội làm phép lạ, tội rửa tội cho nhiều tân tòng. Thánh nhân dù bị tù tội, dù bị tra tấn dã man vẫn một lòng kiên trung rao giảng, dậy giáo lý và tiếp tục rửa tội cho nhiều người.  Tỉnh trưởng Sérène quá bực tức vì tinh thần kiên cường của hai thánh nhân, nên đã dùng nhiều cực hình dã man nhất, tàn bạo nhất hầu làm nhụt chí hai vị, nhưng” vàng thử lửa, gian nan thử đức”. Hai vi thánh vẫn kiên trì theo Chúa và không hề nản lòng, nhụt chí. Chúa đã sai các thiên thần ban đêm đến giải cứu các Ngài để các Ngài củng cố niềm tin cho các tân tòng. Tỉnh trưởng Sérène nghi ngờ Antêmi đã tiếp tay để thánh Phêrô và Marcellinô trốn ngục, nên đã hạ lệnh giết cả gia đình của Antêmi.

 

CHÚA THƯỞNG CÔNG HAI THÁNH MARCELLINÔ và PHÊRÔ:

Thánh vịnh 33, 18 có viết:” Người công chính kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn”. Thánh Marcellinô và Phêrô đã được phúc tử đạo vào năm 304. Khi chém đầu các Ngài, tên đao phủ Đôrôtê đã trông thấy linh hồn các Ngài bay về thiên quốc. Ông đã hối hận, xin trở lại, chịu phép rửa và chết bình an trong tay Chúa.

 

“Lạy Chúa, khi ban ơn cho hai thánh tử đạo Marcellinô và Phêrô cùng anh dũng tuyên xưng đức tin, Chúa đã cho chúng con nghiệm thấy rằng:” Chúa luôn gìn giữ chở che Giáo Hội”. Vì lời hai thánh nguyện giúp cầu thay, xin cho chúng con được bắt chước các Ngài luôn giữ vững niềm tin như thế “( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Marcellinô và Phêrô tử đạo ).

 

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang6/Ngay2.htm

 

 

 

 Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Tob 12, 1-5.20

"Tôi phải trở về cùng Ðấng đã sai tôi; còn các ngươi hãy chúc tụng Thiên Chúa".

Bài trích sách Tobia.

Trong những ngày ấy, Tobia kêu con trai lại và hỏi rằng: "Chúng ta phải tặng cái gì cho người thánh thiện đi với con?"

Rồi cả hai cha con gọi thiên thần đến và đưa người ra chỗ riêng và xin người vui lòng nhận một nửa những gì đã mang về.

Bấy giờ người bảo nhỏ hai cha con rằng: "Các người hãy chúc tụng Chúa trời, và tuyên xưng Người trước mặt mọi sinh vật, vì người tỏ lòng từ bi đối với các người.

Bởi chưng, giữ kín sự bí mật của nhà vua là một việc tốt, nhưng công bố và tuyên xưng các kỳ công của Thiên Chúa là một vinh dự, cầu nguyện, ăn chay, bố thí, thì tốt hơn là cất giấu kho vàng, vì việc bố thí cứu khỏi chết, tẩy sạch tội lỗi, mang lại lòng từ bi và sự sống đời đời.

Còn những ai phạm tội và làm điều gian ác, thì là thù địch của linh hồn mình.

Vậy tôi tiết lộ cho các người biết sự thật, và không giữ kín câu chuyện bí mật với các người nữa: Khi ông than khóc cầu nguyện, chôn xác kẻ chết, bỏ cơm trưa, và ban ngày giấu xác chết trong nhà, rồi ban đêm mang đi chôn, chính tôi đã dâng lời nguyện của ông lên cùng Chúa.

Và vì ông đã được đẹp lòng Chúa, nên cần phải có thử thách để thanh luyện ông.

Nay Chúa sai tôi đến để chữa ông và cứu Sara con dâu của ông khỏi ma quỷ.

Vì tôi là thiên thần Raphael, một trong bảy thiên thần chầu chực trước mặt Chúa.

Vậy đã đến lúc tôi phải trở về cùng Ðấng đã sai tôi; còn các người hãy chúc tụng Thiên Chúa và cao rao mọi việc kỳ diệu của Người".

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tob 13, 2, 6, 7, 8

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa cao cả muôn đời. (1b)

Xướng 1) Chúa trừng phạt, rồi Chúa lại tha thứ; Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát khỏi tay Chúa. - Ðáp.

2) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những việc làm của các ngươi. - Ðáp.

3) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm tội. - Ðáp.

4) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực hiện sự công chính trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với các ngươi. - Ðáp. 

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 38-44

"Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn". Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".

Ðó là lời Chúa.

 



Suy Niệm Cảm Nghiệm

                                                                                                          

tận cùng sự sống


Suy Niệm

 

 

Phụng vụ Lời Chúa cho Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên hôm nay với bài Phúc Âm cuối cùng của Thánh ký Marco (12:38-44) là Phúc Âm có 16 đoạn được Giáo Hội chọn đọc cho 9 tuần đầu của Mùa Thường Niên, và cũng là đoạn áp cuối của Sách Tobia (12:1-5,20) ở Bài Đọc 1. Chưa hết, hôm nay bài Đáp Ca không được trích từ Thánh Vịnh như thường thấy mà lại được trích từ đoạn cuối cùng của chính Sách Tobia. 

Trước hết, bài Phúc Âm được Thánh ký Marcô thuật lại nhận định của Chúa Giêsu cho dân chúng biết về thành phần "luật sĩ" và lời khuyên dạy của Người giành cho "các môn đệ" về hành động dâng cúng chẳng là gì của một bà góa. 

Đây là một cảnh tượng trái nghịch nhau được Thánh ký Marco ghép lại từ hai trường hợp hoàn toàn tương phản nhau, giữa thành phần luật sĩ thông thái và bà góa đơn nghèo quê mùa. 

Trước hết Chúa Giêsu đã nặng lời chê trách và cảnh báo thành phần thông luật trước mặt công chúng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn". Trong phán quyết này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người có nhắc đến thành phần "các bà góa", trong đó có một bà góa được Người sử dụng để khuyên dạy các môn đệ của Người:

"Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: 'Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống'".

Quả thật là thế, sở dĩ bà góa được Chúa Giêsu nói đến và khen tặng như một tấm gương sáng cho các môn đệ "bỏ nhiều hơn hết", hơn cả "lắm người giầu bỏ nhiều tiền" hơn bà nữa, là vì trong khi các người khác, nhất là các người giầu "bỏ của mình dư thừa", thì người đàn bá góa ấy lại "đang túng thiếu", nhưng bất chấp túng thiếu, thậm chí chẳng cần khôn ngoan, hành động đến như điên dại, ở chỗ bà "đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".

Tinh thần và hành động của bà góa này đúng là anh hùng trước nhan Chúa hơn là trước mặt người đời, nhất là trước mặt thành phần giầu sang phú quí, thành phần có thể còn tỏ ra khinh bỉ bà nữa là đằng khác. Bà góa này vốn nghèo còn có thể càng nghèo hơn nữa bởi sự bóc lột của thành phần luật sĩ bị Chúa Giêsu vạch mặt trong bài Phúc Âm: "Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá". 

Thế nhưng, trước nhan Chúa, bà lại giầu sang hơn ai hết, vì bà có một sự sống nội tại siêu việt trên cả thành phần thông luật Chúa hơn bà, thành phần có thể đã bóc lột tiền bạc ngặt nghèo của bà. Chính đức tin của  và lòng trông cậy hoàn toàn vào Chúa của bà đã khiến bà có những hành động phi thường trổi vượt đáng khâm phục. Bà đã biết lợi dụng tiền bạc chẳng là bao của mình để trả về cho Chúa tất cả những gì Ngài ban cho bà. Sự sống của bà do Chúa ban không thể lệ thuộc vào tiền bạc để sống hơn là vào chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên bà và ban sự sống cho bà.

 

Cảm Nghiệm

 

 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo lối sống giả hình của thành phần luật sĩ là những kẻ đóng vai thày dạy của dân chúng, và đã lên tiếng khen bà góa bỏ tiền vào đền thờ với tất cả tấm lòng chân tình của mình đối với Thiên Chúa. Bài Đọc 1 hôm nay cũng chứng thực những gì Chúa Giêsu đã tỏ ra với cả thành phần luật sĩ giả hình cùng tham lam lẫn bà góa đầy lòng tin tưởng và quảng đại, ở câu được vị thiên sứ Raphael nói riêng với 2 cha con Tobia thế này: "Cầu nguyện, ăn chay, bố thí, thì tốt hơn là cất giấu kho vàng, vì việc bố thí cứu khỏi chết, tẩy sạch tội lỗi, mang lại lòng từ bi và sự sống đời đời".

 

Chính vì bà góa trong Bài Phúc Âm hôm nay tin tưởng vào Chúa đến độ ký thác cả sự sống của mình cho Ngài, và Tobia bố cũng hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, đến độ bất chấp nguy hiểm với bản thân mình trong việc bác ái chôn cát kẻ chết đồng hương không thể không làm, mà cả hai đã trở nên cao trọng trước nhan Thiên Chúa, nghĩa là đã được Ngài nâng lên. Nếu bà góa trong Bài Phúc Âm hôm nay đã trở nên cao trọng trước nhan Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô bấy giờ, và đã được Ngài, qua Con của Ngài, nâng lên làm gương cho cả thành phần môn đệ của Người vồn hơn bà về vai trò và quyền thế của các vị, thì nhân vật Tobia cha cũng thế, như lơờ thiên sứ Rapheal đã tiết lộ cho ông biết chính vị ông đẹp lòng Thiên Chúa mà Ngài đã thanh luyện ông để ông sinh hoa trái hơn, nơi nhận thức mới của vợ ông về ông, nơi cả lời cầu của con dâu ông, bao gồm cả con trai ông lấy được vợ theo ý Chúa:

 

"Vậy tôi tiết lộ cho các người biết sự thật, và không giữ kín câu chuyện bí mật với các người nữa: Khi ông than khóc cầu nguyện, chôn xác kẻ chết, bỏ cơm trưa, và ban ngày giấu xác chết trong nhà, rồi ban đêm mang đi chôn, chính tôi đã dâng lời nguyện của ông lên cùng Chúa. Và vì ông đã được đẹp lòng Chúa, nên cần phải có thử thách để thanh luyện ông. Nay Chúa sai tôi đến để chữa ông và cứu Sara con dâu của ông khỏi ma quỷ".

 

Tâm tình đầy xác tín của Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ chính sách Tobia, và cũng chính là lời nguyện của nhân vật Tobia bố dâng lên Thiên Chúa, thật là thấm thía, hết sức đáng cho chúng ta suy nghĩ, chấp nhận và noi gương bắt chước ông để suốt cuộc hành trình đực tin trần thế của Kitô hữu chúng ta bao giờ cũng thế: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống", như Chúa Kitô đã mạc khải trong Bài Phúc Âm Thứ Tư tuần này.

 

1) Chúa trừng phạt, rồi Chúa lại tha thứ; Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát khỏi tay Chúa.

2) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những việc làm của các ngươi.

3) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm tội.

4) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực hiện sự công chính trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với các ngươi.

 

 

Ngày 3 tháng 6

Thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

St.Ca-rô-lô Loan-ga

 
Cùng với hai mươi hai vị tử đạo U-găng-đa này, trang sử về các Chứng Nhân Tử Đạo những thế kỷ đầu lại tái diễn. Rất nhiều vị trong số đó chỉ mới là Ki-tô hữu được ít lâu. Bốn vị trong số đó được thánh Ca-rô-lô Loan-ga thanh tẩy ngay trước lúc hành hình. Phần lớn các vị bị thiêu sống ở Nu-mun-gun-gô (năm 1886) thuộc lớp tuổi từ mười sáu đến hai mươi bốn. Vị trẻ nhất tên là Ki-di-tô mới có mười ba tuổi.

 

Vinh quang của các vị tử đạo là dấu chỉ về một cuộc tái sinh

Trích bài giảng của đức giáo hoàng Phao-lô VI trong lễ phong thánh các vị tử đạo U-găng-đa.

Các vị tử đạo Phi Châu này đã thêm một trang mới vào Danh Bộ Các Thánh Tử Đạo, vào cuốn sổ ghi tên những người chiến thắng. Trang sách đó cho thấy những sự việc vừa bi thảm, lại vừa cao đẹp. Chúng tôi coi đó là trang sử xứng đáng tiếp nối những bài tường thuật hiển hách về Châu Phi ngày xưa. Chúng ta, những con người của thời đại hôm nay, những người kém lòng tin, chúng ta vẫn tưởng rằng sẽ không bao giờ lại có những trang sử hùng tráng như xưa.

Thánh Âu-tinh và nhà thơ Pơ-ru-đen-xi-ô đã kể lại những thành tích đầy xúc động của các vị tử đạo ở Si-li-um, ở Các-tha-gô, và của các vị tử đạo trong “Đoàn Người Trắng thành U-ti-ca” (300 vị chết trong hầm vôi đang sôi). Thánh Gio-an Kim Khẩu thì hết lời tán dương các vị tử đạo Ai-cập. Những thành tích của tất cả các vị vừa được nhắc đến cùng với thành tích của các vị tử đạo trong cuộc bách hại của những người Văng-đan xưa, ai có thể ngờ rằng thời nay lại được tiếp nối bởi những câu chuyện mới không kém nét hào hùng, không kém phần hiển hách.

Phi Châu ngày xưa có các vị đại tử đạo và các bậc chứng nhân đức tin, những nhân vật nghìn năm không quên như thánh Síp-ri-a-nô, thánh Phê-li-xi-ta, thánh Pe-pê-tu-a, và nhất là thánh cả Âu-tinh. Trước đây, ai có thể tiên đoán rằng sau các vị đó sẽ có ngày chúng ta còn được kể thêm danh tánh rất thân thương của thánh Ca-rô-lô Loan-ga, thánh Mát-thi-a Mu-lum-ba, thánh Ca-lem-ba và hai mươi đồng bạn tử đạo. Cả những vị thuộc Giáo Hội Anh Giáo đã chịu chết vì danh Đức Ki-tô cũng cần phải được nêu danh nữa.

Các thánh tử đạo Phi Châu nói đây đã mở đầu một kỷ nguyên mới, không phải là kỷ nguyên bách hại và tranh chấp, nhưng là kỷ nguyên tái sinh về cả hai mặt đạo cũng như đời.

Phi Châu đã được tưới gội bằng máu của các vị tử đạo mới này, những vị tử đạo đầu tiên trong kỷ nguyên chúng ta -ước chi cũng là những vị cuối cùng, vì lễ toàn thiêu của các ngài cao quý và đắt giá biết bao !- Phi châu đã được tự do và độc lập. Quả thật, Phi châu đang tái sinh.

Người ta đã nghiền nát các ngài một cách tàn bạo. Thật khủng khiếp, nhưng cũng đầy ý nghĩa, vì sự tàn bạo đó ai cũng thấy là đã làm phát sinh những động lực mạnh mẽ khiến hình thành một dân mới -mới về phương diện đạo đức-. Một nếp sống tinh thần mới phải được kiến tạo để truyền lại cho hậu thế. Nếp sống đó phải là một biểu tượng nói lên sự chuyển biến và phải chuyển biến thật sự. Trước đây là một lối sống đơn sơ mộc mạc, tuy không thiếu những giá trị nhân bản đáng quý, nhưng người ta lại bị ràng buộc trong tình trạng nô lệ chính mình, khiến cho lối sống đó không còn đáng trọng, không đứng vững được nữa. Nay phải bước qua một nền văn minh hướng tới những biểu lộ cao quý nhất của tinh thần con người, tới những hình thái thượng đẳng của cuộc sống xã hội.

Xướng đáp

XKhi chúng ta lâm trận và chiến đấu cho đức tin, có Thiên Chúa chứng giám, có các thiên sứ của Người chứng giám, và cả Đức Ki-tô cũng chứng giám nữa.

ĐÔi vinh hiển dường bao, hạnh phúc biết chừng nào, khi xông vào cuộc chiến mà có Thiên Chúa hiện diện, có Đức Ki-tô làm trọng tài và đội triều thiên cho người chiến thắng.

XTa hãy võ trang cho đầy đủ, và sẵn sàng lâm chiến : tinh thần phải vững mạnh, đức tin phải nguyên tuyền, và đức ái nồng nàn mãnh liệt.

ĐÔi vinh hiển dường bao, hạnh phúc biết chừng nào, khi xông vào cuộc chiến mà có Thiên Chúa hiện diện, có Đức Ki-tô làm trọng tài và đội triều thiên cho người chiến thắng.

Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nảy sinh thêm nhiều Ki-tô hữu, xin cho máu của thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội Thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào. Chúng con cầu xin

 

THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO, (St. Charles Lwanga)

Ngày 03/6

 

Kitô giáo còn hoàn toàn mới lạ đối với Phi châu cho tới khi việc truyền bá đạo Công giáo bắt đầu khai mào từ năm 1879. Các linh mục là những tu sĩ dòng Thừa Sai Phi Châu. Các ngài được mọi người biết đến dưới tước hiệu “các cha áo trắng” vì các ngài mang bộ tu phục màu trắng. Vua Mwanga chẳng biết Kitô giáo rao giảng những gì nhưng ông cảm thấy bực mình khi một tín hữu Công giáo là Giuse Mkasa khiển trách lối sống của ông. Vua đã sát hại một nhóm Kitô hữu và cả vị giám mục thân yêu của họ. Vua cũng can dự vào sinh hoạt đồng tính luyến ái. Ông đặc biệt ưa thích các chú tiểu đồng. Rồi sự bực mình của vua Mwanga trở nên phẫn nộ và căm thù đối với Giuse Mkasa và tôn giáo của anh. Một số giới chức tham tham của nhà vua đã kích động tâm trạng vua với những lời xu nịnh gian trá. Thế là vào ngày 18 tháng Mười Một năm 1885, Giuse Mkasa bị đem ra xử trảm. Cuộc bách hại khủng bố bắt đầu. Trước khi nó kết thúc, hàng trăm người đã bị thiệt mạng. Hai mươi hai người trong số họ được tôn phong lên bậc hiển thánh.

Với cái chết của Giuse Mkasa, Carôlô Lwanga trở thành thầy dạy đạo chính yếu cho các chú tiểu đồng của vua. Vào ngày 26 tháng Năm năm 1886, vua Mwanga nhận thấy một số tiểu đồng của ông là tín hữu Công giáo. Ông cho gọi Đênis Sêbugwawo vào. Ông hỏi có phải Đênis đã dạy đạo cho các tiểu đồng không. Đênis trả lời phải. Nhà vua liền chụp lấy ngọn giáo của mình và phóng xuyên qua cổ họng chàng thanh niên. Rồi ông la lớn tiếng không cho phép ai được rời khỏi tổng hành dinh của ông. Tiếng trống đấu tranh vang lên thâu đêm. Trong một căn phòng kín ẩn, Carôlô Lwanga đã bí mật rửa tội cho bốn chú tiểu đồng. Một em trong bọn trẻ là thánh Kizitô, chú bé mười ba tuổi có tính tình vui tươi quảng đại. Kizitô là người bé nhất trong nhóm. Thánh Carôlô Lwanga thường hay bảo vệ Kizitô thoát khỏi lòng ham muốn dâm dật của vua Mwanga.

Hầu như hai mươi hai vị thánh tử đạo Uganđa này đã bị giết chết vào cùng ngày mùng 3 tháng Sáu năm 1886. Các ngài bị bắt đi bộ chừng năm mươi chín cây số đến nơi hành quyết. Sau ít ngày bị giam tù, người ta ném các ngài vào một đống lửa lớn. Mười bảy người trong số ấy là những chú tiểu đồng thuộc vương gia. Một trong các cậu bé tử đạo là thánh Mbaga. Hôm ấy chính thân phụ ngài là người đao phủ. Một vị tử đạo khác là thánh Anrê Kagwa, mất ngày 27 tháng Giêng năm 1887, cũng ở trong số hai mươi hai vị tử đạo được đức thánh cha Phaolô VI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1964.

 Carôlô Lwanga là thánh bổn mạng của giới trẻ da mầu Phi châu. Ngài và các bạn tử đạo đã hết sức hiểu rõ và quý trọng ơn đức tin của mình. Các ngài đã là những anh hùng! Chúng ta hết thảy hãy cầu xin cùng thánh Carôlô Lwanga và các thánh tử đạo Phi châu này. Hãy xin các ngài chỉ cho chúng ta biết cách làm chứng cho Đức Chúa Giêsu và Giáo hội như các ngài.

http://giaophanvinhlong.net/thanh-carolo-lwanga-va-cac-ban-tu-dao.html




Dân da đen sống ở miền Ouganda, Trung Phi thuở ấy chưa hề nghe đến tên Chúa. Ma quỷ còn thống trị họ với mọi thứ phù phép. Họ chém giết lẫn nhau và ăn thịt nhau nữa. Trẻ em bị bỏ rơi. Đàn bà bị coi như thú vật phải làm việc mệt nhọc và bị sát hại theo sở thích của đàn ông.

Ngày kia hai cha thừa sai Lourdel và Livinhac đến với họ sau một cuộc hành trình đầy cực khổ. Các Ngài đến gặp nhà vua trong chòi của ông và buổi đầu mọi sự tốt đẹp. Các Ngài tận tụy phục vụ. 

 

Dân da đen đã không bao giờ tưởng tượng được điều các vị thừa sai nói cho lại là điều tốt đẹp như vậy: Họ có một người cha trên trời đã yêu thương họ đến nỗi đã ban con mình là Chúa Giêsu đến cứu chuộc họ, và Chúa Giêsu lại chết trên thánh giá đã họ được về trời với Người, như thế họ lại không yêu mến vâng phục Người để được gặp lại Người trong hạnh phúc bất tận sao? Để được như vậy, họ quyết yêu thương nhau theo luật Chúa để nên tốt hơn. Khi đã cố gắng lãnh phép Rửa tội. Chúa Giêsu đổ tràn ơn thánh vào trong lòng họ và kết hợp với họ trong Bàn tiệc Thánh Thể. 

 

Nhà Vua cũng rất thích điều các Cha nói. Những điều các Ngài rao giảng làm cho các phù thủy và bọn người Ả rập buôn người giận dữ. Một thị động bị vu oan và bị thiêu sống. Anh ta xin được rửa tội và đã can đảm chịu cực hình, các nhà thừa sai cảm thấy cơn bách hại đã đến nên vội rửa tội cho những người đã được chuẩn bị rồi rút lui với một số trẻ em các Ngài đã chuộc lại được. Các Ngài rút lui về bờ hồ phía nam, là nơi bệnh đậu mùa đang giết hại rất nhiều người. Số đông trẻ em sắp chết đều được rửa tội. 

 

Các Ngài nói với một em bé 9 tuổi: Hãy cầu nguyện xin Chúa Giêsu cứu chữa con. Nhưng em bé trả lời: – Bây giờ được làm con Thiên Chúa, con không sợ chết nữa. 

 

Được ba năm, nhà vua qua đời, các vị thừa sai trở lại, dân chúng mừng rỡ. Dân được rửa tội trước đã rửa tội cho nhiều người khác nữa. Việc tông đồ khởi sắc nhưng một viên chức của Tân vương đã gieo nghi ngờ đối với các thành quả của các Kitô hữu, nhất là đối với Giuse Mukasa, thủ lãnh các thị đồng, người đã chống lại sự vô luân của ông. Ông ta tâu vua rằng: các Kitô hữu mưu chiếm ngôi vua. Các phủ thủy bảo rằng bọn khởi xướng phải chết. Vua tin họ và Giuse bị thiêu sống. Lý hình muốn trói Ngài lại nhưng Ngài nói: – Tôi chết vì đạo mà lại tìm cách thoát thân sao? Một Kitô hữu không có sợ chết đâu. 

 

Nhà vua nghĩ rằng bản án nầy sẽ làm cho các Kitô hữu khiếp sợ. Trái lại, ngày càng có nhiều người theo đạo. Khi đi săn về, ông gọi tiểu đồng Mwafou 14 tuổi lại, và khi biết rằng em đang học đạo với một thiếu niên tên là Denis, ông truyền dẫn Denis lại, la lớn:

 

Tên nô lệ khốn khiếp, ngươi dạy đạo hả? Và ông dùng lưỡi dao tẩm thuốc độc hạ sát Denis. 

 

Giận dữ đi ra, ông gặp Honôrat và hỏi: – Mày cũng là Kitô hữu hả? – Phải. 

 

Và Hônôrat bị tra khảo, bị xẻ thịt. Bấy giờ vua khám phá ra một tân tòng là Giacôbê và tra gông vào cổ. Về nhà ông thúc trống tập họp các đao phủ lại. Bọn đao phủ và các phù thủy nhảy múa như được thoát khỏi ngục. Ngược lại tại các nhà thị đồng quang cảnh như thần tiên. Carôlô Lwanga, chiến sĩ anh dũng nhất của triều đình đã rửa tội cho em bé Kizitô và ba trẻ em khác, dọn mình cho các em chịu chết cách thánh thiện. 

 

Ngày 28 tháng 5, nhà vua truyền thiêu sống các thị đồng dám cầu nguyện. Mwa-Ga là con một đao phủ. Ba em khẩn khoản xin em trốn đi, nhưng em từ chối. Một chiến sĩ Kitô giáo nói với vua: – Con lên trời và cầu nguyện cho Đức Vua. 

 

Các phạm nhân mạnh dạn tiến đi chịu khổ hình, gặp Pontianô tên đao phủ hỏi anh: – Mày biết cầu nguyện không? 

 

Vừa trả lời "biết" Pontianô bị chém đầu ngay. Những người khác nói: – Ở trên trời Pontianô sẽ cầu nguyện cho chúng ta được can đảm chịu chết. 

 

Các vị tử đạo bị kềm cứng trong gông cùm trong khi người con của đao phủ bị ép đến với cha mẹ. Họ phải đợi sáu ngày để chuẩn bị giàn thiêu, đã đến ngày xử, Mwaga nhảy xổ đến nhập bọn tại pháp trường, các vị tử đạo nói với nhau: – Chính tại nơi đây chúng mình được thấy Thiên Chúa. 

 

Các Ngài bị đặt trên các tấm phên như những cây đuốc sống. Người ta đốt chân các vị tử đạo để mong các Ngài thôi cầu nguyện, nhưng các Ngài đã trả lời: – Còn sống, chúng tôi sẽ không ngừng cầu nguyện. 

Một phù thủy nói với các Ngài: Thiên Chúa sẽ không giải thoát các Ngài đâu. Brunô trả lời: – Ông không đốt cháy linh hồn chúng tôi được đâu, nhưng nó sẽ bay lên thiên đàng. 

 

Giàn thiêu được đốt lên. Lời kinh lạy cha của các thánh còn vượt trên những tiếng la hét man rợ và những tiếng nổ lốp đốp của lò lửa. Người ta biết được là các Ngài đã chết khi hết nghe tiếng các Ngài cầu nguyện. 

 

Ông vua da đen tự nhiên chắc rằng sau tội ác này, chẳng còn bóng dáng Kitô hữu nào trong xứ sở của ông nữa. Nhưng ngày nay, Ouganda có hơn nửa triệu tín hữu.

 
  
 “ Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc, dành sẵn cho các ngươi, ngay từ lúc tạo thành trời đất”( Mt 25, 34 ).Thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo đã làm cho Hội Thánh Ouganda càng lúc càng phát triển. Các Ngài xứng đáng lãnh nhận triều thiên trên trời.
 
HỘI THÁNH OUGANDA ĐƯỢC LỚN LÊN NHỜ MÁU CÁC THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO: 

“ Máu của các Kitô hữu làm nẩy sinh Giáo Hội” hay “ Máu vị tử đạo là hạt giống của các Kitô hữu”. Thánh Carôlô Lwanga luôn khích lệ, động viên các bạn kiên cường, tuyên xưng danh Chúa dẫu có phải hy sinh tới cả mạng sống của mình. Các thánh tử đạo Ouganda thuộc mọi lứa tuổi: có vị như Matthias mới lên 5 tuổi, thánh Kitô mới có 13 và các vị khác lớn hơn từ 16 tới 24 tuổi đời. Các Ngài đã hy sinh thí mạng sống của mình, đã đi con đường đức tin, con đường thập giá, con đường tình yêu như Thầy chí thánh Giêsu, những hình phạt như ném đá, voi dày, đòn vọt, gông cùm, xiềng xích không làm  chùn bước các Ngài. Các Ngài đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa:”Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác, ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá”( 1Co 2, 2 ) .   Hai mươi hai thánh tử đạo Ouganda trong đó có bốn vị chưa được chịu phép rửa tội, thánh Carôlô đã động viên, dậy dỗ và rửa tội cho họ trước khi các Ngài được phúc tử đạo. Hội Thánh Ouganda chỉ thực sự được phát triển và lớn mạnh nhờ máu của các vị tử đạo mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.
 
CHÚA THƯỞNG CÔNG CÁC NGÀI:
 
Cảm nghiệm sâu xa lời sách khải huyền:” Ai thắng, Ta sẽ cho ăn quả cây sự sống, trồng ở trên thiên đàng của Thiên Chúa”( Kh 2, 7 ). Thánh Carôlô Lwanga  và hai mươi mốt bạn được phúc tử đạo, đã lãnh triều thiên nước trời. Chúa thưởng công các Ngài, Giáo Hội trần thế tôn vinh các Ngài. “Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nẩy sinh thêm nhiều Kitô hữu. Xin cho máu của thánh Carôlô Lwanga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội Thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo ).

https://ditimchanly.org/sach-kinh-thanh/truyen-cac-thanh/thanh-carolo-lwanga-va-cac-ban-tu-dao-0306.html
 

Gương thánh nhân: Năm 1880, giữa lúc dân nước U-găn-đa còn sống trong lầm lạc, thờ lạy bụt thần, thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn đã đem đạo Chúa đến cho họ.

Lúc đầu, nhà vua rất vui mừng đón tiếp và sẵn sàng ủng hộ ngài. Nhờ đó, thánh nhân được tự do đi khắp nơi rao giảng cho mọi người biết Chúa. Dân chúng rất cảm kích khi nghe Ngài nói đến sự thương khó và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Họ không thể tưởng tượng được một vị Chúa cả vì thương họ đã bỏ trời sinh xuống làm người nghèo khổ như họ, và chịu chết đóng đinh khổ nục trên thập giá để cứu rỗi họ, đem hạnh phúc đến cho họ. Từ đó họ hết lòng thương mến Chúa và xin lãnh nhận bí tích rửa tội, để thờ kính Đấng đã hết lòng thương mến họ.

Thấy thế, các thầy phù thuỷ và buôn bán nô lệ ghen tức, vì họ bị mất ảnh hưởng, quyền lợi. Họ tố cáo với nhà vua là những người theo đạo Thiên Chúa mưu phản. Sẵn lúc đó, nhà vua đang bực tức vì những người có đạo chỉ trích đời sống vô luân của ông ta. Thế nên ông ta ra lệnh bắt Ca-rô-lô và 18 người Công giáo. Và để cho dân chúng khiếp sợ không còn ai dám theo đạo nữa, ông ta kết án thiêu sống thánh nhân cùng với những người bị bắt. Nhưng thay vì làm cho đạo Chúa bị bế tắc, ông đã giúp cho Châu Phi mở ra một kỷ nguyên mới:” Kỳ nguyên tái sinh về phương diện Tôn giáo và xã hội”, như lời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói, vì máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người có đạo. Chúng ta hãy nghe lời Đức Giáo Hoàng nói, trong dịp lễ phong thánh cho thánh Ca-rô-lo- Loan-ga và các bạn của Ngài:

“Ai có thể đoán được rằng tiếp theo các thánh tử đạo và tu sĩ thời danh ngày xưa ơ Phi châu như: Síp-ri-a-nô, Fê-li-xi-ta và Pê-pê-tu-a, nhất là thánh Aâu-tinh, ngày nay lại có những vị thời danh như Ca-rô-lô- Loan-ga, Mát-thi-a Mô-lum-ba, Ca-len-ba cùng với 20 đồng bạn tử đạo người công giáo. Ta cũng không thể quên những vị khác thuộc Anh giáo đã dám bỏ mạng mình vì danh Chúa Kitô. Các vị tử đạo này của Châu Phi mở ra một kỷ nguyên mới…dĩ nhiên không nên nghĩ là kỷ nguyên cấm đạo và đàn áp tôn giáo mà là kỷ nguyên tái sinh về phương diện tôn giáo và xã hội. Được tưới gội bằng máu của các thánh tử đạo mới này, những tử đạo đầu tiên của thời đại mới ( và ước gí là những tử đạo cuối cùng, vì lẽ, lễ hy sinh của các Ngài thật cao quý! ) một Phi Châu tự do và độc lập đang được tái sinh.

Sự chết bi thảm của các ngài thật quá lạ lùng và ý nghĩa, đến nỗi có thể tìm thấy ở đó đủ những bài học, để kiến tạo một dân mới về lòng đạo đức: xây dựng một truyền thống tinh thần mới để truyền lại cho hậu thế, một truyền thống đủ khả năng tượng trưng diễn tả và đem lại một tiến bộ cho dân tộc, đi từ một nền vănhoá thô sơ có nhiều giá trị nhân bản cao quý, nhưng cũng không tránh khỏi còn hoen ố nhược điểm và phần nào đang đóng kín, hẹp hòi, để tiến tới một nếp sống chân chính cởi mở, thuận lợi cho tinh thần con người có được những bộc lộ cao thượng hơn, và cuộc sống xã hội có được những hình thức cao cấp hơn.”

Quyết tâm:Noi gương thánh Ca-rô-lôLoan-ga, tôi sẵn sàng chịu gian nan khốn khó, để đem Chúa đến cho những người chưa biết Chúa và để làm chứng đạo Chúa là đạo thật.

Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho máu thánh tử đạo làm nảy sinh nhiều Kitô hữu, xin cho máu thánh Loan-ga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào.

http://giaoxutanviet.com/ngay-3-thang-6-thanh-ca-ro-lo-loan-ga-va-cac-ban-tu-dao/

1. Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ

Người ta ấn định ngày này để nhớ đến 22 vị thánh tử đạo Châu Phi da đen, bị giết tại Ouganda giữa 26 tháng 5; 3 tháng 6 năm 1886; và 27 tháng 1 năm 1887. Ngày 3 tháng 6 nhắc lại cuộc tử đạo của Thánh Charles Lwanga và 12 bạn chịu thiêu sống sau khi chịu nhiều cực hình khủng khiếp, tại Rubaga (03.06.1886). Các ngài là những của lễ hy tế đầu tiên trong cuộc bách hại do Mwanga chủ xướng. Ông là vị vua thâm độc và khát máu trong miền Đại Hồ (Grands Lacs). Các ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XV phong chân phước năm 1920 và được Đức Phaolô VI phong hiển thánh năm 1964, nhân chuyến viếng thăm của ngài tại Châu Phi.

Ouganda trước tiên được các linh mục Hội truyền giáo Châu Phi (Pères Blancs) rao giảng Tin Mừng năm 1879. Năm 1882, họ bị đuổi khỏi nơi này, nhưng hai năm sau họ trở lại theo lời yêu cầu của vua Mwanga. Sau đó, chính ông lại bách hại các Kitô hữu hết sức tàn bạo.

Để trả thù, một viên chức bị bắt trong khi âm mưu chống vua Mwanga đã thúc đẩy vua trước hết giết một số Kitô hữu và giám mục Anh Giáo Hannington (1885), bị cáo gian làm gián điệp. Sau đó vua sai chém đầu Joseph Mukusu, trưởng đội những người phục vụ. Họ bị cáo là “những người cầu nguyện” (17 tháng 11 năm 1885).

Charles Lwanga là người đầu bếp mới của triều đình, đã chuẩn bị cho mười hai bạn được phúc tử đạo. Sau khi bị kết án tử hình, các ngài bị dẫn đến địa điểm hành hình ở Kampala. Trong lúc đó, người bạn của vua là André Kagwa, bị chặt đầu rồi hỏa thiêu. Hôm sau, một nhân vật nổi tiếng khác cũng bị giết cách tàn bạo, đó là Matthias K.Mulumba. Các văn kiện của vụ án phong thánh đều ví Matthias K. Mulumba như “đoá hoa đẹp nhất trên chiếc triều thiên” của các thánh tử đạo này.

Sau khi trở lại đạo và chịu phép thánh tẩy, ngài không còn quan tâm đến các danh vọng bổng lộc ban cho ngài với tư cách là nhân vật cao cấp trong triều, ngài nói: “Tôi không phải là một người nô lệ, nô lệ của Đức Giêsu Kitô sao ?”

Sau vài ngày cần thiết chờ đợi để chuẩn bị ra pháp trường và trong khi vài kiếm đồng đã bị giết chết dọc đường, người ta xiềng xích các tù nhân. Người đầu tiên phải lên giàn hỏa thiêu là Charles Lwanga. Rồi những người khác, lần lượt bị thiêu sống. Trong nhóm họ có con trai của người trưởng toán lý hình. Anh không chấp nhận được tha bổng và trả lời cha: “Vua đã ra lệnh cho cha phải giết con. Con muốn chết vì Đức Giêsu Kitô”. Jean-Marie Jamari được mệnh danh là bậc “tiền bối” do bởi dáng vẻ oai nghi trang trọng và luôn sẵn sàng giúp đỡ người thân cận, hai năm sau cũng bước theo các bạn tử đạo của mình; ngài bị nhấn chìm trong hồ ngày 27 tháng 1 năm 1887.

Do đó, thật xứng đáng khi Đức Piô XI công bố Charles Lwanga là thánh Bảo Trợ cho Công Giáo Tiến Hành và giới trẻ châu Phi.

2- Thông điệp và tính thời sự

a. Lời nguyện trong ngày lễ được mở đầu bởi câu nói danh tiếng của Tertullien, cũng là một giáo dân châu Phi: “Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nảy sinh thêm nhiều Kitô hữu...” và lời nguyện tiếp theo: “Xin cho máu của thánh Lwanga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”.

Nhân chuyến hành hương sang châu Phi năm 1964, Đức Phaolô VI đã cử hành Thánh lễ phong thánh trên các hũ đựng di hài các thánh tử đạo. Như thế Ngài lặp lại truyền thống của thánh Cyprien là cử hành hy tế Tạ Ơn trên các mộ thánh tử đạo thành Carthage. Như để nhấn mạnh câu nói danh tiếng của Tertullien, Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng các tân thánh tử đạo này của châu Phi như thêm một mắc xích mới vào chuỗi các vị tử đạo của châu Phi xưa: “Thánh Augustinô và nhà thơ Prudence đã kể lại những thành tích đầy xúc động của các vị tử đạo ở Scillium, ở Carthage, và của các vị tử đạo trong “Đoàn Người Trắng thành Utique” (300 vị chết trong hầm vôi đang sôi). Thánh Gioan Kim Khẩu hết lời tán dương các vị tử đạo Ai-cập, cùng với thành tích của các vị tử đạo trong cuộc bách hại của những người Vandales xưa…”

b. Lời nguyện trên lễ vật gợi lại việc các thánh tử đạo trẻ tuổi đã từ chối và chống lại những lời khiếm nhã của Đức vua, họ thà chết hơn là phạm tội. Như thế, họ làm sống dậy các hành vi và cử chỉ của các thánh tử đạo vào những thế kỷ đầu tiên trong lòng Giáo hội trẻ trung vừa được rao giảng Tin Mừng từ thế kỷ XIX.

c. Lời nguyện hiệp lễ giúp chúng ta nắm được ý nghĩa hiện thực của ngày lễ nhớ các thánh tử đạo Ouganda. “Chính trong hy lễ Tạ Ơn mà các ngài đã tìm được sự dũng cảm để chịu đựng các nỗi cực hình”. Chúng ta cũng thế, giữa muôn vàn thử thách, chúng ta sẽ nhận lấy, trong mầu nhiệm hy lễ Tạ Ơn, một niềm tin và lòng bác ái tinh tuyền, không khiếm khuyết.

Enzo Lodi

Nguồn: https://www.tonggiaophanhanoi.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/11592-ngay-03-6-thanh-ca-ro-lo-loan-ga-va-cac-ban-tu-dao-1886-1887.html