SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XI Thường Niên A


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật

 

Bài Ðọc I: Ed 17, 22-24

"Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp".

Trích sách ngôn sứ Êdêkien.

Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau:

Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non; chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi. Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en.

Nó sẽ trổ cành và kết trái thành một cây hương bá huy hoàng. Muông chim đến nương mình bên nó, và ẩn thân dưới bóng lá cành. Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.

Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp, Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo được xanh tươi.

Chính Ta là Ðức Chúa, Ta đã phán là Ta thực hiện.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 91, 2-3.13-14.15-16

Ðáp: Lạy Chúa, hạnh phúc thay được tạ ơn Ngài (c. 2a).

Xướng: 1) Thú vị thay được tạ ơn Chúa, được mừng hát danh Ngài, lạy Ðâng Tối Cao, được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya. - Ðáp.

2) Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Li-băng được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa Ta. - Ðáp.

3) Già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn, để loan truyền rằng: Chúa thực là ngay thẳng, là núi đá cho tôi ẩn náu, nơi Người chẳng có chút bất công. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2Cr 5,6-10

"Dù còn ở trong thân xác, hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Chúa".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.

Thưa anh em, chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa... Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa. Nhưng, dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Người. Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước tòa Ðức Ki-tô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Hạt giống là lời Thiên Chúa, người gieo giống là Ðức Ki-tô. Ai tuân giữa lời Người, sẽ muôn đời tồn tại. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 4,26-34

"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác-cô.

Khi ấy, Ðức Giêsu nói với dân chúng dụ ngôn này: "Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Ðêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Ðất tự động sinh hoa kết quả: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng là thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm ra gặt, vì đã đến mùa."

Rồi Người lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại nhỏ nhất trong các hạt giống trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng."

Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà giảng lời cho họ, tùy theo mức họ có thể nghe. Người không bao giờ nói với họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mk 4,26-34

 

Đức Tin Sự Sống 

 

Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật Thường Niên XI B tiếp tục chiều hướng "sự sống" từ Mùa Phục Sinh, nơi bài Phúc Âm theo Thánh Marco (4:26-34), bài đọc 1 theo Sách Tiên Tri Êzêkiên (17:22-24), bài đọc 2 theo Thư 2 Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Côrintô (5:6-10) và cả bài Đáp Ca trích Thánh Vịnh (91: 2-3,13-14,15-16).

Thật vậy, chiều hướng sự sống ở trong bài Phúc Âm được chất chứa nơi hai dụ ngôn Chúa Giêsu dạy về Nước Trời, một liên quan đến "đất" và một liên quan đến "hạt cải". 

Sở dĩ "đất" liên quan đến "sự sống" là vì nó là yếu tố ngoại tại, yếu tố về môi sinh bất khả thiếu cho mầm mống sự sống ở nơi "hạt giống" được Chúa Giêsu nói đến trong dụ ngôn thứ nhất. Bởi thế, chính Người là Đấng gieo "hạt giống" mạc khải thần linh "dù thức hay ngủ", nghĩa là không cần biết, cũng nắm chắc được việc đâm chồi nẩy sinh và phát triển của "hạt giống".  

"Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa".

Vì "đất" bẩm sinh đã được ban cho khả năng thích ứng vào việc phụ giúp "hạt giống" cũng là việc phụ giúp cho chính việc nẩy mầm và phát triển của "sự sống": "Đất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".  

"Đất" đây ám chỉ nhân tính của con người là nơi để đón nhận mạc khải thần linh. Thế nhưng, dù là một trong hai yếu tố bất khả thiếu và bất khả phân ly với "hạt giống", "đất" vẫn không phải là yếu tố chính, yếu tố quan trọng nhất. Bởi nó được dựng nên như là một phương tiện cho "sự sống", như thân xác đối với linh hồn vậy, và "đất" ám chỉ thế gian nói chung và cá nhân con người nói riêng, nhờ liên hệ với hạt giống, được phát triển và vươn cao theo tầm vóc của hạt giống, một tầm vóc nó không thể nào có nếu không có hạt giống ở nơi nó. 

Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói ngay đến dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn về "hạt cải", yếu tố chính yếu và then chốt của sự sống, một yếu tố ám chỉ chẳng những mạc khải thần linh mà còn ám chỉ đức tin nữa. Mà đức tin là những gì siêu nhiên, vượt trên tự nhiên, giác quan, tình cảm và lý trí của con người vốn là những gì không thể với tới, nên không lạ gì "hạt cải" được Chúa Giêsu ví như "hạt nhỏ nhất trong các hạt giống": "Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất".  

Tuy nhiên, trong đời sống siêu nhiên, càng nhỏ lại càng lớn, càng nhỏ mới càng lớn. Nếu "Nước Thiên Chúa" ám chỉ mạc khải thần linh, thì "hạt cải" đây ám chỉ chinh Chúa Giêsu Kitô, một thứ hạt "nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất", ở chỗ Nhập Thể và Vượt Qua: "Tuy thân phận là Thiên Chúa nhưng Người vẫn không tự coi mình cứ phải ngang hành với Thiên Chúa mới được, trái lại, Người đã hóa ra như không, mặc lấy thân phận tôi đòi... đã vâng lời cho đến chết cho dù có phải chết trên thập tự giá" (Philiphê 2:6-8).  

Chính vì "hạt cải" Giêsu Kitô quá ư là nhỏ bé như vậy, đến độ loài người không nhìn thấy, không nhận biết Người là ai, nên đã ra tay sát hại Người, chà đạp Người dưới chân của họ, mà "hạt cải" thần linh này, như hạt lúa miến mục nát đi trong lòng đất (xem Gioan 12:24), để rồi nhờ đó, như dụ ngôn trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, đã "mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được", đúng như cảm nhận đầy xác tín được Thánh Phaolô tuyên xưng rằng: "Bởi thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Để khi nghe tên Giêsu thì mọi sự trên trời dưới đất và trong lòng đất phải bái gối mà tung hô vinh quang Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Philiphê 2:9-11). 

Ý nghĩa của dụ ngôn liên quan đến sự kiện hạt cải nhỏ nhất "mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được" còn có thể hiểu về Giáo Hội Chúa Kitô là Nhiệm Thể của Người, nhờ Người mà "mọc lên thành cây rau lớn nhất" cả về phẩm lẫn lượng so với các tôn giáo chính yếu trong lịch sử thế giới, một Kitô giáo được chính Chúa Kitô thiết lập (xem Mathêu 16:16), mà càng bị bách hại liên tục trong lịch sử loại người ở khắp nơi trên thế giới lại càng phát triển, đến độ "đâm những cành to"có thể ám chỉ các Giáo Hội địa phương hay các vị thánh trong lịch sử Giáo Hội, những Giáo Hội hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ luôn là bí tích cứu độ trần gian, thành một nơi an toàn cho phần rỗi cho "chim trời có thể tới núp bóng được". 

Dụ ngôn Chúa Giêsu sánh ví Nước Thiên Chúa hạt cải trong bài Phúc Âm hôm nay ám chỉ Giáo Hội của Người phát triển trong giòng lịch sử của loài người cũng đã được Tiên Tri Êzêkiên loan báo ở bài đọc thứ nhất hôm nay liên quan đến cây hương bá như sau: "Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi Israel, nó sẽ đâm chồi, kết quả, và trở thành cây hương nam vĩ đại; các thứ chim trời đều đến ẩn náu dưới thân cây và làm tổ dưới tàn nó". 

Thế nhưng, "cây hương nam vĩ đại" được Thiên Chúa hứa "trồng trên đỉnh núi Israel" đây từ là gì, nếu không phải là chính Đức Giêsu Kitô Thiên Sai! Thật vậy, "cây hương nam vĩ đại" này xuất phát "từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót", như câu đầu bài Đọc I hôm nay cho biết. Nếu "cây hương bá cao chót vót" đây ám chỉ đức tin của tổ phụ Abraham thì ngọn đây của d8ức tin tổ phụ này chính là Đức Giêsu Kitô miêu duệ của ông, một ngôi vị thần linh miêu duệ sẽ được sai đến với dân Do Thái nói riêng cũng như với nhân loại nói chung như chính Ngài đã hứa với vị tổ phụ này, một lời hứa được ám chỉ là "đỉnh núi Israel", nhờ Người mà cả dân Do Thái lẫn dân ngoại sẽ được cứu độ khỏi tội lỗi và sự chết, được ám chỉ nơi hình ảnh "các thứ chim trời đều đến ẩn náu dưới thân cây và làm tổ dưới tàn nó", nghĩa là Người "đã trở thành nguồn mạch cứu độ cho những ai tín phục vào Người" (Do Thái 5:9). 

Đúng thế, ơn cứu độ của Chúa Giêsu Kitô theo nguyên tắc là ban cho chung nhân loại khi Người hoàn tất cuộc Vượt Qua nơi chính bản thân mình. Thế nhưng, chỉ những ai tín phục Người mới được hưởng ơn cứu độ của Người mà thôi (xem cả Gioan 1:12). Bởi vậy mà trong Bài Đọc 2 hôm nay, trong Thư 2 gửi giáo đoàn Corintô, vị tông đồ dân ngoại Phaolô đã xác tín rằng: "chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa", một đức tin còn được chàng thanh niên Saulê đã từng nhiệt thành với Do Thái giáo trước kia dẫn giải thêm về việc áp dụng thực hành đó là: "dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Người". Vâng, sống đức tin chính là sống ước muốn đẹp lòng Thiên Chúa vậy. 

Tóm lại, sự sống, như nội dung bài Phúc Âm hôm nay bao gồm 2 dụ ngôn liên hệ với nhau cho thấy, chẳng những liên quan đến "hạt cải" chất chứa chính sự sống, đến đức tin cứu độ, mà còn liên quan đến "đất" là môi trường con người cho sự sống nẩy sinh và phát triển, nên bài Đáp Ca (nhất là câu 2 và 3) được Giáo Hội chọn đọc còn liên quan đến cả vế của nhân loại, thành phần cần phải biết chấp nhận và đáp ứng mạc khải thần linh được tỏ ra cho họ như hạt giống gieo vào trần gian của họ nói chung và gieo vào lòng họ nói riêng, nhờ đó, chính họ được nên công chính và thánh đức: 

2) Người hiền đức như cây chà là nở hoa tươi tốt, vươn mình lên như cây hương bá đất Liban. Họ được vun trồng trong nhà Chúa, trong hành lang nhà Thiên Chúa chúng tôi họ nở bông.

3) Ngay trong tuổi già họ còn sinh trái, họ đầy nhựa sống và họ sống xanh tươi, để họ loan truyền Chúa nhường bao công chính, Chúa là Đá Tảng của tôi, nơi Chúa chẳng có gian tà!

Chính vì Kitô hữu đã được lãnh nhận sự sống thần linh khi lãnh nhận Phép Rửa, một sự sống đã như "hạt" giống thần linh gieo vào mảnh "đất" nhân tính của họ mà họ đã được Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay khuyến dụ và kêu gọi sống đức tin như sau:   

"Anh em thân mến, chúng ta hằng bạo dạn, vì biết rằng bao lâu sống trong thân xác này, là chúng ta lưu lạc xa Chúa, vì chưng nhờ đức tin, chứ không phải vì đã thấy, mà chúng ta tiến bước". 

 

Thánh Antôn ở Padua
(1195-1231)

ĐTC Biển Đức XVI: 10/2/2010 - Bài 105 về Thánh Anton Padua


Các phép lạ của thánh Antôn Padua

Quy tắc đời sống của Thánh Antôn là “từ bỏ mọi sự và theo Ðức Kitô”, đúng như lời ghi trong Phúc Âm. Nhiều lần Thiên Chúa đã gọi thánh nhân đến các hoạch định mới và ngài đã đáp ứng một cách nhiệt thành và tận tụy hy sinh để phục vụ Ðức Giêsu Kitô cách trọn vẹn hơn.
Vị thánh rất nổi tiếng này sinh ở Bồ Ðào Nha, và tên rửa tội là “Ferdinand.” Ngài được sự giáo dục kỹ lưỡng của các tu sĩ dòng Augustine và sau đó đã gia nhập Dòng. Khi hai mươi lăm tuổi, cuộc đời ngài chuyển hướng. Lúc bấy giờ, ngài nghe tin một số tu sĩ dòng Phanxicô bị bách hại bởi người Moor và được tử đạo ở Morocco – đó là Thánh Bernard và các bạn. Ferdinand khao khát được chết vì Ðức Kitô nên ngài gia nhập dòng Phanxicô. Lúc bấy giờ, dòng này mới thành lập và Thánh Phanxicô vẫn còn sống. Ferdinand lấy tên là “Antôn” và đến Phi Châu để rao giảng cho người Moor. Nhưng ngay sau đó, ngài lâm bệnh nặng phải trở về Ý và sống trong một nơi hiu quạnh, chấp nhận công việc rửa chén trong nhà bếp và dành thời giờ để cầu nguyện, đọc Kinh Thánh.
Thầy Antôn không bao giờ nói về mình, nên không ai trong nhà dòng biết được sự thông minh và tài giỏi thực sự của ngài. Mãi cho đến khi có buổi lễ tấn phong, và vì không ai trong dòng kịp chuẩn bị nên Thầy Antôn đã được chọn để diễn giảng. Những năm tìm kiếm Ðức Kitô trong sự cầu nguyện, trong Kinh Thánh và phục vụ Chúa trong sự nghèo hèn, khiêm hạ đã chuẩn bị Thầy Antôn được sẵn sàng để Thần Khí dùng đến khả năng của thầy. Bài giảng của thầy đã làm mọi người kinh ngạc và từ đó trở đi, cho đến khi ngài từ trần vào chín năm sau đó, Thầy Antôn đã đi rao giảng khắp nước Ý. Ngài nổi tiếng đến nỗi dân chúng phải đóng cửa tiệm để đến nghe ngài giảng.
Ðược công nhận là một người siêng năng cầu nguyện, hiểu biết Kinh Thánh và thần học, Thầy Antôn là thầy dòng đầu tiên được dạy thần học cho các thầy khác. Kiến thức uyên thâm của thầy lại được Thiên Chúa dùng để rao giảng cho những người lạc giáo và hoán cải những kẻ lầm lạc.
Người thời ấy thường tìm đến Thầy Antôn để xin chữa lành hồn xác. Nhiều phép lạ đã xảy ra qua lời cầu bầu của thánh nhân ngay khi còn sống.
Thầy Antôn từ trần ở Arcella, gần Padua, nước Ý khi ngài ba mươi sáu tuổi. Chỉ một năm sau, ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IX phong Thánh.
Người ta thường vẽ Thánh Antôn bế Hài Nhi Giêsu vì Ðức Giêsu đã hiện ra với ngài. Thánh Antôn là người hiểu biết thâm sâu, nhất là về Kinh Thánh, do đó Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên xưng ngài là “Tiến Sĩ Tin Mừng”, hoặc Tiến Sĩ Kinh Thánh.
Lời Bàn: Nhiều khi chúng ta muốn được người đời để ý đến những công việc tốt lành của chúng ta, nhưng ít ai muốn chú ý. Ðó là lúc chúng ta cầu xin Thánh Antôn giúp chúng ta vui lòng chấp nhận, và chú tâm đến những gì chúng ta có thể đem lại cho đời, hơn là nhận được từ người đời.
Lời Trích: Trong một bài giảng, Thánh Antôn nói: “Các thánh giống như các vì sao. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài đã giấu họ nơi kín đáo để đừng chiếu tỏa trước mặt người khác dù đôi khi họ muốn như vậy. Tuy nhiên, họ phải sẵn sàng hy sinh đời sống chiêm niệm âm thầm để đổi lấy việc bác ái, một khi tâm hồn họ nhận ra đó là lời mời của Ðức Kitô”.

https://dongten.net/2019/06/12/hanh-cac-thanh-13-06-thanh-anton-padua/


Người ta thường gọi thánh Antôn Padua là “ông thánh hay làm phép lạ”. Ngài là linh mục dòng Phanxicô, tiến sĩ Hội Thánh. Có lẽ, bạn đang đọc những dòng này, đã lần nào đó nhận được ơn lạ ngài ban sau khi khẩn cầu với Ngài. Tuy ngay lúc sinh thời Ngài đã làm rất nhiều phép lạ, nhưng Ngài một mực hạ mình khiêm nhu. Chính sự khiêm nhượng cùng với lòng mến Chúa yêu Ðức Mẹ say mê và thương người tha thiết của Ngài đã làm nên nhiều phép lạ …

 

THỜI THƠ ẤU


Antôn sinh vào tháng 8 năm 1195, tại Lisbon, kinh đô nước Bồ Đào Nha. Cha là ông Matinô, mẹ là bà Têrêsa. Hai ông bà thuộc hàng quý tộc, đầy lòng mộ đạo và kính mến Đức Mẹ cách riêng. Khi Antôn vừa bập bẹ, mẹ đã dạy cho cậu kêu cầu Thánh danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cùng dạy cho một kinh kính Đức Mẹ mà Antôn hằng nhớ trọn đời.


Từ tấm bé, Antôn đã tỏ ra hiền lành, không thường chạy chới với trẻ lân cận. Cậu chỉ ở nhà với mẹ hoặc theo mẹ đi nhà thờ. Khi bà quỳ trước bàn thờ Đức Mẹ thì cậu cũng chấp tay quỳ gối, chăm chú như người lớn vậy. Khi vừa đến tuổi khôn lớn, thì Antôn theo ơn Chúa Thánh Thần, đã khấn giữ mình trinh khiết trọn đời theo gương Đức Mẹ. Vì lòng bác ái nên cậu rất vui sướng khi được cha mẹ giao tiền, gạo giúp người nghèo.


Antôn được 10 tuổi thì cha mẹ gởi cho học trong nhà cha sở ở gần đó, ở chung cùng với một số thiếu nhi khác, nhưng Antôn trội hơn bạn bè về học hành, nết na và đạo đức. Nhất là cậu mến mộ việc phụng vụ, cậu giúp lễ, xông hương nghiêm trang, sốt sắng như thiên thần vậy. Vì thế, cậu được thầy thương bạn mến. Ma quỷ thấy vậy thì căm tức, toan hại cậu. Một hôm, cậu đang cầu nguyện trên bậc đá bàn thờ Đức Mẹ như thường lệ, bỗng quỷ lấy hình gớm ghiếc nhảy lên vai toan bóp cổ. Muốn kêu Giêsu Maria mà không kêu được, cậu liền lấy ngón tay vẽ dấu Thánh Giá vào bậc đá. Quỷ thấy vậy thì rút lui. Lạ lùng là dấu Thánh Giá ăn sâu vào đá, đến nay vẫn còn. Và khách hành hương hằng đua nhau đến tôn kính.

 

ANTÔN VÀO DÒNG VÀ LÀM LINH MỤC


Năm 15 tuổi, Antôn tỏ ý muốn dâng mình vào một tu hội, để tận tình phụng sự Chúa. Cha mẹ, bà con, bạn hữu đều ngăn cản vì cậu là trưởng nam, cần ở đời để nối dõi tông đường. Kẻ thì khuyên hãy giãn ra một thời gian để biết rõ Thánh ý Chúa hơn. Kẻ thì chê cười là dại dột, bỏ tiền tài danh vọng mà theo đường khắc khổ vô danh. Nhưng Antôn coi phú quý vinh hoa như phân bón, và cậu quyết chí chọn phần là dâng mình phụng thờ Chúa trọn đời. Và thế là một sớm kia, Antôn trốn nhà đến tu viện Augustin gần đó, xin vào tu. Bề trên xem danh tính người thì sẵn lòng tiếp nhận. Biết vậy, Antôn vui sướng dường nào! Chẳng bao lâu thầy đã quen nếp sống nhà dòng và trở nên khiêm nhường, phục tùng, chăm chỉ chẳng kém gì các thầy kỳ cựu. Bề trên sai thầy tới Cônimbriga. Tại đây thầy học hành rất thông giỏi và nổi tiếng nhân đức. Nhưng thầy luôn xưng mình là vô dụng, và chỉ muốn làm những công việc hèn hạ.


Sau khi khấn dòng, nhiệm vụ của thầy là coi sóc bệnh nhân. Thầy rất yêu thích nhiệm vụ này vì có dịp hãm mình và tỏ lòng yêu thương anh em. Một lần, nhân dịp Lễ Chúa Giáng Sinh, vì ngăn trở giúp bệnh nhân nên thầy không thể dự lễ chung với nhà dòng. Khi nghe chuông báo hiệu dâng Mình Thánh Chúa, thầy liền quì gối quay về phía nhà thờ. Bỗng nhiên bức tường ngăn cách giữa nhà thờ và phòng y tế nứt ra, dành chỗ cho thầy chiêm ngắm Mình Thánh Chúa trên bàn thờ …


Thầy có trí thông minh phi thường, hiểu thấu những lẽ cao siêu: nhớ dai những điều đã học chỉ một lần. Thầy chăm học lắm. Dù đêm dù ngày, thầy không rời sách. Tuy nhiên, thầy lấy việc đi đàng nhân đức làm trọng hơn nữa. Để tập đức khiêm nhường, việc hèn như làm bếp, quét nhà thầy đều tranh làm hết. Vì lòng bác ái, thầy xin được chăm sóc anh em bệnh tật. Có lần Chúa cho thầy lấy áo của thầy khoác áo cho bệnh nhân thì người ấy liền khỏi.


Năm thầy 25 tuổi, nghĩa là gần 10 năm tu trì, thầy đã vâng lời bề trên mà thụ phong linh mục.


Đang sống trong dòng Augustin, thì xãy ra vài biến cố làm cho thầy Antôn muốn đổi dòng. Số là tu viên Augustin có thông lệ bố thí tiền gạo cho người đến xin mỗi tuần một lần vào ngày thứ tư. Một hôm, thầy Antôn thấy hai tu sĩ Phan Sinh mặc áo vải thô, sắc mặt võ vàng, lưng đeo bị đến ăn xin thì thầy Antôn động lòng tôn kính, mến các thầy ấy, mà cho là kẻ có phước, vì đã bắt chước đức khó nghèo Chúa Giêsu cách trọn vẹn. Cũng độ ấy, có cuộc rước xác 5 Thánh tử đạo, là tu sĩ Phan Sinh từ Bắc Phi về nước Bồ Đào Nha. Cuộc khải hoàn ấy thật linh đình, long trọng, nhất là có nhiều kẻ ốm đau bệnh tật nhờ ơn các đấng ấy mà đã lành. Sự kiện này làm cho thầy Antôn càng trọng, càng mến dòng Phan Sinh và ao ước được gia nhập dòng ấy để truyền giáo và được phúc tử đạo. Nhưng nghĩ lại, bỏ dòng Augustin đã đào tạo nên mình thì mang tiếng là vô ơn, nên thầy ra sức xua đuổi ý tưởng ấy đi. Song càng xua đuổi thì nó càng trở lại mạnh hơn. Người lo lắng ngày đêm nên xin Chúa soi sáng cho biết Thánh ý Chúa. Một hôm, trong lúc Người đang quỳ cầu nguyện trước tượng chuộc tội, bỗng thấy thánh Phanxicô Khó Khăn, gương mặt sáng láng hiện đến bảo rằng:


– Hỡi Antôn, đừng lo lắng sợ hãi nữa. Chúa sai cha đến báo cho con biết Thánh ý Ngài muốn con vào dòng mà Ngài đã truyền cho cha lập. Cha sẽ làm cha con và con sẽ làm con cha.


Thánh Phanxicô biến đi rồi, thì thầy Antôn mừng rỡ hết sức và quyết theo ơn thiên triệu mới. Ngày hôm sau là ngày mùng 1 tháng 4, thầy Antôn từ tạ bề trên và bạn dòng mà sang tu viện Phan Sinh gần đó; liền được thâu nhận, cho mặc áo dòng và đổi tên là Antôn, vì trước đó tên Người là Phêđinăng.

 

SỰ CHUẨN BỊ CHO MỘT SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ


Thời gian đầu tại dòng Phanxicô, người ta chưa biết tiếng nhân đức và sự thông thái của Antôn, nên thầy được trao cho nhiệm vụ rửa bát đĩa và quét nhà. Mới vào dòng Phan Sinh được mấy tháng, thầy Antôn đã tình nguyện đi truyền giáo ở Bắc Phi, hầu thực hiện lý tưởng của mình. Bạn đồng hành là thầy Philiphê. Nhưng vừa đến nơi thì thầy Antôn ngã bệnh, nằm liệt bốn tháng tròn, chẳng hoạt động chi được. Khi được loan báo, bề trên dạy đưa thầy về chữa trị trong một tu viện Bồ Đào Nha. Trên đường đi gặp bão to gió lớn, nên tàu dạt vào đảo Sicilia nước Ý. Và từ đó, thầy Antôn không về đến quê hương được nữa. Trên đảo này có dòng Phan Sinh mới thành lập, còn thiếu thốn nhiều điều, nhất la nước uống. Đã đào nhiều nơi trong vườn mà không co nước. Thấy vậy, thầy Antôn liền cầu nguyện một lúc rồi chỉ một địa điểm trong vườn, tức thì gặp được mạch nước ngọt trong. Giếng ấy nay vẫn còn và người ta gọi là giếng Thánh Antôn. Cũng còn một quả chuông gọi là chuông Thánh Antôn do Người lưu lại; hễ gặp phong ba sấm sét thì thỉnh lên để cầu bình yên.


Ở đó dưỡng bệnh được hơn một tháng, thầy Antôn cùng với thầy Philiphê đi Asidi, cách xa 10 ngày đàng để dự Công đồng toàn dòng, dưới quyền chủ toạ là đấng sáng lập các bậc đàn anh trong dòng. Nhưng khi bế mạc, bề trên không cắt cử Người vào công tác nào vì thấy Người còn quá yếu. Đang khi Người bơ vơ, thì cha Casianô, bề trên dòng tại xứ Phêlixia gặp Người và hỏi:


– Thầy đã có bài sai chưa?


– Thưa cha, chưa. Thầy Antôn đáp.


– Thầy đã chịu chức linh mục chưa?


– Thưa cha rồi.


– Thầy có muốn đi với tôi chăng?


– Thánh ý Đức Chúa Trời muốn cho con đi đâu thì con đi đó.


– Vậy thì thầy hãy đi với tôi.


Thầy Antôn liền đi theo bề trên Casianô về tu viện xứ Phêlixia. Bề trên dạy Người rửa bát, quét nhà, dọn phòng các thầy. Người vui mừng lắm. Sau đó, được bề trên chấp thuận, Người lên hang núi cao mà ăn chay cầu nguyện trong vòng chín tháng, như các thánh tu rừng xưa. Đó là phương cách Chúa dùng để chuẩn bi cho Người rao giảng lời Chúa sau này.

 

NHÀ GIẢNG THUYẾT LỪNG DANH


Trong truyện các vĩ nhân, ta thường thấy rằng: xuyên qua một sự việc bất ngờ mà thiên hạ nhận ra thiên tài của các vị ấy. Trường hợp của Thánh Antôn cũng vậy. Năm ấy, Đức Giám Mục thành Phôli truyền chức linh mục cho nhiều tu sĩ hai dòng Đa Minh và Phan Sinh, các bề trên đều đến dự lễ, trong số đó có bề trên Casianô mà thầy Antôn tháp tùng.


Trong lễ truyền chức, Đức Giám Mục vốn quen giảng một bài trọng thể. Nhưng hôm ấy ngài mệt không giảng được nên có lời nhờ các bề trên trong dòng giảng thay. Các vị đều xin kiếu vì chưa kịp soạn bài. Bấy giờ, bề trên Casianô gọi thầy Antôn và truyền cho Người phải giảng. Người cũng xin kiếu, vì từ thuở vào dòng chưa giảng bao giờ. Nhưng vì bề trên cứ yêu cầu, nên Người vâng lời lên tòa giảng ngay. Thấy Người đứng trên tòa giảng, các tu sĩ đều ái ngại cho Người. Một kẻ chỉ quen quét nhà, rửa bát, mà dám lên giảng ư? Nhưng khi Antôn giảng thao thao bất tuyệt về đề tài: “Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết vì lòng thương chúng ta” thì mọi người mới ngẩn ra trước tài hùng biện của Người. Người đưa ra những lý mạnh, lẽ cao; dẫn chứng lời Thánh Kinh, lời giáo phụ một cách mạch lạc, chính xác như thể là bậc thầy chuyên về giảng thuyết xưa nay vậy. Giọng Người thì âm vang, lời Người thì sốt sắng thấu tận lòng người nghe. Đức Giám Mục và toàn thể cử tọa đều cảm động ra nước mắt và nói xưa nay chưa được nghe đấng nào giảng thấm thía đến như vậy.


Dòng Phan Sinh vui mừng có một nhà hùng biện sẽ làm sáng danh Chúa. Bề trên Casianô liền ban bài sai cho phép thầy được đi giảng khắp miền lân cận. Đồng thời người cũng loan báo cho thánh Phanxicô biết nữa. Thánh phụ mừng lắm, ngước mắt lên trời tạ ơn Chúa: “Chúa đã ban cho chúng con một người xuất sắc”. Rồi truyền cho thầy Antôn phải dạy thần học cho các tu sĩ ở dòng. Người vâng lời, đi dạy thần học trong các tu viện Phan Sinh thuộc nước Ý và nước Pháp rất thành công.


Nhưng Thiên Chúa chọn Người làm đèn sáng thiên hạ, nên chẳng bao lâu, thánh tổ phụ truyền cho Người giảng tại nước Ý và nước Pháp cho kẻ tội lỗi, người rối đạo hối cải ăn năn. Sứ vụ tông đồ ấy, Người đã hoàn thành với vô vàn hiệu quả thiêng liêng, trong vòng 10 năm từ khi Người 25 tuổi cho đến khi qua đời. Bấy lâu trước, thiên hạ chưa từng thấy đấng nào giảng sốt sắng và làm nhiều phép lạ cho bằng (có lẽ chỉ có thánh Vinh Sơn, hai thế kỷ sau mới sánh được với thánh Antôn). Thầy Antôn lừng danh khắp mọi nơi. Ai cũng háo hức muốn xem thấy mặt, cũng muốn lắng nghe lời Người. Khi được tin Người đến đâu thì người nông thôn, dù ngày mùa, cũng bỏ hết công việc; người thành thị, dù đang buôn bán, cũng đóng hết cửa hàng, để tuông đến nghe thầy giảng, có kẻ đi suốt cả đêm mà đến. Số thính giã từ một vạn đến ba bốn vạn người. Thầy phải giảng ngoài trời: ở công viên, giữa chợ hoặc ngoài đồng. Ngoài tài hùng biện tự nhiên, dường như thầy còn có sự hấp dẫn siêu nhiên nữa. Khi thầy dừng giảng, thì người ta tưởng như nghe một vị thiên thần nói với mình. Lý lẽ mạnh, cùng giọng thiết tha của thầy làm cho những lòng chai đá cũng mềm ra. Biết bao kẻ có tội ăn năn, người rối đạo trở lại, kẻ thù địch làm hòa, người bất công trả của. Chúa cũng cho thầy làm phép lạ nhãn tiền để khuất phục kẻ cứng lòng.


Trải qua 15 năm lưu thuyết, khắp các vùng hai nước Pháp và Ý, thầy Antôn cùng với lời giảng đã làm vô vàn phép lạ đến nỗi người đương thời gọi thầy là “Ông thánh hay làm phép lạ”. Thiên Chúa đã dùng Antôn làm nhiều phép lạ để xác nhận những chân lý và mầu nhiệm trong đạo Công Giáo.


Một người giầu có, nhưng sống đời hà tiện, tham lam của cải. Sau khi ông chết, cha Antôn trưng lời Chúa Kitô đã phán: “của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đo?, đồng thời sai người đi mở két vàng của người quá cố thì thấy một trái tim bằng thịt đang nằm chình ình trong két! Vàng bạc bạn ở đâu, con tim bạn cũng ở nơi đó!


Một lần cha Antôn giảng về mầu nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể. Có người lạc đạo không tin, đến thưa với Ngài:


-Nếu xem thấy phép lạ, tôi mới tin!


Cha Antôn nói với anh:


-Hãy để con lừa của anh nhịn đói 3 ngày, rồi đem nó tới cửa nhà thờ, anh sẽ thấy phép lạ.


Ðúng ngày hẹn, người kia đem còn lừa đã nhịn đói ba ngày và thúng đồ ăn đến trước cửa nhà tờ, thấy thúng đồ ăn trước mắt, nó vội vàng chạy tới ăn lấy ăn để. Nhưng vừa lúc đó, cha Antôn kiệu Mình Thánh Chúa tới cửa nhà thờ. Lạ lùng thay, con lừa đột nhiên bỏ ăn, đến trước Thánh Thể Chúa: Nó quì gối, cúi đầu lậy ba lần. Người lạc đạo đã tin, và sau đó trở lại Công Giáo.

 

http://memaria.net/eBookThanhAnton_Padua.html



Các Phép Lạ Của Thánh Antôn Padua

 

 

Lời giảng nảy lửa của thánh Antôn có phép lạ Chúa đi kèm, nên làm cho nhiều kẻ bỏ đạo, được ăn năn, người lạc đạo trở lại đường ngay.

1. Cá về nghe giảng.

Tại thành Điminô, nước Ý, có nhiều kẻ lạc đạo, nhưng không muốn đi nghe thầy Antôn giảng, sợ kẻo phải trở lại chăng. Một hôm, do ơn Chúa thúc giục, thầy ra bờ biển gọi các cá đến nghe giảng, cá kéo đến rất nhiều nhưng lớp lang thứ tự, nhỏ trước lớn sau. Ngóc đầu lên khỏi mặt nước, chúng đều hướng về thầy Antôn, người liền bảo cá rằng:

“Hỡi loài cá mú! Hãy tạ ơn ngợi khen Thiên Chúa. Vì Ngài đã tạo dựng nên bay: đã ban biển cả mênh mông cho bay bơi lội, đã khoét hang hóc an toàn cho bay ẩn mình lúc phong ba bão táp. Đại hồng thuỷ đã tiêu diệt loài người, loài vật, nhưng Chúa vẫn bảo tồn bay, cho bay được sống, được sinh sản thêm nhiều và ban lương thực hàng ngày cho bay. Vì thế hỡi loài cá mú! Bay phải tạ ơn Thiên Chúa chẳng cùng ”.

Khi được tin cá đến nghe thầy Antôn giảng, thì dân thành nô nức kéo ra. Họ thấy khi thầy Antôn giảng, cá cất đầu, hà hơi, vẫy đuôi tỏ ý vui sướng, tán thành. Sau khi ban phép lành và cho cá giải tán, thầy Antôn quay lại bảo kẻ rối đạo rằng:
“Anh xem đó! Cá là loài vô tri mà còn biết nghe lời Thiên Chúa; mà anh em là loại hữu tri, đã được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Giêsu, mà chẳng muốn nghe lời Thiên Chúa, chẳng muốn phụng sự kính mến Ngài hay sao?”. Từ đó về sau, kẻ rối đạo siêng năng đến nghe lời thầy Antôn giảng, và có nhiều người quy hồi chính đạo.

2. Thuốc độc hại.

Cũng tại thành Điminô, có kẻ rối đạo muốn sát hại thầy Antôn cho bõ ghét, nó mời thầy đến dùng bữa và nó bỏ thuốc độc vào. Vốn không quen đi ăn tại nhà ai: nhưng lần này thầy nhận lời và muốn có dịp mà khuyên răn gia chủ.

Nhưng khi mới ngồi bàn ăn thì Chúa soi sáng cho Người biết mưu sâu chước độc của nó. Người khiển trách nó rằng: “Anh làm thế không tốt đâu! Hoặc giả anh nghĩ: tôi chết đi thì không còn có ai giảng đạo nữa chăng?” thấy mưu sâu mình bị lộ, anh chủ nhà chữa thẹn rằng: “Tôi không dụng tâm giết thầy nhưng có ý thử xem lời Kinh Thánh nói rằng: “kẻ tin Ta dù có uống thuốc độc cũng không hại gì” có thật vậy hay là không thôi. Nếu thầy ăn của độc này mà vô sự thì tôi sẽ tin theo đạo thầy”. Thầy Antôn liền làm dấu thánh giá trên thực phẩm rồi ăn ngay, mà bằng an vô sự. Kẻ rối đạo thấy vậy thì trở lại thật.

3. Ngựa đói chê cỏ.

Tại thành Tulu, nước Pháp, thầy Antôn tranh luận với nhóm rối đạo về mầu nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể. Sau khi nghe thầy trình bày những luận cứ vững vàng, thì một người rối đạo nói:

– “Đã hay lời Chúa Giêsu thì rõ ràng lắm, song nếu con mắt tôi không tỏ tường, thì tôi không tin”.

Thầy Antôn liền hỏi:
– Vậy anh muốn tôi làm phép lạ nào?

– Tôi có một con ngựa. Ngày thứ bốn tôi sẽ dắt ra đây cùng một bó bỏ non. Còn thầy, thầy sẽ đưa Thánh Thể ra trước mặt nó. Nếu nó bỏ cỏ không ăn mà quỳ lạy Thánh Thể, thì tôi sẽ tin có Chúa Giêsu ngự thật trong đó.

Thầy Antôn nhận cuộc, rồi quay về tu viện ăn chay, cầu nguyện ba ngày ba đêm.

Đến ngày hẹn, từ sáng sớm, dân chúng đã tuôn đến đầy chợ. Ông chủ dắt ngựa đi trước, đầy tớ đội cỏ theo sau. Đồng thời, thầy Antôn cũng kiệu Mình Thánh Chúa đến và nói lớn: “Hỡi con vật vô tri, nhân danh Chúa Giêsu đã dựng nên mi, và đang ngự trước mặt mi, ta truyền cho mi phải quỳ gối thờ lạy Chúa, để thiên hạ biết rằng vạn vật trên trời, dưới đất phải thờ lạy Ngài”.

Đang khi thầy nói, thì đầy tớ vâng lời chủ vội đem sọt cỏ đặt ngay trước mõm ngựa, nhưng nó chẳng thèm để ý tới: chỉ vội vàng quỳ hai chân trước xuống thờ lạy Chúa; dù tên đầy tớ ra sức ấn cỏ vào mồm, nhưng ngựa vẫn không thèm ăn, cứ quỳ yên cho đến khi thầy Antôn kiệu Mình Thánh Chúa về mới đứng lên ăn. Phần người rối đạo nói trên cùng cả dòng họ thì đã trở lại đạo thật và sống đạo nên gương. Ông lại còn bỏ tiền của xây một đền thờ tôn kính thánh Phêrô tại thành Tulu, đến nay hãy còn.

Có những sự kiện tỏ ra thầy Antôn được Thiên Chúa thương yêu chừng nào thì ma quỷ ghen ghét chừng ấy.

4. Chúa Hài đồng hiện ra.

Trong khi lưu thuyết trên nước Pháp; một hôm thầy trọ đêm trong phòng vắng vẻ của một nhà kia. Bỗng nửa đêm phòng thầy sáng rực. Chủ nhà mon men tới xem thì thầy Người đang ngất trí cầu nguyện và Chúa Hài đồng hiện đến ngự trị trên cánh tay Người vẻ đơn sơ, âu yếm để cho Người ẵm bồng và hôn kính.

Rồi chủ nhà nhẹ nhàng rút lui, tưởng thánh nhân không biết. Chẳng dè, sáng hôm sau, trước khi ra đi, Người dặn chủ nhà không được tiết lộ việc ấy ra. Vâng theo lời dặn, ông ấy giữ kỹ điều bí mật. Đến khi thánh nhân qua đời rồi, ông mới tỏ ra vinh danh của ông thánh, vì Người đã được Chúa Giêsu yêu mến như vậy. Do tích này mà tượng thánh Antôn thường có bồng Chúa Hài đồng trên tay.

5. Quỷ quấy phá thánh nhân.

Thầy Antôn làm sáng danh Thiên Chúa và cứu vớt nhiều linh hồn, nên quỷ giận ghét Người lắm. Chẳng những nó cố sức ngăn cản công việc của Người mà có toan giết, hãm hại Người nữa.

Một hôm, người vừa ngả mình được một lát, quỷ liền xông vào bóp cổ Người, chặt đến nỗi, nếu như không được Đức Mẹ cứu kịp thời, thì Người đã tắt thở. Nhưng Người mau mắn làm dấu Thánh Giá trên mình và đọc thầm trong trí Kinh Đức Mẹ mà Người vốn thuộc từ bé, thì quỷ buông Người ra và biến đi.

Một đêm khác, thầy Antôn đang cầu nguyện nơi hang đá kia, bỗng chốc quỷ lấy hình hung ác hiện ra, giơ tay lên toan đánh chết Người, Người liền đọc Kinh Đức Mẹ, thì Đức Mẹ hiện ra sáng chói trên đám mây, giữa muôn vàn thiên thần, quỷ tức thì sợ hãi trốn mất dạng. Về sau, người ta xây một bàn thờ trong hang ấy để tạ ơn Đức Mẹ, bàn thờ ấy ngày nay vẫn còn và người ta năng đến kính viếng.

6. Ơn nói tiên tri.

Tại thành Anisi, nước Pháp, có một người đàn ông giàu sang, nhưng bê bối về đạo vợ chồng. Một hôm, thầy Antôn gặp ông và nói: “Tôi quý ông, vì tôi biết sau này ông sẽ sửa mình, đi truyền giáo và được phúc tử đạo nữa”.

Người ấy nghe nói vậy thì cúi đầu cười rồi bỏ đi. Chẳng bao lâu, ông ấy được ơn hối cải: lại nhiệt thành theo Đức Giám Mục Giáo Phận sang giảng đạo cho người Hồi giáo tại Đất Thánh được nhiều thành quả và sau cùng được phúc tử đạo cùng với Đấng Giám Mục ấy .

Cũng tại thành Anisi, có một bà đến xin làm phép thai, thầy Antôn bảo: “bà hãy vui mừng, con bà sẽ gọi là Philliphê, sẽ tu Dòng Phan Sinh và nên cao trọng trước mặt Chúa vì phúc tử đạo”.

Mọi việc xảy ra đúng như thầy báo trước. Người con ấy đã làm linh mục Phan Sinh, sang Đất Thánh lo việc đạo, chẳng may bị người Hồi bắt sống cùng nhóm bạn đông lắm. Bấy giờ quân Hồi cho các giáo hữu chọn một trong hai điều này: một là bỏ đạo mình mà theo đạo Hồi, hai là bị xử chém tất cả. Thầy Philliphê sốt sắng khuyên anh em thà chết hơn là bỏ đạo Đức Giêsu.
Và mọi người cùng với thầy giữ vững đức tin xưng đạo ra, để lãnh lấy nhành thiên tuế tử đạo.

Thầy Antôn hằng hiếu thảo với cha mẹ và đền đáp kẻ làm ơn cho mình.

7. Cứu cha khỏi oan khổ.

Ta không có tài liệu để biết cách Người hiếu thảo thế nào với cha mẹ, mà Người hằng thương nhớ vô cùng; nhưng nói về cha thì có tích sau đây:

Cha Người là ông Matinô, là quản khố Nhà Nước tại kinh thành Lisbon . Ông là người công minh, chính trực, không hề tơ hào đến của cải nhà Vua, nhưng có tính dễ dãi thương người. Ông cho mấy bạn đồng liêu vay tạm của kho, mà không bắt làm khế tự. Đáng lẽ những người ấy biết ơn ông mới phải. Nhưng than ôi, đời này biết ơn thì hiếm lắm! Họ đã không trả nợ, lại cùng nhau tố cáo là phân tán của kho.

Nhà Vua cho mở cuộc điều tra. Ông Matinô khai đúng sự thật, nhưng ban điều tra không tin, vì khẩu thuyết vô bằng. Nên chẳng những phải bồi hoàn, mà còn bị tù tội nữa.

Được tin ấy, thầy Antôn cầu xin Chúa thương cứu giúp cha mình cách nào. Bỗng Thiên Thần đem Người từ nước Ý về nước Bồ Đào Nha trong nháy mắt. Người vào toà án nơi đang xử cha Người. Người liền nói cho các quan biết tên những kẻ đã vay của kho, mỗi người là bao nhiêu, rồi cho đòi chúng đến. Trước uy quyền của thánh nhân, chúng đã thú nhận mọi sự và cha Người được minh oan.

Nhưng chưa hết, ông Matinô còn gặp một vụ khó khăn lớn hơn thế nữa. Số là dân thành đánh nhau làm cho một người mất mạng. Để thoát tay thần công lý, chúng lén chôn xác nạn nhân vào vườn nhà ông Matinô và vu oan cho ông tội giết người. Tòa luận cho Matinô và một tên đầy tớ của ông phải án tù. Bấy giờ, thầy Antôn đang ở nước Ý, được Thiên Thần mang ngay về thành Lisbon, Bồ Đào Nha, chính lúc cha Người bị điệu ra pháp trường. Người liền bảo đưa quan tài người chết đến, thầy sấp mình cầu nguyện rồi lấy giọng oai nghiêm bảo kẻ chết rằng: “Nhân danh Chúa Giêsu, ta truyền cho ngươi sống lại và nói cho mọi người ở đây ai là người giết ngươi”.

Người chết liền sống lại và nói rõ ràng: “Không phải ông Matinô giết nhưng chính kẻ vu khống đã giết tôi”. Các quan tòa liền thả ông Matinô và người gia bộc đồng thời lên án tù cho kẻ vu cáo.

8. Ly vỡ lại lành.

Thầy Antôn hay đền đáp cho kẻ làm ơn cho mình. Trên đường từ Pháp về Ý, Người cùng một bạn đồng hành vào trọ đêm trong nhà của một bà đạo đức và nghèo khó. Bà chỉ mượn hàng xóm một cái ly cho hai người, thế mà tu sĩ đồng hành lại đánh rơi vỡ nát. Đã vậy, thùng rượu vang dưới nhà lại quên khóa vòi lại, chảy tràn lan. Hai tai vạ một trật, bà chịu không nổi liền đem tâm sự với thầy Antôn.

Người vừa cúi đầu cầu nguyện thì bà thấy các mảnh vỡ đã ráp lại và cái ly trở lại nguyên lành như trước.
Bà liền nghĩ: “Đấng làm ly vỡ lại lành, ắt cũng có phép làm cho vò rượu vơi lại đầy như cũ”. Cho nên, bà chạy xuống nhà xem sao, thì quả nhiên thấy vò rượu đã đầy. Bà liền chạy lên quỳ gối tạ ơn ông thánh.

Thanh Huyền

https://conggiaovn.com/cac-phep-la-cua-thanh-anton-padua/

 

 

 

Thứ Hai

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 6, 1-10

"Chúng tôi chứng tỏ mình là những người phục vụ Thiên Chúa".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, với tư cách là những người cộng sự với Chúa Giêsu, chúng tôi khuyên anh em đừng nhận lấy ơn của Thiên Chúa một cách vô ích. Quả thật Chúa phán: "Dịp thuận tiện đến, Ta đã nhậm lời ngươi, vào ngày cứu thoát, Ta đã cứu vớt ngươi". Bây giờ là cơ hội thuận tiện, giờ đây là ngày cứu thoát. Chúng tôi không hề làm cớ cho ai phải vấp phạm, để công việc phục vụ của chúng tôi khỏi bị đàm tiếu. Nhưng trong mọi sự, chúng tôi chứng tỏ mình là những người phục vụ Thiên Chúa, với hết lòng kiên nhẫn: trong gian truân thiếu thốn, nguy khốn, đòn vọt, tù đày, biến loạn, khó nhọc, nhịn ăn, nhịn ngủ với lòng thanh khiết, am hiểu, đại lượng, dịu dàng, bằng sức mạnh Thánh Thần, bằng lòng yêu thương không giả dối, bằng lời chân thật, và bằng quyền năng Thiên Chúa; nhờ khí giới công chính bên tả bên hữu; trải qua vinh quang cũng như tủi nhục, tiếng xấu cũng như tiếng tốt, bị coi là phường bịp bợm, mặc dầu là chân thành; bị coi là vô danh, nhưng hằng được biết đến; bị coi là đang giẫy chết, nhưng này chúng tôi vẫn sống; bị coi như bị gia hình, mà nào đã chết đâu; bị coi như phải ưu sầu, nhưng chúng tôi vẫn luôn an vui; bị coi là kẻ nghèo túng, nhưng chúng tôi lại làm cho nhiều người được giàu có; bị coi như không có gì, nhưng chúng tôi làm chủ tất cả.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4

Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người (c. 2a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 38-42

"Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng". Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".

Ðó là lời Chúa.

 

Đức ái trọn hảo mới có thể thắng vượt kẻ hung ác và ngăn chặn sự ác

Chủ đề sự sống thần linh của Mùa Phục Sinh tiếp tục vói bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu về một sự sống Phúc Đức Trọn Lành cho Thứ Hai Tuần XI Thường Niên hôm nay. 

Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô về Phúc Đức Trọn Lành được Phúc Âm Thánh ký Mathêu thuật lại đây, tiếp theo Tuần X Thường Niên, không còn liên quan đến các điều răn nữa, như điều răn thứ 5 "chớ giết người" (Thứ Năm tuần trước), điều răn thứ 6 và 9 "chớ làm sự dâm dục" (Thứ Sáu tuần trước), và điều răn thứ 8 "chớ làm chứng dối" (Thứ Bảy tuần trước).  

Hôm nay (và cả ngày mai nữa), Bài Giảng Trên Núi bắt đầu sang đến chính đức bác ái trọn lành, cốt lõi của Bài Giảng về Phúc Đức Trọn Lành. Tuy nhiên, không phải vì không còn liên quan đến những điều răn trong Thập Giới nữa, như tuần trước cho thấy, mà Chúa Kitô không còn so sánh giữa những gì là cũ, liên quan đến ý hệ hay văn hóa hoặc tâm thức tự nhiên của Dân Do Thái trong Cựu Ước, những gì bất toàn (tuy đúng lý, hoàn toàn hợp lý theo phép công bằng), hay đúng hơn những gì chưa thực sự trọn lành như những gì mới được Người chỉ dạy cho thành phần môn đệ ở Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành để nhờ đó sau này các vị mới có thể trở thành "muối đất... (và) ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:13-14) theo đúng bản chất và ơn gọi là môn đệ Chúa Kitô của các vị. 

Một trong hai điều liên quan đến đức bác ái trọn lành được Chúa Kitô nhắc đến ở bài Phúc Âm (Mathêu 5:38-42) riêng cho ngày hôm nay đó là:  

"Các con đã nghe bảo: 'Mắt đền mắt, răng đền răng'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ". 

Trong những lời khuyên dạy trọn lành này của Chúa Kitô, có một số chi tiết cần phải lưu ý như sau: 

Trước hết, về mặt tiêu cực, Chúa Kitô bảo chúng ta "đừng chống cự lại với kẻ hung ác",nghĩa là cho dù chúng ta có là nạn nhân của họ, chúng ta vẫn phải tôn trọng con người phạm nhân, không được hận thù ghen ghét chính con người của họ, tìm cách trả thù họ theo luật công bình, hơn là chống lại việc làm gian ác của họ mà không phải vì hận thù họ v.v. 

Sau nữa, về mặt tích cực, Chúa Kitô dạy chúng ta lấy lành thắng dữ, phản ứng của chúng ta cần phải làm sao để sự dữ bị tiêu tan như bóng tối gian ác tan biến trước ánh sáng chân thật. Ở chỗ, như Người dạy: "ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".  

Ý nghĩa của vấn đề "vay mượn" trong lời Chúa Giêsu dạy đây đó là những gì tha nhân phạm đến chúng ta, như chúng ta đã phạm đến Chúa nên chúng ta xin Ngài "tha nợ" cho chúng ta. Một khi chúng ta bị anh chị em chúng ta xúc phạm, thì chúng ta không có quyền lên án và trừng phạt họ, cho bằng có quyền tha cho họ, hơn là chấp nhất. Nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bị tha nhân phạm đến - "đừng từ khước" cho tha nhân "vay mượn" là như thế.

Đúng thế, nếu so sánh nguyên tắc công bằng ăn thua đủ - nợ máu phải trả bằng máu: 'Mắt đền mắt, răng đền răng', như tình hình giữa nước Do Thái và dân tộc Palestine ở Trung Đông gần 3/4 thế kỷ cho tới nay, bên khủng bố (Palestine) bên tấn công (Do Thái), liên tục hầu như bất tận và bất khả giải quyết. 

Thế nhưng, để có thể giải quyết một cách tốt đẹp, họ không còn cách nào khác ngoài những gì được Chúa Kitô khuyên dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ thắng vượt nguyên tắc công bình bằng tinh thần bác ái vị tha, lấy lành thắng dữ, một tinh thần chắc chắn họ sẽ không thể nào làm được nếu không có Vị Thánh Linh của Đấng Phục Sinh đã thông ban cho các tông đồ để các vị có thể tha tội cho tha nhân (xem Gioan 20:22-23).  

Bởi vậy, huấn dụ bác ái trọn lành của Chúa Kitô ở Bài Giảng Trên Núi không phải chỉ là đích điểm hay tầm vóc viên trọn cho cuộc sống và ơn gọi làm người nói chung và làm môn đệ của Người nói riêng, mà còn là chính đường lối để còn người có thể sống an vui hạnh phúc cho chính bản thân mình cũng như cho xã hội loài người, một đường lối phản ảnh nơi giáo huấn tổng hợp như một học thuyết nhân bản đích thực về xã hội của Giáo Hội Chúa Kitô từ cuối thể kỷ 19 cho tới nay.  

Tinh thần Phúc Âm Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô liên quan đến đức ái trọn hảo thật sự đã thấm nhuần nơi thành phần môn đệ của Người trong suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, nhất là qua các thánh nhân được Thiên Chúa sai đến vào từng thời điểm của các vị, kể từ các vị tông đồ, điển hình nhất là vị Tông đồ Dân Ngoại Phaolô, như chính thánh nhân đã vừa bày tỏ vừa huấn dụ Kitô hữu Giáo Đoàn Côrintô (2Corinto 6:1-10) trong bài đọc 1 Năm Lẻ hôm nay như sau:   

"Trong mọi sự, chúng tôi chứng tỏ mình là những người phục vụ Thiên Chúa, với hết lòng kiên nhẫn: trong gian truân thiếu thốn, nguy khốn, đòn vọt, tù đày, biến loạn, khó nhọc, nhịn ăn, nhịn ngủ với lòng thanh khiết, am hiểu, đại lượng, dịu dàng, bằng sức mạnh Thánh Thần, bằng lòng yêu thương không giả dối, bằng lời chân thật, và bằng quyền năng Thiên Chúa; nhờ khí giới công chính bên tả bên hữu; trải qua vinh quang cũng như tủi nhục, tiếng xấu cũng như tiếng tốt, bị coi là phường bịp bợm, mặc dầu là chân thành; bị coi là vô danh, nhưng hằng được biết đến; bị coi là đang giẫy chết, nhưng này chúng tôi vẫn sống; bị coi như bị gia hình, mà nào đã chết đâu; bị coi như phải ưu sầu, nhưng chúng tôi vẫn luôn an vui; bị coi là kẻ nghèo túng, nhưng chúng tôi lại làm cho nhiều người được giàu có; bị coi như không có gì, nhưng chúng tôi làm chủ tất cả". 

Đời sống chứng nhân của Giáo Hội qua các phần thể sống đức ái trọn hảo như Thánh Phaolô ở bài đọc 1 hôm nay quả thực là tác động thần linh kỳ diệu của Thiên Chúa biến đổi con người để một số con người nào đó "được tiền định nên giống hình ảnh Con của Ngài" (Roma 8:28), họ trở thành "phương tiện" (Tông Vụ 9:15) cho phần rỗi của chung nhân loại, đúng như những gì được bài Đáp Ca (Thánh Vịnh 97:1,2-3ab,3cd-4) cảm nhận: 

1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. 

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel. 

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. 

 

 

Thứ Ba

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 8, 1-9

"Vì anh em, Ðức Kitô đã nên thân phận nghèo khó".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, chúng tôi tỏ cho anh em biết về ân huệ Thiên Chúa đã ban cho giáo đoàn xứ Macêđônia. Trong nhiều nỗi gian truân thử thách, họ được tràn đầy vui mừng, và cảnh cùng cực thẳm sâu của họ lại trở nên kho tàng phúc hậu. Tôi làm chứng rằng: họ đã tự động nài ép tôi cho họ được ân huệ tham dự vào việc phục vụ các thánh, tuỳ sức họ và quá sức họ nữa. Không phải như chúng tôi hy vọng mà thôi, họ còn đã hiến mình, trước tiên là cho Chúa, sau là cho chúng tôi, chiếu theo ý muốn của Thiên Chúa. Vì thế, chúng tôi cũng đã xin Titô hoàn thành việc nghĩa đó cả nơi anh em nữa, như Titô đã khởi sự trước kia. Nhưng cũng như anh em vượt trổi về mọi mặt: về lòng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết, về mọi hình thức nhiệt thành, cũng như về lòng bác ái của anh em, thì anh em cũng phải vượt trổi trong việc phúc đức này.

Tôi nói thế, không phải có ý truyền lệnh đâu, nhưng để nhờ lòng sốt mến của kẻ khác, thử lòng chân thành bác ái của anh em. Vì anh em biết lòng quảng đại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc dù giàu sang, Người đã nên thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Người, anh em nên giàu có.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 145, 2. 5-6. 7. 8-9a

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa, tôi sẽ ngợi khen Chúa trong cả cuộc đời, bao lâu còn có thân tôi, tôi còn ca ngợi Chúa. - Ðáp.

2) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Ngài là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng, Ngài là Ðấng giữ lòng trung tín muôn đời. - Ðáp.

3) Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.

4) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quí các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 43-48

"Các ngươi hãy yêu thương thù địch".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy: "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù". Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con: để như vậy các con nên con cái Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm như thế ư? Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo".

Ðó là lời Chúa.

 

Đức ái trọn hảo như Cha trên trời

Bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 5:43-48) đúng là tột đỉnh của Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô, ở ngay câu kết: "Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo".  

Qua câu chính yếu nhất của Bài Giảng Trên Núi này và là câu làm nên tất cả Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô ấy, chúng ta có thể kết luận một cách suy diễn như thế này: Vì các con là môn đệ của Thày nên các con phải nên trọn lành như Cha của các con trên trời là Đấng trọn lành, theo như những gì Thày truyền dạy các con trong việc sống tinh thần của lề luật là chính đức ái trọn hảo vậy. 

Ở chỗ, nếu theo tâm lý và lý lẽ tự nhiên "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù", thì sống bác ái trọn lành theo Chúa Kitô để có thể nên trọn lành như Cha trên trời, thành phần môn đệ của Chúa Kitô cần phải: "yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con", chứ không thể sống ở tầm mức tự nhiên như hai thành phần vốn bị dân Do Thái khinh bỉ, đó là thành phần "thu thuế" vốn bị họ coi là hạng người tội lỗi, hay như thành phần "ngoại giáo" vốn bị họ coi là thành phần ô uế nhơ nhớp, đáng xa tránh.  

Thật ra, căn cứ vào nội dung mạc khải thần linh trong Cựu Ước nói chung và qua lịch sử cứu độ của dân Do Thái, thì Thiên Chúa là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, bởi thế, việc bỏ Ngài mà thờ tà thần là những gì xúc phạm đến Ngài nhất, là ngoại tình, phản bội lòng yêu thương của Ngài đối với họ. Do đó, họ phải tránh cho xa bất cứ một dân ngoại nào, thành phần không được Thiên Chúa chọn để tỏ mình ra như họ, nên toàn là thờ tà thần, theo chiều hướng đa thần, nghĩa là tôn thờ những thứ ngẫu tượng do chính thành phần dân ngoại nghĩ tưởng. Thậm chí phải coi dân ngoại là thù địch chứ không được thân thiện với bất cứ dân ngoại nào kẻo bị lây nhiễm máu tà thần của dân ngoại. Ngay cả việc cưới hỏi của dân Do Thái cũng chỉ trong nội bộ thân thuộc mà thôi, chứ không được hôn nhân lai căng. Điển hình nhất là trường hợp của vị vua thứ ba khôn ngoan nhất của dân Do Thái là Vua Salomon, với 700 thê và 300 thiếp, hầu hết là từ dân ngoại, đã làm cho vua bỏ vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình mà đi thờ tà thần của những người vợ dân ngoại này.

Tuy nhiên, Chúa Kitô đã đến không phải để hủy bỏ lệ luật mà là để làm cho lề luật nên trọn, nghĩa là làm cho mạc khải thần linh của Thiên Chúa trong Cựu Ước là Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất ấy được nên trọn, ở chỗ Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất của dân Do Thái và đã tỏ mình ra cho dân Do Thái trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ là Vị Thiên Chúa có 3 Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần, nhưng Ba Ngôi Vị vẫn là một Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất trong mối hiệp thông thần linh yêu thương. Và đó là lý do tình yêu thần linh phải là tình yêu trọn hảo, tình yêu có tính cách đại đồng, hòa đồng, bao dung, tha thứ... để "tất cả được hiệp nhất nên một" (Gioan 17:21). Đức ái trọn hảo như Cha trên trời là cốt lõi và là tột đỉnh của Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi của Chúa Giêsu.

Đúng thế, ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, ở câu cuối cùng, Chúa Kitô lần đầu tiên đã mạc khải cho các môn đệ biết Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đã từng tỏ mình ra trong suốt giòng lịch sử của họ là "Cha của chúng con ở trên trời", và như thế gián tiếp Người cũng tỏ cho các môn đệ biết Người là Con của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai được Cha sai đến để tỏ mình ra cho họ biết về Cha ở trên trời đã yêu thương chẳng những riêng dân Do Thái mà còn yêu thương chung nhân loại nữa, như họ sẽ từ từ thấy Người tỏ ra bằng hành động của Người, qua việc Người chữa lành bệnh tật cho dân chúng, nhất là thái độ nhân từ của Người đối với thành phần tội nhân, đến độ Người đã tha thứ cho cả những kẻ sát hại Người, bao gồm cả thành phần Do Thái lẫn dân ngoại Roma (xem Luca 23:34), nghĩa là toàn thể nhân loại được Người cứu độ bằng chính cuộc Vượt Qua của Người, nhờ đó họ chẳng những được được cứu khỏi tội lỗi và sự chết mà còn được sự sống thần linh Người thông ban cho họ qua Giáo Hội của Người.

Như thế, Bài Giảng Trên Núi, Bài Giảng về Phúc Đức Trọn Lành được Chúa Giêsu giảng dạy trực tiếp cho các môn đệ tông độ của Người là nền tảng Giáo Hội là tất cả giáo huấn về đức ái trọn hảo cho thành phần con cái của Cha Trên Trời theo gương mẫu của chính Người là Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua, một đức ái trọn hảo theo gương mẫu của Chúa Giêsu Kitô ấy cần phải được các môn đệ của Người thực hiện trên hết và trước hết, như chính Người đã yêu thương họ, để nhờ đó "cứ dấu ấy mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thày" (Gioan 13:35)..

Trong lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Người sống bác ái trọn hảo: "các con hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con", chúng ta thấy, trước hết, về đối tượng, tinh thần bác ái trọn lành ở chỗ "yêu thương (cả) thù địch" nữa chứ không phải chỉ những ai yêu thương chúng ta hay những ai chúng ta thích hoặc thành thần thân nhân ruột thịt của chúng ta mà thôi.  

Sau nữa, về hành động, tinh thần bác ái trọn lành là ở chỗ "làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con". Tức là "làm ơn" và "cầu nguyện" cho những đối tượng "thù địch" của mình, vì họ là những người "thù ghét" mình, "bắt bớ" mình và "nguyền rủa" mình, chứ không phải là thành phần thương yêu mình hay được mình thương yêu.  

Riêng về vấn đề "làm ơn", Thánh Phaolô, trong bài đọc 1 hôm nay (2Corinto 8:1-9) đã đề cập đến mẫu gương của "giáo đoàn xứ Macêđônia", một giáo đoàn cho dù trải qua "gian nan thử thách" nhưng vẫn "trở thành kho tàng phúc hậu" một cách lạ lùng cho tha nhân, như ngài đã viết về họ như sau: 

"Trong nhiều nỗi gian truân thử thách, họ được tràn đầy vui mừng, và cảnh cùng cực thẳm sâu của họ lại trở nên kho tàng phúc hậu. Tôi làm chứng rằng: họ đã tự động nài ép tôi cho họ được ân huệ tham dự vào việc phục vụ các thánh, tùy sức họ và quá sức họ nữa. Không phải như chúng tôi hy vọng mà thôi, họ còn đã hiến mình, trước tiên là cho Chúa, sau là cho chúng tôi, chiếu theo ý muốn của Thiên Chúa". 

Như thế, giáo đoàn này đã thực sự phản ảnh, như Thánh Phaolô nói trong cùng bài đọc 1 cho Năm lẻ hôm nay: "lòng quảng đại của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc dù giàu sang, Người đã nên thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Người, anh em nên giàu có". 

Vì đức ái trọn hảo xuất phát từ Thiên Chúa và là chính bản tính của Thiên Chúa mà Ngài yêu thương hết mọi người, nhất là những ai hèn yếu đáng thương, như Bài Đáp Ca (nhất là câu 3 và 4) được trích từ Thánh Vịnh 145 (2,5-6,7,8-9a) đã cảm nhận và cho thấy: 

3) Đấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. 

4) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quí các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. 

 



  

Thứ Tư

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 9, 6-11

"Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, ai gieo ít, thì gặt ít. Ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng. Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư tràn mọi ân phúc: để anh em vừa luôn luôn sung túc mọi mặt, vừa còn được dư dật để làm các thứ việc phúc đức, như đã chép rằng: "Người đã rộng tay bố thí cho kẻ nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời". Ðấng đã cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh để nuôi mình, thì cũng sẽ cung cấp cho anh em hạt giống dư đầy, và sẽ làm phát triển hoa quả sự công chính của anh em. Như thế, anh em được giàu có mọi bề, để thi hành mọi việc bác ái; qua tay chúng tôi, phúc đức đó sẽ làm phát sinh lời cảm tạ Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 3-4. 9

Ðáp: Phúc đức thay người tôn sợ Chúa (c. 1a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu ngươi sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.

2) Trong nhà người có tài sản phú quý, và lòng quảng đại người còn mãi muôn đời. Trong u tối người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. - Ðáp.

3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp. 

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 1-6. 16-18

"Cha ngươi Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Ðấng ở trên trời. Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Sống nội tâm là sống trước nhan Chúa 

 



Bài Phúc Âm hôm nay, vẫn là bài Phúc Âm thuộc loạt bài về Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi được Chúa Giêsu huấn dụ riêng cho các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng cho Giáo Hội tương lai của Người, nhưng không còn theo công thức so sánh giữa lề luật cũ hay tâm thức tự nhiên với giáo huấn trọn lành của Người liên quan đến đức ái trọn hảo. 

Bài Phúc Âm hôm nay bắt đầu sang đoạn 6 (Mathêu 6:1-6,16-18) và liên quan đến các việc thiện, như "bố thí", "cầu nguyện" và "chay tịnh", một bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Tư Lễ Tro mở màn cho Mùa Chay hằng năm. Căn cứ vào thứ tự 3 việc lành này thì ưu tiên nhất là bố thí liên quan đến đức bác ái, sau đó mới đến việc cầu nguyện liên quan đến Thiên Chúa, và sau cùng mới đến việc chay tịnh liên quan đến bản thân.   

 

Nếu Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu được Thánh ký Mathêu thuật lại ở 3 đoạn 5, 6 và 7, thì ở đoạn 5 liên quan đến Chúa Giêsu, đoạn 6 liên quan đến Chúa Cha và đoạn 7 liên quan đến chính bản thân các môn đệ. Đúng thế, ở đoạn 5 liên quan đến Chúa Giêsu ở chỗ "Thày đến không phải hủy bỏ lệ luật mà là để làm cho nó nên trọn", do đó Người đã vạch ra cho các môn đệ thấy đâu là luật cũ và đâu là giáo huấn trọn lành hơn của Người căn cứ vào luật cũ. Ở đoạn 6 liên quan đến Chúa Cha "là Đấng ở nơi kín ẩn thấu suốt mọi sự" nên con người làm gì thì làm, nhất là những việc đạo đức như cầu nguyện, chay tịnh và bố thí v.v., cũng chỉ làm vì Ngài và cho Ngài mà thôi, nhất là hãy tin tưởng cậy trông tất cả mọi sự nơi Ngài là Đấng Quan Phòng thần linh quan tâm đến tất cả mọi tạo vật của Ngài. Ở đoạn 7 liên quan đến bản thân của các môn đệ trong việc thực hành đức bác ái yêu thương, trong việc bỏ mình vào đường hẹp, nhất là trong việc tuân giữ những lời giảng dạy của Chúa Giêsu là vị sư phụ các vị theo đuổi vào lúc ấy.

 

Có thể nói bố thí là hoa trái của cầu nguyện, thậm chí có thể bỏ cầu nguyện để làm việc bác ái khi khẩn cấp, và muốn cầu nguyện sốt sắng và tác hiệu cần phải chay tịnh (làm chủ mình, khổ chế), nhưng khổ chế chay tịnh mà thiếu đức bác ái cũng không tốt. Kể cả các việc lành này nữa, các tông đồ cũng cần phải thực hiện một cách trọn lành, khác với thái độ giả hình của thành phần đạo đức phô trương làm vì danh tiếng hơn là vinh hiển của Thiên Chúa. 

Qua việc thực hành các việc thiện bề ngoài này, Chúa Giêsu muốn dạy các tông đồ phải sống nội tâm, sống như là một thứ "muối đất", theo nguyên tắc chung như Người truyền dạy, đó là: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời".

Căn cứ vào nguyên tắc "đừng phô trương công đức" này, Người dạy các môn đệ trước hết về cách thức thực hành việc bố thí như thế này: "Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm saođừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

Nguyên tắc "đừng phô trương công đức" như Chúa dạy được áp dụng, sau nữa, vào việc cầu nguyện ở cách thức cũng như việc bố thí ở chỗ tránh hành vi tiêu cực mà thể hiện các cử chỉ tích cực như sau: "Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".

Sau hết, về cách thức chay tịnh, theo nguyên tắc "đừng phô trương công đức", Chúa dạy các tông đồ thực hiện vừa tránh tiêu cực vừa làm tích cực như sau: "Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".

Muốn tránh khỏi khuynh hướng tự nhiên thích "phô trương công đức" về các việc lành mình làm, con người phải hoàn toàn tin vào Chúa, phải có một đức tin mãnh liệt, luôn sống trước nhan Chúa, "Đấng thấu suốt mọi bí ẩn" và là "Đấng ngự nơi bí ẩn", như gương sáng của bà góa bỏ tiền vào đền thờ vậy (xem Luca 21:2-3). Nghĩa là hãy làm việc lành với tất cả tấm lòng chân thành của mình, ở chỗ hoàn toàn vì Chúa và cho Chúa mà thôi.

Đó là lý do, theo nguyên tắc vì Chúa và cho Chúa, Thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Côrintô trong Thư Thứ 2 của ngài trong bài đọc 1 năm lẻ hôm nay rằng: "Mỗi người hãy cho theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng. Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư tràn mọi ân phúc: để anh em vừa luôn luôn sung túc mọi mặt, vừa còn được dư dật để làm các thứ việc phúc đức, như đã chép rằng: 'Người đã rộng tay bố thí cho kẻ nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời'".

Một con người làm mọi sự vì Chúa và cho Chúa quả thực là một con người sống đức tin, biết kính sợ Chúa, nhờ đó họ có thể sống quảng đại như Ngài, đúng như cảm nhận của Thánh Vịnh 111 (1-2,3-4,9) ở trong bài Đáp Ca hôm nay:  


1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu ngươi sẽ hùng cường trong Đất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. 

2) Trong nhà người có tài sản phú quý, và lòng quảng đại người còn mãi muôn đời. Trong u tối người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. 

3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. 

 

 

Thứ Năm

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 11, 1-11

"Tôi đã rao giảng không công cho anh em Tin Mừng của Thiên Chúa".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, phải chi anh em chịu đựng một phần nào sự ngu dại của tôi, chắc là anh em đành chịu đựng: vì tôi yêu mến anh em như Chúa có lòng yêu mến. Tôi đã đính hôn anh em cho một người, như dâng một trinh nữ trong trắng cho Ðức Kitô. Nhưng tôi lại sợ rằng như con rắn đã dùng mưu chước mà cám dỗ bà Evà thế nào thì lòng anh em cũng ra hư đốn, không còn chân thành đối với Ðức Kitô như vậy. Vì nếu có ai đến rao giảng một Ðấng Kitô nào khác mà chúng tôi không hề rao giảng, hay anh em nhận lãnh một Thánh Thần nào khác hoặc một Phúc Âm nào khác không phải như anh em đã nghe, thì chắc là anh em chịu theo ngay. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã làm việc không thua kém gì các vị tông đồ cả kia đâu. Bởi vì dầu tôi có ăn nói không thanh lịch, nhưng về sự thông biết thì không phải thế đâu, vì trong mọi mặt, chúng tôi đã tỏ cho anh em thấy rõ rồi.

Hay là tôi đã phạm tội gì khi hạ mình không để anh em được nhắc lên? Hoặc vì đã rao giảng không công cho anh em Tin Mừng của Thiên Chúa. Tôi đã bóc lột các giáo đoàn khác, khi lãnh trợ cấp nơi họ, để phục vụ anh em. Khi tôi ở giữa anh em, mà phải lâm cảnh túng thiếu, tôi đã không làm phiền lòng ai: vì tôi có thiếu thốn điều gì, thì các anh em ở Macêđônia đến giúp đỡ cho. Trong mọi sự, tôi đã giữ mình không làm phiền lòng ai, sau này, tôi vẫn giữ mình như thế. Ðã có sự thật của Ðức Kitô trong tôi, nên tôi không để ai giựt khỏi tôi được sự tôi khoe như thế trong khắp miền Akaia. Vì sao thế? Có phải vì tôi không yêu mến anh em chăng? Ðã có Thiên Chúa biết.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 7-8

Ðáp: Lạy Chúa, công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính (c. 7a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi! - Ðáp.

2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Ngài muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. - Ðáp.

3) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của Người đều đáng cậy tin. Những giới răn đó được lập ra cho tới muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chánh. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13bc

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 7-15

"Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:

"Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

"Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".

Ðó là lời Chúa. 


  

cốt lõi của Kinh Lạy Cha là ở ngay tâm điểm của kinh này,
tức ở lời nguyện thứ 3 (thuộc phần đầu) và lời cầu thứ 1 (thuộc phần sau).


Bài Phúc Âm (Mathêu 6:7-15) cho Thứ Năm Tuần XI Thường Niên hôm nay liên quan đặc biệt đến việc cầu nguyện nói chung và Kinh Lạy Cha nói riêng, hay nói cách khác, liên quan đến cách thức cầu nguyện và mẫu thức cầu nguyện. 

Trước hết, về cách thức cầu nguyện, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện một cách đơn sơ nhưng đầy lòng tin tưởng vào Đấng thấu suốt mọi sự như thế này: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Đừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin". 

Sau nữa, về mẫu thức cầu nguyện, Chúa Giêsu đã tóm gọn những gì cần thiết nhất và đáng cầu nhất vào một lời nguyện vẫn được chúng ta gọi là Kinh Lạy Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen".

Kinh Lạy Cha là mẫu thức cầu nguyện này bao gồm tất cả đời sống vì Chúa và cho Chúa của chung loài người và của riêng Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Kinh Lạy Cha được cấu tạo nên bởi 2 phần rõ ràng: phần nguyện và phần xin. Phần nguyện trực tiếp đến Chúa là đối tượng chính của kinh nguyện này, và phần xin trực tiếp đến chủ thể đọc lên kinh nguyện này, nhưng vẫn nhắm đến đối tượng chính yếu là Chúa.

Thật vậy, phần nguyện bao gồm 3 ước nguyện thứ tự là: 1ước nguyện cho danh Cha cả sáng, 2- ước nguyện cho nước Cha được trị đến, và 3- ước nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tâm hồn nào quả thực chỉ ước nguyện và thật lòng ước nguyện như thế thì đúng là người con ngoan của Thiên Chúa là "Cha trên trời". 

Thế nhưng muốn có một tấm lòng chỉ ước nguyện 3 điều chính yếu trên liên quan đến Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa là Cha (Danh Cha - Sự Sống Hằng Hữu), và Con (Nước Cha - Sự Sống Thần Linh) và Thánh Thần (Ý Cha - Sự Sống Thông Ban), con người cần phải cầu xin cho được 3 điều tương xứng với 3 ước nguyện ở phần đầu, thứ tự như sau: 

"Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày": đó là xin Cha tỏ cho chúng con biết được những gì Cha muốn, để nhờ đó chúng con có thể chu toàn tất cả những gì Cha muốn nơi chúng con cho "Danh Cha cả sáng", như Chúa Giêsu đã sử dùng lương thực của Người như thế: "Lương thực của Thày là làm theo ý Đấng đã sai Thày và hoàn tất công việc của Ngài" (Gioan 4:34); 

"Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con": đó là xin Cha cho chúng con biết sống bác ái yêu thương cho "Nước Cha trị đến", như chúng con đã được chính Cha "đã chứng tỏ lòng yêu thương đối với chúng con khi chúng con đang còn là tội nhân" (Rôma 5:8), nơi Con Một của Cha là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã "đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28), trong đó có chúng con.

"Xin Cha chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ": đó là xin Cha cho chúng con luôn luôn biết tuyệt đối trung thành với Ý Muốn vô cùng khôn ngoan và nhân hậu của Cha ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự, bất chấp mọi chước cám dỗ và thắng vượt tất cả mọi xu hướng bất trung và phản bội, nhờ "Đấng Phù Trợ" được sai đến để "chứng tỏ cho thế gian biết họ sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt (xem Gioan 16:8).

Có thể nói cốt lõi của Kinh Lạy Cha là ở ngay tâm điểm của kinh này, tức ở lời nguyện thứ 3 (thuộc phần đầu) và lời cầu thứ 1 (thuộc phần sau). Thật vậy, "danh Cha" không thể "cả sáng" (ước nguyện 1) và "Nước Cha" không thể "trị đến" (ước nguyện 2), nơi chúng ta nếu chúng ta không "ước nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" (ước nguyện 3).

Và cũng chính vì "ước nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" mới "xin Cha tha nợ chúng con" (lời cầu 2), tức tha cho những gì chúng ta đã không làm theo ý của Cha, hay làm trái ý Cha, làm phật ý của Cha, và mới "xin Cha đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ" (lời cầu 3), nghĩa là xin Cha đừng để cho chúng con bao giờ làm mất lòng cha là sự dữ trên hết mà chúng con cần phải tránh.

Một mẫu gương sống vì Chúa và cho Chúa, sống Kinh Lạy Cha đó là Thánh Tông Đồ Phaolô, như trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy (2Corintô 11:1-11), như chính ngài đã bày tỏ: "Trong mọi sự, tôi đã giữ mình không làm phiền lòng ai, sau này, tôi vẫn giữ mình như thế. Đã có sự thật của Đức Kitô trong tôi, nên tôi không để ai giựt khỏi tôi được sự tôi khoe như thế trong khắp miền Akaia. Vì sao thế? Có phải vì tôi không yêu mến anh em chăng? Đã có Thiên Chúa biết".

Một con người sống Kinh Lạy Cha, sống chỉ vì và hoàn toàn cho Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất là Cha của mình, như Mẹ Maria, như Thánh Tông Đồ Phaolô và như các Thánh Tông Đồ, cũng như các Thánh Nhân trong giòng lịch sử Giáo Hội, quả là những kỳ công do Chúa thực hiện chứ không ai có thể tự mình sống được như vậy. 
Thánh Vịnh 110 (1-2,3-4,7-8) hôm nay đã ám chỉ ý nghĩa này qua câu Đáp Ca chính "Lạy Chúa, công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính", cũng như ở 3 câu xướng Đáp Ca như sau:


1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!  

2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Ngài muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Đấng nhân hậu từ bi. 

3) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của Người đều đáng cậy tin. Những giới răn đó được lập ra cho tới muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chánh. 

  

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

 



Thánh Sypriano diễn giảng Kinh Lạy Cha

Bài đọc 2 giờ kinh phụng vụ thứ 2 tuần XI thương niên

Lời cầu nguyện công khai và mang tính cộng đoàn

Trích khảo luận của thánh Síp-ri-a-nô, giám mục, tử đạo, về kinh Lạy Cha.

Trước hết, Đức Ki-tô, Thầy dạy hoà bình và Tôn Sư hợp nhất, không muốn cho ai cầu nguyện một mình và riêng tư, như thể người nào cầu nguyện thì chỉ cầu nguyện cho mình mà thôi. Chúng ta đâu có đọc : Lạy Cha của con, Đấng ngự trên trời, cũng không đọc : Xin Cha cho con lương thực hôm nay. Cũng chẳng phải mỗi người chỉ xin tha tội cho một mình mình, hay chỉ xin cho một mình mình khỏi sa chước cám dỗ và được cứu khỏi sự dữ. Lời cầu nguyện của chúng ta là lời cầu nguyện công khai và mang tính cộng đoàn. Rồi khi cầu nguyện, chúng ta không cầu cho một người mà cho toàn dân, bởi toàn dân chúng ta đã nên một.

Đấng vừa là Thiên Chúa của bình an, vừa là Tôn Sư của hoà thuận, vẫn giảng dạy sự hợp nhất. Người muốn mỗi người chúng ta phải cầu nguyện cho mọi người, cũng như một mình Người đã mang lấy mọi người nơi bản thân mình. Luật cầu nguyện đó, ba thanh niên đã tuân giữ khi bị quăng vào lò lửa : cả ba người chung lời chung tiếng trong một kinh nguyện, đồng tâm nhất trí trong một tinh thần. Kinh Thánh khẳng định điều đó : Khi cho biết cách thức các thanh niên cầu nguyện, Kinh Thánh nêu gương cho chúng ta bắt chước mà cầu nguyện theo, để chúng ta cũng được như ba người ấy. Kinh Thánh kể : Bấy giờ, trong lò lửa, cả ba người ấy đều đồng thanh ca ngợi, tôn vinh và chúc tụng Thiên Chúa. Cả ba như một, các chàng trai đã đồng thanh cất tiếng, mặc dầu lúc đó, Đức Ki-tô chưa dạy các anh cầu nguyện.

Chính vì thế mà lời cầu nguyện của họ có thế giá và hữu hiệu, bởi lời cầu nguyện nào phát xuất tự tâm hồn bình an và đơn thành thì đẹp lòng Chúa. Sau khi Chúa về trời, chúng ta thấy các Tông Đồ cùng nhóm môn đệ cầu nguyện với nhau như thế. Sách Thánh nói : Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a, thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su. Các vị ấy đã đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện. Vừa thiết tha vừa một lòng một ý trong khi cầu nguyện, các vị ấy nói lên cho mọi người biết rằng : Thiên Chúa, Đấng cho những người đồng tâm nhất trí được ở trong một nhà, sẽ chỉ đón nhận vào ngôi nhà vĩnh cửu của Người những ai biết đồng tâm nhất trí với nhau trong kinh nguyện.

Bài đọc 2 giờ kinh phụng vụ thứ 3 tuần XI thương niên

Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển

Trích khảo luận của thánh Síp-ri-a-nô, giám mục, tử đạo, về kinh Lạy Cha.

Chúa Ki-tô khoan dung với chúng ta dường nào ! Lòng nhân hậu và từ ái của Người bao la biết mấy ! Người đã muốn chúng ta dâng lời kinh này trước Tôn Nhan mà gọi Thiên Chúa là Cha, và, như Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa, chúng ta cũng được gọi là con Thiên Chúa. Khi cầu nguyện, không ai trong chúng ta dám động tới danh xưng này, nếu chính Đức Ki-tô không cho phép cầu nguyện như thế. Vậy, anh em thân mến, chúng ta phải ghi lòng tạc dạ điều này : được gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta phải xử sự như con cái của Người, để, chúng ta vui sướng vì có Thiên Chúa là Cha thế nào, thì Người cũng vui sướng về chúng ta như vậy.

Chúng ta hãy sống như những đền thờ của Thiên Chúa, cho người ta thấy rõ Chúa ngự trong chúng ta. Đừng làm gì bất xứng với Thần Khí. Đã là người của Thần Khí và của thiên giới, thì chúng ta chỉ nên nghĩ và làm những gì thuộc về Thần Khí và về thiên giới, vì chính Đức Chúa là Thiên Chúa đã phán : Những kẻ coi trọng Ta thì Ta coi trọng, còn những kẻ khinh dể Ta thì bị khinh thường. Thánh Phao-lô tông đồ cũng ghi lại trong thư của người rằng : Anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.

Sau đó, chúng ta đọc : Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển (nghĩa là được hiển thánh). Đọc như thế không phải là chúng ta ước mong cho Thiên Chúa được hiển thánh nhờ những lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng là chúng ta xin Chúa cho danh Người được hiển thánh nơi chúng ta. Đàng khác, ai làm cho Thiên Chúa hiển thánh được khi chính Người là Đấng thánh hoá ? Nhưng vì chính Người đã phán : Các ngươi phải sống thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh, nên chúng ta cầu xin khẩn nguyện, để một khi đã được thánh hoá trong bí tích Thánh Tẩy, chúng ta kiên trì trong cuộc sống mới đã khởi đầu. Hằng ngày chúng ta cầu xin như thế. Thật vậy, chúng ta phải lo nên thánh mỗi ngày, để tẩy rửa tội lỗi mình, vì ngày nào chúng ta cũng sai lỗi.

Nhưng ơn thánh hoá Thiên Chúa thương ban cho chúng ta là gì ? Thánh Tông Đồ dạy như sau : Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp. Trước kia, có vài người trong anh em đã là như thế. Nhưng anh em được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô, và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta. Người muốn nói là chúng ta đã được thánh hoá nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô và trong Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta. Chúng ta cầu xin cho ơn thánh hoá này tồn tại mãi nơi chúng ta. Đấng là Chúa và là Thẩm Phán chúng ta đã truyền cho kẻ được Người chữa lành và phục hồi sự sống là đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước, nên chúng ta không ngừng cầu nguyện để được ơn ấy. Ngày cũng như đêm, chúng ta khẩn cầu Thiên Chúa bảo vệ, giữ gìn ơn thánh hoá và sự sống mới mà Người đã thương ban.

Bài đọc 2 giờ kinh phụng vụ thứ 4 tuần XI thương niên

Triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện

Trích khảo luận của thánh Síp-ri-a-nô, giám mục, tử đạo, về kinh Lạy Cha.

Tiếp đến là lời nguyện : Xin làm cho triều đại Cha mau đến. Chúng ta xin cho triều đại của Thiên Chúa mau trở thành hiện thực cho chúng ta, cũng như xin cho danh Người hiển thánh nơi chúng ta. Vì có bao giờ Thiên Chúa lại không hiển trị đâu ? Hay cái vẫn đã có nơi Người và không khi nào chấm dứt lại phải có lúc bắt đầu ư ? Chúng ta xin cho triều đại của chúng ta mau đến, triều đại mà Thiên Chúa đã hứa ban và Đức Ki-tô đã chịu thương khó và đổ máu ra để dành lại cho chúng ta. Như vậy, chúng ta đã sống thân phận tôi đòi nơi trần thế trước, thì về sau, đến thời Đức Ki-tô thống trị, chúng ta cũng sẽ được hiển trị như chính Người đã hứa : Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.

Nhưng, anh em thân mến, cũng có thể chính Đức Ki-tô là triều đại của Thiên Chúa. Ngày ngày chúng ta mong cho triều đại ấy mau đến, chúng ta muốn cho triều đại ấy sớm trở thành hiện thực cho chúng ta. Bởi chưng, nếu chính Người là sự sống lại -vì trong Người chúng ta được sống lại-, thì cũng có thể hiểu chính Người là triều đại của Thiên Chúa -, vì trong Người chúng ta sẽ được cai trị. Chúng ta cầu xin cho triều đại của Thiên Chúa mau đến là phải. Đó là triều đại thiên quốc, vì cũng có một triều đại thế gian. Nhưng ai đã từ khước đời này, người đó vượt xa mọi danh giá và quyền cai trị trên đời này.

Rồi chúng ta đọc thêm : Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Chúng ta không xin Thiên Chúa thực hiện điều Người muốn, nhưng xin cho chúng ta có sức thi hành điều Thiên Chúa muốn. Bởi chưng ai dám ngăn cản không cho Thiên Chúa hành động như Người muốn ? Nhưng vì ma quỷ ngăn cản không cho tâm hồn và hành vi của chúng ta tuân phục Thiên Chúa trong mọi sự, nên chúng ta mới cầu xin khẩn nguyện cho ý của Thiên Chúa thể hiện nơi chúng ta. Nhưng muốn cho ý Thiên Chúa được thể hiện nơi chúng ta, thì lại cần có ý của Người, tức là cần có sức mạnh và sự chở che của Người, vì không ai mạnh mẽ tự sức mình, nhưng người ta chỉ được an toàn nhờ lượng khoan dung và lòng thương xót của Thiên Chúa. Sau cùng, chính Chúa cũng đã cho thấy Người phải mang lấy thân phận hèn yếu của con người khi thưa lên : Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng rồi, để nêu gương cho các môn đệ đừng làm theo ý mình, mà theo ý Thiên Chúa, Người nói thêm : Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.

Thánh ý Thiên Chúa chính là những gì Đức Ki-tô đã làm và đã dạy : ăn ở khiêm tốn, giữ vững đức tin, nói năng thận trọng, hành động công chính, làm việc từ thiện, sống có kỷ cương ; không hề làm hại ai, nhưng kiên nhẫn chịu đựng khi người khác làm hại mình ; sống hoà thuận với anh em ; yêu mến Chúa hết lòng : yêu mến Người vì Người là Cha, kính sợ Người vì Người là Thiên Chúa ; không lấy gì làm hơn Đức Ki-tô, vì Đức Ki-tô đã không lấy gì làm hơn chúng ta ; không chi có thể tách chúng ta khỏi lòng mến của Người, can đảm trung kiên đứng kề bên thập giá Người ; khi phải chiến đấu vì danh Người và vì vinh dự của Người, lời lẽ sẽ tỏ ra một mực kiên quyết tuyên nhận Người. Khi bị tra tấn thì tỏ ra đầy lòng tin tưởng mà xông vào cuộc chiến ; và khi chịu chết thì đầy lòng kiên nhẫn để được lãnh triều thiên ân thưởng. Làm như thế là muốn nên đồng thừa tự với Đức Ki-tô. Làm như thế là chu toàn thánh ý Chúa Cha.  


Bài đọc 2 giờ kinh phụng vụ thứ 5 tuần XI thương niên

Sau khi xin lương thực, chúng ta xin ơn tha tội

Trích khảo luận của thánh Síp-ri-a-nô, giám mục, tử đạo, về kinh Lạy Cha.

Chúng ta tiếp tục cầu nguyện và thưa lên : Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Có thể hiểu câu này vừa theo nghĩa thiêng liêng, vừa theo nghĩa đen, vì do ý định của Thiên Chúa, thì cả hai nghĩa đều hữu ích cho ơn cứu độ của chúng ta. Bởi chưng, bánh ban sự sống chính là Đức Ki-tô, và bánh ấy không phải ai cũng được mà chỉ có chúng ta thôi. Và vì Thiên Chúa là Cha của những ai nhận biết và tin kính Người, nên chúng ta đọc Lạy Cha chúng con thế nào, thì chúng ta cũng nói “lương thực của chúng con” như thế, vì Đức Ki-tô chính là bánh của những ai thuộc về thân thể Người như chúng ta.

Vậy hằng ngày chúng ta xin Chúa Cha ban bánh này cho chúng ta để, đang lúc chúng ta ở trong Đức Ki-tô và hằng ngày lãnh nhận Thánh Thể Người làm của ăn đem lại ơn cứu độ, chúng ta không bị tách ra khỏi thân thể của Đức Ki-tô vì mắc phải một tội nặng nào đó khiến chúng ta bị loại, không được hiệp thông với anh em và không được ăn bánh bởi trời như Người đã giảng dạy : Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.

Chúa nói : Ai ăn bánh Người ban, thì sẽ sống đời đời. Vậy rõ ràng là những ai kết hợp với thân thể Người và rước lễ trong tình hiệp thông ấy thì sẽ được sống. Cho nên, phải sợ hãi mà cầu nguyện, kẻo có ai xa lìa thân thể Đức Ki-tô mà mất ơn cứu độ, bởi chính Người đã răn dạy chúng ta : Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Chính vì thế, hằng ngày, chúng ta xin Chúa Cha ban bánh là Đức Ki-tô cho chúng ta, để chúng ta được ở lại và sống trong Đức Ki-tô, không bao giờ phải lìa xa ơn thánh hoá và thân thể Người.

Sau đó, chúng ta xin Chúa Cha tha tội cho chúng ta. Chúng ta đọc : Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con. Xin ban lương thực rồi, chúng ta cũng xin ơn tha tội nữa.

Nghe lời Chúa khuyên dạy mà nhớ mình là kẻ tội lỗi, điều đó cần thiết biết bao, hợp lẽ khôn ngoan và ích lợi dường nào ! Chúng ta được Chúa thúc giục xin ơn tha thứ để, đang khi xin Chúa Cha tỏ lòng khoan dung, lòng trí chúng ta nhớ lại tình trạng lương tâm của mình. Chúa muốn đừng ai trong chúng ta tự mãn như chẳng có tội lỗi gì, rồi tự cao tự đại mà hư hỏng thêm, nên đã dạy cho chúng ta biết là ngày nào chúng ta cũng phạm tội, và truyền cho chúng ta ngày nào cũng phải xin ơn tha thứ.

Thánh Gio-an cũng khuyên dạy chúng ta trong thư của người : Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta. Trong thư, người đề cập cả hai điều : một là chúng ta phải xin ơn tha tội, hai là chúng ta sẽ được hưởng lòng khoan dung của Chúa Cha khi chúng ta xin. Vì vậy, Người nói : Chúa là Đấng trung thành sẽ giữ lời đã hứa mà tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Người dạy chúng ta xin tha thứ tội nợ, thì cũng chính Người đã hứa rằng : Chúa Cha sẽ xót thương và ban ơn tha thứ.


Bài đọc 2 giờ kinh phụng vụ thứ 6 tuần XI thương niên

Chúng ta là con cái Thiên Chúa,
hãy ở lại trong bình an của Thiên Chúa

Trích khảo luận của thánh Síp-ri-a-nô, giám mục, tử đạo, về kinh Lạy Cha.

Đức Ki-tô đã minh thị ra thêm một điều luật. Người ra điều kiện rõ ràng và đòi buộc chúng ta : chúng ta chỉ được xin tha nợ theo mức độ chính chúng ta tha cho những người mắc nợ chúng ta. Hãy biết rằng : chúng ta sẽ không thể nào được tha tội như chúng ta xin, nếu chính chúng ta không tha cho những người xúc phạm đến chúng ta. Chính vì thế mà nơi khác, Chúa nói : Anh em đong đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy. Và tên đầy tớ được chủ tha hết nợ, nhưng không chịu tha nợ cho đồng bạn mình, thì đã bị trói lại và tống giam. Vì hắn không muốn khoan dung cho đồng bạn, nên hắn cũng mất đi lòng khoan dung ông chủ đã dành cho hắn.

Điều ấy, Đức Ki-tô chỉ thị một cách mạnh mẽ hơn các lệnh truyền khác. Người nghiêm khắc nói : Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng sẽ không tha lỗi cho anh em. Ngày phán xét, bạn sẽ không có cách chi chữa mình được, vì lúc đó bạn sẽ bị xét xử theo chính phán quyết bạn đã ra cho mình ; bạn đã hành động ra sao thì sẽ phải gánh chịu như vậy.

Quả thế, Thiên Chúa đã dạy phải sống hoà thuận và đồng tâm nhất trí với nhau trong nhà Người. Khi tái sinh chúng ta, Người đã làm cho chúng ta nên như thế nào, thì Người muốn là khi được tái sinh rồi, chúng ta cứ tiếp tục sống như thế, để, vì là con Thiên Chúa, chúng ta ở lại trong niềm bình an của Thiên Chúa, và vì cùng chung một thần khí, chúng ta cũng chung một lòng một dạ với nhau. Cũng thế, Thiên Chúa đã không nhận lễ vật của kẻ bất hoà, và truyền cho họ phải rời bàn thờ, quay về làm hoà với anh em trước đã, rồi Người mới có thể vui nhận những lời cầu xin phát xuất từ một tâm hồn hoà thuận. Đối với Thiên Chúa, lễ tế cao cả nhất là niềm bình an, là tình huynh đệ thuận hoà và là một đoàn dân hợp nhất nhờ mối hợp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

A-ben và Ca-in là những người đầu tiên dâng của lễ, nhưng Thiên Chúa chẳng nhìn đến lễ vật, mà nhìn tận cõi lòng. Người vui với tấm lòng của ai thì cũng vui với lễ vật của người ấy. A-ben hiếu hoà và công chính ; khi dâng lễ tế lên Thiên Chúa với tâm hồn trong sạch, ông đã dạy những ai muốn đến bàn thờ dâng của lễ, cũng phải có lòng kính sợ Thiên Chúa, có trái tim đơn thành, phải giữ luật công chính và sống trong bình an hoà thuận. Khi dâng lễ tế lên Thiên Chúa, A-ben đã là con người như thế. Sau đó, chính ông được trở thành hy lễ dâng lên Thiên Chúa thì cũng rất phải lẽ. Ông được nhìn nhận là vị tử đạo đầu tiên, là người đã khởi sự cuộc Thương Khó của Chúa khi đổ máu vinh quang của mình, vì ông vừa sống đức công chính của Chúa, vừa giữ được niềm bình an. Những người như ông cuối cùng sẽ được Chúa ân thưởng và được chia sẻ vinh quang với Chúa.

Còn người bất thuận, chia rẽ và không sống hoà bình với anh em, thì theo lời chứng của thánh tông đồ Phao-lô và của Kinh Thánh, dầu có bị giết vì danh Chúa, người đó cũng không thoát khỏi lời cáo buộc về tội bất bình với anh em, như đã chép : Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân thì không được vào Nước Trời và không được ở cùng Thiên Chúa. Ai muốn bắt chước Giu-đa hơn là bắt chước Đức Ki-tô, thì không thể ở với Đức Ki-tô được.


Bài đọc 2 giờ kinh phụng vụ thứ 7 tuần XI thương niên

Đừng cầu nguyện bằng lời nói mà thôi,
phải cầu nguyện bằng cả việc làm

Trích khảo luận của thánh Síp-ri-a-nô, giám mục, tử đạo, về kinh Lạy Cha.

Anh em thân mến, có gì lạ khi lời cầu nguyện Thiên Chúa dạy chúng ta lại tuyệt vời đến thế. Người lấy quyền giáo huấn mà tóm gọn mọi ý nguyện của chúng ta trong một lời kinh cứu độ. Ngôn sứ I-sai-a đã báo trước điều này khi ông được đầy Thánh Thần để nói về quyền uy và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ngôn sứ nói : Đây là lời bao gồm và tóm gọn tất cả ơn cứu độ, vì Thiên Chúa sẽ làm cho lời vắn tắt này vang dội trên toàn trái đất. Quả thật, khi lời Thiên Chúa là chính Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đến với mọi người, quy tụ người thông thái cũng như kẻ ngu si, công bố những lệnh truyền cứu độ cho hết thảy nam phụ lão ấu, thì Người đã làm một bản tổng lược tóm tắt mọi lệnh truyền của Người, để những ai muốn học hỏi giáo huấn Người đem xuống từ trời khỏi phải mệt trí nhớ, nhưng mau thuộc những điều cần thiết cho một đức tin đơn thành.

Khi muốn dạy cho chúng ta biết thế nào là sự sống vĩnh cửu, Người tóm gọn về mầu nhiệm sự sống trong một câu vừa vắn tắt vừa siêu việt như sau : Sự sống đời đời, đó là chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giê-su Ki-tô. Cũng thế, khi muốn lựa ra những huấn lệnh hàng đầu và quan trọng hơn trong Lề Luật và các ngôn sứ, Người nói : Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Thiên Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Đó là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là : ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn Sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy. Người còn nói : Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó.

Thiên Chúa dạy chúng ta đừng cầu nguyện bằng lời nói mà thôi, nhưng cầu nguyện bằng cả việc làm. Chính Người vẫn năng cầu xin khẩn nguyện và lấy gương sáng làm chứng cho chúng ta biết phải làm gì, như có lời chép : Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện, và nơi khác : Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa.

Nhưng Chúa không cầu xin khẩn nguyện cho mình -Đấng vô tội mà cầu xin cho mình sao được ?- Người cầu nguyện cho chúng ta là những kẻ tội lỗi, như chính Người đã nói rõ với ông Phê-rô : Kìa Xa-tan đã xin được sàng anh như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Rồi về sau, Chúa lại cầu xin Chúa Cha cho tất cả mọi người : Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha. Xin cho họ cũng được nên một trong chúng ta.

Thiên Chúa tỏ lòng nhân từ thương xót vô biên khi cứu độ chúng ta : đổ máu ra chuộc lấy chúng ta, Người chưa thoả lòng. Người còn cầu xin cho chúng ta nữa. Bạn hãy xem Người muốn gì khi cầu xin. Người muốn rằng Chúa Cha và Chúa Con là một thế nào, chúng ta cũng ở lại trong chính sự hợp nhất ấy như vậy.

 

 

Thứ Sáu

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 11, 18. 21b-30

"Không kể những việc bên ngoài, lại còn những việc thúc bách hằng ngày và mối lo lắng đến các Giáo hội".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, vì có nhiều kẻ khoe khoang về xác thịt, thì tôi đây, tôi cũng sẽ tự khoe khoang. Tôi xin nói như điên dại rằng: ai tự phụ về điều gì, thì tôi cũng tự phụ như vậy. Họ là những người Do-thái, thì tôi cũng vậy; họ là những người Israel, thì tôi cũng vậy; họ là dòng dõi Abraham, thì tôi cũng vậy; họ là tôi tớ Ðức Kitô, tôi xin nói như mê sảng rằng: tôi còn hơn họ nữa, tôi đã chịu khó nhọc hơn, năng bị tù hơn, chịu đòn vọt quá mức, liều mình chết nhiều lần, bị người Do-thái đánh đòn năm lần, mỗi lần kém một roi đầy bốn chục. Ba lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, và một ngày một đêm chơi vơi ngoài biển khơi. Hành trình thường xuyên, gặp nhiều nguy hiểm vì sông ngòi, nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì người đồng chủng, nguy hiểm vì người dân ngoại, nguy hiểm trong thành phố, nguy hiểm trên rừng, nguy hiểm ngoài biển cả, nguy hiểm bởi những anh em giả; chịu lao đao vất vả, hay phải thức khuya, đói khát, hay phải nhịn ăn, chịu lạnh rét, mình trần. Không kể những việc bên ngoài, lại còn những việc thúc bách hằng ngày, và mối lo lắng đến các giáo hội. Nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Nào ai vấp phạm mà tôi chẳng xót xa? Nếu phải khoe khoang, thì tôi sẽ khoe khoang những yếu đuối của tôi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Thiên Chúa cứu người hiền đức khỏi mọi nỗi lo âu (x. c. 18b).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Ðáp.

3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 19-23

"Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó. Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"

Ðó là lời Chúa. 

 

 

Related image

 

Kho tàng sự sống

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XI Thường Niên, Giáo Hội tiếp tục với bài Giảng Trên Núi của Thánh Ký Mathêu (6:19-23), một bài Phúc Âm ngay sau Kinh Lạy Cha của bài Phúc Âm hôm qua, như thể ý nghĩa của hai bài Phúc Âm có liên hệ mật thiết với nhau, ở chỗ, nếu sống Kinh Lạy Cha thì phải sống như lời Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm hôm nay về một tấm lòng không còn dính bén với bất cứ sự gì trên trần gian này nữa, trái lại, chỉ tìm kiếm những gì siêu nhiên cao cả chân thật nhất thuộc về trời, vĩnh viễn, bất diệt: 

"Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất". 

Tuy nhiên, để được như vậy, theo lời Chúa Giêsu phán dạy, con người môn đệ của Người cần phải có một tấm "lòng thanh sạch" (Mathêu 5:8) mới thấy được "tất cả sự thật" (Gioan 16:13) mà chọn lựa, theo đuổi và chiếm hưởng, và phải chăng Chúa Giêsu muốn ám chỉ tấm "lòng thanh sạch" đây chính là "con mắt" như "đèn soi" cho bản thân cùng cuộc đời của con người: 

"Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"

Thực tế sống đạo cũng cho thấy tỏ tường là tất cả mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm và phản ứng hay đáp ứng của con người đều lệ thuộc vào hay phát xuất từ tấm lòng của con người. Nếu ai có tấm lòng tốt thì họ nhìn mọi sự đều tốt họ họ làm điều tốt, ngược lại, ai có một tấm lòng không tốt thì họ xu hướng về những ý nghĩ xấu, nói năng những điều không hay và tác hành những chuyện không lành v.v. "Lòng đầy mới tràn ra ngoài miệng" (Mathêu 12:34) là thế, và đó cũng là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".  

Theo tu đức Kitô giáo cũng thế, để một số tâm hồn nào đó được siêu thoát khỏi trần thế, sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian, Thiên Chúa thường hay thanh tẩy lòng họ cho khỏi tất cả mọi vương vấn, quyến luyến, dính bén với bất cứ một tạo vật nào, dù thánh hảo và tốt lành mấy chăng nữa, ngoài chính Thiên Chúa. 

"Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó. Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?" 

Trong Thứ 2 gửi Giáo đoàn Corinto ở Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy một gương sống thật là trung thực với những gì Chúa Giêsu khuyên dạy các môn đệ của Người ở trong Bài Phúc Âm: "tích trữ cho mình kho tàng trên trời..., kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó.... mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng".

Thật vậy, Nếu vị tông đồ Dân Ngoại trong Bài Đọc 1 hôm nay không có "con mắt sáng" là đức khôn ngoan thần linh bởi Thần Chân Lý ở trong ngài và tác động nơi ngài, thì ngài không thể ôm ấp trong lòng mình "kho tàng trên trời" là Chúa Kitô cùng với Phúc Âm của Người, là Tin Mừng ngài rao giảng cho dân ngoại, với tất cả "mối lo lắng đến các giáo hội". đến độ, ngài chẳng những không còn thiết gì trên đời này, thậm chí còn coi mọi sự như phân bớn, mà còn sẵn sàng bất chấp mọi sự và bằng mọi giá, cho dù có phải trải qua những tình trạng thật là bất hạnh và khốn khổ nhất, dồn dập, liên tục, như ngài đã không ngần ngại và giấu diếm tiết lộ cho chúng ta biết trong Bài Đọc 1 hôm nay như sau:

 "... tôi đã chịu khó nhọc hơn, năng bị tù hơn, chịu đòn vọt quá mức, liều mình chết nhiều lần, bị người Do-thái đánh đòn năm lần, mỗi lần kém một roi đầy bốn chục. Ba lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, và một ngày một đêm chơi vơi ngoài biển khơi. Hành trình thường xuyên, gặp nhiều nguy hiểm vì sông ngòi, nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì người đồng chủng, nguy hiểm vì người dân ngoại, nguy hiểm trong thành phố, nguy hiểm trên rừng, nguy hiểm ngoài biển cả, nguy hiểm bởi những anh em giả; chịu lao đao vất vả, hay phải thức khuya, đói khát, hay phải nhịn ăn, chịu lạnh rét, mình trần".

Tất cả những gì Thánh Phaolô diễn tả trên đây về thân phận của một vị tông đồ dân ngoại như ngài, cho chúng ta thấy đức tin tuân phục của ngài mãnh liệt biết bao vào chính Đấng đã thương tuyển chọn ngài như là một đứa con sinh non, đã tin tưởng vào một con người đã từng hung hăng bách hại Giáo Hội Chúa ngay vào giây phút đầu tiên, và đã sai ngài đi làm chứng về Người cho đến tận cùng trái đất. Lòng tin tưởng của ngài vào Chúa phản ảnh tâm tình của Thánh Vịnh 33 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.

2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ.

3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.

 

 

 

Thứ Bảy sau Chúa Nhật 11 Quanh Năm

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 12, 1-10

"Tôi sẽ khoe khoang những yếu đuối của tôi".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu phải khoe mình, - thật chẳng có ích gì, - thì tôi sẽ nói đến những thị kiến và những mạc khải Chúa tỏ ra. Tôi biết có người kia trong Ðức Kitô, cách đây mười bốn năm, lúc bấy giờ có ở trong thể xác, tôi không biết, hoặc ở ngoài thân xác, tôi cũng không biết, có Chúa biết, người ấy được đem lên tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng: lúc bấy giờ, người ấy có ở trong thân xác hay ở ngoài thân xác, tôi không biết, có Thiên Chúa biết, đã được đem lên Thiên Ðàng, và được nghe những lời mầu nhiệm không được nói với loài người. Vì người ấy, tôi sẽ khoe mình: nhưng tôi sẽ không khoe mình vì tôi về một điều gì, ngoài những sự yếu đuối của tôi. Vì nếu tôi muốn khoe mình, tôi sẽ không ngu dại, bởi tôi sẽ nói sự thật, nhưng tôi xin miễn, kẻo có người đánh giá tôi cao hơn điều họ thấy hoặc nghe về tôi. Và để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế, đã ba lần tôi van nài Chúa để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán cùng tôi rằng: "Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối".

Vậy tôi rất vui sướng về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ, khốn khó vì Ðức Kitô: bởi khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 8-9. 10-11. 12-13

Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).

Xướng: 1) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao, phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.

2) Các thánh nhân của Chúa, hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. - Ðáp.

3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. - Ðáp. 

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 24-34

"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?

"Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Related image

 

Ký Thác Sự Sống

 

Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XI hôm nay là đoạn cuối cùng của chương 6 (24-34), đoạn Chúa Kitô huấn dụ các tông đồ về lòng tin tưởng phó thác vào sự quan phòng thần linh của Thiên Chúa bằng việc ưu tiên hóa những gì chính yếu liên quan đến phần rỗi và sự thánh hóa của con người.  

"Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?" 

Để rồi, sau khi chứng minh cho các môn đệ biết các vị còn quí hơn loài động vật (như "chim trời) và thực vật (như "hoa huệ ngoài đồng") là những loài vô tri thua kém con người, "không gieo vãi, gặt hái, thu hoạch" hay "không lam lũ, không canh cửi", mà còn được Thiên Chúa chăm sóc cho, đến độ Salomon sang trọng cũng "không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó", Người đã khuyên các môn đệ rằng: 

"Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: 'Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó".  

Sau cùng Người đã kết luận"Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".

Cũng như hôm qua, chúng ta lại thấy những lời Chúa Giêsu khuyên dạy các tông đồ về lòng tin tưởng vào Thiên Chúa trong Bài Phúc Âm hôm nay đều được ứng nghiệm và nên trọn nơi vị tông đồ dân ngoại Phaolô ở Bài đọc 1 hôm nay, như ngài thuật lại trong Thư 2 gửi Giáo đoàn Corinto của ngài. Hôm qua chúng ta đã thấy được lòng tin của ngài, một lòng tin bất khuất và thắng vượt tất cả mọi gian nan khốn khó gây ra bởi chính sứ vụ tông đồ của ngài, một lòng tin nhờ đó đã khiến ngài thần hiệp với Thiên Chúa, đến độ xuất thần và ngất trí, không còn biết gì trên trần gian này nữa, ngoài những sự siêu vời khôn tả trên trời, như ngài diễn tả trong Bài Đọc 1 hôm nay về ngài là

"... có người kia trong Ðức Kitô, cách đây mười bốn năm, lúc bấy giờ có ở trong thể xác, tôi không biết, hoặc ở ngoài thân xác, tôi cũng không biết, có Chúa biết, người ấy được đem lên tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng: lúc bấy giờ, người ấy có ở trong thân xác hay ở ngoài thân xác, tôi không biết, có Thiên Chúa biết, đã được đem lên Thiên Ðàng, và được nghe những lời mầu nhiệm không được nói với loài người".

Tuy nhiên, càng được đặc ân thần hiệp siêu việt như thế, ngài lại càng cảm thấy mình bất xứng và thấy bản thân ngài yếu đuối hơn ai hết và hơn bao giờ hết, tất cả những gì tốt lành ngài có là do Chúa thương ban, kể cả những khốn khó và cám dỗ để, cái yếu hèn của ngài tiếp tục được Thiên Chúa sử dụng để tỏ quyền năng của Người ra, qua những việc làm phi thường trổ sinh hoa trái của ngài, đúng như những gì ngài đã thành thật chia sẻ với Giáo đoàn Corinto ở Bài Đọc 1 hôm nay:

"... nhưng tôi sẽ không khoe mình vì tôi về một điều gì, ngoài những sự yếu đuối của tôi. ... Và để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế, đã ba lần tôi van nài Chúa để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán cùng tôi rằng: 'Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối'. Vậy tôi rất vui sướng về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ, khốn khó vì Ðức Kitô: bởi khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ".

Chính vì vị tông đồ dân ngoại Phaolô hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, ở chỗ, ngài chỉ "tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước hết mọi sự", như ngài đã diễn tả trong Bài Đọc 1 hôm qua, mà chính bản thân "kính sợ Chúa" và "nương tựa" Chúa của ngài mới thấy được những gì Thiên Chúa làm cho riêng ngài và qua ngài cho những ai ngài được sai đến, đó là một vị "Chúa thiện hảo", hằng ở với ngài và "bênh chữa" ngài, đúng như những gì được Bài Thánh Vịnh 33 diễn tả trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao, phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người.

2) Các thánh nhân của Chúa, hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo.

3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc.  

 

Ngày 19/06: Thánh Rômualđô (951-1027)

Thánh Rômualđô là một nhà quý tộc người Ý, được sinh khoảng năm 951 tại Ravenna, nước Ý. Khi lên 20 tuổi, Rômualđô bị sốc mạnh khi thấy thân phụ ngài giết chết một người đàn ông trong một cuộc đọ kiếm tay đôi. Rồi thánh Rômualđô vào tu trong đan viện Bênêđictô. Ngài quyết tâm sống cuộc đời ngay chính. Thánh Rômualđô cũng muốn sám hối thay cho hành vi bệ rạc của người cha. Đối với Rômualđô, môi trường và lối sống của đan viện thật mới lạ vì ngài đã quen với nếp sống sang trọng, xa hoa và vô công rỗi nghề ở gia đình. Nhưng dần dần, chàng quý tộc bị ảnh hưởng sâu sắc bởi gương sáng của nhiều đan sĩ. Rômualđô quyết tâm trở nên một đan sĩ. Ngài đã xin một ẩn sĩ tốt lành tên là Marinô dạy cho cách thức nên thánh. Cả Marinô và Rômualđô đã cố gắng dùng thời giờ mỗi ngày để ca ngợi, tôn vinh và yêu mến Thiên Chúa. Thân phụ của Rômualđô là ông Sêgiô đến quan sát lối sống của con trai mình. Ông bị đánh động bởi sự đơn sơ và tinh thần bỏ mình của người con. Sêgiô nhận thức rằng chắc chắn phải có một thứ hạnh phúc đặc biệt nào đó trong đan viện – bởi vì con trai ông đã tự tình chấp nhận sống ở đó. Và đó là mọi điều Sêgiô đang cần. Ông đã từ bỏ mọi thứ của cải mình có và cũng bắt chước người con sống phần đời còn lại như một đan sĩ.

Sau cùng, thánh Rômualđô thiết lập hội dòng Camalđôlêsêô Bênêđictô. Thánh nhân đi khắp nước Ý lập thêm các ẩn viện và các đan viện. Ở bất cứ nơi đâu, thánh Rômualđô cũng đều làm gương sáng cho các đan sĩ về lòng sám hối. Suốt một năm trời, mỗi ngày Rômualđô chỉ ăn chút ít đậu luộc. Rồi cả ba năm tiếp theo, thánh nhân chỉ dùng một ít thức ăn hầu nuôi sống mình. Nhờ những hy sinh này, thánh Rômualđô sống kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa.

Thánh Rômualđô về trời ngày 19 tháng Sáu năm 1027, tại đan viện Valđi Castrô. Ngài ở một mình trong đan phòng của ngài và qua đời cách lặng lẽ âm thầm. Chắc hẳn thánh Rômualđô đã thầm thĩ lời nguyện rất được ưa chuộng này: “Ôi, lạy Đức Chúa Giêsu dịu hiền! Chúa đáng yêu mến của lòng con! Chúa là niềm khoái cảm vui thích của các linh hồn thanh khiết! Chúa là đối tượng của mọi sự con ước ao!”

Chúng ta hãy nài xin thánh Rômualđô giúp chúng ta biết quý trọng sự cầu nguyện và sự sống của Chúa Giêsu trong ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh nhân ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện những việc thiêng liêng cách liên lỉ. Thánh nhân biết khó khăn thách đố là làm sao mà!

tinmung.net

https://ungsinhdongten.net/ngay-1906-thanh-romualdo-951-1027/

 

THÁNH RÔMUALĐÔ, VIỆN PHỤ (956-1027)


Thánh Rômualdô sinh tại Ravenna năm 956, trong một gia đình danh giá nước Ý. Bá tước Sergiô, cha ngài đã phụng dưỡng ngài trong một nếp sống xa hoa. Rômualdô đã chỉ tìm vui chơi mà không nghĩ gì tới bổn phận phải nên thánh. Dầu vậy, đôi lần đi săn thú, ngài thấy mình đơn độc giữa rừng vắng và phải suy nghĩ... Ngài đặt mình vào một ngày nào đó phải chết và bỗng thấy lo âu. Ngài cũng thấy rằng các ẩn sĩ chọn đời sống cô tịch, hãm mình để hiến thân phụng sự Chúa thật là đúng đắn. Những giấc mơ như vậy thanh luyện hồn ngài và cảm kích bởi ơn thánh, ngài tự hứa với mình là sẽ cải thiện đời sống nhưng rồi trở lại với những thú vui ngày thường ngài lại lùi bước trước nỗ lực và lao mình theo các thị hiếu.


Một biến cố đau thương đã thành phương tiện Thiên Chúa dùng để gỡ Rômualđô khỏi những ràng buộc với thế gian. Sergiô cha ngài gây lộn với một người bà con về việc sở hữu một cánh đồng đã thách đấu kiếm, ông còn bắt con mình dự vào cuộc đấu. Sergiô giết chết đối thủ, coi mình là đồng loã với tội phạm này và thấy phải đền trả. Rômuadô đã vào tu viện để thống hối suốt 40 ngày. Bị đánh động bởi thực tế trái ngược hẳn với lối sống phân tán của thế gian, ngài chỉ còn nghĩ tới việc bắt chước những khắc khổ mà ngài được chứng kiến.


Bá tước Sergiô cảm kích vì mẫu gương của con mình đã vào dòng. Khi bị cám dỗ trở về đường xưa, ông lại dẫn con mình kịp thời can thiệp và tiếp tục trung thành với đời sống đền bồi cầu nguyện.


Sau 7 năm sống trong dòng, Rômuado dấn mình vào sa mạc, sống gần vị ẩn sĩ già là Marinô. Đây là bậc thầy nghiêm ngặt mà ngài đã chọn, Marinô thường lấy roi đánh trên đầu môn đệ của mình để xua đuổi sự chia trí lo ra hay để phạt một lầm lỗi khi đọc thánh vịnh, hay hơn nữa để giúp họ quen chịu khổ. Ông lại hay đánh có một phía. Rômuado không hề phàn nàn kêu trách.


Một ngày kia Ngài nói với thầy: Thưa thầy, từ nay xin thầy đánh về phía mặt vì tai trái con hầu như điếc rồi. Rômuado thầm cảm phục và kính trọng môn đệ mình.


Rômuado nuôi chí hứơng canh tân dòng Biển Đức đang thời sa sút, ngài thiết lập một tu viện. Ngài làm cho các môn đệ nhiệt tình nên hoàn hảo trong việc hãm mình, khi phải chống lại sự dữ và phạt tội lỗi, thánh nhân đã tỏ ra cương nghị, chẳng hạn khi vua Othen III đến tu viện để đền bù tội lường gạt và sát hại một thủ lãnh loạn luân, ông được truyền dạy phải đi chân không tới Nhà thờ Thánh Micae và suốt Mùa Chay, phải ở trong đồng mà ăn chay, ngủ trên rơm cỏ.


Rômuado chống gậy rảo khắp nước Ý sang cả Pháp và Đức. Ngài xây nhiều nhà thờ, thiết lập nhiều tu viện, và các trung tâm ẩn tu trong sa mạc. Ngày kia, ngài tìm được một nơi thanh vắng trong dãy Apennins. Ngài mơ thấy một cái thang bắc lên trời, có các tu sĩ lên xuống. Vị lãnh chúa miền này cho ngài cánh đồng Malđôli. Thánh nhân lập dòng Camaldules sống đời liên lỉ.


Vào tuổi 120, Thánh Rômuado từ trần, ngày 19-06-1076.


Sau 439 năm, xác ngài còn nguyên vẹn và được đặt trong nhà thờ của dòng ở Fabrianô.

 

https://giaophanvinhlong.net/thanh-romualdo.html

http://nhipcautamgiao.net/nhan-tam/hien-nhan/thanh-romualdo-vien-phu-19-6/

https://www.giaophanbaria.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/2013/06/20/ngay-198-thanh-romualdo-vien-phu.html

Ngày 19/6: Thánh Romualđô, (St.Romuald) viện phụ

Chúa nói:” Thầy bảo thật anh em: Anh em là những người đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, anh em sẽ được gấp bội và được hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp”( Mt 19, 27-29 ). Thánh Romualđô đã từ bỏ mọi vinh hoa, phú quí, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, Ngài đáng được hưởng phần thưởng nước trời.

CÁI THƯỜNG TÌNH ĐÃ TRỞ NÊN CÁI ÍCH LỢI CHO THÁNH NHÂN:

Thánh Romualđô được sinh ra trong một gia đình quyền uy thế giá. Cha mẹ Ngài là dòng dõi quí tộc bên nước Ý. Từ tuổi trưởng thành, Romualđô đã thích săn bắn thú rừng, đã thích gần gũi thiên nhiên,núi đồi, cây cỏ. Chính những cuộc săn đuổi thú rừng hết núi này qua đồi nọ, hết suối này qua bờ khe khác, đã giúp thánh nhân gần gũi thiên nhiên và cho Ngài cảm nghiệm sự thinh lặng, im lìm, tịch liêu của tâm hồn. Thiên Chúa có đường lối của Ngài: ý Ngài không ai dò thấu, dự định của Ngài chẳng ai thấy trước, không ai hiểu được. Đường của Chúa hoàn toàn kỳ diệu vì thế nhân buồn cảnh gia đình, thánh nhân đã trốn vào tu  viện Bênêđitô ở Classa. Với thời gian tu tập tốt đẹp, các Bề Trên cho Ngài được mặc áo dòng. Thánh Romualđô mau chóng trở thành tu sĩ rất nhân đức và tiến triển trên đường thánh thiện. Ngài nên gương mẫu cho anh em trong tu viện noi theo, bắt chước. Thánh nhân càng lúc càng muốn sống giống Chúa Giêsu khónghèo, nên sau ba năm sống trong tu viện Bênêđitô, thánh nhân muốn tìm kiếm con đường nhiệm nhặt, khổ hạnh hơn nữa bên cạnh bậc thầy khả kính là Marinô. Thánh nhân và thầy Marinô mỗi tuần chỉ ăn có ba ngày:lương thực là một miếng bánh mì và một nắm đậu. Mỗi ngày hai thầy trò sánh bước dưới các lùm cây, tán lá, hát thánh vịnh và ca ngợi Chúa. Nhưng ý Chúa lại thúc đẩy Ngài trở về để cải tổ các tu viện Bênêđitô đang sa sút trầm trọng sau ba năm Ngài sống xa các tu viện với Thầy khả kính Marinô. Thánh nhân đã sửa đổi các tu viện và xây cất thêm cả trăm tu viện khác nữa. Nhiều người bỏ tu ra đời, nay lại theo Ngài sống đời khổ tu, chiêm niệm. Ma quỉ vì thấy Ngài sống thánh thiện, nhiệm nhặt với lề luật, nên tìm cách phá ngài, nhưng thánh nhân đã luôn chiến thắng chúng bằng lời cầu nguyện của mình. Một số anh em trong Dòng cũng khó chịu với Ngài vì Ngài yêu thương và sống bác ái đối với các người nghèo khó, neo đơn, cô quả...Theo lời yêu cầu của Hoàng Đế Othon III và của các Thầy trong Dòng, Ngài đã nhận làm Bề Trên tu viện Classa. Nhiều bậc vị vọng, nhiều ông hoàng đã xin đi tu vì cảm mến, khâm phục cách sống và các nhân đức của thánh nhân.

Ý CHÚA NHIỆM MẦU:

Thánh nhân ước ao được đi truyền giáo cho dân tộc Hung Gia Lợi, nhưng ý Chúa nhiệm mầu lại hướng Ngài đi một lối khác. Ngài tìm đến một nơi thanh vắng trong hoang địa để sống những ngày còn lại hết mình cho Thiên Chúa. Tại nơi thanh vắng mới này, thánh nhân hoàn toàn sống chiêm niệm, cầu nguyện, ăn chay và đánh tội. Biết được ý Chúa, thánh nhân đã xin một bá tước mảnh đất ở Apennin để thiết lập một tu viện. Apennin, nơi tu viện mới của thánh nhân  bỗng trở nên trung tâm những tu viện của thánh Romualđô. Các Đức Thánh Cha kính nể, dành cho Ngài, các tu viện của Ngài nhiều đặc ân và bảo vệ, tán thành bộ luật Dòng của Ngài.

CHÚA THƯỞNG CÔNG THÁNH NHÂN và GIÁO HỘI TÔN VINH NGÀI:

Với  nhiều công đức, với sự thánh thiện, khôn ngoan của thánh nhân. Chúa đã ban cho thánh Romualđô sống tới 120 tuổi. Tuổi đời cao là một hồng ân của Chúa như thánh vịnh 15, 5-6 đã viết:” Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con chính Ngài nắm giữ. Phần tuyệt hảo may mắn đã về con. Vâng, gia nghiệp ấy làm con thỏa mãn”. Thánh Romualđô đã ra đi về với Chúa trong an bình vào mùa hè năm 1027.  Chúa đã đội mũ triều thiên cho Ngài và Giáo Hội đã mừng lễ Ngài vào ngày 19 tháng 6 mỗi năm.

Lạy Chúa, Chúa đã dùng thánh Romualđô để canh tân đời sống ẩn tu trong Hội Thánh. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình mà theo chân Đức Kitô, hầu đạt tới hạnh phúc nước trời ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Romualđô, viện phụ ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

http://www.giaophanthaibinh.org/a5035/Ngay-19-6-Thanh-Romualdo-St-Romuald-vien-phu.aspx

https://123docz.net/document/4466878-thanh-romualdo-vien-phu.htm

LINH ĐẠO XITÔ - Hội Dòng XITÔ Thánh Gia