SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XIX Thường Niên

Năm B và
Lẻ
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: 1 V 19, 4-8

"Nhờ sức của nuôi ấy, ông mới đi tới núi của Thiên Chúa".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Êlia đi một ngày đàng vào trong hoang địa. Khi đến nơi kia, và ngồi dưới gốc cây tùng, ông xin được chết mà rằng: "Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi: vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con". Rồi ông nằm ngủ dưới bóng cây tùng. Và đây Thiên Thần Chúa đánh thức ông và bảo rằng: "Hãy chỗi dậy mà ăn". Ông nhìn thấy gần đầu ông có chiếc bánh lùi và một bình nước: ông ăn uống, rồi ngủ lại. Thiên Thần Chúa trở lại đánh thức ông lần thứ hai và bảo: "Hãy chỗi dậy mà ăn: vì đường ngươi phải đi còn xa". Ông liền chỗi dậy ăn uống, và nhờ sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ. - Ðáp.

3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.

4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Ep 4, 30 - 5, 2

"Anh em hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã sống".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, anh em chớ làm phiền hà Thánh Thần của Thiên Chúa, vì trong Người, anh em được ghi ấn tín để chờ đợi ngày cứu chuộc đến. Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô. Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người: hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 6, 41-52

"Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: "Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống". Họ nói: "Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà xuống'".

Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng: "Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Ðấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: 'Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo'. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Ðấng bởi Thiên Chúa mà ra, Ðấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.

"Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Ðây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image


Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật 19 Thường Niên Năm B hôm nay vẫn tiếp tục, như 2 Chúa Nhật tuần vừa rồi, 17-18, cũng như 2 Chúa Nhật tuần tới đây, 20-21, theo Phúc Âm của Thánh ký Gioan, chứ không phải của Thánh ký Marco. Và đoạn Phúc Âm theo Thánh ký Gioan được Giáo Hội cố ý chọn cho 5 Chúa Nhật Thường Niên Năm B liền nhau này là đoạn 6, đoạn về bài giảng Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu.

 

Thật vậy, đời sống của con người trên trần gian này, nói chung, là một cuộc hành trình đức tin, dù họ là một kẻ vô đạo. Bởi tự bản chất là loài linh ư vạn vật, được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa, con người luôn hướng về và tìm kiếm chân thiện mỹ, tìm kiếm một hạnh phúc chân thật, tìm kiếm một sự sống bất diệt vô cùng bật tận v.v. Bởi thế mà họ không thể nào trọn vẹn thỏa nguyện và viên mãn cho đến khi đạt đến cùng đích của mình là Thiên Chúa.

 

Tuy nhiên, dầu sao cũng chỉ là tạo vật hữu hình và hữu hạn, thuộc hạ giới, con người chỉ xu hướng về những gì tầm thường và thấp hèn trong tầm mức và khả năng hạn hẹp của mình thôi. Nên con người mới có những suy nghĩ tự nhiên nông cạn và trần tục có thể thông cảm được của mình, như phản ứng của những người Do Thái trong Bài Phúc Âm hôm nay, dù chính họ đã chứng kiến thấy dấu lạ nơi bánh hóa nhiều họ được thưởng thức trước đó: Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà xuống'".

 

Đó là lý do họ đã được nghe chính Chúa Kitô khẳng định: “Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Ðấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” Nghĩa là, loài người muốn thấu hiểu được thực tại thần linh vô cùng siêu việt và huyền nhiệm, chẳng những phải được chính Thiên Chúa tỏ mình ra cho, mà còn phải được Ngài tác động hay soi động bề trong nữa mới hiểu được, và tác động thần linh của Ngài cần phải được con người đáp ứng bằng đức tin.

 

Thực tại thần linh được mạc khải trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến Chúa Kitô, Đấng trước mắt của con người trần thế chỉ là một nhân vật lịch sử mang tên Giêsu quê ở Nazarét, con của một bác thợ mộc Giuse tầm thường nghèo khó, như chính thành phần thính giả đã nhận định không sai về Người: "Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông".

 

Thế nhưng, tất cả sự thật về nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét này không phải chỉ có thế, mà là chính những gì được Người tỏ mình ra cho họ biết như một mạc khải thần linh và là một mầu nhiệm đức tin, như chính Người đã tuyên bố với họ ở cuối Bài Phúc Âm hôm nay:

 

"Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Ðây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".

 

Đúng thế, nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét này, tự bản thân là “bánh ban sự sống”, “bánh bởi trời xuống”, bánh ban sự sống thần linh, sự sống đích thực, sự sống bất diệt, chứ không phải sự sống thể lý, sự sống vật chất cho thân xác, như dân Do Thái đã từng được “ăn manna trong sa mạc” nhưng “đã chết”.

 

Một hình ảnh cho thấy phần nào sự sống thần linh vô cùng bật tận được Chúa Giêsu nói tới về mình là “Bánh ban sự sống” đó là, như được Sách Chư Vương Quyển 1 ở Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại, những gì được thiên thần mang đến cho tiên tri Êlia đang mệt mỏi về cả phần hồn lẫn phần xác, trên con đường tẩu thoát sau biến cố ông phục hồi đức tin cho dân Do Thái: "Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi: vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con". Rồi ông nằm ngủ dưới bóng cây tùng”.

 

Thế nhưng, chính nhờ lương thực bình thường nhưng lạ lùng này là “chiếc bánh lùi và một bình nước”, mà vị tiên tri của Chúa, sau khi ăn hai lần, “nhờ sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa”.

 

Ở câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô còn mạc khải một thực tại thần linh nữa, liên quan mật thiết bất khả phân ly với thực tại thần linh “bánh ban sự sống từ trời xuống” là bản thân Người, hay nói đúng hơn, Người đã mạc khải một cách trọn vẹn về “bánh ban sự sống … từ trời xuống” như thế này: “Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".

 

Qua câu mạc khải cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu kín đáo ám chỉ đến cuộc khổ giá của Người nói riêng và cuộc Vượt Qua của Người nói chung, một cuộc Vượt Qua trực tiếp liên quan đến thân xác của Người, ở chỗ, xác thịt của Người đã phải chịu khổ nạn và tử giá của Người “để làm giá chuộc cho nhiều người” (Mathêu 20:28), cũng là xác thịt đã sống lại từ cõi chết để tiêu diệt tội lỗi cùng sự chết và thông ban sự sống và Thánh Linh cho chung loài người qua Giáo Hội của Người.

 

Đó là lý do, cảm nghiệm được thực tại thần linh về mầu nhiệm “bánh ban sự sống… từ trời xuống” là xác thịt khổ nạn, tử giá và phục sinh của Chúa Kitô như thế mà trong Thư gửi giáo đoàn Ephêsô ở Bài Đọc 2 hôm nay, vị tông đồ dân ngoại Phaolô mới khuyên Kitô hữu ở thành này như sau:

 

“Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô. Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người: hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta”.

 

Nếu Kitô hữu biết ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô”, Đấng “đã yêu thương chúng ta và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta” như thế, nghĩa là họ cảm nhận được “Chúa thiện hảo nhường bao” (phần cuối trong câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay), họ mới có thể ngâm nga và vang lên những tâm tình hoan ca và kêu gọi của Bài Đáp Ca hôm nay:

                                                                       

1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.

2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ.

3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.

4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người.

   


Thứ Hai

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ðnl 10, 12-22

"Các ngươi hãy cắt bì lòng dạ các ngươi. Hãy yêu thương khách trọ, vì chính các ngươi cũng đã là khách trọ".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Môsê nói với dân chúng rằng: "Giờ đây, hỡi Israel, Chúa là Thiên Chúa các ngươi, đòi hỏi các ngươi điều gì, nếu không phải là kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến Người, làm tôi Chúa là Thiên Chúa các ngươi hết lòng và hết linh hồn các ngươi, tuân giữ các giới răn và nghi lễ của Thiên Chúa mà hôm nay tôi truyền cho các ngươi để các ngươi được hạnh phúc.

"Hãy xem trời và các tầng trời, trái đất và mọi sự trên mặt đất đều thuộc về Chúa là Thiên Chúa các ngươi. Nhưng Chúa chỉ quyến luyến cha ông các ngươi, đã yêu thương các ông ấy, và sau đó, trong mọi dân tộc, Người đã chọn dòng dõi kế tiếp các ông ấy là chính các ngươi như ngày hôm nay.

"Vậy các ngươi hãy cắt bì lòng dạ các ngươi, và đừng cứng cổ nữa, vì Chúa là Thiên Chúa các ngươi, là Thiên Chúa trên hết các chúa, là Chủ Tể trên hết các chủ tể, là Chúa cao cả, quyền năng và đáng khiếp sợ, là Ðấng không vị nể ai, và không để cho lễ vật hối lộ; Người giải oan cho cô nhi quả phụ, Người yêu mến người khách trọ và cho họ cơm ăn áo mặc. Vậy các ngươi hãy yêu thương khách trọ, vì các ngươi cũng đã là khách trọ trong đất Ai-cập.

"Các ngươi phải kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, và phụng sự một mình Người, phải trìu mến Người và lấy danh Người mà thề. Chính Người là Ðấng các ngươi phải ca tụng và là Chúa các ngươi. Người đã thực hiện cho các ngươi những điều trọng đại và khủng khiếp, mà mắt các ngươi đã xem thấy. Cha ông các ngươi chỉ có bảy mươi khi xuống ở Ai-cập, và nay Chúa, là Thiên Chúa các ngươi, đã làm cho các ngươi đông như sao trên trời".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20

Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa! (c. 12a)

Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa, hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion, vì Người giữ chặt các then cửa ngươi, Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.

2) Người giữ cho bờ cõi ngươi được bình an, Người dưỡng nuôi ngươi bằng tinh hoa của lúa mì. Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. - Ðáp.

3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 17, 21-26

"Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.

Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: "Thầy các ông không nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có chớ".

Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Ðòi con cái mình hay người ngoài?" Ông thưa rằng: "Ðòi người ngoài". Chúa Giêsu bảo ông rằng: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con".

Ðó là lời Chúa.


Related image

Cảm Nghiệm Suy Niệm



Nộp Thuế là Nộp Mạng (cả 2 thày trò)



Hôm nay, Thứ
 Hai Tuần XIX Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại cho chúng ta 2 sự kiện liên quan đến lời Chúa Kitô tiên báo lần đầu tiên về cuộc Vượt Qua của Người và liên quan đến vấn đề nộp thuế đền thờ của Người.
Lời Chúa Kitô tiên báo lần đầu tiên về cuộc Vượt Qua của Người: "Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilêa, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại'. Các môn đệ buồn phiền lắm".
Vấn đề nộp thuế đền thờ của Người: "Khi thầy trò tới Caphanaum, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi Phêrô: 'Thầy của các anh không nộp thuế sao?' Ông đáp: 'Có chứ!' Ông về tới nhà, Chúa Giêsu đón hỏi ông: 'Anh Si-môn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?' Phêrô đáp: 'Thưa, người ngoài'. Chúa Giêsu liền bảo: 'Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh'".
Có thể nói 2 sự kiện này có liên hệ mật thiết với nhau, chứ không phải là hai sự kiên hoàn toàn tách biệt chẳng nhắm nhò gì với nhau. Sự kiện thứ nhất là một sự kiện lịch sử và thực hữu. Còn sự kiện thứ hai là một sự kiện cụ thể nhưng mang tính cách của một dụ ngôn, hàm chứ những ý nghĩa ám chỉ sâu xa liên quan tới sự kiện thuú nhất.
Thật vậy, sự kiện chính yếu trong bài Phúc Âm hôm nay là lời Chúa Giêsu tiên báo lần đầu tiên về cuộc vượt qua của Người tử khổ giá tới phục sinh, và sự kiện thứ hai về vấn đề nộp thuế đền thờ của cả Chúa Giêsu và Tông Đồ Phêrô là sự kiện ám chỉ đến cuộc vượt qua của riêng Chúa Giêsu, thậm chí bao gồm cả Tông Đồ Phêrô nữa.
Không phải hay sao, nếu đền thờ là nhà Cha của Người (xem Gioan 2:16), mà Người là Con của Cha, thì Người tất nhiên được ở free, tức là "con cái được miễn" không phải đóng thuế như những "người ngoài", đúng như Người đã nói với tông đồ Phêrô. 
Đền thờ ở đây đồng thời còn ám chỉ đến thân xác của Chúa Kitô (xem Gioan 2:19,21) sẽ bị trao "nộp" (chữ "nộp" trong Việt ngữ ở đây được sử dụng 2 lần cho 2 sự kiện khác nhau trong bài Phúc Âm: "nộp" thuế và "nộp" mạng) cho thành phần giáo quyền trong dân để họ ra tay phá hủy đi. Vậy việc Chúa Giêsu nộp thuế đến thờ ám chỉ việc Người bị nộp vào tay thành phần âm mưu sát hại Người.
Phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu bảo tông đồ Phêrô "ra biển thả câu" để bắt "", một sinh vật ám chỉ đến cái chết của Người trong ngôi mồ, một cái chết đã được tiên báo ở sự kiện Tiên Tri Giona ở trong bụng cá 3 ngày đêm, và nhờ cái chết này của Người mà Người mới có thể trả thuế đền thờ, ám chỉ Người mới có thể xây lại đền thờ thân thể Người bằng cuộc phục sinh của Người?
Chúng ta chắc không thắc mắc về vấn đề làm sao Chúa Giêsu lại biết được con cá đầu tiên Tông Đồ Phêrô câu được lại có "một đồng tiền bốn quan", vừa đủ trả tiền thuế đền thờ cho cả Người và tông đồ Phêrô, cho bằng thắc mắc về vấn đề tại sao số tiền ấy lại chỉ được sử dụng để trả thuế đền thờ cho "phần của Thầy và phần của anh", nghĩa là chỉ cho tông đồ Phêrô mà không cho các tông đồ khác nữa. 
Xin thưa, là vì trong các tông đồ chỉ duy mình tông đồ Phêrô là được Chúa Kitô báo cho biết trước số phận sẽ được kết thúc ra sao (xem Gioan 21:18), một số phận không khác gì của Người và như Người, nên Người đã kêu gọi vị tông đồ thủ lãnh này là "hãy theo Thày" (Gioan 21:19), nghĩa là ngài sẽ "được dự phần với Thày" (Gioan 13:8), ở chỗ ngài cũng sẽ trở thành một vị mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên như Người (xem Gioan 10:11). 

Việc Chúa Kitô, trong bài Phúc Âm hôm nay, là con cái trong nhà Cha của mình, được ám chỉ Đền Thờ Giêrusalem, không cần phải nộp thuế đền thờ mà Người vẫn làm như một người xa lạ, đã trở thành gương mẫu cho thành phần dân Chúa, một dân được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn hơn hết trong các dân tộc trên thế giới và trong trời đất này, nhưng không phải vì thế mà họ được châm chước cho việc tuân giữ các giới luật Ngài truyền, như Moisen trong Sách Đệ Nhị Luật ở Bài Đọc 1 hôm nay đã nhắc nhở họ như sau:

 

"Hãy xem trời và các tầng trời, trái đất và mọi sự trên mặt đất đều thuộc về Chúa là Thiên Chúa các ngươi. Nhưng Chúa chỉ quyến luyến cha ông các ngươi, đã yêu thương các ông ấy, và sau đó, trong mọi dân tộc, Người đã chọn dòng dõi kế tiếp các ông ấy là chính các ngươi như ngày hôm nay. Vậy các ngươi hãy cắt bì lòng dạ các ngươi, và đừng cứng cổ nữa... Các ngươi phải kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, và phụng sự một mình Người, phải trìu mến Người và lấy danh Người mà thề. Chính Người là Ðấng các ngươi phải ca tụng và là Chúa các ngươi. Người đã thực hiện cho các ngươi những điều trọng đại và khủng khiếp, mà mắt các ngươi đã xem thấy. Cha ông các ngươi chỉ có bảy mươi khi xuống ở Ai-cập, và nay Chúa, là Thiên Chúa các ngươi, đã làm cho các ngươi đông như sao trên trời".


Nếu Đền Thờ ám chỉ nơi Thiên Chúa ngự giữa dân của Ngài thì Thành Giêrusalem ám chỉ chính dân của Ngài, một thành phần dân đã đưoọc Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn, cần phải nhận biết Ngài, chúc tụng Ngài, bằng việc tuân giữ các thánh chỉ và huấn lệnh của Ngài, như Thánh Vịnh 147 ở bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận và xác tín:

1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa, hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion, vì Người giữ chặt các then cửa ngươi, Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội.

2) Người giữ cho bờ cõi ngươi được bình an, Người dưỡng nuôi ngươi bằng tinh hoa của lúa mì. Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo.

3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người.



Thánh Têrêsa Benedicta Đồng trinh tử đạo (9/8)



Edith Stein, một nữ tu Cát Minh thánh thiện, một triết gia uyên thâm và một văn sĩ sáng giá, không những ngài có ảnh hưởng lớn ở thời ấy mà ngày nay, ảnh hưởng ấy đang lan tràn trong giới triết gia và trí thức ở Ðức cũng như trên toàn thế giới. Ngài là nguồn cảm hứng cho tất cả những ai coi Thánh Giá là di sản, và cuộc đời ngài được dâng hiến cho sự đau khổ và bách hại của dân tộc Do Thái.
Sinh ngày 12 tháng Mười 1891 trong một gia đình Do Thái ở Breslau, nước Ðức, ngay từ nhỏ Edith Stein đã chứng tỏ năng lực học hỏi lạ thường, và vào lúc bắt đầu Thế Chiến I, ngài đã học xong triết và ngữ văn tại đại học Breslau và Goettingen.

Sau cuộc chiến, ngài tiếp tục cao học tại Ðại Học Freiburg và lấy bằng tiến sĩ ưu hạng về triết. Sau đó ngài là giáo sư phụ tá và là cộng tác viên của Giáo Sư Husserl, cha đẻ của hiện tượng học và cũng là người có ảnh hưởng lớn đến tư duy của thánh nữ.
Trong tất cả các ngành học hỏi, Edith Stein không chỉ tìm kiếm chân lý mà còn đi tìm chính Chân Lý và ngài đã tìm thấy ở Giáo Hội Công Giáo sau khi đọc tự truyện của Thánh Têrêsa Avila. Edith Stein được rửa tội vào ngày đầu năm 1922.
Sau khi trở lại đạo, Edith dùng toàn thời giờ để dạy học, diễn thuyết, viết lách và dịch sách, và không bao lâu ngài trở nên một triết gia và tác giả nổi tiếng, nhưng điều ngài khao khát là cuộc sống cô độc và tịnh niệm của dòng Cát Minh, là nơi ngài tận hiến cho Thiên Chúa và người dân của ngài. Trước khi Ðức Quốc Xã bách hại người Do Thái khiến ngài phải ngưng mọi hoạt động thì cha linh hướng đã đồng ý để ngài gia nhập dòng Cát Minh Hèn Mọn ở Cologne-Lindenthal vào tháng Mười năm 1933. Vào tháng Tư năm kế tiếp, ngài được mặc áo dòng và lấy tên là “Têrêsa Bênêđícta của Thánh Giá.” Vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1935, ngài khấn trọn.
Khi sự bách hại người Do Thái gia tăng mãnh liệt và điên cuồng, Sơ Têrêsa Bênêđícta nhận thấy sự nguy hiểm khi có mặt tại nhà dòng Cát Minh ở Cologne, và ngài đã xin phép bề trên để di chuyển đến một tu viện ở ngoại quốc. Vào đêm 31 tháng Mười Hai 1938, ngài bí mật vượt biên giới đến Hòa Lan là nơi ngài được tiếp đón một cách nồng nhiệt vào dòng Cát Minh ở Echt. Ở đây ngài sáng tác văn bản sau cùng là Thánh Giá Học.
Chính Thánh Giá của ngài thì ngay ở trước mặt, vì lúc ấy Ðức Quốc Xã đã xâm lăng Hòa Lan, và khi các giám mục Hòa Lan công bố lá thư mục vụ phản đối việc trục xuất người Do Thái và đuổi các học sinh Do Thái ra khỏi trường Công Giáo, thì Ðức Quốc Xã ra lệnh bắt giữ mọi người Công Giáo thuộc gốc Do Thái ở Hòa Lan. Sơ Têrêsa Bênêđícta bị bắt vào ngày 2 tháng Tám 1942, và được chở đến trại tử thần Auschwitz. Ngài chết trong phòng hơi ngạt ở Auschwitz ngày 9 tháng Tám 1942.
Vào ngày 1 tháng Năm 1987, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước cho Sơ Têrêsa Bênêđícta, và sau cùng sơ được phong thánh ngày 11 tháng Mười 1998.

Lời Nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, Chúa đã đưa Thánh Têrêsa Benedicta đến sự tròn đầy của khoa học thập giá trong giờ tử đạo của người. Xin lấp đầy chúng con sự hiểu biết ấy; và nhờ lời người chuyển cầu, xin cho chúng con luôn kiếm tìm Chúa là chân lý tối thượng, và trung tín cho đến chết đối với giao ước tình yêu đã được ký kết trong Máu Con Chúa cho ơn cứu độ của tất cả mọi người. Chúng con cầu xin.

Lời Bàn
Các sáng tác của Sơ Têrêsa Bênêđícta có đến 17 tập, phần lớn đã được dịch sang Anh ngữ. Là một phụ nữ chính trực, ngài theo đuổi chân lý mà bất cứ đâu chân lý đưa đẩy đến. Sơ Josephine Koeppel, O.C.D., người đã dịch vài cuốn sách của Sơ Têrêsa Bênêđícta, nhận xét tổng quát về vị thánh này như sau, ngài “học biết cách sống trong bàn tay Thiên Chúa.”
Lời trích
Trong bài giảng lễ phong thánh, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Vì Edith Stein là người Do Thái nên cùng với người chị là Rosa và những người Công Giáo cũng như Do Thái khác bị đưa từ Hòa Lan đến trại tập trung Auschwitz, là nơi ngài chết vì hơi ngạt. Ngày nay, chúng ta tưởng nhớ ngài với lòng tôn trọng sâu xa. Một vài ngày trước khi bị trục xuất, người phụ nữ đạo đức này đã gạt bỏ vấn đề được cứu nguy: ‘Ðừng làm như vậy! Tại sao tôi phải được miễn trừ? Không đúng sao khi tôi chẳng được ích gì từ bí tích Rửa Tội? Nếu tôi không thể chia sẻ số phận với anh chị em của tôi, đời sống của tôi chắc chắn bị tiêu diệt’.”
Với những người trẻ có mặt trong buổi lễ, đức giáo hoàng nói: “Cuộc đời các con không phải là một chuỗi không cùng của những cánh cửa mở! Hãy lắng nghe tâm hồn mình! Ðừng dừng ở ngoài mặt nhưng đi sâu vào tâm điểm của mọi sự! Và khi đến giờ, hãy có can đảm quyết định! Thiên Chúa chờ đợi các con phó thác sự tự do của mình trong bàn tay nhân ái của Người.”

Thánh Teresa Benedicta Thánh Giá Edith Stein (1891-1942)






Thứ Ba

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ðnl 31, 1-8

"Giosuê, anh hãy dũng mạnh và can đảm: anh sẽ đem dân vào Ðất Nước".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Môsê đến nói với toàn dân Israel tất cả những lời này: "Tôi hôm nay đã một trăm hai mươi tuổi. Tôi không còn đi đứng được nữa, nhất là khi Chúa đã phán cùng tôi rằng: "Ngươi sẽ không qua sông Giođan này". Chúa là Thiên Chúa của ngươi sẽ qua trước ngươi, chính Người sẽ tiêu diệt các dân tộc ấy trước mặt ngươi và ngươi sẽ thắng chúng. Chính Giosuê sẽ qua trước ngươi như Chúa đã phán. Chúa sẽ đối xử với chúng như đã đối xử với Sêhon và Og là vua người Amorê và với đất nước các vua ấy. Người đã tiêu diệt chúng. Vậy khi Chúa nộp chúng cho các ngươi, các ngươi sẽ đối xử với chúng như tôi đã truyền cho các ngươi. Hãy dũng mạnh và kiên trì, đừng sợ, đừng kinh hãi trước mặt chúng. Vì chính Chúa là Thiên Chúa các ngươi dẫn đường cho các ngươi, Người sẽ không bỏ rơi và lìa khỏi các ngươi".

Ông Môsê gọi ông Giosuê đến và nói với ông trước mặt toàn dân Israel rằng: "Hãy dũng mạnh và can đảm: vì anh sẽ đem dân này vào Ðất Nước Chúa đã thề hứa sẽ ban cho cha ông chúng; chính anh sẽ bắt thăm phân chia phần đất ấy. Chúa là Ðấng dẫn đàng cho anh, chính Người sẽ ở với anh. Người sẽ không bỏ rơi và lìa khỏi anh. Anh đừng sợ và đừng kinh hãi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Ðnl 32, 3-4a. 7. 8. 9 và 12

Ðáp: Chúa lấy dân Người làm phần riêng mình (c. 9a).

Xướng: 1) Tôi sẽ kêu cầu thánh danh Chúa. Các ngươi hãy mang sự uy linh lại cho Chúa chúng ta. Các công trình của Thiên Chúa đều hoàn hảo, và mọi đường lối của Người đều chính trực. - Ðáp.

2) Ngươi hãy nhớ lại những ngày xa xưa, hãy tưởng nghĩ lại mỗi thế hệ: Hãy hỏi cha ngươi, và người sẽ loan báo cho ngươi; hãy hỏi tổ phụ ngươi, và các ngài sẽ chỉ dạy ngươi. - Ðáp.

3) Khi Ðấng Tối Cao phân chia các dân tộc, khi Người tách biệt con cái của Ađam, Người đã thiết lập ranh giới của các nước, chiếu theo số con cái Israel. - Ðáp.

4) Nhưng Chúa lấy dân Người làm phần riêng mình, chọn Giacóp làm dây đo cơ nghiệp của Người. Chỉ có một Chúa là Ðấng dẫn đưa nó, và chẳng có Chúa nào khác ở với nó. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 18, 1-5. 10. 12-14

"Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi: "Chớ thì ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.

"Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Ðấng ngự trên trời.

"Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, Thầy bảo thật các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con trên trời không muốn để một trong những kẻ bé mọn này phải hư mất".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 18, 1-5. 10. 12-14

Image result for Mt 18, 1-5. 10. 12-14

 

Cảm Nghiệm Suy Niệm

 

Như Trẻ Nhỏ: vừa Thánh Nhân vừa Tội Nhân


Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XIX hôm nay chất chứa câu trả lời của Chúa Giêsu được các môn đệ đặt ra về vấn đề "ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời". Câu trả lời của Người như thế này: "Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: 'Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời'".
Hành động "gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông" của Chúa Giêsu cho thấy Người rất quí yêu con trẻ, và con trẻ là mô phạm cho cả thành phần môn đệ của Người, thành phần chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng của Giáo Hội được Người thiết lập. Tuy nhiên, trẻ nhỏ là mô phạm cho các vị về tinh thần mà thôi, chứ không phải về thể lý. Bởi thế, Người không bảo các vị rằng "nếu các con không hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ này...", mà là bảo các vị: "ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này...", nghĩa là việc "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" chính là việc "hạ mình xuống". 
Đúng thế, nếu "Nước Trời" đây là chính bản thân Người, mà Người đã "hóa ra như không, mặc lấy thân phận tôi đòi v.v." (Philiphê 2:6), thì chỉ có "ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này..." mới có thể nhận ra Người, chấp nhận Người và đáp ứng Người mà thôi, nghĩa là mới có thể "vào Nước Trời". Ý nghĩa sâu xa của cụm từ "vào Nước Trời" là như vậy, là đến được với Chúa Giêsu, bằng không, không thể nào, như trường hợp của thành phần luật sĩ và biệt phái vừa kiêu kỳ vừa giả hình không đơn sơ chân thật như trẻ nhỏ trong dân Do Thái. 
Chưa hết, việc "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" là "hạ mình xuống" này chẳng những giúp cho con người "vào Nước Trời" là nhận biết Chúa Kitô, mà còn trở thành "kẻ lớn nhất trong Nước Trời" nữa. Ở chỗ được Chúa Kitô yêu thích nhất, được hiệp nhất nên một với Người nhất, như một Con Trẻ Maria "đầy ân phúc" (Luca 1:28), vì Con Trẻ Maria này liên lỉ sống "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự - quả thực Con Trẻ Maria "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45). 
Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu dường như nói đến "trẻ nhỏ" ở hai ý nghĩa trái nghịch nhau. Ý nghĩa thứ nhất là tính cách bé nhỏ "khiêm nhượng" của "trẻ nhỏ" để có thể chẳng những "vào Nước Trời" là gặp gỡ Chúa Kitô mà còn trở nên cao trọng nhất trong Nước Trời là được hiệp nhất nên một với Người. Ý nghĩa thứ hai về "trẻ nhỏ" đó là tính chất "dại dột" vụng về của chúng.
Phải chăng đó là lý do ở phần sau của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã cảnh giác các môn đệ là đừng khinh dể "trẻ nhỏ" ở tính chất dại khờ vụng dại của chúng: "Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này"? Bởi vì, ngay sau đó Người nói đến tình trạng con chiên lạc: "Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao?"
Sở dĩ các môn đệ không được khinh dể thành phần "trẻ nhỏ" dại khờ hèn yếu này là vì 2 lý do: Lý do thứ nhất đó là "kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy", và lý do thứ hai đó là: "vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời".  
Thật vậy, trước nhan Thiên Chúa hằng được các thiên thần chiêm ngưỡng trên trời, biết đâu những kẻ tầm thường trên thế gian này, thậm chí những con người tội lỗi đáng khinh bỉ lại được Thiên Chúa tuyển chọn để làm những việc cả thể cho Ngài, như đã từng xẩy ra trong giòng lịch sử loài người nói chung và Giáo Hội nói riêng. Biết đâu thành phần bé mọn yếu hèn này lại biết nhận lỗi và hối lỗi trước nhan Chúa, như người thu thuế trong đền thờ mà lại nên công chính hơn người Pharisiêu cũng cầu nguyện với họ bấy giờ (xem Luca 18:13-14).
Nếu thành phần "trẻ nhỏ" dại khờ hèn yếu chẳng khác gì như "một con chiên lạc" (chứ không phải con dê), được Thiên Chúa chú ý và tìm kiếm cho đến cùng và cho bằng được như thế thì quả thực từng "con chiên lạc" là những gì rất quí báu trước nhan Thiên Chúa, đến độ "kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy" - Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật, chúng ta không thể nào lại khinh thường những gì được Thiên Chúa yêu thương quí chuộng, nhất là thành phần tội nhân vô cùng đáng thương của Ngài. 

Theo chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay, đó là muốn làm lớn thì hãy trở nên bé nhỏ, ở chỗ biết mình và tin tưởng vào Thiên Chúa toàn năng và vô cùng khôn ngoan quan phòng thần linh cho lợi ích của con người, nhờ đó Thiên Chúa mới có thể tỏ mình ta nơi họ và qua họ, nhà giải phóng Moisen, trong Sách Đệ Nhị Luật ở Bài Đọc 1 hôm nay mới khuyên bảo và trấn an chung dân Do Thái cũng như riêng Gioduệ là nhân vật trẻ trung sẽ thay ông dẫn dân Chúa vào chiếm Đất Hứa hãy tin tưởng vào Thiên Chúa của mình như sau:

"Chúa là Thiên Chúa của ngươi sẽ qua trước ngươi, chính Người sẽ tiêu diệt các dân tộc ấy trước mặt ngươi và ngươi sẽ thắng chúng. Chính Giosuê sẽ qua trước ngươi như Chúa đã phán. Chúa sẽ đối xử với chúng như đã đối xử với Sêhon và Og là vua người Amorê và với đất nước các vua ấy. Người đã tiêu diệt chúng. Vậy khi Chúa nộp chúng cho các ngươi, các ngươi sẽ đối xử với chúng như tôi đã truyền cho các ngươi. Hãy dũng mạnh và kiên trì, đừng sợ, đừng kinh hãi trước mặt chúng. Vì chính Chúa là Thiên Chúa các ngươi dẫn đường cho các ngươi, Người sẽ không bỏ rơi và lìa khỏi các ngươi".

Bài Đáp Ca hôm nay không được trích từ Thánh Vịnh mà là từ chính Sách Đệ Nhị Luật, đoạn 32, ngay sau đoạn 31 của cùng cuốn Sách Đệ Nhị Luật này ở Bài Đọc 1 hôm nay, như thể tiếp theo chiều hướng của Bài Đọc 1, đã nhắc nhở dân Chúa hãy nhận biết những gì Thiên Chúa đã làm cho họ, Đấng họ cần tin tưởng vào danh thánh của Ngài, như sau:

1) Tôi sẽ kêu cầu thánh danh Chúa. Các ngươi hãy mang sự uy linh lại cho Chúa chúng ta. Các công trình của Thiên Chúa đều hoàn hảo, và mọi đường lối của Người đều chính trực.

2) Ngươi hãy nhớ lại những ngày xa xưa, hãy tưởng nghĩ lại mỗi thế hệ: Hãy hỏi cha ngươi, và người sẽ loan báo cho ngươi; hãy hỏi tổ phụ ngươi, và các ngài sẽ chỉ dạy ngươi.

3) Khi Ðấng Tối Cao phân chia các dân tộc, khi Người tách biệt con cái của Ađam, Người đã thiết lập ranh giới của các nước, chiếu theo số con cái Israel.

4) Nhưng Chúa lấy dân Người làm phần riêng mình, chọn Giacóp làm dây đo cơ nghiệp của Người. Chỉ có một Chúa là Ðấng dẫn đưa nó, và chẳng có Chúa nào khác ở với nó.




Thứ Tư

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ðnl 34, 1-12

"Môsê qua đời tại đó như Chúa đã truyền dạy, và không còn tiên tri nào như ông đứng lên nữa".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Trong những ngày ấy, ông Môsê từ đồng bằng Moab đi lên núi Nêbô, ngọn núi Phasga, ngay trước mặt thành Giêricô. Và Chúa cho ông thấy khắp xứ Galaad cho đến Ðan, cả miền Nephtali, đất Ephraim và Manassê, cả xứ Giuđa cho đến Biển Tây, phần đất phía nam vùng đồng bằng rộng lớn Giêricô, là thành cây chà là, cho đến Sêgor. Chúa phán cùng ông rằng: "Ðây là Ðất Ta đã thề hứa với Abraham, Isaac và Giacóp bằng những lời này: "Ta sẽ ban nó cho con cháu ngươi". Ta đã cho ngươi thấy tận mắt xứ ấy, nhưng ngươi sẽ không được qua đến đó".

Môsê, tôi tớ của Chúa, đã qua đời tại đó, trên đất Moab, như Chúa đã truyền dạy. Ông được chôn cất trong thung lũng tại xứ Moab, ngay trước mặt thành Phegor. Mãi đến nay, không ai biết ngôi mộ của ông. Khi Môsê qua đời, ông được một trăm hai mươi tuổi: mắt vẫn chưa mờ và răng vẫn chưa lung lay. Con cái Israel thương khóc ông suốt ba mươi ngày trong đồng bằng Moab. Ngày thọ tang Môsê chấm dứt, thì Giosuê, con ông Nun, được đầy tinh thần khôn ngoan, vì Môsê đã đặt tay trên ông. Con cái Israel vâng lời ông, thi hành mệnh lệnh Chúa đã truyền cho Môsê.

Về sau, trong Israel không còn tiên tri nào như Môsê đứng lên nữa: ông là người Thiên Chúa từng quen mặt. Biết bao dấu lạ, kỳ công Chúa đã sai ông làm trong đất Ai-cập, chống lại Pharaon cùng tất cả triều thần và xứ sở vua ấy. Môsê đã tác oai và làm những việc kỳ diệu vĩ đại trước mắt toàn thể Israel.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 65, 1-3a. 5 và 8. 16-17

Ðáp: Chúc tụng Chúa là Ðấng đã ban cho linh hồn chúng tôi được sống (c. 20a & 9a).

Xướng: 1) Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người; hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa. - Ðáp.

2) Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa. Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta! Hỡi chư dân, hãy chúc tụng Thiên Chúa chúng tôi, và loan truyền lời ca khen Người. - Ðáp.

3) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao. Tôi đã mở miệng kêu lên chính Chúa, và lưỡi tôi đã ngợi khen Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Gc 1, 21

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng, lời đó có thể cứu thoát linh hồn anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 18, 15-20

"Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng con và nó thôi. Nếu nó nghe con, thì con đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời con, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, con hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.

"Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ.

"Thầy cũng bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Vatican News - Gospel of the Day (Matthew 18,15-20) Jesus... | Facebook

 


Cảm Nghiệm Suy Niệm

 

Quyền Bính Vô Ngộ - Chân Lý Yêu Thương



Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XIX Thường Niên, dường như có nội dung liên hệ với bài Phúc Âm hôm qua. Ở chỗ, sau khi nói về thành phần "
trẻ nhỏ" dại khờ hèn yếu như "một 
con chiên lạc", Chúa Giêsu liền nói với các môn đệ về vấn đề sửa lỗi cho nhau khi có ai lầm lỡ vấp phạm:
"Nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng con và nó thôi. Nếu nó nghe con, thì con đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời con, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, con hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế".
Căn cứ vào lời truyền dạy này của Chúa Kitô, trước hết chúng ta phải công nhận rằng chúng ta có phận sự phải sửa lỗi cho nhau, phải giúp nhau cải tiến hơn, giúp nhau nên hoàn thiện hơn, chứ không được khách quan đến dửng dưng, như thể tội ai người nấy chịu, không mắc mớ gì tới tôi, ai dại gì đụng vào nhau để họ ghét và chửi cho v.v. Nếu chúng ta có phận sự phải sửa bảo nhau, nhất là những ai có trách nhiệm phục vụ trong một đoàn thể, mà không dám lên tiếng thì chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa.
Sau nữa, về cách thức sửa lỗi cho nhau, cũng theo lời Chúa dạy, chúng ta cần phải đi từ từ, từ chỗ riêng tư, đến chỗ thêm nhân chứng, sau cùng mới tới chung cộng đồng, thậm chí cho dù bất thành chăng nữa cũng mặc kệ họ, đừng khinh thường họ, cố gắng tránh đừng động một cái là làm toáng lên, làm mất mặt nhau, khiến nạn nhân cảm thấy bị chạm tự ái, đến độ cho dù có lỗi thật đấy họ cũng trở nên bất cần và bất chấp. Như thế, thay vì chúng ta giúp nhau nên hoàn thiện hơn lại đẩy nhau vào chỗ tệ hại hơn, mất mục đích của chúng ta, hoàn toàn trái với ý muốn của Chúa.
Đường lối sửa lỗi này được Giáo Hội vẫn thường áp dụng, nhất là đối với các thần học gia chủ trương những điều về tín lý hay luân lý hoặc cả hai trái với giáo huấn của Chúa Kitô và huấn quyền truyền thống của Giáo Hội. Chẳng hạn bề trên hay giám mục địa phương của một thần học gia nào đó nói chuyện riêng với thần học gia ấy. Nếu không xong bề trên hay vị giám mục địa phương mời thêm các chuyên gia trong dòng hay trong giáo phận đến tham dự với thần học gia này để cùng nhau giải quyết vấn đề. Nếu vẫn bất thành thì vị bề trên hay giám mục địa phương sẽ trình sự vụ lên Tòa Thánh qua Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin. Sau cùng, nếu đương sự vẫn cương quyết không chấp nhận sửa sai thì buộc lòng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đành phải công khai thông báo về những sai lầm của thần học gia ấy, để bảo vệ đàn chiên của mình, trong đó có những biện pháp ngăn nga bao nhiêu có thể để tình trạng sai lầm không thể lan rộng và kéo dài hơn được nữa, như không cho vị thần học gia này giảng dạy v.v.
Dường như ở đây Chúa Giêsu áp dụng việc sửa bảo nhau này hay trách nhiệm cần phải hoàn chỉnh nhau ấy đặc biệt cho riêng các vị có thẩm quyền trong Giáo Hội. Bởi vì, sau đó Người còn nói thêm như thế này với các tông đồ: "Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ".
Ở đây, qua câu này, Chúa Giêsu như muốn bổ túc thêm về quyền bính trong Giáo Hội, một quyền bính tối thượng đã được Người trước hết trao cho riêng Tông Đồ Phêrô (xem Mathêu 16:19): "Những gì con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, sự gì con tháo cởi dưới đất trên trời cũng tháo cởi", và giờ đây Người trao cho chung tông đồ đoàn, trong đó có cả Tông Đồ Phêrô, một cơ cấu được gọi là hàng giáo phẩm của Giáo Hội hoàn vũ: "Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ".
Sở dĩ quyền bính tối thượng này được Chúa Giêsu trao cho riêng Tông Đồ Phêrô cũng như cho chung Tông Đồ Đoàn ấy trong việc phục vụ Giáo Hội của Người trên trần gian có tính cách như thể "bất khả sai lầm" như vậyđến độ dưới đât phán quyết thế nào thì trên trời cũng chấp nhận y như vậy, là vì Người vẫn tiếp tục ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế (xem Mathêu 28:20), nơi tinh thần hiệp nhất nguyện cầu của các vị, như Người đã khẳng định ở câu kết bài Phúc Âm hôm nay: 

"Thầy cũng bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".


Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã trao cho tông đồ đoàn quyền bính thay Người để quản trị Hội Thánh của Người sau này thế nào, thì trong Sách Đệ Nhị Luật ở Bài Đọc 1 hôm nay, nhân vật Moisen cũng là được Thiên Chúa sử dụng để giải phóng dân của Ngài khỏi Ai Cập, đã luôn ở với ông và qua ông điều khiển dân Chúa, cho đến khi ông qua đi như vậy:

 

"Trong những ngày ấy, ông Môsê từ đồng bằng Moab đi lên núi Nêbô, ngọn núi Phasga, ngay trước mặt thành Giêricô. Và Chúa cho ông thấy khắp xứ Galaad cho đến Ðan, cả miền Nephtali, đất Ephraim và Manassê, cả xứ Giuđa cho đến Biển Tây, phần đất phía nam vùng đồng bằng rộng lớn Giêricô, là thành cây chà là, cho đến Sêgor. Chúa phán cùng ông rằng: 'Ðây là Ðất Ta đã thề hứa với Abraham, Isaac và Giacóp bằng những lời này: 'Ta sẽ ban nó cho con cháu ngươi'.... Về sau, trong Israel không còn tiên tri nào như Môsê đứng lên nữa: ông là người Thiên Chúa từng quen mặt. Biết bao dấu lạ, kỳ công Chúa đã sai ông làm trong đất Ai-cập, chống lại Pharaon cùng tất cả triều thần và xứ sở vua ấy. Môsê đã tác oai và làm những việc kỳ diệu vĩ đại trước mắt toàn thể Israel".

 

Bởi thế, thành phần được Thiên Chúa chọn gọi và sử dụng để làm việc của Ngài, để Ngài có thể tỏ mình ra nơi họ và qua họ, những việc được gọi là "sự nghiệp" của Ngài, cần phải có được tâm tình của Thánh Vịnh 65 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:

1) Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người; hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa.

2) Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa. Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta! Hỡi chư dân, hãy chúc tụng Thiên Chúa chúng tôi, và loan truyền lời ca khen Người.

3) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao. Tôi đã mở miệng kêu lên chính Chúa, và lưỡi tôi đã ngợi khen Người.

 

 


Thứ Năm

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Gs 3, 7-10a. 11. 13-17

"Hòm giao ước của Thiên Chúa sẽ dẫn các ngươi qua sông Giođan".

Trích sách ông Giosuê.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Giosuê rằng: "Hôm nay Ta sẽ bắt đầu tôn ngươi lên trước mặt toàn thể Israel, để chúng biết rằng: Ta đã ở với Môsê thế nào, thì cũng sẽ ở với ngươi như vậy. Phần ngươi, ngươi hãy truyền lệnh này cho các thầy tư tế mang hòm giao ước rằng: "Khi các thầy đã đến sông Giođan, các thầy hãy đứng giữa lòng sông".

Rồi Giosuê nói với con cái Israel rằng: "Hãy tiến lại đây mà nghe lời Chúa là Thiên Chúa các ngươi". Và Giosuê nói: "Cứ dấu này mà các ngươi nhận biết Thiên Chúa hằng sống ở giữa các ngươi. Ðó là hòm giao ước của Thiên Chúa, chủ tể địa cầu, sẽ dẫn các ngươi qua sông Giođan. Khi các thầy tư tế mang hòm giao ước của Thiên Chúa, chủ tể địa cầu, vừa đặt chân trong nước sông Giođan, thì nước phía dưới tiếp tục chảy đi và khô cạn, còn nước phía trên thì dừng lại thành một khối".

Vậy, khi dân nhổ trại để qua sông Giođan, thì các thầy tư tế mang hòm giao ước đi trước dân. Vừa khi những người mang hòm giao ước đến sông Giođan và chân họ đụng nước, (suốt mùa gặt, sông Giođan tràn lan dọc theo hai bên bờ) thì nước từ nguồn chảy xuống dừng lại một nơi, từ xa trông như dãy núi kéo dài, từ thành Ađam đến luỹ Sarthan; còn phần nước phía dưới chảy vào biển Araba tức là Biển Mặn, thì chảy cạn hết. Dân vượt qua nhắm thẳng thành Giêricô. Các thầy tư tế mang hòm giao ước của Thiên Chúa đứng yên trên đất khô, giữa sông Giođan, và dân đi qua lòng sông khô cạn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 113A, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Alleluia.

Xướng: 1) Hồi Israel ra khỏi Ai-cập, nhà Giacóp thoát xa dân mọi, Giuđa đã trở nên cung thánh, Israel biến thành vương quốc của Người. - Ðáp.

2) Biển khơi xem thấy và chạy trốn, Giođan thì bước lại đàng sau. Núi non nhảy chồm lên như bầy dê đực, các ngọn đồi như đàn chiên con. - Ðáp.

3) Biển ơi, can chi tới ngươi mà chạy trốn, Giođan hỡi, can chi mà bước lại đàng sau? Núi non, can chi mà chồm lên như bầy dê đực, các ngọn đồi như đàn chiên con? - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 110, 8ab

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn ngàn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 18, 21 - 19, 1

"Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.

"Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.

"Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: "Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.

"Vậy, Cha Thầy trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".

Khi Chúa Giêsu nói những lời đó xong, thì Người bỏ xứ Galilêa mà đến Giuđêa, bên kia sông Giođan.

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

Cảm Nghiệm Suy Niệm

 

Chúa Tha Thứ nhưng vẫn không quên... tùy ở con nợ chúng ta!



Từ trách nhiệm sửa lỗi cho nhau trong bài Phúc Âm hôm qua 
sang đến bổn phận tha thứ cho nhau trong bài Phúc Âm hôm nay, hai bài Phúc Âm liên tục ở cuối đoạn 18 của Phúc Âm Thánh ký Mathêu. 
Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay bao gồm câu trả lời của Chúa Giêsu cho câu hỏi của Tông Đồ Phêrô: "'Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?' Chúa Giêsu đáp: 'Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy'". 
Nghĩa là bao giờ cũng tha, không bao giờ chấp nhất, dù có thế nào chăng nữa, dù có nhiều đến đâu chăng nữa, dù có nặng đến mấy chăng nữa, thậm chí dù có cố tình chăng nữa, chứ không phải chỉ tha khi đương sự vô tình, không có ý gì. Và còn phải tự động tha nữa, chứ không cần phải được xin lỗi mới tha, như Người đã dạy trong bài giảng Phúc Đức Trọn Lành đối với những ai phạm đến chúng ta trước khi chúng ta dâng của lễ cho Thiên Chúa (xem Mathêu 5:24). 
Tất cả tinh thần nhân hậu và thái độ bao dung của chúng ta như thế mới trung thực phản ảnh Đấng được Chúa Giêsu kêu gọi "hãy thương xót như Cha là Đấng xót thương" (Luca 6:36), một Đấng được Người ám chỉ trong dụ ngôn về vị vương chủ tha nợ cho người bầy tôi của mình trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả'. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y". 
Ở đây chúng ta thấy vị vương chủ này quảng đại bao dung đến độ chỉ cần người bầy tôi van xin ông, không phải là van xin tha nợ mà chỉ van xin khất nợ để rồi từ từ trả sau, cho dù không biết phải trả đến bao giờ mới hết món nợ kếch sù ấy và cũng chẳng biết có thể trả nổi món nợ ấy hay chăng, nhưng vị vương chủ vẫn "động lòng thương" tự tha hết món nợ khổng lồ ấy cho người bầy tôi khốn khổ van xin của mình. 
Thế nhưng, cho dù được tha bổng món nợ khổng lồ ấy, đến độ giá trị của món nợ này bằng cả nhà của người bầy tôi mắc nợ: "Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ", vẫn còn nguyên đó, chứ chưa hoàn toàn được xóa sổ, tùy theo thái độ của con nợ bầy tôi này với chính con nợ của hắn. 
Thật vậy, con nợ bầy tôi này đã đối xử hoàn toàn ngược lại với những gì hắn được hưởng từ vị vương chủ của hắn, như dụ ngôn Chúa tiếp tục cho biết như sau:
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: 'Hãy trả nợ cho ta'. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh'. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong".
Con nợ của người bầy tôi này cũng có cùng một cử chỉ và lời van xin khất nợ như hắn đã tỏ ra với vị vương chủ của hắn, nhưng hắn vẫn không tha cho con nợ của hắn là người chỉ nợ hắn chẳng là bao so với món nợ kếch sù của hắn với vị vương chủ của hắn, đến độ, trong khi hắn được vị vương chủ này tha hẳn cho cả món nợ, không phải trả nữa, thì hắn lại "bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong", nghĩa là lòng của hắn vẫn thù hắn chấp nhất con nợ của hắn cho đến khi hắn trả thù cho bằng được, cho đến khi hắn lấy lại công bằng, "mắt đền mắt, răng đền răng" (Mathêu 5:38).
Chính vì thế, món nợ kếch sù của hắn với vị vương chủ của hắn vẫn chưa hoàn toàn xóa sổ là như thế. Tóm lại, vấn đề xóa sổ nợ của chúng ta với Thiên Chúa là ở chúng ta hơn là ở nơi Thiên Chúa, Đấng lúc nào cũng tha cho chúng ta và mong chúng ta cũng tha cho nhau như Ngài tha cho chúng ta, bằng không, tự chúng ta làm khổ mình, ở chỗ bị chính bản thân mình là "lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ"
Chúng ta không tha cho nhau nghĩa là chúng ta mặc nhiên không muốn được Thiên Chúa tha nợ cho chúng ta, không chấp nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, ở chỗ chúng ta muốn lấy được vài đồng bạc nợ nần của nhau chẳng đáng là bao để trả nợ cả tỉ bạc với Thiên Chúa hay sao. Tại sao chúng ta điên khùng đến như thế nhỉ?! Bài Phúc Âm hôm nay đã kết thúc dụ ngôn với những lời của chính vị vương chủ cũng là lời của Chúa Giêsu sau đó như thế này:  

"Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: 'Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?' Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. Vậy, Cha Thầy trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".


Giáo huấn của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay là phải tha thức cho những ai phạm đến bản thân chúng ta luôn mãi, như chính Thiên Chúa đã thứ tha cho bản thân mỗi người, một Vị Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu, được tỏ ra ngay trong lịch sử cứu độ của dân Do Thái, thành phần dân chính vì luôn phản loạn với Chúa của mình, đáng lẽ đã bị Ngài hủy diệt 2 lần, khi họ thờ bò vàng khi mới vượt qua Biển Đỏ chẳng bao lâu, và khi họ đòi trở về Ai Cập khi gần vào Đất Hứa, mà Ngài vẫn nhẫn nại với họ, vẫn trung thành với họ, vẫn hoàn thành được lời hứa của Ngài với tổ phụ họ, là đem họ vào tận Đất Hứa, qua trung gian Gioduệ, như chính nhân vật thay Moisen này đã thuật lại trong Sách Gioduệ ở Bài Đọc 1 hôm nay về biến cố vượt qua Sông Dược Đăng (Jordan) như sau:

 

"Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Giosuê rằng: 'Hôm nay Ta sẽ bắt đầu tôn ngươi lên trước mặt toàn thể Israel, để chúng biết rằng: Ta đã ở với Môsê thế nào, thì cũng sẽ ở với ngươi như vậy... Rồi Giosuê nói với con cái Israel rằng: 'Hãy tiến lại đây mà nghe lời Chúa là Thiên Chúa các ngươi'. Và Giosuê nói: 'Cứ dấu này mà các ngươi nhận biết Thiên Chúa hằng sống ở giữa các ngươi. Ðó là hòm giao ước của Thiên Chúa, chủ tể địa cầu, sẽ dẫn các ngươi qua sông Giođan. Khi các thầy tư tế mang hòm giao ước của Thiên Chúa, chủ tể địa cầu, vừa đặt chân trong nước sông Giođan, thì nước phía dưới tiếp tục chảy đi và khô cạn, còn nước phía trên thì dừng lại thành một khối'. Vậy, khi dân nhổ trại để qua sông Giođan, thì các thầy tư tế mang hòm giao ước đi trước dân. Vừa khi những người mang hòm giao ước đến sông Giođan và chân họ đụng nước, (suốt mùa gặt, sông Giođan tràn lan dọc theo hai bên bờ) thì nước từ nguồn chảy xuống dừng lại một nơi, từ xa trông như dãy núi kéo dài, từ thành Ađam đến luỹ Sarthan; còn phần nước phía dưới chảy vào biển Araba tức là Biển Mặn, thì chảy cạn hết. Dân vượt qua nhắm thẳng thành Giêricô. Các thầy tư tế mang hòm giao ước của Thiên Chúa đứng yên trên đất khô, giữa sông Giođan, và dân đi qua lòng sông khô cạn".

Thật vậy, chính trong tình trạng dân Chúa phản loạn mà Thiên Chúa vẫn thực hiện được những lời Ngài hứa cho họ, mục đích chính yếu là để thánh hóa họ xứng với Ngài là Đấng Thánh, như được chính các dân tộc chung quanh và thiên  nhiên tạo vật chứng kiến thấy vinh quang của Ngài nơi những gì Ngài làm cho dân Ngài, như Thánh Vịnh 113 ở bài Đáp Ca hôm nay diễn tả:

1) Hồi Israel ra khỏi Ai-cập, nhà Giacóp thoát xa dân mọi, Giuđa đã trở nên cung thánh, Israel biến thành vương quốc của Người.

2) Biển khơi xem thấy và chạy trốn, Giođan thì bước lại đàng sau. Núi non nhảy chồm lên như bầy dê đực, các ngọn đồi như đàn chiên con.

3) Biển ơi, can chi tới ngươi mà chạy trốn, Giođan hỡi, can chi mà bước lại đàng sau? Núi non, can chi mà chồm lên như bầy dê đực, các ngọn đồi như đàn chiên con?

 


 


Thứ Sáu

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Gs 24, 1-13

"Ta đã đem tổ phụ các ngươi từ Mêsôpôtamia về, đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập, đã đem các ngươi vào đất nước".

Trích sách ông Giosuê.

Trong những ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem, rồi gọi các kỳ lão, các thủ lãnh gia tộc, quan án, sĩ quan đến, và họ đứng trước mặt Thiên Chúa. Giosuê liền nói với toàn dân như thế này:

Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: Thuở xưa tổ tiên các ngươi là Tharê, cha của Abraham và Nacor, đã ở bên kia sông, và đã thờ các thần ngoại. Bấy giờ Ta đã đem Abraham, tổ phụ các ngươi, từ bên kia sông và đã dẫn đưa ông vào đất Canaan. Ta lại làm cho con cháu ông trở nên đông đúc, đã ban cho ông được Isaac. Ta lại ban cho Isaac được Giacóp và Êsau. Trong hai người này, Ta đã ban cho Êsau miền núi Sêir làm sản nghiệp. Còn Giacóp và con cái thì xuống Ai-cập.

Sau đó, Ta đã sai Môsê và Aaron, và trừng phạt Ai-cập bằng những phép lạ. Rồi Ta đã dẫn các ngươi và cha ông các ngươi ra khỏi Ai-cập, và các ngươi đã đi tới Biển. Người Ai-cập đuổi theo cha ông các ngươi với chiến xa binh mã cho đến Biển Ðỏ. Bấy giờ con cái Israel kêu cầu Chúa và Người đã khiến sự tối tăm ngăn giữa các ngươi và quân Ai-cập, và làm cho biển tràn ra mà vùi lấp chúng. Chính mắt các ngươi đã thấy tất cả những gì Ta đã làm ở Ai-cập, rồi các ngươi đã ở lâu trong hoang địa.

Sau đó, Ta đã đưa các ngươi vào xứ Amorê, bên kia sông Giođan. Chúng đã giao chiến với các ngươi và Ta đã trao chúng trong tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm được đất đai của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mặt các ngươi. Rồi Balac, con Sêphor, vua xứ Moab, dấy lên giao chiến với Israel. Vua ấy đã cho mời Balaam, con của Bêor, đến để chúc dữ các ngươi. Ta không muốn nghe Balaam. Nhưng trái lại Ta đã dùng nó chúc phúc cho các ngươi và Ta đã cứu các ngươi thoát khỏi bàn tay nó.

Sau đó, các ngươi đã qua sông Giođan và đến Giêricô, dân thành này, cũng như các người Amorê, Phêrêsê, Canaan, Hêthê, Gergêsê, Hêvê, Giêbusê, đã giao chiến với các ngươi. Nhưng Ta đã trao chúng trong tay các ngươi. Ta đã cho ong bò vẽ đi trước các ngươi, và Ta đuổi hai vua xứ Amorê ra khỏi các địa hạt của họ mà không cần nhờ đến cung kiếm của các ngươi. Ta đã ban cho các ngươi một vùng đất mà các ngươi không mất công đánh chiếm. Ta đã cho các ngươi được ở những thành mà các ngươi không phải xây cất, Ta đã cho các ngươi những vườn nho và vườn ôliu mà các ngươi không vun trồng.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 135, 1-3. 16-18. 21-22 và 24

Ðáp: Bởi đức từ bi Người muôn thuở.

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca ngợi Chúa, vì Người hảo tâm, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Hãy ca ngợi Thiên Chúa của chư thần, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Chỉ mình Người làm những việc kỳ diệu vĩ đại, bởi đức từ bi Người muôn thuở. - Ðáp.

2) Người đã dẫn đưa dân Người qua sa mạc, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã đánh dẹp các đại vương đế, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giết các vua quyền thế, bởi đức từ bi Người muôn thuở. - Ðáp.

3) Người đã ban đất chúng để làm gia sản, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Làm gia sản của Israel tôi tớ Người, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quân thù địch, bởi đức từ bi Người muôn thuở. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Ga 2, 5

Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 3-12

"Vì lòng chai đá của các ngươi mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, có những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: "Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?" Người đáp: "Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly". Họ hỏi lại: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?" Người đáp: "Vì lòng chai đá của các ông mà Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình".

Các môn đệ thưa Người rằng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ". Người đáp: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

Cảm Nghiệm Suy Niệm

 

 

Chồng theo vợ hơn là vợ theo chồng?

Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XIX Thường Niên đưa chúng ta đến bài Phúc Âm về vấn đề chồng ly dị vợ, một bài Phúc Âm ngay sau bài Phúc Âm hôm qua về lòng quảng đại thứ tha như Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta.

Vấn đề chồng ly dị vợ này được "
những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: 'Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?'", một vấn đề đã được Chúa Giêsu dứt khoát giải quyết một cách thẳng thắn hoàn toàn có tính cách chính thống như sau:
"Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly".
Theo văn hóa đại đồng của chung loài người thì thường vợ theo chồng chứ không phải là chồng theo vợ, ngoại trừ văn hóa theo mẫu hệ vốn còn cái lệ "đi bắt chồng", như ở thành phần dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo tâm lý tự nhiên thì người nam theo người nữ trước khi trở thành vợ chồng. Bởi thế nên mới có chuyện trai tán gái chứ không bao giờ hay ít khi thấy gái tán trai, cho dù cũng không hiếm chuyện gái theo trai, nhưng thường xẩy ra sau khi bị trai dụ dỗ v.v.

Câu Chúa Giêsu khẳng định "người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình" đã chứng thực là chồng theo vợ hơn là vợ theo chồng, đúng hơn là trai theo gái hơn là gái theo trai, bởi vì bản chất và khuynh hướng của thành phần nam nhân làm chồng, như Adong, là tìm kiếm bản thân mình, cho đến khi thực sự cảm nhận được bản thân mình nơi một người nữ tuụ nhiên có duyên với mình nào đó, để rồi tự nhiên cảm thấy hết sức gắn bó với nàng, đến độ chàng sống không thể không có nàng: "Cuối cùng thì đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi" (Khởi Nguyên 2:23).

Bởi thế chồng yêu vợ là yêu bản thân mình: "Ai yêu thương vợ mình là yêu thương chính bản thân mình" (Epheso 5:28). Bởi "cả hai đã nên một thân xác... họ không còn là hai, nhưng là một thân xác", như Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, và vì thế khi vợ chồng ly dị nhau thì họ chẳng những "phân ly những gì Thiên Chúa đã ràng buộc nối kết" họ lại với nhau mà tự họ cũng phản bội lẫn nhau nữa, nhất là khi chính bản thân họ không bị ràng buộc bởi cổ tục cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy như xưa, trái lại, họ hoàn toàn tự do yêu nhau và lấy nhau... như văn hóa của thời đại quá văn minh tân tiến về cả khoa học kỹ thuật lẫn nhân quyền hiện nay, đến độ con cái đặt đâu cha mẹ ngồi đó khi chính chúng nó tự quyết lập gia đình với nhau và làm đám cưới với nhau theo kiểu của chúng, kể cả chuyện đồng tính hôn nhân.

C
ó lẽ thành phần đặt vấn nạn với Chúa Kitô đã đoán trước được câu trả lời của Người rồi nên đã từ đó đi thẳng vào vấn đề họ muốn thử Người, với vấn nạn chính yếu thứ hai: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?", một vấn nạn cũng được Chúa Kitô không ngần ngại vạch trần sự thật cho họ biết về chính bản thân họ rằng:
"Vì lòng chai đá của các ông mà Moisen đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình".
Không ngờ vấn đề Người quả quyết như vậy đã đụng đến chính thành phần bỏ mọi sự mà theo Người, kể cả vợ con của các vị, nên các vị đã bồi thêm một câu vừa như để hỏi Người vừa như để than thân trách phận thay cho thành lập lập gia đình như sau: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ". 
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã lợi dụng ngay câu than vãn này của các vị để nói đến chính đời sống độc thân theo Người của các vị: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu".
Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy giáo huấn của Chúa Kitô về vấn đề hôn nhân gia đình là thế này: 1- hôn nhân theo dự án thần linh của Thiên Chúa chỉ xẩy ra giữa một người nam và một người nữ mà thôi; 2- hôn nhân là do chính Thiên Chúa xe duyên kết nghĩa nên đôi phối ngẫu không được tự ý ly dị nhau, trừ trường hợp ngoại tình; 3- ai tự ý ly dị vợ chồng mình mà lấy người khác là phạm tội ngoại tình và ai lấy người ly dị cũng phạm tội ngoại tình; 4- ly dị vợ chồng là do con người gây ra chứ tự bản chất của hôn nhân là những gì bất khả phân ly. Đó là lý do chúng ta thấy Giáo Hội Công Giáo cứu xét rất kỹ lưỡng và cẩn thận giúp thực hiện việc học hỏi dự bị hôn nhân trước khi ban bí tích hôn nhân, cũng như trong việc giải hôn hay tiêu hôn khi cần
Tuy luật lệ về đời sống hôn nhân ngặt nghèo như thế, đến độ người ta cảm thấy "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ", nghĩa là đừng lập gia đình, nhưng theo bản tính tự nhiên và phái tính xu hướng về nhau hầu như bất khả chống cưỡng, liên quan đến cả tình cảm lẫn tình dục của mình, con người, hầu hết vẫn không thể nào, không sớm thì muộn, không trước thì sau, không tiến tới đời sống lứa đôi trong hôn nhân gia đình, nếu chính thức, bằng không cũng khó lòng mà tránh được cảnh ăn ở với nhau ngoài hôn nhân một cách nào đó. 
Dầu sao thực tế cũng cho thấy 3 trường hợp ngoại lệ được Chúa Giêsu kể đến trong bài Phúc Âm, đó là: thứ nhất, tự bẩm sinh là hoạn nhân (như sinh ra mang giới tính ái nam ái nữ, hoặc tự nhiên bị bất lực về sinh dục v.v.), thứ hai là bị trở thành hoạn nhân (như đã xẩy ra cho thành phần nam nhân được hầu cận gần gũi hoàng hậu hoặc công chúa hay cung phi của vua chúa ngày xưa), và thứ ba là tự ý làm hoạn nhân vì lý tưởng phụng vụ cao cả (như nam nữ tu sĩ khấn đồng trinh hoặc hàng giáo sĩ Công giáo hứa sống độc thân v.v.). 

Giáo huấn của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay về vấn đề hôn nhân cho thấy ngay từ nguyên thủy không có vấn đề ly dị, mà là hiệp nhất nên một bất khả phân ly. Chính vì thế, giáo lý của Giáo Hội Chúa Kitô về hôn nhân chủ trương hôn nhân là "một mầu nhiệm cao cả" (Epheso 5:32) về Chúa Kitô và Giáo Hội, và về tình yêu của Thiên Chúa đối với dân của Ngài, một Vị Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho dân Ngài trong giòng lịch sử cứu độ của họ là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, ở chỗ, bất chấp họ tỏ ra liên lỉ bất trung và phản loạn với Ngài, Ngài vẫn hoàn thành được, thậm chí lợi dụng cả chính tình trạng tiêu cực và ngược ngạo của họ, để tỏ mình ra, qua những gì Ngài làm cho họ, như được nhân vật thay Moisen dẫn họ vào Đất Hứa nhắc lại cho họ trong Sách Gioduệ ở Bài Đọc 1 hôm nay về Lời Chúa "Ta đã đem tổ phụ các ngươi từ Mêsôpôtamia về, đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập, đã đem các ngươi vào đất nước", theo lịch trình thời gian như sau:

"Ta đã đem Abraham, tổ phụ các ngươi, từ bên kia sông và đã dẫn đưa ông vào đất Canaan... Sau đó, Ta đã sai Môsê và Aaron, và trừng phạt Ai-cập bằng những phép lạ. Rồi Ta đã dẫn các ngươi và cha ông các ngươi ra khỏi Ai-cập... Sau đó, Ta đã đưa các ngươi vào xứ Amorê, bên kia sông Giođan... Sau đó, các ngươi đã qua sông Giođan và đến Giêricô...Ta đã ban cho các ngươi một vùng đất mà các ngươi không mất công đánh chiếm. Ta đã cho các ngươi được ở những thành mà các ngươi không phải xây cất, Ta đã cho các ngươi những vườn nho và vườn ôliu mà các ngươi không vun trồng".

Qua Thánh Vịnh 135 ở bài Đáp Ca hôm nay, dân Chúa tỏ ra đã nhận biết Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình ở cảm thức sâu xa về "đức từ bi muôn thử của Người", một điệp khúc xác tín được lập đi lập lại như sau:

 

1) Hãy ca ngợi Chúa, vì Người hảo tâm, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Hãy ca ngợi Thiên Chúa của chư thần, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Chỉ mình Người làm những việc kỳ diệu vĩ đại, bởi đức từ bi Người muôn thuở.

2) Người đã dẫn đưa dân Người qua sa mạc, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã đánh dẹp các đại vương đế, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giết các vua quyền thế, bởi đức từ bi Người muôn thuở.

3) Người đã ban đất chúng để làm gia sản, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Làm gia sản của Israel tôi tớ Người, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quân thù địch, bởi đức từ bi Người muôn thuở.

 


Thứ Bảy

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Gs 24, 14-29

"Hôm nay các ngươi hãy tuỳ ý chọn phải tôn thờ ai hơn".

Trích sách ông Giosuê.

Trong những ngày ấy, Giosuê nói với dân chúng rằng: "Giờ đây, các ngươi hãy kính sợ Chúa và tôn thờ Người với tâm hồn thiện hảo và chân thành. Hãy loại bỏ những thần cha ông các ngươi đã tôn thờ trong xứ Mêsôpôtamia và ở Ai-cập, mà tôn thờ Chúa. Còn nếu các ngươi không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn: hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn phải tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông các ngươi đã tôn thờ ở Mêsôpôtamia, hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở. Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa".

Dân trả lời rằng: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã dẫn chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Người đã làm những việc kỳ diệu cả thể trước mắt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt con đường chúng tôi đã đi, giữa tất cả mọi dân chúng tôi đã đi qua. Chúa đã trục xuất tất cả những dân đó cũng như người Amôrê trên phần đất chúng tôi đã tiến vào. Vậy chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa, vì chính Người là Thiên Chúa chúng tôi".

Bấy giờ Giosuê nói với dân chúng rằng: "Các ngươi không thể tôn thờ Chúa được, vì Người là Thiên Chúa chí thánh, Thiên Chúa ghen tương, sẽ không tha thứ những tội ác và lỗi lầm của các ngươi. Nếu các ngươi bỏ Chúa mà tôn thờ các thần ngoại, Người sẽ trở lại giáng hoạ trên các ngươi và tiêu diệt các ngươi, sau khi đã thi ân cho các ngươi".

Dân chúng thưa với Giosuê rằng: "Không phải như ông nói đâu, nhưng chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa". Giosuê liền bảo dân chúng rằng: "Vậy các ngươi hãy tự làm chứng rằng: chính các ngươi đã chọn Chúa để tôn thờ Người". Họ đáp: "Chúng tôi xin làm chứng". Ông nói: "Vậy thì hãy loại bỏ những thần ngoại ra khỏi các ngươi và hướng lòng về Chúa là Thiên Chúa Israel". Dân chúng thưa với Giosuê rằng: "Chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, và sẽ tuân phục các mệnh lệnh của Người".

Hôm ấy, Giosuê lập giao ước, ấn định quy chế và luật lệ cho dân ở Sikem. Giosuê ghi chép các lời đó vào sách Luật của Chúa, rồi lấy một tảng đá thật lớn và dựng lên dưới cây sồi ở trong nơi thánh của Chúa, và nói với toàn dân rằng: "Ðây, tảng đá này sẽ làm chứng cho các ngươi, vì nó đã nghe mọi lời Chúa phán với các ngươi, kẻo sau này các ngươi chối bỏ và lừa dối Chúa là Thiên Chúa các ngươi". Sau đó, Giosuê giải tán dân chúng và ai nấy trở về với phần đất của mình. Sau những sự việc đó, Giosuê, con ông Nun, tôi tớ Chúa, qua đời, hưởng thọ một trăm mười tuổi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 11

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (x. c. 5a).

Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con! Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con; chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. - Ðáp.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo. Ðó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.

3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 18

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 13-15

"Ðừng ngăn cấm các trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời là của những người giống như chúng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, người ta đem những trẻ nhỏ đến cho Chúa Giêsu để Người đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Các môn đệ liền quở trách chúng, nhưng chúa Giêsu bảo: "Hãy để các trẻ nhỏ đến với Ta, và đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những người giống như chúng". Sau khi Người đặt tay trên chúng, thì Người đi khỏi nơi đó.

Ðó là lời Chúa.

Image result for Mt 19, 13-15

 

Cảm Nghiệm Suy Niệm

 

Trẻ nhỏ - Linh đạo hôn nhân và trách nhiệm giáo dục


Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho ngày hôm nay, Thứ Bảy Tuần XIX Thường Niên, vẫn tiếp tục bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu từ các ngày trước trong tuần. 
Nếu bài Phúc Âm cho Thứ Ba tuần này "trẻ nhỏ" được Chúa Giêsu đặt giữa các môn đệ để làm mô phạm linh đạo theo Chúa cho các vị, thì bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau bài Phúc Âm hôm qua là bài về vấn đề ly dị trong đời sống hôn nhân gia đình giữa vợ chồng với nhau, dường như cũng có một ý nghĩa sâu xa nào đó, như thể hôn nhân gia đình bao gồm cả con cái và liên quan đến cả con cái nữa chứ không phải chỉ có chuyện vợ chồng với nhau mà thôi, và "trẻ nhỏ" cũng là mô phạm linh đạo cho cả ơn gọi sống đời hôn nhân gia đình bao gồm cả trách nhiệm giáo dục nữa vậy.
"Bấy giờ người ta đem các trẻ nhỏ đến với Người, để Người đặt tay cầu nguyện cho chúng. Nhưng môn đồ quát rầy chúng. Song Chúa Giêsu nói: 'Hãy để mặc các trẻ, và đừng ngăn cản chúng đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những người như thế'. Rồi Người đặt tay trên đầu chúng trước khi Người rời khỏi nơi đó".
Bài Phúc Âm tuy ngắn, chỉ vỏn vẹn có 3 câu 13-15 ở đoạn 19 của Thánh ký Mathêu nhưng rất sâu xa về ý nghĩa. Chúng ta hãy lưu ý đến từng chi tiết của bài Phúc Âm sẽ thấy:
"Bấy giờ người ta đem các trẻ nhỏ đến với Người, để Người đặt tay cầu nguyện cho chúng". 

Chúng ta không biết trẻ nhỏ được người ta mang đến cho Chúa Giêsu ở đây bao nhiêu tuổi. Có thể là còn đang được bế trên tay, tức khoảng độ trên dưới 1 tuổi, hay đã có thể
 tự mình bước đi, khoảng độ 3-4 tuổi, nhưng được dìu đến với Chúa.
Dầu sao cũng cho thấy sự kiện rất thực tế đó là trẻ nhỏ cần phải được dẫn đến với Chúa Giêsu chứ tự chúng không thể nào đến với Người, bởi có thể là về thể lý chưa biết đi. Nhất là vì các em chẳng hề biết Người là ai, và thường trẻ con lại hay sợ người lạ mặt nữa. Ở đây chúng ta thấy gợi lên vấn đề giáo dục con cái trong gia đình đó là trước hết và trên hết hãy dạy cho các con về Thiên Chúa, hãy dẫn chúng đến với Đấng đã dựng nên chúng qua cha mẹ chúng.
Trong bài Phúc Âm này, chúng ta thấy mục đích của những người mang trẻ em, có thể là con cái của họ, không biết là bao nhiêu em, đến với Chúa Giêsu với mục đích là "để Người đặt tay cầu nguyện cho chúng". Những người này, thường là cha mẹ của các em, quả thực đã hiểu Chúa Giêsu hơn ai hết, nên mới mang con cái của mình đến với Người, không phải để Người dạy dỗ chúng, vì chúng chưa hiểu được những gì Người nói, cho bằng để cho chúng được gần Người và để chúng được Người chúc lành cho, thế là đủ. Và chính họ cũng được diễm phúc lây, như trường hợp con cái của thành phần Kitô hữu Công giáo ở Quảng Trường Thánh Phêrô thường được Đức Thánh Cha Phanxicô ẵm bế và ôm hôn vậy. 
"Nhưng môn đồ quát rầy chúng". 

Th
ế nhưng, không ngờ, thành phần được gần Chúa Giêsu nhất là các môn đệ của Người lại không hiểu Người bằng thành phần đem con trẻ đến cùng Người trong bài Phúc Âm hôm nay. Bởi đó, các vị thay vì tỏ ra vui mừng hớn hở giúp cho các em đến với Chúa Giêsu Thày mình một cách dễ dàng hơn thì lại ra tay ngăn cản và xua đuổi chúng đi bằng thái độ "quát rầy chúng". 
Các vị có lẽ không ghét bỏ trẻ em đâu. Các em có tội tình gì đâu mà ghét bỏ chúng. Thế nhưng có thể các vị nghĩ rằng Thày của các vị là Đấng cao trọng, không giao tiếp với trẻ con, hay trẻ con không đáng được giao tiếp với Người, vì trẻ con biết gì mà đến với người, trái lại còn làm mất giờ quí báu của Người, chỉ làm phiền Người hơn là làm vui lòng Người. Thái độ của các môn đệ trong trường hợp này quả là còn nặng tính cách quan liêu lắm vậy.
Tuy nhiên, hành động của các vị đã cho thấy là các vị đã hoàn toàn quên rằng Chúa Giêsu Thày của các vị mới trước đó ít lâu đã đặt một em bé ở giữa các vị để chẳng những khuyên các vị là hãy "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ", mà nhất là còn khẳng định với các vị rằng: "Ai tiếp nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thày là tiếp nhận Thày... Đừng bao giờ khinh thường một trong những trẻ nhỏ này" (Mathêu 18:5,10). Đó là lý do Chúa Giêsu đã phải lên tiếng nói với các vị như sau:
"Hãy để mặc các trẻ, và đừng ngăn cản chúng đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những người như thế". 

Ở đây, trong câu nói này, Chúa Giêsu đã lập lại những gì Người đã khẳng định với các môn đệ ở lần trước rằng
 "trừ phi các con hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ các con mới được vào Nước Trời" (Mathêu 18:3). 
Trong lần này, Người còn nhấn mạnh hơn nữa, ở chỗ, nếu Nước Trời là chính bản thân Người, mà "Nước Trời thuộc về những người như thế", tức thuộc về thành phần sống như trẻ nhỏ, thì Người thuộc về những người sống cuộc đời thơ ấu thiêng liêng vậy.
Đó là lý do chỉ có tâm hồn nào sống bé nhỏ mới đến được với Chúa Kitô, mới nhận biết Chúa Kitô, mới tin tưởng vào Người, mới để Người nâng niu yêu thương ấp ủ, nhờ đó mới được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, mới là thành phần cao trọng nhất trên Nước Trời (xem Mathêu 18:4).

  

"Rồi Người đặt tay trên đầu chúng trước khi Người rời khỏi nơi đó".

Cử chỉ Chúa Giêsu đặt tay trên đầu các em không phải chỉ đáp ứng lòng mong ước của thành phần người lớn mang các em đến với Người, mà chính các em xứng đáng lãnh nhận phép lành đầy ân sủng của Người. 

 

Nếu việc đặt tay vẫn bao gồm việc thông ban Thánh Linh thì việc Chúa Giêsu đặt tay trên đầu các em bé ở đây còn có ý nghĩa là Người xác nhận tâm hồn ngây thơ vô tội của các em xứng đáng là nơi Thánh Linh ngự trị.

 

Việc đặt tay của Chúa Kitô trên đầu các em "trước khi Người rời khỏi nơi đó" còn có nghĩa là Người luôn ở cùng các em, vì Người thuộc về các em, như "Nước Trời thuộc về những người như thế", nhờ Thánh Linh được Người thông ban cho các em qua việc đặt tay của Người trên đầu của các em.  

 

Tác động Chúa Kitô đặt tay lên đầu các trẻ nhỏ và cầu nguyện cho chúng trong bài Phúc Âm hôm nay chứng tỏ Thiên Chúa yêu thích những tâm hồn nào đơn sơ trong trắng và tin tưởng vào Ngài. Bài Đọc 1 hôm nay, dân Chúa, sau khi được vào Đất Hứa, và thấy được tất cả những gì Vị Thiên Chúa của tổ phụ họ đã làm cho họ, bất chấp mọi ngỗ nghịch, bất trung và phản loạn của họ, đã cương quyết tôn nhận Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, điều Thiên Chúa hằng mong đợi ở nơi họ và cũng chính là mục đích Ngài tỏ mình ra cho họ:

 

"Trong những ngày ấy, Giosuê nói với dân chúng rằng: 'Giờ đây, các ngươi hãy kính sợ Chúa và tôn thờ Người với tâm hồn thiện hảo và chân thành. Hãy loại bỏ những thần cha ông các ngươi đã tôn thờ trong xứ Mêsôpôtamia và ở Ai-cập, mà tôn thờ Chúa..... Dân trả lời rằng: 'Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã dẫn chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Người đã làm những việc kỳ diệu cả thể trước mắt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt con đường chúng tôi đã đi, giữa tất cả mọi dân chúng tôi đã đi qua. Chúa đã trục xuất tất cả những dân đó cũng như người Amôrê trên phần đất chúng tôi đã tiến vào. Vậy chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa, vì chính Người là Thiên Chúa chúng tôi...Chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, và sẽ tuân phục các mệnh lệnh của Người'".

 

Đối với một trẻ nhỏ thì cha mẹ của chúng cùng với tất cả những gì cha mẹ chúng làm cho nó đều trở thành gia nghiệp của chúng thế nào thì dân Chúa, qua Thánh Vịnh 15 ở bài Đáp Ca hôm nay, cũng có một tâm tình như vậy đối với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, như sau:

1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con! Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con; chính Ngài nắm giữ vận mạng của con.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo. Ðó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.

3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời.