SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
"Thày là Sự Sống"
Hiện Diện
Thần Linh
Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần VI Phục Sinh
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phụng
Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh
(cho các Chúa Nhật).
....
Nếu
"Thày là sự sống lại và là sự sống"
(Gioan 11:25) là chủ đề chính yếu của toàn
Mùa Phục Sinh, trong đó, chủ đề
"Thày là sự sống lại"
cho
nguyên Tuần Bát Nhật Phục Sinh là thời điểm 8 ngày có
các bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc hoàn toàn liên quan đến các lần Chúa
Kitô Phục Sinh hiện ra mà thôi, thì chủ đề
"Thày là sự sống"
là
chủ đề cho những ngày còn lại, bao gồm cả Chúa Nhật lẫn ngày trong tuần.
Vậy,
nếu chủ đề
"Thày là sự sống" ở
Phụng Vụ Lời Chúa cho cả Chúa Nhật lẫn các ngày trong tuần lễ II và III của Mùa Phục Sinh liên
hệ tới chiều kích Tái Sinh Thần Linh và Bánh Sự Sống, trong tuần lễ IV của Mùa Phục
Sinh liên quan đến chiều kích Mục Tử Thần Linh, và trong tuần lễ V
của Mùa Phục Sinh liên quan đến chiều kích Liên Hệ Thần Linh trong gắn bó
yêu thương, thì trong
tuần của tuần lễ Thứ VI của Mùa Phục Sinh như thế nào? Nếu so sánh cả với nội
dung của phụng vụ Lời Chúa cho tuần lễ VII còn lại
nữa,
thì nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa cho Tuần VI Phục Sinh này cho thấy chủ đề
"Thày là sự sống" liên
quan đến chiều kích Hiện Diện Thần Linh bởi Thánh Thần và trong
Thánh Thần.
Chúa
Nhật VI Phục Sinh: Sự
Sống - Hiện Diện Thần Linh
Chúa Nhật Thứ Sáu Mùa
Phục Sinh vẫn
theo Phúc Âm Thánh Gioan, tiếp tục
chủ đề "Thày là sự sống" của 6 Tuần cuối của Mùa Phục Sinh, nhưng liên
quan đến khía cạnh hiện diện thần linh, một hiện diện thần linh nhờ có Thánh
Thần Thiên Chúa (Năm A), một hiện diện thần linh được Thánh Thần tác
động thực hiện đức ái trọn hảo như Chúa Kitô đã yêu (Năm B), và là một hiện
diện thần linh được hiệp
nhất nên một với Cha và Con (Năm
C).
Năm A
Sự
sống của một hiện diện thần linh nhờ
có Thánh Thần Thiên Chúa.
Phúc Âm (Gioan 14:15-21):
"Nếu các con yêu mến Thày thì hãy giữ giới răn của Thày. Và Thày sẽ xin
Cha và Cha sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác để Ngài ở cùng các
con luôn mãi".
Bài đọc 1 (Tông
Vụ 8:5-8, 14-17) - sự
sống của một hiện diện thần linh nhờ
có Thánh Thần Thiên Chúa:
"Khi đến nơi, hai ngài - Phêrô và
Gioan - cầu nguyện cho họ được lãnh nhận Thánh Thần: vì chưa có ai trong
họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh
Chúa Giêsu".
Bài đọc 2 (1Phêrô
3:15-18) - sự
sống của một hiện diện thần linh nhờ
có Thánh Thần Thiên Chúa:
"Vì Đức Kitô đã chết một lần cho
tội lỗi chúng ta, Người là Đấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến
dâng chúng ta cho Thiên Chúa; thật ra, Người đã chết theo thể xác,
nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại".
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 8,
5-8. 14-17
"Các ngài đặt tay trên họ, và họ
nhận lãnh Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Philipphê đi
xuống một thành thuộc sứ Samaria, rao giảng Ðức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý
đến những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe biết và xem thấy các phép
lạ ngài làm. Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và
xuất ra. Nhiều người bất toại và què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành
được vui mừng khôn tả.
Khi các tông đồ ở Giêrusalem nghe tin
Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến
nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai
trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh
Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 65,
1-3a. 4-5. 6-7a. 16 và 20
Ðáp: Toàn thể đất
nước, hãy reo mừng Thiên Chúa! (c. 1)
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Toàn thể đất nước, hãy reo
mừng Thiên Chúa! Hãy ca ngợi vinh quang danh Người; hãy kính dâng Người lời
khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp
Chúa! - Ðáp.
2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca
khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của
Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta! -
Ðáp.
3) Người biến bể khơi thành nơi khô
cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa! Với
quyền năng, Người thống trị tới muôn đời. - Ðáp.
4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy
nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao.
Chúc tụng Chúa là Ðấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng
nhân hậu đối với tôi. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 3,
15-18
"Người đã chết theo thể xác, nhưng
đã nhờ Thần Linh mà sống lại".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô
Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em hãy tôn thờ
Chúa Kitô trong lòng anh em, hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi
kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính
cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của
anh em trong Ðức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em. Vì nếu Thiên
Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác. Vì
Ðức Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Người là Ðấng công chính thay
cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa; thật ra Người đã chết
theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu
ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và
Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14,
15-21
"Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban
cho các con một Ðấng Phù Trợ khác".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ
xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với
các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì
thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết
Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ không bỏ các con
mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy
Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống.
Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở
trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các
luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu
mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Nếu Tuần V Phục
Sinh, đề tài "sự sống" được phản ảnh nơi các bài Phúc Âm về mối liên hệ thần
linh giữa Thày trò với nhau cũng như giữa các trò với nhau, thì Tuần VI Phục
Sinh này liên quan đến nguyên lý hiệp thông thần linh đó là Thánh Linh, Đấng
được Giáo Hội bắt đầu hướng về ngay từ Tuần VI này, Đấng sẽ được Chúa Kitô
Thăng Thiên, vào thời điểm 10 ngày trước biến cố Thánh Thần Hiện Xuống,
nghĩa là vào Thứ Năm Tuần VI Phục Sinh này, Đấng được Chúa Kitô Thăng Thiên
về cùng Cha là Đấng đã sai Người ấy, để từ Cha sai đến với Giáo Hội của
Người. Và đó là lý do chúng ta thấy bài Phúc Âm hôm nay, cũng như các bài
Phúc Âm trong tuần VI Phục Sinh này đều về Thánh Thần.
Thật vậy, bài Phúc Âm mở màn cho Tuần Vi Phục Sinh Chúa Nhật IV Năm A này đã
cho các tông đồ thấy trước được một "Đấng Phù Trợ khác để ở cùng các con
luôn mãi". Không biết bấy giờ các vị có hiểu được Thày của các vị muốn
nói gì hay chăng. Không thấy các vị dồn dập hỏi Người, như phần đầu của bài
Phúc Âm cùng đoạn 14 này, bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật
Tuần V Phục Sinh Năm A, liên quan đến vấn đề "Thày đi dọn chỗ cho các
con", như đến ý nghĩa của "con đường" (vấn đề của Tông đồ Toma), cũng
như đến "Cha" (vấn đề của Tông đồ Philip).
Trong lời tiên báo "Thày đi để dọn chỗ cho các con", Chúa Giêsu còn
hứa rằng "Thày sẽ trở lại", còn trong câu tiên báo về "Đấng Phù
Trợ khác" ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, Người lại nói rằng "để Ngài ở
với các con luôn mãi". Nghĩa là chính vì Người sẽ bỏ các tông đồ mà đi
luôn, không trở lại với các vị nữa, mới có một vị được Người gọi là "Đấng
Phù Trợ khác": trạng từ "khác" đây bao gồm ít là 2 ý nghĩa: "Đấng
Phù Trợ" ấy không phải là chính Người, nhưng lại đóng vai trò như Người
đã từng là "Đấng Phù Trợ" các vị cho tới khi Người phải rời bỏ họ
mà về cùng Cha là Đấng đã sai Người.
Có lẽ các tông đồ không sôi nổi thắc mắc dường như ngơ ngác làm sao ấy ở
trong bài Phúc Âm Thứ V Phục Sinh Năm A tuần trước, như bài Phúc Âm Thứ VI
Phục Sinh Năm A tuần này, là vì tiếp sau đó các vị đã được nghe Thày của các
vị trấn an các vị như sau: "Thầy sẽ không bỏ
các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con". Tuy nhiên, Người sẽ không đến
với các vị bằng xương bằng thịt như chính lúc Người đang nói với các vị lúc
bấy giờ nữa. Mà là nơi "Đấng Phụ Trợ khác" Người gửi đến cho các
vị, Đấng thay Người, đúng hơn cùng Người "sẽ ở nơi các con và ở trong
các con" như "các con biết Ngài".
"Đấng Phù Trợ khác" này là Đấng chỉ được ban cho các vị là thành phần
môn đệ được Người tuyển chọn làm tông đồ của Người để sau này được Người sai
đi làm chứng về Người thôi, thành phần nhờ đó "không thuộc về thế gian"
(Gioan 15:19), bằng không, một khi các vị vẫn còn thuộc về thế gian, các vị
sẽ chẳng khác gì thế gian, cũng suy nghĩ, phán đoán, chọn lựa, phát ngôn,
tác hành và phản ứng theo xác thịt, mà "cái gì sinh bởi xác thịt là xác
thịt" (Gioan 3:6), và chính vì thế mà "thế gian không thể đón nhận"
được Đấng "Thày ban cho các con" là "Đấng Phù Trợ khác",
và cũng chính vì thế mà "thế gian không thấy và cũng chẳng biết được
Ngài".
Và cũng chính vì các vị có "Đấng Phù Trợ khác.... ở với luôn mãi"
như thế mà trong khi "thế gian sẽ không còn thấy Thày", các vị vẫn
cứ tiếp tục thấy Thày, dù Thày đã ra đi "dọn chỗ cho" các vị, hay đã về cùng
Cha, họ không còn thấy Người nữa, nhưng Người vẫn đang hiện diện với các vị, một
cách còn sâu xa và linh thiêng thực tại hơn bao giờ hết. Nghĩa là bấy giờ,
các vị không còn thấy Người bằng con mắt xác thịt của thế gian nữa, mà bằng
cảm nghiệm thần linh của đức tin, dưới tác động của "Đấng Phù Trợ khác"
trong các vị. Ở chỗ, "Thày sống và các con cũng sẽ sống", nghĩa là
họ sống chính sự sống của Thày và sống sự sống với Thày, như "Thầy ở
trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con".
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Sách Tông Vụ cho chúng ta thấy, sau khi
Chúa Kitô Thăng Thiên về cùng Cha của Người trên Trời,
để sai Thánh Thần xuống trên các vị tông đồ và từng vị tông đồ, nhờ đó
"Thày ở trong các con", để "Thày sống và các con cũng sẽ sống",
đến độ, nhờ đó, các ngài có thể thông truyền
Thánh Thần cho những ai tin vào Chúa Kitô sau khi lãnh nhận Phép Rửa:
"Khi các tông đồ ở Giêrusalem nghe tin
Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến
nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai
trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh
Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần".
Trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô cho thấy những
lời khuyên của vị trưởng tông đồ đoàn này, cho Kitô hữu Do Thái mà ngài muốn
nhắn nhủ, đã hoàn toàn phản ảnh đời sống chứng nhân tông đồ của ngài, bởi
ngài hoàn toàn tin tưởng cậy trông vào Đấng đã chọn ngài làm vị mục tử đầu
tiên thay Người chăn dắt đoàn chiên của Người, bất chấp mọi gian nan khốn
khó, cho đến khi "Thày ở đâu" ngài "cũng ở đó" (Gioan
14:3). Nghĩa là ngài đã sống thế nào thì khuyên đàn chiên Kitô hữu Do Thái
của mình cũng sống tin tưởng và kiên trì cho đến cùng như vậy:
"Anh em thân mến, anh
em hãy tôn thờ Chúa Kitô trong lòng anh em, hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời
thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm
cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời
sống đạo đức của anh em trong Ðức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh
em. Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm
điều gian ác".
Đời sống của một Kitô hữu chứng nhân trung thực và sống động là sản phẩm của
ân sủng, chứ tự họ vừa bất xứng vừa bất khả. Điển hình nhất là trường hợp
của Thánh Phêrô trước và sau Chúa Kitô Phục Sinh, một người môn đệ lãnh đạo
và được Thày tin tưởng nhưng lại quay ra trắng trợn chối bỏ Người, thế mà
ngài đã được biến đổi để thực sự trở nên chứng cớ hùng hồn về ân sủng chữa
lành và cứu độ, cho cả bản thân lẫn tha nhân. Thánh Vịnh 65 trong Bài Đáp Ca
hôm nay là tâm tình hân hoan ngợi khen Thiên Chúa của những ai được ơn Chúa,
nhận ra Chúa và làm tông đồ cho Chúa.
1) Toàn thể đất nước, hãy reo
mừng Thiên Chúa! Hãy ca ngợi vinh quang danh Người; hãy kính dâng Người lời
khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp
Chúa!
2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca
khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của
Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta!
3) Người biến bể khơi thành nơi khô
cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa! Với
quyền năng, Người thống trị tới muôn đời.
4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy
nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao.
Chúc tụng Chúa là Ðấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng
nhân hậu đối với tôi.
Năm B
Sự
sống của một hiện diện thần
linh nhờ ở trong tình yêu thần linh bằng việc tuân giữ lệnh truyền của Chúa
Kitô.
Bài đọc 1 (Tông
Vụ 10:25-26,34-35,44-48) - sự
sống của một hiện diện thần linh nhờ
có Thánh Thần Thiên Chúa:
"Phêrô đang nói các lời đó thì
Thánh Thần đã ngự xuống trên mọi kẻ đang nghe lời... 'Ai có thể ngăn cản
ta lấy nước mà rửa cho những kẻ này, khi họ đã lãnh nhận Thánh Thần như
chúng ta?'"
Bài đọc 2 (1Gioan
4:7-10) - sự
sống của một hiện diện thần
linh nhờ
có Thánh Thần là
Tình Yêu của Thiên
Chúa: "Thiên
Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta đó là Thiên Chúa đã
sai Con Một của Ngài đến trong thế gian, để nhờ Người mà chúng ta được
sống".
Phúc Âm (Gioan 15:9-17):
"Cha đã yêu mến Thày thế nào thì Thày cũng mến yêu các con như vậy.
Hãy ở lại trong tình yêu của Thày. Nếu các con tuân lệnh Thày truyền,
các con sẽ ở trong tình yêu của Thày".
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 10,
25-26. 34-35. 44-48
"Ơn Thánh Thần cũng đã tuôn đổ
xuống trên các dân tộc".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Xảy ra là khi Phêrô vừa vào nhà,
thì Cornêliô ra đón ngài, và sấp mình dưới chân ngài mà lạy. Phêrô liền
đỡ ông dậy và nói rằng: "Xin ông chỗi dậy, vì chính tôi cũng chỉ là
người".
Phêrô lên tiếng nói rằng: "Quả
thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất
cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người
đón nhận!"
Phêrô đang nói các lời đó, thì
Thánh Thần đã ngự xuống trên mọi kẻ đang nghe lời. Các tín hữu đã chịu
cắt bì, những người đã đến cùng Phêrô, đều sửng sốt, khi thấy ơn Thánh
Thần cũng đã tuôn đổ xuống trên các dân tộc; vả lại họ nghe các người ấy
nói nhiều thứ tiếng và ngợi khen Thiên Chúa. Bấy giờ Phêrô lên tiếng nói
rằng: "Ai có thể ngăn cản ta lấy nước mà rửa cho những kẻ này, khi họ đã
nhận lãnh Thánh Thần như chúng ta?" Và ngài truyền rửa tội cho họ nhân
danh Chúa Giêsu Kitô. Bấy giờ họ xin ngài ở lại với họ ít ngày.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1.
2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa đã công bố
ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (x. c. 2b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài
ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo
cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. -
Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của
Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại
lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn
thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng
Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Ga
4, 7-10
"Thiên Chúa là Tình Yêu".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan
Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta phải
thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì lẽ hễ ai thương
yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không
yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ðiều
này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng
ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được
sống. Tình yêu ấy là thế này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người
đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14,
23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người
ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15,
9-17
"Không có tình yêu nào lớn hơn
tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở
lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con
sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha
Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều
đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được
trọn vẹn. Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như
Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của
người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con
thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ,
vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất
cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con
biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con,
và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con
tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho
các con. Thầy truyền cho các con điều này là các con hãy yêu mến nhau".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Chủ đề "Thày là sự sống" ở Chúa Nhật
Tuần VI Phục Sinh này liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa, nguồn mạch
vô cùng bất tận của sự sống thần linh, một nguồn mạch sự sống Ngài đã
chẳng những tỏ ra cho chung loài người tội lỗi thấy nơi Người Con Nhập
Thể và Tử Giá của Ngài, mà còn thông ban cho riêng Giáo Hội Con của Ngài
khi ban Thánh Linh cho họ (xem Roma 5:5), "Đấng ban sự sống" (Kinh Tin
Kính). Và đó là lý do, ngay từ Thứ Hai tuần 2 Phục Sinh, Giáo Hội đã
chọn đọc bài Phúc Âm về việc "tái sinh bởi trời" (Gioan 3:3), tức "tái
sinh bởi nước và Thánh Linh" (Gioan 3:5), hay tái sinh bởi "nước" ám chỉ
thân xác phục sinh của Chúa Kitô, một thân xác phục sinh đã thông ban
Thánh Linh cho các vị tông đồ (xem Gioan 20:22) là nền tảng của Giáo Hội
và đại diện cho cả Giáo Hội bấy giờ.
Trong Bài Đọc 2 hôm nay, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu đã thực sự cảm
nhận được tình yêu của Thiên Chúa nên mới có thể loan truyền cho Kitô
hữu thời Giáo Hội sơ khai cũng như cho Kitô hữu cho tới tận thế về tình
yêu thương vô cùng bất tận của Thiên Chúa ở những điểm chính yếu sau
đây: 1- "tình
yêu bởi Thiên Chúa mà ra"; 2-
"Thiên Chúa là Tình Yêu"; 3- "Ðiều này
biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta
đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được
sống"; 4- "Tình yêu ấy là thế này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên
Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một
Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta".
Đúng thế, tình yêu thương là chính bản tính của Thiên Chúa:
"Thiên Chúa là tình yêu". Nghĩa là nếu Thiên Chúa không yêu theo
bản tính của mình, như ánh sáng không chiếu soi, như muối không mặm mà,
thì không còn là và không phải là Thiên Chúa nữa. Mà đã "là tình yêu"
thì không phải chỉ ở chỗ không thể nào không yêu, mà còn ở chỗ yêu với
tất cả bản thân là tình yêu của Ngài. Đến độ, dám hy sinh tất cả cho
chúng ta, dù chúng ta chỉ là một loài tạo vật vô cùng hèn hạ lại còn xấu
xa khốn nạn nữa, bằng cách tự động tỏ tình với chúng ta, thậm chí không
tiếc Người Con duy nhất là chính Bản Thân vô cùng cao trọng và cao quí
của Ngài cho chúng ta: "Tình yêu ấy là thế này: Không phải chúng ta
đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước,
và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta".
"Thiên Chúa là tình yêu" chẳng nhưng yêu thương chung loài tạo vật
đã được Ngài dựng nên theo hình ảnh thần linh của Ngài và tương tự như
Ngài, mà còn yêu từng con người được Ngài dựng nên nữa, dù họ là ai.
Vị "Thiên Chúa là tình yêu" chẳng những thương riêng dân của Ngài và
thương họ có vẻ như trên hết mọi dân tộc, đến độ Ngài có thể vì họ mà
trừng phạt các dân tộc khác dám phạm đến họ, như đã xẩy ra cho dân Ai
Cập trong cuộc Xuất Hành của họ
mà còn thương tất cả mọi dân tộc khác nữa qua
chính dân tộc của Ngài. Đó là lý do vị lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô, sau
khi chứng kiến thấy một trường hợp lạ lùng đầu tiên liên quan tới dân
ngoại, mới thốt lên ở Bài Đọc 1 hôm nay rằng:
"Xảy ra là khi Phêrô vừa vào nhà,
thì Cornêliô ra đón ngài, và sấp mình dưới chân ngài mà lạy. Phêrô liền
đỡ ông dậy và nói rằng: 'Xin ông chỗi dậy, vì chính tôi cũng chỉ là
người'. Phêrô lên tiếng nói rằng: 'Quả
thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất
cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người
đón nhận!' Phêrô đang nói các lời đó, thì
Thánh Thần đã ngự xuống trên mọi kẻ đang nghe lời. Các tín hữu đã chịu
cắt bì, những người đã đến cùng Phêrô, đều sửng sốt, khi thấy ơn Thánh
Thần cũng đã tuôn đổ xuống trên các dân tộc; vả lại họ nghe các người ấy
nói nhiều thứ tiếng và ngợi khen Thiên Chúa. Bấy giờ Phêrô lên tiếng nói
rằng: 'Ai có thể ngăn cản ta lấy nước mà rửa cho những kẻ này, khi họ đã
nhận lãnh Thánh Thần như chúng ta?' Và ngài truyền rửa tội cho họ nhân
danh Chúa Giêsu Kitô. Bấy giờ họ xin ngài ở lại với họ ít ngày".
Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới có tâm tình tràn đầy hoan lạc và ngợi
khen về ơn cứu độ phổ quát của Vị "Thiên Chúa là tình yêu" như
sau:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều
huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với
cánh tay thánh thiện của Người.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ
rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng
ái nhà Israel.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa
chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và
đàn ca.
Chính vì tình yêu của Thiên Chúa
đối với chung loài người như thế mà những ai được Ngài thương cũng phải yêu
thương nhau như vậy, và cần phải làm sao để cho tình yêu thương của Ngài
giành cho chúng ta được bừng phát lên, lan tỏa cho tất cả mọi người cũng như
cho từng người đã được Ngài yêu thương nơi Con của Ngài và cứu chuộc nhờ Con
của Ngài: "Như Cha đã
yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con", chính Chúa Giêsu đã khẳng
định như thế trong Bài Phúc Âm hôm nay, Đấng đã tỏ hết tình yêu của Cha của
Ngài ở trên trời cho loài người chúng ta qua cuộc Khổ Nạn và Tử Giá vô cùng
nhục nhã và đớn đau của Người, đến độ Người đã trở thành đáng thương hơn cả
chúng ta là loài tội lỗi đáng thương nữa.
Thế thì, theo nguyên tắc và đường lối truyền đạt yêu thương ấy, loài người
chúng ta nói chung và Kitô hữu chúng ta nói riêng, cũng cần phải tỏ ra mình
được thương yêu thế nào thì cũng yêu thương nhau như vậy. Nếu "Người đã
yêu thương những ai thuộc về Người ở trên thế gian thì Người cũng muốn chứng
tỏ rằng Người thương yêu họ cho đến cùng" (Gioan 13:1), thì chúng ta là
môn đệ của Người cũng thế: "Những gì Thày làm là để nêu gương cho các
con, để Thày làm thế nào các con cũng hãy làm theo như thế" (Gioan
13:15).Nên cũng trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn
đệ đích thực của Người rằng:
"Ðây là lệnh truyền
của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có
tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình".
Và việc Kitô hữu môn đệ chúng ta đáp ứng lệnh truyền của Người "là
các con hãy yêu mến nhau" như câu Người nói cuối cùng của Bài Phúc Âm
hôm nay, chẳng những là việc chúng ta truyền đạt tình yêu vô cùng bất tận
của Thiên Chúa mà còn chính là việc chúng ta trở về nguồn với tình yêu này,
đáp lại tình yêu này, hay là "ở lại trong tình yêu của Thày", đúng như ý
nghĩa của lời Chúa Giêsu nói ở đầu bài Phúc Âm hôm nay. Tuy nhiên, làm thế
nào để có thể "ở lại trong tình yêu của Thầy", chính Chúa Giêsu đã dẫn giải
rõ ràng đó là: "Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong
tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở
lại trong tình yêu của Người". Mà lệnh truyền của Thày đây là gì, nếu
không phải như Người cũng đã khẳng định ngay sau đó rằng: "Các con hãy
yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con".
Tuy nhiên, việc thành phần môn đệ Kitô hữu chúng ta yêu mến Chúa và yêu
thương tha nhân không phải tự chúng ta là loài tạo vật hữu hạn và bất toàn
lại còn đầy những tội lỗi không xứng đáng làm và có khả năng làm, mà chỉ là
tác động đáp ứng tình yêu của Thiên Chúa giành cho chúng ta và đối với chúng
ta, và chính tình yêu của Thiên Chúa trong chúng ta, nhất là khi đã hoàn
toàn chiếm đoạt chúng ta và làm chủ chúng ta, mới làm cho chúng ta xứng đáng
kính mến Ngài và mới giúp chúng ta có khả năng yêu thương tha nhân như Con
của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định cảm nhận đáp ứng tình yêu Thiên
Chúa và thông đạt tình yêu Thiên Chúa ở trong bài Phúc Âm hôm nay như sau:
"Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và
đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn
tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con".
Năm C
Sự
sống của một hiện diện thần linh được ở
trong Cha và Con bằng
tình yêu thương.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 15,
1-2. 22-29
"Thánh Thần và chúng tôi xét rằng
không nên đặt thêm gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, có mấy người từ
Giuđêa đến dạy bảo các anh em rằng: "Nếu anh em không chịu cắt bì theo luật
Môsê, thì không được cứu độ". Do đó, Phaolô và Barnaba đã tranh luận gắt gao
với họ. Bấy giờ người ta quyết định là Phaolô, Barnaba và một ít người khác
thuộc phe họ, lên Giêrusalem gặp các Tông đồ và niên trưởng, để xin giải
quyết vấn đề này.
Bấy giờ các Tông đồ, kỳ lão, cùng toàn
thể Hội thánh chấp thuận chọn ít người trong các ngài, và sai đi Antiôkia
với Phaolô và Barnaba: đó là Giuđa, gọi là Barsaba, và Sila, những vị có uy
thế giữa anh em. Các ngài nhờ tay hai ông chuyển bức thơ viết như sau:
"Anh em Tông đồ và kỳ lão chúng tôi
kính chào các anh em thuộc dân ngoại ở Antiôkia, Syria và Cilicia. Chúng tôi
nghe tin rằng có mấy người trong chúng tôi đã đến nói những lời gây hoang
mang và làm cho tâm hồn anh em xao xuyến, chúng tôi không uỷ quyền cho họ,
vì thế chúng tôi họp lại, đồng ý chọn một ít người và sai đến anh em làm một
với Barnaba và Phaolô, những anh em yêu quý của chúng tôi, tức là những
người đã liều mạng sống mình vì danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy
chúng tôi đã sai Giuđa và Sila đến nói miệng với anh em cũng chính những lời
này: Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh
nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần,
huyết, thịt thú chết ngạt và gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó là anh em
làm phải. Chúc anh em vạn an".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 66, 2-3.
5-6 và 8
Ðáp: Chư dân, hãy
ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và
chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn
nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư
dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ,
vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy
Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho
chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Kh 21,
10-14. 22-23
"Người chỉ cho tôi thấy thành thánh
do Thiên Chúa từ trời gởi xuống".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Thiên Thần đem tôi lên một núi cao
chót vót khi tôi ngất trí, và chỉ cho tôi thấy thành thánh Giêrusalem từ
trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của
nó toả ra như đá quý, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành có
tường lũy cao lớn, trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần,
và có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel. Phía đông có ba cổng, phía
bắc có ba cổng, Phía nam có ba cổng, và phía tây có ba cổng. Tường thành xây
trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên. Còn đền thờ,
tôi không thấy có trong thành, vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên là đền
thờ của thành. Thành không cần mặt trời, mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh
quang Thiên Chúa chiếu sáng nó, và đèn của nó chính là Con Chiên.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu
ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và
Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14,
23-29
"Thánh Thần sẽ nhắc nhở cho các con
tất cả những gì Thầy đã nói với các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy,
và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ
lời Thầy. Lời các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng
đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con.
Nhưng Ðấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính
Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì
Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an
của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng
các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con
rằng: Thầy đi, rồi Thầy trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì
các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây
Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con
tin".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật VI Phục Sinh Năm C hôm nay có những chi tiết
liên quan đến 3 Lễ Trọng tiếp theo Chúa Nhật VI Phục Sinh này, đó là Lễ Chúa
Giêsu Thăng Thiên (Thứ Năm tuần VI Phục Sinh):
"Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì
Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha
trọng hơn Thầy"; Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Chúa Nhật sau
Chúa Nhật VII cuối Mùa Phục Sinh): "Ðấng
Phù Trợ là Thánh Thần,
mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ
nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con";
và Lễ Chúa Ba Ngôi (Chúa Nhật sau Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống):
"Ðấng Phù Trợ là
Thánh Thần, mà
Cha sẽ sai đến nhân danh
Thầy".
Trong Tuần VI Phục Sinh này, không phải chỉ có Chúa Nhật
mà cả suốt cả tuần, các bài Phúc Âm nói riêng và Phụng Vụ Lời Chúa nói
chung, đều nói về Chúa Thánh Thần. Vấn đề trước hết được đặt ra ở đây là tại
sao Đại Lễ Chúa Thánh Thần cách 2 tuần nữa mà Giáo Hội đã bắt đầu chọn đọc
các bài Phúc Âm về Chúa Thánh Thần ở ngay tuần Thứ Sáu Phục Sinh? Tại sao
không để vào Chúa Nhật và cả tuần Thứ VII Phục Sinh cho gần hơn và sát hơn
có phải hợp tình hợp lý hơn hay chăng?? Xin thưa, bởi vì Tuần Thứ VII Phục
Sinh đã được Giáo Hội chọn đọc các bài Phúc Âm về Lời Nguyện Hiến Tế kết
thúc Bữa Tiệc Ly của Chúa Kitô, trong đó, Người xin cho tất cả được hiệp
nhất nên một như Thiên Chúa. Mà tình trạng hiệp thông thần linh đây là tác
động của Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp thông, bởi thế Chúa Thánh Thần
cần phải được nói đến và biết đến ngay trong Tuần VI trước Tuần VII Phục
Sinh.
Tuy nhiên, chủ đề "Thày là sự sống" trong Mùa
Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh, vẫn thích hợp cho tới chính Đại lễ
Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, nghĩa là bao gồm cả Tuần VI và Tuần VII Phục
Sinh. Bởi vì, Chúa Thánh Thần được nói đến trong Tuần VI Phục Sinh, chính là
"Đấng ban sự sống", hay là nguồn sự sống thần linh, và mối hiệp
thông thần linh, được chất chứa trong các bài Phúc Âm của Tuần VII Phục
Sinh, (bao gồm cả 2 bài phúc âm, ở cuối đoạn 21 của Phúc Âm Thánh Gioan,
không thuộc về Lời Nguyện Hiến Tế của Chúa Kitô kết thúc Bữa Tiệc Ly, nhưng
cũng có ý nghĩa hiệp thông thần linh), là tột đỉnh của sự sống thần linh, là
mục đích của việc tạo dựng ngay từ ban đầu của Thiên Chúa cùng với việc cứu
chuộc của Chúa Giêsu Kitô, và là chính thực tại của sự sống thần linh.
Trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật VI Phục Sinh Năm C này,
Chúa Thánh Thần được Chúa Kitô mạc khải cho biết thứ tự như sau:
1- "Ðấng Phù Trợ là Thánh
Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy": Trước hết, trong nội bộ Thiên
Chúa duy nhất có Ba Ngôi, Thánh Thần là Đấng nhiệm xuất từ Cha và Con như
Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng: "Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà
ra" (Kinh Tin Kính), chứ không phải chỉ từ Cha như Giáo Hội Chính Thống chủ
trương. "Thánh Thần" là Ngôi Ba được "Cha sai đến", nhưng
Ngài chỉ được "Cha sai đến" "nhân danh Thày" mà thôi,
nghĩa là vì một vai vế cao hơn chính Ngôi Thánh Thần là Ngôi Con trong Ba
Ngôi Thiên Chúa ... Thế nhưng, Ngài được "Cha sai đến" đâu và "đến"
với ai, nếu không phải "đến" với Giáo Hội do chính Chúa Kitô thiết
lập và là Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Và để làm gì? Câu trả lời sẽ được các bài
phúc âm trong Tuần VI Phục Sinh này trả lời cho biết, bao gồm cả bài Phúc Âm
của chính Chúa Nhật VI Phục Sinh Năm C hôm nay.
2- "Chính Người sẽ dạy các
con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các
con". Trước hết, "Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thày"
là để "dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì
Thầy đã nói với các con". Tuy nhiên, vì Chúa Thánh Thần được "Cha
sai đến nhân danh Thày" nên Ngài sẽ không "dạy các con" những
gì của riêng Ngài và theo ý của Ngài, tức là sẽ mạc khải thêm cho các tông
đồ ngoài chính những gì Chúa Kitô đã mạc khải và là chính tất cả mạc khải
thần linh. Chúa Kitô đã được Cha sai đến không hề làm theo ý mình thế nào
thì Chúa Thành Thần được "Cha sai đến nhân danh Thày" cũng chỉ "dạy
các con mọi sự" Thày đã truyền dạy các con mà thôi, bằng cách 'nhắc
nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con", nghĩa là làm
cho Giáo Hội càng ngày càng thấu hiểu hơn mạc khải thần linh nơi từng thời
đại lịch sử loài người.
Điển hình nhất là trường hợp được Sách Tông Vụ trong Bài Đọc I hôm nay nhắc
đến, đó là quyết định của các Thánh Tông Đồ, trong đó có 3 vị chính: Tông Đồ
Phêrô là Giáo Hoàng tiên khởi đại diện Chúa Kitô trên trần gian lo cho đàn
chiên phổ quát của Chúa Kitô, tiếp đến là Tông Đồ Giacôbê là Giám Mục cai
quản Giáo Hội ở Giêrusalem thuộc cấp thẩm quyền địa phương bấy giờ, và còn
có cả Tông Đồ Phaolô đặc trách dân ngoại, bao gồm các Giáo Hội mới được
thành lập ở ngoài Giáo Phận Jerusalem. Quyết định của các vị nơi Công Đồng
Chung Jerusalem của Giáo Hội sơ khai, Giáo Hội tiên khởi này đó là dân ngoại
trở lại Kitô giáo không cần phải chịu phép cắt bì theo Do Thái giáo mới được
cứu độ, như có một số tín hữu Do Thái giáo trở lại Kitô giáo chủ trương và
loan truyền. Thế nhưng, trong Văn Thư chính thức của công đồng về quyết định
ấy đã cho thấy quyết định ấy bởi "Thánh Thần và chúng tôi". "Thánh
Thần" trước", "chúng tôi" sau. Có nghĩa là
"Người sẽ nhắc nhở cho các con tất
cả những gì Thầy đã nói với các con",
đó là "Ai tin vào tin mừng và
chịu phép rửa thì được cứu độ" (Marco 16:16), chứ không cần cắt bì nữa.
Cho dù Kitô hữu không cần phải chịu phép cắt bì của Do Thái
giáo đi nữa, tuy nhiên, theo nguyên tắc thì "ơn cứu độ xuất phát từ dân
Do Thái" (Gioan 4:22), nghĩa là, ở một ý nghĩa nào đó, từ chính Đấng
sáng lập và thành phần tông đồ là nền tảng của Giáo Hội toàn là những con
người thuộc "dân Do Thái", và từ "Jerusalem, khắp Giuđêa và
Samaria" (Tông Vụ 1:8) là giáo đô của Do Thái giáo và những miền đất
của "dân Do Thái". Chưa hết, Kitô giáo có nguồn gốc từ Do Thái
giáo, từ lịch sử cứu độ của "dân Do Thái", một lịch sử cứu độ đã
được nên trọn "khi thời gian đã nên mãn" (Galata 4:4). Thế nhưng,
chính vì lịch sử cứu độ của "dân Do Thái" đã và chỉ đạt đến tột
đỉnh nơi Đức Giêsu Thiên sai Cứu Thế, giáo tổ Kitô giáo mà chỉ cần tin vào
tin mừng về Người và lãnh nhận Phép Rửa nhân danh Người là đủ được cứu độ,
một tin mừng do Giáo Hội rao giảng và một phép rửa do Giáo Hội ban phát. Như
thế, cho dù Kitô giáo bắt nguồn từ Do Thái giáo, nhưng ngược lại Do Thái
giáo chỉ nên trọn nơi Kitô giáo, hay nói ngược lại Kitô giáo là tầm vóc trọn
hảo của Do Thái giáo.
Đó là lý do Sách Khải Huyền trong Bài Đọc II hôm nay đã cho thấy mối liên hệ
giữa Do Thái giáo và Kitô giáo bất khả thiếu và bất khả phân ly nơi hình ảnh
về một Thành Thánh Giêrusalem, ám chỉ Giáo Hội vinh quang của Chúa Kitô ở
vào tận điểm của Mầu Nhiệm Cánh Chung, đó là
một "thành thánh Giêrusalem từ
trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa... Thành có
tường lũy cao lớn, trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần,
và có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel... Tường thành xây trên mười
hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên". Trong bài đọc II
này, hình ảnh Do Thái giáo được tiêu biểu nơi "mười hai cổng.. có khắc
tên mười hai chi họ con cái Israel", nơi phải qua mới có thể vào trong
thành, và hình ảnh Kitô giáo được tiêu biểu nơi "mười hai móng có khắc
tên mười hai tông đồ của Con Chiên" mà "tường thành xây trên".
Hình ảnh 12 cổng thành liên quan đến Do Thái giáo trước và 12 móng của tường
thành liên quan đến Kitô giáo sau như thế không phải đã chất chứa ý nghĩa Do
Thái giáo dẫn đến Kitô giáo và Kitô giáo là tầm vóc trọn hảo của Do Thái
giáo hay sao?
Dù sao cả hai, 12 cổng vào thành ám chỉ Do Thái và 12 móng
tường thành ám chỉ Kitô giáo này cũng là 2 yếu tố bất khả thiếu để làm nên
thành thánh Giêrusalem vinh quang, làm nên Giáo Hội Cánh Chung của Chúa
Kitô, bao gồm cả "dân Do Thái" lẫn tất cả dân ngoại, nghĩa là toàn
thể loài người. Bởi vì Thiên Chúa dựng nên loài người chỉ muốn trở thành
Thiên Chúa ở cùng họ, là Emmanuel của họ (xem Gioan 1:14), thành phần được "Ngài
ban cho quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), được "Con tỏ danh
Cha cho họ... để tình cha với họ sống trong họ và Con sống trong họ"
(Gioan 17:26). Do đó mà Bài Đọc II đã kết thúc bằng một hình ảnh và một sự
thật về
"thành thánh Giêrusalem từ trời
nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa"
thật là chính
xác như thế này: "Còn
đền thờ, tôi không thấy có trong thành, vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên
là đền thờ của thành. Thành không cần mặt trời, mặt trăng chiếu soi: vì đã
có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó, và đèn của nó chính là Con Chiên".
Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới có những tâm tình hân hoan chúc tụng như
sau:
1) Xin Thiên Chúa xót thương và
chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn
nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư
dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ,
vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy
Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho
chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài.
Ghi Chú: Khi
cử hành Lễ Thăng Thiên vào Chúa Nhật tới, thì trong Lễ Chúa Nhật VI Phục
Sinh hôm nay có thể đọc Bài đọc II và Bài Tin Mừng của Chúa Nhật VII Phục
Sinh.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc II: Kh 22,
12-14. 16-17. 20
"Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã nghe tiếng phán cùng
tôi rằng: "Này Ta đến ngay, Ta có phần thưởng để trả công cho mỗi người tuỳ
các việc người ấy đã làm. Ta là Alpha và Ômêga, là thứ nhất và cuối cùng, là
nguyên thuỷ và cùng đích. Phúc cho những ai giặt áo của mình trong máu Con
Chiên, để được hưởng dùng cây sự sống, và được qua cửa để vào thành.
"Ta là Giêsu, đã sai thiên thần đến
làm chứng cho các ngươi về những điều có liên quan đến các giáo đoàn. Ta là
gốc rễ, là dòng dõi Ðavit, là sao mai sáng chói".
Thần Trí và tân nương nói: "Hãy đến!"
Và kẻ nào nghe cũng hãy nói: "Hãy đến!" Và ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy
nhận lãnh nhưng không nước sự sống.
Ðấng làm chứng những điều ấy phán:
"Phải, Ta đến ngay". "Amen. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến!"
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14,
18; 16, 22
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy
sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui
mừng". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 17,
20-26
"Ðể chúng được hoàn toàn nên một".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời
cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, Con không cầu xin cho chúng mà thôi,
nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên
một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một
trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh
hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở
trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một, và để thế
gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến
Con."
"Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì
Con muốn rằng: Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng
vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành
thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết
Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng
biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong
chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
(theo PVLC bao gồm bài đọc
II và bài Phúc Âm Chúa Nhật VII
Phục Sinh Năm C, vì Chúa Nhật VII Năm C Tuần tới thường là Chúa Nhật cử hành
Lễ Trọng Chúa Giêsu Thăng Thiên ở các giáo phận trên thế giới)
Tuần Thứ Sáu Phục Sinh vẫn tiếp tục chủ đề
"Thày là sự sống". Phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật VI Phục Sinh Năm C này
nói chung và Bài Phúc Âm nói riêng đã cho thấy sự sống này là ở nơi tình
trạng hiệp thông thần linh: "để
mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng
cũng nên một trong Ta ... Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho
Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong
Con, để chúng được hoàn toàn nên một..."
Mối hiệp thông thần linh là nội tại và thực tại của sự sống thần linh
đây bao gồm tất cả "mọi người":
"để mọi người nên một", chứ không phải chỉ riêng dân Do Thái
là dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn để tỏ mình ra cho họ dọc suốt giòng
lịch sử cứu độ của họ, nhưng Ngài không chỉ tỏ cho họ mà qua họ tỏ cho cả
dân ngoại bao gồm toàn thể loài người nữa, vì ngay từ ban đầu, ngay sau
nguyên tội, Ngài đã hứa cứu chuộc chung nhân loại, trong đó có cả dân Do
Thái sau này được Ngài tuyển chọn như một dân tộc tiền thân cho Giáo Hội
Chúa Kitô là Dân Tân Ước của Ngài.
Và đó là lý do, Sách Tông Vụ trong Bài Đọc I hôm nay đã cho thấy đệ
nhất Công Đồng Chung của Giáo Hội sơ khởi và tiên khởi ở Jerusalem đã quyết
định rất chính xác theo tác động của Thánh Thần là Thần Chân Lý bất khả sai
lầm:
"Thánh Thần và chúng tôi xét...",
về vấn đề tuyên truyền của một số người Do Thái bảo thủ chủ trương đối với
thành phần dân ngoại: "nếu anh em không chịu cắt bì theo luật Môsê, thì
không được cứu độ", "rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng
nào khác ngoài mấy điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết,
thịt thú chết ngạt và gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó là anh em làm
phải".
Như thế, tất cả những ai được cứu độ đều có sự sống thần linh, tức được
hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu Thiên Sai Cứu Thế, nhờ
"Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống" (Kinh Tin Kính), là nguyên lý hiệp
thông và đồng thời cũng là tác lực hiệp thông, và thực sự là chính mối hiệp
thông. Trong Lời Cầu Thánh Hiến kết thúc Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu, trong
đó bài Phúc Âm cho Chúa Nhật VI Phục Sinh Năm C (cũng là bài Phúc Âm cho
Chúa Nhật VII Phục Sinh Năm C nếu Chúa Nhật VII này không cử hành Lễ Chúa
Kitô Thăng Thiên), là phần cuối, chỉ thấy có Cha và Con mà chẳng thấy Thánh
Thần đâu. Tuy nhiên, nếu Thánh Thần là chính mối hiệp thông thần linh thì
khi nói đến mối hiệp nhất Cha và Con là Chúa Giêsu đã nói đến Chúa Thánh
Thần rồi vậy.
"Lạy Cha, những kẻ Cha ban
cho Con thì Con muốn rằng: Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng
chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con... Con đã tỏ cho chúng biết
danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng,
và Con cũng ở trong chúng nữa". Ở đây, dường như Chúa Kitô muốn nói đến
các thánh tông đồ được Người tuyển chọn làm nền tảng Giáo Hội của Người,
thành phần "những kẻ thuộc về Người" (Gioan 13:1), đã được Người
nhắc đến 2 lần ở phần trên của cùng Lời Nguyện Hiến Tế kết thúc Bữa Tiệc Ly:
"Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ
biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con" (Gioan 17:6),
"những
kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha" (Gioan 17:9).
Đối với thành phần tông đồ này, Chúa Giêsu muốn "Con
ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã
ban cho Con",
trước hết có thể hiểu là các tông đồ được chọn để nên
giống hình ảnh Người, tức là được tham phần Khổ Nạn và Tử Giá với Người:
"Thầy đi dọn chỗ cho anh em... Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy,
để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (Gioan 14:2-3),
tức
các vị chính là: "Những ai Thiên Chúa đã biết trước thì Ngài
cũng tiền định cho nên giống Con của Ngài" (Roma 8:29).
Và đó phải chăng là ý nghĩa của những gì Sách Khải Huyền trong Bài Đọc II
hôm nay đã nói tới: "'Ta là Giêsu,
đã sai thiên thần đến làm chứng cho các ngươi về những điều có liên quan đến
các giáo đoàn. Ta là gốc rễ, là dòng dõi Ðavit, là sao mai sáng chói'. Thần
Trí và tân nương nói: 'Hãy đến!' Và kẻ nào nghe cũng hãy nói: 'Hãy đến!' Và
ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy nhận lãnh nhưng không nước sự sống". Câu
này ám chỉ một cuộc hiệp thông thần linh giữa Chúa "Giêsu" và "tân
nương" là Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng các tông đồ (xem Epheso
2:20). Đúng thế, "Thần Trí và tân nương" đây đã được phản ảnh nơi
Bài Đọc I hôm nay: "Thánh Thần và chúng tôi". Cuộc hiệp
thông thần linh đây là cuộc hiệp thông giữa Chúa Kitô là Đầu và Giáo Hội là
Nhiệm Thể của Người, một Nhiệm Thể Giáo Hội mà
"Con đã tỏ cho chúng biết
danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng,
và Con cũng ở trong chúng nữa",
bao gồm tất cả dân ngoại.
Thế nên, Đoạn Thánh Vịnh 66 trong Bài Đáp Ca hôm nay mới kêu gọi "các
dân tộc" hay "chư dân", thành phần đã trở thành Giáo Hội Nhiệm
Thể Chúa Kitô, được hiệp thông thần linh với Người và trong Người với Cha
rằng:
"Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ,
vì Ngài công bình cai trị chư dân
(chứ không chỉ ưu ái riêng với dân Do
Thái - xem Tông Vụ 10:34), và Ngài cai quản các nước địa cầu (bao
gồm muôn dân trong đó có cả dân Do Thái)" (câu xướng 2). Bởi thế: "Chư
dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài"
(câu xướng 3 cũng là chính câu Đáp).
Thứ Hai sau Chúa
Nhật VI Phục Sinh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 16,
11-15
"Chúa đã mở lòng cho bà chú ý nghe
những lời Phaolô giảng dạy".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Chúng tôi xuống tàu tại Trôa và đi
thẳng đến Samôthra, và hôm sau đến Nêapôli; rồi từ đó đi Philippê là thành
thứ nhất vùng Macêđônia, và là xứ thuộc địa. Chúng tôi lưu lại thành này một
ít ngày. Ðến ngày Sabbat, chúng tôi đi ra ngoài cửa thành đến bờ sông, chỗ
người ta thường hợp nhau đọc kinh. Chúng tôi ngồi xuống giảng cho những phụ
nữ đang tề tựu ở đó. Bấy giờ có một bà tên là Lyđia, buôn vải gấm, quê ở
Thyatira, có lòng thờ Chúa, cũng ngồi nghe; Chúa đã mở lòng cho bà chú ý
nghe các điều Phaolô giảng dạy. Sau khi chịu phép rửa tội làm một với gia
đình, bà nài xin rằng: "Nếu các ngài xét thấy tôi đã nên tín đồ của Chúa,
thì xin đến ngụ tại nhà tôi". Bà nài ép chúng tôi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149,
1-2. 3-4. 5 và 6a và 9b
Ðáp: Chúa yêu
thương dân Người (c. 4a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca
mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng
vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. -
Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người,
hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương
dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người,
hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương
dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh
quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô
Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy
sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui
mừng". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15,
26-16, 4
"Thần Chân lý sẽ làm chứng về
Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Khi Ðấng Phù Trợ đến, Ðấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các
con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy. Và các
con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu. Thầy đã nói với
các con điều đó để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại các con ra khỏi
hội đường. Ðã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa.
Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng không biết
Thầy. Nhưng Thầy đã nói với các con như vậy, để khi đến giờ của họ, các con
nhớ lại là Thầy đã bảo các con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
"Thiên Chúa là Thần Linh"
(Gioan 4:24).
"Thần Linh" ở đây
không phải như kiểu thiên thần theo bản tính thiêng liêng cũng có thể gọi là "thần
linh",
vì
"thần linh"
theo tầm cấp tạo vật của các thiên thần thì không thể ở trong các tạo vật nói
chung và nhất là trong linh hồn thiêng liêng của con người ta nói riêng. Chính
sự kiện có thể ở trong linh hồn con người cũng như ở nơi chính các thiên thần
trên trời cho thấy
"Thiên Chúa là Thần Linh",
là Hiện Diện Thần Linh.
Trong bài phúc âm Thứ Hai Tuần VI Phục Sinh hôm nay, thời điểm gần hết Mùa Phục
Sinh 7 tuần lễ, một bài phúc âm cũng như các bài Phúc Âm khác trong tuần
này, Giáo Hội cố ý chọn đọc những đoạn Phúc Âm của Thánh ký Gioan về Thánh Linh
(3 ngày đầu trong tuần VI Phục Sinh này) là Đấng sau khi thăng thiên về cùng Cha Người sẽ từ Cha sai đến với các tông đồ,
với Giáo Hội, để Người có thể ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế (xem Mathêu
28:20), nhờ đó Giáo Hội có thể hiên ngang bất khuất làm chứng nhân về Người
và cho Người đến tận cùng trái đất và cho tới khi Người lại đến trong vinh
quang.
"Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Khi Ðấng Phù Trợ đến, Ðấng Thầy sẽ từ
nơi Cha Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ
làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban
đầu. Thầy đã nói với các con điều đó để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại
các con ra khỏi hội đường. Ðã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự
Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng
không biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với các con như vậy, để khi đến giờ của họ,
các con nhớ lại là Thầy đã bảo các con'".
"Các con
cũng sẽ làm chứng" ở đây, theo lời Chúa Giêsu, cần hai yếu tố bất khả
thiếu, đó là Thánh Linh, "Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng
về Thầy" và
"ở với Thầy từ ban đầu",
bằng không, không ai có thể làm chứng cho Chúa Kitô. Hai yếu tố bất khả
thiếu là những gì cũng bất khả phân ly.
Trước hết là yếu tố "ở với Thày ngay từ ban đầu", điều kiện tối cần
để chọn vị tông đồ thay cho tông đồ Giuđa Ích-Ca (xem Tông Vụ 1:21-22), vì
không hiểu biết Chúa Kitô bằng chính cảm nghiệm bản thân gần gũi với Người,
không thể làm chứng về Người và cho Người. Bởi thế mà Thánh Gioan Tông Đồ,
ngay đầu Thư Thứ Nhất là nói đến sự kiện "điều chúng tôi đã nghe,
điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng
tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng
tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời..."
(1Gioan 1:1-2).
Sau nữa là yếu
tố "Thần Chân Lý", được "Thày từ nơi Cha sai đến", một "Thần
Chân Lý" là Đấng "thấu suốt mọi sự nơi Thiên Chúa" (1Corinto
2:10), bất khả thiếu cho thành phần chứng nhân tông đồ, thành phần chứng
nhân tiên khởi. Vì cho dù được ở với Chúa Kitô ngay từ ban đầu
đấy, các tông đồ vẫn không hoàn toàn hiểu được Chúa Kitô như Người thực sự
là, trái lại, còn trắng trợn bán Người và chối bỏ Người. Bởi thế các vị cần
đến Thánh Linh là "Thần Chân Lý", vì Ngài "bởi Cha mà ra",
là chính Ý Thức Thần Linh của Cha về bản thân Cha là chính Người Con của
Cha,
nên chỉ có Vị "Thần Chân Lý" này mới biết được Đấng Cha sai hầu có thể "làm chứng về Thày", làm
chứng qua các chứng nhân được "ở với Thày ngay từ ban đầu": "các
con cũng sẽ làm chứng nữa". Nếu
không có Thánh Linh là Thần Chân Lý, cho dù có ở với Thày ngay từ ban đầu,
họ vẫn có thể trở thành một phản kitô, một kitô giả. Như trường hợp tông đồ
Phêrô vừa tuyên xưng Thày xong đã trở thành Satan trước mặt Người.
"Người ta
sẽ loại các con ra khỏi hội đường". Nếu so sánh với Giáo Hội Công Giáo
có nghĩa là tuyệt thông nếu không tin Chúa Kitô như Giáo Hội tin hay không
tin các tín điều do Giáo Hội tuyên bố. Cho đến nay Do Thái giáo vẫn loại ra
khỏi hội đường của họ, hay tuyệt thông những ai theo Do Thái giáo công nhận
Nhân Vật Giêsu Nazarét là Đức Kitô Thiên Sai. Mà các vị tông đồ gốc gác từ
Do Thái giáo nên bị hiọ loại ra khỏi hội đường bởi các vị rao giảng Nhân Vật
Giêsu Nazarét là Đức Kitô Thiên Sai.
“Kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa”
ở đây, vì họ nghĩ rằng Vị Thiên Chúa chân thật
duy nhất của họ trong giòng Lịch Sử Cứu Độ không thể nào ở nơi một Nhân Vật
Lịch Sử Giêsu Nazarét cũng là người như họ. Điển hình là trường hợp của Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đã nhân
danh Thiên Chúa để lên án tử cho Chúa Giêsu là nhân vật đối với họ chỉ là
người mà dám lộng ngôn cho mình ngang hàng với Thiên Chúa (xem Mathêu 26:65;
Gioan 10:33). Lý do chính yếu là vì
"họ không biết Cha, cũng không biết Thày"
"Khi Ðấng Phù Trợ đến, Ðấng Thầy sẽ từ nơi Cha
Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm
chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban
đầu", trong câu đầu tiên của Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được
"Đấng Phù Trợ" là ai? (1) Từ đâu đến? (2) Để làm gì? (3) Bằng cách nào? (4)
"Đấng Phù Trợ" là ai? - Là "Đấng Thầy sẽ từ nơi
Cha Thầy sai đến với các con"; 2- "Đấng Phù Trợ" từ đâu đến? -
"Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra"; 3- "Đấng Phù Trợ" đến để làm gì?
- "Người sẽ làm chứng về Thầy"; 4- "Đấng Phù Trợ" thi hành sứ vụ
bằng cách nào? - "các con cũng sẽ làm chứng", tức là qua và nhờ
Giáo Hội Chúa Kitô trên trần gian.
Trước hết, "Đấng Phù Trợ" được Chúa Kitô
"sai đến", như Chúa Kitô đã được Cha sai, và vì thế, về Ngôi Vị, theo thứ
tự, Chúa Cha là Ngôi Nhất - Ngôi Cha, Chúa Kitô là Ngôi Hai - Ngôi Con, và "Đấng
Phù Trợ" là Ngôi Ba - Thánh Linh. Tuy là Ngôi Ba trong Ba Ngôi nhưng
Ngài cũng là Thiên Chúa, "bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra",
và như Chúa Con, Ngài "không phải được tạo thành", nhưng "đồng
bản thể" với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, vì Ngài "bởi Chúa Cha và
Chúa Con mà ra". Nghĩa là, theo ngôn ngữ thần học thì trong khi Chúa
Con "nhiệm sinh" từ Chúa Cha thì Thánh Thần "nhiệm xuất" từ Chúa Cha và Chúa
Con.
Thật ra, khi sống lại từ trong kẻ chết, Chúa Kitô đã
ban Thành Thần của Người cho các tông đồ rồi (xem Gioan 20:22), nhưng "Đấng
Phù Trợ" được Người nói đến ở đây, cũng là Thánh Thần, thì chỉ khi nào
Người Thăng Thiên về cùng Cha, Người mới "sai đến với các con". Tuy
nhiên, Giáo Hội Chính Thống chỉ tuyên xưng Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha mà
ra thôi, như câu Chúa Giêsu nói ngay sau: "Ngài là Thần Chân lý bởi Cha
mà ra". Đây là một trong những điểm tín lý, được gọi là "filioque",
khác biệt chính yếu nhất giữa hai Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống từ trước
cho tới nay!
Sau nữa, vì chính Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa
được nhiệm xuất từ Cha và Con, nên như Con bởi Cha mà ra đã đến để "tỏ
Cha ra" (Gioan 1:18) cho dân Do Thái nói chung và cho các tông đồ nói
riêng thế nào, thì Thánh Thần được Chúa Con sai đến, nghĩa là được Chúa Kitô
Thăng Thiên về cùng Cha và ngự bên hữu Chúa Cha rồi, bấy giờ, với tư cách là
Chúa Con, Người mới sai Ngài đến, do đó mà sứ vụ của Ngôi Ba Thánh Thần đến
là để "làm chứng về Thày".
Nghĩa là Ngài được Thày từ Cha sai đến là để, trước
hết và trên hết, tỏ Thày ra cho Giáo Hội, nghĩa là làm cho Giáo Hội thấm
nhập Chúa Kitô và làm cho Chúa Kitô càng ngày càng hiện tỏ nơi Giáo Hội. Vì
chỉ có Ngài "thấu suốt mọi sự nơi Thiên Chúa" (1Corinto 2:12), mới
"là Thần Chân Lý... dẫn các con vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13),
nhờ đó "Ngài sẽ làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các
con đã ở với Thầy từ ban đầu". Nghĩa là Chúa Thánh Thần tỏ
Chúa Kitô ra cho Giáo Hội, để qua Giáo Hội, làm chứng về Người trước thế
gian, bằng chính chứng từ đứa ái trọn hảo của Giáo Hội.
Nếu Chúa Thánh Thần "là Thần Chân lý bởi Cha mà
ra", được sai đến để "làm chứng về Thày", nghĩa là để tỏ Thày
ra: Thày là ai, và Thày đã tỏ mình ra nơi giáo huấn của Người cũng như nơi các
gương sống của Người ra sao, thì thành phần Kitô hữu chứng nhân chân chính
cũng phải hoàn toàn phản ảnh Người đúng như thế, chứ không thể nào làm chứng
về Người bằng những gì Người không làm,
như việc đặt tay trên ai thì người ấy ngã lăn quay, và Người cũng chẳng bao
giờ căn dặn các tông đồ là phải luôn chực sẵn ở đằng sau những ai được Người
đặt tay để đỡ họ khỏi ngã bổ ngửa ra đằng sau chẳng còn biết gì nữa, như
chết vậy, trong khi Người đặt tay trên các con trẻ thì chẳng có em nào ngã
ra hết (xem Mathêu 19:13-15), hay như hiện tượng nói tiếng lạ mà
chính đương sự cùng người nghe chẳng hiểu gì, thì Người lại chẳng bao giờ có
những hành vi cử chi ngộ nghĩnh buồn cười chỉ gây thêm thắc mắc như vậy.
Người chẳng bao giờ làm dấu kỳ lạ cho người ta thưởng thức, và thu hút họ
bằng những thứ ảo thuật như thế. Chứng từ trung thực nhất và sống động nhất
nơi Kitô hữu môn đệ chân chính của Chúa Kitô đó là "đức tin được thể
hiện qua đức ái" (Galata 5:6), yếu tố bất khả thiếu để thế gian nhận
biết Chúa Kitô!
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 16:11-15)
Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy sự hiện diện thần linh chẳng những ở nơi
người giảng mà còn cả ở nơi người nghe nữa, bởi thế, một khi gặp ngay tần số
thần linh giống nhau,
"Chúa đã mở lòng cho bà chú ý nghe các điều Phaolô giảng dạy", mới
xẩy ra câu chuyện trở lại tiêu biểu (như các cuộc trở lại khác cũng nhờ sự hiện
diện thần linh là chính Thánh Thần Thiên Chúa nơi cả đôi bên) của một người phụ
nữ cùng với gia đình của bà sau khi nghe các nhà truyền giáo chuyên nghiệp
Phaolô làm chứng cho Chúa Kitô bằng lời rao giảng của ngài về Người.
"Chúng
tôi xuống tàu tại Trôa và đi thẳng đến Samôthra, và hôm sau đến Nêapôli; rồi từ
đó đi Philippê là thành thứ nhất vùng Macêđônia, và là xứ thuộc địa. Chúng tôi
lưu lại thành này một ít ngày. Ðến ngày Sabbat, chúng tôi đi ra ngoài cửa thành
đến bờ sông, chỗ người ta thường hợp nhau đọc kinh. Chúng tôi ngồi xuống giảng
cho những phụ nữ đang tề tựu ở đó. Bấy giờ có một bà tên là Lyđia, buôn vải gấm,
quê ở Thyatira, có lòng thờ Chúa, cũng ngồi nghe; Chúa đã mở lòng cho bà chú ý
nghe các điều Phaolô giảng dạy. Sau khi chịu phép rửa tội làm một với gia đình,
bà nài xin rằng: 'Nếu các ngài xét thấy tôi đã nên tín đồ của Chúa, thì xin đến
ngụ tại nhà tôi'. Bà nài ép chúng tôi".
THÁNH DAMIEN ở đảo MOLOKAI (Hawaii) (1840 – 1889)
Thánh Damien, tên thật là Giuse “de Veuster”, sinh ở Bỉ ngày 3 tháng
Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là một nông dân cần cù và bà mẹ
tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.
Ngay từ nhỏ, cậu Giuse mạnh khỏe và tráng kiện, đã phải thôi học để giúp
cha trong công việc đồng áng. Cậu chăm chỉ giúp đỡ gia đình trong nhiều
năm, nhưng tâm hồn cậu vẫn ở một nơi nào đó. Vào lúc 19 tuổi, theo gương
anh mình, Giuse gia nhập Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và lấy
tên là Damien. Vì nhất quyết theo đuổi việc học và để hết tâm hồn trong
đời sống tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong
việc giáo dục trước đây.
Vào năm 1863, Cha Pamphile, anh ruột của Thầy Damien, chuẩn bị đến quần
đảo Hạ Uy Di trong công tác truyền giáo. Nhưng cha lâm bệnh nặng, và
Thầy Damien tình nguyện thế chỗ. Sau năm tháng dòng dã trên biển, thầy
đến hải cảng Honolulu. Trong vòng hai tháng tiếp đó, thầy được thụ phong
linh mục và được bổ nhiệm phục vụ ở Ðại Ðảo của Hạ Uy Di. Sự phục vụ của
Cha Damien được ghi nhận là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu
hút được nhiều người. Sau khoảng một thập niên, ngài tình nguyện đến
Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh Hansen, thường gọi là bệnh cùi.
Vào lúc Cha Damien đến đây, những người mắc bệnh cùi bị đầy ra đảo này
đã hơn mười năm qua.
Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873 với hành
trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo. Theo dự định ban đầu của tu
hội, ngài chỉ ở đây một vài tháng rồi sau đó có các linh mục khác lần
lượt ra thay thế. Nhưng sau khi đến đây được ít lâu, ngài đã viết thư
xin cha bề trên cho phép ngài vĩnh viễn ở lại Molokai.
Có thể nói, ngài sống với người cùi — ăn uống với họ, đụng chạm đến họ,
chào đón họ. Cha Damien được giao cho trông coi một cộng đồng Công Giáo.
Hàng ngày, cha như chìm đắm trong sự cầu nguyện, suy gẫm và đọc sách
thiêng liêng, do đó ngài lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo.
Nhưng tâm hồn của cha vẫn ở với tất cả các nạn nhân của bệnh Hansen, dù
Công Giáo hay không Công Giáo. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ
chết, lắng nghe những tâm sự đau lòng. Ngài giúp cải tiến hệ thống dẫn
nước cũng như nơi ăn ở của họ. Ngài trông coi việc xây cất một trường
học, một cô nhi viện và tổ chức sinh hoạt thiếu nhi cũng như ca đoàn.
Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng.
Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi, nhưng chắc
chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy
đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay
và mặt mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng
Tư 1889, ngày thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha
Damien, khi mới 49 tuổi. Lúc ấy được 16 năm sau khi ngài đến Molokai, và
25 năm kể từ khi ngài đến Hạ Uy Di để bắt đầu công việc truyền giáo.
Thánh Đamiên trên giường bệnh, vị tông đồ tận hiến đời mình cho Chúa và
cho người cùi tại đảo Molokai, Honolulu, Hawaii, U.S.A.
Trong những ngày cuối đời, Cha Damien được Mẹ Bề Trên Marianne Cope chăm
sóc, là người đã hứa sẽ tiếp tục công việc mà cha đã khởi sự. Và Sơ đã
thể hiện điều đó trong 30 năm kế tiếp với sự cộng tác của các Sơ trong
tu hội.
Theo lời yêu cầu, ngài được chôn cất ở Kalaupapa, nhưng vào năm 1936,
chính phủ Bỉ đã thành công trong việc đưa thi hài của ngài về Bỉ. Một
phần thân thể của Cha Damien được đưa về Hạ Uy Di sau lễ phong chân
phước năm 1995.
Khi Hạ Uy Di trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ, tiểu bang này đã chọn
Cha Damien là một trong hai đại diện của quốc gia có tượng đặt trong
Statuary Hall ở trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ.
Lời Trích: Trong
bài giảng lễ tuyên chân phước, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Sự
thánh thiện không phải là sự tuyệt hảo theo tiêu chuẩn con người; sự
thánh thiện cũng không dành riêng cho một ít người đặc biệt. Sự thánh
thiện là cho mọi người; chính Chúa là người đưa chúng ta đến sự thánh
thiện khi chúng ta sẵn sàng cộng tác trong công trình cứu độ thế giới vì
sự vinh hiển của Thiên Chúa, bất kể tội lỗi của chúng ta hay tính khí
bất thường của chúng ta.”
Sưu tầm: P. Mai Tự Cường
https://davangvn.wordpress.com/2019/05/10/10-5-kinh-thanh-da-mien-o-molokai-1840-1889-tong-do-nguoi-cui/
https://www.phimconggiao.com/hanh-cac-thanh-thang-4/xem-phim/6845
Giuse “Jép” Vơstơ
sinh năm 1840, là con trai của một gia đình nông dân gốc Bỉ. Ngài và người
anh trai, Pamphilê, đi tu dòng Hai Thánh Tâm. Công việc của các vị thừa sai
này là rao giảng đức tin Công giáo trên vùng đảo Hawai. Jép lấy tên là
“Đamien”. Dung mạo thầy Đamien cao to và lực lưỡng. Những năm phụ giúp gia
đình chăm lo công việc đồng áng đã tạo cho Đamien có một vóc dáng khỏe mạnh
như vậy. Mọi người đều quý mến Đamien vì ngài sống tốt lành và nhân hậu.
Người ta đang cần thêm nhiều nhà truyền
giáo tại lãnh địa Hawai. Năm 1863, một nhóm linh mục và tu sĩ dòng Hai Thánh
Tâm được cử đi. Pamphilê, anh trai của Đamien, được chọn. Ngay trước ngày
lên đường, Pamphilê bị sốt thương hàn nên không thể thực hiện được sứ mệnh
truyền giáo. Thầy Đamien đang học làm linh mục đã xin thay thế vào chỗ của
người anh. Cha bề trên tổng quyền chấp thuận lời thỉnh cầu của Đamien. Sau
đó, Đamien trở về nhà và âu yếm từ biệt gia đình của ngài. Rồi, Đamien vượt
tàu từ Bỉ đến Hawai, một cuộc hành trình kéo dài 18 tuần lễ. Ít lâu sau,
Đamien hoàn tất việc học hành và được thụ phong linh mục tại Hawai. Ngài
trải qua 8 năm sống giữa những cư dân thuộc ba huyện. Cha Đamien dùng ngựa
hoặc thuyền nhỏ để làm phương tiện đi lại.
Dân chúng yêu quý vị linh mục cao to và
giàu lòng quảng đại này. Đamien cũng nhận thấy họ năng thưa đáp kinh nguyện
trong các nghi lễ. Sau đó, Đamien dùng một số tiền nhỏ quyên góp được để xây
cất những nguyện đường. Chính Đamien và các bổn đạo đã tự xây lấy những
nguyện đường này. Nhưng chẳng mấy chốc, phần đời đặc biệt nhất của Đamien
được khai mở. Đức Giám mục xin một linh mục tình nguyện tới đảo Môlôkai. Chỉ
ngay cái tên thôi cũng đủ làm cho người ta khiếp hãi. Họ biết rằng một khu
của hòn đảo tên Kalagao chính là một “bãi tha ma sống” của những người chết
vì bệnh phong hủi. Họ chẳng hiểu gì về căn bệnh và rất sợ bị lây nhiễm đến
nỗi phần lớn những bệnh nhân phong ở đay đã bị bỏ rơi. Nhiều người đã tuyệt
vọng hoàn toàn. Không có linh mục, không có cơ quan đại diện thi hành luật
pháp Môlôkai, không có những phương tiện thuận lợi cho việc chăm sóc sức
khỏe. Chính phủ Hawai có gởi một ít thực phẩm và thuốc men tới đây nhưng
chẳng đáng kể gì! Cũng chẳng có những phương tiện tổ chức phân phát thực
phẩm hàng hóa!
Cha Đamien đi Môlôkai. Ngài quyết đương
đầu với sự nghèo khổ, hư hóa và thất vọng. Lắm lúc, Đamien dường như bị sốc,
nhưng rồi Đamien quyết không bao giờ quay về. Dân chúng đang rất cần sự giúp
đỡ. Đamien đi tới Honolulu để gặp những thành viên trong Ủy ban Chăm sóc sức
khỏe. Họ nói với Đamien rằng ngài không thể trở lại Môlôkai nữa vì có thể sẽ
bị lây bệnh. Chủ đích thật của họ chỉ là không muốn cho Đamien đến Môlôkai
vì ngài đang gây ra quá nhiều vấn đề khó khăn cho họ. Vì vậy, Đamien phải
chọn : Nếu trở về Môlôkai, ngài sẽ không thể đi được nữa! Nhưng Ủy ban Chăm
sóc sức khỏe không hiểu Đamien. Ngài đã chọn đi Môlôkai.
Đamien làm việc suốt 18 năm cho tới khi
qua đời tại Môlôkai. Với sự trợ giúp của các bệnh nhân phong hủi và các anh
chị em thiện nguyện quảng đại, Môlôkai đã được biến đổi hoàn toàn. Tên
“Môlôkai” giờ đây mang một ý nghĩa mới. Nó trở thành hòn đảo của lòng bác ái
Kitô giáo.
Rồi, chính cha Đamien cũng bị lậy bệnh.
Cha qua đời ngày 15/04/1889 vào độ tuổi 49, và cha được chôn cất tại đó.
Đến năm 1994, Đamien Môlôkai được Đức
Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên hàng chân phước,
và ĐTC Biển Đức XVI đã tôn phong hiển thánh cho ngài năm 2009.
Chúng ta hãy
nài xin chân phước Đamien Môlôkai ban cho chúng ta một chút lòng can đảm và
hào hiệp của ngài. Còn có quá nhiều người đang cần đến tình yêu và sự nâng
đỡ của chúng ta. Chân phước Đamien Môlôkai sẽ giúp chúng ta hành động với
niềm vui tươi và với trái tim nhân ái của ngài.
https://thanhcavietnam.net/ThieuNhi/showthread.php?t=3307&page=3
- Tên khai sinh: JOSEP DE VEUSTER.
- Sinh: ở Tremelo, Belgique, ngày 3/01/1840.
- 1859: gia nhập Dòng Sacrés-Coeurs (gọi là Picpus).
- 1863: được sai đi Hawai.
- 1864: thụ phong Linh Mục ở Honolulu.
- 10/05/1873: đến trại phong Molokai, và ở đó cho tới khoảng cuối năm 1884
thì ngài phát hiện mình bị lây bệnh khi chăm sóc các bệnh nhân cùi.
- Về với Chúa: 15/04/1889 ở Molokai (Hawai)
- Ðược Ðức Gio-an Phao-lô 2 phong Chân Phước ngày 4/06/1995 tại Bruxelles,
Bỉ.
- Lễ kính: ngày 10 tháng 5 hàng năm.
JOSEPH DE VEUSTER sinh trong một gia đình người Bỉ nói tiếng Flamand, tại
làng Tremelo, năm 1840. Song thân ngài vừa là nông dân, vừa làm nghề buôn
bán. Ngài là con thứ bảy trong 8 người con, mà sau này có bốn người đi tu.
Ngài theo chân một trong các anh của ngài vào Dòng Thánh Tâm Chúa Giê-su và
Mẹ Ma-ri-a (Les Sacrés Coeurs de Jésus et de Marie) và lấy tên là DAMIEN.
Ngài có lòng yêu mến tôn thờ Thánh Thể và tôn sùng Ðức Trinh Nữ Ma-ri-a. Với
ngài, truyền giáo chính là làm cho mọi người biết và yêu mến Chúa Giê-su
Tình Yêu. Từ nhiệt tâm truyền giáo, vị Tu Sĩ trẻ đã gửi thỉnh nguyện trực
tiếp tới Bề Trên Tổng Quyền và nhận được phép đi đến một Ðiểm Truyền Giáo
mới lập ở Hawai, thay cho anh ngài bị bệnh. Ngài không chờ thụ phong Linh
Mục, mà lên đường ngay.
Ở Honolulu, chính quyền tập trung tất cả những bệnh nhân phong ở đảo Molokai
và Cha Damien (thụ phong Linh Mục năm 1864) được chọn giữa những người tình
nguyện khác để bảo đảm sự hiện diện của Linh Mục trong hoả ngục tuyệt vọng
và khốn khổ ấy, như "một nhà tù lộ thiên" (Thời đó, người ta vẫn nghĩ bệnh
cùi dễ lây và phải cách ly các bệnh nhân). Ngài không chịu nổi cảnh đau khổ
của các bệnh nhân. Ngài tổ chức đời sống đạo đức, xã hội và huynh đệ trong
hòn đảo bị xã hội khai trừ này. Ngài xây dựng một bệnh viện phong, một
trường học và một Nhà Thờ. Dần dần, khắp nơi biết đến và gửi cho ngài nhiều
hỗ trợ vật chất. Một mình ở giữa các bệnh nhân phong, ngài đau khổ vì không
thể xưng tội. Ngài liên đới với các bệnh nhân phong (mà ngài thích xưng là:
"Những Người Cùi Của Chúng Tôi") và mặc dầu đã cẩn thận phòng ngừa, đến lượt
ngài cũng bị lây bệnh phong.
Ngài mất vào ngày thứ 2 Tuần Thánh, 15/04/1889, trong khi ngài những ước ao
có thể chết vào ngày mừng Chúa Sống Lại. Ngài rất nổi tiếng ở Châu Âu và ở
Mỹ. Ngay Mahatma Gandhi cũng rất ngạc nhiên và thán phục tinh thần yêu mến
và xả thân của ngài cho người phong cùi. Ngài được Ðức Thánh Cha Gio-an
Phao-lô 2 tuyên phong Chân Phước ngày 4 tháng 6 năm 1995 tại Bruxelles, Bỉ
và thi hài của ngài được mai táng ở Cung Thánh Thánh Ðường Les Sacrés Coeurs
ở Louvain, Bỉ. Ngài xứng đáng được gọi là "Tông Ðồ Của Người Cùi".
http://vntaiwan.catholic.org.tw/thanh/10thanh5.htm
Thứ Ba sau Chúa
Nhật VI Phục Sinh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 16,
22-34
"Anh hãy tin vào Chúa Giêsu, thì
anh và cả nhà anh sẽ được cứu thoát".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, dân thành
Philipphê xúm lại chống đối Phaolô và Sila; các nhà chức trách cho người xé
áo choàng các ngài, và ra lệnh đánh đòn. Khi đã đánh các ngài nhừ tử, họ cho
tống ngục, và truyền cho viên canh ngục canh giữ cẩn thận. Ðược lệnh như
thế, viên cai ngục giam các ngài vào ngục sâu nhất, và còng chân các ngài
lại.
Ðến nửa đêm, Phaolô và Sila cầu nguyện
ca tụng Thiên Chúa; các tù nhân đều lắng nghe các ngài. Bỗng xảy ra một cuộc
động đất lớn, làm rung chuyển cả nền móng ngục thất. Tức khắc mọi cửa đều mở
tung, và xiềng xích mọi tù nhân đều rơi xuống. Viên cai ngục giật mình thức
dậy, thấy các cửa ngục mở tung, thì rút gươm toan tự vẫn, vì tưởng những
người bị xiềng đã tẩu thoát. Nhưng Phaolô kêu lớn tiếng rằng: "Anh chớ hại
mình, vì chúng tôi còn tất cả ở đây". Viên cai ngục gọi lấy đèn, rồi chạy
vào tù, và run rẩy sấp mình dưới chân Phaolô và Sila; đoạn dẫn hai ngài ra
ngoài và nói: "Thưa các ngài, tôi phải làm gì để được cứu thoát?" Hai ngài
đáp: "Hãy tin vào Chúa Giêsu, thì anh và cả nhà anh sẽ được cứu độ".
Hai ngài giảng dạy lời Chúa cho anh và
mọi người trong nhà. Ngay lúc đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem hai ngài
đi, rửa vết thương, và lập tức anh ta được chịu phép rửa cùng với tất cả
người nhà. Rồi anh đưa hai ngài lên nhà, dọn bàn ăn. Anh và cả nhà vui mừng
vì đã tin Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 137,
1-2a. 2bc-3. 7c-8
Ðáp: Lạy Chúa, tay
hữu Chúa khiến con được sống an lành (c. 7c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng
Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần,
con đàn ca mừng Chúa, con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. - Ðáp.
2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì
lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời
con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. - Ðáp.
3) Tay hữu Chúa khiến con được sống an
lành. Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều đã khởi sự, lạy Chúa, lòng nhân
hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 26
Alleluia, alleluia! - Thánh Thần sẽ
dạy các con mọi điều; và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói
với các con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16,
5b-11
"Nếu Thầy không đi, thì Ðấng Phù
Trợ sẽ không đến với các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Bây giờ Thầy về với Ðấng đã sai Thầy, mà các con không ai hỏi
Thầy: Thầy đi đâu? Nhưng vì Thầy đã nói với các con điều đó, nên lòng các
con tràn ngập u sầu. Dầu vậy Thầy phải nói sự thật cho các con: Thầy đi thì
ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Ðấng Phù Trợ sẽ không đến với
các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con. Khi Người
đến,Người sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về
tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha,
và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã
bị xét xử".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu đã nói xa xa đến biến cố Thăng
Thiên của Người, thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đã nói rõ ràng: "Thầy
về với Ðấng đã sai Thầy", nhưng dù Người nói gần hay nói xe, biến cố
Thăng Thiên của Người, cả ở trong bài Phúc Âm hôm qua lẫn hôm nay, đều liên
quan đến Chúa Thánh Thần, đến "Đấng Phù Trợ". Trong bài Phúc Âm hôm
qua, "Đấng Phù Trợ" được Người, sau khi Thăng Thiên về cùng Cha, từ
Cha sai đến để "làm chứng về Thày" qua Giáo Hội và với Giáo Hội,
nhưng trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cho biết "Đấng Phù Trợ"
"làm chứng về Thày", bằng cách: "tố cáo thế gian về tội lỗi, về
sự công chính và về án phạt".
Chiều kích hiện diện thần linh trong chủ đề
"Thày là sự sống"
của Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh vẫn được tiếp tục trong bài
Phúc Âm Thứ Ba Tuần VI hôm nay. Ở chỗ, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã báo
trước cho các tông đồ về sự kiện Người Thăng Thiên về cùng Cha của Người. Và
Ngưòi trấn an các tông đồ rằng việc Người về cùng Cha thì có lợi cho các
vị. Ở chỗ, nếu Chúa Kitô tiếp tục ở trên thế gian này bằng nhân tính của
Người nói chung và bằng thần xác hữu hình của Người nói riêng thì Người
không thể nào hiện diện thần linh trong các tông đồ được, cho đến khi Người
Phục Sinh và Thăng Thiên, nhờ đó Người mới có thể ở trong các vị bằng Thánh
Thần từ Cha Người sai đến với các vị như là một Đấng Phù Trợ của các vị và ở
cùng các vị để các vị được công chính hóa, vì các vị hoàn toàn sống bằng đức
tin "không
còn thấy Thày"
mà chỉ theo tác động thần linh của Đấng Phù Trợ.
"Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Bây giờ Thầy về với Ðấng đã sai Thầy,
mà các con không ai hỏi Thầy: Thầy đi đâu? Nhưng vì Thầy đã nói với các con điều
đó, nên lòng các con tràn ngập u sầu. Dầu vậy Thầy phải nói sự thật cho các con:
Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Ðấng Phù Trợ sẽ không
đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con. Khi
Người đến, Người sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt.
Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha,
và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị
xét xử'".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu còn cho biết sứ vụ của Đấng Phù Trợ là
minh chứng về tội lỗi liên quan đến thế gian, về sự công chính liên quan đến
các môn đệ và về án phạt liên quan đến ma quỉ.
Thật vậy, nếu ngón tay của Thiên Chúa đây ám chỉ Thánh Thần (xem Mathêu
12:28 so với Luca 11:20) thì hai lần Chúa Giêsu đã lấy ngón tay viết trên
đất trong vụ người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (xem Gioan
8:6,8) đã cho thấy ba khía cạnh tội lỗi, công chính và án phạt nơi sứ vụ của
Đấng Phù Trợ.
Theo thứ tự tác hành của Chúa Giêsu trong vụ này thì lần thứ nhất Người đã
viết chữ “tội lỗi”, nên sau đó Người đã đứng lên thách thức thành phần muốn
ném đá nạn nhân phụ nữ ngoại tình rằng: “Ai không có tội thì…” (Gioan 8:7).
Lần thứ hai Người viết trên đất là chữ
“công chính”,
bởi thành phần tố cáo người phụ nữ ngoại tình đã lần lượt bỏ đi hết từ người
già nhất cho thấy họ đã nhận biết mình mà nên công chính.
Chúa Giêsu không viết chữ thứ ba là
“án phạt”
nữa, bởi tội lỗi nơi thành phần cáo buộc chị phụ nữ nạn nhân đã được nhìn
nhận, và chính nữ nạn nhân ngoại tình này cũng không lãnh
“án phạt”
cho bằng tình thương của Đấng
“đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại” (Luca 19:10).
Đúng thế, theo lời Chúa nói trong bài Phúc Âm hôm nay
thì tội lỗi ở ngay chỗ không tin vào Người:
"Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy", chứ không phải ở các
hành vi cử chỉ lỗi phạm đến điều răn Chúa, đến lương tâm, đến luật Giáo Hội
v.v. Bởi vì, con người không có đức tin, sống như vô thần thì vẫn còn ở
trong tối tăm, tức "ngồi trong tối tăm và bóng chết chóc" (xem Luca
1:79), bởi thế mới cần được "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12) chiếu soi.
Thánh Thần được sai đến để, qua Giáo Hội nói chung và
các môn đệ của Chúa Kitô nói riêng, "là ánh sáng thế gian" (Mathêu
5:13), soi chiếu thế gian "không tin vào Thày" bằng lời rao giảng,
nhất là bằng chứng từ của một "người công chính sống bởi đức tin"
(Roma 1:17; Galata 3:11; Do Thái 10:28):
"Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy".
Một khi thế gian được soi chiếu bằng ánh sáng đức tin
của Giáo Hội Chúa Kitô thì kể như
"Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử", một xét xử đã xẩy
ra ngay khi Chúa Kitô hoàn tất ơn cứu chuộc của Người ở biến cố Vượt Qua, và
còn được xét xử cho tới tận thế bởi "quyền lực chiến thắng thế gian là
đức tin của chúng ta" (1Gioan 5:4), một đức tin có tác dụng làm sáng tỏ
Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) trong thế gian tăm
tối gây ra bởi ma quỉ ngay từ ban đầu nơi nguyên tội.
Cho dù Chúa Giêsu có tỏ mình ra cho chung dân Do Thái
cũng như cho riêng các tông đồ, không một ai trong họ có thể tự mình thấu
hiểu và chấp nhận được, cho đến khi "Đấng Phù Trợ" tới. Và vì thế,
tất cả những tội nhân và tội ác phạm đến Con Thiên Chúa Làm Người, đối với
LTXC, chỉ là "lầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34), đáng tha
thứ. Tuy nhiên, một khi "Đấng Phù Trợ" là "Thần Chân Lý"
được Chúa Giêsu Thăng Thiên từ Cha sai đến "phù trợ" cho họ nhận biết "tất
cả sự thật" (Gioan 16:13) là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu Thế
của cả dân Do Thái lẫn loài người mà họ vẫn không tin thì họ phạm một tội "không
thể tha thứ được" (Mathêu 12:30-32).
Tóm lại, "Khi Người đến, Người sẽ tố cáo thế gian
về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin
vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn
thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử", chúng ta
có thể suy diễn tóm gọn câu chính yếu của Bài Phúc Âm hôm nay ấy về "Đấng
Phù Trợ" được Chúa Giêsu hứa hẹn sai đến với Giáo Hội để "làm chứng cho
Thày" trước thế gian ở ba khía cạnh chính yếu liên quan đến ba thành phần
(thế gian, tông đồ và ma quỉ) như thế này:
"Ngài sẽ tố cáo thế gian" đây nghĩa là Ngài
làm chứng về Chúa Kitô, làm cho thế gian nhận biết Chúa Kitô, như chính Chúa
Kitô đã tỏ mình ra vào thời điểm lịch sử của Người nơi dân Do Thái bấy giờ,
và còn được ghi nhận trong Thánh Kinh Tân Ước nói riêng và toàn bộ Kinh
Thánh Kitô Giáo nói chung, cũng như được rao giảng và chứng thực nơi Giáo
Hội của Người, để rồi "ai không tin vào Thầy" thì sẽ ở trong tình
trạng "tội lỗi", trái lại, những ai tin tưởng chấp nhận, như các
tông đồ và thành phần môn đệ chân chính của Chúa Kitô dọc suốt dòng thời
gian lịch sử của Giáo Hội, thì được trở nên "công chính", còn
"thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử" rồi, vì Con Khủng Long ngay từ đầu
ở trên trời đã ngang nhiên chống lại ý định nhập thể của Thiên Chúa (xem
Khải Huyền 12:4), một đệ nhất thần khi bị mất chỗ đứng của mình và rơi xuống
đất, nghĩa là đã bị "án phạt" và đã trở thành Satan, vẫn tiếp tục
xui giục "thế gian" không tin tưởng Thiên Chúa, không chấp nhận ơn cứu độ
của Ngài nơi Chúa Giêsu Kitô được chứng thực bởi Thánh Thần là Thần Chân Lý.
Bài Đọc 1 hôm nay cũng cho thấy liên kết chặt chẽ về ý nghĩa với bài
Phúc Âm liên quan đến 3 việc Thánh Thần làm như được Chúa Giêsu nói với các
môn đệ của Người. Gia đình của viên cai ngục sống trong tăm tối của thế gian
cho tới khi nhận được ánh sáng đức tin từ Tông Đồ Phaolô và đồng bạn Sila
đang bị nhốt trong tù sau khi bị tra tấn nhừ tử, nhờ đó cả nhà của viên cai
ngục này đã được cứu thoát khỏi quyền lực của ma quỉ.
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 16:22-34)
Sự
hiện diện thần linh bao giờ cũng có tác dụng thần linh. Đúng thế, đúng như lời
Chúa Kitô báo trước cho các tông đồ về Đấng Phù Trợ trong bài phúc âm hôm
nay, Đấng
"sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt".
Trước hết
"về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy",
như sự kiện xẩy ra trong bài đọc 1 hôm nay, đó là
"trong những ngày ấy, dân thành Philipphê xúm lại chống đối Phaolô và Sila; các
nhà chức trách cho người xé áo choàng các ngài, và ra lệnh đánh đòn. Khi đã đánh
các ngài nhừ tử, họ cho tống ngục, và truyền cho viên canh ngục canh giữ cẩn
thận. Ðược lệnh như thế, viên cai ngục giam các ngài vào ngục sâu nhất, và còng
chân các ngài lại", ấy
thế mà Thánh
Phaolô và Sila vẫn được giải cứu nhờ
"một cuộc động đất lớn, làm rung chuyển cả nền móng ngục thất".
Sau
nữa
"về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy",
một
sự công chính được thể hiện nơi các chứng nhân của Chúa Kitô trong bài đọc 1 hôm
nay, ở chỗ, cho dù bị giam nhốt trong một mật thất chắc ăn nhất,
"đến nửa đêm" các
vị vẫn
"cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa",
và
nhất là tỏ ra khoan dung với chính
"viên cai ngục... rút gươm toan tự tử",
bằng
cách đã can ngăn anh: "Anh
chớ hại mình, vì chúng tôi còn tất cả ở đây".
Sau
hết,
"về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử", ở
chỗ, cho dù hắn có lồng lên kịch liệt tấn công để triệt hạ cho bằng được thành
phần chứng nhân của Chúa Kitô, hắn chẳng những không làm hại được các vị, trái
lại, chính những thành phần tay sai loài người của hắn còn bị chinh phục ngược
lại, như trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy, qua trường hợp của viên cai ngục cùng
gia đình của viên chức thành tâm này: "'Thưa
các ngài, tôi phải làm gì để được cứu thoát?' Hai ngài đáp: 'Hãy tin vào Chúa
Giêsu, thì anh và cả nhà anh sẽ được cứu độ'".
"Trong những ngày ấy, dân thành Philipphê xúm lại chống đối Phaolô và Sila; các
nhà chức trách cho người xé áo choàng các ngài, và ra lệnh đánh đòn. Khi đã đánh
các ngài nhừ tử, họ cho tống ngục, và truyền cho viên canh ngục canh giữ cẩn
thận. Ðược lệnh như thế, viên cai ngục giam các ngài vào ngục sâu nhất, và còng
chân các ngài lại. Ðến nửa đêm, Phaolô và Sila cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa;
các tù nhân đều lắng nghe các ngài. Bỗng xảy ra một cuộc động đất lớn, làm rung
chuyển cả nền móng ngục thất. Tức khắc mọi cửa đều mở tung, và xiềng xích mọi tù
nhân đều rơi xuống. Viên cai ngục giật mình thức dậy, thấy các cửa ngục mở tung,
thì rút gươm toan tự vẫn, vì tưởng những người bị xiềng đã tẩu thoát. Nhưng
Phaolô kêu lớn tiếng rằng: 'Anh chớ hại mình, vì chúng tôi còn tất cả ở đây'.
Viên cai ngục gọi lấy đèn, rồi chạy vào tù, và run rẩy sấp mình dưới chân Phaolô
và Sila; đoạn dẫn hai ngài ra ngoài và nói: 'Thưa các ngài, tôi phải làm gì để
được cứu thoát?' Hai ngài đáp: 'Hãy tin vào Chúa Giêsu, thì anh và cả nhà anh sẽ
được cứu độ'. Hai ngài giảng dạy lời Chúa cho anh và mọi người trong nhà. Ngay
lúc đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem hai ngài đi, rửa vết thương, và lập tức
anh ta được chịu phép rửa cùng với tất cả người nhà. Rồi anh đưa hai ngài lên
nhà, dọn bàn ăn. Anh và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa".
Thứ Tư sau Chúa
Nhật VI Phục Sinh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 17,
15. 22 - 18,1
"Ðấng quý vị thờ mà không nhận
biết, thì tôi xin loan báo Người cho quý vị".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, nhừng người tháp
tùng Phaolô, dẫn đưa ngài cho đến Athêna; và khi đã nhận lệnh ngài truyền
cho Sila và Timôthêu đến gặp ngài lập tức, họ liền ra đi.
Bấy giờ Phaolô đứng giữa đồi Arêôpagô
mà nói: "Kính thưa quý vị người Athêna, tôi nhận thấy quý vị rất sùng tín về
mọi mặt. Vì khi đi ngang qua, nhìn các tượng thần của quý vị, tôi cũng thấy
một bàn thờ có ghi chữ: "Kính Thần vô danh". Vậy Ðấng quý vị thờ mà không
nhận biết, thì tôi xin loan báo Người cho quý vị. Thiên Chúa, Ðấng đã tác
tạo vũ trụ và vạn vật trong vũ trụ, Người là Chúa trời đất, nên không ngự
nơi đền thờ do tay người phàm làm ra. Người cũng không cần bàn tay người
phàm phụng sự như thể thiếu thốn điều gì, vì chính Người ban cho mọi người
sự sống, hơi thở và hết mọi sự. Người đã làm cho toàn thể loài người từ một
nguyên tổ lan tràn khắp mặt đất. Người phân định thời hạn rõ rệt và biên
giới chỗ họ ở, để họ tìm thấy Thiên Chúa nếu họ cố gắng dò dẫm tìm gặp
Người, vì thật ra Người không ở xa mỗi người chúng ta. Vì chưng ta sống, ta
cử động và ta hiện hữu trong Người, như có mấy thi sĩ của quý vị đã nói:
"Chúng ta thuộc tông giống Người". Vậy bởi chúng ta là dòng giống của Thiên
Chúa, chúng ta không được nghĩ rằng Thần Linh giống như vàng, hoặc bạc, hay
đá do nghệ thuật chạm trổ và suy tưởng của con người làm ra. Thiên Chúa
không chấp những thời gian mê muội đó, nay Người loan báo cho nhân loại nhận
biết để mọi người khắp nơi ăn năn hối cải, vì Người đã quy định ngày Người
sẽ xét xử vũ trụ cách công minh, do Ðấng Người đã chỉ định và cho Ðấng ấy từ
cõi chết sống lại để mọi người tin".
Khi họ nghe nói kẻ chết sống lại, thì
có kẻ nhạo cười, có người lại nói rằng: "Ðể khi khác, chúng tôi sẽ nghe ông
nói lại về điều đó". Thế là Phaolô bỏ họ ra đi. Nhưng cũng có vài người theo
và tin ngài, trong số đó có Ðiônysiô nhân viên thuộc Arêôpagô, một phụ nữ
tên Ðamari và mấy người khác nữa. Sau đó, Phaolô rời Athêna đi Côrintô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 148,
1-2. 11-12ab. 12c-14a. 14bcd
Ðáp: Trời đất đầy
vinh quang của Chúa.
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa từ muôn cõi
trời, hãy ca tụng Người trên nơi cao thẳm. Các thiên thần Chúa, hãy ca tụng
Người đi, ca tụng Người đi, hỡi các đạo thiên binh. - Ðáp.
2) Quân vương địa cầu và tất cả chư
dân, quan chức và các vị chính quyền trên cõi đất, các thanh niên và cả
những cô gái tân, những ông cụ già với đoàn con trẻ. - Ðáp.
3) Họ hãy ca tụng danh Chúa, vì danh
Người siêu phàm, độc nhất, oai nghiêm. Người tràn lan trên trời dưới đất, và
Người nâng cao quyền thế dân Người. - Ðáp.
4) Dân Người là đề tài ca tụng cho mọi
tín hữu, cho hết thảy con cái Israel, dân tộc sống gần gũi với Người. - Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 7
và 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy
sẽ sai Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật". -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16,
12-15
"Thần Chân lý sẽ dạy các con biết
tất cả sự thật".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con
không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất
cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói
vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm
vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các
con. Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: "Người sẽ
lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Chiều kích Hiện Diện Thần Linh cho Tuần VI Phục Sinh tiếp tục liên quan đến
Thánh Linh trong bài Phúc Âm Thứ Tư hôm nay. Ở chỗ, nhờ sự hiện diện thần linh
của Ngài, trong khi thế gian được Ngài làm sáng tỏ cho thấy những gì là tội lỗi,
công chính và hình phạt, các vị được Ngài "dẫn vào tất cả sự thật", nghĩa
là được thông hiểu tất cả những gì Chúa Kitô đã mạc khải cho các vị và dạy dỗ
các vị khi Người còn ở bên các vị và ở với các vị bằng xương bằng thịt, nhưng
bấy giờ các vị chưa sâu xa cảm nhận và thấu hiểu, vì chưa có được chính Thần
Linh thông biết của Người.
"Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Thầy còn nhiều điều phải nói với các
con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân lý đến, Người
sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người
nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai.
Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền
cho các con. Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: 'Người
sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con'".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô còn tỏ cho chúng ta thấy Mầu Nhiệm Ba Ngôi,
về mối Liên Hệ Thần Linh nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Ở chỗ:
"Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: 'Người sẽ lãnh
nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con'".
Trước hết là mối liên hệ thần linh giữa Ngôi Cha và Ngôi Con: "tất
cả những gì Cha có, đều là của Thầy"
tức Chúa Kitô là
"hiện thân bản thể Cha" (Do Thái 1:3) - "Cha yêu Con và đã ban hết mọi sự cho
Con" (Gioan 3:35);
Cha thực sự ở nơi Người và tỏ mình ra qua Người là Đấng
"tỏ Cha ra" (Gioan 1:18),
cho đến độ
"Cha và Ta là một" (Gioan 10:30) để "ai
thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9).
Sau
nữa là mối liên hệ thần linh giữa Cha và Con với Thánh Thần: "Người
sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con",
nghĩa là Thánh Thần chẳng những bởi Cha mà còn
"bởi
Con mà ra"
như
Kinh Tin Kính của Giáo Hội Công Giáo vẫn tuyên xưng, và Vị "Thần
Chân Lý"
là
Nội Tâm của Thiên Chúa này (xem 1Corintô 2:10), là chính Liên Hệ Thần Linh
giữa Ngôi Cha và Ngôi Con ấy, truyền đạt cho các tông đồ nói riêng và Giáo Hội
nói chung chính Chúa Kitô là tất cả mạc khải thần linh về Thiên Chúa và của
Thiên Chúa, tức là làm cho Giáo Hội được hoàn toàn hiệp thông thần linh với Chúa
Kitô:
"như
Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha"
(Gioan 17:21).
Ngoài ra, còn một chi tiết trong bài Phúc
Âm hôm nay cần được sáng tỏ, đó là câu Chúa Giêsu nói:
"Thầy còn nhiều điều phải nói với các con...". Người không có ý nói
rằng Người còn nhiều điều "mới mẻ" chưa nói hết cần phải nói cho
hết hay Thánh Thần sẽ đến "nói thêm" thay cho Người. Bởi vì, là Lời Nhập
Thể, Người là tất cả mạc khải thần linh của Cha và về Cha, và Người "đã
tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) bằng chính đời sống của Người, bằng tâm ngôn
hành của Người, nhất là bằng cuộc Vượt Qua của Người. Người đã cho các môn
đệ của Người nói riêng và dân Do Thái nói chung về cả những sự dưới đất cũng
như trên trời (xem Gioan 3:12): những sự dưới đất đây bao gồm đường
lối để con người tạo vật có thể đến cùng Thiên Chúa, trong đó có việc tái
sinh bởi trời và các mối phúc đức v.v.; những sự trên trời đây bao gồm chính
bản thân Thiên Chúa là ai, như thế nào và Nước Trời.
Thật ra không phải là Người còn nhiều điều (many things - về lượng) phải nói với các môn đệ,
mà là Người còn phải nói nhiều hơn nữa (much more - về phẩm), nghĩa là không
phải Người nói chưa hết những gì Người muốn nói, mà chỉ là những gì Người
cần giải thích cho các vị hiểu thêm, hiểu hơn, hiểu hết về những gì Người đã
tỏ ra cho các vị, và những dẫn giải này sẽ được Thánh Thần là Đấng Phù Trợ
các vị do Người từ Cha sai đến với các vị sẽ làm cho các vị thấu triệt khi
"Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật", nghĩa là nắm bắt được ý nghĩa
sâu xa của những gì Chúa Kitô tỏ ra cho các vị, nhất là bản thân của chính
Người là Đấng các vị đã được mắt thấy, tai nghe và tay sờ (xem 1Gioan 1:1)
để có thể làm chứng về Người dưới tác động thần linh của Thánh Thần.
Đó là lý do Giáo Hội vẫn chủ trương Thánh Thần đến là để tiếp tục và hoàn
tất sứ vụ của Chúa Kitô mà thôi, chứ không phải để thi hành một sứ vụ khác,
một sứ vụ hoàn toàn khác biệt với Chúa Kitô. Chính vì thế mà Thánh Thần đến
là để "làm chứng về Thày", "Ngài không tự mình mà nói",
trái
lại, "Ngài sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
Bởi thế, tất cả những gì được cho là xuất phát từ Thánh Linh mà không hoàn
toàn và thực sự phản ảnh Chúa Kitô thì không phải từ Thánh Linh. Hay nói
ngược lại, tất cả những gì Chúa Giêsu không nói, không làm, không phản ứng,
như được Phúc Âm thuật lại, thì chẳng bao giờ Thánh Linh thúc đẩy người ta
làm.
Căn cứ vào nguyên tắc này, một nguyên tắc liên hệ mật thiết giữa Chúa Kitô
và Thánh Thần như thế, có thể nói rằng việc đặt tay chữa lành và nói tiếng
lạ chẳng ai hiểu gì không xuất phát từ Thánh Linh và không phải của Thánh
Linh, vì chẳng bao giờ thấy Chúa Kitô trong các Phúc Âm đặt tay ngã lăn quay
(và luôn cần phải có người đỡ đằng sau cho "nạn nhân" khỏi ngã) mới có thể
chữa lành hay chẳng bao giờ thấy Người nói tiếng lạ chẳng ai hiểu gì.
Có thể đặt vấn đề với những ai có thể đặt tay ngã lăn quay lẫn người cho
rằng mình được chữa lành nhờ đặt tay, về cả thực tế liên quan đến hiện tượng
Thánh Linh lẫn nguyên tắc liên quan đến thực tại Thánh Linh như sau:
Về hiện tượng Thánh Linh: 1- Hiện tượng đặt tay ngã lăn quay bởi đâu, bởi
Thánh Linh hay bởi loài người hoặc bởi ma quỉ? 2- Nếu bởi Thánh Linh thì từ
người đặt tay hay từ người được đặt tay? 3- Nếu từ người đặt tay thì tại sao
các vị giám mục đặt truyền chức linh mục các vị phó tế không ngã lăn quay -
như thế thì chẳng nhẽ việc truyền chức linh mục không thành, bởi Thánh Thần
không xuống trên các vị thụ phong; nếu Thánh Linh từ người được đặt tay chứ
không phải từ người đặt tay thì các vị phó tế tự phong chức linh mục cho
mình, chẳng cần đến các vị đặt tay mà không có Thánh Linh?
Về thực tại Thánh Linh: 1- Thánh Linh từ đâu đến? 2- Thánh Linh được sai đến
để làm gì? 3- Nếu Thánh Linh từ Cha mà đến và để làm chứng cho Chúa Kitô, mà
Chúa Kitô không hề chữa lành bằng cách đặt tay ngã lăn quay và cần có người
đỡ lưng cho khỏi té ngã, thì việc đặt tay ngã lăn quay không từ Thánh Linh
và bởi Thánh Linh. Chính Chúa Kitô đã đặt tay trên các em bé nhưng chẳng có
em nào ngã...! Vậy thì một là Người không có Thánh Linh hay là các em nhỏ
không có Thánh Linh??? Ai dám cam đoan rằng mình đặt tay lên đầu Đức Giáo
Hoàng thì ngài chắc chắn ngã lăn quay hay chăng?
Mới đây hiện tượng chữa lành bằng cách đặt tay ngã lăn quay lại còn có tính
cách Lòng Thương Xót Chúa nữa, cho nó có vẻ chính đáng hơn. Tuy nhiên, hai
vị Thánh tiêu biểu nhất của Lòng Thương Xót Chúa là Thánh Faustina và Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II không hề chữa lành bằng cách đặt tay ngã lăn quay
như thế. Trái lại, các vị chỉ chữa lành bằng cách chịu đựng khổ đau để cứu
các linh hồn về phần thiêng liêng mà thôi. Chính Chúa Kitô là Đấng vô
cùng thương xót có thể xuống khỏi thập giá mà vẫn không tự cứu mình, trái
lại, cứ tiếp tục chịu khổ cho đến cùng để cứu các linh hồn.
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 17:15,22 - 18:1)
Chính nhờ Hiện Diện Thần Linh của Thần Chân Lý mà vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã
tỏ ra hết sức khôn ngoan trong bài giảng ở thủ đô của một đất nước có thể nói là
văn minh nhất về tri thức bấy giờ đó là Hy Lạp, đến độ bài giảng này và đường
lối của ngài diễn giải là mô phạm cho tính cách truyền bá phúc âm hóa của Giáo
Hội và cho Giáo Hội. Ở chỗ, không đả phá, trái lại, còn biết lợi dụng chính
những yếu tố được coi là mầm mống thần linh nơi tâm thức và văn hóa của con
người, trong trường hợp của bài đọc 1 hôm nay là vị
"Thần vô danh" để
có thể phúc âm hóa, để hướng họ về
"tất cả sự thật",
về Vị "Thiên
Chúa, Ðấng đã tác tạo vũ trụ và vạn vật trong vũ trụ",
rồi từ đó, từ nguyên lý chung hợp với tâm thức của chung nhân loại ấy,
ngài đã dẫn thành phần thính giả luôn tìm kiếm sự khôn ngoan, (như Người Do Thái
tìm kiếm dấu lạ), đến Chúa Kitô Cứu Thế,
"Ðấng từ cõi chết sống lại để mọi người tin".
"Bấy
giờ Phaolô đứng giữa đồi Arêôpagô mà nói: 'Kính thưa quý vị người Athêna, tôi
nhận thấy quý vị rất sùng tín về mọi mặt. Vì khi đi ngang qua, nhìn các tượng
thần của quý vị, tôi cũng thấy một bàn thờ có ghi chữ: Kính Thần vô danh. Vậy
Ðấng quý vị thờ mà không nhận biết, thì tôi xin loan báo Người cho quý vị. Thiên
Chúa, Ðấng đã tác tạo vũ trụ và vạn vật trong vũ trụ, Người là Chúa trời đất,
nên không ngự nơi đền thờ do tay người phàm làm ra. Người cũng không cần bàn tay
người phàm phụng sự như thể thiếu thốn điều gì, vì chính Người ban cho mọi người
sự sống, hơi thở và hết mọi sự. Người đã làm cho toàn thể loài người từ một
nguyên tổ lan tràn khắp mặt đất. Người phân định thời hạn rõ rệt và biên giới
chỗ họ ở, để họ tìm thấy Thiên Chúa nếu họ cố gắng dò dẫm tìm gặp Người, vì thật
ra Người không ở xa mỗi người chúng ta. Vì chưng ta sống, ta cử động và ta hiện
hữu trong Người, như có mấy thi sĩ của quý vị đã nói: 'Chúng ta thuộc tông giống
Người'. Vậy bởi chúng ta là dòng giống của Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ
rằng Thần Linh giống như vàng, hoặc bạc, hay đá do nghệ thuật chạm trổ và suy
tưởng của con người làm ra. Thiên Chúa không chấp những thời gian mê muội đó,
nay Người loan báo cho nhân loại nhận biết để mọi người khắp nơi ăn năn hối cải,
vì Người đã quy định ngày Người sẽ xét xử vũ trụ cách công minh, do Ðấng Người
đã chỉ định và cho Ðấng ấy từ cõi chết sống lại để mọi người tin".
Tuy
nhiên, cho dù đường lối truyền bá phúc âm hóa của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô
thật là tuyệt hảo như thế vẫn không hoàn toàn gây tác hiệu thần linh nơi hầu
hết thính giả của ngài, ngoại trừ
"có vài người theo và tin ngài, trong số đó có Ðiônysiô nhân viên thuộc
Arêôpagô, một phụ nữ tên Ðamari và mấy người khác nữa". Tại
sao thế? Nếu không phải tại thành phần thính giả này chưa được chính tác nhân
thần linh là
"Thần Chân lý ... dẫn vào tất cả sự thật"
như
"vài
người"
trong họ. Tuy nhiên, họ cũng vẫn còn thiện chí:
"Ðể khi khác, chúng tôi sẽ nghe ông nói lại về điều đó",
nhờ đó, vào một lúc nào đó, họ sẽ nhận biết chân lý và chân lý sẽ giải phóng họ
(xem Gioan 8:32).
Ngày 12 tháng 5
- BA THÁNH TỬ
Tử ĐẠO
NÊRÊÔ, ACHILÊÔ VÀ PANCRATIÔ
I. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ.
Những gì chúng ta biết về hai vị tử đạo Nêrêô,
Achilêô của
thế kỷ thứ nhất là từ các lời chứng của Thánh Giáo Hoàng Damasus trong thế
kỷ thứ tư, và được ghi khắc trên tấm bia để tưởng nhớ các ngài. Và sự việc
này chỉ xảy ra sau cái chết của các ngài đến 300 năm.
Ðức Damasus kể rằng Nêrêô
và Achilêô là binh
lính của đạo quân Rôma và nhiệm vụ của họ là bách hại người Kitô Giáo. Có
lẽ các ngài chẳng có lý do gì để chống đối đạo và cũng chẳng muốn đổ máu
người vô tội, nhưng họ tuân lệnh chỉ vì sợ chết. Nói cho cùng, đó là nhiệm
vụ của một người lính.
Chúng ta không rõ hai ngài đã trở lại đạo như thế
nào, chỉ biết đó là một “phép
lạ đức tin.” Sau phép lạ này,
hai ngài quăng vũ khí và trốn ra khỏi trại, vứt bỏ áo giáp và gươm đao để
mặc lấy đời sống mới trong Ðức Kitô. Vì đã từng là những kẻ bách hại, có lẽ
các ngài biết rõ hơn ai hết về sự đau khổ đang chờ đợi người Kitô. Tuy
nhiên, đức tin đã chiến thắng sự sợ hãi cái chết, và sự chiến thắng của đức
tin là sự ngọt ngào nhất mà các ngài chưa bao giờ được cảm nghiệm.
Chúng ta biết là các ngài đã tử đạo, nhưng Ðức
Damasus không cho biết chi tiết như thế nào. Sau này, truyền thuyết nói rằng
các ngài phục vụ dưới quyền bà Flavia Domitilla, là cháu gái của Hoàng Ðế
Domitianô, và đã bị lưu đày và
bị hành quyết cùng với bà khi chính bà này trở lại đạo. Truyền thuyết này có
lẽ phát xuất từ sự kiện là hai ngài đã được chôn cất trong một hầm mộ được
gọi là nghĩa trang Domitilla.
Còn thánh Pancratiô sinh
tại Phygia, trong một gia đình quý tộc. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ngài về chung
sống với một người cậu tại Rome. Năm 14 tuổi, ngài trở thành tín hữu và đem
hết của cải cho người nghèo khổ. Do ngài sống đức tin Công giáo nên hoàng đế
Diocletianô đã chém đầu thánh nhân vào năm 304. Xác ngài được đem về chôn
cất trên đường Aurelianô. Ðức Giáo Hoàng Symmacô đã xây một thánh đường tại
đó để tôn vinh danh ngài. Thánh Grêgôriô thành Tours gọi ngài là “Ðấng trừng
phạt những kẻ bội thề”, bởi ai đứng trước mộ ngài mà thề gian thề dối đều bị
Chúa phạt.
II. BÀI HỌC.
Bài học rõ nét nhất về cuộc đời của các ngài là lòng can đảm dám hy sinh vì
niềm tin của mình.
Cuộc sống đức tin đã đến với các ngài như một phép
lạ. Phải nói đúng là một phép lạ vì trước đó các ngài là những người hoàn
toàn thuộc về thế gian, thậm chí tay các ngài còn nhúng chàm khi nghe theo
những mệnh lệnh của thế gian mà gây ra những sự chết chóc đau thương cho
những người tin Chúa. Các ngài đã có kinh nghiệm rất cụ thế về sự đau đớn
các vị tử đạo đã phải chịu.Thế nhưng khi đã tin Chúa thì vì tình yêu đối với
Chúa các ngài đã nhìn những đau khổ khi phải chịu vì Chúa trở nên nhẹ nhàng
và đáng quí đến nỗi các ngài dám chấp nhận mọi hy sinh để được trung thành
với đức tin của mình.
Vào cuối năm 1949, trong một nhà nguyện của một đại chủng viện ở Nam Kinh,
thủ đô Trung Hoa Dân quốc của tổng thống Tưởng Giới Thạch, lúc đó có một
buổi diễn tập đám cưới: Đây chưa phải là đám cưới thật, nhưng hôm trước đám
cưới, cô dâu chú rể, phù dâu, phù rể tham dự buổi diễn tập để khi làm lễ
chính thức họ không bị lúng túng, ngượng nghịu.
Nhưng ngay tối hôm đó, Hồng quân của Mao Trạch Đông tiến vào Nam Kinh, chiếm
đóng đại chủng viện và bắt nhiều sinh viên, trong số đó có chú rể, đem giam
vào trại tập trung với một lý do đơn giản là những người này có tội với nhà
nước vì tin nhận Chúa Cứu Thế và đi học đại chủng viện để truyền bá Phúc âm.
Từ đó, cứ mỗi năm một lần, chính quyền cho phép cô dâu vào thăm chú rể ít
phút. Sau khi cho cô dâu vào thăm chú rể, nhân viên cơ quan công lực đến nói
với chú rể rằng: “Anh có thể được trả tự do ngay bây giờ và được chính quyền
cho phép làm đám cưới nếu anh bằng lòng chối bỏ Chúa của anh”. Thanh niên
này không ngần ngừ và chỉ trả lời bằng một tiếng ngắn gọn: “Không!”.
Cảnh đó diễn ra suốt 30 năm trời. Cứ mỗi năm một lần cô dâu được vào thăm
chú rể ít phút, rồi cô câu hỏi:
- Anh có bằng lòng bỏ Chúa anh không? Nếu anh bỏ, anh sẽ được tự do, được
cưới vợ...
Và lần nào cũng chỉ có một câu trả lời là “không!”.
Trong 30 năm đó, chú rể từ một thanh niên trẻ trung, khỏe mạnh, đã trở thành
một người già, lưng đã còng xuống vì liên tục lao động, vì điều kiện sinh
sống kham khổ, nhưng niềm tin vào Chúa Cứu Thế của ông vẫn không lay chuyển.
Đến năm 1979, chính sách của Trung Hoa lục địa thay đổi chú rể già này được
trả tự do, được phép qua Hong Kong sinh sống và một đám cưới đã được tổ chức
ở Hong Kong. Có người đến thăm, hỏi ông:
- Tại sao ông có thể trung kiên với Chúa suốt 30 năm trời bị ngược đãi, áp
bức, đau khổ như vậy?.
Ông đáp: - Chúa Cứu Thế đã hy sinh chịu chết vì tôi, làm sao tôi có thể phản
bội Ngài được?. (ĐTPA).
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện :
Lạy Chúa
Đã hai ngàn năm nay, lượn sóng tình thương của Chúa đã lôi kéo biết bao
nhiêu người về với Chúa, nào có ai đã được người ta yêu mến bằng Chúa?
Hàng triệu Đấng Tử đạo đổ máu mình trong những hình khổ quái gở, miệng vẫn
tươi cười, lòng vẫn hớn hở, vì họ được phước kể vào hàng ngũ kẻ xứng đáng
chịu đau khổ vì danh Thánh Chúa.
Hằng triệu thầy cả, thầy dòng, thừa sai đã hy sinh tất cả để được nên giống
Chúa và đã hy sinh trót mình họ một cách hoàn toàn như Chúa đã hy sinh vì
Chúa Cha và cho các linh hồn.
Và biết bao nhiêu giáo hữu luôn cương quyết xông pha trong cuộc chiến đấu
hằng ngày của đời sống Công giáo. Chỉ vì họ yêu mến Chúa.
Trung thành với lời thề hứa ngày rửa tội, họ đã từ bỏ tội lỗi, đã đóng đinh
mọi khuynh hướng tội lỗi hầu sống trong ơn thánh và Phục sinh với Chúa.
Ở Giêsu Kitô, con thấy Chúa còn tự đắc lắm, vì không ai dưới trần thế này
được người ta yêu mến quá như vậy, yêu mến với một mối tình sống động phát
hiện ở việc làm, lời nói, cách ăn ở, với một tấm lòng mạnh hơn mọi cơn cám
dỗ, mạnh hơn mọi sự đau khổ và mạnh hơn cả sự chết nữa.
Giêsu, xin hãy lôi cuốn con theo lượn sóng tình yêu ấy. Xin Chúa nói trong
tâm hồn con: Chúa đáng mọi sự ấy và còn đáng hơn nữa bội phần…
E. Maraux
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-12-05-thanh-nereroakileo-va-pancrasio-tu-dao-39973
Thánh Nêrô và thánh Akilêô là những binh sĩ Rôma qua đời khoảng năm 304. Có
thể các ngài là những vệ sĩ của hoàng đế Rôma dưới thời vua Trajanô. Chúng
ta không được biết nhiều chi tiết về các ngài. Thế nhưng những điều chúng ta
biết được là do hai vị giáo hoàng Sirisiô và Đamasô sống vào thế kỷ thứ tư
kể lại. Vào năm 398, đức giáo hoàng Sirisiô đã xây một ngôi thánh đường ở
Rôma để tôn kính các ngài. Đức giáo hoàng Đamasô thì soạn một bài viết tóm
tắt cuộc đời của hai vị tử đạo này. Ngài giải thích rằng Nêrô và Akilêô được
ơn trở lại với đức tin Công giáo. Các ngài đã vĩnh viễn từ bỏ vũ khí lại
đằng sau. Các ngài là những môn đệ đích thực của Đức Chúa Giêsu dù phải trả
giá cả mạng sống mình. Nêrô và Akilêô bị đày ra đảo Têraxina và bị xử trảm
tại đó. Vào thế kỷ thứ bốn, ngôi thánh đường thứ hai đã được xây cất tại một
nơi khác trong thành Rôma để tôn kính hai vị tử đạo này.
Thánh Pancrasiô, một trẻ mồ côi mười bốn tuổi, cũng sống vào thời gian này.
Ngài có lẽ cũng bị giết chết cùng ngày với hai vị thánh trên. Pancrasiô
không phải là người bản xứ Rôma. Người cậu trông coi Pancrasiô đã đưa ngài
tới đó. Pancrasiô được chịu phép Thanh tẩy và trở nên môn đệ của Đức Chúa
Giêsu. Dù mới chỉ là một cậu bé, nhưng Pancrasiô cũng bị bắt giữ vì lý do là
Kitô hữu. Pancrasiô nhất định không chịu chối bỏ đức tin của mình. Vì vậy,
ngài đã bị kết án tử hình. Pancrasiô bị trảm quyết. Pancrasiô là vị thánh tử
đạo rất được sùng mộ và kính phục trong thời Giáo hội sơ khai. Người ta
ngưỡng mộ Pancrasiô vì tuy tuổi đời non trẻ nhưng đã rất can đảm và anh
dũng. Vào năm 514, người ta xây cất một ngôi thánh đường lớn tại Rôma để tôn
kính thánh Pancrasiô. Đến năm 596, một vị thừa sai danh tiếng, thánh
Augustinô Cantơbơri, đến đem đức tin Công giáo cho đất nước Anh. Ở đó, thánh
nhân đã lấy danh thánh Pancrasiô để đặt tên cho ngôi thánh đường đầu tiên
của mình.
Các thánh tử đạo Rôma nhắc nhớ chúng ta ý nghĩa quan trọng của đức tin Công
giáo. Mỗi người chúng ta hãy biết quý mến, đề cao cũng như thực hành đức tin
này. Nếu muốn kiện toàn đức tin của mình, chúng ta hãy nài xin các thánh
Nêrô, Akilêô và Pancrasiô giúp đỡ.
https://dongten.net/2019/05/12/hanh-cac-thanh-12-05-thanh-nero-akileo-va-pancrasio/
Hai thánh Nêrêô và Akileo là những binh sĩ, nhưng khi trở lại đạo các Ngài
đã rời bỏ quân ngũ rồi sau đó đã lãnh triều thiên tử đạo. Câu chuyện tử đạo
của các Ngài có lẽ đã là giả tưởng. Theo bản văn của đức giáo hoàng Damas,
thì các Ngài đã sống dưới triều hoàng đế Nêrô. Chính thánh Phêrô đã rửa tội
cho các Ngài. Được phái về phục vụ thánh nữ Đômôtilla, sau đó các Ngài cũng
bị đi đày và được phúc tử đạo với bà chủ.
Một tài liệu khác cho rằng thánh Nêrêô và Akileo là lính cận vệ của chính
Đức Giáo hoàng Damas.
Có người lại cho rằng thánh Nêrêô là con tinh thần của thánh Phaolô.
Như vậy các tài liệu về cuộc đời hai thánh tử đạo không được chắc chắn. Tuy
nhiên, lòng tôn kính dành cho các Ngài rất cổ kính. Thánh đường lưu giữ hài
cốt các Ngài ở đường Ardeatina đã được tái thiết tới ba lần.
Thánh Pancraxiô sinh tại Phrygia trong một gia đình danh giá giàu có. Nhưng
cha mẹ Ngài mất sớm và ký thác Ngài cho ông cậu là Denis. Ba năm sau, Denis
đến lập nghiệp ở Rôma. Chúa quan phòng đã xếp đặt để họ ở gần nơi trốn tránh
của Đức Giáo hoàng Marcelionô trong cơn bách hại của Diocletianô và
Maximianô. Cảm kích trước sự khiêm tốn, nhân hậu đạo đức cùng đức nhẫn nại
của vị thánh Giáo hoàng, họ đã xin theo đạo và được đức giáo hoàng ưng
thuận. Ong Denis chỉ sống thêm ít ngày sau khi trở lại. Nhưng Pancraxiô mới
14 tuổi, bị bắt sau khi ông cậu qua đời. Vì quen với cha Ngài Hoàng đế
Diôcletianô đến gặp và dùng hết cách để đưa Ngài trở về với cuộc sống lương
dân, Ngài đã can đảm trả lời nhà vua: Một Kitô hữu không màng tới của cải và
thú vui trần thế. Họ chỉ ao ước những gia sản trên trời. Cái chết chỉ làm
cho hạnh phúc của họ tới mau hơn. Ngài cứ hành hình tôi và đừng tìm cách bắt
tôi thờ lạy các tượng thần làm gì.
Hoàng đế giận dữ ra lệnh chém đầu Ngài. Một phụ nữ đạo đức đã đến lấy xác
Ngài và chôn cất ở đường Aurelia. Đức Giáo hàong Symmacho đã xây cất một
thánh đường tại đây cho Ngài.
Thánh Pancrasiô, một trẻ mồ côi mười bốn tuổi, cũng sống vào thời gian này.
Ngài có lẽ cũng bị giết chết cùng ngày với hai vị thánh trên. Pancrasiô
không phải là người bản xứ Rôma. Người cậu trông coi Pancrasiô đã đưa ngài
tới đó. Pancrasiô được chịu phép Thanh tẩy và trở nên môn đệ của Đức Chúa
Giêsu. Dù mới chỉ là một cậu bé, nhưng Pancrasiô cũng bị bắt giữ vì lý do là
Kitô hữu. Pancrasiô nhất định không chịu chối bỏ đức tin của mình. Vì vậy,
ngài đã bị kết án tử hình. Pancrasiô bị trảm quyết. Pancrasiô là vị thánh tử
đạo rất được sùng mộ và kính phục trong thời Giáo hội sơ khai. Người ta
ngưỡng mộ Pancrasiô vì tuy tuổi đời non trẻ nhưng đã rất can đảm và anh
dũng. Vào năm 514, người ta xây cất một ngôi thánh đường lớn tại Rôma để tôn
kính thánh Pancrasiô. Đến năm 596, một vị thừa sai danh tiếng, thánh
Augustinô Cantơbơri, đến đem đức tin Công giáo cho đất nước Anh. Ở đó, thánh
nhân đã lấy danh thánh Pancrasiô để đặt tên cho ngôi thánh đường đầu tiên
của mình.
https://www.giaophandanang.org/ngay-12-05-thanh-nerero-akileo-va-pancrasio-tu-dao.html
Các vị thánh là những
người đã sống tới mức anh hùng của các nhân đức,các ngài cố gắng hết sức họa
lại hình ảnh của Chúa Giêsu. Như một tảng đá các Ngài phấn đấu gọt dũa sống
hết mình vì Đức Kitô. Hai thánh Nêrê và Achillêô đã để lại mẫu gương tuyệt
vời về lòng trung kiên đối với Chúa Giêsu Kitô.
HAI THÁNH NÊRÊ và ACHLLÊÔ ANH HÙNG
Hai thánh nhân trước
khi được phúc chết vì đạo đều là những binh sĩ ngoại giáo. Quả
thực, Chúa muốn tuyển chọn ai là do sự tự do, tấm lòng quảng đại, hoàn toàn
vô vị lợi của Chúa. Một tiếng gọi, một lời mời vang lên: Chúa có con đường
và có cách của Ngài. Tiếng của Chúa có thể ngỏ trực tiếp với một người,
nhiều người, con người có sẵn sàng đáp trả hay không tùy thuộc tự do của mỗi
người.
Thường khi Chúa kêu
mời ai, người đó mau mắn đáp lại tiếng gọi của Ngài.Trường hợp của Nêrê và
Achillêô ghi đậm lời sách khải huyền:” Ai thắng, Ta sẽ cho ăn quả cây sự
sống, trồng ở trên thiên đàng của Thiên Chúa”( Kh 2, 7 ). Thánh Nêrô và
thánh Achillêô đều phục vụ trong quân đội như thánh Sêbastianô dưới thời
Hoàng Đế Điôclêtianô. Cơn bách hại đạo xẩy ra vào năm 304, các Ngài còn là
người ngoại giáo,nhưng trước những mẫu gương sáng chói của các vị tử đạo,
các Ngài đã có đức tin và xin quay trở về với Chúa Giêsu Kitô. Vì lòng can
đảm, đức tin sắt đá của các Ngài, hai thánh nhân đã bị bắt, bị tra tấn và bị
giết vì danh Chúa Kitô. Ngày nay khi tới Roma, người ta sẽ được viếng, được
chiêm ngưỡng hai vương cung thánh đường dâng kính thánh Nêrê và thánh
Achillêô: một được xây cất vào thế kỷ thứ IV ở đường Ardéatina và một thánh
đường do Đức Thánh Cha Lêô III xây dựng và cung hiến vào những năm 795-816
tại đường Appia.
CHÚA
THƯỞNG CÔNG CHO CÁC NGÀI
Vì lòng mến Chúa và
hy sinh cuộc đời, hy sinh mạng sống của mình cho Chúa như lời Chúa nói:”
Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hiến mạng sống vì
người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Thánh Nêrê và thánh Achillêô đã nói lên cái
cuối cùng của mình là hy sinh chết vì tình yêu. Các Ngài đã có một giấc mơ
như M. Luther King đã nói:” Tôi có một giấc mơ”( I have a dream ).Hai thánh
Nêrê
và Achillêô đã có một giấc mơ, không phải một giấc mơ được giầu sang, phú
quí, mà là một giấc mơ hiến trọn đời mình cho Chúa bằng chính
cái chết của các Ngài.
Lạy Thiên Chúa toàn
năng, hôm nay chúng con mừng hai thánh Nêrê và Achillêô tử đạo đã anh dũng
tuyên xưng đức tin. Xin cho chúng con luôn được các Ngài bênh vực chở che
trước tòa Chúa”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Nêrê và Achillêô ).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng
Lợi DCCT
http://www.simonhoadalat.com/SuyNiem/Saints/Thang5/Ngay12.htm
Thứ Năm sau Chúa
Nhật VI Phục Sinh
(Hôm
nay đúng 40 ngày sau Phục Sinh là Lễ Trọng Chúa Giêsu Thăng Thiên và
là Lễ Buộc.
Xin xem phần chia sẻ dưới đây ngay sau Thứ Bảy tuần này, nếu ở đâu cử hành
đúng ngày.
Thường chỉ có Tòa Thánh Rôma và các Dòng Tu
mới mừng đúng ngày, còn hầu như ở các giáo xứ sẽ mừng vào Chúa Nhật vì lý do
mục vụ.
Bởi
thế cho nên ở đây chúng ta vẫn tiếp tục phụng vụ Lời Chúa cho ngày Thứ Năm trong Tuần VI Phục Sinh
liên tục như thường)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 18,
1-8
"Ngài cư trú và làm việc tại nhà
họ, và giảng trong hội đường".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô rời Athêna
đi Côrintô; ngài gặp một người Do-thái tên là Aquila, quê ở Pontô, vừa từ
đất Ý-đại-lợi đến làm một với vợ là Priscilla (bởi vì vua Clauđiô đã ra lệnh
trục xuất mọi người Do-thái khỏi Roma); Phaolô đến gặp họ. Và vì chung một
nghề, nên ngài cư trú và làm việc tại nhà họ: họ làm nghề dệt bố để làm nhà
lều. Mỗi ngày Sabbat, ngài đến tranh luận tại hội đường, nêu danh Chúa
Giêsu, thuyết phục người Do-thái và Hy-lạp.
Khi Sila và Timôthêu từ Macêđônia đến,
Phaolô chỉ chuyên lo việc giảng dạy, minh chứng cho người Do-thái biết Chúa
Giêsu là Ðức Kitô. Nhưng họ công kích và lăng mạ Ngài, nên ngài dũ áo nói
với họ: "Máu các ngươi đổ trên đầu các ngươi. Phần tôi, tôi vô can, từ đây,
tôi sẽ đến với dân ngoại".
Ngài ra khỏi chỗ đó, vào nhà một người
kia tên là Titô Giustô có lòng kính sợ Chúa, nhà ông ở bên cạnh hội đường.
Bấy giờ Crispô trưởng hội đường, và cả nhà ông tin theo Chúa; nhiều người
Corintô nghe giảng, cũng tin theo và chịu phép rửa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1.
2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa đã công
bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (c. 2b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca
mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho
Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của
Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng
nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn
thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa,
hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 28
Alleluia, alleluia! - Thầy bởi Cha mà
ra, và đã đến trong thế gian; bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Cha. -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16,
16-20
"Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi
buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ
rằng: "Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ
thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha".
Bấy giờ trong các môn đệ có mấy người
hỏi nhau: "Ðiều Người nói với chúng ta: "Một ít nữa các con sẽ không thấy
Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy", và "Vì Thầy về cùng Cha",
như thế có ý nghĩa gì?" Họ nói: "Lời Người nói 'Một ít nữa' có ý nghĩa gì?
Chúng ta không biết Người muốn nói gì?"
Chúa Giêsu nhận thấy họ muốn hỏi
Người, nên Người bảo họ: "Các con hỏi nhau vì Thầy đã nói: Một ít nữa các
con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy. Thật, Thầy
bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui
mừng. Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm
vui".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Sự
Hiện Diện Thần Linh là những gì bất khả thiếu đức tin, vì chỉ có đức tin mới có
thể cảm nhận được sự hiện diện thần linh mà thôi, cho dù là trong những lúc đau
thương khốn khó nhất. Đó là lý do trong bài Phúc Âm cho Thứ Năm của Tuần VI Phục
Sinh này, một bài Phúc Âm cũng rất thích hợp với ý nghĩa của biến cố Chúa Giêsu
Thăng Thiên hôm nay, Chúa Giêsu mới nói đến một tình trạng rất ư là khó hiểu đối
với tâm thức tự nhiên của các tông đồ: "Ít lâu
nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy
Thầy".
"'Ít
lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy
Thầy.' Bấy giờ vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giê-su hỏi nhau: 'Người muốn
nói gì khi bảo chúng ta: Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu
nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy và Thầy đến cùng Chúa Cha?' Vậy các ông nói: 'Ít
lâu nữa' nghĩa là gì? Chúng ta không hiểu Người nói gì!' Đức Giê-su biết là các
ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông: 'Anh em bàn luận với nhau về lời Thầy nói:
Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy
Thầy. Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian
sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm
vui'".
Chúa Giêsu tuy không trực tiếp trả lời cho những gì các vị thắc mắc về vấn đề
thời gian
'ít lâu nữa' các vị
'không thấy Thày' rồi lại
'thấy Thày', nhưng
Người đã
trấn an các vị và khẳng định cho các vị thấy một dấu hiệu Người vẫn ở với các
vị, sẽ hiện diện thần linh nơi các vị, ở chỗ, đó là cho dù các vị
"sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui
mừng", cuối cùng các vị chẳng
những không cảm thấy chán nản bỏ cuộc, trái lại, chính
"nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui"
nơi các
vị, như đã từng xẩy ra thực sự
nơi hai Tông Đồ Phêrô và Gioan sau khi bị đánh đòn và thả về:
"Họ
cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức
Giê-su, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan
bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su". (Tông
Vụ 5:40-41).
"Ít
lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại
thấy Thầy" ở đây thực sự là liên quan đến thực tại hiện diện thần linh.
Câu này có thể hiểu hai nghĩa khác nhau nhưng tương tự như sau. Nghĩa thứ
nhất đó là Chúa Giêsu bỏ môn đệ mà đi chịu chết:
"Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy", nhưng đến
ngày thứ ba Người đã phục sinh từ trong kẻ chết và hiện ra với các vị:
"rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy". Nghĩa thứ hai đó là Chúa
Kitô Thăng Thiên về cùng Cha là Đấng đã sai Người:
"Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy", nhưng sau
đó Người đã từ Cha sai Thánh Linh đến để nhờ Ngài mà "ở cùng các con mọi
ngày cho đến tận thế" (Mathêu 28:20).
Trong đời sống tu đức cũng thế, sự hiện diện thần linh theo kiểu
"Ít
lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại
thấy Thầy" có thể hiểu về trường hợp hiệp lễ và trước hoặc sau hiệp lễ.
Đúng thế, khi Kitô hữu hiệp lễ là họ được Chúa Kitô hiện diện nơi cả linh
hồn và thân xác của họ bằng chính Mình Thánh và Máu Thánh của Người, nghĩa
là một Chúa Kitô bằng xương bằng thịt đàng hoàng, nhưng dưới dạng Bánh Thánh
và Rượu Thánh, như thể họ được thấy Người.
Thế nhưng, sự hiện diện của Chúa Kitô bằng Thánh Thể của Người, qua Bánh
Thánh và Rượu Thánh, chỉ kéo dài trong chốc lát, cho tới khi Bánh Thánh và
Rượu Thánh tan biết trong thân xác của họ, và bấy giờ Người hiện diện nơi họ
bằng Thánh Thần của Người, một Thánh Thần Người ban cho họ mỗi khi họ rước
lấy Mình Máu Thánh của Người, một thân xác đã phục sinh và đã hiện ra với
các tông đồ để thông ban Thánh Thần của Người cho các vị thế nào thì Người
cũng thông Thánh Thần của Người cho ai rước lấy Người như vậy, như thân nho
thông truyền cho cành nho để họ nhờ đó sinh dồi dào hoa trái.
Ngoài ra, trong giòng lịch sử của Giáo Hội, vẫn có một thiểu số tâm hồn Kitô
hữu nào đó, được đặc ân trải qua cảm nghiệm thần linh
"Ít
lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại
thấy Thầy" bất khả thiếu để có thể được hiệp nhất nên một với
Chúa bằng một đức tin tinh tuyền. Thật vậy, tu đức Kitô giáo, theo các thánh
và các nhà thần bí, được chia ra làm 3 giai đoạn: khởi sinh (giai đoạn từ bỏ
thế gian và tội lỗi), tiến sinh (giai đoạn tập tành các nhân đức trọn lành),
và hiệp sinh (giai đoạn chiêm niệm bằng một tấm lòng gắn bó với Thiên Chúa
và hiệp nhất nên một với Ngài, đến độ Ngài sống trong họ và làm chủ họ).
Tuy nhiên, để "vượt qua" từ giai đoạn tu đức tiến sinh lên giai đoạn hiệp
sinh, tâm hồn thường phải trả qua một tình trạng được gọi là Đêm Tối Tăm,
bằng một cuộc thử thách đức tin kinh hoàng, đến độ có những lúc cảm thấy
mình bị Thiên Chúa loại trừ, và Thiên Chúa trở thành một hung thần v.v. Tuy
nhiên, nếu tiếp tục sống đức tin, cho dù "không thấy Chúa đâu"
(Mathêu 25:37-39,44), như Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta từng trải nghiệm gần 50
năm tối tăm mịt mù mà vẫn vui tươi phục vụ những người anh chị em hèn mọn
nhất của Chúa Kitô, thành phần nghèo nhất trong các người nghèo, tâm hồn "sẽ
lại được thấy Thày", nhưng bấy giờ ở một mức độ siêu việt, mức độ của
một "sự sống viên mãn hơn" (Gioan 10:10).
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 18:1-8)
Nếu
nhờ sự hiện diện thần linh của Chúa Kitô bởi
Thánh Thần của Người nơi các tông đồ mà "anh
em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng
nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui",
thì đã quả thực xẩy ra nơi
trường hợp của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong bài đọc 1 hôm nay. Ở chỗ, vị
tông đồ này bị chống đối bởi chính đồng hương và đồng đạo của mình, thật là đắng
cay chua xót, như chính lời ngài thẳng thắn ngỏ cùng họ trong bài đọc 1 hôm nay.
Tuy nhiên, nỗi xót xa cay đắng khổ tâm gây ra cho ngài bởi chính dân của
ngài ấy đã trở thành niềm vui trong ngài khi ngài thấy tác động thần linh đã tỏ
hiện lạ lùng nơi một gia đình
"dân ngoại tôn thờ Thiên Chúa" cũng như nơi nhiều người dân ngoại khác ở
"Corinto":
"Khi
ông Xi-la và ông Ti-mô-thê từ Ma-kê-đô-ni-a xuống, thì ông Phao-lô chỉ lo giảng,
long trọng làm chứng cho người Do-thái biết rằng Đức Giê-su chính là Đấng
Ki-tô. Bởi họ chống đối và nói lộng ngôn, nên ông giũ áo mà bảo họ: 'Máu các
người cứ đổ xuống trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ nay trở đi, tôi
sẽ đến với người ngoại'. Ông rời bỏ chỗ ấy đến nhà một người ngoại tôn thờ Thiên
Chúa, tên là Ti-xi-ô Giút-tô, ở sát bên hội đường. Ông Cơ-rít-pô, trưởng hội
đường, tin Chúa, cùng với cả nhà. Nhiều người Cô-rin-tô đã nghe ông Phao-lô
giảng cũng tin theo và chịu phép rửa".
Thứ Sáu sau Chúa
Nhật VI Phục Sinh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 18,
9-18
"Trong thành này, Ta có một dân
đông đảo".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
(Khi Phaolô đang ở Côrintô), một đêm
kia, Chúa hiện ra phán bảo Phaolô trong một thị kiến rằng: "Con đừng sợ, cứ
giảng dạy, chứ đừng làm thinh; vì Ta ở cùng con, và không ai tra tay làm hại
con, vì trong thành này, Ta có một dân đông đảo". Phaolô ở lại đó một năm
sáu tháng mà giảng dạy lời Chúa cho họ.
(Ðến) thời Galliô làm tổng trấn xứ
Akaia, người Do-thái đồng lòng nổi lên chống Phaolô và điệu ngài đến toà án
mà thưa rằng: "Người này xui dân tôn thờ Thiên Chúa trái luật". Phaolô toan
mở miệng, thì Galliô nói với người Do-thái rằng: "Hỡi người Do-thái, nếu quả
thật là điều chi tội ác, ta sẽ có lý mà nghe các ngươi; nhược bằng chỉ là
những tranh luận về đạo lý, danh từ và lề luật, thì các ngươi hãy liệu lấy;
ta không muốn xử các việc ấy". Rồi ông đuổi họ ra khỏi toà án. Mọi người
liền bắt Sosthênê, trưởng hội đường, và đánh đập ông ta trước toà án, thế mà
Galliô cũng chẳng lưu tâm gì đến. Còn Phaolô thì lưu lại đó nhiều ngày, rồi
từ giã anh em, xuống tàu đi Syria (với Priscilla và Aquila); tại Cenchri,
ngài cạo trọc đầu, vì ngài đã khấn như thế.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 46, 2-3.
4-5. 6-7
Ðáp: Thiên Chúa là
Vua khắp cõi trần gian (c. 8a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ
tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Ðấng Tối cao, khả uý,
Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian. - Ðáp.
2) Người bắt các dân tùng phục chúng
tôi, và đặt chư quốc dưới chân chúng tôi. Người đã chọn cho chúng tôi phần
gia sản, vinh dự của Giacob mà Người sủng ái. - Ðáp.
3) Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng
bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa,
hãy ca mừng, ca mừng Vua của chúng ta. - Ðáp.
Alleluia: Cl 3, 1
Alleluia, alleluia! - Nếu anh em sống
lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự cao siêu trên
trời, nơi Ðức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16,
20-23a
"Niềm vui của các con không ai sẽ
lấy mất được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế
gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở
thành niềm vui. Người đàn bà khi sinh con thì lo buồn, vì giờ đã đến, nhưng
khi đã sinh con rồi, thì bà mừng rỡ, không còn nhớ đến cơn đau, bởi vì đã có
một người sinh ra đời. Các con cũng thế, bây giờ các con buồn phiền, nhưng
Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và niềm vui của các
con không ai sẽ lấy mất được. Và trong ngày đó các con sẽ không còn hỏi Thầy
điều gì nữa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Chiều
kích hiện diện thần linh trong chủ đề
"Thày là sự sống" cho Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh càng tỏ hiện
trong bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần VI Phục Sinh hôm nay. Ở chỗ, "Thầy
sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng", đến độ họ chỉ biết ngây
ngất hoan hưởng sự hiện diện thần linh lạ lùng ấy không còn nói lên lời: "Và
trong ngày đó các con sẽ không còn hỏi Thầy điều gì nữa".
"Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Thật, Thầy bảo thật các con: các con
sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi
buồn của các con sẽ trở thành niềm vui. Người đàn bà khi sinh con thì lo buồn,
vì giờ đã đến, nhưng khi đã sinh con rồi, thì bà mừng rỡ, không còn nhớ đến cơn
đau, bởi vì đã có một người sinh ra đời. Các con cũng thế, bây giờ các con buồn
phiền, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và niềm vui
của các con không ai sẽ lấy mất được. Và trong ngày đó các con sẽ không còn hỏi
Thầy điều gì nữa'".
Sự
hiện diện thần linh của Chúa Kitô nơi các tông đồ nói riêng và chung Giáo
Hội được chứng tỏ nơi 2 dấu hiệu: khổ đau và vui mừng, hay khổ đau để sinh hoa
kết trái, như người đàn bà quằn quại sinh con, hay như cành nho vì dính chặt với
thân nho đã sinh trái lại càng cần được cắt tỉa cho sai trái hơn (xem Gioan
15:2). Chính niềm vui hay hoa trái trổ sinh nơi tình trạng gian nan khốn khó của
Kitô hữu là những gì chứng tỏ đích thực nhất sự hiện diện thần linh của Chúa
Kitô nơi họ, như thân nho tràn đầy nhựa sống thần linh tuôn sang cho họ để họ
sinh hoa kết trái như Người mong muốn, xứng với quyền lực thần linh phục sinh
của Người (xem Mathêu 28:18).
Trong bài Phúc
Âm hôm nay còn chất chứa một hình ảnh về người đàn bà sinh con. Việc sinh
con có triệu chứng đớn đau. Và cơn đau đớn khi sinh con này bởi đâu mà có
ngay lúc bấy giờ, nếu không phải bởi chính đứa con, vai chính trong cuộc, đã
tới ngày giờ cần phải được sinh ra nên đòi ra, từ đó gây ra những biến động
co thắt nơi bụng dạ của người mẹ, khiến bà cảm thấy đau đớn.
Trong lãnh vực
siêu nhiên cũng thế. Mẹ Maria chịu đớn đau nhất vào lúc Chúa Giêsu bị lưỡi
đòng đâm vào cạnh sườn, và bấy giờ Người không còn đau nữa nhưng Mẹ Maria bị
nhói lên, đau cái đau của Người và đau cái đau thay Người, mà cái đau như
gươm sắc thâu qua lòng của Mẹ (xem Luca 2:35) bấy giờ không phải bởi lưỡi
đòng gây ra cho Mẹ mà là bởi chính Người Con yêu dấu của Mẹ bị đâm, tức là
chính Con Mẹ làm cho Mẹ đau, như thai nhi đạp bụng mẹ khiến mẹ đau để nó có
thể lọt lòng mẹ mình vậy. Dấu hiệu đớn đau khi sinh con của người đàn
bà theo tự nhiên cũng phản ảnh chẳng những cái đau đớn thiêng liêng để sinh
Chúa Kitô ra cho các linh hồn mà còn cả vai trò chủ động của Chúa Kitô trong
việc cứu các linh hồn nhờ những đau thương của chi thể của Người, như các
cành mnho đã sinh trái được cắt tỉa đi cho càng sinh hoa kết trái hơn nữa
(xem Gioan 15:2).
Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, để có thể sinh Chúa Giêsu ra cho các
linh hồn, (hơn là hay cũng là sinh các linh hồn vào sự sống thần linh), linh
hồn nào cũng phải trải qua một cơn đau đớn khủng khiếp với Chúa Giêsu và như
Chúa Kitô Tử Giá, và chính cơn đau hiệp thông thần linh này là dấu hiệu cho
thấy tình trạng hiệp thông thần linh của Kitô hữu lên đến tột đỉnh, đến độ
Chúa Kitô nơi họ sắp được hay đang được sinh ra cho các linh hồn qua họ là một
linh hồn được tuyển chọn, dù họ là nam nhân chứ không phải nữ nhân, như
chính Chúa Giêsu đã khẳng định
“ai là mẹ Tôi”
khi Người chỉ tay vào thành phần môn đệ nam nhân của Người bấy giờ
(xem Mathêu 12:49-50).
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 18:9-18)
Sự
hiện diện thần linh của Chúa Kitô Phục Sinh và Thăng Thiên quả thực đã hiện diện
một cách tỏ tường nơi vị tông đồ dân ngoại Phaolô trong bài đọc 1 hôm nay, khi
Người tỏ mình ra cho ngài vào
"một đêm kia" và
trấn an ngài trong một thị kiến rằng: "Con
đừng sợ, cứ giảng dạy, chứ đừng làm thinh; vì Ta ở cùng con, và không ai tra tay
làm hại con, vì trong thành này, Ta có một dân đông đảo".
Bởi
thế, cho dù ngài bị kịch liệt chống đối và bị điệu ra tòa, đã có thẩm quyền bênh
vực ngài:
"(Ðến)
thời Galliô làm tổng trấn xứ Akaia, người Do-thái đồng lòng nổi lên chống Phaolô
và điệu ngài đến toà án mà thưa rằng: 'Người này xui dân tôn thờ Thiên Chúa trái
luật'. Phaolô toan mở miệng, thì Galliô nói với người Do-thái rằng: 'Hỡi người
Do-thái, nếu quả thật là điều chi tội ác, ta sẽ có lý mà nghe các ngươi; nhược
bằng chỉ là những tranh luận về đạo lý, danh từ và lề luật, thì các ngươi hãy
liệu lấy; ta không muốn xử các việc ấy'. Rồi ông đuổi họ ra khỏi toà án. Mọi
người liền bắt Sosthênê, trưởng hội đường, và đánh đập ông ta trước toà án, thế
mà Galliô cũng chẳng lưu tâm gì đến. Còn Phaolô thì lưu lại đó nhiều ngày, rồi
từ giã anh em, xuống tàu đi Syria (với Priscilla và Aquila); tại Cenchri, ngài
cạo trọc đầu, vì ngài đã khấn như thế".
Ngày 14 tháng 5
THÁNH MÁT-THI-A, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Thánh Mát-thi-a là người “đã theo Chúa Giê-su, kể từ khi Người chịu
phép rửa của ông Gio-an cho đến ngày Người thăng thiên”. Chính vì
thế, thánh nhân đã được các Tông Đồ chọn làm người thế chỗ của ông
Giu-đa, để làm chứng cho Chúa Giê-su Phục Sinh. Thánh nhân được kể
vào Nhóm Mười Hai, như sách Công vụ Tông Đồ đã thuật lại.
Bài Ðọc I: Cv
1, 15-17. 20-26
"Matthia trúng thăm, ông được kể vào số mười một Tông Ðồ".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô
đứng lên giữa anh em (đám đông có chừng một trăm hai mươi người) mà
nói: "Hỡi anh em, phải ứng nghiệm lời Thánh Kinh mà Thánh Thần đã
dùng miệng Ðavít để tiên báo về Giuđa, kẻ hướng dẫn những người bắt
Chúa Giêsu. Hắn cũng là một trong số chúng ta, đã thông phần chức vụ
của chúng ta. Vì chưng, trong Thánh vịnh có chép rằng: "Trại của nó
sẽ trở nên hoang vắng, và không một ai ở lại trong đó, và một người
khác sẽ lãnh lấy chức vụ của nó". Vậy trong những người đi cùng với
chúng ta suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, kể từ ngày
Gioan thanh tẩy cho đến ngày Chúa Giêsu lìa chúng ta mà lên trời,
chúng ta phải chọn lấy một trong những người có mặt đây, để cùng với
chúng ta làm chứng Người đã sống lại".
Họ giới thiệu hai người: ông
Giuse, tức Barsabba, biệt danh là Công chính, và ông Matthia. Ðoạn
họ cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin
hãy tỏ ra Chúa chọn ai trong hai người này để nhận chức vụ và tước
hiệu Tông đồ thay cho Giuđa, kẻ đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó".
Thế rồi họ bỏ thăm và Matthia đã trúng thăm: ông được kể vào số với
mười một Tông đồ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
112, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Chúa cho người
ngồi với những bậc quân vương của dân Người (c. 8).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen, hỡi
những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh
Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.
2) Từ mặt trời mọc lên tới khi
lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên
hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa. - Ðáp.
3) Ai được như Thiên Chúa
chúng tôi, Người ngự trên nơi cao thẳm, và Người để mắt nhìn coi,
khắp cả trên trời dưới đất? - Ðáp.
4) Người nâng cao kẻ túng
thiếu từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn thổ, hầu
cho họ ngồi với những bậc quân vương, với những bậc quân vương của
dân Người. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15, 16
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã
chọn các con, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các
con tồn tại". - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 15, 9-17
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ: Thầy gọi các con là
bạn hữu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu
mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân
lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy; cũng như
Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu
của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở
trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn.
"Ðây là lệnh truyền
của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con.
Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu
mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều
Thầy truyền.
"Thầy không còn gọi
các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các
con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy,
thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng
chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại
hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin
Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các
con điều này là: các con hãy yêu mến nhau".
Ðó là lời Chúa.
Trong những ngày ấy, ông Phê-rô đứng lên giữa các môn đệ mà nói.
Vì ông là một con người nhiệt thành được Đức Ki-tô giao phó đoàn
chiên và lại là người đứng đầu nhóm, nên bao giờ ông cũng lên
tiếng trước tiên : Thưa
anh em, phải chọn một người trong chúng ta. Ông để cho cộng
đoàn cân nhắc ; như thế, ông vừa làm cho cộng đoàn kính nể những
người họ đã chọn, vừa tránh được lòng ghen ghét có thể xảy ra.
Quả thật, những việc lớn lao như thế thường dễ sinh ra tai hoạ.
Vậy thì sao ? Chính ông Phê-rô không có quyền chọn ư ? Dĩ nhiên,
ông có quyền. Nhưng ông không dùng quyền đó để khỏi bị coi là
người thiên vị. Đàng khác, ông chưa được lãnh nhận Thần Khí. Rồi
sách Công vụ Tông Đồ kể : Họ
đề cử hai người : ông Giu-se, biệt danh là Ba-sáp-ba, cũng gọi
là Giút-tô, và ông Mát-thi-a. Không phải chính ông, nhưng
tất cả mọi người đã đề cử họ. Ý kiến thì chính ông đưa ra, nhưng
ông cho thấy đó không phải là ý kiến riêng của ông, mà là do lời
ngôn sứ xưa kia đã nói ra. Như thế, ông là người giải thích, chứ
không phải người ra lệnh.
Ông nói : Vậy
phải chọn trong số những người đã cùng chúng tôi theo Chúa
Giê-su. Bạn coi, ông muốn họ phải là những người chứng đã
thấy tận mắt, mặc dù còn phải có Chúa Thánh Thần ngự đến. Quả là
ông rất quan tâm đến điều này.
Ông lại nói : Trong
số những người đã cùng chúng tôi theo Chúa Giê-su trong suốt
thời gian Người sống giữa chúng tôi. Ông muốn nói : họ phải
là những người đã ở với Người, chứ không chỉ đơn giản là những
môn đệ. Dĩ nhiên, từ đầu đã có nhiều người đi theo Chúa Giê-su,
như có thể thấy được trong câu này : Một
trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su.
Ông nói tiếp : Trong
suốt thời gian Chúa Giê-su sống giữa chúng tôi, kể từ khi Người
được ông Gio-an làm phép rửa. Đúng thế, những gì đã xảy ra
trước đó, chẳng ai biết được, nhưng Thánh Thần đã dạy cho họ
biết.
Ông còn nói : Cho
đến ngày Chúa Giê-su lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải
có một người trở thành chứng nhân cùng với chúng tôi để làm
chứng Người đã phục sinh. Ông không nói : làm chứng về những
điều khác, nhưng : làm
chứng Người đã phục sinh mà thôi. Quả thật,
người đáng tin hơn là người có thể nói được : Đấng đã ăn, đã
uống và đã chịu đóng đinh vào thập giá, chính Đấng ấy đã sống
lại. Vậy, người ấy không cần phải là chứng nhân về quá khứ, về
tương lai hay về các dấu lạ, nhưng phải là chứng nhân về sự phục
sinh mà thôi. Quả thế, những điều kia đã rõ ràng và hiển nhiên ;
còn sự phục sinh thì đã xảy ra kín đáo và chỉ được tỏ ra cho các
vị này mà thôi.
Rồi mọi người cùng nhau cầu nguyện rằng : Lạy
Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người, xin chỉ cho thấy.
Chúa, chứ không phải chúng con. Họ kêu cầu Đấng thấu suốt lòng
mọi người là phải, vì việc chọn lựa phải do Đấng ấy thực hiện,
chứ không phải do những ai khác. Như thế, họ cầu xin với niềm
tin tưởng, vì nhất thiết phải chọn cho được một người. Họ không
nói : Xin Ngài chọn, nhưng xin
chỉ cho thấy Ngài chọn ai, vì họ biết rằng mọi sự đều do
Thiên Chúa ấn định trước. Rồi họ
rút thăm. Quả thế, lúc ấy họ chưa nghĩ mình xứng đáng tự làm
lấy việc lựa chọn, nên họ muốn được một dấu chỉ nào đó tỏ cho
biết.
Xin đọc
bài Giáo Lý của ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Matthia ở cái link
dưới đây:
Thứ Tư 18/10/2006 - Bài 22 về Tông Đồ Giuđa Ích Ca và
Tông Đồ Matthia
Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Mát-thi-a để bổ sung nhóm mười hai
Tông Đồ. Cúi xin Chúa nhậm lời người cầu thay nguyện giúp, mà
cho chúng con nay đang vui hưởng tình yêu của Chúa, thì mai sau
cũng được kể vào số những người Chúa chọn. Chúng con cầu xin
Ngày 14/5: Thánh Corona
Vâng, thật sự có vị Thánh Corona! Và hài cốt của Ngài đang ở miền Bắc
nước Ý.
Corona chỉ mới 16 tuổi, và Ngài đã hi sinh mạng sống mình để an ủi một
người công giáo.
Nằm ở giữa trung tâm của đại dịch virus Corona là thành phố Anzu, nước
Ý. Có một vương cung thánh đường ở Anzu nơi các thánh tích của thánh
Victor và thánh Corona đã được bảo tồn từ thế kỷ thứ 9. Từ Corona trong
tiếng Latinh có nghĩa là vương miện. Trớ trêu thay, thánh Corona được
xem là một trong những thánh bảo trợ của những cơn đại dịch.
Virus Corona đang hoành hành toàn cầu cũng được đặt tên là “vương miện”.
Các nhà kinh tế học giải thích:
Ít được các nhà khoa học và công chúng chú ý, mãi đến sự bùng nổ của
SARS (hội chứng hô hấp cấp tính nặng) bắt đầu ở Quảng Đông vào năm 2002,
chủng virus Corona lần đầu tiên được khoa học công nhận vào thập niên
những năm 1960. Chúng có tên như vậy, vì dưới kính hiển vi đầu tiên của
thời kỳ này, hình dạng của chúng gợi nhớ đến vương miện của vua chúa.
(Thực ra, những phương tiện hiện đại bây giờ lại cho thấy, chúng giống
như là một thứ mỏ hải quân lỗi thời.) Hiện có hơn 40 loài trong chủng
này, lây nhiễm cho một loạt những loài động vật có vú và chim, bao gồm
hoét đen, dơi và mèo. Các nhà virus học thú y biết chúng rất rõ bởi vì
những bệnh mà chúng gây ra ở lợn, gia súc và gia cầm.
Chúng ta biết rất ít về thánh Corona, nhưng Ngài và người mà Ngài đã cầu
nguyện cho, thánh Victor, được liệt kê trong sách tử đạo La Mã và tiểu
sử các Thánh của Giáo Hội. Ngày tháng và địa điểm xảy ra việc thánh
Victor và Corona tử đạo vẫn là một sự mơ hồ. Hầu hết các nguồn tin nói
rằng việc đó diễn ra ở Syria, nằm dưới sự cai trị của La Mã. Một số khác
lại nói ở Damascus, và những người khác nữa, thì nói ở Antioch. Hầu hết
đều đồng ý rằng họ bị kết án tử vào năm 170. Nhiều nhà sử học đồng ý họ
chết trong triều đại của Marcus Aurelius và đã bị xử tử theo lệnh của
một thẩm phán La Mã tên là Sebastian.
Câu chuyện (truyền thuyết) kể về việc một người lính La Mã tên là
Victor. Những người La Mã phát hiện ra rằng Victor là một người công
giáo. Những người lính đã đưa Victor ra trước thẩm phán, tên là
Sebastian, một người coi thường các Kitô hữu. Ông ta quyết định lấy
Victor làm ví dụ. Victor bị trói vào một cây cột và bị quất mạnh cho đến
khi da của anh ấy bị tróc và lơ lửng trên cơ thể của anh, sau đó
Sebastian đã móc mắt của Victor ra. Qua tất cả mọi việc, Victor vẫn
không bao giờ chối bỏ Chúa Kitô.
Ở gần đó là một cô gái 16 tuổi, tên Corona. Cô là vợ của một trong số
những người lính, và cô cũng là người công giáo. (Chồng của Corona không
biết cô là người công giáo.) Khi Victor đang bị tra tấn, Corona quyết
định sẽ giúp người đàn ông sắp chết này. Cô ấy quyết định công khai hóa
đức tin của mình trước những ai đang hiện diện, và chạy nhanh tới chỗ
người ta đang tra tấn Victor. Cô quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện cho anh
ấy, cho anh ấy biết rằng cô ở đó vì anh ta. Sau đó không lâu cô cũng bị
đưa đến trước mặt Sebastian.
Sebastian đã bị lừa dối rằng người phụ nữ trẻ ấy coi thường thẩm quyền
của ông ta. Ngay lập tức, ông bắt cô ấy vào tù và tra tấn. Sau đó, ông
ra lệnh trói cô ấy vào ngọn của hai cây cọ đã được kéo ghì xuống đất.
Theo lệnh của ông ta, sợi dây thừng giữ hai cây cọ bị uốn cong đó liền
bị cắt. Các cây mọc ngược ra xa nhau đến một vị trí thẳng đứng. Lực này
lớn đến nỗi cơ thể Corona bị xé toạc. Rồi Sebastian ra lệnh chặt đầu
Victor.
Hài cốt của các Ngài vẫn ở đó từ thế kỷ thứ 9.
Vào năm 1943 và sau đó là vào năm 1981, các Ngài đã được kiểm tra, và
xương thuộc về một nam và một nữ. Trong lần kiểm ra năm 1981, người ta
đã phát hiện ra phấn hoa tuyết tùng, một loại cây điển hình từ lưu vực
Địa Trung Hải trong thời gian mà họ nghi vấn. Các nhà khảo cổ học xác
nhận rằng phấn hoa này đã có ở Syria và Đảo Síp.
Thánh Victor và thánh Corona là các vị thánh tiền hội đồng, có nghĩa là
họ đã được công nhận nhận là các thánh trước khi các quy trình phong
thánh của Giáo Hội được chuẩn hóa. (Vị thánh đầu tiên được phong bởi một
vị Giáo Hoàng là Ulrich, giám mục ở Augsburg, qua đời vào năm 973. Ông
được Giáo Hoàng Gioan thứ XV phong thánh tại Hội đồng Lateran năm 993.
Nghi lễ tuyên thánh trở thành luật chung của Giáo Hội dưới thời Giáo
Hoàng Gregory IX (1227-1241).
Ngày kính nhớ thánh Corona, cùng với thánh Victor là ngày 14 tháng 5.
Chúng ta hãy cùng xin các Ngài cầu nguyện cho cơn đại dịch này lắng
xuống.
*********
Một số độc giả đã hỏi chúng tôi về việc thánh Corona trở thành thánh bảo
trợ chống lại các đại dịch. Điều này có thể được xác minh trong các
nguồn tiếng Đức khác nhau, vì khía cạnh đặc biệt này của Ngài phổ biến
nhất ở Áo và Bavaria.
Ngoài ra, tên của Ngài liên quan đến từ trong tiếng La tinh có nghĩa là
vương miện, chắc chắn đề cập đến việc tử đạo của Ngài, bởi vì Ngài nhận
được “vương miện tử đạo”. Chúng ta có thể nói, điều này tương tự như
thánh Veronica, được biết đến với việc lau mặt cho Chúa trên đường Ngài
vác thập giá. Veronica, theo nghĩa đen, có nghĩa là “hình ảnh thật”, một
sự tương đồng với sự việc hình ảnh khuôn mặt của Chúa để lại trên tấm
vải của thánh Veronica.
Thật tốt khi nhớ rằng các vị thánh thuộc về Giáo Hội hoàn vũ, và do đó,
vị bảo trợ này hay khác có thể thay đổi từ nước này sang nước khác. Ví
dụ như, ở một số quốc gia nói tiếng Anh, nếu bạn hỏi ai là người bảo trợ
cho những người yêu động vật, chắc chắn họ sẽ nói là thánh Phan-xi-cô.
Nhưng nếu bạn hỏi cùng câu hỏi đó ở Ý hay Tây Ban Nha, bạn sẽ nghe họ
trả lời là thánh An-tôn viện phụ (Anthony the Abbot).
Do đó, về thánh Corona, chúng ta có thể nói rằng Sự quan phòng của Chúa
thực sự đã ban Ngài cho chúng ta trong thời gian này, và chắc chắn rằng
Ngài và các vị Thánh khác, đang cầu nguyện cho thế giới chúng ta trong
tình huống thảm khốc này.
Tác giả: Larry
Peterson
Nguồn:[aleteia.org]
Chuyển ngữ: Têrêsa Kim Hạnh (GLV Giáo Xứ Tân Lộc)
Cầu xin
cùng Thánh nữ Corona trong cơn đại dịch corona
WGPSG / Catholic Exchange -- Những
tuần lễ vừa qua quả là khoảng thời gian thật khó khăn cho nhiều người khi
phải sống trong một tình huống mới do dịch bệnh covid-19 gây ra.
Trong khi virus corona đang đe dọa
bạn bè, gia đình và những người hàng xóm dễ bị tổn thương, thì cho dù bạn
chưa bị nhiễm bệnh, bạn cũng vẫn có thể cảm nhận được tác động khủng khiếp
của nó. Tình trạng khó khăn về vật chất và kinh tế hiện nay đang tác động
mạnh mẽ trên chúng ta từ mọi phía. Trong những khoảnh khắc như thế, những lo
lắng sẽ rất dễ làm suy kiệt niềm hy vọng của chúng ta.
Là một người tương đối phải lo lắng
với vô số những vấn đề về sức khỏe, trải nghiệm của tôi trong vài tuần qua
rất khó khăn. Thời gian cách ly này cũng là thời gian cầu nguyện mãnh liệt
đối với tôi. Tôi nằm trong số những người có nguy cơ cao mắc bệnh hen suyễn
và viêm phế quản mãn tính, cần hết sức đề phòng ngay cả trước khi thành phố
của chúng tôi ban hành lệnh ‘trú ẩn tại chỗ’. Nhưng tôi biết đây không phải
là lúc để thực sự cô lập và xa cách xã hội. Bây giờ là thời gian để yêu
người lân cận, sám hối và quan trọng nhất là cầu nguyện nhiều hơn trước
đây.
Kêu cầu cùng các Thánh
Các tín hữu Công giáo đã từng trải qua nhiều đại dịch trong suốt chiều dài
lịch sử Giáo hội. Trong những lúc như vậy, khi con người cảm thấy bị đè bẹp
vì bất lực, các tín hữu đã tìm thấy niềm hy vọng, sự trợ giúp và thậm chí là
phương thuốc thần kỳ nhờ sự can thiệp của các vị Thánh. Các ngài nhắc
nhở chúng ta rằng chúng ta không phải đối mặt với cuộc khủng hoảng này cách
đơn độc; chúng ta có Chúa và các Thánh của Ngài - những vị sẵn sàng chuyển
cầu cho những người khẩn cầu với các ngài.
Các ‘cột đài dịch hạch’ - trang trí
quảng trường của các thành phố lớn ở châu Âu - đứng sừng sững như muốn minh
chứng cho sức mạnh của lời cầu nguyện giữa cơn dịch bệnh đầy hoang mang.
Những tượng đài lớn này kể cho ta nghe câu chuyện về toàn bộ thành phố đã
được cứu khỏi dịch bệnh nhờ sức mạnh của Chúa Ba Ngôi và lời chuyển cầu của
các vị Thánh. Và trong thời điểm đầy hoang mang này, chúng ta cũng có thể
nài xin các Thánh chuyển cầu nhiều hơn cho chúng ta và cho tha nhân.
Trong khi Thánh Giuse là vị thánh mà
tôi chạy đến khẩn nài khi có bất cứ điều gì cần kêu xin, thì có một vị thánh
mà tôi mới biết gần đây, mà tên của ngài dường như nói lên một sự quan phòng
tuyệt vời: Thánh Corona.
Thánh Corona, cầu cho chúng con!
Không có nhiều thông tin về Thánh
Corona. Giống như ,Thánh Valentine và rất nhiều vị tử đạo đầu tiên, chỉ có
Chúa mới biết đầy đủ những việc làm và sự thánh thiện của vị Thánh nữ này.
Bộ sử các thánh thuở đầu cho chúng
ta biết rằng: Thánh Corona đã chứng kiến cuộc tử đạo của Thánh Victor, một
người lính vì đức tin mà bị các chiến hữu của mình mang ra xử tử. Trong lúc
Victor đang bị tra tấn đến biến dạng, thì cô bé 16 tuổi dũng cảm này đã lên
tiếng an ủi và khích lệ khi Victor đang cố giữ vững niềm tin và hy sinh mạng
sống vì Chúa. Những kẻ bắt bớ Victor đã lập tức quay về phía cô và xử tử cô
bằng cách kéo những cây cọ xuống rồi trói cô vào đó. Những cành cọ bung lên
đã xé toạc cô ra làm đôi, nhưng vị thánh trẻ đó không bao giờ từ bỏ đức tin
của mình.
Trong một thời gian - khi mà việc
rao giảng niềm tin, hy vọng và tình yêu có vẻ là điều điên rồ - Thánh Corona
đã là tấm gương gắn bó với Chúa Kitô ngay cả khi dường như đã mất hết mọi
sự. Khi virus corona tàn phá và khuấy động tất cả chúng ta, đấy chính là
lúc Thánh Corona giúp chúng ta nhớ đến đức tin của mình mà giữ vững niềm hy
vọng với bất cứ giá nào.
Tên corona,
tất nhiên chỉ có một nghĩa là vương
miện, và vì vậy tên này khiến ta liên tưởng đến sự trùng hợp. Trong
thời điểm hiện nay, khi nỗi lo corona xuất
hiện trong tâm trí chúng ta, chúng ta có một người nữ thánh thiện tên là Corona có
thể giúp chúng ta gánh vác những gánh nặng do virus
corona gây ra và xoa dịu tâm hồn chúng ta khi ta cần đến.
Chỉ còn vài tuần nữa là đến lễ Thánh
Corona, ngày 14-5. Trong những tuần này, khi các hoạt động của chúng ta bị
hạn chế, do thời gian cô lập và cách ly, chúng ta hãy tìm đến Thánh Corona
để học cách giữ vững niềm hy vọng và xin ngài chuyển cầu cùng Chúa chữa lành
và bảo vệ mọi người thoát khỏi dịch bệnh corona.
Kinh
cầu cùng Thánh Corona trong thời đại dịch
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã xuống
thế để cứu độ chúng con. Chúng con cầu xin Chúa thương nhìn đến chúng con và
tất cả những người đang phục vụ Chúa được giữ gìn an toàn khỏi dịch bệnh
này.
Xin chữa lành các bệnh nhân, an ủi
những ai đau khổ, đưa những người lạc lối trở về, và trên hết, xin gia tăng
đức tin của chúng con, Chúa ơi!
Xin ban cho chúng con ơn đi theo
Chúa để vác thập giá mình hằng ngày mà không sợ hãi hay do dự, như Thánh tử
đạo Corona đã sẵn sàng hy sinh mạng sống vì yêu Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống, xin thương xót chúng con và toàn thế giới.
Lạy Thánh Corona, Đấng bảo trợ các
nạn nhân dịch bệnh, xin cầu cho chúng con.
Chú
thích
Hầu hết các nhà sử học đồng ý rằng
Thánh Victor và Thánh Corona đã chết trong triều đại của Hoàng đế Marcus
Aurelius và bị xử tử theo lệnh của một thẩm phán La Mã tên là Sebastiano.
Thánh tích của Thánh Corona hiện
được bảo quản trong một Vương cung thánh đường ở thành phố Anzu của Ý. Thành
phố Anzu nằm ngay giữa trung tâm đại dịch corona hiện nay của nước Ý.
Nhờ lời cầu bầu của Thánh Corona và
Thánh Victor, đã có rất nhiều phép lạ xảy ra trong các thời dịch bệnh.
Michael J. Lichens (Catholic
Exchange) / Vi Hữu chuyển ngữ / Nguồn: WGPSG
https://tgpsaigon.net/bai-viet/cau-xin-cung-thanh-nu-corona-trong-con-dai-dich-corona-59976
Làng
mang tên Thánh Corona ở Áo phiền muộn vì trùng tên với virus corona
TTO - "Lúc đầu chúng tôi còn nói giỡn, nhưng giờ thì, xin lỗi, đùa hết
nổi", trưởng làng Saint Corona (Sankt Corona am Wechsel) nước Áo than
thở.
Ông
Michael Gruber, trưởng làng cho biết có thể họ sẽ phải suy nghĩ lại về
chiến dịch quảng bá du lịch ở đây sau khi dịch bệnh viêm đường hô hấp
cấp COVID-19 khiến làng Saint Corona bỗng nhiên được chú ý ngoài mong
muốn.
Cụ thể, linh vật (mascot) của chiến
dịch quảng bá này có tên là Corona, là một chú kiến mặc trang phục thể thao
truyền thống được in trên tờ rơi phát cho du khách. Hiện dân làng rất muốn
đổi tên cho linh vật này.
Ban đầu thì chúng tôi cười vì tên
virus giống tên làng mình, nhưng rồi không ai còn đùa được nữa vì dịch bệnh
trở nên nghiêm trọng hơn.
Theo AFP, du lịch sinh thái là nguồn
thu chính của làng Saint Corona, một nơi bình yên ở nước Áo với khoảng 400
cư dân, cách thủ đô Vienna 100km về phía nam, dưới chân núi Alps.
Theo AFP, làng nổi tiếng với các
hoạt động trượt máng mùa hè và đạp xe trên núi.
Áo đã ghi nhận 5.499 trường hợp
dương tính với virus corona chủng tới, 30 ca tử vong và 9 ca hồi phục.
Dân số của Áo vào khoảng 9 triệu
người. Đất nước châu Âu này đã áp dụng nhiều biện pháp nghiêm ngặt để hạn
chế sự di chuyển của người dân nhằm làm chậm sự lây lan của dịch bệnh.
https://dulich.tuoitre.vn/lang-mang-ten-thanh-corona-o-ao-phien-muon-vi-trung-ten-voi-virus-corona-20200325190431579.htm
Thứ Bảy sau Chúa
Nhật VI Phục Sinh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 18,
23-28
"Apollô trưng Thánh Kinh để minh
chứng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Sau khi ở lại Antiôkia ít lâu, Phaolô
ra đi, lần lượt ngài đi qua các vùng Galata và Phrygia, làm cho tất cả môn
đồ thêm vững mạnh.
Bấy giờ có một người Do-thái tên là
Apollô, quê ở Alexan-dria, rất lợi khẩu và thông biết Thánh Kinh, ông đến
Êphêxô. Ông đã học thông đạo Chúa; ông nhiệt tâm rao giảng và siêng năng dạy
những điều về Ðức Kitô, mặc dầu ông chỉ biết phép rửa của Gioan. Vì thế ông
bắt đầu hành động mạnh dạn trong hội đường. Khi Priscilla và Aquila nghe
ông, liền đón ông (về nhà) và trình bày cặn kẻ hơn cho ông biết đạo Chúa.
Ông muốn sang Akaia, thì các anh em khuyến khích ông và viết thơ cho các môn
đồ xin họ tiếp đón ông. Ðến nơi, ông đã giúp các tín hữu rất nhiều, vì ông
đã công khai phi bác những người Do-thái cách hùng hồn; ông trưng Thánh Kinh
để minh chứng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 46, 2-3.
8-9. 10
Ðáp: Thiên Chúa là
Vua khắp cõi trần gian (c. 8a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ
tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Ðấng Tối cao, khả uý,
Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian. - Ðáp.
2) Vì Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần
gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người, Thiên Chúa thống trị trên các nước,
Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người. - Ðáp.
3) Vua chúa của chư dân, đã nhập đoàn
với dân riêng Thiên Chúa của Abraham. Vì các vua chúa địa cầu thuộc quyền
Thiên Chúa: Người là Ðấng muôn phần cao cả! - Ðáp.
Alleluia: Ga 28, 19
và 20
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các
con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16,
23b-28
"Cha yêu mến các con, bởi vì các
con yêu mến và tin Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: điều gì các con sẽ nhân danh Thầy mà
xin Cha, thì Người sẽ ban cho các con. Cho đến bây giờ, các con chưa nhân
danh Thầy mà xin điều gì. Hãy xin thì sẽ được, để các con được niềm vui trọn
vẹn. Tất cả những điều đó, Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói với các con. Ðã đến
giờ Thầy sẽ không còn dùng dụ ngôn mà nói nữa, Thầy sẽ loan truyền rõ ràng
cho các con về Cha. Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không
bảo là chính Thầy sẽ xin Cha cho các con đâu. Chính Cha yêu mến các con, bởi
vì chúng con yêu mến Thầy và tin rằng Thầy bởi Thiên Chúa mà ra. Thầy bởi
Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng
Cha".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Sự
hiện diện thần linh của Chúa Kitô nơi thành phần môn đệ của Người sẽ lên tới
tột đỉnh khi mà họ được hiệp nhất nên một với Người như thể họ là chính Người. Ở
chỗ, như lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần VI Phục
Sinh đang tiếp tục chiều kích Hiện Diện Thần Linh theo chủ đề
"Thày là sự sống" trong Mùa Phục Sinh hậu Bát Nhật Phục Sinh, không phải họ
chỉ "nhân danh Thầy mà xin Cha", mà còn lấy chính tư
cách Chúa Kitô để xin Cha:
"Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy
không bảo là chính Thầy sẽ xin Cha cho các con đâu".
Tại
vì chính họ được Cha của Người yêu thương nhờ sự hiện diện thần linh của Người
nơi họ, tức là nhờ họ tin vào Người, tin rằng Người
"bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về
cùng Cha", chấp nhận
Người đúng với căn tính thần linh của Người, chứ
không tin Người chỉ là một con người thuần túy, và chỉ khư khư giữ chặt
lấy Người như Người là của họ, thuộc
về họ theo như ý của họ.
"Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Thật, Thầy bảo thật các con: điều gì
các con sẽ nhân danh Thầy mà xin Cha, thì Người sẽ ban cho các con. Cho đến bây
giờ, các con chưa nhân danh Thầy mà xin điều gì. Hãy xin thì sẽ được, để các con
được niềm vui trọn vẹn. Tất cả những điều đó, Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói với
các con. Ðã đến giờ Thầy sẽ không còn dùng dụ ngôn mà nói nữa, Thầy sẽ loan
truyền rõ ràng cho các con về Cha. Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và
Thầy không bảo là chính Thầy sẽ xin Cha cho các con đâu. Chính Cha yêu mến các
con, bởi vì chúng con yêu mến Thầy và tin rằng Thầy bởi Thiên Chúa mà ra. Thầy
bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng
Cha'".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, ở câu cuối, chúng ta chẳng những đọc thấy
những lời Chúa Kitô báo trước về biến cố thăng thiên về trời của Người:
"Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian
mà về cùng Cha", mà còn, ở câu đầu, đọc thấy một hiện diện
thần linh sâu xa, một hiệp thông thần linh trọn hảo giữa Chúa Kitô và Giáo
Hội nói chung và các môn đệ của Người nói riêng, ở chỗ:
"Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không bảo là chính Thầy
sẽ xin Cha cho các con đâu".
Ở trong bài Phúc Âm hôm qua, chúng ta đã thấy
được tột đỉnh của tình trạng hiệp thông thần linh
nơi các môn đệ Chúa Kitô, đó là được thông phần đau khổ với Người và như
Người, nhờ đó mới có thể làm chứng về Người và cho Người, nghĩa là mới có
thể sinh Người ra nơi các linh hồn, ở chỗ làm cho các linh hồn nhận biết
Người mà được sống, nhờ đó, những đau khổ của họ đã trở thành niềm vui cho
họ là thế, vì được chịu khổ vì Chúa Kitô và cho phần rồi các linh hồn, một
niềm vui thần linh tràn đầy bình an không thể nào có được trên thế gian này
nếu không xuất phát từ quyền lực phục sinh của Chúa Kitô.
Tột đỉnh của tình trạng hiệp thông thần linh trong bài Phúc Âm hôm nay cũng
thế, cũng trở nên một với Chúa Kitô, đến độ Người không cầu cho các môn đệ
của Người nữa mà chính các môn đệ của Người cầu cùng Cha của Người như Người
đã làm, và Cha của Người sẽ nghe họ như đã nghe Người. Tức là họ có thần thế
trước nhan Cha của Người, Đấng nhìn thấy Người nơi họ và chắc chắn sẽ đáp
ứng lời nguyện cầu của họ, và lời nguyện cầu của họ bấy giờ không phải của
họ nữa mà là của chính Chúa Kitô, Đấng chỉ mong phần rỗi cho nhân loại, và
chuyển cầu cho nhân loại được cứu rỗi, một lời chuyển cầu đẹp lòng Thiên
Chúa nhất, vì Ngài sai Con Ngài xuống trần gian (xem Gioan 3:16) và không
dung tha cho Con Ngài (xem Roma 8:32) chỉ có một mục đích duy nhất là cứu độ
nhân loại mà thôi.
Bài Đọc 1 (Tông
Vụ 18:23-28)
Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy Chúa Kitô hiện diện thần linh nơi một con
người đặc biệt tuy chưa chính thức thuộc về thành phần môn đệ của Người, đó là
Apollô, một con người chỉ mới biết phép rửa thống hối của Tiền hô Gioan,
nhưng đã tỏ ra "nhiệt tâm rao giảng
và siêng năng dạy những điều về Ðức Kitô... bắt đầu hành động mạnh dạn trong hội
đường".
"Bấy
giờ có một người Do-thái tên là Apollô, quê ở Alexan-dria, rất lợi khẩu và thông
biết Thánh Kinh, ông đến Êphêxô. Ông đã học thông đạo Chúa; ông nhiệt tâm rao
giảng và siêng năng dạy những điều về Ðức Kitô, mặc dầu ông chỉ biết phép rửa
của Gioan. Vì thế ông bắt đầu hành động mạnh dạn trong hội đường".
Vấn đề ở đây là với một con người như vậy, từ vô danh tiểu tốt tự nhiên được nổi
tiếng, thế mà nhờ sự hiện diện thần linh của Chúa Kitô trong thành phần môn đệ
của Người, nên các vị chẳng những không ghen tị và đố kị, như tông đồ Gioan xưa
kia tỏ ra đối với một người không thuộc về nhóm tông đồ đã nhân danh Thày mà trừ
quỉ (xem Marco 9:38; Luca 9:49), trái lại, còn giúp thêm cho nhân vật mới lạ này
nữa, để vị này càng nổi nang hơn, nghĩa là càng làm rạng danh Chúa Kitô hơn:
"Khi
Priscilla và Aquila nghe ông, liền đón ông (về nhà) và trình bày cặn kẻ hơn cho
ông biết đạo Chúa. Ông muốn sang Akaia, thì các anh em khuyến khích ông và viết
thơ cho các môn đồ xin họ tiếp đón ông. Ðến nơi, ông đã giúp các tín hữu rất
nhiều, vì ông đã công khai phi bác những người Do-thái cách hùng hồn; ông trưng
Thánh Kinh để minh chứng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô".
Lễ Thăng Thiên Năm
A-B-C (chỉ Phúc Âm)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 1,
1-11
"Trước sự chứng kiến của các ông,
Người lên trời".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất,
tôi đã tường thuật tất cả những điều Ðức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy,
cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã
tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã
tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra
với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và
trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem,
nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: "Như các con đã nghe
chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít
ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần".
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: "Lạy
Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?" Người bảo họ
rằng: "Ðâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn
định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần
ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại
Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái
đất". Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ
Người khuất mắt các ông.
Ðang khi các ông còn ngước mắt lên
trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần
các ông và nói rằng: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?
Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như
các ông đã thấy Người lên trời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 46, 2-3.
6-7. 8-9
Ðáp: Thiên Chúa
ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang (c. 6).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ
tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Ðấng Tối cao, khả uý,
Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian. - Ðáp.
2) Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng
bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa'
hãy ca mừng, ca mừng Vua ta! - Ðáp.
3) Vì Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần
gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người. Thiên Chúa thống trị trên các nước,
Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 1,
17-23
"Người đặt Ngài ngự bên hữu mình
trên trời".
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của
Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí
khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được
sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào
là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền
năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo
hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện
trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự
bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần,
dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn
đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn
thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Ðấng chu toàn mọi sự
trong mọi người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 28, 19
và 20
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các
con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 28,
16-20 (Năm A)
"Mọi quyền năng trên trời dưới đất
đã được ban cho Thầy".
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa,
đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người,
nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi
quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng
dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng
dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các
con mọi ngày cho đến tận thế".
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Mc 16,
15-20 (Năm B)
"Ðang khi Người chúc phúc cho các ông,
Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười
một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho
mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ
bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh
Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người
bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa
Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng
khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy
bằng những phép lạ kèm theo.
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Lc 24,
46-53 (Năm C)
"Ðang khi Người chúc phúc cho các ông,
Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ
cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha
tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự
việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở
lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống". Rồi
Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các
ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi
các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy
vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
Ðó là lời Chúa.
Thứ Năm Tuần VI Phục Sinh hay Chúa
Nhật Tuần VII Phục Sinh
Phụng Vụ Giờ Kinh
Lạy Vua Cả chí tôn hằng hữu
Chịu khổ hình để cứu muôn dân,
Dang tay đánh bại tử thần,
Đem về chiến thắng muôn phần vinh quang.
Ngài lên tận ngai vàng vĩnh cửu,
Cõi thiên đình bên hữu Chúa Cha,
Uy phong ngự chốn thiên toà,
Quyền năng Thánh Phụ trao qua tay Ngài.
Để từ đây muôn loài muôn vật,
Khắp mọi nơi trời đất âm ty,
Thảy đều tay chắp gối quỳ,
Một niềm suy phục trọn bề thần dân.
Thấy cảnh tượng, thiên thần run sợ :
Tội loài người, thân Chúa đền thay,
Rồi lên ngự chốn trời mây,
Phận hèn người thế đổi thay tuyệt vời.
Ngài là chính nguồn vui khôn sánh,
Thưởng công người xa lánh phù hoa.
Lạy Vua ngự chốn thiên toà,
Niềm vui thiên giới vượt xa thế trần.
Ngửa trông Chúa khoan nhân lượng thứ,
Rủ lòng thương xoá bỏ tội tình,
Nhờ ơn vũ lộ huyền linh,
Nghe lời Chúa gọi vươn mình bay cao.
Ngày chung thẩm khi nào chợt tới
Vinh quang Ngài chói lọi trời mây.
Xin tha hình phạt đoạ đày,
Vinh quang đã mất từ đây trả về.
Câu chúc tụng xin quỳ dâng Chúa
Vua cõi trời rực rỡ hồi loan,
Cùng Ngôi Thánh Phụ Thánh Thần
Ngàn đời hiển trị muôn phần quang vinh.
Đây ngày thánh muôn dân từng mong đợi
Đã bừng lên thật chói lọi huy hoàng :
Đức Ki-tô niềm tin của thế giới
Lên cõi trời ngợp vinh hiển cao sang.
Bên Thánh Phụ Người tỏ bày chi tiết
Cuộc giao tranh qua thập tự máu hồng.
Thủ lãnh thế gian chính Người tiêu diệt,
Thân thể Người đầy chiến tích oai phong.
Người ngự giá trên mây trời lộng lẫy,
Gieo niềm tin cho tín hữu chắc rằng :
Cửa thiên quốc, tội A-đam đóng lại,
Nhờ ơn Người, nay mở rộng thênh thang.
Ôi vĩ đại, niềm hân hoan khôn tả :
Này người con Trinh Nữ Ma-ri-a
Sau bao nỗi khổ hình, sau thập giá,
Được lên trời ngự bên hữu Chúa Cha.
Nào ta hãy cùng dâng lên Cứu Chúa
Muôn muôn lời cảm tạ với ca khen :
Người cất nhắc lên cõi trời muôn thuở
Xác phàm nhân, thân cát bụi yếu hèn.
Nguyện xin Chúa cho đoàn con chia sẻ
Nỗi vui mừng của chư thánh thiên cung,
Nơi Chúa ban cho các ngài phỉ chí,
Chúng con xin được đôi chút thoả lòng.
Hôm nay Chúa lên trời cao vời vợi,
Xin nâng lòng nhân thế mãi vươn cao,
Và gửi xuống Ngôi Thánh Thần an ủi
Như nguồn ơn hằng tuôn chảy dạt dào.
Quỳ lạy Chúa Giê-su Cứu Thế,
Khắp càn khôn yêu quý hết tình.
Ngài là Tạo Hoá uy linh,
Nhưng thời sau hết giáng sinh làm người.
Lòng nhân hậu cao vời đến nỗi
Chúa vui lòng gánh tội trần gian,
Lại cam chịu chết nhục nhằn
Cho đoàn con khỏi tử thần lôi đi.
Ngài phá vỡ âm ty ngục thất,
Kẻ tù đày, giải thoát đưa ra,
Khải hoàn cao ngự thiên toà,
Vinh quang bên hữu Chúa Cha muôn trùng.
Xin lượng cả bao dung tha thứ
Muôn lỗi lầm và rủ lòng thương,
Ngày nao tới cõi thiên đường
Chúng con được thấy tỏ tường Thánh Nhan.
Ngài là Đấng sẽ ban ân thưởng,
Xin giờ đây đổ xuống niềm vui,
Chờ mong vinh hiển đời đời
Cùng Ngài chung hưởng trên nơi thanh nhàn.
Dịp đại lễ Vượt Qua, Chúa sống lại đã là lý do vui mừng cho chúng ta
thế nào, thì Chúa lên trời cũng là đề tài hoan hỷ cho chúng ta hôm
nay như vậy. Chúng ta đang tưởng niệm và long trọng cử hành ngày bản
tính yếu hèn của chúng ta nơi Đức Ki-tô được đưa lên cao hơn các đạo
binh trên trời, hơn tất cả các phẩm thiên thần, hơn tất cả các quyền
thần, để cùng hiển trị với Chúa Cha. Nhờ các công trình Chúa xếp đặt
như vậy, chúng ta được xây dựng trên nền móng vững chắc, để, một khi
không còn thấy những điều lạ lùng kinh ngạc nữa mà đức tin vẫn không
suy giảm, đức cậy không lung lay, đức ái không lạnh nhạt, thì tình
thương của Thiên Chúa lại càng tỏ ra diệu kỳ.
Sức mạnh của những bậc thượng trí, ánh sáng của những tâm hồn tín
trung là đây : tin không do dự những gì mắt phàm không xem thấy, và
trông cậy không nao núng những gì tầm nhìn không tới được. Nhưng
lòng đạo đức này bởi đâu mà phát sinh, hoặc làm sao ai đó được nên
công chính nhờ đức tin, nếu ơn cứu độ chúng ta chỉ hệ tại những gì
mắt thấy ?
Vậy điều xưa kia thấy được nơi Đấng cứu chuộc chúng ta, nay đã
chuyển thành bí tích ; để đức tin nên tinh tuyền và vững chắc hơn,
thì lời giáo huấn đã thay cho giác quan, khiến tâm hồn các tín hữu
được ánh sáng Chúa chiếu soi, sẵn sàng vâng theo lời giáo huấn đầy
thẩm quyền đó. Nhờ được mầu nhiệm Chúa lên trời gia tăng và ân huệ
Chúa Thánh Thần củng cố, đức tin đó không khiếp sợ gông cùm, tù tội,
lưu đày, đói khát, lửa thiêu, hùm beo cắn xé hay những cực hình tinh
vi của những kẻ bách hại. Chính vì đức tin ấy mà khắp nơi trên hoàn
cầu không những đàn ông mà cả đàn bà, trẻ con non nớt cũng như thiếu
nữ liễu yếu đào tơ, đã chiến đấu đến đổ máu mình ra. Đức tin ấy đã
xua trừ ma quỷ, đẩy lui bệnh tật, làm cho kẻ chết sống lại.
Bởi đó, chính các thánh Tông Đồ trước kia, dù đã được bấy nhiêu phép
lạ củng cố và bao lời giáo huấn chỉ dạy mà vẫn khiếp sợ trước cuộc
Thương Khó dữ dằn của Chúa và do dự không chịu tin Chúa đã sống lại
thật, thì nay nhờ mầu nhiệm Chúa lên trời, các ông đã tiến bộ đến
nỗi tất cả những gì đã làm cho các ông khiếp sợ đều biến thành niềm
vui.
Vì không còn nhìn thấy thân xác của Người nữa, nên tâm trí nhạy bén
của các ông dễ nhìn ngắm Đấng, khi xuống trần không rời xa Chúa Cha
và khi lên trời cũng chẳng lìa bỏ các môn đệ. Vậy, anh em rất thân
mến, khi được đón nhận vào vinh quang rực rỡ của Chúa Cha thì Con
Người hiển hiện là Con Thiên Chúa cách tuyệt vời và thánh thiêng hơn
lúc nào hết. Và Đấng rời xa các môn đệ theo nhân tính lại bắt đầu
hiện diện cách khôn tả theo thần tính. Bấy giờ đức tin sáng suốt hơn
bao giờ hết bắt đầu hiểu được Chúa Con ngang hàng với Chúa Cha và
không cần phải đụng chạm tới phần xác thể nơi Đức Ki-tô là phần làm
cho Người thua kém Chúa Cha. Đành rằng bản tính của thân xác hiển
vinh của Chúa vẫn còn đó, nhưng các tín hữu được kêu mời lấy đức tin
tiếp xúc với Đấng là Con Một ngang hàng với Chúa Cha, đụng chạm tới
Người không phải bằng bàn tay, nhưng bằng tâm trí.
Đức Ki-tô đã được tôn vinh và đang lôi kéo mọi sự lên cùng
Người. Chúng ta cùng hoan hỷ tung hô :
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Lạy Chúa Giê-su, sau khi đã hiến thân làm của lễ hy sinh đền
tội chúng con, Chúa khải hoàn lên ngự bên hữu Chúa Cha, -
xin hoàn tất công trình thánh hoá tất cả loài người.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Chúa là Vị Thượng Tế đã hoàn thành Giao Ước Mới, và nay hằng
sống bên Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng con, - xin ban ơn
cứu độ cho dân Chúa đang tha thiết nguyện cầu.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Sau khi phục sinh khải hoàn, Chúa đã hiện ra cho các môn đệ
được thấy, - xin củng cố niềm tin của chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Chúa đã hứa ban Thánh Thần cho các Tông Đồ để các ngài đi
đến tận cùng trái đất làm chứng cho Chúa, - xin cũng ban
Thánh Thần, để chúng con trở nên chứng nhân can trường của
Chúa.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Đức Ki-tô đã lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, chúng ta hãy hoan
hỷ tung hô Người :
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Chúa đã lên trời, làm cho thân xác yếu hèn của chúng con được
vinh quang, - xin cho chúng con ngày ngày biết cởi bỏ con người
cũ, hầu trở nên người mới theo hình ảnh của Chúa.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Vì yêu thương, Chúa đã xuống trần gian ở giữa chúng con, - xin
cũng lấy tình thương ấy mà lôi kéo chúng con lên cùng Chúa.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Chúa đã hứa sẽ lôi kéo mọi người lên cùng Chúa, - xin đừng để
một ai trong chúng con phải lìa xa Chúa bao giờ.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Lạy Chúa, Chúa đã lên trời vinh hiển, - xin cho lòng trí chúng
con cũng luôn hướng về nơi Chúa ngự.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Chúa đã muốn rằng Chúa ở đâu thì các môn đệ cũng ở đó, - xin cho
anh chị em chúng con đã qua đời được theo Chúa vào cõi vinh
quang.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa là Vua vinh hiển.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết
hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên
trời vinh hiển ; là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng
con vào Nước Chúa, khiến chúng con là những chi thể của Người nắm
chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là
Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh
Thần đến muôn thuở muôn đời.
Lễ Thăng Thiên Năm
B
Bài Ðọc I: Cv 1,
1-11
"Trước sự chứng kiến của các ông,
Người lên trời".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất,
tôi đã tường thuật tất cả những điều Ðức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy,
cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã
tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã
tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra
với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và
trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem,
nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: "Như các con đã nghe
chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít
ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần".
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: "Lạy
Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?" Người bảo họ
rằng: "Ðâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn
định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần
ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại
Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái
đất". Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ
Người khuất mắt các ông.
Ðang khi các ông còn ngước mắt lên
trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần
các ông và nói rằng: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?
Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như
các ông đã thấy Người lên trời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 46, 2-3.
6-7. 8-9
Ðáp: Thiên Chúa ngự lên giữa
tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang (c. 6).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ
tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Ðấng Tối cao, khả uý,
Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian. - Ðáp.
2) Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng
bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa'
hãy ca mừng, ca mừng Vua ta! - Ðáp.
3) Vì Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần
gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người. Thiên Chúa thống trị trên các nước,
Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 1,
17-23
"Người đặt Ngài ngự bên hữu mình
trên trời".
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của
Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí
khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được
sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào
là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền
năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo
hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện
trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự
bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần,
dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn
đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn
thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Ðấng chu toàn mọi sự
trong mọi người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 28, 19
và 20
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các
con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 16,
15-20
"Ðang khi Người chúc phúc cho các ông,
Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười
một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho
mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ
bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh
Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người
bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa
Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng
khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy
bằng những phép lạ kèm theo.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa của Lễ Trọng Thăng Thiên này, bao gồm bài đọc 1 cho cả 3
chu kỳ A-B-C được trích từ 11 câu đầu tiên của Sách Tông Vụ: 1:1-11, và ba
bài Phúc Âm cho từng chu kỳ A, B và C được trích từ 3 3 Phúc Âm khác nhau,
Thánh Mathêu (những câu sau hết trong đoạn cuối cùng 28:16-20) cho Năm A,
Thánh Marco (cũng những câu sau hết trong đoạn cuối cùng 16:15-20) cho Năm
B, và Thánh Luca (cũng vậy, ở những cầu sau hết trong đoạn cuối cùng
24:46-53).
Nếu căn cứ vào ý nghĩa của biến cố Chúa Giêsu Thăng Thiên thì chỉ có Thánh
ký Luca, trong cả Sách Tông Vụ (bài đọc 1) và Phúc Âm (chu kỳ Năm C), là
diễn tả rõ ràng nhất, như sau:
"... 'Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con,
và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa
và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất'. Nói xong, Người được cất lên
trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông. Ðang khi
các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai
người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: 'Hỡi người Galilê, sao các
ông còn đứng nhìn lên trời? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ
đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời'". (Tông Vụ
1:8-11).
"'Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở
lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống' Sau
đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các
ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên
trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy
hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa" (Luca 24:49-53).
Căn
cứ vào những chi tiết được Thánh ký Luca thuật lại trong Sách Tông Vụ và
Phúc Âm của ngài trên đây thì biến cố Thăng Thiên xẩy ra, về địa điểm: ở
"gần Bêtania" (Luca 24:50), về hình thức và thể lý như sau: "đang
khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời" (Luca
24:51), bằng cách: "Người được cất lên trước mắt các ông, và
một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông" (Tông Vụ 1:9).
Như
thế, các tông đồ, cho dù không được tận mắt chứng kiến thấy giây phút Chúa
Giêsu sống lại từ trong cõi chết, cũng vẫn được đích thân thấy "trước
mắt các ông" Người Thăng Thiên về cùng Cha của Người là Đấng đã sai
Người, cho đến khi có "một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông".
"Đám
mây bao phủ Người" đây ám chỉ Thánh Thần, như đã xẩy ra ở biến cố biến
hình trên núi của Người nơi sự kiện "có tiếng phán ra từ đám
mây" (Mathêu 17:5; Marco 9:7; Luca 9:35). "Một đám mây bao phủ Người khuất
mắt các ông" phải chăng bao gồm mấy ý nghĩa sau đây:
1- Các tông đồ không còn được thấy Thày của mình bằng con mắt thể
lý nữa, vì Người đã về cùng Cha trong mối hiệp thông thần linh đời đời với
Cha trong Thánh Thần;
2- Sứ vụ trần thế của Người đã hoàn toàn thật sự hoàn tất sau 40
ngày Người sống lại, khoảng thời gian 40 ngày Người hiện diện một cách linh
thiêng giữa các vị để "nói với các vị về triều đại Thiên Chúa" (Tông Vụ
1:3);
3- Các vị cần phải tiếp tục sứ vụ của Người "cho đến tận cùng
trái đất" (Tông Vụ 1:8) bằng "quyền năng của Thánh Thần" (Tông Vụ
1:8; xem Luca 24:49) là Đấng Người sẽ từ Cha sai đến và cũng
là Đấng đến để làm chứng về Người với họ và qua họ (xem Gioan
15:26-27).
Thật ra, sau
khi tắt thở trên Thánh Giá, linh hồn của Chúa Kitô đã về cùng Cha của Người
ngay lúc ấy rồi, chứ không phải đợi cho tới khi Người Thăng Thiên. Và thật
ra, trước
khi "hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Người đã đời đời hiệp nhất
nên một với
Cha trong Thánh Thần rồi, chứ
không phải cho tới khi Người Thăng Thiên.
Thế nhưng,
từ đời đời Người chỉ hiệp nhất nên một với
Cha trong Thánh Thần về phương diện "đồng bản thể với Cha" (Kinh Tin Kính),
nhưng một khi "đã hóa thành nhục thể", bản tính nhân loại của Người chỉ đạt
tới tầm mức hoàn toàn hiệp thông thần linh với Cha hay hiệp nhất nên một với
Cha trong Thánh Thần khi Người Thăng Thiên mà thôi.
Nhờ Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp xẩy ra ngay sau lời "Xin Vâng" (Luca 1:38)
của Trinh Nữ Maria trong Biến Cố Truyền Tin, bản tính nhân loại của Lời Nhập
Thể đã được hiệp thông thần linh với bản tính Thiên Chúa của Người rồi,
tới độ, thân xác của Người đã trở thành bất tử và bất diệt, không thể nào
chết được, ngoại trừ Người tự bỏ sự sống (thể lý) của Người đi (xem Gioan
10:17-18) "để làm giá chuộc cho nhiều người" (Mathêu 20:28).
Tuy nhiên, tự bản chất là tạo vật hữu hạn và hữu hình, bản tính nhân loại
(nhân tính) của Lời Nhập Thể và nơi Lời Nhập Thể, theo tiến trình phát triển
tự nhiên, cũng cần phải từ từ tiến tới độ hiệp thông thần linh hoàn trọn
nhất, ở chỗ, bản tính Thiên Chúa của Người (Thiên Tính) càng ngày càng tỏ
hiện một cách hết cỡ, nhờ đó "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9),
nhất là nơi Biến Cố Vượt Qua của Người từ Tử Giá đến Phục Sinh.
Vấn đề ở đây là cái gì được sinh ra, cái gì chịu khổ giá, cái gì đã sống lại
và cái gì đã lên trời, nếu không phải chính yếu là thân xác của Lời Nhập Thể
nói riêng. Chính thân xác của Người, sau khi sống lại từ trong kẻ chết, đã
tràn đầy Thánh Thần đến độ có thể thông Thánh Thần sang cho các tông đồ từ
thân xác phục sinh của Người: "Đoạn Người thở hơi trên các vị mà nói:
'Các con hãy nhận lấy Thánh Linh'" (Gioan 20:22).
Thế nhưng, cho dù các tông đồ đã lãnh nhận Thánh Thần từ thân xác phục sinh
của Chúa Kitô Lời Nhập Thể như thế, các ngài, để có thể làm chứng cho Chúa
Kitô, có thể hiệp nhất nên một với Người,
"như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" (Gioan 17:21), trở
thành một Alter Christus - Chúa Kitô Khác, vẫn còn phải chờ đợi để
"được mặc lấy quyền lực từ trên cao" (Luca 24:49), "khi Thánh
Thần xuống trên các con" (Tông Vụ 1:8), Đấng được Người hứa (xem Tông
Vụ 1:4) "từ Cha sai đến" (Gioan 15:26) với các vị sau khi Người
Thăng Thiên về cùng Cha, ở thực tại thần linh hiệp thông với Cha trong Thánh
Thần bao gồm cả bản tính nhân loại của Người nữa.
Tóm lại, Mầu Nhiệm Thăng Thiên, về không gian, là biến cố Chúa Kitô đã hoàn
toàn chấm dứt sứ vụ trần gian của mình do đích thân Người thực hiện
theo đúng như ý Cha là Đấng đã sai Người, nhưng về thời gian, Người vẫn tiếp
tục sứ vụ cứu độ trần gian qua vai trò thừa tác của Giáo Hội
"cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8), một Giáo Hội
Người
"ở cùng cho đến tận thế" (Mathêu 28:20), bằng Thánh Thần là Đấng "bởi Đức
Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra" (Kinh Tin Kính Giáo Hội Công Giáo), Đấng đến để
truyền đạt cho các tông đồ và Giáo Hội tất cả những gì của Cha nơi Chúa Kitô
(xem Gioan 15:26), nhờ đó, "Con sống trong họ, Cha sống trong Con, để sự
hiệp nhất của họ được nên trọn.
Cho thế
gian nhận biết rằng Cha đã sai Con và Cha đã yêu thương họ như Cha đã yêu
mến Con" (Gioan 17:23).
Nếu Chúa Kitô phục sinh chiến thắng tội lỗi và sự chết thì Người thăng
thiên về trời "ngự bên hữu Thiên Chúa" có hai nghĩa: Người cai trị Vương
Quốc của Thiên Chúa đã qua Người được thiết lập trên trần gian, bao gồm cả
việc thống trị quyền lực hỏa ngục và báo hiệu Người sẽ trở lại để canh tân
đổi mới tất cả mọi sự; và ý nghĩa thứ hai đó là nhân tính của loài người nơi
Người đã đạt tới tột đỉnh hiệp thông thần linh, và nhân loại nhờ Người hay
nhớ nhân tính của Người mà được Thiên Chúa yêu thương hơn tất cả được tạo
vật, hơn cả các thần thiêng, loài có thể nói là ở bên trái Thiên Chúa, căn
cứ vào ý nghĩa của Bài Đọc II:
"Chúa đã làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình
trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và
quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau".
Ôi, con người cao cả biết là chừng nào trước nhan Thiên Chúa nơi Chúa Kitô
Nhập Thể và Thăng Thiên!