SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XIV Thường Niên Năm C và Năm Chẵn

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: Is 66, 10-14c

"Ðây Ta khiến sông bình an chảy vào nó".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Các ngươi hãy vui mừng với Giêrusalem, và hết thảy những ai yêu quý nó, hãy nhảy mừng vì nó. Hỡi các ngươi là những kẻ than khóc nó, hãy hân hoan vui mừng với nó, để các ngươi bú sữa no nê nơi vú an ủi của nó, để các ngươi sung sướng bú đầy sữa vinh quang của nó. Vì chưng Chúa phán thế này: "Ta sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con sông, và vinh quang chư dân tràn tới như thác lũ. Các ngươi sẽ được bú sữa, được ẵm vào lòng và được nâng niu trên đầu gối. Ta sẽ vỗ về các ngươi như người mẹ nâng niu con, và tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi. Các ngươi sẽ xem thấy, lòng các ngươi sẽ hân hoan, và các ngươi sẽ nẩy nở như hoa cỏ, và tôi tớ Chúa sẽ nhìn biết bàn tay của Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 65, 1-3a. 4-5. 6-7a. 16 và 20

Ðáp: Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa (c. 1).

Xướng: 1) Toàn thể đất nước hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người, hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa. - Ðáp.

2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta! - Ðáp.

3) Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa. Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời. - Ðáp.

4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao! Chúc tụng Chúa là Ðấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Gl 6, 14-18

"Tôi mang trong mình tôi những dấu thánh của Chúa Giêsu".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, phần tôi, ước gì tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian. Vì chưng trong Ðức Kitô, có cắt bì hay không cũng chẳng có giá trị gì, điều quan trọng là trở nên một tạo vật mới. Nguyện chúc bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó, và cho cả Israel của Thiên Chúa nữa. Từ nay trở đi, ước gì không ai làm phiền tôi nữa; vì tôi mang trong mình tôi dấu thánh của Chúa Giêsu.

Anh em thân mến, nguyện ân sủng của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng anh em! Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 10, 1-9 {hoặc Lc 1-12. 17-20}

"Sự bằng yên của các con sẽ đến trên người ấy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: 'Bình an cho nhà này'. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.

"Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: 'Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi'.

{"Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: 'Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần'. Ta bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".

Bảy mươi hai ông trở về rất vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rít, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".}

Ðó là lời Chúa.


Image result for Lc 10, 1-9

 

 

 

Suy Niệm

 

Một Giáo Hội dồi dào "sữa vinh quang"

 

 

Mùa Thường Niên được chia ra làm 2 phần rõ ràng: phần đầu sau Mùa Giáng Sinh, ngắn hơn (tối đa là 9 tuần lễ) và phần cuối sau Mùa Phục Sinh, dài hơn (hơn 20 tuần lễ, cho tới tuần 34). Bởi thế, Phụng Vụ Lời Chúa của Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh bao giờ cũng còn mang âm hưởng và chiều hướng Giáng Sinh, theo chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), Đấng tỏ mình ra cho dân Do Thái sau khi Người lãnh nhận Phép Rửa (9 tuần đầu này theo Phúc Âm Marco cho ngày thường trong tuần).

 

Còn Phụng Vụ Lời Chúa Hậu Phục Sinh, một mùa được kết thúc với Đại Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, và Lễ Thánh Thần Hiện Xuống này đồng thời cũng là thời điểm mở màn cho Mùa Thường Niên tiếp ngay sau Mùa Phục Sinh. Bởi thế, Phụng Vụ Lời Chúa cho Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh phải tiếp tục âm hưởng của Mùa Phục Sinh là mùa phụng vụ có chủ để "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25). Do đó Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh cần phải tiếp tục chiều kích sự sống.

 

Phải chăng chính vì thế mà ngay mấy tuần đầu của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, ngay cả Chúa Nhật Đại Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, là thời điểm được Giáo Hội cố ý dùng để cử hành các mầu nhiệm sự sống thần linh, thứ tự như sau: Đại Lễ Thánh Thần Hiện Xuống "là Đấng ban sự sống", sau đó tới Đại lễ Thiên Chúa Ba Ngôi là thực tại sự sống thần linh, rồi tới Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô là bí tích sự sống, và sau cùng tới Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống thần linh.

 

Sự sống thần linh này được thông ban cho chung nhân loại và cho riêng những ai tin tưởng nhận lãnh được xuất phát từ cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, một Chúa Kitô Tử Giá và Phục Sinh, một Chúa Kitô Thăng Thiên và từ Cha sai Thánh Thần xuống trên Giáo Hội, một Giáo Hội đã được Người thiết lập, trước hết và trên hết, để làm "ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14), phản chiếu Người chính "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), để "ai tin Tôi sẽ được ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12).

 

Giáo Hội thực sự đã nhận biết căn tính của mình và sứ vụ của mình, hơn bao giờ hết, qua Công Đồng Chung Vaticanô II từ thập niên 1960, một Công Đồng Chung thứ 21 của Giáo Hội đã nhận mình là "Ánh sáng muôn dân - lumen gentium", với sứ vụ chiếu soi để có thể mang "vui mừng và hy vọng - gaudium et spes" đến cho thế giới ngay nay. Đó là hai nhan đề của 2 văn kiện quan trọng nhất và chính yếu nhất của Công Đồng về Giáo Hội: một Hiến chế Tín lý về bản tính của Giáo Hội, và một Hiến chế Mục vụ về sứ vụ tông đồ của Giáo Hội.

 

Như thế, qua giòng lịch sử của mình, Giáo Hội càng ngày càng hiện thực hóa và ứng nghiệm hóa tất cả những gì Chúa Kitô Phúc Sinh trước khi Thăng Thiên nhắn nhủ các vị tông đồ: "Các con sẽ nhận được quyền lực từ trên cao, và các con sẽ là thành phần chứng nhân của Thày cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8). Giáo Hội lữ hành đang hành trình tiến về tận điểm của thời cánh chung khi Chúa Kitô lại đến trong vinh quang, bằng chứng từ của Giáo Hội "là ánh sáng thế gian" chiếu soi cho những "ai tin Tôi sẽ được ánh sáng sự sống"!

 

Đúng thế, chủ đề của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh đó là "ai tin Tôi sẽ được ánh sáng sự sống" qua chứng từ của Giáo Hội Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian". Và vì thế chúng ta mới thấy được ý nghĩa của Phụng Vụ Lời Chúa, nhất là cho các Chúa Nhật Thường Niên hậu Phục Sinh, trong thời điểm của mùa phụng vụ hậu Phục Sinh cho tới hết tuần lễ cuối cùng với lễ Lễ Chúa Kitô ở Chúa Nhật 34 Thường Niên. Điển hình nhất là phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật 14 Thường Niên của Năm C hôm nay.

 

Đúng thế, bài Phúc Âm hôm này của Thánh Luca thuật lại biến cố Chúa Kitô sai 72 môn đệ "đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới". Vẫn biết vào lúc ấy thì 72 môn đệ được sai đi trước Chúa Kitô là để dọn đường cho Người, nhờ đó dân chúng dễ nhận biết Người hơn khi Người đến với họ, nhưng sự kiện này mang một ý nghĩa đích thực và sâu xa đó là vai trò của thành phần chứng nhân dọc lịch sử của Giáo Hội loan báo Chúa Kitô bao giờ cũng là thành phần mang Chúa Kitô tới cho thế giới, nhờ đó họ có thể nhận biết Người.

 

Muốn đạt được mục đích dọn đường cho Chúa Kitô tới với chung thế giới và riêng những ai đang khao khát tìm kiếm chân thiện mỹ, thành phần chứng nhân của Chúa Kitô cần phải sống làm sao phản ảnh Đấng "cáo có hang, chim có tổ, Con Người không có chỗ dựa đầu", như Người đã đáp lời một trong 3 kẻ ngỏ ý muốn theo Người ở bài Phúc Âm Chúa Nhật XIII Năm C. Và đó là lý do trong bài Phúc Âm sai đi hôm nay, Người đã căn dặn 72 môn đệ rằng: "Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường".

 

Thái độ và tư cách chứng nhân của thành phần 72 môn đệ được Chúa Kitô sai đi rao giảng "Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi" là chính Chúa Kitô đây bao gồm cả 2 khía cạnh hay hai lãnh vực, cả về vật chất là "đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép", lẫn tình cảm tự nhiên là "đừng chào hỏi ai dọc đường", bởi vì, nếu "con cái thế gian khôn lanh hơn con cái sự sáng" (Luca 16:8), thì trong vấn đề giao tiếp trần gian các vị có thể sẽ dễ dàng trở thành "như con chiên ở giữa sói rừng".

 

Tuy nhiên, chính nhờ đời sống chứng nhân tự khắc khổ và chịu đau khổ gây ra bởi "sói rừng" như thế mà họ mới càng chứng thực họ là môn đệ chân chính của Chúa Kitô, được nên giống Thày minh hơn ai hết và hơn lúc nào hết, đến độ họ trở thành như một Alter Christus - một Chúa Kitô Khác, nhờ đó mọi người sẽ nhận biết Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian" chiếu tỏa qua họ, như vị tông đồ dân ngoại trong Bài Đọc 2 hôm nay: "Phần tôi, ước gì tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

 

Bài Đọc 1 hôm nay ám chỉ về thành phần chứng nhân trung thực và sống động của Chúa Kitô như một tông đồ Phaolô của Bài Đọc 2 hôm nay, thành phần đã mang lại cho Giáo Hội, được tiêu biểu nơi Giêrusalem xưa, những điều được Chúa tiên báo rằng: "Ta sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con sông, và vinh quang chư dân tràn tới như thác lũ. Các ngươi sẽ được bú sữa, được ẵm vào lòng và được nâng niu trên đầu gối. Ta sẽ vỗ về các ngươi như người mẹ nâng niu con, và tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi".

 

Bài Đọc 1 còn ám chỉ về chính bản thân của thành phần chứng nhân chân chính của Giáo Hội đã trải qua gian nan khốn khó vì Giáo Hội được coi là một tân Giêrusalem rằng: "Hỡi các ngươi là những kẻ than khóc nó, hãy hân hoan vui mừng với nó, để các ngươi bú sữa no nê nơi vú an ủi của nó, để các ngươi sung sướng bú đầy sữa vinh quang của nó". Chính vì, cũng theo Bài Đọc 1 hôm nay: "Các ngươi sẽ xem thấy, lòng các ngươi sẽ hân hoan, và các ngươi sẽ nẩy nở như hoa cỏ, và tôi tớ Chúa sẽ nhìn biết bàn tay của Chúa", mà Bài Đáp Ca hôm nay mới vang lên những tâm tình tràn đầy hoan hỉ và tri ân cảm tạ của "toàn thể đất nước", của những "ai tôn sợ Chúa" như sau:

 

1) Toàn thể đất nước hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người, hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa.

2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta!

3) Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa. Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời.

4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao! Chúc tụng Chúa là Ðấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi.

 

 

 


 

Ngày 3 tháng 7

THÁNH TÔ-MA, TÔNG ĐỒ

lễ kính

Thomas.jpg

Vào lúc Đức Giê-su chịu thương khó và phục sinh, khuôn mặt của thánh Tô-ma nổi bật. Trong bữa ăn tối, đáp lại thắc mắc của người, Đức Giê-su nói : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Khi nghe nói Đức Giê-su đã phục sinh, vị tông đồ này không tin ngay. Mãi tới lúc Đức Giê-su cho người thấy tay và cạnh sườn bị đâm thủng, người mới tuyên xưng : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28). Theo truyền khẩu thì thánh nhân đã đi loan báo Tin Mừng cho dân Ấn-độ. Từ thế kỷ IV, người ta mừng ngày rước hài cốt của người về Ê-đét-xa, tức là ngày 3 tháng 7.

Bài đọc 2

Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !

Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, về các sách Tin Mừng.

Một người trong nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Chỉ có người môn đệ này vắng mặt. Khi trở về, ông nghe thuật lại sự việc đã xảy ra nhưng không chịu tin những điều đã nghe. Chúa đến lần nữa và đưa cạnh sườn cho người môn đệ không tin chạm tay vào. Người đưa tay ra và, khi cho ông thấy các thương tích của Người, Người chữa lành vết thương cứng tin của ông. Anh em thân mến, trong chuyện này, anh em chú ý đến điều gì ? Lúc đầu, người môn đệ được chọn này vắng mặt, sau đó ông về và nghe kể lại, nghe rồi nghi ngờ, nghi ngờ rồi đưa tay chạm, chạm rồi tin, chẳng lẽ anh em cho tất cả chuyện này là tình cờ hay sao ?

Không, không phải tình cờ đâu, nhưng Thiên Chúa an bài cho xảy ra như thế. Thật vậy, Đấng từ bi cao cả đã hành động cách lạ lùng là cho người môn đệ hoài nghi đó chữa lành vết thương cứng tin nơi chúng ta khi ông chạm tay vào thương tích trên thân thể của Thầy mình. Đàng khác, đối với đức tin của chúng ta, sự cứng tin của ông Tô-ma còn hữu ích hơn đức tin của những môn đệ khác là những người đã tin. Vì ông đã chạm tay vào Chúa và đã tin, nên tâm trí chúng ta không còn hoài nghi nữa và được một đức tin vững mạnh. Thật vậy, người môn đệ nghi ngờ và được chạm tay vào Chúa đã trở thành người làm chứng Chúa đã sống lại thật.

Ông đã được chạm tay vào Chúa và đã kêu lên : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con. Đức Giê-su bảo : Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Thánh tông đồ Phao-lô lại nói : Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Vì thế, chắc chắn đức tin là bằng chứng của những điều không thể thấy đó. Thật vậy, những gì đã thấy thì không cần phải tin, nhưng phải nhìn nhận. Thế tại sao khi ông Tô-ma thấy và được chạm tay vào Chúa, Chúa lại bảo ông rằng : Vì đã thấy Thầy, nên anh tin ? Nhưng điều ông thấy là một chuyện, điều ông tin lại là chuyện khác. Người phàm phải chết không thể nhìn thấy Thiên Chúa được. Thế mà ông thấy một con người và ông tuyên xưng Thiên Chúa : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con ! Nhờ đã thấy nên ông đã tin : khi nhìn xem một con người thật, ông đã gọi người ấy là Thiên Chúa, Đấng ông không thể thấy được.

Lời tiếp theo còn làm cho chúng ta vui hơn : Phúc thay những người không thấy mà tin. Chắc chắn lời này đặc biệt nhắm đến chúng ta, vì chúng ta không thấy Chúa bằng giác quan nhưng lại gắn bó với Người bằng tâm trí. Câu ấy nhắm đến chúng ta, nhưng với điều kiện là chúng ta phải thể hiện đức tin bằng hành động. Vì chưng ai thực hành điều mình tin mới là người tin thật sự. Còn những ai chỉ tin ngoài môi ngoài miệng, thì thánh Phao-lô nói về họ rằng : Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa, nhưng trong hành động họ lại chối Người. Thánh Gia-cô-bê cũng nói : Đức tin không có hành động là đức tin chết.

 

Lạy Thiên Chúa toàn năng, hôm nay chúng con hoan hỷ mừng lễ thánh Tô-ma tông đồ. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22

"Anh em được xây dựng trên nền tảng các tông đồ".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, anh em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Ðức Giêsu Kitô làm Ðá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2

Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).

Xướng: 1) Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa! Hỡi ngàn dân, hãy ca tụng Người. - Ðáp.

2) Vì lòng từ bi Người vững bền trên chúng ta, và lòng trung kiên Người tồn tại đến muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 20, 29

Alleluia, alleluia! - Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 20, 24-29

"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđy-mô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".

Ðó là lời Chúa.

 

Thánh Thomas (Tôma) Tông Đồ hay cũng còn được gọi là là Đi-đy-mô, xuất thân từ một gia đình nghèo túng tại Galilea, Do-thái. Tuy nhiên, không ai biết về ngày tháng năm sinh của Ngài, cũng không ai biết Ngài đã sinh ra tại địa điểm cụ thể nào ở Galilea. Theo tương truyền,

 

Ngài đã đến Mailapur, một khu vực thuộc thánh phố Madras của Ấn-độ ngày nay, và đã chết tại đó vào năm 72 sau Chúa Ki-tô với tư cách là một vị Tử Đạo. Ngài là một trong nhóm 12 Tông Đồ, tức những môn đệ thân tín nhất của Chúa Giê-su, đã đồng hành với Chúa Giê-su suốt ba năm trường với tư cách là những người bạn và những môn sinh (xc. Ga 15,15). Tên của Ngài được đặt theo tiếng Aram: ta'am (Thomas), có nghĩa là „một cặp“ hay „người được sinh đôi“. Vì thế, trong Kinh Thánh, Thomas cũng được gọi là Didymos, vì từ Thomas được dịch sang tiếng Hy-lạp là δίδυμος (didymos). Theo truyền thống Syria, Thánh Nhân cũng còn được gọi là Judas Thomas, vì tại đó, Thomas được hiểu là tên đệm, hay tục danh.


Trong các Giáo hội Công giáo, Chính thống giáo và Anh giáo, Thánh Thomas được tôn kính với tư cách là vị Thánh Tông Đồ Tử Đạo. Trong các Giáo hội Tin Lành cũng có ngày tưởng nhớ tới Ngài.


1.Hình ảnh của Thánh Thomas trong Kinh Thánh:


Thánh Thomas được cả bốn Tin Mừng nhắc tới trong bảng danh sách các Tông Đồ. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, tức ba cuốn Tin Mừng đầu tiên, Ngài đứng bên cạnh Thánh Mát-thêu - viên quan ngành thuế (Mt 10,3; Mc 3,18; Lc 6,15). Trong sách Công Vụ Tông Đồ, người ta thấy Ngài đứng bên cạnh Tông Đồ Philiphê (Cv 1,13). Tin Mừng theo Thánh Gio-an đã cung cấp một số chi tiết đặc biệt về Thánh Nhân, mà những chi tiết đó đã mô tả một cách rõ nét về những tính cách nơi con người Ngài.


a.Thomas là người đa nghi:


Trước tiên, con đường dẫn tới việc tuyên xưng Đức Tin vào Con Thiên Chúa được trình bày nơi Thánh Thomas, dựa trên nền tảng căn bản phát xuất từ mối tương quan cá nhân của Ngài với Chúa Giê-su. Tin Mừng theo Thánh Gio-an (xc. Ga 20,19-29) đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn như thế:


Vào chiều ngày ấy, tức ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."


„Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"


Sở dĩ Thánh Thomas bị gọi là người „đa nghi“ là vì, như được trình bày trong đoạn văn Kinh Thánh nêu trên, trước khi tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giê-su Phục Sinh thì Ngài đã nghi ngờ về sự phục sinh của Chúa, cho tới khi chính Ngài tận mắt thấy được những vết đanh trên người của Đấng Phục Sinh.


b.„Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống“:


Một chi tiết tiếp theo về Thánh Thomas được ghi lại trong trình thuật về Bữa Tiệc Ly (xc. Ga 14,4). Trong Bữa Tiệc này, sau khi loan báo về cái chết đang đến gần của Ngài, Chúa Giê-su đã nói rằng, Ngài sẽ đi để dọn chỗ cho các Môn Đệ, để Ngài ở đâu thì các ông cũng sẽ được ở đó với Ngài; và Ngài đã giải thích cho các ông rằng: „Thầy đi đâu thì anh em cũng đã biết đường đến đó rồi“ (Ga 14,4). Nhưng Thánh Thomas đã xen vào và nói: „Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?“ (Ga 14,5). Câu hỏi của Thánh Nhân đã tạo điệu kiện cho Chúa Giê-su tuyên bố một lời rất nổi tiếng: „Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống“ (Ga 14,6).


c.“Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!:


Thánh Thomas lại xuất hiện một lần nữa trong Tin Mừng trước khi Chúa Giê-su làm cho La-gia-rô phục sinh. Trong một khoảnh khắc đầy nguy ngập đối với cuộc sống của Ngài, Chúa Giê-su đã quyết định đi tới Bê-ta-ni-a để làm cho La-gia-rô được sống lại, và như thế, Ngài đã lên đường trong sự nguy hiểm, vì Bê-ta-ni-a nằm rất gần Giê-ru-sa-lem, nơi các thủ lãnh của dân đã quyết định làm mọi cách để khử trừ Chúa Giê-su (xc. Ga 10,22-39), do đó, chỉ cần nói tới đi đến Giê-ru-sa-lem thôi thì tất cả các môn đệ của Chúa Giê-su lẫn những người đi theo Ngài đều cảm thấy kinh hoàng và sợ hãi (xc. Mc 10,32). Trước sự quyết tâm của Chúa Giê-su và trước nỗi do dự của các Tông Đồ khác, Thánh Thomas đã nói với họ: „Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!


2.Thánh Thomas đã nghi ngờ về cuộc Thăng Thiên của Đức Maria:


Theo tương truyền, Thánh Thomas cũng là một Tông Đồ duy nhất đã không có mặt trong cuộc Thăng Thiên của Đức Maria. Khi được các Tông Đồ khác thuật lại cho biết sự kiện vừa nêu, Ngài cũng đã tỏ ra nghi ngờ giống như Ngài đã từng nghi ngờ về cuộc Phục Sinh của Chúa Giê-su. Vì thế Đức Mẹ đã hiện ra với kẻ đa nghi này và trao cho Ngài dây thắt lưng của Mẹ như là bằng chứng về việc cả hồn lẫn xác của Mẹ đều đã được nghinh đón trên Thiên Đàng. Do đó, trong nền kiến trúc Barock, hình ảnh Đức Maria cầm dây thắt lưng chính là một Mô-típ rất được yêu chuộng và phổ biến trong nghệ thuật Ki-tô giáo.


3.Những tương truyền về hoạt động tông đồ của Thánh Thomas:


Cuốn Didache, tức cuốn Giáo Lý của các Thánh Tông Đồ - một trong những tác phẩm Ki-tô giáo cố nhất ngoài 27 cuốn sách của Tân Ước – xuất hiện vào khoảng năm 100 sau Chúa Ki-tô, chứa đựng những bằng chứng cổ nhất bằng văn bản về hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại Ấn-độ. Theo cuốn sách này, Ngài đã thành lập Giáo hội tại Ấn-độ và tại những khu vực lân cận.


Khoảng một trăm năm sau, những tài liệu được gọi là những văn kiện về Thánh Thomas mới xuất hiện. Những tác phẩm này đã tường thuật lại một cách khá giống nhau về những công việc của Thánh Thomas, nhưng được thêu dệt thêm bởi rất nhiều những tình tiết giầu tính tưởng tượng, và có vẻ như bị ảnh hưởng nhiều bởi ngộ đạo thuyết.


Giáo phụ Ô-ri-gen cho biết rằng, trước tiên Thánh Thomas đã đến loan báo Tin Mừng tại Irak và Iran. Sau đó Ngài mới đến miền Nam Ấn-độ để hoạt động Tông Đồ, và vì những hoạt động truyền giáo của mình, nên Ngài đã bị giết tại Mailapur – một khu vực thuộc miền Nam Ấn-độ - vào năm 70 của thế kỷ thứ nhất. Người ta vẫn còn giữ được nhiều văn bản nói về những hoạt động của Thánh Thomas tại Ấn-độ, nhưng những văn bản đó xuất hiện sau thời Ô-ri-gen. Trong đó có những bản văn của Thánh Hieronymô (347-420), và của những người sống cùng thời với Ngài là Thánh Gaudentiô thành Brescia và Thánh Paulinô thành Nola (354-431).


Thánh Grêgôriô thành Tours (538-594) đã không chỉ cho chúng ta biết rằng, Thánh Thomas Tông Đồ đã hoạt động và chết tại Ấn-độ, nhưng còn cho biết thêm là, Ngài đã được mai táng tại đó trong một thời gian dài, và sau đó, các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển tới Edessa, nhưng nơi có ngôi mộ nguyên thủy của Ngài vẫn còn được tiếp tục tôn kính tại Ấn-độ. Thánh Isidor thành Sevilla (560-636) cũng nói tương tự như thế về Thánh Thomas, và cũng nói về cách thức lãnh nhận ơn Tử Đạo của Ngài tại Ấn-độ.


Một truyền thống khác phát sinh tại Nam Ấn-độ, và có nguồn gốc từ thời các Thánh Tông Đồ, và luôn tồn tại từ đó tới nay, đã cho biết về những hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại đó, và cho biết rằng, Ngài đã thành lập 7 giáo đoàn đầu tiên tại vùng duyên hải Malabar, cũng như cho biết về cuộc Tử Đạo của Ngài tại Mailapur nằm đối diện với vùng duyên hải Coromandel. Ngay cả truyền thống có tính địa phương của Ấn-độ về Thánh Thomas cũng xác nhận về việc các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển một phần lớn về Edessa, mà tại đây, trong các cuộc khai quật sau sau này, người ta đã phát hiện ra một ít Thánh Tích vẫn còn sót lại của Ngài.


Ibas Edessa đã cho xây dựng một ngôi Thánh Đường tại quê hương của ông để tôn kính các Thánh Tích của Thánh Thomas. Còn hộp sọ được cho là của Thánh Thomas thì hiện tại đang được bảo quản trong Nhà Thờ Chính Tòa Sioni tại Tiflis, Giorgia, và được tôn kính tại đó bởi Giáo hội Tông Truyền Chính thống Giorgia như là Thánh Tích. Trong cuộc Thập Tự Chinh vào năm 1258, phần lớn Thánh Tích của Thánh Thomas đều được chuyển từ Edessa về Ortona, Ý, và những Thánh Tích đó vẫn đang được bảo quản tại đó cho tới tận ngày nay, trong một hòm đựng Thánh Tích đặt trong Nhà Nguyện nằm bên dưới Vương Cung Thánh Đường Ortona. Ngôi mộ nguyên thủy của Thánh Thoams tại Ấn-độ hiện đang là một điểm hành hương có sức lôi cuốn rất mạnh. Ngoài Vương Cung Thánh Đường kính Thánh Thomas được xây dựng ngay trên ngôi mộ trước đây của Ngài tại Mylapore, thuộc thành phố Chennai, thì tại khu vực phía Nam Ấn-độ cũng còn vô số những điểm hành hương khác, mà những điểm hành hương này đều có liên quan đến Thánh Thomas cũng như liên quan tới những hoạt động truyền giáo của Ngài tại đó. Sau đây là một số địa điểm nổi tiếng nhất:


1.Thánh Đường kính Thánh Thomas trên núi Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Ngài đã Tử Đạo tại đó;


2.Thánh Đường kính Thánh Thomas nằm trên một ngọn núi nhỏ khác tại Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Thánh Thomas đã đến ẩn náu tại đó trước khi chịu Tử Đạo;


3.Núi và Thánh Đường Malayattoor tại Kerala: đây là nơi được cho là Thánh Thomas đã đến sống ẩn dật tại đó trong một thời gian dài để cầu nguyện và suy niệm;


4.Thánh Đường Codungallur: theo tương truyền, nơi đây đã từng là một thành phố cảng nổi tiếng, và vào năm 52, Thánh Thomas đã cập bến tại đây, và là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy do Thánh Thomas thành lập. Một cánh tay của Thánh Nhân đang được tôn kính tại đây. Cánh tay này đã được chuyển đến từ Ortona, nước Ý, như là một món quà của Đức Pi-ô XII nhân dịp mừng kỷ niệm 1900 năm Ngày thánh Thomas đặt chân tới Ấn-độ.


5.Thánh Đường Palayur: đây là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy tại vùng duyên hải Malabar, và nguyên là một đền thờ của người Ấn giáo. Sau khi hầu hết các Giáo sĩ Bà-la-môn gia nhập Giáo hội Công giáo, Thánh Thomas đã biến ngôi đền này thành một ngôi Thánh Đường.


Theo một số truyền thống khác, mà những truyền thống này có lẽ có nguồn gốc từ ngộ đạo thuyết và từ phái Manichê, Thánh Thomas được coi là người anh em song sinh của Chúa Giê-su.


Thánh Thomas còn bị gán là tác giả của một cuốn Tin Mừng và của nhiều tác phẩm khác. Nhưng tất cả các tác phẩm này đều bị liệt vào số các sách Ngụy Thư.


4.Việc tôn kính Thánh Thomas:


Tại Châu Âu, ngoài việc được tôn kính với tư cách là Thánh Tông Đồ Tử Đạo, Thánh Thomas còn được tôn kính với tư cách là vị Bổn Mạng của những người làm nghề thợ nề và thợ mộc. Bên cạnh đó, Ngài còn được tôn kính là Bổn Mạng của các Thần Học Gia.


Trước đây Giáo hội mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12, nhưng từ năm 1969, với cuộc cải tổ Phụng Vụ, Giáo hội đã mừng kính Ngài vào ngày mồng 03 tháng 07 với bậc Lễ Kính, tức Lễ Bậc II. Ngày mồng 03 tháng 07 được coi là ngày di chuyển các Thánh Tích của Thánh nhân từ nơi Ngài được phúc Tử Đạo, tức từ Kalamina về Edessa hồi thế kỷ thứ III.


Giáo hội Chính Thống giáo mừng kính Thánh Thomas vào ngày mồng 06 tháng 10.


Còn các Giáo hội Tin Lành thì vẫn tiếp tục mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.


Và Giáo hội Anh giáo cũng mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.

 

Lm Đa-minh Thiệu O.Cist

http://conggiao.info/thanh-toma-tong-do-d-41872

 

Thứ Tư  27/9/2006 - Bài 19: Tông Đồ Tôma (ĐTC Biển Đức XVI)

 

 

 

Thứ Hai

Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 2, 14. 15-16. 19-20

"Ta sẽ đính hôn với ngươi đến muôn đời".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Ðây Chúa phán: "Này đây Ta sẽ dụ dỗ nó, đem nó vào sa mạc, và kề lòng, Ta nói khó với nó. Ở đó nó sẽ vọng lại như ngày còn thơ, và như ngày nó lên từ đất Ai-cập. Sẽ xảy ra là trong ngày ấy, sấm của Giavê, nó sẽ gọi Ta: 'Chồng tôi', chứ nó sẽ không gọi Ta là 'Ông chủ tôi' nữa".

"Ta sẽ đính hôn với ngươi đến muôn đời. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong công bình và chính trực, trong tình yêu và thương xót. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong sự trung tín và ngươi sẽ biết Ta là Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Chúa nhân ái và từ bi (c. 8a).

Xướng: 1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.

2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

3) Người ta nói tới quyền năng trong những việc đáng sợ, và kể ra sự vĩ đại của Ngài. Người ta lớn tiếng khen ngợi lòng nhân hậu bao la, và hân hoan vì đức công minh của Chúa. - Ðáp.

4) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 14cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 18-26

"Con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến, nó sẽ sống lại".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đang nói, thì có một vị kỳ mục kia đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại". Chúa Giêsu chỗi dậy, và cùng với các môn đệ, đi theo ông ấy. Và này có người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm, tiến lại đàng sau Người và chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi. Chúa Giêsu ngoảnh lại, trông thấy bà ta, liền phán rằng: "Này con, hãy vững lòng. Ðức tin của con đã cứu thoát con". Và người đàn bà được khỏi bệnh.

Khi Chúa Giêsu đến nhà vị kỳ mục, và thấy những người thổi kèn và đám đông đang xôn xao, thì bảo rằng: "Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi". Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy. Tin này đồn đi khắp cả miền ấy.

Ðó là lời Chúa.


Image result for Mt 9, 18-26

sự sống thần linh lứa đôi


Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Mathêu thuật lại một sự kiện giống như Thánh ký Marcô đã thuật lại trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm B tuần trước. Tuy nhiên, Thánh ký Mathêu thuật lại có vẻ ngắn gọn hơn, ít chi tiết hơn Thánh ký Marco, bao gồm một số chi tiết khác hẳn nhau:


Hai chi tiết hoàn toàn khác nhau, thậm chí nghịch nhau như sau: Chi tiết thứ nhất đó là người đến xin Chúa cứu đứa con gái của mình là "một vị kỳ mục" chứ không phải là một "trưởng hội đường" như Thánh Marco cho biết, và chi tiết thứ hai đó là "con gái tôi vừa mới chết" chứ không phải "đang hấp hối" như trong Phúc Âm Thánh ký Marco.


Ngoài ra, còn hai chi tiết khác cả hai bài Phúc Âm đều giống nhau, đó là chi tiết về người đàn bà loạn huyết 12 năm được Chúa Giêsu chữa lành nhờ bà có lòng tin: "Này con, hãy vững lòng. Đức tin của con đã cứu thoát con", và chi tiết về người con gái vừa qua đời được Người đến cải tử hoàn sinh cho: "'Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi'. Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy"


Về hai chi tiết hoàn toàn khác nhau, thậm chí nghịch nhau giữa bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay và bài Phúc Âm của Thánh ký Marco hôm Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm B tuần trước, chúng ta có thể đặt vấn đề tại sao, nhưng cả hai chỉ là những chi tiết phụ thuộc không đáng lưu ý bằng những gì chính yếu hơn, đó là việc Chúa Giêsu tỏ mình ra qua cái chết của người con gái này nơi cả 2 bài Phúc Âm (cho dù là hấp hối hay vừa chết), chẳng những cho cha mẹ của em (cho dù người bố của em là trưởng hội đường hay kỳ mục) mà còn cho cả dân chúng bấy giờ nữa. 


 

Cả việc chữa lành cho người đàn bà loạn huyết 12 năm lẫn việc cải tử hoàn sinh cho người con gái của gia chủ thân phụ xin Chúa Giêsu cứu giúp, đều được Chúa Giêsu thực hiện bằng những thứ tiếp xúc khác nhau với thân xác của Người: Trước hết, người đàn bà loạn huyết 12 năm được chữa lành nhờ "chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi", còn người con gái được cải tử hoàn sinh nhờ "Người vào cầm tay đứa bé". 


Có nghĩa là quyền năng chữa lành bệnh nạn tật nguyền và cải từ hoàn sinh của Chúa Giêsu là những gì xuất phát từ thân xác của Người, thậm chí từ cả "gấu áo" Người mặc, hay nói cách khác, thân xác của Người và những gì liên hệ tới Người đều có thể trở thành phương tiện cứu độ con người. Sự kiện đụng chạm giữa con người với Chúa Giêsu, như trường hợp người đàn bà loạn huyết còn sống, hay sự kiện Chúa Giêsu chạm đến con người, như trường hợp bé gái đã chết, đều cho thấy một mối liên hệ thân tình giữa Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả với con người trần gian, nơi Con của Ngài là Lời đã hóa thành nhục thể để có thể chẳng những ở với con người mà còn nên một với con người, thanh một lứa đôi như thể bất khả phân ly với con người. Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Hosêa, Thiên Chúa đã cho thấy Ngài một vị Thiên Chúa gắn bó với con người trần gian biết là chừng này:

 

 

"Này đây Ta sẽ dụ dỗ nó, đem nó vào sa mạc, và kề lòng, Ta nói khó với nó. Ở đó nó sẽ vọng lại như ngày còn thơ, và như ngày nó lên từ đất Ai-cập. Sẽ xảy ra là trong ngày ấy, sấm của Giavê, nó sẽ gọi Ta: 'Chồng tôi', chứ nó sẽ không gọi Ta là 'Ông chủ tôi' nữa. Ta sẽ đính hôn với ngươi đến muôn đời. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong công bình và chính trực, trong tình yêu và thương xót. Ta sẽ đính hôn với ngươi trong sự trung tín và ngươi sẽ biết Ta là Chúa".

 

Đó là lý do, Bài Đáp Ca hôm nay mới vang lên những tâm tình ngợi khen chúc tụng lòng thương xót Chúa đối với thân phận vô cùng thấp hèn của loài tạo vật của Ngài

 

 

1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.

2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa.

3) Người ta nói tới quyền năng trong những việc đáng sợ, và kể ra sự vĩ đại của Ngài. Người ta lớn tiếng khen ngợi lòng nhân hậu bao la, và hân hoan vì đức công minh của Chúa.

4) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.




Thứ Ba


 

Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 8, 4-7. 11-13

"Chúng gieo gió thì sẽ gặt bão".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Ðây Chúa phán: "Chúng cai trị chớ không phải Ta. Chúng đã làm thủ lãnh, và Ta không nhận biết. Chúng đã lấy vàng bạc mà đúc tượng thần, để Ta tàn phá đi.

"Hỡi Samaria, hãy ném con bê của ngươi đi. Ta đã nổi giận chúng. Chúng không thể thanh tẩy mình đến bao giờ? Con bê này bởi Israel mà ra, người thợ đúc đã làm ra nó, nó đâu phải là thần. Con bê của Samaria sẽ giống như con nhện. Chúng gieo gió thì sẽ gặt bão: lúa mì của chúng chẳng đâm bông, mà nếu có bông cũng chẳng có hạt, và nếu có được hạt, thì người ngoại bang cũng sẽ nuốt hết.

"Ephraim làm thêm bàn thờ để phạm tội, những bàn thờ này đã nên dịp tội cho nó. Vì Ta viết cho nó muôn ngàn lề luật, và nó coi như không can gì đến nó. Chúng sẽ dâng của lễ, sẽ hiến tế thịt thà, chúng cứ việc ăn, Chúa không chấp nhận đâu. Chúa sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng và sẽ phạt tội chúng: chúng sẽ hướng về Ai-cập".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 113B, 3-4. 5-6. 7-8. 9-10

Ðáp: Nhà Israel! cậy tin vào Chúa (c. 9a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Thiên Chúa chúng ta ngự trên trời, phàm điều chi Người ưng ý, Người đã thực thi. Thần tượng của họ bằng bạc với vàng, đó là sự vật do tay người tác tạo. - Ðáp.

2) Chúng có miệng mà không nói năng; chúng có mắt mà không nhìn thấy; chúng có tai mà chẳng khá nghe; chúng có mũi mà không biết ngửi. - Ðáp.

3) Chúng có tay mà không sờ mó; chúng có chân mà chẳng bước đi. Sẽ nên giống y như chúng, bao nhiêu kẻ làm ra và cậy tin vào chúng. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 32-38

"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: "Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel". Nhưng các người biệt phái nói rằng: "Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ".

Và Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".

Ðó là lời Chúa.

 

el que lucha con Dios | De la mano de María

 

 

sự sống thương tật 


Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Ba Tuần XIV Thường Niên hôm nay bao gồm 2 sự kiện khác nhau: trước hết về việc Chúa Giêsu trừ quỉ, và sau đó về tình trạng chiên cần chủ chiên.


Về việc Chúa Giêsu trừ quỉ, Thánh ký Mathêu thuật lại ở phần trên của bài Phúc Âm hôm nay thế này: "Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: 'Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel'. Nhưng các người biệt phái nói rằng: 'Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ'". Ở đây hiện tượng bị câm về thể lý cho thấy cũng có thể do ma quỉ gây ra, nhất là bị câm về tinh thần, không dám nói lên sự thật và làm chứng cho chân lý, càng do ma quỉ đầy quyền lực tối tăm chết chóc là thành phần thù ghét chân lý và muốn tiêu diệt chân lý.


Về tình trạng chiên cần chủ chiên, Thánh ký Mathêu thuật lại ở phần dưới của bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Người liền bảo môn đệ rằng: 'Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa'". Chúa Giêsu đến để cứu nhân loại cả về phần hồn (bằng giáo huấn của Người) lẫn phần xác (bằng việc chữa lành của Người).


Ý tưởng chính yếu của bài Phúc Âm hôm nay đó là câu Thánh ký Mathêu ghi nhận về Chúa Giêsu rằng: "Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn". 


Đúng thế, tất cả những gì Thiên Chúa làm cho con người đều do bởi tình thương của Ngài trước thân phận tháp hèn và khốn khổ của con người, thành phần không thể tự cứu được mình mà chỉ hoàn toàn trông chờ vào Ngài, Đấng quả thực đã sai Con của Ngài đến với loài người, cũng chỉ vì thương con người, và Con của Ngài trở thành hiện thân sống động của tình thương Ngài đối với chung nhân loại và riêng thành phần nạn nhân của "mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền" hay bị quỉ ám về thể lý, như "người câm bị quỷ ám" trong bài Phúc Âm hôm nay, nhất là thành phần đáng thương tiêu biểu của nhân loại ngay trước mắt Người bấy giờ không được ai giúp đỡ và phục vụ


Bởi thế, trong dự án thần linh của mình, Người cần tuyển mộ thêm một số cộng sự viên đắc lực với Người trong sứ vụ cứu độ bất khả thiếu của Người. Đó là lý do Người "liền bảo với các môn đệ" là thành phần được Người gọi theo Người, chứ không bảo chung dân chúng, rằng: '"Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".


"Lúa chín đầy đồng" đây nghĩa là gì, nếu không phải là thành phần dân chúng đáng thương cần được cứu vớt, họ là thành phần bình dân chất phác thường cởi mở và dễ tin tưởng vào Chúa cùng chấp nhận Lời Chúa hơn thành phần luật sĩ và biệt phái vốn hay tự phụ kiêu căng nên khó tin, khó chấp nhận những gì không hợp với họ hay họ có thành kiến, ngay cả khi họ thấy Người trừ quỉ câm trong bài Phúc Âm hôm nay mà họ vẫn cho rằng "Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ'". 


Và cũng vì thế mới xẩy ra tình trạng "thợ gặt thì ít", nghĩa là những người lãnh đạo tinh thần cho dân chúng thì nhiều đấy nhưng về phẩm thì vẫn quá ít ỏi và hiếm hoi, hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả (xem Gioan 10:8 - "tất cả những kẻ đến trước Tôi đều là trộm cướp)" vừa bất xứng về tinh thần và uy tín vừa bất khả về cung cách và hiệu quả, đến không phải là để phục vụ như Người mà chỉ lo hưởng thụ ở chỗ tìm cầu những gì là danh dự và uy quyền mà thôi (xem Mathêu 20:28 và đoạn 23). 


Do đó, cần phải "xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa", chứ không phải đi gieo lúa, nghĩa là sai những con người sống tinh thần của Chúa Kitô và như Chúa Kitô đến mới có thể đáp ứng nhu cầu cùng lòng mong đợi của dân chúng, nhờ đó hoàn thành dự án cứu độ thần linh vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa. 


"Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn" là những gì chứng tỏ cho thấy dù con người hèn yếu nhưng vẫn thắng được cõi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, đến độ đã khiến cho Thiên Chúa phải cúi mình xuống phục vụ họ. "Đoàn lũ dân chúng... tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có ngưòi chăn" trước mắt Chúa Giêsu là Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người để tự mình chăn dắt họ, cũng như tiếp tục chăn dắt họ qua thành phần được Người tuyển chọn lãnh đạo Giáo Hội của Người.

 

 

Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Hôsêa, Thiên Chúa đã cho biết tình trạng đàn chiên dân Chúa bơ vơ như không có chủ chiên nên đã luôn xu hướng vào việc tôn thờ đủ mọi thứ ngẫu tượng do chính họ nghĩ ra hay bị ảnh hưởng của ngoại bang: "Chúng cai trị chớ không phải Ta. Chúng đã làm thủ lãnh, và Ta không nhận biết. Chúng đã lấy vàng bạc mà đúc tượng thần, để Ta tàn phá đi... Ta viết cho nó muôn ngàn lề luật, và nó coi như không can gì đến nó. Chúng sẽ dâng của lễ, sẽ hiến tế thịt thà, chúng cứ việc ăn, Chúa không chấp nhận đâu. Chúa sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng và sẽ phạt tội chúng".

 

 

Đúng thế, Thiên Chúa đã thực sự "tàn phá đi" các thứ ngẫu tượng của dân Ngài, chẳng những bằng cách "phạt tội chúng", nhờ đó chúng biết mình mà trở về cùng Ngài là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, mà còn bằng cách tỏ hết mình ra nơi Lời Nhập Thể là Đức Giêsu Kitô Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng họ. Và Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này của họ đã được Thánh Vịnh gia chân nhận là sống động và toàn năng, chứ Ngài không phải là hay giống như các thứ thần tượng được dân tạo nên bằng chính những gì quí báu nhất của họ (vàng bạc ám chỉ lòng đạo đức ảo tưởng), thứ ngẫu tượng được Bài Đáp Ca diễn tả như sau:


1) Thiên Chúa chúng ta ngự trên trời, phàm điều chi Người ưng ý, Người đã thực thi. Thần tượng của họ bằng bạc với vàng, đó là sự vật do tay người tác tạo.

2) Chúng có miệng mà không nói năng; chúng có mắt mà không nhìn thấy; chúng có tai mà chẳng khá nghe; chúng có mũi mà không biết ngửi.

3) Chúng có tay mà không sờ mó; chúng có chân mà chẳng bước đi. Sẽ nên giống y như chúng, bao nhiêu kẻ làm ra và cậy tin vào chúng.


Thánh Antôn Zacaria Linh Mục (5/7)

 

12005 St Anton Maria Zacaria

 

 

Thánh Antôn Zaccaria, Linh mục, (1502-1539)
 
Thánh Antôn Maria Giacaria sinh năm 1502 tại Grêmôna, cha Ngài mất sớm, mẹ Ngài, người góa phụ trẻ 18 tuổi không còn biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào tạo tâm hồn người con nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và biết kiên trì hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình bác ái đối với người nghèo khổ, làm gương cho con.
 
Thành Grêmôna nơi Antôn sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc chiếm đóng của người Pháp, dân thành lại phải chiến đấu với Ludorse Sforza. Tình cảnh thật khốn khổ. Ngày kia trên đường về học, cậu bé Antôn đã cởi tấm áo thêu của mình cho người nghèo mặc. Thấy vậy, người mẹ đã âu yếm ôm con vào lòng. Từ đó Antôn xin cho con được ăn mặc bình thường, có khi còn nhịn phần ăn cho người nghèo nữa.
 
Thân mẫu Antôn đã chọn cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy lạp và Latinh. Vào tuổi 15, Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại theo đuổi y học ở Padua. Ở đại học người ta chế nhạo nếp sống nghèo khó của Ngài. Tốt nghiệp phải cấp bằng tiến sĩ ưu hạng, Ngài được rất nhiều khách hàng tín nhiệm. Nhưng đây lại là thời Luthênô nổi dậy. Antôn bỏ nghề thuốc để theo môn thần học.
 
Antôn Giacaria bắt đầu tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các chân lý cao trọng. Cha mẹ chúng cũng thường tới nghe dạy. Họ nói : - Nào chúng mình đến nghe thiên thần của Chúa.
 
Tay cầm thánh giá, thánh nhân rảo qua khắp các đường phố nói về ơn cứu chuộc và việc thống hối. Nơi nào bị chế nhạo, bị xỉ nhục, Ngài càng năng lui tới hơn.
 
Năm 1528, lúc được 26 tuổi, Antôn được thụ phong linh mục. Ngài đến ở Milan, thăm viếng các người đau khổ trong các nhà thương, nhà tù, nơi các xóm nghèo. Các nghĩa cử Ngài làm đã mang lại cho Ngài danh hiệu "người cha dân tộc". Ngài ngồi tòa hàng giờ để phục sinh các linh hồn. Ngài chống lại phái thệ phản và đối đầu với bất cứ ai muốn tấn công đức tin tinh tuyền. Cha Antôn có hai người bạn tông đồ là Mariggia và Ferrari. Đức giáo hoàng truyền cho các Ngài lập một hội dòng mới, các tu sĩ dòng thánh Phaolô. Các Ngài được trao cho việc coi sóc thánh đường thánh Barnabê, nên người ta gọi các Ngài là các cha Barnabê.
 
Thánh Antôn Maria Giacaria thường nói với các môn sinh: - "Đặc tính của những tâm hồn đại lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương bổng. Hãy tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình và cho người khác".
 
Ngài dạy họ phải quen với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm như vậy được nếu không hướng trọn ý tưởng về với Chúa, và nếu kinh nguyện chưa nên của ăn nuôi sống linh hồn. Các linh mục và cả hàng giáo sĩ đã bắt đầu. Chiều về anh em họp nhau lại để thú tội. Thánh nhân còn dẫn anh em rảo qua đường phố bằng cách vác Thánh giá mà rao giảng. Họ còn tự động cột giây vào cổ, làm những việc nặng nhọc trong khi một số khác đi ăn xin cho người nghèo.
 
Thấy vậy, nhiều người thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn cổ động lòng sùng kính Thánh Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người ta chỉ rước lễ một hai lần trong năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người coi sự nhiệt thành của Ngài là cuồng tín dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng và cảm nghiệm điều Ngài thường nói : - Bạn sẽ được thấp nhập vào Chúa đến độ không còn lo tưởng đến những sự trên thế gian này nữa.
 
Năm 1530, Ngài giúp nữ công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức giáo hoàng Phaolô III đã chuẩn y hội dòng này và đặt tên là "Dòng chị em các thiên thần".
 
Năm 1536, cha Antôn Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ đầu để đi truyền giáo. Ngài rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh chấp. Công việc thật bề bộn, không thể lường trước được, dầu vậy thánh nhân vẫn trung thành với tác vụ, các cuộc tĩnh tâm và thư tín.
 
Tuy nhiên lần này, tại Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn sinh, Ngài lui về với thân mẫu. Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn nói :- Mẹ ơi ! Mẹ đừng khóc nữa. Chẳng bao lâu rồi mẹ cũng được vui mừng với con trong vinh quang bất tận mà bây giờ con đang tiến vào.
 
Ba giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 1539, linh mục trẻ 36 tuổi Antôn Maria Giacaria thở hơi cuối cùng trong tay mẹ hiền.
 
*
Ngày 05-07: Thánh ANTÔN MARIA GIACARIA  Linh mục (1502 - 1539)

Khi Martin Luther tấn công những lạm dụng trong Giáo Hội, lúc ấy một phong trào canh tân đang manh nha thành hình. Trong số những người của phong trào có Thánh Antôn Zaccaria
 
Thuộc dòng dõi quý tộc, cha của Antôn Zaccaria mất sớm khi ngài mới hai tuổi, và mẹ ngài, người goá phụ 18 tuổi, ở vậy nuôi con. Bà tận tụy dạy dỗ đạo lý cho con ngay từ nhỏ. Khi 22 tuổi, Antôn lấy bằng tiến sĩ y khoa và làm việc ở Cremona, giúp đỡ người nghèo và siêng năng hoạt động tông đồ. Ngoài phần xác của con bệnh, ngài còn lo lắng đến phần hồn của họ, ngài là một giáo lý viên và được thụ phong linh mục lúc 26 tuổi.
 
Ðược sai đến Milan trong một vài năm, Cha Antôn Zaccaria thành lập hai tu hội, một cho nam giới và một cho nữ giới. Mục đích của tu hội là canh tân xã hội đang sa sút vào thời ấy, bắt đầu từ hàng giáo sĩ và tu sĩ.
 
Vì rất cảm kích Thánh Phaolô, Cha Antôn Zaccaria đặt tên cho tu hội là Bácnabê -- tên bạn đồng hành của Thánh Phaolô -- và ngài hăng say rao giảng ở trong nhà thờ cũng như ngoài đường phố, tổ chức các nhóm truyền giáo và không xấu hổ khi công khai ăn năn sám hối. Ngài còn khuyến khích những hình thức sinh hoạt mới mẻ, như giáo dân cộng tác trong công việc tông đồ, siêng năng rước lễ, chầu Thánh Thể và rung chuông nhà thờ vào 3 giờ chiều thứ Sáu hàng tuần.
 
Sự thánh thiện của Cha Antôn đã khích lệ nhiều người thay đổi đời sống, và như tất cả các vị thánh khác, ngài cũng bị nhiều người chống đối. Hai lần, tu hội của ngài phải chịu sự điều tra của các giới chức trong Giáo Hội, và cả hai lần đều được miễn trừ.
 
Ðang khi trên đường công tác hòa giải, ngài bị bệnh nặng và được đưa về thăm người mẹ. Ngài từ trần ở Cremona khi mới 36 tuổi.

Lời Bàn
Sự hăng say canh tân của Thánh Antôn Zaccaria có lẽ khiến nhiều người ngày nay "thất vọng". Vào thời điểm mà nhiều người trong Giáo Hội lẫn lộn giữa thế quyền và thần quyền, thì lời rao giảng, lối sống của Thánh Antôn không khác gì một cản trở cần diệt trừ. Nhưng lối sống ấy đích thực là linh đạo của Ðức Kitô, một Ðấng bị đau khổ, bị đóng đinh. Chúng ta cũng không thể "cao trọng hơn Thầy", và con đường thập giá luôn luôn là con đường dẫn đến vinh quang.
 
Trích từ NguoiTinHuu.com

http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&tabId=392&ArticleID=50627

 

1. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Là Đấng sáng lập dòng Banabê (theo tên nơi trụ sở dòng mẹ là tu viện Thánh Banabê ở Milan), Thánh Antôn Giacaria được kính nhớ theo ngày qua đời năm 1539 ở Crémone lúc 37 tuổi. Được phong thánh năm 1897.

Sinh năm 1502, tại Crémone nước Ý. Antôn được mẹ giáo dục theo tinh thần đạo hạnh. Chồng chết lúc bà mới mười tám tuổi, bà từ chối tái hôn để được toàn tâm toàn ý lo cho đứa con duy nhất là Antôn. Tuy còn nhỏ tuổi, Antôn đã khấn giữ khiết trinh trọn đời; sau khi tuyên thệ và từ chối không nhận tài sản cha để lại, Antôn theo học triết lý ở Pavie và ngành y tại Padone. Năm 1524, Antôn trở lại Crémone, dấn thân phục vụ các bệnh nhân. Cảm thấy được Ơn Gọi làm linh mục, Antôn chuẩn bị bước lên đời tư tế, dưới sự hướng dẫn của hai tu sĩ dòng Đaminh. Hai mươi sáu tuổi, năm 1528, Antôn thụ phong linh mục. Năm 1530, ngài tới định cư ở Milan. Tại đây, cùng với hai thành viên Hội Đấng Khôn Ngoan Vĩnh Cửu, ngài thành lập Hội dòng các Giáo sĩ Thánh Phaolô. Hội dòng có mục đích cải tạo hàng giáo sĩ cũng như giáo dân và đã được Đức Giáo Hoàng Clementê VII chuẩn thuận năm 1533.

Thánh Antôn Giacaria có thể được xem là người đi trước Thánh Carôlô trong cuộc phục hưng công giáo: khi Thánh Carôlô tới Milan, năm 1569, đã thấy các tu sĩ Banabê hoạt động ở đó từ nhiều năm trước.

2. Thông điệp và tính thời sự

Lời nguyện của ngày phác thảo diện mạo Thánh Antôn, người sống đồng thời với thời kỳ Luther nổi lên chống đối Roma (1520 – 1524). Lời nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được sự hiểu biết khôn vời của Đức Kitô như đã ban cho Thánh Phaolô xưa và đã giúp Thánh Antôn Giacaria loan báo Lời Cứu Rỗi cho Hội Thánh.

Thánh Antôn đã thụ huấn tại trường học của Thánh Phaolô để “sống tình yêu Đức Kitô vượt mọi sự hiểu biết” (Ep 3, 19). Bởi thế, Người đã muốn là thầy thuốc chữa bệnh tâm hồn hơn thầy thuốc chữa bệnh phần xác. Nhiệt tình bác ái của thánh nhân biểu lộ qua việc chuyên cần giảng dạy giáo lý và công tác giáo dục; Ngài loan báo Lời Cứu Rỗi ngoài đường phố, trên các quảng trường, lôi kéo nhiều người trở lại, chấn chỉnh các tu viện, như ở Vicence và đem nhiều thành phố làm hòa lại với nhau.

Bài giảng cho các tu sĩ Banabê (Phụng vụ bài đọc) là một trong những bản văn quý hiếm của ngài còn giữ được (mười hai bức thư, sáu bài diễn văn và bản Hiến Pháp). Thánh Antôn Maria mô tả những công hiệu của cái khoa học làm ta “trở nên điên dại vì Đức Kitô” theo như giáo huấn của Thánh Tông Đồ mà thánh nhân gọi là “Đấng hướng dẫn và bảo vệ chúng ta”. Nhà cải cách không muốn thành lập một dòng tu gồm các tu sĩ hoặc tu huynh, nhưng muốn gồm những tông đồ được gọi vào sứ vụ phục vụ Lời và các bí tích, bởi ý đồ của người là muốn chống lại lạc giáo của Luther. Thánh nhân đã can đảm chịu đựng những hiểu lầm và bách hại gây nên cho mình trước khi được phục hồi sau hai phiên tòa mở ra để chống đối Ngài (1534 – 1537), do những người từng đồng hành trong các buổi đầu của viện do người thành lập. Thành viên của viện thời đầu được gọi là tu huynh Phaolô, về sau gọi là các tu sĩ Banabê; hội dòng đã được thành lập, dưới sự bảo trợ của Thánh Phaolô Tông Đồ, xem Người như Đấng hướng dẫn. Thánh Antôn Maria viết: “Dưới sự lãnh đạo của một thủ lãnh như thế, chúng ta không có quyền nhát đảm hay chạy trốn, cũng không được là những đứa con thoái hóa của một người cha như thế”. Từ hội dòng này có hai vị thánh: Thánh Phanxicô Xavie Bianchi và Thánh Alexandre Sauli, một trong những giám mục nổi tiếng nhất của cuộc cải cách do Công Đồng Tridentê khởi xướng.

Enzo Lodi

https://www.tonggiaophanhanoi.org/ngay-5-7-thanh-anton-maria-zacaria-linh-muc-1502-1539/

https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/05-07-thanh-anton-maria-zacaria-linh-muc-1502-1539-le-nho-tuy-chon/

 


Thứ Tư


Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 10, 1-3. 7-8. 12

"Ðây là lúc phải tìm kiếm Chúa".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Israel là cây nho xanh tốt, hoa trái xứng hợp với nó. Ðất càng màu mỡ, thì càng thêm các tượng thần. Lòng dạ chúng phân đôi, giờ đây chúng sẽ đền tội. Chúa sẽ đánh vỡ các tượng thần và phá tan các bàn thờ của chúng. Bấy giờ chúng sẽ nói: "Chúng ta không có vua, vì chúng ta không kính sợ Chúa: và nhà vua sẽ làm gì cho chúng ta?"

Samaria đã làm cho vua mình qua đi như bọt nước. Những nơi cao dựng tượng thần sẽ bị phá huỷ: Ðó là tội lỗi của Israel! Cây ké và gai góc sẽ mọc trên bàn thờ chúng. Chúng sẽ nói với núi non rằng: Hãy che lấp chúng ta đi. Chúng sẽ nói với đồi rằng: Hãy đổ xuống trên chúng ta cho rồi! Các ngươi hãy gieo rắc sự công chính và sẽ gặt mùa nhân từ. Các ngươi hãy khai khẩn những khu đất mới: Ðây là lúc phải tìm kiếm Chúa, khi Người đến, Người sẽ dạy dỗ sự công chính cho các ngươi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn (c. 4b).

Xướng: 1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người; tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa; hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ, và những điều miệng Ngài phán quyết.- Ðáp.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người; hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 1-7

"Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.

Ðây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.

Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: "Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".

Ðó là lời Chúa.

 

DISSE O SENHOR: IDE E ANUNCIAI, O REINO DE DEUS ESTÁ PRÓXIMO...

 

 

sự sống lạc loài


Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XIV Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, ở chỗ, trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu thấy dân chúng bơ vơ như chiên không chủ chăn, và ngỏ ý muốn có thêm cộng sự viên trong công cuộc cứu độ với Người kêu gọi, bằng cách kêu gọi các môn đệ hãy xin thêm thợ gặt đến làm mùa, thì trong bài Phúc Âm hôm nay "Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền". 


Thành phần được Chúa Giêsu ưu tuyển này là những ai, được Thánh ký Mathêu cho biết như sau: "Đây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người".


Và sứ vụ của 12 môn đệ được gọi là tông đồ này như thế nào, cũng được Thánh ký Mathêu cho biết như thế này: "Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: 'Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".


Ở đây có 2 vấn đề được đặt ra: thứ nhất là danh xưng môn đệ và tông đồ có khác nhau không, nếu có thì như thế nào? Và thứ hai là địa bàn hoạt động của các tông đồ tại sao chỉ giới hạn vào "các chiên lạc nhà Israel" mà thôi? 


Trước hết về danh xưng "môn đệ" (disciple) và "tông đồ" (apostle), căn cứ vào Phúc Âm, chúng ta nên hiểu như thế này: 


1- "Môn đệ" là một ơn gọi, ơn gọi theo Chúa Kitô, còn "tông đồ" là sứ vụ đặc biệt, sứ vụ "làm chứng" cho Chúa Kitô, sứ vụ chính yếu của thành phần làm "môn đệ" Chúa Kitô

2- Bởi thế "tông đồ" căn bản cũng là "môn đệ" của Chúa Kitô, tức là thành phần theo Chúa Kitô, nên các Phúc Âm hay thuật lại rằng Chúa Giêsu đi với các môn đệ của mình hoặc Người nói với các môn đệ của Người, chứ hầu như không viết là với các tông đồ. Ngay trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thấy: "Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại", chứ không phải gọi 12 tông đồ lại.

3- Trong thành phần theo Chúa Kitô được Thánh Luca cho biết là có 72 "môn đệ" (disciples), thế nhưng cả 3 Phúc Âm Nhất Lãm (Mathêu, Marco và Luca) đều liệt kê chỉ có 12 "tông đồ" (apostles), thành phần "tông đồ" có tên tuổi đàng hoàng, như trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, trong khi các "môn đệ" không được liệt kê tên tuổi như vậy, và các môn đệ này có thể bao gồm cả thành phần nữ giới theo phục vụ Chúa nữa. Có thể nói "tông đồ" là thành phần môn đệ "full time", trong khi các môn đệ không phải là tông đồ thì chỉ cần part tiem theo Chúa.

4- Để trở thành "tông đồ" cần phải hội đủ 3 điều kiện chính yếu bất khả thiếu: thứ nhất, phải được chính Chúa Kitô tuyển chọn + thứ hai, phải được chính Chúa Kitô tỏ mình ra cho + thứ ba, phải được chính Chúa Kitô sai đi. Thánh Phaolô cũng được gọi bằng danh xưng "tông đồ", (cho dù không sống trực tiếp với Người ngay từ đầu và có tên trong danh sách "tông đồ"), là vì ngài cũng hội đủ 3 yếu tố để làm "tông đồ" trên đây: cũng được chính Chúa Kitô tuyển chọn (xem Tông Vụ 9:15), cũng được chính Chúa Kitô tỏ mình ra cho (xem Tông Vụ 9:4-6) và cũng được chính Chúa Kitô sai đi (xem Tông Vụ 13:47)

Vấn đề thứ hai là địa bàn hoạt động của các tông đồ tại sao "các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria" mà chỉ giới hạn vào "các chiên lạc nhà Israel" thôi? Phải chăng tại vì dân ngoại (nhất là ở Galilêa) có thể nói đã biết nhiều về Chúa Giêsu, Đấng đã bắt đầu xuất hiện như ánh sáng chiếu trong tăm tối ở miền đất này, một sự kiện được Thánh ký Mathêu ghi nhận như sau: 

"Khi Chúa Giêsu nghe Gioan đã bị tống giam thì Người lui về Galilêa. Người bỏ Nazarét mà đi đến sống ở Capernaum gần địa hạt Zebulun và Naphtali, cho trọn những gì đã được Tiên Tri Isaia nói: "Miền Galilêa dân ngoại: dân sống trong tăm tối đã được thấy ánh sáng cả thể..." (Mathêu 4:12-16). 

Vì Galilêa là vùng đất của Dân Do Thái sống chung đụng với rất nhiều dân ngoại, một miền bắc hoàn toàn khác với miền nam Giuđêa thuần túy Do Thái và là nơi có giáo đô Giêrusalem, một miền bắc đã trở thành vùng hoạt động chính yếu của Chúa Giêsu, nơi Người cũng đã tuyển chọn 12 tông đồ, mà sau khi sống lại Người cũng đã hẹn với các tông đồ về lại Galilêa gặp Người (xem Mathêu 28:7) và các vị quả thực đã gặp Người ở đó (xem Mathêu 28:16) để được Người sai đi "tuyển mộ môn đồ khắp các dân nước" (Mathêu 28:19).

Galilêa còn là vùng đất không được Chúa Giêsu bao gồm trong lệnh truyền sai các tông đồ đi rao giảng khắp nơi trước khi Người thăng thiên về cùng Cha: "Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền GiuđêA, SamariA và cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8).

Vậy đối tượng các tông đồ được sai đến là "các chiên lạc nhà Israel" - Chúa Giêsu có ý ám chỉ những ai đây, nếu không phải thành phần dân Do Thái lầm lạc, chứ không phải thành phần Do Thái thành tâm đang tìm kiếm chân lý và thiết tha trông đợi Đấng Thiên Sai, như một Nicôđêmô (xem Gioan 3:1-2). Họ ở đâu? Nếu không phải ở ngay Galilêa, chứ không ở đâu xa, vì họ là thành phần đáng thương nhất! 

Mà thành phần "các chiên lạc nhà Israelđây thực sự là ai, nếu không phải là nhóm biệt phái và luật sĩ, thành phần mà các môn đệ của Chúa Kitô cần phải trổi vượt hơn về thánh đức (xem Mathêu 5:20), và không được nhiễm lây men gương mù gương xấu của họ (xem Mathêu 16:6), thành phần luôn có thái độ cao ngạo và thù nghịch với Chúa Kitô, bằng những hành động rình rập, bắt bẻ, chống đối và chụp bắt Người. Nói chung, bao gồm cả dân chúng lẫn thành phần thông luật và dạy luật cho dân chúng, đều là những con chiên lạc, ở chỗ họ đều mong đợi một Đấng Thiên Sai về chính trị hơn là Đấng đến giải thoát họ khỏi tội lỗi và sự chết thiêng liêng; thậm chí bao gồm cả các tông đồ cũng thế, cũng có một tâm thức chính trị này, nên đã vấp phạm khi thấy Thày mình phải trải qua cuộc khổ nạn và tử giá.

Phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu đã báo trước cho các tông đồ được Người sai đi rằng: "Thày sai các con đi như chiên giữa sói rừng" (Mathêu 10:16) và cảnh giác các vị về những gian nan khốn khó xẩy ra do đối phương gây ra cho các vị, nhưng Người trấn an và phấn khích các vị rằng: "Đừng sợ kẻ chỉ giết được sự sống phần xác nhưng không thể hủy diệt được linh hồn" (Mathêu 10:28)?


Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu, qua chi tiết được Thánh ký Mathêu diễn tả,  thấy đoàn lũ dân chúng như chiên bơ vơ không chủ chiên, thì bài Phúc Âm hôm nay chính Chúa Giêsu lại khẳng định họ là "con chiên lạc Nhà Israel". Và họ đã bị lạc như thế nào và ra sao, thì chính Thiên Chúa, qua miệng Tiên Tri Hôsêa cho biết như sau: "Israel là cây nho xanh tốt, hoa trái xứng hợp với nó. Ðất càng màu mỡ, thì càng thêm các tượng thần. Lòng dạ chúng phân đôi, giờ đây chúng sẽ đền tội". Đến độ: "Cây ké và gai góc sẽ mọc trên bàn thờ chúng. Chúng sẽ nói với núi non rằng: Hãy che lấp chúng ta đi. Chúng sẽ nói với đồi rằng: Hãy đổ xuống trên chúng ta cho rồi!"


Và chính trong lúc "con chiên lạc Nhà Israel" nhận biết "Ðó là tội lỗi của Israel!" như thế, Thiên Chúa, cũng qua miệng cùng vị tiên tri trong Bài Đọc 1 hôm nay, mới khuyên nhủ họ rằng: "Các ngươi hãy gieo rắc sự công chính và sẽ gặt mùa nhân từ. Các ngươi hãy khai khẩn những khu đất mới: Ðây là lúc phải tìm kiếm Chúa, khi Người đến, Người sẽ dạy dỗ sự công chính cho các ngươi". Câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay theo chiều hướng của Bài Đọc I cũng kêu gọi dân Chúa rằng: "Hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn". Ở chỗ:

 

 

1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người; tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa; hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ, và những điều miệng Ngài phán quyết.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người; hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.

 


Thánh Maria Goretti đồng trinh tử đạo
ngày 6/7

About St. Maria Goretti - Patron Saint Article

Thánh Maria Goretti, Đồng trinh Tử đạo (1890-1902)

Có đến 250.
000 người tham dự lễ phong thánh cho “cô bé” Maria Goretti.
Maria Goretti là con một tá điền người Ý nghèo nàn, không được đi học nên không biết đọc biết viết. Maria Goretti được rước lễ lần đầu không được bao lâu thì qua đời lúc 12 tuổi.

Vào một buổi chiều tháng Bảy nóng bức, Maria Goretti ngồi trên đầu cầu thang trong nhà để sửa áo, chưa đầy 12 tuổi như cơ thể đã nảy nở. Một chiếc xe bò dừng lại 
bên ngoài, một người hàng xóm là Alessandro Serenelli, 18 tuổi, chạy lên cầu thang. Hắn chộp lấy Maria Goretti và đưa vào giường. Maria Goretti chống cự dữ dội và kêu cứu, hắn định tự sát chứ không chịu bị bắt. Maria Goretti nói: “Không, Chúa không muốn vậy. Đó là tội. Anh sẽ sa hỏa ngục vì tự tử”. Alessandro bắt đầu chĩa dao và đâm Maria Goretti.

Maria Goretti được đưa tới bệnh viện. Giây phút cuối, Maria Goretti lo cho mẹ sẽ có ngủ được hay không, và sẵn sàng tha thứ cho kẻ giết mình. Maria Goretti trút hơi thở cuối cùng sau 24 giờ bị đâm.
Kẻ sát nhân bị kết án 30 năm tù. Một thời gian lâu sau mà hắn vẫn không hối hận. Có một đêm hắn chiêm bao thấy Maria Goretti hái những bông hoa trao cho hắn. Từ đó hắn thay đổi cuộc sống. Sau 27 năm tù, Alessandro được tha, hành động đầu tiên là anh ta đến xin lỗi mẹ của Maria Goretti.

Lòng sùng kính vị thánh trẻ tử đạo này lan nhanh, các phép lạ xuất hiện, Maria Goretti được phong thánh chỉ sau gần 50 năm. Năm 1947, tại lễ phong chân phước cho Maria Goretti, người mẹ (lúc đó 82 tuổi), 2 em gái và 1 em trai đã xuất hiện cùng với ĐGH Piô XII trên lan can Đền thờ thánh Phêrô. Ba năm sau, tại lễ phong thánh cho Maria Goretti, Alessandro Serenelli (lúc đó đã 66 tuổi) quỳ giữa hàng trăm người và bật khóc.



https://giaophanvinhlong.net/thanh-maria-goretti-dong-trinh-tu-dao-18901902.html

Thánh Maria Goretti sinh ngày 16 tháng 10 năm 1890 tại Ancona. Cha mẹ ngài là những người nhà quê thất học. Vì hoàn cảnh nghèo túng, năm 1899, gia đình người dời về sống trong một nông trại ở làng Auziô, gần Neturô. Đây là một gia đình nghèo khó nhưng giầu lòng tin đến độ chuyển núi dời non. Cha ngài vào một hợp tác và sống chung trong một nhà với một gia đình khác, ông cần cù vỡ đất trồng trọt để nuôi sáu người con. Còn mẹ thánh nữ, bà rất mệt nhọc trong việc săn sóc đoàn con bé bỏng.

Nhưng gia đình can đảm và thân mật này đã bị dao động khi người cha bất ngờ qua đời. Bà góa phụ Assunta không biết nương tựa vào đâu và quyết định tiếp nối công việc nặng nhọc vừa khởi sự. Bà giao các con nhỏ cho trưởng nữ mới 10 tuổi săn sóc. Maria, người con gái ấy là một đứa trẻ hiền lành can đảm biết vâng phục. Thánh nữ thật là một nguồn an ủi cho người mẹ hiền lành nhưng cương quyết với các con. Dù còn trẻ thánh nữ đã sớm trở thành một người nội trợ mới.

Hàng xóm của bà Assunta, là gia đình Serenrlli, họ là những người có tinh thần phục vụ. Nhưng Alessandrô lại chơi với các bạn bè xấu và ham đọc sách nguy hiểm. Nhiều lần anh ta giúp đỡ Maria trong những việc nặng nhọc. Người ta có thể nghĩ là Alessandrô đã cải tính sửa nết. Maria thì biết ơn và còn quá trong trắng để mà nghi ngờ. Nhưng Alessandrô đã không ngần ngại đưa ra những đề nghị bỉ ổi, lại còn đe dọa cô không được nói với ai, không hiểu biết gì, Maria Goretti cảm thấy nguy hiểm phạm tội, và đã thú thực hết với mẹ. Run sợ cho tâm hồn còn tinh trong của con bị hoen ố, bà Assunta đã dạy cho Maria cách thắng vượt sự dữ, đề phòng cho cô khỏi mắc cơn nguy hiểm mà cô chưa biết đến. Maria Goretti hứa sẽ không bao giờ nhượng bộ.

Maria mới 12 tuổi, nhưng đã nẩy nở xinh đẹp. Alessandrô thúc bách, nhưng người thiếu nữ đã biết giữ gìn và chống cự lại. Thảm cảnh diễn ra ngày 5 tháng 7 năm 1902. Sáng hôm đó, đợi cho mọi người đi khỏi, Alessandrô tới gần ve vãn cô gái. Cầm dùi trong tay, anh còn đe dọa :

- Nếu cô không chịu, tôi sẽ giết cô.

Cô gái la lớn:

- Không, đó là việc tội Chúa cấm ! Anh sẽ phải vào hỏa ngục.

Không còn kềm được bản năng , Alessandrô lao vào con mồi, đâm cô hơn 14 nhát.

Tiếng kêu la của kẻ hung bạo và của nạn nhân vang tới mọi người lân cận. Bà Assunta vội đưa người con hấp hối của mình tới nhà thương ở Nettunô. Dọc đường Maria nói với mẹ:

- Mẹ ơi ! Anh đã muốn con phạm tội với anh con đã cự tuyệt.

Linh mục tới đầu giường cô và nhắc lại cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá với lưỡi đòng, sự hối cải của người trộm lành... rồi Ngài hỏi:

- Marietta, con có tha thứ không?

- Dạ tha, vì tình yêu Chúa Giêsu, chớ gì anh được lên thiên đàng với con .

Alessandrô bị kết án 30 năm khổ sai. Tính hung hăng của anh càng tăng làm các bạn tù khiếp sợ. Tám năm sau, một đêm đã làm biến đổi tất cả. Tội nhân mơ thấy Maria sáng chói giữa vườn huệ và hái trao chàng một bông. Hôm sau anh viết lời thú tội, tự thú tất cả cho Đức Giám mục và kể lại cả giấc mơ cho ngài. Anh đã hối hận. Từ ngày đó, thái độ của anh rất gương mẫu. Năm 1929 anh được phóng thích. Năm 1937, quì dưới chân bà Assunta, anh hỏi:

- Bà có tha thứ cho con không?

Và người mẹ thánh nữ trả lời:

- Nó đã tha cho con rồi, tôi làm khác sao được?

Lễ Giáng sinh năm ấy, hai người cùng tiến lên bàn thờ rước lễ.

Maria Goretti được phong chân phước ngày 27 tháng 4 năm 1927. Đến ngày 24 tháng sáu năm 1930, trước mặt người mẹ đã 87 tuổi, Maria Goretti được Đức Giáo Hoàng Piô XII tôn phong lên bậc hiển thánh.

https://tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-maria-gorettidong-trinh-tu-dao-42646




Thứ Năm

Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 11, 1b, 3-4, 8c-9

"Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Ðây Thiên Chúa phán: "Lúc Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương nó, và Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.

"Ta đã dưỡng nuôi Ephraim, Ta đã bồng chúng trên cánh tay Ta mà chúng không biết Ta chăm sóc chúng. Ta đã dùng dây êm ái và mối yêu thương mà tập (cho) chúng đi; Ta đối xử với chúng như người dưỡng nuôi trẻ thơ, Ta đã ấp yêu chúng vào má. Ta nghiêng mình trên chúng và đút cho chúng ăn.

Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không buông thả theo cơn giận của Ta. Ta sẽ không huỷ diệt Ephraim, vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải người phàm; Ta là Ðấng Thánh ở giữa ngươi, Ta không thích tiêu diệt".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16

Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4b).

Xướng: 1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các vệ binh thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin tỉnh thức quyền năng của Chúa. - Ðáp.

2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy; bảo vệ ngành nho mà tay Ngài đã củng cố cho mình. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 7-15

"Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy đi rao giảng rằng "Nước Trời đã gần đến". Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn.

"Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: "Bình an cho nhà này". Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy. Nhưng nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại. Thật, Thầy bảo các con: Trong ngày phán xét, đất Sôđôma và Gômôra sẽ được xét xử khoan dung hơn thành ấy".

Ðó là lời Chúa.

Daily Meditation: "Go and proclaim this message: 'The kingdom of ...


sự sống
 d
ưới chân


Bài Phúc Âm cho ngày Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên hôm nay, cũng như cho 2 ngày còn lại trong tuần này, đều chất chứa những lời huấn dụ của Chúa Giêsu về sứ vụ được sai đi của các tông đồ.

Riêng trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã căn dặn và nhắn nhủ các tông đồ mấy điểm chính yếu sau đây: sứ điệp rao giảng (1); năng lực rao giảng (2); tinh thần rao giảng (3); thái độ giao tiếp (4).

1- Sứ điệp rao giảng - Nước Trời: "Các con hãy đi rao giảng rằng 'Nước Trời đã gần đến'". Nếu các tông đồ được tuyển chọn trong số các môn đệ là để làm chứng cho Chúa Kitô, và nếu các vị được sai đến với riêng "con chiên lạc nhà Israelđược cho là thành phần biệt phái và luật sĩ ở Galilêa, thì "Nước Trời" đây có thể hiểu là chính Chúa Kitô mà thành phần biệt phái và luật sĩ ở Galilêa là những "con chiên lạc nhà Israel" cần phải tin tưởng để được cứu độ và nên công chính thực sự.

2- Năng lực rao giảng - Cứu chữa: "Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ". Nếu "Nước Trời" được hiểu là chính Chúa Kitô là Đấng các tông đồ được Người sai đi rao giảng, mà Chúa Kitô "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10), thì các tông đồ là môn đệ của Người cũng được Người thông ban cho quyền năng cứu chữa của Người và như Người, một quyền năng cứu độ nhân loại mà thành phần luật sĩ và biệt phái lãnh đạo tinh thần của dân chúng không thể nào có được.

3- Tinh thần rao giảng - Tin tưởng: "Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn". Vì sứ vụ rao giảng của các tông đồ được Chúa Kitô trao cho thì đó là việc của Người làm qua các vị, hơn là chính công việc "của" các vị, nên các vị không cần phải lo toan những gì phụ thuộc liên quan đến bản thân của các vị, mà chỉ cần lưu ý đến những gì trực tiếp liên quan đến sứ vụ rao giảng của các vị. Nếu cần sử dụng đến các phương tiện trần gian thì không lệ thuộc chúng và tin vào chúng, cũng như vào chính bản thân mình và tài năng của mình.

4- Thái độ rao giảng - Khách quan vô tư: "Nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại". Tất nhiên, ở đâu cũng thế, với ai cũng vậy (kể cả với chính Chúa Kitô), có người ủng hộ, tin tưởng, và có người coi thường, không ưa. Phần các tông đồ, sau khi đã hết sức chu toàn sứ vụ rao giảng của mình đúng như những gì Chúa Kitô mong muốn mà vẫn không gặt hái được thành quả mong muốn thì hãy cứ bình an, không cần phải lo gì hết, các vị không phải chịu trách nhiệm ("giũ bụi chân") về những ai không nghe. Ở đây Chúa Giêsu còn muốn nói rằng các vị thừa sai cần phải sống chung với dân chúng, cần phải xông mùi chiên nữa mới được.


Việc Thiên Chúa tỏ hết mình ra cho dân của Ngài qua Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô Thiên Sai, và qua cả thành phần môn đệ tông đồ thừa sai của Người, chứng tỏ Ngài yêu thương dân Ngài biết bao và như thế nào, bất chấp khuynh hướng bất trung và hành động ngoại tình của họ với tà thần ngẫu tượng trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, miễn là họ nhận biết tình yêu nhưng không, vô đối và vô cùng bất tận của Ngài đối với họ, một dân tộc như thể bất khả thiếu đối với Ngài, mà trở về với Ngài. Qua miệng Tiên Tri Hôsêa, qua Bài Đọc I hôm nay, Ngài đã bày tỏ tình yêu của Ngài với dân của Ngài như sau:

"Lúc Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương nó, và Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập. Ta đã dưỡng nuôi Ephraim, Ta đã bồng chúng trên cánh tay Ta mà chúng không biết Ta chăm sóc chúng. Ta đã dùng dây êm ái và mối yêu thương mà tập (cho) chúng đi; Ta đối xử với chúng như người dưỡng nuôi trẻ thơ, Ta đã ấp yêu chúng vào má. Ta nghiêng mình trên chúng và đút cho chúng ăn. Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không buông thả theo cơn giận của Ta. Ta sẽ không huỷ diệt Ephraim, vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải người phàm; Ta là Ðấng Thánh ở giữa ngươi, Ta không thích tiêu diệt".

 

Chính vị cảm nhận được tình yêu tuyệt vời của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình mà Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm nhận nguyện xin, chẳng những ở câu họa: "Lạy Chúa, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống", mà còn ở cả 2 câu xướng nữa:

 

1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các vệ binh thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin tỉnh thức quyền năng của Chúa.

2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy; bảo vệ ngành nho mà tay Ngài đã củng cố cho mình.

 



Thứ Sáu


Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 14, 2-10

"Chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Ðây Chúa phán: "Hỡi Israel, hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa ngươi, vì ngươi đã gục ngã trong đường tội ác. Các ngươi hãy mang lời Chúa và trở về với Chúa; các ngươi hãy thưa rằng: 'Xin hãy xoá bỏ mọi tội ác, và nhận điều lành. Chúng tôi dâng lên Chúa của lễ ca tụng. Assurô sẽ không giải thoát chúng tôi; chúng tôi sẽ không cỡi ngựa và sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra, vì nơi Chúa, kẻ mồ côi tìm được sự thương xót'.

"Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ, và đâm rễ như chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây ôliu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ được lừng danh như rượu Liban.

"Hỡi Ephraim, tượng thần giúp ích gì cho ngươi không? Chính Ta sẽ nhậm lời và săn sóc ngươi, cho ngươi mọc lên như cây hương nam xinh tươi. Nhờ Ta, ngươi sẽ sinh hoa kết quả. Ai là người khôn ngoan hiểu được các việc này, ai là người sáng suốt biết được các việc đó? Vì chưng đường lối của Chúa là đường ngay thẳng và những người công chính sẽ đi trên đó, còn các người gian ác sẽ gục ngã trên đó".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 8-9. 12-13. 14 và 17

Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền lời ca khen Chúa (c. 17b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi; xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Nhưng Chúa ưa sự thật trong tâm khảm, và trong đáy lòng, Chúa dạy con điều khôn. Xin dùng cành hương thảo rảy con thanh khiết; xin tẩy rửa cho con được hơn tuyết trắng tinh. - Ðáp.

3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy vào Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 16-23

"Không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.

"Anh sẽ đem nộp giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến".

Ðó là lời Chúa.

 

Prepared to Preach Despite Persecution | Life of Jesus 

 

 

sự sống trốn chạy


 

Tiếp tục bài huấn dụ sai đi của mình với các tông đồ, nếu trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu nói đến mặt phải của sứ vụ thừa sai tông đồ, thì trong bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XIV Thường Niên tuần này, Chúa Giêsu nói đến mặt trái của sứ vụ ấy, liên quan đến số phận gian nan khốn khổ bất khả phân ly với sứ vụ chứng nhân của các vị. 


"Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết". 

 

 

Nếu "rắn" tiêu biểu cho ma quỉ tinh quái cám dỗ, như trong vườn địa đường, và nếu "bồ câu" tiêu biểu cho Thánh Linh, như trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa ở Sông Dược Đăng, thì "khôn như rắn" đây có nghĩa là hãy tỉnh thức đề phòng các mưu chước quỉ quyệt của ma quỉ, và "chân thật như bồ câu" đây nghĩa là hãy đơn sơ dễ dậy với Thánh Linh, vì không theo tác động của Thánh Linh, con người không thể nào chiến thắng ma quỉ tinh khôn hơn con người rất nhiều.

 

 

Nguyên tắc "khôn như rắn, chân thật như bồ câu" này có thể được áp dụng ngay trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở 2 điều: 1- "khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì"; 2- "Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác".


Thế nhưng, Chúa Giêsu đồng thời cũng trấn an các vị với 3 điều để các vị có thể tin tưởng chống đỡ, khôn ngoan tồn tại cho đến khi hoàn thành sứ vụ của các vị như sau:


"Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.... Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến".


Điều thứ nhất trong 3 điều này đó là tin tưởng chống đỡ: "khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con". Đúng thế, vì là việc của Thiên Chúa, Ngài sẽ lo việc của Ngài và bảo vệ thành phần thừa sai của Ngài, nhất là trong những lúc chúng từ của họ lên đến mức tột đỉnh và hùng hồn nhất.

 

 

Ở đây Chúa Kitô khuyên các tông đồ hãy lợi dụng chính lúc gian nan khốn khó nhất của mình để làm chứng về Người, để cho thấy rằng "bóng tối không thể át được ánh sáng" (Gioan 1:5), vì quyền lực trần gian chính là đối tượng, như một Philatô, cần phải được sự thật giải phóng trước hết và trên hết (xem Gioan 8:32). Và số phận chứng nhân tông đồ của các ngài không thể tách lìa với bách hại vì danh Người, như chính Người cũng đã bị như thế, và càng như thế lại càng nên giống Người, và càng cho thấy họ là chứng nhân đích thực của người.


Điều thứ hai trong ba điều đó là khôn ngoan tồn tại: "Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác". Ở đây Chúa Giêsu cho phép các tông đồ được trốn tránh những bách hại xẩy ra, không phải vì sợ chết cho bằng vì lợi ích cho chung đoàn chiên, không phải vì liều lĩnh cho bằng quí trọng mạng sống. Chính Chúa Giêsu mấy lần cũng tự thoát khỏi tay những kẻ tìm bắt Người khi chưa tới giờ của Người (xem Luca 4:30; Gioan 8:59).


Điều thứ ba trong ba điều đó là hoàn thành sứ vụ: "Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến". Câu này có thể Chúa Giêsu ám chỉ đến Cuộc Vượt Qua của Người hơn là đến việc Người tái giáng lần thứ hai. Nghĩa là các tông đồ chưa rao giảng xong cho thành phần "chiên lạc của Nhà Israel" thì đã đến thời điểm các vị cần phải theo Người lên Giêrusalem, nơi Người 3 lần đã tiên báo cho các vị về số phận kết thúc của Người ở đó. Câu này cũng có thể ám chỉ cho dù Chúa Kitô đã hoàn tất vai trò Thiên Sai Cứu Thế của mình để cứu cả nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết mà riêng dân Do Thái của Người vẫn chưa tin vào Người... "cho tới khi đủ số dân ngoại" (Roma 11:25-26).

 

 

Đúng thế, việc các vị môn đệ thừa sai tông đồ được Chúa Kitô sai đi rao giảng cho "chiên lạc nhà Israel" chỉ là việc dọn đường cho Người mà thôi, chứ không phải là chính việc cứu độ con người. Bởi thế, cho dù các vị có hoàn thành sứ vụ của mình trên khắp đất nước Do Thái chăng nữa, thì vẫn phải tiến đến tột đỉnh của mạc khải thần linh là cuộc Vượt Qua cứu độ của Chúa Kitô, một cuộc Vượt Qua cứu độ chẳng những cho riêng dân Do Thái là thành phần "chiên lạc Nhà Israel" mà còn chung cho cả nhân loại (bao gồm tất cả dân ngoại không phải dân Do Thái nữa), nhưng qua môi giới dân Do Thái, một sự thật đã được chính Thiên Chúa tiên báo trong lời hứa với tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 22:18), cũng như qua miệng Tiên Tri Hôsêa trong Bài Đọc I hôm nay:

 

 

"Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ, và đâm rễ như chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây ôliu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ được lừng danh như rượu Liban".

 

 

Chính dân Do Thái của Thiên Chúa, dù được đặc tuyển duy nhất giữa muôn dân, mà nhất là dù được trở thành môi giới hay môi trường cho ơn cứu độ của Thiên Chúa thông ban cho chung loài người, chính họ cũng cần phải nhận biết Thiên Chúa mới được rỗi, chứ không phải đã là người Do Thái, người thuộc về thành phần dân được đặc tuyển của Thiên Chúa là tự nhiên được cứu độ, nếu không tỏ ra xứng đáng với lòng thương xót vô cùng bất tận của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất hằng tỏ mình ra trong giòng lịch sử cứu độ của họ, thành phần cũng liên lỉ bất trung với Ngài, nhưng cũng biết ăn năn sám hối về lỗi lầm của mình và van xin cùng Ngài, như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:

 

 

 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi; xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.

2) Nhưng Chúa ưa sự thật trong tâm khảm, và trong đáy lòng, Chúa dạy con điều khôn. Xin dùng cành hương thảo rảy con thanh khiết; xin tẩy rửa cho con được hơn tuyết trắng tinh.

3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.

4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen.

 

 


Thứ Bảy


Bài Ðọc I: (Năm II) Is 6, 1-8

"Lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Năm vua Ozias băng hà, tôi nhìn thấy Thiên Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người phủ đền thờ. Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, mỗi vị có sáu cánh: hai cánh che mặt, hai cánh phủ chân và hai cánh để bay. Các vị đó luân phiên tung hô rằng: "Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa!" Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và Ðền thờ đầy khói.

Tôi nói rằng: "Vô phúc cho tôi, tôi chết mất! Vì lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh". Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp gắp từ trên bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: "Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi ngươi được xoá bỏ, tội của ngươi được tha thứ". Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: "Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho Chúng Ta?" Tôi liền thưa: "Này con đây, xin hãy sai con".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5

Ðáp: Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).

Xướng: 1) Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở; tự đời đời vẫn có Chúa. - Ðáp.

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin; lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 24-33

"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.

"Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.

"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời".

Ðó là lời Chúa.


Lc 10: 1-9 - GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG

sự sống bất khuất


Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XIV Thường Niên, Chúa Giêsu tiếp tục huấn từ sai đi của Người với 12 tông đồ. Người tiếp tục bằng những lời trấn an các vị: "đừng sợ", sau khi đã tỏ cho các vị biết về số phận đầy gian nan khốn khổ của thành phần thừa sai như các vị trong bài Phúc Âm hôm qua.

"Đừng sợ" những ai chụp mũ xuyên tạc cho mình: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Belzebul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó".

"Đừng sợmới có thể rao giảng làm chứng: "Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà".

Ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến sức mạnh vô địch của sự thật, một sự thật có sức giải phóng con người (xem Gioan 8:32), một "sự thật" cho dù có bị che giấu hay đè nén cuối cùng cũng được "thổ lộ". Bởi thế, Chúa Giêsu đã khuyên dạy các tông đồ rằng: "điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà".

Phải chăng "điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng" đây có nghĩa là những gì linh hồn Kitô hữu biết được qua đêm tối tăm đức tin như một cảm nghiệm thần linh, một xác tín siêu nhiên, cần phải loan truyền một cách trung thực như "nói nơi ánh sáng" hay "giữa ban ngày", "và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà" có nghĩa là những gì Kitô hữu cảm nhận được khi lắng đọng tâm hồn cầu nguyện thì hãy mang công bố công khai như "trên mái nhà"?

"Đừng sợ" thậm chí cả những ai sát hại mạng sống của mình: "Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần".

Ở đây Chúa Giêsu đã khôn khéo sử dụng những thí dụ cụ thể để chẳng những trấn an các môn đệ "đừng sợ" mà còn củng cố lòng tin tưởng của các vị nữa, bằng cách so sánh giá trị trổi vượt của các vị với loài chim, cũng như bằng hình ảnh tóc trên đầu rụng xuống, cả hai đều được Thiên Chúa quan phòng thần linh lưu ý, dù chúng chẳng là gì như sợi tóc rụng xuống hay chắng đáng gì như giá của 2 con chim sẻ.   

"Đừng sợ" mới có thể tuyên xưng đức tin: "Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời".


"Đừng sợ" còn áp dụng cả cho trường hợp của Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay, khi vị tiên tri này "nhìn thấy Thiên Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người phủ đền thờ. Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, mỗi vị có sáu cánh: hai cánh che mặt, hai cánh phủ chân và hai cánh để bay. Các vị đó luân phiên tung hô rằng: 'Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa!' Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và Ðền thờ đầy khói", thì tự nhiên cảm thấy: "Vô phúc cho tôi, tôi chết mất! Vì lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh".


Nhưng chính vị Thiên Chúa vô cùng uy nghi cao cả vĩ đại mà vị tiên tri này chiêm ngưỡng thấy đó đã biết được tất cả sự thật nơi con người mà Ngài đã tuyển chọn và sai đi làm tiên tri cho Ngài, nên, trước khi sai con người ấy đi, Ngài chẳng những đã cho con người này thị kiến thấy chính Ngài, mà còn sai thiên thần của Ngài đến thanh tẩy con người ấy cho xứng đáng với vai trò tiên tri được Ngài trao cho nữa. Bởi thế mà "lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp gắp từ trên bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: 'Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi ngươi được xoá bỏ, tội của ngươi được tha thứ'. Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: 'Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho Chúng Ta?' Tôi liền thưa: 'Này con đây, xin hãy sai con'".


Vị tiên tri của Bài Đọc 1 hôm nay vì được chính Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi, nên được Ngài trang bị cho xứng với vai trò ngôn sứ của một vị Thiên Chúa uy nghi cao cả và làm chứng cho vị Thiên Chúa là Đấng Tối Cao này, vị Thiên Chúa được Bài Đáp Ca hôm nay chúc tụng ngợi khen như sau:


1) Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai.

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở; tự đời đời vẫn có Chúa.

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin; lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn đời.

 

 

Thánh Augustinus Zhao Rong và Các Bạn Tử Đạo Người Trung Hoa

Vào ngày mồng 09 tháng 07 hàng năm, Giáo hội Công giáo cử hành Lễ kính nhớ Thánh Augustinus Zhao Rong và các bạn Tử Đạo. Thực ra, Lễ kính Thánh nhớ Augustinus Zhao Rong và các bạn Tử Đạo là ngày Lễ của nhiều vị Tử Đạo người Trung Hoa, cụ thể là của 120 vị, với tuổi đời khác nhau. Các Ngài đã trao hiến mạng sống mình cho Thiên Chúa trong những năm từ 1648 tới 1930. Một số trong các Ngài vẫn còn trong độ tuổi thiếu nhi, và số khác thì đã cao niên: Vị trẻ nhất là 7 tuổi, và vị cao niên nhất là 97 tuổi. Phần lớn trong số các Ngài đều là những người Giáo dân Trung Hoa, bao gồm những bậc cha mẹ, những người con, các Giáo Lý Viên và những công nhân. Cũng có một số Giáo sĩ và Tu sĩ, cả bản địa lẫn người nước ngoài. Trong số những vị Tử Đạo không được sinh ra tại đất Trung Hoa nhưng người ta vẫn kể các Ngài vào trong số những Vị Thánh Tử Đạo Trung Hoa, gồm nhiều Nữ Tu, Linh mục, đặc biệt là các Nữ Tu và Linh mục Dòng Thánh Đa-minh, rồi đến các Linh mục và Tu sĩ Dòng Tên cũng như các Linh mục và Tu sĩ Dòng Thánh Phan-xi-cô.

Các vị Tử Đạo Trung Hoa đã được tôn phong lên bậc Chân Phúc vào nhiều thời gian khác nhau, nhưng cùng được tôn phong lên bậc Hiển Thánh vào ngày mồng 01 tháng 10 trong Năm Thánh 2000 bởi Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II. Chính quyền cộng sản Trung Quốc tỏ ra vô cùng bất bình với biến cố Phong Thánh nêu trên. Tuy nhiên, sự quan phòng của Thiên Chúa lại vô cùng nhiệm màu, Ngài đã biến sự bực dọc và bất bình đến lỗ mãng của chính quyền cộng sản Trung Quốc thành điều tốt lành cho các tín hữu và cho Giáo hội tại quốc gia này: Vì chính quyền Trung Cộng đã bày tỏ sự bực dọc và bất bình với vụ này một cách quá đáng, nên nhiều người, không phải chỉ tại Trung Hoa đại lục, tại Hồng Kong, tại Đài Loan hay tại Ma-cao, nhưng còn tại nhiều nơi khác trên toàn thế giới, đã lưu tâm tới biến cố Phong Thánh đó. Rất nhiều người đã dành thời gian để tìm hiểu về cuộc đời và cái chết của các Vị Tử Đạo Trung Hoa, bởi sự ồn ào của chính quyền Trung Cộng đã khiến người ta đặt câu hỏi: Tại sao những người ấy lại được Phong Thánh? Và tại sao chính quyền Trung Cộng lại chống đối việc Phong Thánh đó?

Những gì được kể về các vị Tử Đạo Trung Hoa thật ấn tượng: Một vị đã tỏ ra vô cùng hạnh phúc khi người ta dẫn Ngài tới nơi hành hình Thập Giá, Ngài đã khóc vì sung sướng và đã tạ ơn Chúa, vì Ngài được phúc chịu Tử Đạo với cùng một cách thức như Đấng Cứu Chuộc của Ngài. Một vị Tử Đạo khác đó là Thánh Chi Zhuzi, chỉ mới 18 tuổi, đã chịu Tử Đạo trong cùng thời gian với Thánh Augustinus Zhao Rong. Khi người ta chặt đứt cánh tay phải của Ngài và chuẩn bị lột da Ngài khi Ngài vẫn còn đang sống, Ngài đã kêu lên rằng: „Từng miếng thịt của tôi và từng giọt máu của tôi sẽ làm chứng rằng, tôi là một Ki-tô hữu!“ Trong số các vị Tử Đạo có một Linh mục đã bị một người khác tiết lộ nơi ẩn náu của Ngài khi anh ta nhận được 30 đồng bạc; cũng có một vị khác đã được phúc Tử Đạo chỉ sau hai ngày kể từ khi được lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy; và có hai Linh mục Dòng Tên đã được phúc Tử Đạo ngay trong lúc đang cử hành Thánh Lễ.

Ki-tô giáo đến Trung Hoa qua ngả Syria, nơi mà Giáo hội ngày nay cũng đang phải sống với tính cách là nhóm thiểu số và đang phải trải qua sự bách hại. Những báo cáo về Giáo hội tại Trung Hoa chỉ cho thấy rằng, con số các tín hữu Công giáo tại Trung Hoa đã tăng lên rất nhiều, bất chấp sự đàn áp, sự trục xuất, bất chấp chủ nghĩa cộng sản và chiến dịch văn hóa. Tuy nhiên, trong hiện tại, các vụ phong chức Giám mục bất hợp pháp đang là những vết thương đầy đớn đau trong cộng đoàn Giáo hội, như Đức Bê-nê-đíc-tô XVI đã viết như thế trong một bức thư gửi cho người người Công giáo Trung Hoa vào năm 2007. Nhưng dù bị áp bức tư bề, Giáo hội tại Trung Hoa vẫn đang tiếp tục phát triển.

Lm Đa-minh Thiệu O.Cist

http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang7/Ngay9.htm

 

1310436309839089416_574_0
Ngày hôm nay, Giáo Hội cử hành thánh lễ tôn kính các vị tử đạo Trung Hoa. Các ngài là những người đã nêu gương anh dũng trong đời sống đức tin Kitô giáo dọc theo lịch sử của đất nước này. Thánh Augustinô Triệu Vinh (趙榮 Zhao Rong) đã anh dũng tử đạo để minh chứng đức tin, là một trong số 120 tín hữu Công giáo đã hy sinh suốt từ năm 1648 đến năm 1930.
Tháng 4 năm 1785, Đức Cha Jean-Gabriel Taurin Dufresse (1750-1815), thuộc hội Thừa Sai Paris và là Giám Quản Tông Tòa giáo phận Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, bị bắt và bị giải về Bắc Kinh, vì tội dám rao giảng Kitô Giáo trên vương quốc Trung Hoa.
Trên đường đi, Đức Cha được một nhóm binh sĩ hộ tống. Trong nhóm binh sĩ có một người ngoại giáo tên Triệu Vinh. Thái độ điềm tĩnh và hiền từ, khiêm tốn của vị Giám Mục thừa sai ngoại quốc đánh động sâu xa tấm lòng chàng trai Triệu Vinh.
Sau cuộc hành trình đó, chàng Triệu Vinh xin giải ngũ và tìm hiểu học hỏi về Kitô Giáo, một tôn giáo mà theo chàng, có thể trao ban cho con người sức mạnh vô song, thực thi nhân đức anh hùng.
Sau khi được rửa tội với tên thánh Agustino, Triệu Vinh không ngừng ở địa vị một giáo dân. Chàng tiến một bước xa hơn. Agustino xin gia nhập chủng viện và sau đó thụ phong Linh mục.
Cha Agustino Triệu Vinh được chỉ định coi sóc một giáo xứ Quảng Nguyên cũng thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Cha nhiệt thành rao giảng Lời Chúa, ban các Bí Tích và đưa rất nhiều người ngoại giáo theo Kitô Giáo.
Cha có chương trình mục vụ rất đặc biệt. Cha lần lượt đi từ làng này sang làng khác. Cứ mỗi lần đến một làng, Cha dành ra ba ngày đầu để giải thích Lề Luật Chúa, nói về 7 mối tội đầu, về các ân xá và về các bí tích. Cha đặc biệt nói về cuộc Khổ Nạn của Đức Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Rỗi nhân loại. Lời giảng của Cha vừa hùng hồn vừa chân thành đến độ làm cho mọi người nghe, ai nấy đều cảm động đến rơi nước mắt. Sau ba ngày giảng dạy là thời gian Cha ngồi tòa giải tội. Đây là lúc Cha lắng nghe từng tín hữu, khuyên bảo và chỉ dạy họ điều khôn ngoan, cách thức phải cẩn trọng trong lúc Đạo Công Giáo bị cấm cách và bị bắt bớ trong toàn nước Trung Hoa. Sau cùng, Cha Agustino Triệu Vinh ban bí tích rửa tội cho các tân tòng và cử hành Thánh Lễ cho tất cả các tín hữu Công Giáo.
Vào cuối năm 1814, Cha Agustino Vinh có linh cảm mình sẽ được đổ máu đào làm chứng cho Đạo Công Giáo. Cha nói với Cha Benedetto Dương:
– Giờ tôi đã già lại bệnh tật nên có lẽ tôi không trốn thoát khỏi cuộc lùng bắt của các binh lính. Xin Cha cầu nguyện nhiều cho tôi. Xin Thiên Chúa cho tôi ơn can đảm chịu đau khổ, để làm vinh danh Ngài.
Đầu năm 1815, Cha Agustino Triệu Vinh ngã bệnh nặng. Tuy thế, Cha vẫn tiếp tục chu toàn nhiệm vụ chủ chăn. Một ngày, có người đến mời Cha đi kẻ liệt. Dầu liệt giường, Cha vẫn nhận lời, nhờ người cáng Cha đến nhà người hấp hối. Sau khi ban các bí tích sau hết, và bệnh nhân êm ái trút hơi thở cuối cùng, Cha lại lên cáng ra về.
Giữa đường, Cha gặp nhóm lính đi tuần. Người dẫn đầu tỏ dấu nghi ngờ. Ông ra lệnh chặn cáng Cha lại và hỏi:
– Ông có phải tín hữu Công Giáo không?
Cha Agustino Triệu Vinh điềm tĩnh trả lời:
– Phải, tôi là Linh Mục Công Giáo!
Lời thú nhận quá tốt và quá đủ để bọn lính ập tới, lôi Cha xuống cáng và còng tay Cha lại .. Cha bị giải về Thành Đô. Tại đây, Cha bị đánh đập tàn nhẫn. Bọn lính tìm đủ mọi cực hình để làm cho Cha nản lòng bỏ Đạo. Nhưng Cha già Vinh vẫn kiên vững như đá. Bọn lính tức giận hét lớn:
– Sao Chúa của ông không xuống đây để bảo vệ ông?
Cha hiền từ trả lời:
– Thiên Chúa che chở linh hồn tôi, ban cho tôi đủ sức mạnh hầu tôi có thể chịu khổ vì Ngài. Các ông là kẻ phàm tục và điên rồ, các ông không thể nào hiểu niềm an bình và hạnh phúc mà Thiên Chúa tuôn đổ vào tâm lòng con người đâu!
Nghe Cha Agustino Triệu Vinh nói thế, bọn lính càng hăng máu dữ tợn hơn. Chúng giáng xuống thân xác đau yếu và già cả của Cha những trận đòn khủng khiếp. Cha yên lặng chịu đựng, không hé môi nói nửa lời than trách. Đánh chán rồi, bọn lính lại lôi Cha về phòng giam và bỏ Cha nằm đó, thập tử nhất sinh.
Dĩ nhiên Cha già Agustino Triệu Vinh không sống được lâu với trận đòn dữ tợn như thế. Ngày 27 tháng Giêng năm 1815, Cha êm ái trút hơi thở cuối cùng trong phòng giam, hưởng thọ 73 tuổi, trước khi chính thức nhận bản án tử hình do nhà vua châu phê.
Ngày 27 tháng 5 năm 1900, Cha Agustino Triệu Vinh được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII tuyên chân phúc cùng với Đức Cha Jean-Gabriel Taurin Dufresse và 8 vị tuẫn đạo Trung Hoa khác.
Chúa Nhật 1-10-2000, trong khung cảnh Đại Năm Thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II tuyên 120 vị Tuẫn Đạo Trung Hoa vào sổ bộ các Hiển Thánh, đứng đầu danh sách là Cha Agustino Triệu Vinh. Danh sách các vị anh hùng này bao gồm 76 giáo dân, một số em thiếu nhi thậm chí mới bảy tuổi, 8 chủng sinh, 24 linh mục và 6 giám mục. Trong số này, có 88 vị là người gốc Trung Hoa và 34 vị là các nhà truyền giáo đến từ nhiều quốc gia khác nhau, nhưng các vị đã nhận Trung Hoa là quê hương của mình.
 Chúng ta hãy noi gương thánh Augustinô Zhao Rong và các bạn tử đạo Trung Hoa. Như các ngài, chúng ta hãy sống niềm tin của mình cách vui tươi. Chúng ta hãy can đảm sống cho sự thật dù đôi lúc đó không phải là điều dễ thực hiện.
Tài liệu của nhà thờ thánh Phanxico Xavie (Chợ Lớn)

https://ungsinhdongten.net/thanh-augustino-zhao-rong-va-cac-ban-tu-dao-2/


 Ngày 9 tháng 7

Thánh Augustinô Zhao Rong và các bạn tử đạo

Ngày hôm nay, Giáo hội cử hành thánh lễ tôn kính các vị tử đạo Trung Hoa. Các ngài là những người đã nêu gương anh dũng trong đời sống đức tin Kitô giáo dọc theo lịch sử của đất nước này. Thánh Augustinô Zhao Rong, đã anh dũng tử đạo để minh chứng đức tin, là một trong số 122 tín hữu Công giáo đã hy sinh suốt từ năm 1648 đến năm 1930.

Vào năm 1815, một Giám mục tên Gioan Gabriel Đufresse bị bắt. Lúc ấy, việc thực hành đạo Kitô bị coi là một hành vi chống lại luật lệ của đất nước Trung Hoa. Một anh lính Trung Hoa canh giữ Đức Giám mục rất đỗi khâm phục ngài bởi sự bình thản và lòng kiên nhẫn đối với cuộc bách hại. Sau khi Giám mục Đufresse bị giết, người lính này đã xin gia nhập Giáo hội. Anh được chịu phép Thanh tẩy và nhận tên là Augustinô. Sau này, Augustinô gia nhập chủng viện và học làm linh mục.

Thụ phong linh mục chẳng bao lâu, Augustinô cũng bị bắt vì là Kitô hữu. Người ta đã tra tấn Augustinô dữ dội hầu làm cho ngài chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô. Thế nhưng, những đau khổ ấy lại chỉ giúp cho Augustinô Zhao Rong thêm can đảm và làm xác tín hơn niềm tin của ngài. Augustinô Zhao Rong bị lên án tử và tên ngài được ghi vào danh sách các tín hữu Trung Hoa anh dũng đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho niềm tin của mình.

Danh sách các vị anh hùng này bao gồm 76 giáo dân, một số em thiếu nhi thậm chí mới bảy tuổi, 8 chủng sinh, 24 linh mục và 6 Giám mục. Trong số này, có 88 vị là người gốc Trung Hoa và 34 vị là các nhà truyền giáo đến từ nhiều quốc gia khác nhau, nhưng các vị đã nhận Trung Hoa là quê hương của mình.

Chúng ta hãy noi gương thánh Augustinô Zhao Rong và các bạn tử đạo Trung Hoa. Như các ngài, chúng ta hãy sống niềm tin của mình cách vui tươi. Chúng ta hãy can đảm sống cho sự thật dù đôi lúc đó không phải là điều dễ thực hiện.

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-augustino-zhao-rong-va-cac-ban-tu-dao-42614