SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 


Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XV Thường Niên Năm A và
Chẵn


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Ðnl 30, 10-14

"Lời ở sát bên các ngươi, để các ngươi thực thi".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Môsê nói cùng dân chúng rằng: "Nếu các ngươi nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ các giới răn và huấn thị của Người đã được ghi chép trong sách Luật này, hãy trở về cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi hết lòng và hết linh hồn các ngươi. Thánh chỉ ta truyền cho các ngươi hôm nay không quá khó khăn cũng không quá sức các ngươi. Nó không phải ở đâu trên trời, để các ngươi có thể nói: 'Ai trong chúng tôi có thể lên trời mang luật xuống giảng cho chúng tôi nghe để chúng tôi thực hành được?' Nó cũng không phải ở bên kia biển, để các ngươi viện lẽ nói rằng: 'Ai trong chúng tôi có thể vượt biển, và mang nó về cho chúng tôi, để chúng tôi được nghe và thực hành điều đã truyền dạy?' Nhưng lời ở sát bên các ngươi, nơi miệng các ngươi, trong lòng các ngươi, để các ngươi thực thi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 68, 14 và 17. 30-31. 33-34. 36ab và 37

Ðáp: Các bạn khiêm cung, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh (c. 33).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi, xin nhìn đến tấm thân con. - Ðáp.

2) Phần con, con đau khổ cơ hàn, lạy Chúa, xin gia ân phù trợ bảo toàn thân con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân. - Ðáp.

3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù. - Ðáp.

4) Vì Thiên Chúa sẽ cứu độ Sion, Người sẽ tái thiết thành trì của Giuđa, con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa hưởng đất này, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Cl 1, 15-20

"Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Ðức Giêsu Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Người muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài và mọi loài tồn tại trong Người. Người là đầu thân thể tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng, Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người. và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 10, 25-37

"Ai là anh em của tôi?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Chúa Giêsu nói tiếp:

"Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông'. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 10, 25-37

 

 

Cảm Nghiệm Lời Chúa

 


Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XV Thường Niên Năm C hôm nay là bài Phúc Âm trong đó Thánh Luca thuật lại dụ ngôn về Người Samaritanô nhân lành, một dụ ngôn được Chúa Giêsu dùng để giải đáp cho vấn nạn "ai là anh em của tôi?", được "một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu". Không biết nhân vật "thông luật" nào đó, bấy giờ, sau khi nghe dụ ngôn ấy, có hiểu ý Chúa Giêsu muốn nói hay muốn dạy hay chăng, khi Người khuyên nhủ ông rằng: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy" sau khi vì này trả lời câu Người hỏi vị ấy rằng: "Ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?", và đã được vị thông luật trả lời rất chính xác là "kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy".

Câu trả lời của nhân vật thông luật trong Bài Phúc Âm hôm nay là câu vị này tự trả lời cho vấn nạn do chính vị này đặt ra hỏi Chúa Giêsu. Đó là lý do dân Do Thái đã nghe thấy Moisen nhấn mạnh đến yếu tố kiến thức tự nhiên của con người có lương tri, một kiến thức của loài được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh thần linh của Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26), nên luôn tìm chân thiện mỹ, biết phân biệt lành dữ để có thể sống xứng đáng với tư cách của mình là một "nhân linh ư vạn vật", là một loài có tâm linh và đạo lý, chứ không phải chỉ thuần túy duy vật như loài cầm thú, một loài sống liên hệ với nhau và cảm nhận nhau như chính bản thân mình - ái nhân như kỷ hay yêu người như thể thương thân, một nguyên tắc căn bản về đạo lý, được gọi là luật vàng về luân lý của bất cứ con người nào còn sống theo lương tâm chân chính. Bài Đọc 1 hôm nay chất chứa những lời "Môsê nói cùng dân chúng rằng":

"Nếu các ngươi nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ các giới răn và huấn thị của Người đã được ghi chép trong sách Luật này, hãy trở về cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi hết lòng và hết linh hồn các ngươi. Thánh chỉ ta truyền cho các ngươi hôm nay không quá khó khăn cũng không quá sức các ngươi. Nó không phải ở đâu trên trời, để các ngươi có thể nói: 'Ai trong chúng tôi có thể lên trời mang luật xuống giảng cho chúng tôi nghe để chúng tôi thực hành được?' Nó cũng không phải ở bên kia biển, để các ngươi viện lẽ nói rằng: 'Ai trong chúng tôi có thể vượt biển, và mang nó về cho chúng tôi, để chúng tôi được nghe và thực hành điều đã truyền dạy?' Nhưng lời ở sát bên các ngươi, nơi miệng các ngươi, trong lòng các ngươi, để các ngươi thực thi".

Và chỉ có từ nền tảng căn bản ái nhân như kỷ này, con người mới có thể đạt tới tầm mức trọn lành hơn mà thôi. Bởi vì, tấm mức trọn lành hơn mới là tấm mức viên trọn của loài đã được Thiên Chúa dựng nên tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26), ở chỗ sống hiệp thông. Và tầm mức trọn lành của con người cũng chỉ tìm thấy nơi Đấng được vị tông đồ dân ngoại Phaolô nói với giáo đoàn Côlôsê trong Bài Đọc 1 hôm nay, đó là "Ðức Giêsu Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Người muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài và mọi loài tồn tại trong Người. Người là đầu thân thể tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài".

"Ðức Giêsu Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Người muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình", và "
Người là đầu thân thể tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài", không phải chỉ có thế thôi, mà còn hơn thế nữa, như Thánh Phaolô đã nói thêm ở câu cuối cùng của Bài Đọc 1 hôm nay, một câu rất quan trọng để cho thấy tất cả những gì là trọn lành cao cả của chính Thiên Chúa được tỏ ra nơi Người, đó là: "Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người. Và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất". Có nghĩa là, qua Chúa Giêsu Kitô là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Thiên Chúa muốn con người chẳng những tuân giữ lề luật theo lương tâm và hợp với nhân bản làm người của họ, mà còn sống đức ái trọn hảo như Ngài nữa, như Ngài đã thực hiện với loài người ở nơi Chúa Giêsu Kitô.

Bởi thế, khi được nhân vật thông luật trong Bài Phúc Âm đặt câu hỏi với mình rằng "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời", Chúa Giêsu đã chỉ nhắc lại lề luật căn bản, khi "Người nói với ông: 'Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?'", và đã được vị này mau mắn thưa ngay với tất cả kiến thứ và thâm tín của mình là vị ấy đã đọc thấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Đúng thế, câu trả lời của nhân vật này chứng thực vị này là một nhà thông luật, bởi vị này đã nắm bắt được "toàn thể lề luật cùng các tiên tri đều qui vào hai giới răn ấy", như chính Chúa Giêsu đã minh định với một luật sĩ đã hỏi Chúa Giêsu để thử thách Người rằng: "Trong lề luật đâu là giới răn quan trọng nhất?" (Mathêu 22:35,40).

Tuy nhiên, luật lệ là như thế, nhưng không phải chỉ để "đọc" mà phải mang ra áp dụng thực hành nữa mới được. Vấn đề thực hành thực sự là không phải chuyện dễ đã đành mà còn phải hiểu rõ ràng nữa mới có thể áp dụng thực hành đúng như ý muốn của Đấng ban bố lề luật, nhờ đó mới nên trọn lành như Ngài muốn. Có thế nói hai giới răn cao trọng nhất này là những gì bất khả phân ly, ở chỗ, một khi con người "thương mến anh em như chính mình" là dấu chứng tỏ họ thực sự "yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn", hay ngược lại, một khi 
con người ta "yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn" được chứng thực nơi việc họ "thương mến anh em như chính mình", một việc ái nhân như kỷ xuất phát từ chính tấm lòng kính mến Thiên Chúa của họ, Đấng yêu thương họ thế nào thì họ cũng phải yêu thương anh chị em của họ như thế: "thương mến anh em như chính mình" đã được Thiên Chúa yêu thương, chứ không phải như chính mình yêu mình ở tầm mức công bằng, đừng làm gì cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình, hay ngược lại, hãy làm cho người khác những gì mình muốn họ làm cho mình.

Đó là lý do mới có dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Lành trong Bài Phúc Âm hôm nay, một dụ ngôn để giải đáp cho vấn nạn của nhân vật thông luật hỏi Chúa Giêsu rằng "ai là anh em của tôi?", một dụ ngôn cho thấy người "anh em của tôi" không phải là những ai do tôi chọn lựa hợp với ý của tôi, những người tôi thích, những ai thích tôi, những người theo tôi, những ai thân nhân hay thân hữu của tôi v.v., mà là tất cả mọi người không trừ ai, nhất là những ai xa lạ và khốn nạn trong xã hội loài người của tôi, thành phần tôi không thể nào yêu thương họ và hy sinh cho họ nếu tôi tiếp tục còn khuynh hướng lựa chọn đối tượng yêu "ai là anh em của tôi?", cho đến khi tôi trở thành một con người quốc tế (universal person), một con người công giáo (catholic person), một con người không còn là mình nữa mà là tha nhân, ở chỗ, tôi phải là anh em của mọi người chứ không bắt mọi người phải là anh em của tôi, nghĩa là một con người biết trở nên mọi sự cho mọi người, như Người Samaritanô Nhân Lành trong Bài Phúc Âm hôm nay, một nhân vật dụ ngôn hoàn toàn phản ảnh Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà "Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người".

Thật vậy, Chúa Kitô  "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình", Đấng "Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người", nhờ đó những ai sống theo gương mẫu của Người thì đạt đến tầm mức Thiên Chúa, tầm múc đức ái trọn hảo "như Cha của các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), cũng là Đấng "xót thương" (Luca 6:36), như được diễn tả nơi Người Samaritanô Nhân Lành trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay, một dụ ngôn có thể nói bao gồm tất cả Mầu Nhiệm Chúa Kitô.

 

"Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông'. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".

 

"Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp" đây, theo ý nghĩa toàn bộ của dụ ngôn này, chính là loài người bỏ Chúa (Giêrusaalem là nơi Chúa ngự) mà sống theo tự nhiên trần thế (ám chỉ nơi hình ảnh thành Giêricô), nên đã "bị rơi vào tay bọn cướp" là ma quỉ, một "tên gian trá và là cha của những gì là dối trá... tên sát nhân ngay từ ban đầu" (Gioan 8:44): "chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết", tình trạng con người sau nguyên tội vô cùng đáng thương và rất cần phải được cứu chữa bởi chính Lòng Thương Xót Chúa và cũng chính là đối tượng vô cùng xứng hợp của Lòng Thương Xót Chúa vô biên. Chính vì thế mới xuất hiện "một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương".

 

"Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc". Tác hành của nhân vật "động lòng thương" này chính là tác hành của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Làm Người, Vượt Qua và Cánh Chung, nên có thể nói tác hành ấy bao gồm tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho con người và nơi con người bị vướng mắc nguyên tội.

 

Trước hết, Người "lại gần" bằng Mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh của Người. Sau đó, Người đã "băng bó những vết thương", bằng cách chấp nhận những bệnh hoạn tật nguyền của chúng ta nơi nhân tính vô tội của Người (xem Isaia 53:4; Mathêu 8:17). Tiếp tới, Người đã "xức dầu và rượu" là tái sinh họ bởi trên cao bằng "nước và Thần Linh" (Gioan 3:3-5). Chưa hết, Người còn "đỡ nạn nhân lên lưng lừa của mình" nghĩa là được ở vào chính vị thế của Người, tức Người "ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12) cùng với Người. Sau hết, họ còn được Người "đưa về quán trọ" là Giáo Hội, nơi họ tiếp tục được chữa lành bằng 2 bí tích Hòa Giải và Xức Dầu Thánh, ám chỉ "2 quan tiền" Người trao cho chủ quán, để quán trọ Giáo Hội này liên tục "săn sóc" cho họ, trong thời gian họ đang hành trình đức tin với Giáo Hội lữ hành trên trần thế, vẫn còn có thể sa phạm, cần được chữa lành cho đến "khi trở về" của Người "trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết".

 

Trước lòng thương xót Chúa vô cùng bao la cao cả và nhưng không như thế, những tâm hồn nào nhận biết Người và cảm nhận được lòng thương xót của Người không thể nào không than lên với tất cả tâm tình thấm thía của Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi, xin nhìn đến tấm thân con.

2) Phần con, con đau khổ cơ hàn, lạy Chúa, xin gia ân phù trợ bảo toàn thân con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân.

3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù.

4) Vì Thiên Chúa sẽ cứu độ Sion, Người sẽ tái thiết thành trì của Giuđa, con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa hưởng đất này, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư.

 




Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 1, 10-17

"Các ngươi hãy tắm rửa, hãy dẹp khỏi mắt Ta các tư tưởng xấu xa".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Hỡi các hoàng tử Sôđôma, hãy nghe lời Chúa; hỡi dân Gômôra, hãy lắng tai nghe luật Thiên Chúa chúng ta. Chúa phán: "Muôn vàn hy lễ có ích lợi gì cho Ta? Ta đã chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên đực, mỡ các súc vật béo, máu bò đực, chiên con và dê đực.

"Khi các ngươi đến trước mặt Ta, ai kiểm soát các vật ấy nơi tay các ngươi, để các ngươi đi vào hành lang của Ta? Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày Sabbat và các ngày lễ trọng khác. Những cuộc hội họp của các ngươi đều là gian ác.

"Tâm hồn Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta, Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi. Và khi các ngươi giơ tay các ngươi lên, thì Ta quay mặt đi. Khi các ngươi càng cầu nguyện, thì Ta càng không nhậm lời, vì tay các ngươi vấy đầy máu.

"Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy dẹp khỏi mắt Ta các tư tưởng xấu xa; đừng làm điều xấu nữa, hãy làm điều lành; hãy tìm kiếm công lý, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những trẻ mồ côi và bênh vực người goá bụa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 49, 8-9. 16bc-17. 21 và 23

Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).

Xướng: 1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận từ đàn chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.

2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.

3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta cũng giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 34 - 11, 1

"Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.

Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".

Sau khi Chúa Giêsu truyền dạy xong các điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành phố của các ông.

Ðó là lời Chúa.

 

Evangelho de hoje (Mt 10,34 –11,1) - Egídio Serpa | Egídio Serpa ... 

 


Suy Niệm Cảm Nghiệm


Suy Niệm


Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XV Thường Niên là bài phúc âm tiếp theo loạt bài phúc âm của Thánh ký Mathêu về huấn từ sai đi của Chúa Giêsu với 12 tông đồ. Bài phúc âm hôm nay là phần cuối cùng của bài huấn từ sai đí ấy, một phần huấn từ bao gồm 2 điểm chính yếu liên quan đến 
"gươm giáo" và "bát nước".
"Gươm giáo": "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó".

"Bát nước": "Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".
Trước hết về "gươm giáo". Nếu chúng ta chỉ lấy nguyên câu Chúa Giêsu nói ở ngay đầu bài phúc âm hôm nay: "Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo", thì chắc chắn Người là tên phản kitô, vì giáo huấn của Người chất chứa những gì là phản nhân bản, chia rẻ, vô luân thường đạo lý. Thế nhưng, căn cứ vào ý tưởng của toàn đoạn văn, Người quả là chí lý khi khẳng định một câu nói lạ lùng hầu như lạc giáo như thế. Và nhất là căn cứ vào ý nghĩa Thánh Kinh của "gươm giáo" là chính Lời Chúa "sắc hơn gươm hai lưỡi(xem Do Thái 4:12).
Ở chỗ, Chúa Giêsu quả thực hoàn toàn không chủ ý gây ra chia rẽ giữa con người với nhau, nhưng giáo huấn của Người và tinh thần của Người tự bản chất vượt lên trên tất cả những gì là tự nhiên, nếu không muốn nói, theo cảm nhận chủ quan nơi nhiều người, là những gì phản tự nhiên: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy", đến độ thái độ và hành động của họ trở thành bất khả chấp đối với cả thành phần thân nhân ruột thịt của họ: "thù địch của người ta lại là chính người nhà mình", khi h cứ kiên gan và hiên ngang "mù quáng như cuồng tín" sống theo giáo huấn và tinh thần ngược đời của Người: "Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó".
Sau nữa về "bát nước". Bởi thế, trước những con người sống theo giáo huấn và tinh thần của Chúa Kitô có vẻ lập dị điên khùng như vậy mà những ai vẫn tiếp nhận họ thì phải kể là những con người ấy phải có một đức tin mãnh liệt, bởi những người tiếp nhận này đã nhận ra Người nơi thành phần thừa sai của Người: "Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy", và chính vì thế những con người ấy đáng được tưởng thưởng xứng đáng, cho dù so với công sức của thành phần thừa sai được những con người ấy tiếp nhận thì việc tiếp nhận của những con người này chẳng đáng là bao, chẳng khác gì như một "bát nước lã" vậy thôi: "Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu". Tại sao? Bởi vì: "Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính". 

Cảm Nghiệm

Kinh nghiệm sống đạo cho thấy, cho dù người lành không hề có vũ khí trong tay, hay chẳng bao giờ nghĩ đến tranh giành hay cạnh tranh hoặc tranh đấu, như chính đời sống của họ lại tạo nên chiến tranh, tạo nên ghen ghét và thù hận nơi thành phần gian ác trên thế gian này. Bởi đời sống của họ như ánh sáng chiếu soi vào các việc tối tăm của thành phần gian ác, như một cách tố cáo những việc gian ác của thành phần gian ác này và lên án con người tồi bại của thành phần gian ác ấy. Thế nên thành phần gian ác cần phải tìm hết cách ra tay triệt hạ cho bằng được ánh sáng làm chói mắt mình bằng chính bóng tối là các việc gian ác bạo lực hung tàn của mình.

Như thế, nếu chỉ vì sống đức tin, sống lời Chúa mà kẻ lành đã, đang và mãi mãi không thể nào không bị thế gian bách hại. Và như thế, không phải là Chúa Kitô đã mang gươm giáo lời Chúa xuống thế gian để gây chia rẽ hay sao, hoặc đúng hơn, để phân loại giữa kẻ lành và người dữ hay sao?

Tuy nhiên, người dữ đây không phải chỉ có những ai không nhận biết Thiên Chúa, vốn được gọi là dân ngoại hay lương dân, mà bao gồm cả thành phần sống đạo nhưng sống theo hình thức, bôi bác bề ngoài, gây gương mù gương xấu, hay sống phản lại tinh thần của đức tin là đức ái trọn hảo. Bởi đó nên mới xẩy ra tình trạng chính nội bộ "kẻ lành" là thành phần Kitô hữu với nhau cũng đã không thể nào thoát được tình trạng đụng chạm nẩy lửa đầy gươm giáo.

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định ý định của Ngài về các hành động đạo đức tốt lành như lễ vật dâng lên Ngài của thành phần cứ làm điều gian ác, như sau:

"Muôn vàn hy lễ có ích lợi gì cho Ta? Ta đã chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên đực, mỡ các súc vật béo, máu bò đực, chiên con và dê đực.... Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày Sabbat và các ngày lễ trọng khác. Những cuộc hội họp của các ngươi đều là gian ác... Tâm hồn Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta, Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi. Và khi các ngươi giơ tay các ngươi lên, thì Ta quay mặt đi. Khi các ngươi càng cầu nguyện, thì Ta càng không nhậm lời, vì tay các ngươi vấy đầy máu".

Bởi vậy, nếu trong Bài Đọc 1, Thiên Chúa vẫn kêu gọi thành phần gian ác hãy quay về với đường ngay nẻo chính: "Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy dẹp khỏi mắt Ta các tư tưởng xấu xa; đừng làm điều xấu nữa, hãy làm điều lành; hãy tìm kiếm công lý, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những trẻ mồ côi và bênh vực người goá bụa".

Ngài vẫn không hoàn toàn khinh chê lễ vật của họ hiến dâng lên Ngài, như câu đầu của Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy: "Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn". Vì dầu sao những của lễ bề ngoài đó cũng cho thấy thiện chí của họ, dù họ bất xứng, nên chính Thiên Chúa "sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả", để nhờ đó, như Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy, họ nhận biết Thiên Chúa và được hưởng ơn độ: "ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ".

 



Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 7, 1-9

"Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không còn tồn tại nữa".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Xảy ra trong đời Acaz con của Gioatham, Gioatham con của Ozia, vua nước Giuđa, Rasin vua nước Syria, và Phaxê con của Rômêlia, vua Israel, tiến lên gây chiến với Giêrusalem, nhưng không thể thắng trận được. Người ta báo tin cho nhà Ðavít rằng: "Syria đã đóng quân ở Ephraim". Nghe vậy, vua và dân đều run sợ, như cây trong rừng rung động trước gió.

Và Chúa phán cùng Isaia rằng: "Ngươi và con ngươi là Giasub, hãy đi đón vua Acaz đang ở cuối cống ao thượng, trên đường ra ruộng Fullon, và nói rằng: "Hãy cẩn thận ở yên lặng, đừng sợ, và đừng nao núng trước hai ngọn đuốc xông khói này là cơn thịnh nộ của Rasin, vua nước Syria, và của con trai Rômêlia, vì chưng Syria, Ephraim và con trai của Rômêlia đã toan mưu hại ngươi, họ nói rằng: "Chúng ta hãy tiến đánh Giuđa, quấy rối nó và lôi cuốn nó theo ta, và đặt con trai Tabeel làm vua".

Chúa phán thế này: "Sự việc này không thành và không xảy ra đâu, vì Ðamas là thủ đô của Syria, và Rasin là thủ lãnh của Ðamas. Còn sáu mươi lăm năm nữa, thì Ephraim sẽ bị tiêu diệt và không còn là một dân tộc nữa. Thủ đô của Ephraim là Samaria, và thủ lãnh của Samaria là con của Rômêlia. Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không còn tồn tại".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 47, 2-3a. 3b-4. 5-6. 7-8

Ðáp: Thiên Chúa kiên thủ thành trì của Người tới muôn đời (c. 9d).

Xướng: 1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Người là ngọn đồi duyên dáng, là niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu. - Ðáp.

2) Núi Sion là cùng kiệt phương Bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Người, tự chứng tỏ Người là an toàn chiến lũy. - Ðáp.

3) Bởi chưng, kìa các vua chúa đã họp nhau, họ đã nhất tề xung phong tác chiến. Nhưng thoạt nhìn thấy, họ đã ngẩn người ra, họ đã thất kinh và chạy trốn. - Ðáp.

4) Chính tại đây, họ đã khiếp run sợ hãi, đau đớn như người phụ nữ lúc lâm bồn, và lúc Chúa dùng ngọn gió Ðông đánh cho những chiến thuyền Tác-xi tan vỡ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 20-24

"Trong ngày phán xét, Tyro và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: "Hỡi Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.

"Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".

Ðó là lời Chúa.





Suy Niệm Cảm Nghiệm


Khi Tình Yêu Nhân Hậu... Cảnh Báo
Suy Niệm


B
ài Phúc Âm cho Thứ Ba trong Tuần XV Thường Niên hôm nay ch
ất chứa chính những lời "Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối", và trong lời vừa có tính cách cảnh cáo vừa khiển trách này, Người đã so sánh tính cách trầm trọng của "các thành" này là "Corazain, Bethsaida  Capharnaum" với những thành đã bị trừng phạt trong Cựu Ước như "Tyro, Sidon và Sodoma":

"Hỡi Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.

"Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".

Căn cứ vào lời cảnh báo và khiển trách có vẻ dữ dội trên đây của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, vấn đề được đặt ra ở đây là: 

1- Nếu Chúa Giêsu biết trước rằng các thành ở trong Cựu Ước xưa, như Tyro, Sidon và Sodoma mà được xem thấy phép lạ Người làm như ở Corozain, Bethsaida hay Capharnaum, họ đã ăn năn sám hối, để khỏi bị trừng phạt thì tại sao bấy giờ Thiên Chúa không làm phép lạ để cứu các thành ấy; 

2- Ngược lại, nếu Người đã biết trước rằng các thành được thấy các phép lạ Người làm vào thời của Người sẽ bị trừng phạt nặng hơn những thành đã bị trừng phạt trước đó thì tại sao Người vẫn cứ mất công vô ích làm phép lạ ở những thành ấy chứ?

Câu trả lời đó là nếu ai được trao bao nhiêu nén ân sủng, 2 nén, 5 nén hay 10 nén, chỉ cần sinh lời gấp trăm là đủ, tức là 2 nén cần sinh lợi 2 nén, 5 nén cần sinh lợi 5 nén và 10 nén cần sinh lợi 10 nén (xem Mathêu 25:14-23), thì ai không chấp nhận ân sủng hay không làm cho ân sủng sinh lợi cũng bị xét xử và trừng phạt tùy theo tội trạng và hoàn cảnh của họ (xem Luca 12:47-48): "Người tôi tớ nào biết ý chủ mình mà không sẵn lòng làm theo sẽ bị đòn nặng hơn... Càng được trao phó nhiều thì càng bị đòi nhiều", như các thành ở vào thời Chúa Giêsu được thấy các phép lạ Người làm tất nhiên phải nhận biết Người hơn mới phải, và vì không nhận biết nên sẽ hứng chịu luận phạt cân xứng. 

Vì Thiên Chúa không làm phép lạ ở các thành bị phạt trong Cựu Ước nên Người đã không trừng phạt họ nặng nề như các thành được thấy phép lạ trong thời Chúa Giêsu. Thật ra Người có làm phép lạ ở thành Sodoma đấy chứ, đó là thành này như một bãi bùn lầy tội lỗi đã chứng kiến thấy một bông sen công chính là Lot "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Biết đâu việc Thiên Chúa ra tay trừng phạt các thành ấy ngay ở đời này đã làm cho nhiều tội nhân trong các thành ấy bấy giờ đã tỏ lòng thống hối ăn năn trước khi chết vì thấy án phạt tỏ tường Thiên Chúa giáng xuống để trừng trị tội lỗi của họ. Còn các thành được thấy phép lạ của Chúa Giêsu, tuy không bị trừng phạt một cách tỏ tường và công khai cả thành như các thánh trước kia ấy, cũng sẽ bị trừng phạt một cách nào đó xứng với tội lỗi của họ.

Đúng thế, cho dù có "trừng phạt" con người tội lỗi, Vị Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu cũng chỉ sử dụng những đau khổ, thậm chí cả chết chóc, để cảnh báo con người và làm cho con người nhận biết Ngài để cuối cùng được cứu độ mà thôi, chứ không bao giờ muốn tận diệt con người hay vui thú khi thấy con người bị đời đời hư đi. Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan muốn lợi dụng tất cả mọi sự, dù tốt hay xấu, để tỏ mình ra cho con người, để họ nhận biết Ngài mà được sự sống thần linh của Ngài. 

 

Cảm Nghiệm 

 

Thật vậy, nếu Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót (Merciful Love) thì bất cứ việc gì Ngài làm cũng đều xuất phát từ bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Ngài, cho dù là những gì con người cho là hình phạt chăng nữa. Thật ra những sự dữ con người phải chịu là do chính tội lỗi của con người gây ra, không trực tiếp (bởi chính mình) cũng gián tiếp (qua người khác). Vậy những sự dữ là hậu quả của tội lỗi do con người gây ra ấy là hình phạt họ đáng phải chịu, chứ không phải thiên Chúa là Tình Yêu Nhân Hậu tự mình tạo dựng nên sự dữ và muốn ra tay trừng phạt họ.  

Ngay từ ban đầu cũng thế, Thiên Chúa tạo dựng nên "mọi sự rất tốt đẹp" (Khởi Nguyên 1:31), chứ không dựng nên bất cứ một sự dữ nào, không dựng nên sự chết. Tuy nhiên, Ngài đã cảnh báo con người về sự sữ là tội lỗi cùng với sự chết gây ra bởi tội lỗi của họ khi Ngài đặt họ vào trong vườn địa đường được Ngài dựng nên cho họ, một ngôi vườn biểu tượng cho tất cả những gì xứng với chức phận và quyền lợi của họ là loài được Ngài dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26). Tuy nhiên, đồng thời Ngài cũng đặt giới hạn cho họ là loại tạo vật ở chỗ họ không được đụng tới một thứ cây biết lành biết dữ ở giữa vườn, ám chỉ lương tâm, họ không được chạm đến, tức không được làm trái lương tâm được Ngài cài đặt nơi con người của họ kẻo chết (xem Khởi Nguyên 2:15-17). 

Thế nhưng con người đã bất tuân nên đã chết, ở chỗ mất ơn nghĩa với Thiên Chúa Hóa Công, và đáng chịu hình phạt do tội lỗi của họ gây ra đúng như lời cảnh báo của Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì là Tình Yêu Nhân Hậu nên Thiên Chúa đã sử dụng chính sự dữ con người gây ra cùng với hậu quả họ phải chịu theo phép công bằng để làm cho họ nhận biết mình và nhận biết Chúa, nhờ đó mà được cứu rỗi (xem Khỏi Nguyên 3:6-19). 

Lịch sử cứu độ của dân Do Thái là tất cả mạc khải thần linh của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất là Tình Yêu Nhân Hậu của họ, Đấng luôn tỏ bản tính là Tình Yêu Nhân Hậu của mình ra cho dân tộc được Ngài tuyển chọn giữa muôn dân, nhất là khi họ yếu đuối sa ngã hay yếu đuối bất lực trước đối phương, trước sự dữ trước mặt, để nhờ đó, dân của Ngài mỗi ngày một nhận biết Ngài hơn và tin vào Ngài hơn. 

Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy đúng như vậy, khi Vua Acaz nước Giuđêa, đang cai trị một vương quốc (Do Thái ở Miền Nam Đất Hứa) thuộc giòng dõi Đavít, vương tổ của Chúa Kitô, một vương quốc được chính Thiên Chúa hứa bảo tồn cho đến muôn đời (xem 2Samuel 7:16; Luca 1:32-33), bị lực lượng của Syria cùng với vương quốc Israel (vương quốc Do Thái bao gồm cả miền Bắc và miền Trung của Đất Hứa) hợp lại âm mưu tấn công: "Chúng ta hãy tiến đánh Giuđa, quấy rối nó và lôi cuốn nó theo ta, và đặt con trai Tabeel làm vua".  

Trước tình trạng hết sức hoảng sợ của cả vua lẫn dân thuộc vương quốc Giuđêa: "Nghe vậy, vua và dân đều run sợ, như cây trong rừng rung động trước gió", Thiên Chúa là Đấng đã chọn giòng dõi Đavít để Con Ngài nhập thể cứu thế làm sao có thể để cho những gì thuộc về Ngài bị lọt vào tay kẻ dữ, cho dù chính vương quốc Đavít, qua thành phần các vua cháu chắt chít chịt của vương tổ Đavít cũng gây ra không biết bao nhiêu là gian ác đáng trừng phạt, không thể tha thứ, Ngài vẫn ở với vương quốc này khi cần phải tỏ mình ra vào thời điểm ấn định của Ngài, nhất là vào những lúc con người không còn biết trông cậy vào đâu ngoài Ngài. Bởi thế, Bài Đọc 1, qua Tiên Tri Isaia, Ngài đã tỏ mình ra như thế này:

"Ngươi và con ngươi là Giasub, hãy đi đón vua Acaz đang ở cuối cống ao thượng, trên đường ra ruộng Fullon, và nói rằng: 'Hãy cẩn thận ở yên lặng, đừng sợ, và đừng nao núng trước hai ngọn đuốc xông khói này là cơn thịnh nộ của Rasin, vua nước Syria, và của con trai Rômêlia, vì chưng Syria, Ephraim và con trai của Rômêlia đã toan mưu hại ngươi, họ nói rằng: 'Chúng ta hãy tiến đánh Giuđa, quấy rối nó và lôi cuốn nó theo ta, và đặt con trai Tabeel làm vua'. Sự việc này không thành và không xảy ra đâu, vì Ðamas là thủ đô của Syria, và Rasin là thủ lãnh của Ðamas. Còn sáu mươi lăm năm nữa, thì Ephraim sẽ bị tiêu diệt và không còn là một dân tộc nữa. Thủ đô của Ephraim là Samaria, và thủ lãnh của Samaria là con của Rômêlia. Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không còn tồn tại". 

Trước việc tỏ mình ra như thế của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất là Tình Yêu Thương Xót trong suốt giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái mà Ngài đã quả thực làm cho chính dân của Ngài tuyển chọn, không nhiều thì ít, không sớm thì muộn, không trước thì sau, vào một lúc nào đó, nhận biết Ngài và dâng lời tri ân cảm tạ ngợi khen Ngài như các nhận thức và tâm tình của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay: 

1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Người là ngọn đồi duyên dáng, là niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu.

2) Núi Sion là cùng kiệt phương Bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Người, tự chứng tỏ Người là an toàn chiến lũy.

3) Bởi chưng, kìa các vua chúa đã họp nhau, họ đã nhất tề xung phong tác chiến. Nhưng thoạt nhìn thấy, họ đã ngẩn người ra, họ đã thất kinh và chạy trốn.

4) Chính tại đây, họ đã khiếp run sợ hãi, đau đớn như người phụ nữ lúc lâm bồn, và lúc Chúa dùng ngọn gió Ðông đánh cho những chiến thuyền Tác-xi tan vỡ.

 

 

 

 

Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 10, 5-7. 13-16

"Cái cưa có thể tự cao tự đại đối với thợ cưa sao?"

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Khốn cho Assur, là cây roi cơn giận của Ta. Cây gậy trong tay nó là cơn thịnh nộ của Ta. Ta sẽ sai nó chống lại dân ngoại dối trá, và truyền lệnh cho nó đi chống lại dân chọc giận Ta, để nó cướp bóc, mang chiến lợi phẩm về chà đạp dưới chân như bùn ngoài đường phố. Nhưng chính nó không đồng quan điểm như vậy, và lòng nó không tưởng nghĩ như thế. Trái lại, lòng nó ưa thích phá hoại, và huỷ diệt nhiều dân tộc. Vì chưng, nó nói rằng: 'Tôi đã dùng sức mạnh cánh tay tôi, và dùng sự khôn ngoan của tôi mà làm việc ấy, vì tôi thông minh. Tôi đã dời đổi biên giới các dân, đã cướp lấy kho tàng các vua quan, và như người hùng, tôi lật đổ truất phế các thủ lãnh. Tay tôi lấy của cải các dân như bắt tổ chim. Tôi vơ vét cả hoàn cầu như lượm các trứng rơi, không một ai đập cánh hoặc mở miệng kêu la'.

"Lẽ nào cái rìu lại khoe mình với kẻ cầm rìu sao? Lẽ nào cái cưa lại tự cao tự đại với thợ cưa sao? Lẽ nào cây roi có thể chống lại người cầm roi, và cây gậy có thể nâng tay người cầm gậy sao, vì nó chỉ là gỗ cây? Bởi đó Chúa tể là Thiên Chúa các đạo binh sẽ gửi sự điêu tàn đến giữa cảnh mầu mỡ của nó; và từ dưới cảnh vinh quang của nó, một ngọn lửa sẽ bốc cháy lên như ngọn lửa của một đám cháy".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 93, 5-6. 7-8. 9-10. 14-15

Ðáp: Chúa sẽ không loại trừ dân tộc của Chúa (c. 14a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, chúng chà đạp dân riêng Chúa, và làm khổ gia nghiệp của Ngài. Chúng bóp cổ khách kiều cư, người quả phụ, và chúng sát hại những kẻ mồ côi. - Ðáp.

2) Chúng nói rằng: "Chúa không nhìn thấy, và Thiên Chúa nhà Giacóp cũng chẳng hay". Ðồ ngu xuẩn trong dân, các ngươi nên hiểu biết; lũ dại khờ, bao giờ các ngươi mới nhận ra? - Ðáp.

3) Ðấng làm ra tai, há chẳng biết nghe? Ðấng nặn ra mắt, há không nhìn thấy? Ðấng giáo dục chư dân, há không sửa lỗi? Ðấng dạy bảo thiên hạ, há chẳng thông minh? - Ðáp.

4) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Người. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 25-27

"Chúa đã giấu không cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thưa rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".

Ðó là lời Chúa.








Suy Niệm Cảm Nghiệm


Mầu Nhiệm...
S
ự Dữ

Suy Niệm


B
ài Phúc Âm hôm nay, Th
ứ Tư tuần XV Thường Niên, thuật lại lời Chúa Giêsu nguyện cầu chúc tụng dâng lên Cha của Người liên quan đến mạc khải thần linh, bao gồm thành phần xứng hợp với mạc khải thần linh này và tác nhân thực hiện mạc khải thần linh này: 
"Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".
Thành phần xứng hợp với mạc khải thần linh: Trong lời nguyện cầu chúc tụng này, Chúa Giêsu đã xác định rõ thành phần xứng hợp với mạc khải thần linh này không phải là "những người hiền triết và khôn ngoan", mà là "những kẻ bé mọn". Tại sao thế?
Tại vì mạc khải thần linh là những gì siêu việt, những gì liên quan đến đức tin siêu nhiên, vượt lên trên (hơn là phản nghịch với) kiến thức tự nhiên của con người, đến độ cho dù con người có khôn ngoan thông thái đến thế nào đi nữa thì tự mình họ cũng chẳng có thể nào nắm bắt và thấu hiểu được những gì Thiên Chúa muốn mạc khải cho biết. Nhất là đối với những kẻ tự cao tự đại cho mình là thày đời như thành phần luật sĩ và biệt phái trong dân Do Thái. 
Tác nhân thực hiện mạc khải thần linh: Đó là chính Con, Đấng đã đến "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18). Thật vậy, "Thiên Chúa là Thần Linh" (Gioan 4:24), trong khi con người là thụ tạo vừa hữu hình lại hữu hạn, không thể nào biết được Thiên Chúa là ai và như thế nào, nếu không được Con tỏ ra cho: "không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho". Đó là lý do, "không ai có thể thấy vương quốc của Thiên Chúa nếu không được tái sinh từ trên cao" (Gioan 3:3), vì "cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, cái gì sinh bởi Thần Linh là thần linh" (Gioan 3:6). 
Đúng thế, chính vì con người không thể lên trời để biết được một cách chính xác Thiên Chúa là ai và như thế nào mà đích thân Thiên Chúa tự giáng làm người nơi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), nơi Đấng "tuy danh phận là Thiên Chúa nhưng.... đã tự hủy ra như không, mặc lấy thân phận tôi mọn..." (Philiphê 2:6-7). Bởi thế, chỉ có "những kẻ bé mọn" như Người và với Người mới có thể nhận ra Người, Đấng cũng chính là mạc khải thần linh của Thiên Chúa, như nhiều trường hợp xẩy ra trong thành phần bình dân đại chúng đã được các Phúc Âm thuật lại.

Cảm Nghiệm

 

Kitô hữu nói chung nhất là những ai sống đạo tốt lành nói riêng, thường cảm thấy mình gặp gian nan hoạn nạn hơn người sống theo tinh thần trần tục, nhất là những con người gian ác. Lắm khi chính thành phần gian ác này lại còn được Thiên Chúa sử dụng để làm việc của Ngài nữa, chẳng khác gì cái roi Thiên Chúa sử dụng để sửa phạt con cái Chúa, như ngày xưa trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, mỗi khi dân của Ngài bỏ Ngài đi ngoại tình với tà thần ngẫu tượng, hay ngày nay Ngài sử dụng cộng sản trong hầu hết thế kỷ 20 để trừng phạt thế giới tư bản duy lợi, và một số Hồi giáo cực đoan, nhất là nhóm Al Queda hay Nhà Nước Hồi Giáo (IS - Islamic State) xuất hiện ở Iraq từ 6/2014, để trừng trị thế giới văn minh Tây phương đang quay cuồng với nền văn hóa chết chóc theo chủ nghĩa tương đối duy nhân bản, nhất là từ đầu thế kỷ 21 tới nay.

Kinh nghiệm cho thấy cả thành phần gian ác cũng được Thiên Chúa, Đấng Quan Phòng Thần Linh làm chủ lịch sử loài người, tỏ mình ra nữa, bởi họ, khi bất ngờ được Ngài sử dụng, lại bị lầm tưởng, cứ cho rằng mình ngon lành lắm, cho rằng chính do quyền lực tự nhiên của họ mà họ có thể thống trị thành phần được Chúa đang muốn cứu độ bằng cách giáng phạt qua họ. Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Isaia, chính Thiên Chúa đã cho thấy cái mâu thuẫn giữa ý định của Thiên Chúa muốn sử dụng họ với ý nghĩ tự cao tự đại tự kiêu của họ như sau:

"Khốn cho Assur, là cây roi cơn giận của Ta. Cây gậy trong tay nó là cơn thịnh nộ của Ta. Ta sẽ sai nó chống lại dân ngoại dối trá, và truyền lệnh cho nó đi chống lại dân chọc giận Ta, để nó cướp bóc, mang chiến lợi phẩm về chà đạp dưới chân như bùn ngoài đường phố. Nhưng chính nó không đồng quan điểm như vậy, và lòng nó không tưởng nghĩ như thế. Trái lại, lòng nó ưa thích phá hoại, và huỷ diệt nhiều dân tộc. Vì chưng, nó nói rằng: 'Tôi đã dùng sức mạnh cánh tay tôi, và dùng sự khôn ngoan của tôi mà làm việc ấy, vì tôi thông minh. Tôi đã dời đổi biên giới các dân, đã cướp lấy kho tàng các vua quan, và như người hùng, tôi lật đổ truất phế các thủ lãnh. Tay tôi lấy của cải các dân như bắt tổ chim. Tôi vơ vét cả hoàn cầu như lượm các trứng rơi, không một ai đập cánh hoặc mở miệng kêu la'".

 

Tuy nhiên, vì Thiên Chúa làm chủ lịch sử loài người chỉ sử dụng họ cho mục đích tốt lành thiện hảo của Ngài, nhờ họ để đánh động dân Ngài ngày xưa hay Giáo Hội hoặc thế giới Kitô giáo băng hoại ngày nay, cho đến khi Ngài không cần đến họ nữa, thì Ngài quẳng cái roi trong tay Ngài đi, như Ngài đã loại trừ cái roi cộng sản đi vào cuối thế kỷ 20 ở cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, với Biến Cố Đông Âu tự động giải thể và cuối cùng là Liên Bang Sô Viết tự động từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản vào ngày 25/12/1991. Bởi vì, chính Ngài cũng muốn tỏ mình ra cho cái roi được Ngài sử dụng để trừng phạt nữa, như chính Ngài đã phán qua Tiên Tri Isaia trong bài Đọc 1 hôm nay:

 

"Lẽ nào cái rìu lại khoe mình với kẻ cầm rìu sao? Lẽ nào cái cưa lại tự cao tự đại với thợ cưa sao? Lẽ nào cây roi có thể chống lại người cầm roi, và cây gậy có thể nâng tay người cầm gậy sao, vì nó chỉ là gỗ cây? Bởi đó Chúa tể là Thiên Chúa các đạo binh sẽ gửi sự điêu tàn đến giữa cảnh mầu mỡ của nó; và từ dưới cảnh vinh quang của nó, một ngọn lửa sẽ bốc cháy lên như ngọn lửa của một đám cháy".

 

Bài Đáp Ca hôm nay bao gồm 4 câu, hai câu đầu cũng phản ảnh tâm thức vô thần của thành phần gian ác, đầy tự kiêu khi ra tay hành khổ thành phần dân Chúa, và hai câu sau cho thấy dự án thần linh của Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ dân Ngài, không bao giờ bỏ rơi họ, miễn là họ nhờ chịu khổ mà nhận biết Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ. Chúng ta đọc lại toàn Bài Đáp Ca hôm nay sẽ thấy rõ 2 phần và ý định thống lĩnh vô địch tối hậu vô cùng tốt lành nhân hậu của Thiên Chúa:

 

1) Lạy Chúa, chúng chà đạp dân riêng Chúa, và làm khổ gia nghiệp của Ngài. Chúng bóp cổ khách kiều cư, người quả phụ, và chúng sát hại những kẻ mồ côi.

2) Chúng nói rằng: "Chúa không nhìn thấy, và Thiên Chúa nhà Giacóp cũng chẳng hay". Ðồ ngu xuẩn trong dân, các ngươi nên hiểu biết; lũ dại khờ, bao giờ các ngươi mới nhận ra?

3) Ðấng làm ra tai, há chẳng biết nghe? Ðấng nặn ra mắt, há không nhìn thấy? Ðấng giáo dục chư dân, há không sửa lỗi? Ðấng dạy bảo thiên hạ, há chẳng thông minh?

4) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Người. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo.

 

 



Ngày 13/7 - Thánh Henry II

 

Thánh Henri II, hoàng đế

 

 

Chuyện về cuộc đời thánh Henry II kể lại rằng[1]:  Thánh Henry II sinh năm 972 tại Đức. Năm 23 tuổi (995) ngài trở thành công tước miền Bavaria. Một đêm kia, Henry nằm mộng. Henry thấy thánh Wolfgang (Vót-cang), là thầy giáo rất yêu chuộng của Henry thời thơ ấu, hiện ra với ngài. Wolfgang chỉ tay vào hai chữ “sau sáu” được viết trên bức tường. Henry tự hỏi điều đó có ý nghĩa gì? Có lẽ sáu ngày nữa Henry sẽ chết chăng? Sau sáu ngày hết lòng cầu nguyện và sám hối, Henry vẫn sống. Vậy là sáu tháng chăng? Henry lại tận tụy hết mình làm những việc thiện hơn bao giờ hết. Sau sáu tháng, Henry II càng mạnh khỏe hơn trước kia. Vậy là chỉ còn sáu năm để sống ở trần gian này nữa chăng? Thế nhưng, sáu năm trôi qua, thay vì qua đời, thánh Henry II lại được chọn làm hoàng đế nước Đức. Lúc đó, thánh nhân mới hiểu được toàn bộ ý nghĩa của thị kiến trước đây…

Năm 42 tuổi (1014), Henry II và hoàng hậu đến Roma và được phong vương cai trị Rôma. Cả đức vua lẫn hoàng hậu được chính đức thánh cha Bênêđictô VIII đội vương miện cho. Phải nói rằng, vua Henry II là một trong những nhà lãnh đạo tài giỏi vào bậc nhất của Rôma. Đối với thần dân, ngài ra công làm việc để giúp họ an vui hiệp nhất, ngài hết mực sống công bình, công tâm và luôn yêu cầu các tướng sĩ của ngài phải biết quý trọng danh dự. Đối với Giáo hội, ngài lưu tâm đến việc canh tân Giáo hội, xây dựng nhiều đại giáo đường, cải tạo nhiều nhà thờ, lập thêm các tòa giám mục, ngài tỏ lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu và Giáo hội bằng tấm lòng chân thành. Đối với bản thân, ngài là một người năng cầu nguyện và rất ham mộ đời sống đạo đức. Đối với gia đình, ngài đã thực hiện vai trò làm chồng với đầy lòng quảng đại và trách nhiệm. Ngày 13/7/1024, Henry II qua đời lúc 52 tuổi.

Nhận ra dấu chỉ của Chúa để thay đổi cuộc đời hướng đến phục vụ Chúa và Hội thánh đó là điều quan trọng thiết yếu của đời sống. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với người trẻ rằng: “Ơn gọi bản thân của riêng các bạn không chỉ hệ tại ở việc làm của các bạn, mặc dù đó là một cách biểu hiện. Ơn gọi của các bạn là một điều gì hơn điều đó nhiều: đó là một nẻo đường hướng dẫn nhiều nỗ lực và hành động của các bạn đối với việc phục vụ người khác.”[2]
 Thánh Henry II đã làm được điều này. Từ khi nhận được dấu chỉ, ngài đã ân cần chăm lo cho Hội thánh mới thiết lập được bình an và yên ổn, ngài “đặt lợi lộc trần gian xuống hàng thứ yếu, để cố đạt được nơi vĩnh cửu ở trên trời. Thật vậy, vinh quang hiện tại thật là mau qua và phù phiếm mà một khi hưởng thụ, người ta không còn nghĩ tưởng gì đến sự vĩnh cửu trên trời. Nhưng tình thương Chúa đã tiên liệu một phương dược hữu ích cho con người: Người ban cho chúng tôi của cải trần gian làm phương thế mua lấy một chỗ ở trên quê trời.”[3]

Phải nhìn nhận rằng, nhiều khi chúng ta và đặc biệt là các người trẻ tự cảm thấy mình chưa được trang bị đầy đủ và thích hợp cho việc đáp trả lại các dấu chỉ của Chúa, cả về phương diện kỹ năng lẫn phương diện phẩm chất đức hạnh. Chúng ta thường e sợ và lo ngại. ĐTC Phanxico cũng đã nói với những người trẻ: “Hỡi những người trẻ, các con là hiện tại, vì các con sống tích cực, cống hiến một sự đóng góp quyết định và quảng đại bởi sự lựa chọn của các con; đồng thời các con cũng là tương lai, vì sắp tới các con sẽ được mời gọi nắm giữ việc hướng dẫn linh hoạt, huấn luyện, phục vụ, và công tác truyền giáo… Trong tình hiệp thông huynh đệ, các con sẽ làm cho mình nên phong phú…, góp phần mở tung ra sự tươi mát và hăng say của các con, cùng nhau đưa ra các hình thức mới để sống Phúc Âm và các câu trả lời thích hợp cho việc chứng tá và loan báo Tin Mừng.

Nhờ lời chuyển cầu của thánh Henry II, xin Chúa cho chúng con nhìn ra và đáp lại tiếng Chúa qua các dấu chỉ Chúa gởi đến cho chúng con hằng ngày.

Henry đệ nhị tài ba
Làm vua nước Đức khi là quận công.
Hồng ân Thiên Chúa nhưng không,
Phong vương cho kẻ một lòng tín trung.
Rôma đế quốc trùng phùng
Trung tâm Giáo hội oai hùng thánh đô
Phong ba bão táp vô bờ
Tuy nhiên, được vững cũng nhờ Henry
Kỷ cương đạo đức ai bì
Dựng xây Nước Chúa không gì lung lay
Gương cho người trẻ ngày nay
Quyền hành giàu có chẳng lay tâm hồn
Một lòng vì Chúa chí tôn
Đời nay hạnh phúc, trường tồn đời sau. Amen


 
 
[1] Susan Helen Wallace, FSP. Các thánh dành cho bạn trẻ ngày 13/7, Đa Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC chuyển ngữ.
http://tinmung.net/CACTHANH/DanhChoBanTre/CacThanhBanTreINDEX.htm
[2] Đức Thánh Cha Phanxico, Tông huấn Christus Vivit, số 255.
[3] Trích hạnh thánh Henry của một tác giả xưa. Bđ 2, BĐKS ngày 13/7.

 

http://daminhrosalima.net/phut-cau-nguyen-moi-ngay/ngay-137---thanh-henry-ii-29484.html

 

 

Thánh Henry II sinh năm 972. Ngài trở thành công tước miền Bavaria năm 995. Một đêm kia, Henry nằm mộng. Henry thấy thánh Wolfgang, là thầy giáo rất yêu chuộng của Henry thời thơ ấu, hiện ra với ngài. Wolfgang chỉ tay vào hai chữ “sau sáu” được viết trên bức tường. Điều đó có ý nghĩa gì? Có lẽ sáu ngày nữa Henry sẽ chết chăng? Nghĩ như vậy nên ngài đã cầu nguyện hết sức tha thiết. Tuy nhiêu, sáu ngày trôi qua và sức khỏe Henry vẫn tốt đẹp. Vậy có lẽ là sáu tháng chăng? Vị công tước Bavaria lại tận tụy hết mình làm những việc thiện hơn bao giờ hết. Sau sáu tháng, Henry II vẫn mạnh khỏe hơn cả trước kia nữa. Vậy Henry II lại nghĩ rằng ngài chỉ còn sáu năm để sống ở trần gian này nữa thôi. Thế nhưng sáu năm trôi qua, thay vì qua đời, thánh Henry II lại được chọn làm hoàng đế nước Đức. Lúc đó, thánh nhân mới hiểu được toàn bộ ý nghĩa của thị kiến trước đây.

Thánh Henry II đã ra công làm việc để giúp cho thần dân của ngài được an vui và đất nước được hiệp nhất. Để bảo vệ sự công bình, Henry II đã tổ chức nhiều cuộc chinh chiến. Trong các trận chiến, Henry II rất có công tâm và ngài cũng yêu cầu các tướng sĩ của ngài phải biết quý trọng danh dự. Khoảng năm 998, Henry II kết hôn với một phu nhân hiền lành và dễ thương tên là Cunêgun. Đến năm 1014, Henry II và Cunêgun sang Rôma và được phong vương cai trị Rôma. Đó là một vinh dự lớn lao vì cả đức vua lẫn hoàng hậu được chính đức thánh cha Bênêđictô VIII đội vương miện cho.

Vua Henry II là một trong những nhà lãnh đạo tài giỏi nhất của Rôma. Ngài đã đề đạt việc canh tân Giáo hội, khuyến khích phát triển những tu viện mới thành lập và xây cất nhiều ngôi thánh đường nguy nga tráng lệ. Henry II bày tỏ lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu và Giáo hội bằng tấm lòng chân thành. Thánh nhân là một người năng cầu nguyện và rất ham mộ đời sống đạo đức. Ngài đã thực hiện vai trò làm chồng và làm người lãnh đạo với đầy lòng quảng đại và trách nhiệm. Khi qua đời năm 1024, Henry II mới 52 tuổi. Đến năm 1146, Henry II được đức chân phước giáo hoàng Êugiêniô III tôn phong hiển thánh. Đức thánh giáo hoàng Piô X đã đặt vua thánh Henry II làm bổn mạng của các hội viên sống tinh thần thánh Bênêđictô. 

Thiên Chúa mời gọi mọi người, trong mọi nghề nghiệp và mọi lãnh vực của đời sống, nên thánh. Đừng ai nghĩ rằng mình quá bận rộn hoặc quá quan trọng đến nỗi không thể đặt Thiên Chúa lên trên đời sống của mình. Thật ra, khi Thiên Chúa được đặt lên trên hết, thì mọi thứ khác sẽ tự có chỗ cho riêng nó. Đối với chúng ta, Thiên Chúa phải được đặt ở vị thế ưu tiên số một.

Biên dịch: Đa Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC

http://mtgcaimon.net/mtgnews/index.php/suy-niem/hanh-cac-thanh/4493-ngay-13-thang-7-thanh-henry-ii.html

 

Gương Thánh nhân: Thánh Hen-ri sinh năm 973, nước Đức, thuộc gia đình vương giả quý tộc. Lớn lên, Ngài được Đức Giám mục giáo phận Ra-tít-bon giáo dục đạo đức, và đã khấn giữ mình đồng trinh cho đến chết.

Nhưng cha mất sớm, Thánh nhân phải thay cha làm vua miền Ba-vi-ê. Ngài phải vâng lời mẹ lập gia đình. Nhưng Chúa quan phòng hướng dẫn Ngài cưới cô Cu-nê-gon-đa, một thiếu nữ xinh đẹp cả thể xác lẫn tâm hồn, chính cô cũng đã hứa với Chúa sống đời độc thân. Thế là cả hai sống với nhau như bạn thân cho đến chết.

Thánh nhân làm vua, cai trị nước Đức cả nước Ý, và được Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô thứ 8 tấn phong hoàng đế vào năm 1014. Ngài là một vị hoàng đế thông minh nhân đức, tính tình hiền hậu nhân ái, được toàn dân quý mến kính chuộng. Công việc trước tiên Ngài thực hiện là tái lập trật tự an ninh, công bằng xã hội, cho người dân được an cư lạc nghiệp. Ngài đi khắp nước dẹp loạn, chống áp bức bất công; đến đâu Ngài cũng tìm gặp những người nghèo khổ, kẻ thất nghiệp, giải quyết công ăn việc làm cho họ.

Và mặc dầu việc nước đa đoan. Thánh nhân cũng hết lòng lo giúp việc đạo. Ngài chọn những người tài đức lên làm Giám mục cai quản các giáo phận trong khắp cả nước Ý và nước Đức, đồng thời thành lập thêm nhiều giáo phận mới, mở mang Giáo hội, canh tân các dòng tu, xây dựng Thánh đường, như lời một tác giả đã viết về Ngài:

“Khi người tôi tớ thánh thiện của Thiên Chúa được xức dầu làm vua, Ngài không lấy việc lo cho phần đời làm đủ, nhưng để được triều thiên bất tử, Ngài còn lo chiến đấu cho Vua Cả trời đất, vì phục vụ Người là cai trị vậy. Thế nên Ngài ân cần mở mang đạo thánh làm cho các nhà thờ có tư hữu và trang hoàng lộng lẫy các nhà thờ đó. Ngài lấy chính đất của mình mà lập toà Giám mục Bam-béc, chọn hai Thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô với Thánh Gio-gi-ô tử đạo làm bổn mạng cho toà Giám mục ấy, lập hợp đồng đặc biệt giữa toà Giám mục và Toà Thánh Rô-ma, để quy về cho ngôi toà độc nhất cái vinh dự như ý Chúa muốn, và để làm cho toà Giám mục mới nhờ sự bảo trợ ấy mà được vững chắc hơn”.

“Để cho mọi người thấy rõ người tôi tớ thánh thiện của Chúa đã lo lắng đến mức nào cho giáo phận mới nầy được bình an và êm thắm, ngay cả trong tương lai nữa, thì chúng tôi xin trích dẫn mẫu thư dưới đây để làm bằng chứng:

“Hen-ri nhờ lòng từ ái quan phòng của Chúa mà được làm vua, xin gởi lời thăm tất cả con cái trong Hội thánh, bây giờ và sau nầy. Chúng ta được Kinh Thánh dạy dỗ và nhắc nhở bằng những giáo huấn hết sức tốt lành, là phải từ bỏ của cải phù vân và đưa các lợi ích trần gian nầy xuống hàng thứ yếu, để lo cho được nơi cư ngụ vĩnh viễn ở trên trời…”

“Thế nên trẩm không hề quên ơn thương xót đó, cũng hằng ý thức rằng: nhờ lương hải hà nhưng không của Chúa mà được vinh dự hoàng đế nầy. Và vì vậy, trẩm nghĩ các việc sau đây thật là hợp lý: Không những trẩm phải trang hoàng thêm cho các đền thờ mà các bậc tiên vương đã xây dựng, mà để sáng danh Chúa hơn, trẩm còn phải xây dựng thật nhiều đền thờ khác và công đức nhiều vào đó để bày tỏ lòng đạo đức và biết ơn”.

Thánh nhân qua đời ngày 13 tháng 7 năm 1024, sau khi đã tận lực phục vụ Thiên Chúa và đồng loại.

Quyết tâm: Noi gương Thánh Hen-ri, hằng ngày lo làm tròn bổn phận đối với gia đình, và quê hương xứ sở, đồng thời cũng hết lòng giúp việc Chúa và phục vụ Hội thánh Người.

Lời nguyện: Lạy Chúa, Cha đã ban cho Thánh Hen-ri được đầy tràn ân sủng và đưa Thánh nhân từ ngai báu trần gian lên hưởng vinh quang thiên quốc. Vì lời Thánh nhân chuyển cầu, xin ban cho chúng con giữa cuộc sống hay thay đổi nầy, biết giữ lòng trong sạch ngay thẳng, mà mau bước tiến về cùng Chúa.

GPVL

http://giaoxutanviet.com/13-thang-bay-thanh-henry-ii-972-1024/

 

Thánh Henri sinh năm 972. Cha Ngài là Henri bá tước xứ Bavière. Mẹ Ngài là Gisèle, con gái của Conrad, vua miền Bourgogne. Để bảo đảm cho việc giáo dục con cái, Ngài được mẹ giao phó cho các thầy dòng ở Mildeshim, miền Saxe, rồi sau đó cho thánh Wolfgang, giám mục Ratisbonne.

Nhưng thật rủi ro, trong một năm, Henri đã chịu hai cái tang cha và thầy.

Thánh Wolfgang từ trần ngày 30 tháng 10 năm 994 và vua Henri từ trần ngày 28 tháng 12 năm 994. Tuy nhiên ở bên kia thế giới các Ngài dường như không ngừng săn sóc Henri. Một truyền thuyết kể rằng: Henri đã mơ thấy thánh Wolfgang hiện ra viết trên tường nhà thờ hai chữ “còn sáu”. Tỉnh dậy, Henri nghĩ rằng mình chỉ còn sống được sáu ngày nữa. Ngài vội vã bố thí rộng rãi để chuẩn bị ra trước tòa Chúa. Nhưng rồi hạn định đã qua Henri vẫn sống. Vị bá tước nghĩ rằng Ngài còn sáu tháng để làm việc lành. Sáu tháng trôi qua Ngài vẫn sống. Lần này Ngài nghĩ thời hạn kéo dài 6 năm và cố gắng sống hoàn hảo hơn nữa. Sau 6 năm trong trường nhân đức ấy, Henri bỗng được chọn làm hoàng đế nước Đức -Roma.

Trước khi lên ngai hoàng đế, Henri đã kế vị người cha từ trần, lên làm bá tước miền Bavière. Các lãnh Chúa thân thiết với Ngài. Dân chúng cũng cảm mến Ngài sâu xa. Họ ao ước bá tước trẻ của mình lập gia đình. Nhưng Ngài đã hứa với Chúa sẽ sống độc thân. Vì vâng lời mẹ và dưới áp lực của các lãnh Chúa. Ngài nhận cưới Cunégonda, một thiếu nữ trong số 11 người con của công tước miền Luxembourg.

Nàng có sắc đẹp mặn mà và nhiều đức tính làm cho mọi người mến phục. Sau các lễ nghi cưới hỏi, lúc về chốn riêng tư, Henri mở lời với người bạn đời: – Em yêu, anh không muốn em không hay biết rằng anh đã thề với Chúa sẽ hiến dâng hồn xác phụng sự Ngài, và vì tình yêu Chúa Giêsu Kitô, anh muốn tiếp tục hoàn toàn.

Và Cunégonde vui sướng trả lời: – Chúa công của em, lời khấn hứa, em cũng đã hứa rồi. Thật hạnh phúc, chúng ta có thể trung thành với những ước nguyện của chúng ta.

Đó là đám cưới tinh tuyền của Henri và Cunégonde. Hoàng đế Henri lên ngôi và được Đức Giám mục thành Mayence xức dầu phong vương năm 1002. Mấy hôm sau hoàng hậu Cunégonde cũng được truy phong và đội triều thiên ở giáo đường Paderbonne. Với tính tình vui vẻ, bình dân và đầy lòng bác ái, hoàng đế rất được dân chúng mến chuộng. Nhưng đế quốc Đức – Roma lúc ấy đang thời suy vong và tình hình rất phức tạp. Vì thế việc đầu tiên của hoàng đế là lo giải hoà các cuộc tranh chấp. Trước hết, Ngài nhường quyền bá tước miền Bavière chi Henri, người Luxembourg.

Tuy nhiên có thể nói rằng: suốt đời hoàng đế, Ngài luôn phải lo vãn hồi trật tự trong đế quốc. Ngay khi lên ngôi hoàng đế, Ngài mang quân sang chinh phục đất Ý, là nơi Arduin tự phong làm vua, tách rời khỏi đế quốc. Dẹp tan đối phương ở biên giới, gần núi Alpes, Ngài đã được dân chúng tưng bừng đón rước. Đức Tổng Giám mục Milanô phong vương cho Ngài tại Pavie. Trở về nước Ngài lại phải đối phó với Boleslaw, xứ Balan. Mấy năm sau, Boleslaw bị quân nhà vua đánh tan và Jarômia lên quản trị xứ Balan.

Bất đắc dĩ, vua Henri mới phải dùng đến binh lực, nhưng Ngài luôn tỏ ra nhân từ. Chẳng hạn Hermann vì muốn tiếm ngôi, đã đốt phá thành Strabourg. Trước lời khuyên nên trả thù thành phố dung dưỡng Hermann, hoàng đế trả lời: – Thiên Chúa trao quyền tối thượng cho ta, không phải là mang đến quanh ta những sát nhân và cướp bóc, nhất là không phải để cho ta phải thiệt mất linh hồn.

Lời này đến tai Hermann và ông ta hối cải.

Hoàng đế Henri bảo vệ Đức giáo hoàng Bênêditô chống lại đức giáo hoàng giả. Nhờ Ngài. Đức giáo hoàng nghĩ tới một Giáo hội trần thế, đã trao cho Ngài một trái cầu bằng vàng có cắm thánh giá để biểu trưng quyền hạn trao phó của Ngài, lo cho vương quyền Chúa Kitô phổ biến khắp muôn dân. Trở lại quốc gia, Ngài vội lo dẹp loạn ở Lombardie. Rồi với nhiệt tình, Ngài đã viếng tu viện Cluny. Ơ đó cầu nguyện lâu ngày và tặng cho tu viện món quà của Đức giáo hoàng.

Hoàng đế sống trong cung điện như trong tu viện và chỉ nghĩ tới hòa bình và đức ái. Ngài góp phần cải hóa dân Hungarie bằng việc gả em gái mình cho vua thánh Stêphanô. Để gây thuận hòa giữa các dân tộc, Ngài thực hiện cuộc gặp gỡ vua Robert nước Pháp. Đối với Giáo hội, Ngài lo trùng tu các thánh đường, giúp đỡ các giám mục. Đặc biệt hơn cả, Ngài đã thành lập giáo phận Banberg và chính tại nhà thờ chính tòa giáo phận này Ngài sẽ được mai táng.

Trên ngôi hoàng đế, Ngài luôn trung thành với lý tưởng. Giữa muôn công việc bề bộn, Ngài luôn dành thời gian cho việc cầu nguyện. Tương truyền rằng ao ước lớn lao nhất của Ngài là được sống trong tu viện. Lần kia, Ngài tới thăm tu viện thánh Vanne ở Verdun. Ngài đã xin với chân phước Richasd, tu viện trưởng nhận Ngài làm tu sĩ. Đức Đan viện phụ nói rằng: chỗ an toàn của vị hoàng đế là ở trên ngai tòa hơn là ở trong tu viện. Khi thấy vị hoàng đế khẩn nài, Đức Đan viện phụ hỏi: – Ngài có sẵn sàng thực hiện đức vâng lời cho đến chết không ?

Hoàng đế Henri cương quyết trả lời : – Con sẵn sàng.

Đức Đan viện phụ liền nhận Ngài như một tu sĩ của dòng và nhân danh đức vâng lời, truyền cho Ngài cai quản đế quốc để hiến thân tìm vinh quang Chúa và ông cứu rỗi cho thần dân.

Ngày 15 tháng 7 năm 1024 hoàng đế Henri từ trần, ai khi đã dùng trọn sức lực để xây dựng một đế quốc theo tinh thần Kitô giáo. 

 

http://yeuthuongphucvu.com/2019/07/12/thanh-henri-973-1024-ngay-13-7/

 


 


Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 26, 7-9. 12. 16-19

"Hỡi những kẻ nằm trong tro bụi, hãy thức dậy và hãy nhảy mừng".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðường lối người công chính thì ngay thẳng, Chúa ban cho bằng phẳng đường nẻo của người công chính. Lạy Chúa, chúng con cậy trông Chúa trong đường xét xử của Chúa. Thánh danh và sự kính nhớ Chúa là sự ước mong của tâm hồn. Ban đêm hồn con khát khao Chúa, và sớm mai khi thức dậy, lòng trí con hướng về Chúa. Từ khi Chúa thực hiện việc xét xử ở trần gian, thì người dương thế học biết sự công chính.

Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con ơn bình an, vì mọi việc chúng con làm, đều do Chúa làm cho chúng con.

Lạy Chúa, trong cơn hoạn nạn, chúng con đã tìm kiếm Chúa, và trong khi Chúa sửa dạy, chúng con kêu van đến Chúa. Lạy Chúa, trước tôn nhan Chúa, chúng con khác nào như đàn bà mang thai sắp sinh, kêu la đau đớn. Chúng con cưu mang, chúng con đau đớn như phải sinh con.

Chúng con không mang lại sự cứu độ cho trần gian, và không còn người sinh ra trên trần gian. Người chết của Chúa sẽ được sống, các xác chết của con sẽ sống lại. Hỡi những kẻ nằm trong tro bụi, hãy thức dậy và nhảy mừng, vì sương Chúa là sương ánh sáng, và trái đất sẽ làm tái sinh u tối.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 101, 13-14ab và 15. 16-18. 19-21

Ðáp: Từ trời cao xanh Chúa đã quan sát địa cầu (c. 20b).

Xướng: 1) Phần Chúa, lạy Chúa, đời đời còn mãi và danh Ngài tồn tại đời nọ tới đời kia. Xin Ngài đứng lên, thương xót Sion, nay là thời để Ngài quan tâm phù trợ. Các bầy tôi ưa thích tường hoa móng đá, và ngậm ngùi thương đống gạch tro hoang tàn. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van. - Ðáp.

3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 28-30

"Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".

Ðó là lời Chúa.

 




Suy Niệm Cảm Nghiệm


Cứ làm rồi sẽ biết
Suy Niệm


B
ài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XV Thường Niên hôm nay l
à bài phúc âm tiếp ngay sau bài phúc âm hôm qua, như thể Người kín đáo kêu gọi những ai "những người hiền triết và khôn ngoan" là thành phần không được mạc khải thần linh tỏ ra cho như "những kẻ bé mọn" trong bài Phúc Âm hôm qua cho biết, hãy làm sao sống "hiền lành và khiêm nhượng" như Người thì tự nhiên "mạc khải thần linh" sẽ được tỏ hiện cho họ như cho "những kẻ bé mọn".

"Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai mệt mỏi và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Trong lời kêu gọi này của Chúa Giêsu, theo thứ tự, chúng ta thấy mấy điều rất chí lý cho dù ngược đời sau đây:

1- "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai mỏi mệt và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi": 

Ở đây Chúa Giêsu kêu gọi "tất cả những ai mệt mỏi và gánh nặng" thì "hãy đến với" Chúa để Người "bổ sức cho". Thật vậy, theo tâm lý, sở dĩ con người cảm thấy cuộc đời đã trở thành "gánh nặng" nơi các trách nhiệm hay nghĩa vụ, kể cả những gì vốn được họ mơ ước theo đuổi, như địa vị danh giá chức quyền hay tình yêu hôn nhân v.v., là vì trong lòng họ đã cảm thấy "mệt mỏi", chán chường. 

Nhưng tại sao lại hay xẩy ra hiện tượng bất nhất này, đến độ có thể đi đến chỗ bỏ cuộc hay đứt gánh giữa đường thảm thương này? Phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu sau khi kêu gọi họ thì Người đã khuyên họ như sau:

2- "Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an"

Phải chăng vì họ hung hăng dữ tợn và kiêu căng tự ái, không "hiền lành và khiêm nhượng" như Người mà họ mới dễ bị "mệt mỏi và gánh nặng", gây ra bởi những đụng chạm và thất vọng, không được như những gì họ chủ quan mong muốn hay tham vọng? 

Nếu quả thật như vậy thì Chúa chỉ cho họ cách chữa trị vô cùng công hiệu, đó là chịu trước học sau, ở chỗ: "Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta" - mang ách trước rồi mới học sau, chứ không phải học trước cho thông rồi mới biết cách để mà mang ách, hoàn toàn ngược đời. 

Tại sao? Tại vì, theo kinh nghiệm tu đức, một khi chúng ta sẵn sàng chấp nhận cái "ách" của Chúa là tất cả những thử thách và trái ý Chúa gửi đến cho chúng ta hay để xẩy ra cho chúng ta, như muốn nhắc nhở chúng ta hay thanh tẩy chúng ta một cách nào đó, thì tự nhiên chúng ta được nên giống Chúa, "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng". 

3- "Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng": "Ách" của Chúa đây là gì và "gánh" của Chúa đây là chi, nếu không phải điều kiện để theo Người, đó là "bỏ mình đi ('ách') và vác thập giá ('gánh') mà theo Thày" (Mathêu 16:24). Đúng thế, cho đến khi nào con người biết "bỏ mình đi" và "vác thập giá", họ mới cảm thấy tất cả mọi sự xẩy ra trong cuộc đời của họ, những gì mà trước kia đã từng làm cho họ cảm thấy "mệt mỏi và gánh nặng" thì bấy giờ, nhờ "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng", nhờ "tâm hồn được bình an", lại trở thành "êm ái và nhẹ nhàng". 

Cảm Nghiệm


Một thí dụ rất điển hình và thực tế đó là chúng ta thường xin Chúa ban ơn cho con được có lòng khiêm nhượng, thế nhưng khi Chúa ban cho chúng ta ơn khiêm nhượng thì chúng ta không nhận một cách rất trắng trợn và phũ phàng. Ở chỗ, ơn khiêm nhượng Chúa ban cho chúng ta đó là khi chúng ta bị anh chị em chúng ta xỉ nhục chúng ta hay tát chúng ta ngay trước mặt mọi người, nếu chúng ta sẵn sàng 
chịu đựng không trả đũa và tha cho họ thì không phải là chúng ta đã "hiền lành và khiêm nhượng" như Chúa ngay lúc bấy giờ rồi hay sao, nhờ đó, đúng như Chúa cam đoan: "tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an" hay sao!?!


"Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta" - mang ách trước rồi mới học sau quả là như thế. Tức là hãy bỏ mình và vác thập giá mình mà theo Chúa, một cách "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng", thì thực sự "tâm hồn được bình an", không còn cảm thấy "mỏi mệt và gánh nặng" nữa. Đó là lý do, lời Tiên Tri Isaia ở Bài Đọc Thứ 1 hôm nay dâng lên Chúa thật chí lý, đúng như đường lối cứu độ và thánh hóa của Chúa, như sau:


"Ban đêm hồn con khát khao Chúa, và sớm mai khi thức dậy, lòng trí con hướng về Chúa. Từ khi Chúa thực hiện việc xét xử ở trần gian, thì người dương thế học biết sự công chính. Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con ơn bình an, vì mọi việc chúng con làm, đều do Chúa làm cho chúng con. Lạy Chúa, trong cơn hoạn nạn, chúng con đã tìm kiếm Chúa, và trong khi Chúa sửa dạy, chúng con kêu van đến Chúa. Lạy Chúa, trước tôn nhan Chúa, chúng con khác nào như đàn bà mang thai sắp sinh, kêu la đau đớn. Chúng con cưu mang, chúng con đau đớn như phải sinh con".


Cảm nhận tu đức này được thốt lên từ miệng lưỡi Tiên Tri Isaia thật là hay ho thấm thía như sau: 1- "Ban đêm (chứ không phải ban ngày, tức vào lúc đức tin của tâm hồn bị thử thách như sống trong đêm tối mà vẫn xẩy ra tâm trạng) hồn con khát khao Chúa, và sớm mai khi thức dậy, lòng trí con hướng về Chúa"; 2- "Từ khi Chúa thực hiện việc xét xử ở trần gian, (bằng những "giáng phạt" theo đức công bằng do tội lỗi của con người gây ra, nhờ đó mà) người dương thế (mới có thể biết mình và từ đó mới) học biết sự công chính", ở chỗ: 3- "Lạy Chúa, trong cơn hoạn nạn, chúng con đã tìm kiếm Chúa, và trong khi Chúa sửa dạy, chúng con kêu van đến Chúa"; và chính nhờ đã "học biết sự công chính" họ mới tiến đến chỗ sinh hoa kết trái phong phú bằng chính những đau khổ thử thách của họ, những đau khổ thử thách không còn làm cho họ "mệt mỏi và nặng gánh" nữa, trái lại, nỗi đớn đau của họ lại trở thành niềm hoan lạc vui thú (xem Gioan 16:20-22) ngay trong tiếng rên rỉ xót xa theo bản tính tự nhiên của họ: 4- "Lạy Chúa, trước tôn nhan Chúa, chúng con khác nào như đàn bà mang thai sắp sinh, kêu la đau đớn. Chúng con cưu mang, chúng con đau đớn như phải sinh con".


Bài Đáp Ca hôm nay bày tỏ niềm tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng "quan tâm phù trợ" (câu 1)... và "sẽ tái lập Sion" của Ngài (câu 2), nhờ đó "dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa". "Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử", theo bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Ngài.




Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 38, 1-6. 21-22. 7-8

"Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, và Ta đã lau sạch nước mắt của ngươi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Trong những ngày ấy Êdêkia đau gần chết. Tiên tri Isaia, con ông Amos đến thưa người rằng: "Chúa phán thế này: Ngươi hãy sắp xếp công việc nhà cửa của ngươi, vì ngươi sắp chết, không sống được nữa". Êdêkia liền quay mặt vào vách, cầu nguyện cùng Chúa rằng: "Ôi lạy Chúa, con van xin Chúa, xin Chúa hãy nhớ lại: con đã sống ngay chính trước mặt Chúa, và đã làm những điều đẹp lòng Chúa". Rồi Êdêkia than khóc lớn tiếng.

Bấy giờ Chúa phán cùng Isaia rằng: "Hãy đi nói với Êdêkia rằng: Ðây Chúa là Thiên Chúa Ðavít, tổ phụ ngươi, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, và Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ cứu ngươi và bảo vệ thành này khỏi tay vua Assyria".

Isaia sai người đi lấy mẩu bánh trái vả đắp lên mụn ung độc, và vua liền khỏi bệnh. Bây giờ Êdêkia hỏi: "Có dấu nào cho ta biết coi ta còn lên đền thờ Chúa được chăng?" Isaia đáp: "Ðây là dấu lạ Chúa ban cho vua, vì Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán: "Ta sẽ làm cho bóng đã ngả trên bảng độ Acaz lui lại mười độ". Và mặt trời lui lại mười độ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Is 38, 10. 11. 12. 16

Ðáp: Lạy Chúa, xin cứu mạng sống con, ngõ hầu con khỏi phải chết (c. 17b).

Xướng: 1) Con đã từng nói: Ðến nửa đời con, con sẽ đi đến cửa địa ngục. Con sẽ bị giam giữ những năm cuối đời con. - Ðáp.

2) Con đã từng nói: Con sẽ không nhìn thấy Thiên Chúa trong đất nước những kẻ nhân sinh: con sẽ không còn thấy người ta nữa, không còn trông thấy dân chúng sống yên vui. - Ðáp.

3) Miêu duệ con đã xa cách và lìa bỏ con, như chiếc lều của những mục tử. Như người thợ dệt, con lôi cuốn đời sống con đi; con chặt đứt nó, khi nó còn muốn kéo dài. - Ðáp.

4) Lạy Chúa, đời sống con là như thế, và đời sống tinh thần của con cũng như vậy, nhưng xin Chúa hãy thuyên chữa và cứu sống con". - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 12, 1-8

"Con Người cũng là chủ ngày sabbat".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: "Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat". Người nói với các ông rằng: "Các ông không đọc thấy Ðavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Ðavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Ðấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là, "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ", chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".

Ðó là lời Chúa.





Suy Niệm Cảm Nghiệm



Ở Hiền Gặp Lành

Suy Niệm


Trong b
ài Phúc Âm cho Th
ứ Sáu Tuần XV Thường Niên hôm nay, Chúa Giêsu lợi dụng vấn đề được các người biệt phái đặt ra cho Người để dạy cho họ những gì họ cần phải học hỏi và đối xử.

Vấn đề được các người biệt phái đặt ra: "Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: 'Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat'". 

Những gì họ cần phải học hỏi và đối xử: "Người nói với các ông rằng: 'Các ông không đọc thấy Đavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Đavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Đấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là, 'Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ', chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".

Hai vấn đề được Chúa Giêsu đặt ra với những người biệt phái trong trường hợp họ bắt bẻ các môn đệ của Người về luật kiêng việc xác trong ngày hưu lễ đó là lòng nhân từ và tinh thần luật, hai chiều kích sống đạo hay hai yếu tố giữ đạo bất khả thiếu và bất khả phân ly. Bởi vì, nếu tất cả lề luật và các tiên tri đều qui về hai điều răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người (xem Mathêu 22:40), thì ai yêu thương là giữ trọn lề luật vậy (xem Roma 13:8,10). 

Đó là lý do trong câu trả lời của Chúa Giêsu, Người đã nhấn mạnh đến chiều kích chính yếu là lòng nhân lành trước, rồi mới tới chiều kích tinh thần luật sau: "nếu các ông biết được điều này là, 'Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ', chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội" (lòng nhân lành), "vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat" (tinh thần luật).

"Con Người cũng là chủ ngày Sabbat" nghĩa là gì, nếu không phải Con Người là cốt lõi của lề luật, bởi thế nếu giữ luật mà không làm cho người ta đạt đến Con Người, gặp gỡ Con Người, hiệp nhất nên một với Con Người thì kể như họ đã bị lệch lạc, đã lầm đường lạc hướng.

"Con Người cũng là chủ ngày Sabbat" nghĩa là gì, nếu không phải Con Người là cốt lõi của lề luật, bởi thế nếu giữ luật mà không làm cho người ta đạt đến Con Người, gặp gỡ Con Người, hiệp nhất nên một với Con Người thì kể như họ đã bị lệch lạc, đã lầm đường lạc hướng.

Nếu "Con Người" đây là Dung Nhan Thương Xót, là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa, thì "Con Người là chủ Ngày Hưu Lễ" đây có nghĩa là Lòng Thương Xót Chúa vượt trên lề luật và là cốt lõi hay tinh thần của chính lề luật, bằng không lề luật chẳng còn nghĩa lý gì nữa và chỉ là khí giới sát hại mà thôi.


Cảm Nghiệm


Thật vậy, theo tâm lý tự nhiên và 
kinh nghiệm sống đạo, chúng ta thường nhìn nhau bằng con mắt của một quan án chí công liên quan đến luật lệ. Ở chỗ, thấy nhau làm một điều gì đó không hay không phải, nhất là những điều sai quấy tỏ tường, chúng ta thường nghĩ ngay đến tội này lỗi kia, đến hình phạt phải chịu v.v., chứ ít khi hay hiếm khi chúng ta tỏ lòng thương cảm với họ ngay bấy giờ, rồi sau đó tìm cách giúp họ đứng lên hay vươn lên khỏi những gì họ vấp phạm, bằng lời cầu nguyện của mình hay bằng những lời cảm thông cùng trấn an họ, trái lại, nhiều khi chúng ta lại còn khinh bỉ họ, nói xấu họ và xa lánh họ nữa, chẳng khác gì như họ đã bị vấp ngã trước mặt chúng ta, chúng ta chẳng những không chạy lại ân cần nâng họ dậy còn nhổ vào họ hoặc thậm chí đạp hay đá cho họ một cái nữa vậy.

Nếu chúng ta hằng ngày đọc kinh và đi lễ hay hằng tuần vẫn đi lễ và rước lễ, mà chúng ta vẫn cứ tiếp tục sống thái độ soi mói một cách duy luật của những người biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, thì hãy tự xét xem lời Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta trong bài Phúc Âm: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ". 

Căn cứ vào lời này của Chúa thì dường như Người có ý bảo chúng ta rằng nếu chúng ta, không cố gắng hết sức để sửa mình, trái lại cứ bất nhẫn với anh em chúng ta, cứ tiếp tục phán xét và luận án anh chị em chúng ta, dù chỉ ở trong đầu óc của chúng ta, nhất là với những người anh chị em tội nhân đáng thương hơn là đáng khinh bỉ và lên án, chúng ta không nên đi lễ và rước lễ nữa, Chúa không chấp nhận của lễ chúng ta dâng hay việc đạo đức chúng ta làm, bởi chúng thực sự không đẹp lòng Ngài, cho dù chúng ta không phạm tội trọng và vẫn có thể dâng lễ và rước lễ, trừ phi chúng ta nhận biết lỗi lầm của mình và quyết tâm chừa cải. 


Trái lại, ai sống nhân ái thì được Thiên Chúa là Đấng xót thương ân cần chăm sóc cho như Ngài đã đối xứ với Vua Êdêkia trong Bài Đọc 1 hôm nay: Thứ nhất là Chúa cho Vua Êdêkia gần chết được khỏi bệnh đã tới số của vua: "Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa", sau khi vua được tiên tri Isaia báo tử và van xin Chúa, chẳng khác gì như đứa trẻ vòi vĩnh ăn vạ mẹ của nó vậy: "'Ôi lạy Chúa, con van xin Chúa, xin Chúa hãy nhớ lại: con đã sống ngay chính trước mặt Chúa, và đã làm những điều đẹp lòng Chúa'. Rồi Êdêkia than khóc lớn tiếng", thế mà lại được Chúa nghe, và Ngài đã chữa lành bệnh cho vua, qua bàn tay của Tiên Tri Isaia: "lấy mẩu bánh trái vả đắp lên mụn ung độc, và vua liền khỏi bệnh", thậm chí còn làm cho "mặt trời lui lại mười độ" trái với định luật tự nhiên về vật lý, theo như lòng vua mong ước nữa: "Có dấu nào cho ta biết coi ta còn lên đền thờ Chúa được chăng?"  


Hai sự lạ trong Bài Đọc 1 hôm nay, cho Vua Êdêkia sống thêm 15 năm nữa sau cơn bệnh đã tới số và làm cho mặt trời chậm lại 10 độ trái với định luật tự nhiên của nó, thật ra lại rất hợp với lời Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay về vai trò chủ tể của Người là Đấng từ bi nhân ái: "'Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ', chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".


Phải chăng Vua Êdêkia có lòng nhân lành nên được chính Thiên Chúa là chủ tể muôn loài đã chẳng những cứu vua cho khỏi chứng bệnh nguy tử đáng lẽ vua đã tới số, để ban cho vua
"sống thêm mười lăm năm nữa. (Lại) bảo vệ thành này khỏi tay vua Assyria", mà còn làm cho mặt trời cũng bất tuân theo định luật tự nhiên vì lợi ích của một tâm hồn muốn lên đền thờ là nơi Ngài ngự trị.


Bài Đáp Ca hôm nay là một nhận thức về bản thân và cuộc sống của con người, cả bề ngoài lẫn bề trong (như trường hợp của thành phần duy luật bắt bẻ các môn đệ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay), có vẻ bi quan yếm thế nhưng vẫn không chán nản và tuyệt vọng, trái lại, vẫn từ nhận thức ấy mà "xin Chúa hãy thuyên chữa và cứu sống con", như trường hợp của Vua Êdêkia trong Bài Đọc 1

1) Con đã từng nói: Ðến nửa đời con, con sẽ đi đến cửa địa ngục. Con sẽ bị giam giữ những năm cuối đời con.

2) Con đã từng nói: Con sẽ không nhìn thấy Thiên Chúa trong đất nước những kẻ nhân sinh: con sẽ không còn thấy người ta nữa, không còn trông thấy dân chúng sống yên vui.

3) Miêu duệ con đã xa cách và lìa bỏ con, như chiếc lều của những mục tử. Như người thợ dệt, con lôi cuốn đời sống con đi; con chặt đứt nó, khi nó còn muốn kéo dài.

4) Lạy Chúa, đời sống con là như thế, và đời sống tinh thần của con cũng như vậy, nhưng xin Chúa hãy thuyên chữa và cứu sống con".




Ngày 15 tháng 7

Thánh Bô-na-ven-tu-ra, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Chào đời khoảng năm 1218 ở Ba-nho-rê-gi-ô, tỉnh Vi-téc-bô, Bô-na-ven-tu-ra theo học triết lý rồi thần học ở Pa-ri, sau đó dạy các tu sĩ dòng Anh Em Hèn Mọn. Khi được chọn làm tổng phục vụ, người đã chu toàn nhiệm vụ một cách khôn ngoan, đã soạn thảo hiến chương nhằm giúp anh em sống luật dòng thánh Phan-xi-cô. Là một nhà thần học sâu sắc, theo trường phái thánh Âu-tinh, người nghiên cứu và giảng dạy lộ trình đưa linh hồn về với Thiên Chúa. Được đặt làm hồng y giám mục An-ba-nô, người qua đời năm 1274 giữa lúc Công Đồng Ly-ông đang họp.

St. Bonaventure Print - Portraits of Saints

Bài đọc 2 (Phụng vụ giờ kinh sách)

Sự khôn ngoan nhiệm mầu được mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần

Trích tác phẩm “Lộ trình của tâm hồn đến với Thiên Chúa” của thánh Bô-na-ven-tu-ra, giám mục.

Đức Ki-tô là đường và là cửa. Đức Ki-tô là thang và là xe, là nắp xá tội được đặt trên Hòm Bia Chứng Ước và là mầu nhiệm đã được giữ kín từ muôn thuở. Người nào hoàn toàn ngước mặt nhìn về nắp xá tội này, nhìn về Đấng chịu treo trên thập giá, với lòng tin, cậy, mến, lòng sùng kính, ngưỡng mộ, vui mừng, lòng quý trọng, ngợi khen và hoan hỷ, thì người ấy cùng với Đức Ki-tô làm một cuộc vượt qua, nghĩa là băng qua Biển Đỏ nhờ cây gậy thập giá. Người ấy rời Ai-cập đi vào hoang địa, ở đó được thưởng thức man-na đã được giấu kỹ, được an nghỉ trong mồ cùng với Đức Ki-tô. Người ấy bề ngoài như thể đã chết, nhưng trong thân phận lữ hành, lại cảm nghiệm được lời Đức Ki-tô trên thập giá nói với kẻ trộm gắn bó với Người : Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.

Trong cuộc vượt qua này, nếu người ấy muốn nên hoàn hảo, thì phải bỏ đi những hoạt động của trí óc, và trọn tâm tư ước muốn phải được đưa về Thiên Chúa và được biến đổi trong Người. Đây là mầu nhiệm cao siêu nhất, chẳng ai biết được trừ ra người đón nhận, chẳng ai đón nhận được trừ ra người khao khát, chẳng ai khao khát được trừ ra người đã thấy bừng lên trong cõi thâm sâu của lòng mình ngọn lửa Chúa Thánh Thần mà Đức Ki-tô phái xuống trần gian. Thế nên thánh Phao-lô bảo sự khôn ngoan nhiệm mầu này được mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần.

Nếu bạn thắc mắc việc đó xảy ra thế nào, bạn hãy hỏi ơn thánh chứ đừng hỏi kiến thức, hỏi lòng khao khát thâm sâu chứ đừng hỏi lý trí, hỏi tiếng rên siết của lời cầu khẩn chứ đừng hỏi việc chuyên chăm đọc sách, hỏi hôn phu chứ đừng hỏi thầy giáo, hỏi Thiên Chúa chứ đừng hỏi người phàm, hỏi mây mù chứ đừng hỏi ánh quang, cũng đừng hỏi ánh sáng nhưng hãy hỏi ngọn lửa đốt cháy trọn vẹn con người và đưa con người lên tới Thiên Chúa bằng ân sủng chứa chan và lòng yêu mến nồng nàn. Ngọn lửa này là chính Thiên Chúa và lò thì ở Giê-ru-sa-lem. Chính Đức Ki-tô đã nhóm lên ngọn lửa ấy trong cuộc Thương Khó nồng cháy của Người. Chỉ có người nói được như ông Gióp mới thật sự hiểu được điều ấy : Tôi chẳng thà bị treo, chẳng thà bị chết. Ai yêu cái chết như thế mới có thể nhìn thấy Thiên Chúa. Vì lời sau đây là lời chân thật : Con người không thể thấy Ta mà vẫn sống. Vậy chúng ta hãy chết, hãy tiến vào trong mây mù, hãy bắt những lo toan, những dục vọng, những ảo ảnh phải im lặng. Cùng với Đức Ki-tô chịu đóng đinh, chúng ta hãy bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Và một khi Chúa Cha đã được tỏ ra cho chúng ta, thì cùng với ông Phi-líp-phê, chúng ta hãy nói : Như thế là chúng con mãn nguyện. Cùng với thánh Phao-lô, ta hãy nghe : Ơn của Thầy đã đủ cho con. Cùng với vua Đa-vít, ta hãy hân hoan thưa rằng : Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn. Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en từ muôn thuở cho đến muôn đời. Toàn dân hãy hô lên : A-men ! A-men !

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con đang họp nhau mừng ngày thánh giám mục Bô-na-ven-tu-ra về trời. Xin cho chúng con vừa được đức khôn ngoan phi thường của thánh nhân soi sáng, vừa được lòng bác ái nồng nhiệt của người khích lệ. Chúng con cầu xin

 

 

Xin xem 1/3 bài ĐTC Biển Đức XVI nói về ngài ở cái link sau đây: 

 

Thánh Bonaventura - Cuộc đời và con người

 




Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Mk 2, 1-5

"Chúng tham lam ruộng đất và chiếm lấy nhà cửa".

Trích sách Tiên tri Mikha.

Khốn cho những kẻ suy tính điều gian ác, và mưu đồ việc xấu xa trong phòng mình. Sáng ngày, chúng thực hiện điều đó, vì tay chúng chống lại Thiên Chúa. Chúng tham lam và dùng võ lực chiếm lấy ruộng đất, nhà cửa kẻ khác. Chúng ức hiếp người ta, phá phách nhà họ, chủ nhà và sản nghiệp của họ. Vì thế, Chúa phán thế này:

Ðây Ta toan giáng hoạ trên dòng giống này mà các ngươi không thoát được, các ngươi không ngước đầu lên mà đi được nữa, vì đây là thời kỳ tai hoạ. Trong ngày đó, người ta ngâm bài trào phúng chế diễu các ngươi và sẽ hát bài ca thán mà rằng: "Chúng ta đã bị bóc lột hết rồi, sản nghiệp dân ta bị đổi chủ, làm sao Chúa tước đoạt của cải chúng ta, và phân chia đất đai chúng ta cho những kẻ bóc lột chúng ta".

Vì thế, trong cộng đoàn Thiên Chúa, không còn ai giăng dây chia đất cho ngươi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 10, 1-2. 3-4. 7-8. 14

Ðáp: Lạy Chúa, xin đừng quên những kẻ cơ bần (c. 12b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, tại sao Ngài xa cách, tại sao Ngài ẩn mặt trong lúc gian truân, đang khi đứa ác kiêu căng, người nghèo bị hại, bị trúng mưu gian nó đã bày ra? - Ðáp.

2) Bởi đứa tội nhân đang hãnh diện vì lòng tham; tên kẻ cắp đang lộng ngôn, khinh nhờn Chúa. Ðứa ác nhân ngạo nghễ thốt lời: "Ngài không báo ứng, không có Chúa Trời!" Ðó là tất cả điều nó suy tư. - Ðáp.

3) Miệng nó đầy lời chửi rủa, gian ngoan và xảo kế, dưới lưỡi nó chứa sự tân toan và sách nhiễu. Nó ngồi núp gần những nơi thôn xóm, trong chỗ khuất tịch nó giết người hiền lương, mắt nó rình xem kẻ cơ bần. - Ðáp.

4) Nhưng Ngài thấy, Ngài nhìn nỗi tân toan sầu khổ, để rồi Ngài đỡ lấy trong tay. Kẻ cơ bần đem thân phó thác cho Ngài, Ngài là Ðấng phù trợ kẻ mồ côi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 12, 14-21

"Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời đã phán".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, các người biệt phái đi ra ngoài, bàn mưu kế chống lại Chúa Giêsu để hãm hại Người. Biết thế, Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy. Có nhiều kẻ đi theo Người, và ai có bệnh, đều được Người chữa lành. Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã chép rằng:

"Này là tôi tớ Ta đã chọn, là người Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Ta sẽ cho Thần trí ngự trên Người. Người sẽ rao giảng sự công chính cho dân ngoại. Người không cãi cọ hay dức lác, và không ai nghe tiếng Người ngoài đường phố. Người không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người".

Ðó là lời Chúa.




Suy Niệm Cảm Nghiệm

Suy Niệm


B
ài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XV Thường Niên, tuy kh
ông liên tục về đoạn văn với bài Phúc Âm hôm qua, nhưng lại liên tục về nội dung. Bài Phúc Âm hôm qua và bài Phúc Âm hôm nay cách nhau bởi những câu Phúc Âm thuật lại về câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người bị co bại tay vào ngày hưu lễ trong hội đường
Bởi thế, liên quan đến cả hai lần liền về ngày hưu lễ, lần trước về vụ các môn đệ của Người bứt bông lúa mà ăn trong ngày hưu lễ ở bài Phúc Âm hôm qua, và lần sau về vụ chính Người chữa cho người co bại tay vào ngày hưu lễ trong hội đường ở đoạn Phúc Âm giữa hai bài Phúc Âm hôm qua và hôm nay, mà ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay mới có câu: "Khi ấy, các người biệt phái đi ra ngoài, bàn mưu kế chống lại Chúa Giêsu để hãm hại Người".
Thế nhưng, vấn đề chính yếu của bài Phúc Âm hôm nay không phải là ở chỗ đó, chỗ liên quan với thành phần biệt phái này, mà là liên quan đến chính bản thân của Chúa Kitô, Đấng đến để đóng vai trò như thày thuốc cứu chữa thành phần bệnh nhân trên thế gian này (xem Mathêu 9:12), chứ không phải để tranh cãi và "luận phạt" (xem Gioan 3:17). Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy khi những người Pharisiêu âm mưu hại Người thì: "Biết thế, Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy".
"Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy" không phải là vì Người sợ thành phần biệt phái ám hại Người, cho bằng để Người có thể tiếp tục sứ vụ cứu chữa khẩn trương của Người: "ai có bệnh, đều được Người chữa lành", một sứ vụ chính yếu sẽ được Người hoàn tất nơi Cuộc Vượt Qua của Người, và là một sứ vụ hoàn toàn phản ảnh tấm lòng yêu thương vô cùng nhân hậu của Người, đúng như những gì Tiên Tri Isaia đã báo trước về Người
"Này là tôi tớ Ta đã chọn, là người Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Ta sẽ cho Thần trí ngự trên Người. Người sẽ rao giảng sự công chính cho dân ngoại. Người không cãi cọ hay dức lác, và không ai nghe tiếng Người ngoài đường phố. Người không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người".
Thật ra, theo con mắt trần gian thì khó lòng mà nhận biết nhân vật Giêsu Nazarét "là Đức Kitô (Đấng Thiên Sai), Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), nên dân làng của Người và thành phần biệt phái cùng luật sĩ và những nhân vật trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đã khó lòng chấp nhận Người, cho đến độ đã cho Người là lộng ngôn phạm thượng và lên án tử cho Người.
Tuy nhiên, nếu họ biết thật Thiên Chúa là ai và như thế nào thì họ sẽ nhận biết Đấng Ngài sai. Đó là lý do chính Chúa Giêsu đã khẳng định là dân Do Thái không tin vào Người là vì họ không tin Thiên Chúa, không nhận biết Người là vì họ không nhận biết Thiên Chúa hay nhận biết một cách sai lệch: "Quí vị chẳng biết Tôi cũng chẳng biết Cha Tôi. Nếu quí vị biết Tôi thì quí vị cũng phải biết Cha Tôi nữa" (Gioan 8:19). 
Đúng thế, nếu "Thiên Chúa là Tình yêu" (1Gioan 4:8,16) vô cùng nhân hậu, Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đã thủy chung với dân Do Thái theo những gì Ngài đã hứa với tổ phụ của họ, và đã vô cùng nhẫn nại với họ là thành phần liên lỉ trắng trợn bất trung bội nghĩa với Ngài trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, thì quả thật Đấng Thiên Sai của Ngài "không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người".

Cảm Nghiệm

Cho dù Chúa có trừng phạt thì Người cũng sử dụng chính cái vạ do tội ác của phạm nhân gây ra, cái hậu quả tội ác của họ mà làm cho họ mở mắt ra nhận biệt tội lỗi của họ và lòng thương xót của Người mà ăn năn thống hối để được cứu độ mà thôi.

Đó là lý do chúng ta thấy trong Bài Đọc 1, trích sách Tiên Tri Mikha, đối với thành phần suy tính điều gian ác, và mưu đồ việc xấu xa trong phòng mình. Sáng ngày, chúng thực hiện điều đó, vì tay chúng chống lại Thiên Chúa. Chúng tham lam và dùng võ lực chiếm lấy ruộng đất, nhà cửa kẻ khác. Chúng ức hiếp người ta, phá phách nhà họ, chủ nhà và sản nghiệp của họ", Chúa đã phải làm cho họ phải làm sao tỉnh ngộ "Chúng ta đã bị bóc lột hết rồi, sản nghiệp dân ta bị đổi chủ, làm sao Chúa tước đoạt của cải chúng ta, và phân chia đất đai chúng ta cho những kẻ bóc lột chúng ta".

Trong Bài Đáp Ca hôm nay cũng thế, cho dù thấy được chẳng những đối phương gian ác của mình (câu 1, 2 và 3), nhưng cuối cùng chính họ cũng phải công nhận rằng Thiên Chúa thấu biết tất cả mọi sự, kể cả cái gian ác của kẻ ác, lẫn nỗi khổ đau của nạn nhân tội lỗi, thành phần nhận biết mình và tin vào Người mới cảm nghiệm thấy lòng thương xót của Người ngay trong lúc gian nan khốn khổ của mình, do chính tội lỗi của mình gây ra. Nghĩa là Thiên Chúa muốn sử dụng chính tội lỗi của con người để tỏ mình cho con người, như thế là Người biến sự ác họ gây ra thành sự lành cho họ rồi vậy.

1) Lạy Chúa, tại sao Ngài xa cách, tại sao Ngài ẩn mặt trong lúc gian truân, đang khi đứa ác kiêu căng, người nghèo bị hại, bị trúng mưu gian nó đã bày ra?

2) Bởi đứa tội nhân đang hãnh diện vì lòng tham; tên kẻ cắp đang lộng ngôn, khinh nhờn Chúa. Ðứa ác nhân ngạo nghễ thốt lời: "Ngài không báo ứng, không có Chúa Trời!" Ðó là tất cả điều nó suy tư.

3) Miệng nó đầy lời chửi rủa, gian ngoan và xảo kế, dưới lưỡi nó chứa sự tân toan và sách nhiễu. Nó ngồi núp gần những nơi thôn xóm, trong chỗ khuất tịch nó giết người hiền lương, mắt nó rình xem kẻ cơ bần.

4) Nhưng Ngài thấy, Ngài nhìn nỗi tân toan sầu khổ, để rồi Ngài đỡ lấy trong tay. Kẻ cơ bần đem thân phó thác cho Ngài, Ngài là Ðấng phù trợ kẻ mồ côi.

 

16/7 là Lễ Đức Mẹ Carmelo hay Cát Minh, xin mời đọc Thư ĐTC GPII gửi Dòng Carmelo dịp 750 năm Áo Đức Bà sau đây:

 

 

Áo Đức Bà Carmêlô, một bảo vật cho Giáo Hội


3.- … Đối với các phần tử của Gia Đình Dòng Carmêlô thì Mẹ Maria, Vị Trinh Mẫu của Thiên Chúa và loài người, chẳng những là một mô phạm để bắt chước, mà còn hiện diện như là một Người Mẹ và Người Chị đáng tin tưởng cậy trông. Thánh Têrêsa Giêsu đã có lý để thúc giục các chị em dòng của mình là: “Chị em hãy bắt chước Đức Mẹ, hãy coi Mẹ cao cả là dường nào, và việc chúng ta nhận Người là Quan Thày của mình là một điều tốt lành biết bao” (Interior Castle, III, 1, 3).

4.- Cuộc sống thiết tha với Mẹ Maria ấy, một cuộc sống được thể hiện nơi việc tin tưởng nguyện cầu, nhiệt thành chúc tụng và tỉ mỉ bắt chước, giúp cho chúng ta hiểu được lý do tại sao hình thức tôn sùng chân thực nhất đối với Đức Trinh Nữ, một việc tôn sùng được bộc lộ nơi dấu hiệu Giây Đức Bà Carmêlô thô sơ, đó là việc tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ (xem Đức Piô XII, Bức Thư Neminem Profecto Latet [11-2-1950: AAS 42, 1950, pp. 390-391]; Hiến Chế Lumen Gentium, 67). Thực hiện điều này, tâm hồn sẽ lớn lên trong sự hiệp thông và thân tình với Đức Trinh Nữ, “như một cách sống mới đối với Thiên Chúa cũng như tiếp tục cách sống yêu mến của Chúa Giêsu trên thế gian đối với Mẹ Maria của Người” (xem Huấn Từ Buổi Nguyện Kinh Truyền Tin trong Insegnamenti XI/3, 1988, p. 173). Bởi đó, như chân phước tử đạo Dòng Carmêlô Titus Brandsma diễn tả, chúng ta sống hòa hợp sâu xa với Mẹ Maria Thiên Mẫu, và, như Mẹ, chúng ta trở nên những người thông truyền sự sống thần linh: “Chúa cũng sai thiên thần của Ngài đến với chúng ta… cả chúng ta cũng phải chấp nhận Thiên Chúa nơi tâm hồn của mình, nuôi dưỡng Ngài và làm cho Ngài lớn lên trong chúng ta, để Ngài được hạ sinh từ chúng ta và sống với chúng ta như Vị Thiên Chúa ở với chúng ta” (theo bản tường trình về Chân Phước Titus Brandsma trong Hội Nghị Thánh Mẫu Học ở Tongerloo, 8/1936).

Qua giòng thời gian, với việc phổ biến lòng tôn sùng Giây Thánh Đức Bà, gia sản Thánh Mẫu phong phú này đã trở thành một bảo tàng cho cả Giáo Hội. Nơi tính cách thô sơ của nó, nơi giá trị về nhân loại học của nó cùng với mối liên hệ của nó với vai trò của Mẹ Maria liên quan với Giáo Hội và nhân loại, việc tôn sùng này đã được Dân Chúa hưởng ứng một cách hết sức nồng nhiệt và rộng rãi, đến nỗi nó đã được thể hiện qua việc tưởng niệm vào ngày 16/7 theo lịch phụng vụ của Giáo Hội hoàn vũ.

5.- Dấu hiệu Giây Đức Bà Carmêlô cho thấy một tổng lược hay ho về linh đạo Thánh Mẫu, một linh đạo nuôi dưỡng lòng tôn sùng của các tín hữu và làm cho họ cảm nhận được sự hiện diện âu yếm của Vị Trinh Mẫu nơi đời sống của họ. Giây Đức Bà Carmêlô thực sự là một “chiếc áo dòng” (“habit”). Những ai lãnh nhận chiếc áo dòng này thì không nhiều thì ít được liên kết chặt chẽ với Dòng Carmêlô và hiến thân phụng sự Đức Bà cho lợi ích của toàn thể Giáo Hội (xem “Formula of Enrolment in the Scapular”, in the Rite of Blessing of and Enrolment in the Scapular, được Thánh Bộ Phượng Tự Và Bí Tích chuẩn nhận ngày 5/1/1996). Những ai mặc Áo Đức Bà Carmêlô, nhờ đó, được đưa vào mảnh đất Carmêlô, để họ được “thưởng thức hoa trái của nó cùng với những sự tốt lành của nó” (x Jer 2:7), cũng như cảm nghiệm được sự hiện diện âu yếm và từ mẫu của Mẹ Maria trong việc họ dấn thân hằng ngày để được mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, cũng như để tỏ hiện Người ra qua cuộc sống của họ cho lợi ích của Giáo Hội và toàn thể nhân loại (xem “Formula of Enrolment in the Scapular”, cit.).

Bởi thế, dấu hiệu Áo Đức Bà Carmêlô gợi lên cho thấy hai chân lý: chân lý thứ nhất đó là việc liên lỉ bảo vệ của Đức Trinh Nữ, chẳng những trong cuộc hành trình của cuộc sống mà còn vào giây phút bước đến cõi trường vinh toàn mãn; chân lý thứ hai đó là nhận thức rằng lòng tôn sùng Mẹ không chỉ giới hạn vào các kinh nguyện và những cách thức tôn kính Mẹ ở một số dịp, mà phải trở thành một “thói quen” - “habit”, (biệt chú của người dịch: ở đây ĐTC dùng chữ “habit”, theo tiếng Anh, vừa có nghĩa là “áo dòng”, như Ngài đã nói đến ở trên, lại vừa có nghĩa là “thói quen”), tức là, một hướng chiều thường xuyên nơi tác hành của người Kitô hữu, một hướng chiều liên kết giữa việc cầu nguyện và đời sống nội tâm, qua việc năng lãnh nhận các bí tích, với những việc làm cụ thể nơi hoạt động từ thiện về phương diện tinh thần cũng như vật chất. Có như thế, Áo Đức Bà Carmêlô mới trở thành một dấu hiệu “giao ước” và cho thấy mối hiệp thông với nhau giữa Mẹ Maria và người tín hữu: thật vậy, nó là một việc chuyển dịch cụ thể cái ý nghĩa của tặng ân Mẫu Thân được Chúa Giêsu trên thập giá trao ban cho tông đồ Gioan, và qua vị tông đồ này, cho tất cả chúng ta, và cả ý nghĩa việc trao phó vị Tông Đồ yêu dấu này cùng với chúng ta cho Mẹ, Vị đã trở nên Mẹ thiêng liêng của chúng ta.

6.- Mẫu gương sáng ngời của linh đạo Thánh Mẫu này, một linh đạo khuôn đúc nội tâm con người và làm cho họ nên giống Chúa Kitô, trưởng tử của nhiều anh em, là chứng từ cho thấy sự thánh thiện và khôn ngoan nơi rất nhiều vị thánh của Dòng Carmêlô, tất cả những vị này đã lớn lên dưới bóng phủ và trong sự chở che của Người Mẹ các vị.

Tôi cũng đeo Áo Đức Bà Carmêlô trước ngực một thời gian rất lâu! Vì yêu mến Vị Thiên Mẫu chung của chúng ta, Đấng Tôi luôn cảm nghiệm được việc Người bảo vệ chở che, Tôi tin rằng năm Thánh Mẫu này sẽ giúp cho tất cả mọi tu sĩ nam nữ Carmêlô và tín hữu đạo hạnh có lòng tôn kính Mẹ với tình con thảo được lớn lên trong tình yêu của Người, và chiếu tỏa cho thế giới thấy sự hiện diện của Người Nữ thầm lặng và nguyện cầu này, một Người Nữ được kêu cầu như Mẹ Tình Thương, Mẹ Hy Vọng và Ân Sủng…



(Thư ĐTC Gioan Phaolô II gửi Dòng Carmêlô cả hai ngành OCD và O.Carm., đề ngày 25/3/2001,
nhân dịp kỷ niệm 750 năm Áo Đức Bà Carmêlô.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 4/4/2001)