SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

"Thày là Sự Sống"

 

Hiệp Nhất Thần Linh

 

Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần VII Phục Sinh

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


...

 

Nếu "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25) là chủ đề chính yếu của toàn Mùa Phục Sinh, trong đó, chủ đề "Thày là sự sống lại" cho nguyên Tuần Bát Nhật Phục Sinh là thời điểm 8 ngày có các bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc hoàn toàn liên quan đến các lần Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra mà thôi, thì chủ đề "Thày là sự sống" là chủ đề cho những ngày còn lại, bao gồm cả Chúa Nhật lẫn ngày trong tuần.

 

 

Vậy, nếu chủ đề "Thày là sự sống" ở Phụng Vụ Lời Chúa cho cả Chúa Nhật lẫn các ngày trong tuần lễ  II và III của Mùa Phục Sinh liên hệ tới chiều kích Tái Sinh Thần Linh, trong tuần lễ IV của Mùa Phục Sinh liên quan đến chiều kích Mục Tử Thần Linh, trong tuần lễ V của Mùa Phục Sinh liên quan đến chiều kích Liên Hệ Thần Linh, và trong tuần của tuần lễ Thứ VI của Mùa Phục Sinh liên quan đến chiều kích Hiện Diện Thần Linh, thì nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa cho Tuần VII Phục Sinh này cho thấy chủ đề "Thày là sự sốngliên quan đến chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh, tột đỉnh của sự sống thần linh và là chính thực tại thần linh nơi Vị Thiên Chúa Duy Nhất 3 Ngôi. Có thể nói và phải nói rằng tất cả dự án tạo dựng cùng cứu độ của Thiên Chúa và công cuộc cứu chuộc cùng tân tạo của Thiên Chúa là ở chỗ Hiếp Nhất Thần Linh này.


Trong tuần lễ cuối cùng của Mùa Phục Sinh này, Giáo Hội vẫn tiếp tục Phúc Âm Thánh Gioan và Sách Tông Vụ cho cả Mùa Phục Sinh, nhưng cố ý chọn đọc toàn đoạn Phúc Âm 17 của Thánh ký Gioan cho mấy ngày đầu trong tuần (từ Thứ Ba tới Thứ Năm), và hai ngày còn lại (Thứ Sáu và Thứ Bảy) Giáo Hội chọn đọc phần cuối của Phúc Âm này, đoạn 21, liên quan đến riêng vai trò chủ chiên của Tông Đồ Phêrô và hướng về cánh chung nơi hình ảnh "không chết" của vị tông đồ được Chúa Giêsu yêu, vị tông đồ đã viết cuốn Khải Huyền và đã được thị kiến thấy thời cánh chung với một "trời mới đất mới" v.v. 


Còn Sách Tông Vụ được Giáo Hội chọn đọc những đoạn còn lại chưa đọc, liên quan đến riêng vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, đặc biệt về cuộc hành trình định mệnh của ngài về Giêrusalem, như cuộc hành trình cuối cùng của Chúa Kitô về Giêrusalem để chịu khổ nạn, rồi từ đó ngài bị giải sang Rôma, nơi vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô này cùng với vị Tông Đồ lãnh đạo Tông Đồ Đoàn Phêrô, như được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Phúc Âm Thứ Sáu, cả hai vị tông đồ chính yếu tiêu biểu nhất của Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập, có thể làm chứng bằng chính mạng sống của các vị cho Chúa Kitô tại chính thủ đô của Đế Quốc Rôma, nơi còn các di tích lịch sử một thời huy hoàng của đế quốc đã dữ dội bách hại Kitô giáo 3 thế kỷ đầu tiên nay đã hoang tàn, cũng chính là nơi đã trở thành Giáo Đô uy nghi đồ sộ về kiến trúc và đầy thế giá về luân lý của Giáo Hội Chúa Kitô trong thế giới hiện nay!

 

 

 

 

Chúa Nhật VII Phục Sinh: Sự Sống - Hiệp Nhất Thần Linh

 

 

 



Chúa Nhật Thứ Bảy Mùa Phục Sinh là Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Phục Sinh, Giáo Hội đã chọn đọc đoạn 17 của Phúc Âm Thánh Gioan là đoạn trình thuật về Lời Nguyện Hiến Tế của Chúa Kitô kết thúc Bữa Tiệc Ly, một lời nguyện cho thấy chủ đề "Thày là sự sống" ở khía cạnh hiệp nhất thần linh là tột đỉnh linh đạo Kitô giáo cũng là chủ đích tạo dựng và cứu chuộc loài người của Thiên Chúa, một hiệp nhất thần linh của những ai thuộc về Thiên Chúa (Năm A), một hiệp nhất thần linh của những ai được thánh hóa trong chân lý (Năm B), và một hiệp nhất thần linh của những ai được tham dự vào vinh hiển của Con (Năm C).


Năm A 
Sự sống nơi cuộc hiệp nhất thần linh của những ai thuộc về Thiên Chúa. 

Phúc Âm (Gioan 17:1-11a): "Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã kéo ra khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha... Mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con được vinh hiển nơi chúng".

Bài đọc 1 (Tông Vụ 1:12-14) - s sống nơi cuộc hiệp nhất thần linh của những ai thuộc về Thiên Chúa như các tông đồ và các nữ môn đệ của Chúa Kitô qui tụ lại sau khi Người Thăng Thiên: "Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, với các anh em Người".

Bài đọc 2 
(1Phêrô 
4:13-16) - s sống nơi cuộc hiệp nhất thần linh của những ai thuộc về Thiên Chúa và được chịu khổ vì Chúa Kitô: "Nếu anh em bị xỉ nhục vì Danh Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, bởi vì Thần Khi vinh quang, Thần Khí của Thiên Chúa, sẽ ngự trên anh em".

Bài Ðọc I: Cv 1, 12-14

"Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện".

Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

(Sau khi Chúa Giêsu lên trời), các Tông đồ xuống khỏi núi gọi là Núi Ô-liu mà trở về Giêrusalem, núi này ở gần Giêrusalem, bằng quãng đường (được đi trong) ngày Sabbat.

Và khi đã trở vào thành, các ông lên lầu gác, nơi Phêrô và Gioan, Anrê và Philipphê, Giacôbê con ông Alphê và Simon Giêlôtê, và Giuđa con ông Giacôbê, trú ngụ.

Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, với các anh em Người.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1.4.7-8a

Ðáp: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh.

Xướng 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nghe tiếng tôi kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời tôi. Về Chúa, lòng tôi tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Ta". - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1Pr 4, 13-16

"Nếu anh em bị xỉ nhục vì danh Ðức Kitô, thì phúc cho anh em".

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, được thông phần vào các sự thống khổ của Chúa Kitô, anh em hãy vui mừng, để khi vinh quang của Người được tỏ hiện, anh em sẽ được vui mừng hoan hỉ.

Nếu anh em bị xỉ nhục vì Danh Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, vì danh dự, vinh quang và sức mạnh của Thiên Chúa, là chính Thánh Thần Người sẽ ngự trên anh em.

Ước rằng không ai trong anh em phải khổ vì sát nhân, trộm cướp, gian phi hay là tham lam của kẻ khác; nếu chỉ vì là kitô hữu thì đừng hổ thẹn, hãy ca ngợi Thiên Chúa vì danh hiệu đó.

Bởi chưng nay đã đến thời phán xét, bắt đầu từ nhà Thiên Chúa.

Vậy nếu chúng ta chịu phán xét đầu tiên, thì vận cùng của những kẻ không theo Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ ra sao?

Nếu người công chính còn khó được cứu độ, thì kẻ vô đạo và người tội lỗi sẽ chạy vào đâu?

Vì vậy những ai phải khốn cực theo ý Thiên Chúa, hãy phó mạng sống mình cho Ðấng Tạo Hóa trung tín mà cứ làm việc lành.

Ðó là Lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 18

Alleluia, alleluia. - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 17, 1-11a

"Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: "Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm vinh hiển Cha.

Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con.

Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha, là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Ðấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô.

Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con.

Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho Con được vinh hiển nơi Cha, với sự vinh hiển mà con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian.

Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con.

Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ lời Cha.

Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con, đều bởi Cha mà ra.

Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con.

Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha.

Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi chúng.

Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha".

Ðó là Lời Chúa.

 



Năm B 

Sự sống nơi cuộc 
hiệp nhất thần linh của những ai được thánh hóa trong chân lý.

Tổng Quan Ý Hướng

Bài đọc 1 (Tông Vụ 1:15-17, 20a, 20c-26) - s sống nơi cuộc hiệp nhất thần linh của những ai được thánh hóa trong chân lý, chẳng hạn như trường hợp của Tông Đồ Mathias thay cho người môn đệ phản bội Giuđa Íchca): "Trong những người đi cùng với chúng ta suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, kể từ ngày Gioan Tẩy Giả, cho đến ngày Chúa Giêsu lìa chúng ta mà lên trời, chúng ta phải chọn lấy một người có mặt đây, để cùng với chúng ta làm chứng Người đã sống lại". 
Bài đọc 2 (1Gioan 4:11-16) - s sống nơi cuộc hiệp nhất thần linh của những ai được thánh hóa trong chân lý và sống trong yêu thương: "Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Ngài nơi chúng ta đã được tuyệt hảo".


Phúc Âm 
(
Gioan 17:11b-19): "Lạy Cha chí thánh, vì danh Cha xin hãy gìn giữ những ai Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Chúng Ta... Vì họ mà Con tự thánh hiến để cả họ cũng được thánh hóa trong chân lý".
Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Cv 1, 15-17. 20a. 20c-26

"Phải chọn lấy một người trong những người có mặt đây, để cùng với chúng ta làm chứng Người đã sống lại".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, Phêrô đứng lên giữa anh em (đám đông có chừng một trăm hai mươi người) mà nói: "Hỡi anh em, phải ứng nghiệm lời Thánh Kinh mà Thánh Thần đã dùng miệng Ðavit để tiên báo về Giuđa, kẻ hướng dẫn những người bắt Chúa Giêsu. Hắn cũng là một trong số chúng ta, đã thông phần chức vụ của chúng ta.

Vì chưng, trong Thánh vịnh có chép rằng: "Một người khác sẽ lãnh lấy chức vụ của nó".

Vậy trong những người đi cùng với chúng ta suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, kể từ ngày Gioan thanh tẩy, cho đến ngày Chúa Giêsu lìa chúng ta mà lên trời, chúng ta phải chọn lấy một người trong những người có mặt đây, để cùng với chúng ta làm chứng Người đã sống lại". Họ giới thiệu hai người: Giuse tức Basabba, biệt danh là Công chính, và ông Matthia. Ðoạn họ cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin hãy tỏ ra Chúa chọn ai trong hai người này, để nhận chức vụ và tước hiệu tông đồ thay cho Giuđa, kẻ đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó". Thế rồi họ bắt thăm và Matthia đã trúng thăm: Ông được kể vào với số mười một tông đồ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 11-12. 19-20ab

Ðáp: Chúa thiết lập ngai vàng Người ở cõi cao xanh (c. 19a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. - Ðáp.

3) Chúa thiết lập ngai vàng Người ở cõi cao xanh, và vương quyền Người phủ trị trên khắp muôn loài. Hãy chúc tụng Chúa đi, chư vị thiên thần, dũng lực hùng anh thi hành lời Chúa. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Ga 4, 11-16

"Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người ấy".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, nếu Thiên Chúa thương yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải thương yêu nhau. Chẳng ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta đã được tuyệt hảo. Do điều này mà chúng ta biết chúng ta ở trong Người và Người ở trong chúng ta, là Người đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Và chúng ta đã thấy và chứng nhận rằng Chúa Cha đã sai Con mình làm Ðấng Cứu Thế. Ai tuyên xưng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở trong người ấy và người ấy ở trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin nơi tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa là Tình Yêu, và ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người ấy.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 18; 16, 22

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 17, 11b-19

"Ðể chúng được nên một như Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.

Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý".

Ðó là lời Chúa.


Suy Nghiệm Lời Chúa

Chủ đề "Thày là sự sống" cho Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh đã lên tới tột đỉnh ở bài Phúc Âm cho Chúa Nhật VII Phục Sinh hôm nay. Tột đỉnh ở chỗ sự sống thần linh của Thiên Chúa là tất cả những gì Ngài muốn thông ban cho chung con người nơi Chúa Giêsu Kitô, nhờ đó, riêng các tông đồ là thành phần được tuyển chọn để sai đi mới có thể được hiệp nhất nên một hay hiệp thông thần linh với Thiên Chúa là Cha trên trời, đúng như lời Chúa Giêsu dâng lên Cha của Người ở đầu bài Phúc Âm hôm nay: "Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta". Việc hiệp thông thần linh hay hiệp nhất nên một với Thiên Chúa đây là gì, và xẩy ra như thế nào?

Trước hết, việc hiệp nhất nên một hay hiệp thông thần linh với Thiên Chúa là ở chỗ, như Thánh Gioan tông đồ đã dẫn giải trong Bài Đọc 2 hôm nay như thế này: "Thiên Chúa là Tình Yêu, và ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người ấy". Nhưng xẩy ra như thế nào, thì câu trả lời ở ngay trong lời cầu Chúa Giêsu dâng lên Cha của Người cho các môn đệ của Người như sau: "Xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý".

Câu Chúa Giêsu nói về cách thức để thành phần môn đệ của Người có thể đạt đến tột đỉnh của sự sống thần linh là được hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, "
nên một như Ta", nghĩa là Chúa Cha làm cho chúng ta nhận biết "chân lý", nghĩa là nhận biết một thực tại thần linh tối hậu, một thực tại thần linh bất khả chối cãi, một thực tại thần linh là chính mục đích Ngài đã tạo dựng nên con người, được Ngài từ từ tỏ cho họ thấy, nhất là vào "lúc thời gian viên trọn" (Galata 4:4), đó là Ngài yêu thương họ biết là chừng nào nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng Nhập Thể Vượt Qua chỉ "để làm chứng cho chân lý" (Gioan 18:37) bằng chính mạng sống tự nguyện bỏ đi của Người: "Con tự thánh hiến cho họ được thánh hóa trong chân lý".

Đó là lý do trong bài Phúc Âm của Thánh Gioan, cũng đoạn 17, về Lời Nguyện Hiến Tế Xin Ơn Hiệp Nhất của Người dâng lên Cha của Người kết Bữa Tiệc Ly, một đoạn Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc và chia ra làm 3 phần, phần đầu cho chu kỳ phụng vụ Năm A, phần giữa cho chu kỳ phụng vụ Năm B và phần cuối cho chu kỳ phụng vụ Năm C, Chúa Giêsu đã định nghĩa về sự sống thần linh là nhận biết như thế này: "
Sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô" (Gioan 17:3).

Đúng thế, về phương diện tự nhiên hay thể lý cũng vậy, áp dụng cho tất cả mọi sinh vật, nhất là loài người, đó là khi còn sống là còn biết, và chết là không còn biết gì nữa, có thể nói sự sống chính là nhận biết, là ý thức! Và mức độ chân thực nhất và cao nhất của tác động nhận biết hay ý thức đó là tác động yêu thương. Một khi hai vợ chồng ly dị nhau có nghĩa là họ không còn nhận biết nhau, không chấp nhận nhau nữa, như khi họ mới yêu nhau, chấp nhận lấy nhau. Đó là lý do khi Adong vừa thức giấc, sau một giấc ngủ mê ly chưa bao giờ có do chính Thiên Chúa gây mê, liền nhận biết và chấp nhận Evà "
đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi ... và cả hai trở nên một xác thịt" (Khởi Nguyên 2:23-24).

Cho dù Chúa Kitô là tột đỉnh mạc khải thần linh của Thiên Chúa theo giòng Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái (xem Do Thái 1:1), và là tất cả thần linh của Thiên Chúa "
khi đến thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) của Ngài, đến độ "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9), nhưng thành phần môn đệ thân tín nhất của Chúa Kitô, cho dù đã sống kề bên Người suốt 3 năm trường, cuối cùng vẫn chối bỏ Người, nghĩa là vẫn chưa thực sự nhận biết Người như Người tỏ ra cho các vị, hay cho dù có tuyên xưng chính xác "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), nhờ được Cha trên trời tỏ ra cho (xem Mathêu 16:17), tự mình, các vị vẫn bất khả thấu chân lý thần linh vô cùng sâu nhiệm ấy nơi Con Người lịch sử Giêsu Nazarét là Sư Phụ vô cùng đáng kính đáng mến của các vị, nên ngay sau đó vị lên tiếng tuyên xưng thay cho tông đồ đoàn ấy đã phủ nhận ngay chân lý mạc khải vừa mới tuyên xưng (xem Mathêu 16:23).

Để có thể được "
dẫn vào tất cả sự thật" đúng như mạc khải thần linh của Thiên Chúa (Gioan 16:13), các vị không thể nào không có Đấng được Chúa Giêsu gọi là "Thần Chân Lý" (Gioan 16:13), "Đấng thấu suốt mọi sự nơi Thiên Chúa" (1Corinto 2:10). Và đó là lý do Thánh Gioan Tông Đồ trong Bài Đọc 2 hôm nay đã đề cập đến vai trò bất khả thiếu của Thánh Linh, Đấng chính là Ý Thức Thần Linh của Thiên Chúa được ban cho Kitô hữu, nhờ đó, nhờ Vị Thần Linh Chân Lý này, Kitô hữu chúng ta mới có thể nhận biết Thiên Chúa như Ngài là, cũng là mới có thể yêu mến Thiên Chúa như Ngài đáng: "Chẳng ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta đã được tuyệt hảo. Do điều này mà chúng ta biết chúng ta ở trong Người và Người ở trong chúng ta, là Người đã ban Thánh Thần cho chúng ta".

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta cũng thấy được vai trò bất khả thiếu của Chúa Thánh Thần, Đấng thấu suốt mọi sự, nhất là ý định tối hậu của Thiên Chúa và huyền nhiệm như chính Thiên Chúa, đặc biệt ở việc các tông đồ "phải chọn lấy một người trong những người có mặt đây, để cùng với chúng ta làm chứng Người đã sống lại".

Trước hết, theo lời vị lãnh đạo tông đồ đoàn là Thánh Phêrô thì chính "Thánh Thần đã dùng miệng Ðavit để tiên báo về Giuđa, kẻ hướng dẫn những người bắt Chúa Giêsu. Hắn cũng là một trong số chúng ta, đã thông phần chức vụ của chúng ta. Vì chưng, trong Thánh vịnh có chép rằng: 'Một người khác sẽ lãnh lấy chức vụ của nó'", và vì thế, chỉ có Ngài mới có thể ứng nghiệm hóa những gì Ngài đã linh ứng, ứng nghiệm vào đúng thời điểm của nó:
"Ðoạn họ cầu nguyện rằng: 'Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin hãy tỏ ra Chúa chọn ai trong hai người này, để nhận chức vụ và tước hiệu tông đồ thay cho Giuđa, kẻ đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó'. Thế rồi họ bắt thăm và Matthia đã trúng thăm: Ông được kể vào với số mười một tông đồ".

Bài Đáp Ca hôm nay có thể nói là âm vang tâm tình tri ân cảm tạ và chúc tụng Vị Thiên Chúa tối cao của thành phần được hiệp nhất nên một với Ngài, những tâm tình được tác động bởi Thánh Linh, Đấng đã linh ứng cho tác giả Thánh Vịnh viết lên các câu Thánh Vịnh tràn đầy ý nghĩa dưới đây:  

 

1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

2) Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi.

3) Chúa thiết lập ngai vàng Người ở cõi cao xanh, và vương quyền Người phủ trị trên khắp muôn loài. Hãy chúc tụng Chúa đi, chư vị thiên thần, dũng lực hùng anh thi hành lời Chúa.





Năm C 

Sự sống nơi cuộc hiệp nhất thần linh của những ai được tham dự vào vinh hiển của Con.
Phúc Âm (Gioan 17:20-26): "Con đã ban cho họ vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để họ nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một". 
Bài đọc 1 (Tông Vụ 7:55-59ab) - s sống nơi cuộc hiệp nhất thần linh của những ai được tham dự vào vinh hiển của Con, như trường hợp của vị tử đạo tiên khởi là Phó tế Stephano: "Stephano đầy Thánh Thần, nhìn lên trời, đã xem thấy vinh quang của Thiên Chúa, và Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa: 'Kìa tôi xem thấy trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa'".
Bài đọc 2 (Khải Huyền 22:12-14,16-17,20) - s sống nơi cuộc hiệp nhất thần linh của những ai được tham dự vào vinh hiển của Con, nhất là vào giây phút cánh chung: "Ta là Alpha và Omega, là thứ nhất và cuối cùng, là nguyên ủy và cùng đích. Phúc cho những ai giặt áo của mình trong máu Con Chiên, để được hưởng dùng cây sự sống, và được qua cửa để vào thành". 


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: Cv 7, 55-59ab

"Tôi thấy Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, Têphanô đầy Thánh Thần, nhìn lên trời, đã xem thấy vinh quang của Thiên Chúa, và Ðức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông đã nói rằng: "Kìa, tôi xem thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa". Bấy giờ họ lớn tiếng kêu la và bịt tai lại, và họ nhất tề xông vào ông. Khi lôi ông ra ngoài thành, họ ném đá ông, Và các nhân chứng đã để áo của họ dưới chân một người thanh niên tên là Saolô. Rồi họ ném đá Têphanô, đang lúc ông cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin đón nhận tâm hồn con". Thế rồi ông quì xuống, lớn tiếng kêu lên rằng: "Lạy Chúa, xin đừng trách cứ họ về tội lỗi này". Nói xong câu đó, ông đã an giấc trong Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 96, 1 và 2b. 6 và 7c. 9

Ðáp: Chúa hiển trị, Người là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất (c. 1a và 9a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.

2) Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. Bao nhiêu chúa tể hãy cúc cung bái lạy Người. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, vì Ngài là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất, Ngài rất đỗi siêu phàm giữa muôn chúa tể. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Kh 22, 12-14. 16-17. 20

"Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan đã nghe tiếng phán cùng tôi rằng: "Này Ta đến ngay, Ta có phần thưởng để trả công cho mỗi người tuỳ các việc người ấy đã làm. Ta là Alpha và Ômêga, là thứ nhất và cuối cùng, là nguyên thuỷ và cùng đích. Phúc cho những ai giặt áo của mình trong máu Con Chiên, để được hưởng dùng cây sự sống, và được qua cửa để vào thành.

"Ta là Giêsu, đã sai thiên thần đến làm chứng cho các ngươi về những điều có liên quan đến các giáo đoàn. Ta là gốc rễ, là dòng dõi Ðavit, là sao mai sáng chói".

Thần Trí và tân nương nói: "Hãy đến!" Và kẻ nào nghe cũng hãy nói: "Hãy đến!" Và ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy nhận lãnh nhưng không nước sự sống.

Ðấng làm chứng những điều ấy phán: "Phải, Ta đến ngay". "Amen. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến!"

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 18; 16, 22

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 17, 20-26

"Ðể chúng được hoàn toàn nên một".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một, và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con."

"Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng: Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".

Ðó là lời Chúa.

 


Suy Nghiệm Lời Chúa


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Tuần VII Phục Sinh, tuần cuối cùng trước Đại Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, một Phụng Vụ Lời Chúa nói chung, nhất là Năm C, một chu kỳ phụng vụ cuối của chu kỳ phụng vụ 3 năm, được Giáo Hội chọn đọc thực sự là có một ý nghĩa hiệp thông thần linh.

Thật vậy, căn cứ vào Lời Nguyện Hiến Tế và Hiệp Nhất cuối cùng kết thúc Bữa Tiệc Ly trong bài Phúc Âm Năm C, Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết cuộc hiệp thông thần linh mà chính Người và Cha của Người mong muốn cho loài người và nơi loài người, chứ không phải chỉ cho riêng Giáo Hội và nơi Giáo Hội, đó là "như Chúng Ta là một".

Thế nhưng, muốn được hiệp nhất thần linh "như Chúng Ta là một" như thế, nơi con người cần phải xẩy ra thực tại thần linh đó là "Con ở trong họ và Cha ở trong Con" nhờ đó và chỉ có thế "họ (mới có thể) được hoàn toàn nên một". Bởi vì, chỉ có ai tin Chúa Kitô mới được "Con ở trong họ": "Những ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12).

Nghĩa là con người tin vào Người thì được "Con ban vinh hiển mà Cha đã ban cho Con" ở chỗ được "vinh hiển" làm Con Cha như Chúa Kitô và với Chúa Kitô, và vì được làm con Thiên Chúa mà loài người, nhờ Chúa Kitô và bởi Chúa Kitô, được thông phần vào bản tính thần linh của Thiên Chúa, để sống sự sống thần linh với Thiên Chúa và như Thiên Chúa.

Ở Bài Đọc 1, đoạn Sách Tông Vụ được Giáo Hội cố ý chọn đọc liên quan đến "vinh hiển mà Cha đã ban cho Con" trong Bài Phúc Âm, một "vinh hiển" về Chúa Kitô và của Chúa Kitô đã vinh thắng cùng thăng thiên về cùng Cha của Người, một vinh hiển của "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan1:14), một "vinh hiển" mà chính vị phó tế tử đạo tiên khởi của Kitô giáo này đã được chiêm ngưỡng thấy và sắp sửa được hoan hưởng trong một thực tại hiệp thông thần linh vĩnh hằng.

Ở Bài Đọc 2, đoạn cuối cùng của Sách Khải Huyền, Thánh ký Gioan đã thị kiến thấy hình ảnh của thành phần "chấp nhận Người thì Người ban chohọ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1;12), như trường hợp Phó tế Stephanô trong Bài Đọc 1, vị đã chấp nhận Người đến độ trung thành với Người cho đến cùng, không tham sống sợ chết mà phản bội bất trung với Người, cho dù có phải "giặt áo của mình (ám chỉ thân xác hay sự sống thể lý của con người) trong máu Con Chiên".

"Vinh hiển" mà vị tử đạo tiên khởi của Kitô giáo này được "Con đã ban cho" đây đó là chẳng những ngài được "vinh hiển" làm con Cha như Người mà còn được "vinh hiển" nên giống Người trong việc "để Con cũng được làm rạng danh Cha" (Gioan 17:1), bằng cái chết của mình hầu chứng tỏ mình quả thực là con Cha và Thiên Chúa thực sự là Cha của mình, một hiệp thông thần linh trọn hảo và bất diệt.

Vì chủ đề của 6 tuần cuối, trừ Tuần Bát nhật Phục sinh đầu tiên, của Mùa Phục Sinh là sự sống thần linh: "Thày là sự sống" (Gioan 11:25), mà tuần nào, cả Chúa Nhật lẫn ngày trong tuần, PVLC đều cho thấy sự sống thần linh này.
Nếu Chúa Kitô Phục Sinh không phải chỉ chiến thắng tội lỗi và sự chết của con người và nơi con người, mà chính yếu là thông ban cho họ được hoan hưởng một "sự sống và là sự sống viên mãn hơn" (Gioan 10:10).
Bởi thế, muốn được hưởng sự sống thần linh ấy, con người cần phải được "tái sinh bởi trời", "bởi nước và Thánh Linh" (Gioan 3:3,5) - PVLC Tuần 2 PS, một sự sống thần linh ở nơi "bánh hằng sống" - PVLC tuần 3 PS - là nhân tính vượt qua của Chúa Kitô, "vị mục tử nhân lành đã hiến mạng sống cho chiên - PVLC tuần IV PS, và vì vậy sự sống thần linh ấy đã được ban cho con người từ chính nguồn mạch tình yêu vô cùng nhân hậu của Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, nên chỉ có con chiên nào "yêu nhau như Thày đã yêu thương các con" - PVLC tuần V PS - mới thực sự sống sự sống thần linh của Người và với Người, nhưng sự sống thần linh được tỏ hiện nơi đức ái trọn hảo như Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành này chỉ được hiện thực bởi "Thánh Linh là Đấng Phù Trợ" mà thôi - PVLC tuần VI PS, Đấng là nội tại hiệp thông thần linh của Cha và Con sẽ làm cho Giáo hội là nhiệm thể Chúa Kitô hiệp nhất nên một "như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" - PVLC tuần VII PS.
Theo chiều hướng PVLC Mùa Phục Sinh trên đây, chúng ta tiến đến tuần cuối cùng của Mùa Phục sinh, Tuần VII, liên quan mật thiết đến cả mầu nhiệm và biến cố Thăng Thiên,
bởi vì chỉ có ở trên thiên đàng sự sống thần linh được ban cho con người ngay trên trần gian này mới đạt tới tột đỉnh là chính thực tại hiệp thông thần linh với Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần.



HAY

Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên: Sự Sống - Hiệp Nhất Thần Linh

cho những nơi chưa mừng Lễ Thăng Thiên Thứ Năm trong tuần vừa rồi


                                                             

Ở những nơi không cử hành Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên vào đúng Thứ Năm trong Tuần Thứ Sáu của Mùa Phục Sinh như ở Tòa Thánh Rôma, tức không cử hành vào đúng thời điểm 40 ngày sau khi Người Phục Sinh, thì phụng vụ lời Chúa cho Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên sẽ hoàn toàn thay cho phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật VII Phục Sinh.


Cho dù Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên được hầu hết các giáo phận trên thế giới 
cử hành vào Chúa Nhật VII Phục Sinh, nhưng chủ đề của phụng vụ Lời Chúa vẫn không gì thay đổi, vẫn là chủ đề "Thày là Sự Sống" của 4 tuần cuối của Mùa Phục Sinh, nhưng ở khía cạnh Sự Sống - Hiệp Nhất Thần Linh như Chúa Nhật VII Phục Sinh.

Phúc Âm (
Mathêu 28:16-20; Marco 16:15-20; Luca 24:46-53)

Sự Sống nơi cuộc Hiệp Nhất Thần Linh với Chúa Kitô Thăng Thiên, 


ở chỗ luôn có sự hiện diện của Người: 
"Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Phúc Âm Thánh Mathêu - Năm A); 


ở chỗ luôn có Người đồng hành và hỗ trợ:
 "Các vị đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các vị, và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo" (Phúc Âm Thánh Marco - Năm B); 


ở chỗ sống với Người bằng một đức tin thuần túy đến độ khi "Người rời khỏi các vị mà lên trời" thì các vị chẳng những không buồn, trái lại còn "trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các vị luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa".

Bài đọc 1 (Tông Vụ 1:1-11) - sự sống ở chỗ hiệp nhất thần linh càng vươn tới tột đỉnh vào lúc Chúa Giêsu Thăng Thiên, vì cho dù con mắt xác thịt của các tông đồ không còn được nhìn thấy Thày của các vị nữa nhưng nhờ đó mà các vị lại được rửa trong Thánh Thần để được biến đổi nên như Thày mà trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Thày và cho Thày: "Ít ngày nữa các con sẽ được rửa trong Thánh Thần... Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên nhân chứng cho Thày... cho đến tận cùng trái đất". 


Bài đọc 2 (Epheso 1:17-23) - sự sống ở chỗ hiệp nhất thần linh với chính Đấng đang ngự bên hữu Cha trên trời và là Đấng trổi vượt trên tất cả mọi đẳng cấp thần trời: "Chúa khiến mọi sự qui phục dưới chân Người, và tôn Người làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể của Người, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người"

 

Biến cố Chúa Kitô Thăng Thiên mang một ý nghĩa sâu xa, như đã chia sẻ ở cuối tuần trước cho Lễ Chúa Kitô Thăng Thiên cử hành vào chính Thứ Năm Tuần VI Phục Sinh:

 

"'Đám mây bao phủ Người' đây ám chỉ Thánh Thần, như đã xẩy ra ở biến cố biến hình trên núi của Người nơi sự kiện 'có tiếng phán ra từ đám mây' (Mathêu 17:5; Marco 9:7; Luca 9:35). 'Một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông' phải chăng bao gồm mấy ý nghĩa sau đây: 

 

"1- Các tông đồ không còn được thấy Thày của mình bằng con mắt thể lý nữa, vì Người đã về cùng Cha trong mối hiệp thông thần linh đời đời với Cha trong Thánh Thần; 

 

"2- Sứ vụ trần thế của Người đã hoàn toàn thật sự hoàn tất sau 40 ngày Người sống lại, khoảng thời gian 40 ngày Người hiện diện một cách linh thiêng giữa các vị để 'nói với các vị về triều đại Thiên Chúa' (Tông Vụ 1:3); 

 

"3- Các vị cần phải tiếp tục sứ vụ của Người 'cho đến tận cùng trái đất' (Tông Vụ 1:8) bằng 'quyền năng của Thánh Thần' (Tông Vụ 1:8; xem Luca 24:49) là Đấng Người sẽ từ Cha sai đến và cũng là Đấng đến để làm chứng về Người với họ và qua họ (xem Gioan 15:26-27). 

 

Chưa hết, theo đề tài Hiệp Nhất Thần Linh cho riêng của Tuần VII Phục Sinh này thì biến cố Thăng Thiên của Chúa Kitô còn mang một ý nghĩa khác nữa, bất khả thiếu, liên quan đến biến cố Thánh Linh Hiện Xuống, liên quan đến đời sống của Giáo Hội và liên quan đến việc truyền giáo của Giáo Hội.

 

Thật vậy, nếu Chúa Kitô không thăng thiên về cùng Cha là Đấng đã sai Người, thì nhân tính của Người, cho dù đã phục sinh nơi thân xác của Người và thân xác của Người đã trở thành thiêng liêng như các thần trời duy linh, vẫn chưa đạt đến tột đỉnh hiệp thông thần linh Cha.

 

Thật ra, ngay từ giây phút "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) trong cung lòng trinh nguyên của mẹ của mình là Trinh Nữ Nazarét Maria trong biến cố Truyền Tin, mầu nhiệm nhân tính của Người và thiên tính của Người đã trở nên một nơi mầu nhiệm Ngôi Hiệp, có nghĩa là Người là một Ngôi Vị có hai bản tính, bản tính Thiên Chúa - thiên tính, và bản tính nhân loại - nhân tính.

 

Thế nhưng, trong thời gian, nhân tính trở thành phương tiện hay đường lối hoặc dấu chỉ với tính cách bí tích của thiên tính, hay nói cách khác hoặc nói ngược lại, thiên tính tỏ mình ra và thông mình ra nơi nhân tính và qua nhân tính của Người, một cách càng ngày càng trọn vẹn, nhất là ở mầu nhiệm Vượt Qua.

 

Tuy nhiên, cho dù thần xác của Chúa Kitô có phục sinh và hoàn toàn trở nên thiêng liêng như các thần trời chăng nữa, tự mình vẫn chưa có thể ở trong các môn đệ của Người và "ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mathêu 28:20), và vì thế vẫn không thể nào xẩy ra tình trạng hay thực trạng hiệp thông thần linh như Người mong muốn đó là "như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha... như Chúng Ta là một. Con sống trong họ, Cha sống trong Con để sự hiệp nhất của họ đưoọc trọn vẹn" (Gioan 17:21-23). Nếu Chúa Kitô không thăng thiên về cùng Cha là Đấng đã sai Người thì Người không thể "sống trong" chúng ta và chúng ta không thể "lưu lại - remain - trong Người" hay "sống trong - live in - Người và Người sống trong" chúng ta như cành nho liên hợp với thân nho để trổ sinh muôn vàn hoa trái (xem Gioan 15:4-7).

 

Đó là lý do, khi hiện ra với riêng người nữ đang tìm kiếm xác của mình ngoài mộ vào tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu đã nói với nàng là người đang tính chạm đến Người bấy giờ rằng: "Đừng đụng đến Ta, vì ta chưa về cùng Cha" (Gioan 20:17), và Người mới chỉ có thể "mở trí cho các vị hiểu lời Thánh Kinh" (Luca 24:45), thậm chí có thể thông Thánh Thần của Người cho các tông đồ vào buổi tối cùng ngày khi Người hiện ra với các vị lần đầu tiên: "Các con hãy nhận lấy Thánh Linh..." (Gioan 20:22), nhưng vẫn chưa có khả năng sai Thánh Thần từ Cha xuống trên các vị như Người hứa... cho đến khi Người thăng thiên về cùng Cha...

 

Biến cố Thăng Thiên của Chúa Kitô quả thực cho chúng ta thấy chung nhân tính của Người, cũng là của chúng ta đã được Người mặc lấy khi Nhập Thể để Vượt Qua, và riêng thân xác của Người, không phải chỉ được biến đổi thành thiêng liêng sáng láng tốt đẹp sau khi Người sống lại từ cõi chết, mà còn được hoàn toàn hiệp thông thần linh với Cha trên thiên đàng, trong cõi vĩnh hằng, một nhân tính sẽ trở thành một Tân Thành Thánh Giêrusalem từ trời ở nơi Thiên Chúa mà xuống (xem khải Huyền 21:2,10), một Tân Giêrusalem chẳng những có 12 cửa vào ám chỉ 12 chi tộc Do Thái (xem Khải Huyền 21:13-14) là giòng dõi theo huyết thống về phần xác của Chúa Kitô, mà còn có 12 bức tường bằng đá tông đồ ám chỉ Giáo Hội Chúa Kitô bao gồm toàn thể nhân loại, một Tân Giêrusalem vĩnh viễn trở thành nơi Thiên Chúa ở giữa loài người - Emmanuel (xem Khải Huyền 21:3; Gioan 1:14))!

 

 

 

Thứ Hai sau Chúa Nhật VII Phục Sinh

 

Bài Ðọc I: Cv 19, 1-8

"Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?"

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Xảy ra là khi Apollô ở Côrintô, thì Phaolô đi miền thượng du, rồi đến Êphêxô gặp một số môn đồ, và ngài hỏi họ: "Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?" Họ trả lời: "Nguyên việc có Thánh Thần hay không, chúng tôi cũng chưa nghe nói". Ngài lại hỏi: "Vậy các ngươi đã chịu phép rửa của ai?" Họ thưa: "Phép rửa của Gioan". Phaolô liền bảo: "Gioan thanh tẩy dân chúng bằng phép rửa sám hối mà rằng: Hãy tin vào Ðấng sẽ đến sau ông, tức là Ðức Giêsu". Nghe vậy, họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần đến ngự xuống trên họ, họ liền nói được nhiều thứ tiếng và nói tiên tri. Tất cả đàn ông chừng mười hai người.

Ngài vào hội đường, và trong suốt ba tháng, Ngài mạnh dạn rao giảng, tranh luận và thuyết phục về nước Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 67, 2-3. 4-5ac. 6-7ab

Ðáp: Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Như làn khói toả, chúng rã tan, như mẩu sáp ong gần lửa chảy ra, những đứa ác nhân tiêu vong trước nhan Thiên Chúa. - Ðáp.

2) Những người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa họ mừng vui sung sướng. Hãy hát mừng Thiên Chúa, hãy đàn ca danh Người, danh hiệu Người là Chúa, hãy mừng rỡ hân hoan trước nhan Người. - Ðáp.

3) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 28, 19 và 20

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 16, 29-33

"Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: "Ðúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra". Chúa Giêsu đáp lại các ông: "Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Phúc Âm (Gioan 16:29-33)


"Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: 'Ðúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra'. Chúa Giêsu đáp lại các ông: 'Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian'".


Chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh trong chủ đề "Thày là sự sống" cho Mùa Phục Sinh hậu Tuần Bát Nhật Phục Sinh được mở màn ở bài phúc âm hôm nay, Thứ Hai Tuần VII Phục Sinh, dường như không thấy gì là đúng như thế, thậm chí còn lạc đề nữa là đằng khác, vì nội dung của bài Phúc Âm hôm nay, qua những lời Chúa nói với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly, chỉ liên quan đến phản ứng của các vị trước cuộc tử nạn của Người và số phận gian nan khốn khó của các v trên thế gian này. 


Tuy nhiên, nếu chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh còn bao gồm cả tính cách nên giống nhau trong mối liên hệ thần linh giữa Chúa Kitô và các tông đồ thì số phận các vị bị gian nan khốn khó trên thế gian cũng là những gì Người đã trải qua trước các vị, những gì Người đã đi để dọn chỗ cho các vị, để "Thày ở đâu các con cũng ở đó" (Gioan 14:3). Và những gì các vị phải chịu vì danh Thày và như Thày để làm chứng về Người đều xuất phát từ niềm tin bất khuất của các vị nơi Người, như chính lời các vị tuyên xưng trong bài Phúc Âm hôm nay: "Chúng con tin Thày bởi Thiên Chúa mà ra", một niềm tin đã làm cho các vị được hiệp nhất nên một với Người, sống động và tác hành như Người. 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay có 2 điểm chính yếu có liên hệ mật thiết với nhau, một ở đầu và một ở cuối. Điểm chính yếu ở đầu bài Phúc Âm hôm nay đó là "bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra"; và điểm chính yếu cuối bài Phúc Âm hôm nay đó là "giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian". 

 

Ý nghĩa của "dụ ngôn" được Chúa Giêsu nói đến ở bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước và được các tông đồ lập lại trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần này, đó là những gì diễn tả một thực tại hay một sự thật ở bên trong các "dụ ngôn" ấy. Bởi thế, các "dụ ngôn" ở đây, nhất là trong Phúc Âm Thánh Gioan là Phúc Âm nhấn mạnh đến các dấu lạ hơn là phép lạ hay đến các dụ ngôn bằng lời nói như ở Phúc Âm Thánh Mathêu, có thể hiểu là bao gồm tất cả lời nói và việc làm của Chúa Kitô vì qua những lời nói và việc làm của mình, Người đã tỏ ra một sự thật duy nhất, đó là Người là Đấng Thiên Sai, Người từ Cha mà đến, đúng như các tông đồ cuối cùng, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã khám phá ra cái bí mật của những gì Thày của các vị vẫn nói và làm từ trước đến nay, cái sự thật bí mật trong các "dụ ngôn" đó là: "Thầy bởi Thiên Chúa mà ra".

 

Nếu Chúa Kitô chỉ chiến thắng thế gian khi Người sống lại từ trong cõi chết, thì tại sao trong bài Phúc Âm hôm nay, lời Người khẳng định trong Bữa Tiệc Lý trước cuộc Vượt Qua từ tử giá đến phúc sinh, Người lại nói: "Thày đã chiến thắng thế gian". Nghĩa là cho dù Người chưa sống lại Người cũng "đã chiến thắng thế gian" rồi. Vậy phải hiểu ý nghĩa cái "đã" thuộc về quá khứ hay đã qua này ra sao, trong khi chính lúc Người khẳng định như thế lại chưa xẩy ra như vậy? Căn cứ vào các "dụ ngôn" là lời Người nói và việc Người làm như là các dấu lạ ẩn tàng một mầu nhiệm bên trong để chứng thực sự thật "Thày bởi Cha mà ra", có 2 "dụ ngôn" liên quan đến mầu Nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm tột đỉnh chứng tỏ sự thật "Thày bởi Cha mà ra", và chứng tỏ "Thày đã thắng thế gian", dù theo thời gian chưa thực sự xẩy ra như thế. 

 

"Dụ ngôn" thứ nhất đó là biến cố Người chay tịnh 40 đêm ngày và cuối cùng bị ma quỉ cám dỗ, một biến cố ám chỉ và hường về mầu nhiệm khổ nạn và tử giá, một biến cố mang tính cách "dụ ngôn" cho thấy Người quả thực "đã chiến thắng thế gian", ở chỗ Satan đã hoàn toàn bị thảm bại, một thảm bại sẽ được lập lại trên Đồi Canvê sau này.

 

"Dụ ngôn" thứ hai đó là biến cố Người biến hình trên núi cao, một biến cố liên quan đến mầu nhiệm phục sinh vinh hiển của Người, một mầu nhiệm cho thấy quả thực "Người đã chiến thắng thế gian", sau khi để cho thế gian, qua giáo quyền Do Thái giáo và chính quyền Đề quốc Rôma hợp nhau sát hại Người nhưng vẫn chẳng những không làm gì được Người mà nhờ đó Người biến thập giá là tiêu biểu cho tội lỗi và chết chóc thành ân sủng và sự sống.


Bài Đọc 1 (Tông Vụ 19:1-8)


"Xảy ra là khi Apollô ở Côrintô, thì Phaolô đi miền thượng du, rồi đến Êphêxô gặp một số môn đồ, và ngài hỏi họ: 'Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?' Họ trả lời: 'Nguyên việc có Thánh Thần hay không, chúng tôi cũng chưa nghe nói'. Ngài lại hỏi: 'Vậy các ngươi đã chịu phép rửa của ai?' Họ thưa: 'Phép rửa của Gioan'. Phaolô liền bảo: 'Gioan thanh tẩy dân chúng bằng phép rửa sám hối mà rằng: Hãy tin vào Ðấng sẽ đến sau ông, tức là Ðức Giêsu'. Nghe vậy, họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần đến ngự xuống trên họ, họ liền nói được nhiều thứ tiếng và nói tiên tri. Tất cả đàn ông chừng mười hai người. Ngài vào hội đường, và trong suốt ba tháng, Ngài mạnh dạn rao giảng, tranh luận và thuyết phục về nước Thiên Chúa".


Nếu không ở trong tình trạng Hiệp Nhất Thần Linh, không ai có thể làm được những gì như chính Chúa Kitô đã làm, bởi không có Thánh Thần của Người ở nơi họ, Vị Thánh Thần được Người chẳng những thông cho họ từ chính thân xác phục sinh của Người ngay sau khi Người sống lại tử trong cõi chết (xem Gioan 20:22) mà còn là Vị Thánh Thần được Người từ Cha sai đến với Giáo Hội (xem Gioan 15:26 và Tông Vụ 1:8). 


Trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã thật sự được Hiệp Nhất Thần Linh đến độ việc đặt tay của ngài đã gây ra một tác dụng thần linh đó là làm cho "Thánh Thần ngự xuống trên họ", thành phần "đã nhận phép rửa nhân danh Chúa Giêsu", và chỉ nhờ lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Kitô, chứ không phải phép rửa thống hối của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, mà nhờ đó "Thánh Thần ngự xuống trên họ" và họ cũng được Hiệp Nhất Thần Linh với Chúa Kitô, khiến "họ liền nói được nhiều thứ tiếng và nói tiên tri". 

 


 

Thứ Ba

 

Ngày 31 tháng 5

ĐỨC MA-RI-A THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT

lễ kính


Trong khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ Sinh Nhật thánh Gio-an Tẩy Giả, Hội Thánh mừng lễ Đức Ma-ri-a đi thăm viếng bà Ê-li-sa-bét. Lễ này mừng biến cố hai bà mẹ gặp nhau, nhưng nhất là, mừng Chúa Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ gặp gỡ vị Tiền Hô của mình trong lòng bà Ê-li-sa-bét. Lễ này tràn ngập niềm vui của bài thánh ca “linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”.

Phụng Vụ Giờ Kinh

Bài đọc 2

Đức Ma-ri-a ngợi khen Đức Chúa hoạt động nơi Người

Trích bài giảng của thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục.

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Qua những lời đó, trước hết Đức Mẹ muốn tuyên xưng những ơn riêng Chúa đã ban cho Người cách đặc biệt, sau là kể ra những ơn chung Thiên Chúa không ngừng ban cho nhân loại đến muôn đời.

Linh hồn ngợi khen Đức Chúa, khi đem hết mọi tình cảm con người bên trong ra mà ca ngợi phụng sự Chúa, khi tỏ ra luôn suy tưởng về quyền lực oai phong của Chúa qua việc tuân giữ các huấn lệnh của Người.

Thần trí hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, khi lấy làm vui vì tưởng nhớ đến một mình Chúa là Đấng Hoá Công và là Đấng ban cho niềm hy vọng được ơn cứu độ muôn đời.

Những lời đó thật thích hợp cho mọi người hoàn thiện, nhưng đặc biệt thích hợp cho Mẹ diễm phúc, khi Người tuyên xưng những lời ấy, vì nhờ đặc ân lạ lùng mà Người được cháy lửa yêu mến thiêng liêng đối với Đấng Người đã hoan hỷ cưu mang trong thân xác mình.

Người thật có lý để vui mừng một cách đặc biệt hơn các vị thánh khác trong Đức Giê-su, nghĩa là trong Đấng cứu độ Người, vì Người nhận biết Đấng là tác giả ơn cứu độ muôn đời sẽ sinh ra trong thời gian bởi thịt của Người, để trong cùng một ngôi vị duy nhất, Đức Giê-su thật sự vừa là con, vừa là Chúa của Người.

Bởi vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn. Người không kể gì là do công trạng riêng, vì cho tất cả sự cao trọng của mình là do ơn của Đấng tự bản tính vốn là quyền năng và vô cùng cao cả thường làm cho các tín hữu từ chỗ nhỏ bé thấp hèn nên mạnh mẽ cao sang.

Đức Mẹ còn khéo léo nói thêm : Danh Người thật chí thánh chí tôn, để khuyên nhủ thính giả và dạy tất cả những ai nghe được lời của Người biết mau đón nhận đức tin và kêu cầu danh Chúa, hầu chính họ có thể thông phần sự thánh thiện muôn đời và ơn cứu độ đích thực, như lời ngôn sứ : Phàm ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ. Đó chính là danh Đức Mẹ nói tới trong câu : Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Vì thế, trong Hội Thánh có thói quen rất tốt lành là hằng ngày mọi người hát thánh thi của Đức Mẹ khi nguyện kinh chiều, nhờ đó tâm hồn các tín hữu vừa năng tưởng nhớ đến mầu nhiệm của Chúa mà thêm lòng sốt mến, vừa năng suy niệm các gương lành của Thánh Mẫu mà thêm vững mạnh trên đường nhân đức. Đọc như thế vào giờ kinh chiều thật là thích hợp, vì tâm trí chúng ta sau một ngày làm việc mệt mỏi và ngổn ngang trăm mối, lúc sắp được nghỉ ngơi, có thể hồi tâm để cùng nhau suy gẫm.

Đấng cứu độ chúng ta đã chẳng nề sinh làm con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Ta hãy chúc tụng và tha thiết nguyện cầu :

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Mặt Trời soi đường công chính, đã muốn cho Đức Mẹ xuất hiện tựa hừng đông, - xin cho chúng con biết theo Người mà bước đi trong ánh sáng của ngày cứu độ.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Ngôi Lời hằng hữu, Thánh Mẫu Chúa đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, - xin cho chúng con hằng noi gương Thánh Mẫu mà gắn bó cùng Chúa trọn đời.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, Chúa đã muốn cho Đức Mẹ đứng kề bên thánh giá, - xin nhậm lời Người chuyển cầu mà cho chúng con hưởng nhờ ơn cứu độ.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Con Đức Trinh Nữ, và là anh của chúng con, xưa trên thánh giá, Chúa đã xin Đức Mẹ làm mẹ thánh Gio-an, - xin cho chúng con cũng nhận biết Người là mẹ, và trọn niềm hiếu thảo với Người.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

 

Thiên Chúa là Cha toàn năng đã muốn cho mọi đời phải ca ngợi Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Ki-tô. Vậy ta hãy tôn vinh Thiên Chúa Cha, và xin Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng ta :

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Thân Mẫu Chúa Giê-su, - xin cho các bà mẹ biết gây tinh thần bác ái và đời sống thánh thiện trong gia đình.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã đặt Đức Ma-ri-a làm Từ Mẫu của nhân loại, - xin cho tất cả những ai đang gặp cảnh gian truân được cảm nghiệm tình mẫu tử của Người.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã làm cho Đức Mẹ biết chăm chỉ lắng nghe lời Chúa, và tận tâm phục vụ Chúa, - xin cho chúng con được trở thành những môn đệ trung tín của Đức Ki-tô.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã phong Đức Ma-ri-a làm Nữ Vương thiên quốc, - xin cho các anh chị em đã lìa thế được chung hưởng vinh quang với thần thánh trên trời.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Thánh Mẫu Ma-ri-a vừa cưu mang Chúa Giê-su, Cha đã soi sáng cho Thánh Mẫu đi thăm viếng bà Ê-li-sa-bét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Đức Ma-ri-a ngợi khen Cha muôn đời. Chúng con cầu xin




Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: Xp 3, 14-18a

"Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi".

Trích sách Tiên tri Xôphônia.

Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi, và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.

Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: "Hỡi Sion, đừng sợ! Tay đừng bủn rủn! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Với ngươi, Người làm mới lại tình yêu của Người. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui, như thuở tao phùng".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc: Rm 12, 9-16

"Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà".

Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, đức ái không được giả hình: Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong tình bác ái huynh đệ. Hãy nhân nhượng tôn kính nhau. Hãy siêng năng, chớ biếng nhác: Hãy sốt mến trong tâm hồn và phụng sự Chúa. Hãy hân hoan trong niềm cậy trông, nhẫn nại trong gian truân và kiên tâm cầu nguyện. Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà.

Hãy chúc phúc cho những kẻ bắt bớ anh em: Hãy chúc phúc, chứ đừng chúc dữ. Hãy vui mừng với kẻ vui mừng, và khóc lóc với kẻ khóc lóc. Hãy đồng tâm hiệp ý với nhau: đừng tự cao tự đại, một hãy ưa thích những sự hèn kém. Ðừng tự đắc cho mình là khôn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6

Ðáp: Ðấng Thánh cao cả của Israel ở giữa ngươi (c. 6b).

Xướng: 1) Này là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi, tôi sẽ tin tưởng hành động và không sợ hãi: vì Chúa là sức mạnh và là sự ngợi khen của tôi, và Người đã đem lại cho tôi ơn cứu độ. - Ðáp.

2) Hãy tuyên xưng Chúa và kêu cầu thánh danh Người; hãy làm cho các dân tộc biết việc Chúa sáng tạo; hãy nhớ rằng danh Người thật cao sang. - Ðáp.

3) Hãy ca mừng Chúa, vì người đã làm những việc trọng đại; hãy công bố việc đó trong khắp hoàn cầu. Hỡi dân thành Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì Ðấng Thánh cao cả của Israel ở giữa ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: Lc 1, 45

Alleluia, alleluia! - Hỡi Trinh Nữ Maria, phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 39-56

"Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:

"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".

Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.

"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".

Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Viếng Thăm Là Dạo Khúc Cho Sứ Vụ Của Chúa Giêsu

 

1- Trong đoạn trình thuật về Cuộc Viếng Thăm, Thánh Luca cho chúng ta thấy, sau khi tràn đầy hồng ân Nhập Thể, Đức Maria đã mang ơn cứu độ và niềm vui đến cho gia đình bà Êlizabét ra sao. Đấng Cứu Thế nhân trần, được cưu mang trong lòng Mẹ mình, đã tuôn đổ Thánh Linh xuống, qua việc tỏ mình ra ngay từ lúc mới vào trần gian của mình.

Khi diễn tả việc khởi hành của Đức Maria lên đường đi xuống Giuđêa, Thánh Ký đã dùng động từ “anistemi”, nghĩa là “chỗi dậy”, là “bắt đầu di chuyển”. Nếu động từ này được các Phúc Âm sử dụng để nói đến việc Phục Sinh của Chúa Giêsu (Mk 8:31, 9:9,31; Lk 24:7,46), hay những tác động thể lý ám chỉ nỗ lực về tâm linh (Lk 5:27-28, 15:18,20), chúng ta có thể cho rằng Thánh Luca muốn dùng cách diễn tả này để nhấn mạnh đến cái nhiệt tình mạnh mẽ, theo ơn soi động của Thánh Linh, đã thúc đẩy Đức Maria ban tặng cho thế giới Vị Cứu Tinh của nó.

2- Bản văn Phúc Âm cũng trình thuật rằng Đức Maria “vội vàng” (Lk 1:39) lên đường. Ngay cả ghi chú về việc Người “đến một miền đồi núi”, Phúc Âm Thánh Luca cũng cho thấy một ý nghĩa sâu xa của nó, hơn là chỉ cố ý nói đến một địa dư vậy thôi, vì nó gợi lại cho chúng ta thấy hình ảnh một vị sứ giả loan báo tin mừng trong Sách Tiên Tri Isaia: “Đẹp thay trên các núi đồi bước chân của người loan báo tin vui, của người rao truyền an bình, của người mang tin thiện phúc, của người rao truyền ơn cứu độ, của người nói với Sion rằng: ‘Thiên Chúa của các người hiển trị’” (Is 52:7).

Như Thánh Phaolô, vị nhìn nhận đoạn sách tiên tri này đã được nên trọn ở việc loan truyền phúc âm (Rm 10:15), Thánh Luca hình như cũng muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn nơi Đức Maria như là “vị truyền bá phúc âm” tiên khởi, vị loan truyền “tin mừng”, khai mào các cuộc hành trình thừa sai cho Người Con thần linh của Người.

Sau hết, hướng đi trong cuộc hành trình của Đức Trinh Nữ cũng có một ý nghĩa đặc biệt, ở chỗ, Người đi từ Galilê xuống Giuđêa, giống như cuộc hành trình truyền giáo của Chúa Giêsu vậy (x 9:51).

Thật thế, cuộc viếng thăm bà Eâlizabét của Đức Maria là một dạo khúc cho sứ vụ truyền giáo của Chúa Giêsu, và ngay từ ban đầu, với vai trò làm mẹ cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Con mình, Người đã trở nên một mẫu gương cho những ai thuộc về Giáo Hội muốn ra đi mang ánh sáng của Chúa Kitô và niềm vui đến cho con người ở mọi thời và khắp mọi nơi.

3- Cuộc gặp gỡ bà Elizabét có tính cách của một biến cố cứu độ vui mừng, vượt lên trên những cảm xúc tự nhiên của tình nghĩa gia đình. Nơi đang ở vào hoàn cảnh bối rối về hành động thiếu tin tưởng, được tỏ hiện qua tình trạng bị câm lặng của ông Zacaria, thì Đức Maria đã làm bừng lên niềm vui của một đức tin mau mắn và cởi mở của Người: “Người đã vào nhà ông Zacaria và chào bà Elizabét” (Lk 1:40).

Thánh Luca cho thấy mối liên hệ này là: “Khi bà Elizabét nghe lời chào của Đức Maria thì con trẻ trong lòng bà liền nhẩy mừng” (Lk 1:41). Lời chào của Đức Maria đã khiến cho người con trai của bà Elizabét nhẩy lên vui sướng, ở chỗ, qua việc làm của Đức Maria, việc Chúa Giêsu vào nhà của bà Elizabét đã mang đến cho vị tiên tri thai nhi này một niềm vui được Cựu Ước tiên báo như là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Đấng Thiên Sai.

Với lời chào của Đức Maria, niềm vui cứu độ đã đến với cả bà Elizabét nữa, để rồi, “được đầy Thánh Linh… bà đã lớn tiếng kêu lên rằng ‘Người có phúc hơn mọi phụ nữ, và phúc cho hoa trái trong lòng của Người’ (Lk 1:41-42).

Nhờ được ơn soi sáng từ trên cao, bà hiểu được sự cao trọng của Đức Maria, vị còn hơn cả Jael và Judith là những nhân vật tiền thân của Người trong Cựu Ước, Người có phúc hơn mọi người nữ bởi quả phúc trong lòng Người là Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai.

4- Lời bà Elizabét hô lên ấy, hô một cách “lớn tiếng”, chứng tỏ cho thấy cả một tấm lòng nhiệt thành sốt sắng chân tình, một tấm lòng nhiệt thành sốt sắng chân tình sẽ được tiếp tục vang vọng trên môi miệng của tín hữu qua kinh “Kính Mừng”, một kinh nguyện như một bài ca của Giáo Hội chúc tụng những việc trọng đại được Đấng Tối Cao thực hiện nơi Người Mẹ của Con Ngài.

Trong việc tuyên tụng Người “có phúc hơn mọi người nữ”, bà Elizabét muốn nói đến đức tin của Đức Maria là lý do đã làm cho Người được diễm phúc: “Phúc cho Người vì đã tin rằng những gì Chúa nói cùng Người sẽ được thực hiện” (Lk 1:45). Sự cao cả và niềm vui của Đức Maria phát xuất từ việc Người là một con người tin tưởng.

Thấy được vai trò tuyệt hạng nơi Đức Maria, bà Elizabét cảm thấy cái vinh dự mình được Người đến viếng thăm: “Tôi làm sao lại có diễm phúc là được Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi?” (Lk 1:43). Bằng lời xưng tụng “Chúa tôi”, bà Elizabét đã nhìn nhận phẩm vị hoàng tộc, đúng hơn, phẩm vị thiên sai nơi Người Con của Đức Maria. Trong Cựu Ước, lời này quả thực được dùng để xưng tụng đức vua (x 1Kgs 1:13,20,21 v.v.) cũng như để nói về Vị Vua Thiên Sai (Ps 110:1). Thiên Thần đã nói về Chúa Giêsu rằng: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Đavít tổ phụ của Người” (Lk 1:32). “Được đầy Thánh Thần”, bà Elizabét cũng có cùng một minh thức như thế. Cuộc vinh hiển vượt qua của Chúa Kitô sau này mới tỏ cho thấy ý nghĩa cần phải hiểu về danh hiệu này, một ý nghĩa siêu việt (x Jn 20:28; Acts 2:34-36).

Bằng việc vang lên lời chúc tụng ấy, bà Elizabét mời gọi chúng ta hãy cảm nhận tất cả những gì do sự hiện diện của Đức Maria mang đến như là một ân phúc cho đời sống của mọi tín hữu.

Qua việc Viếng Thăm này, Người Trinh Nữ đã mang Chúa Giêsu đến cho mẹ của Vị Tẩy Giả, một Chúa Kitô là Đấng tuôn đổ Thánh Linh. Vai trò trung gian môi giới này phát xuất từ chính những lời của bà Elizabét: “Này, khi tai tôi vừa nghe thấy tiếng Người chào thì con trẻ trong lòng tôi liền nhẩy mừng” (Lk 1:44). Với tặng ân Thánh Linh được ban phát bấy giờ, sự hiện diện của Đức Maria đóng vai trò như một dạo khúc cho Cuộc Hiện Xuống, một Cuộc Hiện Xuống xác nhận việc hợp tác, được bắt đầu từ Biến Cố Nhập Thể, cần phải được thể hiện nơi toàn cục diện cứu độ thần linh.

(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 2/10/1996,
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 9/10/1996)

 

 

                                                                                                                          

Thứ Ba sau Chúa Nhật VII Phục Sinh

(Nếu không bị Lễ Kính Đức Mẹ Thăm Viếng át đi)

Bài Ðọc I: Cv 20, 17-27

"Tôi đi cho hết quãng đường đời và hoàn tất nhiệm vụ rao giảng lời Chúa".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, từ Milê, Phaolô sai người đi Êphêxô mời các trưởng giáo đoàn đến. Khi họ đến với ngài và hội họp, ngài nói với họ: "Các ông biết ngay tự ngày đầu khi tôi vào đất Tiểu Á, tôi đã cư xử thế nào với các ông trong suốt thời gian đó, tôi hết lòng khiêm nhường phụng sự Chúa, phải khóc lóc và thử thách do người Do-thái âm mưu hại tôi. Các ông biết tôi không từ chối làm một điều gì hữu ích cho các ông, tôi đã rao giảng và dạy dỗ các ông nơi công cộng và tại tư gia, minh chứng cho người Do-thái và dân ngoại biết phải hối cải trở về với Thiên Chúa, phải tin Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Và giờ đây được Thánh Thần bắt buộc đi Giêrusalem mà không biết ở đó có những gì xảy đến cho tôi, chỉ biết là từ thành này qua thành khác, Thánh Thần báo trước cho tôi rằng: xiềng xích và gian lao đang chờ tôi ở Giêrusalem. Nhưng tôi không sợ chi cả, không kể mạng sống tôi làm quý, miễn là tôi đi cho hết quãng đường đời và hoàn tất nhiệm vụ rao giảng lời Chúa mà tôi đã lãnh nhận nơi Chúa Giêsu là làm chứng về Tin Mừng ơn Thiên Chúa. Và giờ đây, tôi biết rằng hết thảy các ông là những người được tôi ghé qua rao giảng nước Thiên Chúa, các ông sẽ chẳng còn thấy mặt tôi nữa. Vì thế hôm nay tôi quả quyết với các ông rằng: tôi trong sạch không dính máu người nào cả. Vì chưng, tôi không trốn tránh, khi phải rao giảng cho các ông mọi ý định của Thiên Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 67, 10-11. 20-21

Ðáp: Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, Ngài làm mưa ân huệ xuống cho dân Ngài, và khi họ mệt mỏi, Ngài đã bổ dưỡng cho. Ôi Thiên Chúa, đoàn chiên Ngài định cư trong xứ sở, mà do lòng nhân hậu, Ngài chuẩn bị cho kẻ cơ bần. - Ðáp.

2) Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia. Thiên Chúa là Ðấng cứu độ, Ngài vác đỡ gánh nặng chúng ta. Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa cứu độ, Chúa là Thiên Chúa ban ơn giải thoát khỏi tay tử thần. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 16

Alleluia, alleluia! - Thầy sẽ xin cùng Cha, và Người sẽ ban cho các con Ðấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 17, 1-11a

"Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: "Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm vinh hiển Cha. Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con. Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Ðấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô.

"Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con. Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho Con được vinh hiển nơi Cha với sự vinh hiển mà Con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ lời Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con, đều bởi Cha mà ra. Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con.

"Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Phúc Âm (Gioan 17:1-11a)


"Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: 'Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm vinh hiển Cha. Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để Con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con. Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Ðấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô. Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con. Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho Con được vinh hiển nơi Cha với sự vinh hiển mà Con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ lời Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con, đều bởi Cha mà ra. Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con. Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha'".


Chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh trong chủ đề "Thày là sự sống" trong bài phúc âm cho Thứ Ba Tuần VII Phục Sinh hôm nay được hiện tỏ nơi lời cuối cùng của Chúa Giêsu: "mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha". 


Thật vậy, chiều kích hiệp nhất không thể nào thiếu tính chất thuộc về nhau và ở với nhau. Thuộc về nhau: "mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con", và ở với nhau: "phần Con, Con về cùng Cha". 


Thế nhưng, "mọi sự của Con" được Chúa Kitô nói đến ở đây là gì, nếu không phải là thành phần các môn đệ của người bấy giờ và sau này làm nên Nhiệm Thể của Người là Giáo Hội. Đó là lý do chính Chúa Giêsu đã xác nhận các môn đệ của Người là tất cả "mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con": "mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con", "mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con", và "những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha". 


Chính vì "mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con" như thế mà Chúa Kitô đã muốn cho họ cũng được hiệp nhất thần linh với Người và qua Người với Cha của Người nữa, bằng cách, như Người thưa cùng Cha của Người trong bài Phúc Âm: 1- ban sự sống đời đời cho họ: "Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để Con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con"; 2- và tỏ danh Cha cho họ: "Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con... những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con".  

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay là phần thứ nhất trong 3 phần của Đoạn Phúc Âm 17 được Thánh ký Gioan ghi lại, bao gồm tất cả Lời Nguyện kết thúc Bữa Tiệc Ly của Chúa Kitô. Phần đầu (hôm nay - Thứ Ba) của Lời Nguyện này liên quan đến chính bản thân Chúa Kitô và vinh hiển của Người, phần hai (ngày mai - Thứ Tư) liên quan đến các tông đồ và đặc ân thánh hóa của các vị, và phần ba (ngày kia - Thứ Năm) liên quan đến chung nhân loại và mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa.

 

 

Trước hết, "vinh hiển" của Chúa Kitô đây là gì? Tại sao Người lại xin Cha của Người làm cho Người được "vinh hiển"? Xin thưa, "vinh hiển" của Chúa Kitô đây là "vinh hiển mà Con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian". Tức vinh hiển là "Con Thiên Chúa" của Chúa Kitô, một vinh hiển mà Người xin Cha của Ngài xin hãy làm sáng tỏ trước chung thế gian và riêng các môn đệ của Người, nhờ đó, Người cũng làm cho Cha được "vinh hiển" ở chỗ các môn đệ của Người cũng như thế gian nhận biết Cha là Đấng đã sai Người vì yêu thương nhân loại.

 

 

Nếu "Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Ðấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô", thì cách thức làm sao cho họ nhận biết chính là cách thức Cha làm "vinh hiển" Người và đồng thời nhờ đó Người cũng làm "vinh hiển" Cha của Người. Mà cách thức ấy là gì, nếu không phải hoàn trọn ý muốn của Cha là Đấng đã sai Người: "Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con".

 

 

Phải, Chúa Cha đã làm "vinh hiển" Con ở chỗ muốn Con của Ngài phải chịu khổ nạn và tử giá, và chính Chúa Kitô cũng chẳng còn cách nào khác hơn là tuân phục Cha của Người: "tuy thân phận là Con, Người cũng đã biết tuân phục nơi những gì phải chịu, để khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên cứu độ đời đời cho tất cả những ai tín phục Người" (Do Thái 5:8), nghĩa là làm cho các môn đệ của Người và thế gian nhận biết Người là Con của Thiên Chúa, hay qua Người mà nhận biết Cha là Đấng đã sai Người, hầu được "sự sống đời đời".

 

 

 

Bài Đọc 1 (Tông Vụ 20:17-27) 


"Trong những ngày ấy, từ Milê, Phaolô sai người đi Êphêxô mời các trưởng giáo đoàn đến. Khi họ đến với ngài và hội họp, ngài nói với họ: 'Các ông biết ngay tự ngày đầu khi tôi vào đất Tiểu Á, tôi đã cư xử thế nào với các ông trong suốt thời gian đó, tôi hết lòng khiêm nhường phụng sự Chúa, phải khóc lóc và thử thách do người Do-thái âm mưu hại tôi. Các ông biết tôi không từ chối làm một điều gì hữu ích cho các ông, tôi đã rao giảng và dạy dỗ các ông nơi công cộng và tại tư gia, minh chứng cho người Do-thái và dân ngoại biết phải hối cải trở về với Thiên Chúa, phải tin Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Và giờ đây được Thánh Thần bắt buộc đi Giêrusalem mà không biết ở đó có những gì xảy đến cho tôi, chỉ biết là từ thành này qua thành khác, Thánh Thần báo trước cho tôi rằng: xiềng xích và gian lao đang chờ tôi ở Giêrusalem. Nhưng tôi không sợ chi cả, không kể mạng sống tôi làm quý, miễn là tôi đi cho hết quãng đường đời và hoàn tất nhiệm vụ rao giảng lời Chúa mà tôi đã lãnh nhận nơi Chúa Giêsu là làm chứng về Tin Mừng ơn Thiên Chúa. Và giờ đây, tôi biết rằng hết thảy các ông là những người được tôi ghé qua rao giảng nước Thiên Chúa, các ông sẽ chẳng còn thấy mặt tôi nữa. Vì thế hôm nay tôi quả quyết với các ông rằng: tôi trong sạch không dính máu người nào cả. Vì chưng, tôi không trốn tránh, khi phải rao giảng cho các ông mọi ý định của Thiên Chúa'".


Chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh trong chủ đề "Thày là sự sống" trong Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh được tỏ hiện một cách cụ thể nơi trường hợp của Thánh Phaolô, Vị Tông Đồ Dân Ngoại. Ở chỗ, ngài cảm nhận được tác động thần linh của Thánh Thần nơi ngài, như chính ngài nói: "Và giờ đây được Thánh Thần bắt buộc đi Giêrusalem mà không biết ở đó có những gì xảy đến cho tôi, chỉ biết là từ thành này qua thành khác, Thánh Thần báo trước cho tôi rằng: xiềng xích và gian lao đang chờ tôi ở Giêrusalem"


Nếu không đạt được mức độ hiệp nhất thần linh cao cả, thì kinh nghiệm sống đạo cũng là sống đức tin cho thấy, không ai có thể nhậy cảm và cảm nghiệm được tác động thần linh của Chúa Thánh Thần như ngài. Mà cho dù có cảm nghiệm được tác động thần linh của Thánh Thần chăng nữa, nhiều khi Kitô hữu vẫn chối bỏ tác động ấy, bởi đụng đến bản thân của họ, bắt họ phải hy sinh hay chịu khổ, đến nỗi họ trốn chạy hay trấn át tác động thần linh của Ngài, điển hình là trường hợp của tiên tri Giona được sai đến rao giảng thống hối cho thành Ninivê (xem Giona 1:1-3).


Thế nhưng, ở đây, với Tông Đồ Phaolô, được hiệp nhất thần linh với Chúa Kitô là Đấng sống trong ngài (xem Galata 2:20), đến độ không gì có thể tách ngài ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô (xem Roma 8:35-39), thì như ngài quả quyết trong bài đọc 1 hôm nay: "Nhưng tôi không sợ chi cả, không kể mạng sống tôi làm quý, miễn là tôi đi cho hết quãng đường đời và hoàn tất nhiệm vụ rao giảng lời Chúa mà tôi đã lãnh nhận nơi Chúa Giêsu là làm chứng về Tin Mừng ơn Thiên Chúa".   

                                                                                     

 


                                                                                                                

Thứ Tư sau Chúa Nhật VII Phục Sinh

 

Bài Ðọc I: Cv 20, 28-38

"Tôi xin ký thác các ông cho Thiên Chúa, Ðấng có quyền năng kiến tạo và ban cho các ông được dự phần gia nghiệp".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, Phaolô nói với các trưởng giáo đoàn Êphêxô rằng: "Các ông hãy thận trọng, và săn sóc đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt các ông làm giám quản điều khiển giáo đoàn của Chúa đã được Người cứu chuộc bằng máu. Phần tôi, tôi biết rằng sau khi tôi đi rồi, sẽ có những sói dữ đột nhập giữa các ông, chúng không dung tha đoàn chiên; và ngay giữa các ông sẽ có những kẻ ăn nói xảo trá nổi dậy để lôi kéo các môn đồ theo họ. Vì thế, các ông hãy tỉnh thức, và nhớ rằng trong ba năm trời, đêm ngày tôi không ngừng sa lệ mà khuyên bảo từng người. Và bây giờ, tôi xin ký thác các ông cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, Người là Ðấng có quyền năng kiến tạo và ban cho các ông được dự phần gia nghiệp làm một với tất cả mọi người đã được thánh hoá. Tôi đã không ham muốn bạc, vàng, hay y phục của ai hết, như chính các ông đã biết. Những đồ gì tôi và những kẻ ở với tôi cần dùng, thì chính hai bàn tay này đã làm ra. Bằng mọi cách, tôi đã chỉ bảo cho các ông rằng phải làm việc như vậy, để nâng đỡ những người yếu đuối, và ghi nhớ lời Chúa Giêsu đã phán: "Cho thì có phúc hơn là nhận"."

Nói xong, ngài quỳ xuống cầu nguyện với mọi người. Ai nấy đều khóc lớn tiếng, và ôm cổ Phaolô mà hôn, họ đau buồn nhất là vì lời ngài vừa nói rằng họ sẽ không còn thấy mặt ngài nữa. Rồi họ tiễn đưa ngài xuống tàu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 67, 29-30. 33-35a. 35b-36c

Ðáp: Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, xin tỏ ra quyền năng của Chúa. Ôi Thiên Chúa, xin củng cố sự việc Chúa đã làm cho chúng con! Vì thánh đài của Chúa ở Giêrusalem, các vua sẽ tiến dâng Ngài lễ vật. - Ðáp.

2) Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên Chúa, hãy xướng lên bài ca mừng Chúa, mừng Ðấng ngự giá qua cõi trời, cõi trời ngàn thu! Kìa Ngài lên tiếng, tiếng nói quyền năng: "Các ngươi hãy nhìn biết quyền năng Thiên Chúa". - Ðáp.

3) Oai nghiêm Ngài chiếu giãi trên Israel, và quyền năng Ngài trên cõi nước mây. Từ thánh điện của Ngài, Thiên Chúa đáng tôn sợ. Thiên Chúa của Israel, chính Ngài ban cho dân Ngài được quyền năng và mãnh lực. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 28, 19 và 20

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 17, 11b-19

"Ðể chúng được nên một như Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.

"Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý".

Ðó là lời Chúa.


Phúc Âm (Gioan 17:11b-19)

"Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: 'Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng. Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý'".

 


Chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh trong Mùa Phục Sinh theo chủ đề "Thày là sự sống" cho Thứ Tư của Tuần Lễ VII Phục Sinh hôm nay lại càng rõ ràng hơn nữa, qua lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay: "để chúng được nên một như Ta". 


Thế nhưng, để thực hiện tình trạng Hiệp Nhất Thần Linh này nơi các môn đệ của mình, không phải chỉ giữa mình và họ, mà còn giữa họ với Cha nữa, Chúa Kitô "đã tự thánh hóa để cả chúng được thánh hóa trong chân lý", nghĩa là để cho các môn đệ của Người có thể nhận biết "Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô", như lời Người thưa cùng Cha của Người trong bài Phúc Âm hôm qua. 


Vì nhờ nhận biết như thế các môn đệ mới được sự sống, sự sống thần linh của Chúa Kitô, như Chúa Kitô và với Chúa Kitô là Đấng đã thông ban cho họ qua cuộc Vượt Qua của Người. Và nhờ sự sống thần linh này mà các môn đệ của Người mới ở thế gian mà "không thuộc về thế gian", trái lại thế gian nhờ các vị mà nhận biết Chúa Kitô mà được thông phần vào mối Hiệp Nhất Thần Linh, như lời Người thưa cùng Cha trong bài Phúc Âm ngày mai.

 

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay chúng ta còn thấy Chúa Kitô tỏ ra rất trân trọng và yêu thương các môn đệ của Người là "những kẻ Cha đã ban cho Con", thành phần mà trong bài Phúc Âm hôm qua Người cũng đã khẳng định là "mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con", "mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con... chúng là của Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con".

 

 

Người đã tỏ ra hết sức quan tâm lo lắng cho những kẻ thuộc về Người như Cha đã trao phó cho Người, khi Người sắp "về cùng Cha" của Người, về tiêu cực, làm sao "gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ", và về phần tích cực, "thánh hoá chúng trong chân lý". Việc "gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ" không phải ở chỗ "xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian" mà là "thánh hoá chúng trong chân lý" bằng "lời Cha là chân lý". "lời Cha" đây chính là Chúa Kitô, là tất cả những gì Cha muốn tỏ mình ra cho họ, nhất là nơi cuộc khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô: "vì chúng mà Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý'".

 

 

Đó là lý do, một lý do trước hết và trên hết "vì chúng" (ám chỉ cả Giáo Hội) hơn là vì chung loài người, mà trong việc lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Kitô, khi trao bánh và rượu cho các môn đệ tông đồ, thành phần thuộc về Người và được Cha trao phó cho Người, Người đã khẳng định như sau: "Này là mình Thày sẽ bị nộp vì các con..." "Chén này là chén tân ước trong máu của Thày là máu sẽ đổ ra cho các con" (Luca 22:19-20).


Bài Đọc 1 (Tông Vụ 20:28-38)


"Trong những ngày ấy, Phaolô nói với các trưởng giáo đoàn Êphêxô rằng: 'Các ông hãy thận trọng, và săn sóc đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt các ông làm giám quản điều khiển giáo đoàn của Chúa đã được Người cứu chuộc bằng máu. Phần tôi, tôi biết rằng sau khi tôi đi rồi, sẽ có những sói dữ đột nhập giữa các ông, chúng không dung tha đoàn chiên; và ngay giữa các ông sẽ có những kẻ ăn nói xảo trá nổi dậy để lôi kéo các môn đồ theo họ. Vì thế, các ông hãy tỉnh thức, và nhớ rằng trong ba năm trời, đêm ngày tôi không ngừng sa lệ mà khuyên bảo từng người. Và bây giờ, tôi xin ký thác các ông cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, Người là Ðấng có quyền năng kiến tạo và ban cho các ông được dự phần gia nghiệp làm một với tất cả mọi người đã được thánh hoá. Tôi đã không ham muốn bạc, vàng, hay y phục của ai hết, như chính các ông đã biết. Những đồ gì tôi và những kẻ ở với tôi cần dùng, thì chính hai bàn tay này đã làm ra. Bằng mọi cách, tôi đã chỉ bảo cho các ông rằng phải làm việc như vậy, để nâng đỡ những người yếu đuối, và ghi nhớ lời Chúa Giêsu đã phán: 'Cho thì có phúc hơn là nhận'".


Chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh của Mùa Phục Sinh theo chủ đề "Thày là sự sống" tiếp tục với Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong bài đọc 1 hôm nay. Ở chỗ ngài đã tỏ ra lo cho lợi ích thiêng liêng của những ai đã được ngài phục vụ trong 3 năm liền, như Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm cũng bày tỏ cùng Cha của Người về mối quan tâm của Người đối với số phận của những ai thuộc về Người còn ở thế gian vậy. 


Nếu Chúa Kitô đã "đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28) thế nào, thì Thánh Phaolô, được Hiệp Nhất Thần Linh với Người cũng đã phản ảnh Người như vậy, cũng chủ trương đúng như lời Người khuyên dạy "cho đi hơn nhận lãnh", bằng cách "tôi đã không ham muốn bạc, vàng, hay y phục của ai hết, như chính các ông đã biếtNhững đồ gì tôi và những kẻ ở với tôi cần dùng, thì chính hai bàn tay này đã làm ra", hoàn toàn không phiền đến ai, trái lại, ngài tỏ ra rất ân cần lưu tâm đến lợi ích thiêng liêng của chung cộng đồng dân Chúa và riêng từng người mà ngài được sai đến phục vụ: "trong ba năm trời, đêm ngày tôi không ngừng sa lệ mà khuyên bảo từng người".


Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã trao phó các môn đệ cho Cha của Người thế nào, thì mối Hiệp Nhất Thần Linh nơi Thánh Phaolô với Chúa Kitô cũng khiến ngài tác hành y như Chúa Kitô vậy, khi ngài trấn an họ rằng: "tôi xin ký thác các ông cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, Người là Ðấng có quyền năng kiến tạo và ban cho các ông được dự phần gia nghiệp làm một với tất cả mọi người đã được thánh hoá". 

 

 

 

Ngày 1 tháng 6

Thánh Giút-ti-nô, tử đạo


Thánh nhân là một triết gia và là anh hùng tử đạo. Người sinh tại Phơ-la-vi-a Nê-a-pô-li, ở Sa-ma-ri, trong một gia đình ngoại giáo, đầu thế kỷ II. Sau khi tin Chúa Ki-tô, người đã viết nhiều tác phẩm bênh vực Ki-tô giáo. Trong số đó, còn lại hai tác phẩm “Minh giáo” gửi cho hoàng đế An-tô-ni-ô và “Đối thoại với ông Tri-phông”, tranh luận với người Do-thái. Người cũng mở một trường dạy triết lý ở Rô-ma. Bị một đồng nghiệp tố cáo, người một lòng son sắt tuyên xưng đức tin trước mặt quan toà và đã được phúc tử đạo cùng với sáu Ki-tô hữu khác, quãng năm 165, thời hoàng đế Mác-cô Au-rê-li-ô.

Tôi đã theo đạo lý chân thật của các Ki-tô hữu

Bài đọc 2 giờ kinh sách ngày 1/6

Trích sử liệu về cuộc tử đạo của thánh Giút-ti-nô và các bạn.

Sau khi bị bắt, các thánh được điệu tới tổng trấn Rô-ma, tên là Rút-ti-cô. Lúc các ngài ra trước toà án, tổng trấn Rút-ti-cô nói với thánh Giút-ti-nô : “Trước hết ngươi phải tin các thần minh và tôn kính các hoàng đế.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Các ông không thể tố cáo hay bắt giam chỉ vì chúng tôi tuân lệnh Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng tôi.”

Quan Rút-ti-cô nói : “Nhà ngươi xưng tụng học thuyết gì vậy ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi đã cố học đủ mọi thứ học thuyết, nhưng tôi đã theo đạo lý chân thật của các Ki-tô hữu, dù đạo lý ấy không minh nhiên đối với những người đang chìm đắm trong sự lầm lạc.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Đạo lý ấy mà ngươi cho là minh nhiên ư, hỡi tên khốn kiếp ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Phải, vì giáo huấn đúng nên tôi theo đạo lý đó.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Giáo huấn đó thế nào ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Chúng tôi thờ Thiên Chúa của các Ki-tô hữu ; chúng tôi tin Người là Đấng Tạo Thành duy nhất từ ban đầu, là Hoá Công toàn thể thụ tạo hữu hình và vô hình ; và chúng tôi tin Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, Đấng được các ngôn sứ tiên báo sẽ đến rao giảng ơn cứu độ cho loài người và dạy dỗ các môn đệ Người tuyển chọn. Và vì tôi là người phàm, nên tôi nghĩ chỉ có thể nói được một vài điều, bởi lẽ thần tính của Người thì vô biên. Tôi công nhận uy tín của các ngôn sứ khi các ngài tiên báo Người là Con Thiên Chúa như tôi vừa nói. Quả thật, tôi biết các ngôn sứ được ơn trên báo cho biết trước về cuộc giáng lâm của Người đến với nhân gian.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi là Ki-tô hữu ư ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Đúng thế, tôi là Ki-tô hữu.”

Tổng trấn nói với thánh Giút-ti-nô : “Hãy nghe đây, hỡi kẻ được tiếng là thông thái và tưởng mình biết đạo lý thật : nếu ngươi bị đánh đòn và bị chặt đầu, ngươi có tin chắc là ngươi sẽ được lên trời không ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi hy vọng sẽ được ở trên đó, nếu tôi chịu được những điều này, vì tôi biết rằng cho đến tận thế, Chúa vẫn dành ơn ấy cho những ai ăn ở ngay lành.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi tưởng là ngươi sẽ được lên trời và nhận phần thưởng đích đáng sao ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Không phải là tưởng mà là biết rõ và chắc chắn như vậy.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Thôi, ta hãy đi vào vấn đề, vào công việc cần thiết và khẩn trương. Vậy các ngươi hãy đồng lòng tế thần đi.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Không ai là người có lương tri mà lại bỏ con đường đạo nghĩa để bước vào con đường vô đạo.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Nếu không tuân lệnh, các ngươi sẽ phải chịu khổ hình không chút xót thương.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Chúng tôi ao ước chịu khổ hình vì Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng tôi, để được cứu độ, vì điều ấy mang lại cho chúng tôi ơn cứu độ và làm cho chúng tôi vững tin trước toà chung thẩm của Chúa là Thiên Chúa và Đấng cứu độ chúng tôi.”

Các vị tử đạo khác cũng nói như sau : “Ngài muốn làm thế nào tuỳ ý, chúng tôi là Ki-tô hữu, chúng tôi không tế thần.”

Tổng trấn Rút-ti-cô tuyên án : “Ai không muốn tế thần và tuân lệnh hoàng đế, đều phải bị đánh đòn và mang đi chặt đầu, phải chịu án tử hình theo luật định.”

Các thánh tử đạo ngợi khen Chúa, đi tới pháp trường, bị chặt đầu và hoàn tất cuộc tử đạo khi tuyên xưng Đấng Cứu Độ.

Xướng đápx. Cv 20,21.24 ; Rm 1,16

XTôi đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, không chút sợ hãi.

ĐMạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận là làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.

XTôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp.

ĐMạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận là làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Giút-ti-nô tử đạo ơn hiểu biết sâu xa về Đức Ki-tô, nhờ suy tưởng mầu nhiệm Thập Giá mà thế gian coi là điên dại. Nhờ lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con thoát khỏi mọi tư tưởng sai lầm và cương quyết giữ vững niềm tin. Chúng con cầu xin

 

 

Thánh JUSTINO, Tử đạo (+165)

Thánh Giustinô tử đạo sinh tại Nablus, Samaria, ở vào đầu thế kỷ thứ II. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân thật. Với nhiệt tình này, ngài đã tiếp xúc với mọi người triết thuyết đường thời và không thoả mãn được các đòi hỏi của trí khôn.

Trong tác phẩm “Đối thoại với Tryphon” (Dialogus cum Tryphone), chính Thánh Giustinô kể lại cuộc tìm kiếm của mình: Trước hết, ngài tin tưởng vào một người theo phái khắc kỷ. Những người này chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói rằng sư hiểu biết ấy không cần thiết gì. Sau đó, ngài đến với một người theo thuyết của Aristote. Ông này đòi thù lao quá cao, khiến sinh viên trẻ là Giustinô phẫn uất: người ta không rao bán triết học.

Một người theo lý thuyết của Pythagore hỏi Ngài: Anh đã học âm nhạc, thiên văn và địa lý chưa? Bởi vì để chiêm ngưỡng điều góp phần tạo nên hạnh phúc cần phải biết học giải thoát tâm hồn khỏi các đối tượng hữu hình để có thể tiếp nhận được những đối tượng trong trí khôn và cho phép thấy được sự thiện mỹ nội tại.

Giustinô chưa biết gì về những môn học, nhưng lại thấy mình bị thúc bách tìm kiếm Thiên Chúa hơn. Ngài gặp một người theo phái Platon. Ngài nói: Sau nhiều đàm luận, tôi hiểu được những điều vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng thế giới tư tưởng chấp cánh cho tinh thần của tôi.

Dầu vậy, không có gì làm cho ngài thoả mãn được cơn khát chân lý. Tại Ephesô, Giustinô gặp một cụ già đầy khôn ngoan. Ông trách ngài đã thích lý sự về từ ngữ hơn sự kiện. Ông đã cho ngài một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc Kinh Thánh: phải vượt qua những giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong thời gian hơn các triết gia, phải nghe các tiên tri là những người nói bởi Chúa Thánh Thần, nhất là phải cầu nguyện vì: Không ai có thể thấy hay nghe được những điều này nếu Thiên Chúa và Đức Kitô không cho họ hiểu biết.

Theo lời khuyên này, Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo đảm hơn triết học nhiều. Từ đấy đức tin là quy luật xử thế và sự thánh thiện lý tưỏng của ngài, ngài mở một trường học tại Rôma và sống đời tông đồ đích danh. “Tôi sẽ nói sự thật, không một đắn đo sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm mảnh”.

Gương mẫu của các thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều: Thấy các ngài kiên vững trước cái chết, tôi thầm nói rằng họ không thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái lạc được nữa.

Ngài sẽ tìm được ở đâu sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là trong Kitô giáo? Bởi vậy, ngài đã tìm mở rộng môi trường hoạt động ra ngoài ranh giới lớp học và những cuộc tranh luận, bằng việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn giáo. Ngày nay, chúng ta chỉ còn giữ lại được 2 cuốn: Đối thoại với Tryphone, và Hộ giáo (Apologiae). Nhưng với hai tác phẩm ấy, Thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà minh giáo có thế giá được thế kỷ thứ II và là người đã phác hoạ ra nền thần học Kitô giáo.

Từ một đức tin vững chắc vào các chân lý Kitô giáo. Thánh Giustinô đã không ngần ngại tìm hết khả năng trổi vượt của trí khôn để 2 lần viết thơ can ngăn các bạo vương. Lần thứ nhất vào năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux, và lần thứ hai cho Marcô Aurelio. Cả hai lần ngài cố gắng chỉ dẫn đến kết quả là bị kết án tử hình.

Giustinô và các bạn bị dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus, một người theo triết thuyết Khắc Kỷ. Ngài lớn tiếng tuyên xưng đức tin. - Không ai có lương tri mà lại bỏ rơi chân lý để theo sự lầm lạc cả.

Thánh nhân từ chối không chịu tố giác nơi các Kitô hữu hội họp. Sau cùng, ngài và các bạn bi đánh đòn rồi bị chém đầu. Tài liệu còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh nhân đã phát biểu trong cuộc đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: Mọi nguyên tắc chính đáng mà các triết gia và các nhà lập luật khám phá được và trình bày cũng phải nhớ ở điều mà Ngôi Lời đã diễn tả một phần.

Ngài còn nói: Không ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông ta dạy. Chính vì những lý do khác hẳn với lĩnh vực văn chương mà bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để ký nhận các công trình của các ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng các ngài.
Trích trong Theo Vết Chân Người (Chân dung các thánh nhân)

http://www.truyen-tin.net/BiographyOfSaints.aspx?SID=86

 

  1. Thánh Justin người Samaria (miền Trung nước Dothái thời Chúa Giêsu). Ông sống vào thế kỉ thứ 2. Cha ông không dạy ông về tôn giáo nào cả.

Khi còn nhỏ, Justin  ưa đọc văn thơ, lịch sử, khoa học. Lớn lên ông tiếp tục học như thế, nhưng trong lòng ông muốn tìm hiểu đạo nào là thật?

Người ta kể: Một hôm, trong khi đi dạo bờ biển, Justin gặp một ông già. Hai người nói chuyện. Justin nói rằng mình không có hạnh phúc và muốn tìm vị Chúa thật mà trong các sách chàng đọc, không thấy nói tới. Ông già chỉ cho Justin đọc Kinh thánh để biết về Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế. Ông khuyến khích Justin cầu nguyện để được hiểu biết về Thiên Chúa thật.

Justin từ hôm đó, bắt đầu cầu nguyện và đọc Kinh thánh, càng ngày ông càng thích thú Lời Chúa, ông cũng rất thán phục người Công giáo đã dám chết cho đức tin và tình yêu Chúa Giêsu.

Sau khi học đủ điều trong đạo, Justin xin được rửa tội để làm người Công giáo.

            2. Theo đạo, viết sách bênh đạo, chết vì đạo: Ông đến Rôma, mở trường triết học Kitô, tổ chức những cuộc tranh luận công khai về đạo.

            Một số người thời đó công kích niềm tin và sống đạo Kitô giáo, vì thế Justin bắt đầu nói và viết để bênh vực đạo Chúa. Các sách của ông giúp chúng ta hiểu hơn về Giáo hội Công giáo thời đầu. Ngày nay chỉ còn cuốn “Bênh đạo và cuốn Đối thoại với Trypho”. Nhờ đó ta biết về nghi lễ Rửa tội quãng năm 160, nghi lễ thời đó rất giống như nghi lễ ngày nay. Ông còn viết về sách “Nghi thức Thánh lễ Misa sáng Chúa nhật” của các cộng đoàn Kitô hữu thời đó gồm: đọc sách Thánh, bài dẫn giải Tin mừng, dâng bánh rượu, cho giáo dân rước lễ…

Năm 165, Justin bị bắt, vì ông là Kitô hữu. Nhưng ông quyết liệt không bỏ đạo Chúa để tế thần theo ý vua quan.

            3. Tranh luận bênh vực đức tin:

Chúa đã ban cho thánh Justinô nhiều ơn, và người đã dùng những ơn này đáp lại ơn Chúa kêu gọi. Khi người đã tìm ra sự thật, người đã theo đến cùng.

Quan Tổng Đốc Roma truyền lệnh :– Hãy tế thần và vâng lệnh hoàng đế.

– Justin nói: Chẳng ai có quyền bắt chúng tôi tuân lệnh tế thần,  vì chúng tôi đã theo Chúa Kitô,  Đấng Cứu Chuộc chúng tôi.

– Vậy anh theo chủ thuyết nào ?

– Tôi theo giáo lý chân thật của Chúa Kitô,  mặc dù giáo lý ấy các người lầm lạc không chấp nhận.

– Nếu không tuân lệnh,  các ngươi sẽ bị phạt không nương tay.

– Chúng tôi ao ước được chịu khổ vì Chúa Kitô,  vì sự khổ ấy sẽ đem chúng tôi về Thiên đàng trên trời.

–  Anh có nghĩ rằng anh sẽ được lên trời và lãnh phần thưởng xứng đáng không?

–  Không phải nghĩ, nhưng Thiên đàng có thực, tôi biết rất rõ và nắm vững chắc chắn.

– Tất cả những kẻ không chịu tế thần và bất tuân lệnh hoàng đế đều bị đánh đòn và bị chặt đầu đúng theo luật.

Quan án đã kết án tử hình cho ông Justin. Người đã bị chém đầu ngày 1 tháng 6 năm 166 tại Roma.

 Phần tôi, tôi có tìm Chúa trong Kinh thánh và cầu nguyện không? Xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho con.

http://linhthao.bplaced.net/2015/06/01/thanh-justino-tu-dao/

 

 

Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các văn bản ấy, chúng ta biết về cuộc đời ngài.

Thánh Justin sinh ở Flavia Neapolis, Samaria khoảng năm 100. Cha mẹ ngài là người ngoại giáo, gốc Hy Lạp. Ngài được giáo dục kỹ lưỡng và đặc biệt yêu thích khoa hùng biện, thi ca và sử học. Khi còn trai trẻ, ngài bị thu hút bởi triết thuyết Plato. Tuy nhiên, ngài nhận thấy chỉ có Kitô Giáo mới trả lời được những thắc mắc lớn lao về đời sống và sự hiện hữu.

Qua những tài liệu Kitô Giáo cũng như việc quan sát các gương anh hùng tử đạo, Thánh Justin đã trở lại Kitô Giáo khi ngài 30 tuổi. Ngài tiếp tục mặc áo choàng của các triết gia thời bấy giờ, và trở nên triết gia Kitô Giáo đầu tiên. Ngài tổng hợp Kitô Giáo với các yếu tính đặc sắc nhất trong triết lý Hy lạp. Theo quan điểm của ngài, triết lý là một nhà mô phạm của Ðức Kitô, một nhà giáo dục dẫn đưa người ta đến với Ðức Kitô.

Thánh Justin nổi tiếng là một người biện giáo thời bấy giờ. Ngài đi đây đó và tranh luận với các người ngoại giáo, lạc giáo và Do Thái Giáo. Khi người Kitô tiếp tục bị bách hại bởi nhà cầm quyền, ngài đã công khai bảo vệ Kitô Giáo qua lời giảng dạy cũng như văn bản. Trong các sáng tác của ngài, hiện nay chúng ta vẫn còn giữ được hai bản văn gửi cho hoàng đế Rôma và cho Thượng Viện.

Sau cùng ngài bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn Rôma là Rusticus. Khi được yêu cầu thờ cúng tà thần, Thánh Justin trả lời: “Người có suy nghĩ đúng đắn không vì sự giả trá mà chối bỏ sự thật”.

Thánh Justin bị chém đầu ở Rôma năm 165.

Lời Bàn

Là quan thầy các triết gia, Thánh Justin khích động chúng ta hãy dùng các sức mạnh tự nhiên (nhất là sức mạnh của sự hiểu biết) để phục vụ Ðức Kitô, và để hình thành đời sống Kitô Giáo trong nội tâm chúng ta. Vì con người dễ bị sai lầm, nhất là đối với các vấn đề sâu xa của đời sống và sự hiện hữu, chúng ta cũng phải sẵn sàng sửa đổi và kiểm soát lại tư duy chúng ta trong sự soi dẫn của chân lý Kitô Giáo. Do đó, chúng ta mới có thể nói như các thánh nhân uyên bác của Giáo Hội: Tôi tin để có thể hiểu, và tôi hiểu để có thể tin.

Lời Trích

“Triết lý là sự am tường những gì hiện hữu, và là sự hiểu biết rõ ràng về chân lý; và hạnh phúc là phần thưởng của sự am tường và sự hiểu biết đó” (Thánh Justin, Ðối Thoại Với Trypho, 3).

 

https://dongten.net/2019/05/31/hanh-cac-thanh-01-06-thanh-justino/


                                                                                                              

Thứ Năm sau Chúa Nhật VII Phục Sinh

 

Bài Ðọc I: Cv 22, 30; 23, 6-11

"Con phải làm chứng về Ta tại Rôma".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, toà án muốn biết đích xác người Do-thái tố cáo Phaolô về tội gì, nên cởi trói cho ngài, và truyền lệnh cho các thượng tế và toàn thể công nghị họp lại, rồi dẫn Phaolô đến đứng trước mặt họ. Phaolô biết có một số người thuộc phe Sađốc, và một số khác thuộc phe biệt phái, nên kêu lớn tiếng giữa công nghị rằng: "Thưa anh em, tôi là biệt phái, con của người biệt phái, tôi bị xét xử vì niềm hy vọng và vì sự sống lại của những người đã chết". Ngài vừa nói thế, thì xảy ra sự bất đồng ý kiến giữa các người biệt phái và Sađốc, và hội đồng đâm ra chia rẽ. Vì các người Sađốc cho rằng không có sự sống lại, không có thiên thần và thần linh; còn các người biệt phái thì tin tất cả điều đó. Tiếng la lối inh ỏi, và có mấy người biệt phái đứng lên bênh vực rằng: "Chúng tôi không thấy người này có tội gì; và nếu thần linh hay thiên thần nói với người này thì sao?" Cuộc tranh luận đã đến hồi gây cấn, viên quản cơ sợ Phaolô bị phân thây, nên sai lính xuống kéo ngài ra khỏi họ và dẫn về đồn.

Ðêm sau, Chúa hiện đến cùng ngài và phán: "Hãy can đảm lên! Con đã làm chứng về Ta tại Giêrusalem thế nào, thì cũng phải làm chứng về Ta tại Rôma như vậy".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11

Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. - Ðáp.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.

3) Bởi thế, lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát. - Ðáp.

4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa, tới muôn muôn đời! - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 18

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 17, 20-26

"Xin cho chúng nên một".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con. Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Phúc Âm (Gioan 17:20-26)


"Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: 'Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con. Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa'".


Chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh trong Mùa Phục Sinh theo chủ đề "Thày là sự sống" không phải chỉ bao gồm giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Người, giữa Người với Cha và các môn đệ của Người với Cha, mà còn giữa Giáo Hội qua các môn đệ của Người với thế gian và giữa thế gian với Người cũng như với Cha nữa, như lời Người đã cầu nguyện trong bài Phúc Âm hôm nay:  


"Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con". 


Thế nhưng, để các môn đệ của Người có thể trở thành trung gian môi giới cho cuc Hiệp Nhất Thần Linh giữa thế gian với Người và với Cha, thì Người cần phải thực hiện những gì Người thưa cùng Cha trong bài Phúc Âm hôm nay, đó là: 


"Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con".


"Vinh hiển mà Cha đã ban cho Con" đây là gì nếu không phải là cho Con được cơ hội làm rạng danh Cha trên Thánh Giá, nên các môn đệ của Người được Người cho thông phần vinh hiển của Người nghĩa là được lấy chính mạng sống của mình để làm chứng về Người và cho Người như Người đã làm chứng về Cha và tỏ Cha ra vậy, như trường hợp của Tông Đồ Phêrô trong bài Phúc Âm ngày mai. 


Trong lời nguyện dâng lên Cha của mình trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô còn cho thấy mối Hiệp Nhất Thần linh giữa Người và các môn đệ được Người cho tham phần vinh hiển của Người là chịu khổ với Người ấy nhờ thế mới được thực sự Hiệp Nhất Thần Linh với Người: "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con", một ý định phản ảnh những gì Người đã nói trước với các tông đồ về thân phận tôi tớ không hơn chủ của các vị rằng: "Thày đi để dọn chỗ cho các con, Thày sẽ trở lại với các con để đưa các con đi với Thày để Thày ở đâu các con cũng ở đó" (Gioan 14:3). 

 

 

Lời nguyện hiến tế của Chúa Kitô kết thúc Bữa Tiệc Ly được Giáo Hội chọn đọc cho 3 ngày giữa tuần VII Phục Sinh (Thứ Ba, Thứ Tư và Thứ Năm) này bao gồm 3 phần rõ ràng: Phần nhất (Thứ Ba) Chúa Giêsu cầu cùng Cha cho chính bản thân Người để xin Cha làm rạng danh Người, nhờ đó Người cũng được làm rạng danh Cha. Phần thứ hai (Thứ Tư), Người cầu cho các tông đồ là nền tảng Giáo Hội Người thiết lập, liên quan đến thân mệnh của các vị, thành phần "thuộc về Cha" và "là của Cha" nhưng còn ở thế gian và sẽ bị thế gian bách hại, cần phải được "thánh hóa trong chân lý", để chẳng những ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian mà còn có thể làm chứng cho chân lý là Chúa Kitô nữa. Phần thứ ba (Thứ Năm hôm nay), Người cầu cho thế giới tin Người qua chứng từ của các tông đồ nói riêng và Giáo Hội của Người nói chung, để nhờ đó "tất cả được hiệp nhất nên một, như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha".

 

 

Tuy nhiên, ở phần thứ ba của Lời Nguyện Hiến Tế này của mình, về nội dung, Chúa Kitô vẫn tiếp tục cầu cho các tông đồ, thành phần sau khi đã "được thánh hóa trong chân lý", tức đã nhận biết sự thật là Chúa Kitô, hay "đã nhận biết Con bởi Cha mà ra", thì sẽ làm chứng cho Người trước thế gian. Thế nhưng, để làm chứng cho một Đấng đã chịu khổ nạn và tử giá, các vị cần phải được thông phần với Người, ở chỗ "Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con", tức là đã tạo cho các vị có cơ hội để Thiên Chúa có thể tỏ mình ra, hay tỏ vinh hiển của Ngài ra, qua họ như qua chính Chúa Kitô trên Thánh Giá cứu độ. Nhờ đó mà các vị mới được hiệp nhất nên một với Người, mới hoàn toàn nên giống Người: "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con". Và như thế, các vị mới tiến tới chỗ "tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa" - "Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con".


Bài Đọc 1 (Tông Vụ 22:30; 23:1-6) 


"Trong những ngày ấy, toà án muốn biết đích xác người Do-thái tố cáo Phaolô về tội gì, nên cởi trói cho ngài, và truyền lệnh cho các thượng tế và toàn thể công nghị họp lại, rồi dẫn Phaolô đến đứng trước mặt họ. Phaolô biết có một số người thuộc phe Sađốc, và một số khác thuộc phe biệt phái, nên kêu lớn tiếng giữa công nghị rằng: 'Thưa anh em, tôi là biệt phái, con của người biệt phái, tôi bị xét xử vì niềm hy vọng và vì sự sống lại của những người đã chết'. Ngài vừa nói thế, thì xảy ra sự bất đồng ý kiến giữa các người biệt phái và Sađốc, và hội đồng đâm ra chia rẽ. Vì các người Sađốc cho rằng không có sự sống lại, không có thiên thần và thần linh; còn các người biệt phái thì tin tất cả điều đó. Tiếng la lối inh ỏi, và có mấy người biệt phái đứng lên bênh vực rằng: 'Chúng tôi không thấy người này có tội gì; và nếu thần linh hay thiên thần nói với người này thì sao?' Cuộc tranh luận đã đến hồi gây cấn, viên quản cơ sợ Phaolô bị phân thây, nên sai lính xuống kéo ngài ra khỏi họ và dẫn về đồn. Ðêm sau, Chúa hiện đến cùng ngài và phán: 'Hãy can đảm lên! Con đã làm chứng về Ta tại Giêrusalem thế nào, thì cũng phải làm chứng về Ta tại Rôma như vậy'".


Thật vậy, nếu trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã thưa cùng Cha của Người về số phận diễm phúc của các tông đồ được Người tuyển chọn để có thể thông phần vinh hiển của Người và với Người bằng hy sinh khổ ải thế nào để có thể nên giống Người và được Hiệp Nhất Thần Linh với người, thì trong bài đọc thứ nhất hôm nay cũng thế, chính Người cũng đã trấn an Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô và phấn khích ngài, sau khi bị điệu ra trước công nghị để "bị xét xử vì niềm hy vọng và vì sự sống lại của những người đã chết", và đang bị nhốt trong một "đồn" canh, tiếp tục làm chứng về Người chẳng những ở Giêrusalem là giáo đô của Do Thái giáo, mà còn tại chính Rôma là thủ đô của đế quốc Rôma, một địa điểm là tương lai của Giáo Đô Rôma của Kitô giáo: "Hãy can đảm lên! Con đã làm chứng về Ta tại Giêrusalem thế nào, thì cũng phải làm chứng về Ta tại Rôma như vậy".


Chính việc làm chứng của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô ở hai địa điểm chính yếu bao gồm cả Do Thái giáo lẫn Dân Ngoại Kitô giáo này cho thấy mối Hiệp Nhất Thần Linh giữa ngài và Chúa Kitô đến đâu, đến độ ngài đã trở thành đúng như ý định chọn lựa của Chúa Kitô, Đấng đã tỏ mình ra cho ngài trên đường đi Damascô và sai ngài đi: "Ta đã làm cho ngươi trở thành ánh sáng chư dân, thành phương tiện cứu độ cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 13:47).

 


Thánh Marcellino và Phêrô, Tử Đạo (304)

2/6

 

MarcellinusAndPeter.jpg

Dường như không có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai Thánh Tử đạo Marcellino và Phêrô cả. Lịch sử chép rất vắn tắt về đời sống hai Thánh Marcellino và Phêrô Tử đạo. Các ngài được phúc Tử đạo dưới thời hoàng đế Diocletiano.

Theo truyền thuyết, Marcellino là một Linh mục chuyên lo việc dạy giáo lý và Rửa tội cho tân tòng. Ngài nhiệt thành dạy đạo và đem nhiều người trở lại với Chúa, nên bị những kẻ thờ thần ganh ghét, tố cáo.

Còn Phêrô là một người trừ quỷ nổi tiếng ở La Mã. Thánh nhân đã cứu nhiều người khỏi ma quỷ ám hại, do đó, họ tin theo Chúa.

Nhờ được ơn trừ quỷ, Thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại cũng có nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Những người phù thủy ghen tương vì bị mất quyền lợi. Thế là cả hai vị Thánh đều bị tố giác, dưới thời hoàng đế Diocletiano bắt đạo. Tỉnh trưởng Serene ra lệnh tống giám Ngài. Bạn ông là Antemi có đứa con gái bị quỷ ám. Nghe biết Phêrô có quyền trừ quỷ, ông giới thiệu bạn mình tới ngục thất để gặp Thánh nhân. Gặp ông, Thánh nhân khuyên nhủ ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho rằng Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao Thánh nhân cứu nổi con ông được. Rồi ngay đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì Thánh nhân đã có mặt ở nhà Antemi. Cả gia đình Antemi bỡ ngỡ và xin theo đạo. Paulina, con gái Antemi được lành bệnh. Từ đó gia đình Antemi thành nơi tụ tập của các tín hữu, Phêrô thường hay lui tới dạy đạo và Rửa tội cho các tân tòng.

Tức giận, Sereno ra lệnh hành hạ hai Thánh nhân một cách dã man rồi giam ngục tối, nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các ngài cho chết. Tuy nhiên Chúa đã giải thoát cho các ngài trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng được chịu phép Rửa tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sereno ra lệnh giết cả gia đình ông.

Các ngài chịu thống khổ vì Chúa bao nhiêu, thì cũng được an ủi, được phần thưởng lớn lao bấy nhiêu, như Linh mục Origene xác quyết: “các sự thống khổ của Đức Kitô tràn đến chúng ta thế nào, thì nhờ Đức Kitô, sự an ủi chúng tôi cũng được tràn đầy thế ấy. Nếu vậy, thì chúng ta hãy hăm hở nhận lấy những sự thống khổ của Đức Kitô; và ước gì chúng tràn đến trên chúng ta, nếu chúng ta muốn được đầy tràn an ủi, bởi vì ai khóc lóc sẽ được an ủi, nhưng không bằng nhau cho hết mọi người đâu. Bởi vì, nếu sự an ủi bằng nhau cho hết mọi người thì đã không có lời chép rằng: Các sự thống khổ của Đức Kitô tràn đến chúng tôi thế nào thì sự an ủi chúng tôi cũng được đầy tràn thế ấy.

Sự chia sẻ những thống khổ của Đức Kitô thì tương đương với sự thống khổ mà họ chịu với Người. Điều này bạn hãy nghe Đấng đã nói rất tin tưởng rằng: chúng tôi biết rằng anh em đã thông phần thống khổ thế nào, thì cũng được thông phần an ủi thế ấy.

Các ngài bị hành hình khổ sở và giam trong ngục tối. Cuối cùng, khoảng năm 304, hai Thánh Marcellino và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành án quyết, đao phủ Dorote đã thấy linh hồn hai ngài bay về trời. Quá xúc động ông đã xin tòng giáo và qua đời cách lành Thánh. Còn xác hai Thánh nhân được chôn cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.

Khi Giáo Hội được sống trong an bình, hoàng đế Constantin cho xây trên mộ hai ngài một đại Thánh Đường rất nguy nga trên con đường Via Merulana, nằm giữa đại Thánh Đường Đức Bà Cả và Đền Thờ Laterano. Chính nơi đây hoàng đế đã cho chôn cất mẹ ngài. Tên hai Thánh nhân đã được nhắc đến trong lễ quy Roma.

Lạy Chúa, khi ban ơn cho hai Thánh Tử đạo Marcellino và Phêrô cùng anh dũng tuyên xưng đức tin, Chúa đã cho chúng con nghiệm thấy rằng: Chúa hằng gìn giữ che chở Giáo Hội. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Nguồn: Hạnh Các Thánh

https://danchuahiepthong.wordpress.com/2017/06/02/thanh-marcellino-va-phero-tu-dao-304/

Không có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai thánh tử đạo Marcellino và Phêrô cả. Các Ngài được phúc tử đạo dưới thời Diocletianô.

 

Thánh Marcellino được ơn tử đạo còn thánh Phêrô được ơn trừ quỉ.

 

Nhờ được ơn trừ quỉ, thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại cũng có nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Tỉnh trưởng Sêrênô ra lệnh tống giam Ngài. Bạn ông là Antêmi có đứa con gái bị quỉ ám. Nghe biết Phêrô có quyền trừ quỉ, ông giới thiệu bạn mình tới ngục thất để gặp thánh nhân. Gặp ông, thánh nhân khuyên nhủ ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho rằng: Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao thánh nhân cứu nổi con ông được. Rồi ngay đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì thánh nhân đã có mặt ở nhà Antêmi. Cả gia đình Antêmi bỡ ngỡ và xin theo đạo. Paulina, con gái Antêmi được lành bệnh. Từ đó gia đình Antêmi thành nơi tụ tập thường hay lui tới dạy đạo và rửa tội cho các tân tòng.

 

Tức giận, Sêrênô ra lệnh hành hạ hai thánh nhân một cách dã man rồi giam ngục tối, nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các Ngài cho chết. Tuy nhiên Chúa đã giải thoát cho các Ngài trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng được chịu phép rửa tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sêrênô ra lệnh giết cả gia đình ông.

 

Cuối cùng hai thánh nhân Marcellinô và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành án quyết, đao phủ Đorotê đã thấy linh hồn hai Ngài bay về trời. Quá xúc động ông đã xin tòng giáo và qua đời cách lành thánh. Còn xác hai thánh nhân được chôn cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.

 

Khi Giáo hội được sống trong an bình, người ta xây cất trên mộ hai Ngài một thánh đường rất nguy nga. Tên Hai thánh nhân đã được nhắc đến trong lễ quy Roma.

 

http://conggiao.info/thanh-marcellino-va-phero-tu-dao-304-d-16084

Ca hiệp lễ, lễ chung các thánh tử đạo có ghi:” Anh em đã một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp gian nan thử thách. Vì thế, Thầy sẽ ban quyền cai trị cho anh em, để anh em  được đồng bàn ăn uống với Thầy,  trên vương quốc của Thầy”( Lc 22, 28-30 ). Thánh Marcellinô và Phêrô là những chứng nhân cho Chúa, đã đổ máu đào để minh chứng cho tình yêu của Chúa.

 

THÁNH MARCELLINÔ VÀ THÁNH PHÊRÔ:

Lịch sử không ghi lại nhiều về hai thánh này, người ta chỉ biết rõ rằng thánh Phêrô được đặc ân Chúa ban cho trừ quỉ, Ngài đã làm nhiều phép lạ do tình thương của Chúa, xua trừ ma quỉ ra khỏi nhiều người bị chúng ám hại. Tiếng tăm của Ngài được loan truyền khắp nơi, Ngài đã thu hút được nhiều thành phần trong xã hội, có nhiều người mộ mến Ngài, nhưng cũng lắm kẻ ghen ghét, ganh tỵ, hận thù Ngài vì Ngài được nhiều người quí mến, yêu chuộng. Thánh nhân đã sống đúng lời Chúa:” Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”  ( Mc 8, 35 ). Chính vì Ngài có ảnh hưởng rộng lớn và lôi cuốn được nhiều người  theo Chúa. Viên tỉnh trưởng Sérène bắt Ngài và ra lệnh tống ngục Ngài. Trong tù, thánh nhân đã làm gương sáng: sống hiền lành, khiêm nhượng, làm phép lạ và đời thánh thiện của Ngài đã làm cho cả gia đình Antêmi trở lại theo Chúa do phép lạ thánh nhân đã chữa khỏi bệnh cho con gái Antêmi.

Thánh Marcellinô cũng bị tống ngục vì tội rao giảng và tội làm phép lạ, tội rửa tội cho nhiều tân tòng. Thánh nhân dù bị tù tội, dù bị tra tấn dã man vẫn một lòng kiên trung rao giảng, dậy giáo lý và tiếp tục rửa tội cho nhiều người.  Tỉnh trưởng Sérène quá bực tức vì tinh thần kiên cường của hai thánh nhân, nên đã dùng nhiều cực hình dã man nhất, tàn bạo nhất hầu làm nhụt chí hai vị, nhưng” vàng thử lửa, gian nan thử đức”. Hai vi thánh vẫn kiên trì theo Chúa và không hề nản lòng, nhụt chí. Chúa đã sai các thiên thần ban đêm đến giải cứu các Ngài để các Ngài củng cố niềm tin cho các tân tòng. Tỉnh trưởng Sérène nghi ngờ Antêmi đã tiếp tay để thánh Phêrô và Marcellinô trốn ngục, nên đã hạ lệnh giết cả gia đình của Antêmi.

 

CHÚA THƯỞNG CÔNG HAI THÁNH MARCELLINÔ và PHÊRÔ:

Thánh vịnh 33, 18 có viết:” Người công chính kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn”. Thánh Marcellinô và Phêrô đã được phúc tử đạo vào năm 304. Khi chém đầu các Ngài, tên đao phủ Đôrôtê đã trông thấy linh hồn các Ngài bay về thiên quốc. Ông đã hối hận, xin trở lại, chịu phép rửa và chết bình an trong tay Chúa.

 

“Lạy Chúa, khi ban ơn cho hai thánh tử đạo Marcellinô và Phêrô cùng anh dũng tuyên xưng đức tin, Chúa đã cho chúng con nghiệm thấy rằng:” Chúa luôn gìn giữ chở che Giáo Hội”. Vì lời hai thánh nguyện giúp cầu thay, xin cho chúng con được bắt chước các Ngài luôn giữ vững niềm tin như thế “( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Marcellinô và Phêrô tử đạo ).

 

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang6/Ngay2.htm

 

 

 

 

Thứ Sáu sau Chúa Nhật VII Phục Sinh

 

Bài Ðọc I: Cv 25, 13-21

"Ðức Giêsu đã chết mà Phaolô quả quyết là vẫn sống".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, vua Agrippa và Berni xuống Cêsarêa chào Phestô. Vì hai người lưu lại đó nhiều ngày, nên Phestô đem chuyện Phaolô trình nhà vua rằng: "Ở đây có một người tù Phêlixê để lại. Lúc tôi ở Giêrusalem, các thượng tế và kỳ lão Do-thái đã đến xin tôi lên án hắn. Tôi đã trả lời với họ rằng: "Người Rôma không có thói quen lên án người nào trước khi bị cáo đối diện với nguyên cáo, và có cơ hội bào chữa để thanh minh tội mình". Vậy họ liền đến đây, ngày hôm sau tôi ngồi toà án, truyền điệu bị cáo đến. Các nguyên cáo đều có mặt, nhưng không đưa ra một tội trạng nào, như tôi đã ngờ trước; họ chỉ tố cáo hắn mấy điều về mê tín, về một Giêsu nào đó đã chết mà Phaolô quả quyết là vẫn sống. Ðang phân vân về vấn đề ấy, tôi hỏi hắn có muốn đi Giêrusalem để được xét xử tại đó về các điều ấy không. Nhưng Phaolô nại đến thẩm quyền của hoàng đế Augustô, nên tôi đã truyền giữ hắn lại để nạp cho hoàng đế".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 11-12. 19-20ab

Ðáp: Chúa thiết lập ngai vàng Người ở cõi cao xanh (c. 19a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. - Ðáp.

3) Chúa thiết lập ngai vàng Người ở cõi cao xanh, và vương quyền Người phủ trị trên khắp muôn loài. Hãy chúc tụng Chúa đi, chư vị thiên thần, dũng lực hùng anh, thi hành lời Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 18

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 21, 15-19

"Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy".

Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy".

Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy" Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".

Ðó là lời Chúa.


Phúc Âm (Gioan 21:15-19) 

 

 

My Reflections...: Reflection for May 30, Saturday of the Seventh Week of  Easter: John 21:20-25

 

 

 

"Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: 'Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?' Ông đáp: 'Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy'. Người bảo ông: 'Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy'. Người lại hỏi: 'Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?' Ông đáp: 'Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy'. Người bảo ông: 'Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy'. Người hỏi ông lần thứ ba: 'Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?' Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba 'Con có yêu mến Thầy không?' Ông đáp: 'Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy'. Người bảo ông: 'Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến'. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: 'Con hãy theo Thầy'".

 

Chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh trong bài Phúc Âm của Thứ Sáu Tuần VII Phục Sinh hôm nay là ở chỗ: 1- lòng yêu mến Thày nơi Tông Đồ Phêrô, và 2- vai trò thay Thày chăn đàn chiên của Thày và cho Thày. Thật vậy, nếu không yêu mến Thày, không phải bằng một lòng yêu tầm thường, mà là bằng một lòng yêu mến trổi vượt, "hơn những người này", tức là hơn các tông đồ khác, thì mới có khả năng và đủ tư cách để thay Thày chăn dắt đoàn chiên của Thày và chăn dắt đàn chiên như Thày. 


Mà chăn dắt đàn chiên của Thày như Thày đây nghĩa là gì, nếu không phải, như Người đã tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay cho vị tông đồ sẽ đại diện Người cai quản đàn chiên Giáo Hội của Người, đó là sẽ chịu chung số phận tử nạn giống Thày: "Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến'. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa".

 

 

Ở ngay câu tiên báo về số phận của tông đồ Phêrô, Chúa Giêsu đã cho thấy trước linh đạo Kitô giáo không phải ở chỗ con người có thể chủ động làm được gì cho Ngài theo ý mình: "khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý", mà là chính Thiên Chúa làm việc của Ngài qua con người và nhờ con người: "nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến", miễn là con người tin tưởng phó thác mọi sự: "Con hãy theo Thày", kể cả chính bản thân mình cho Ngài. "Người cần phải lớn lên còn tôi sẽ phải nhỏ lại" (Gioan 3:30).

 

 

Linh đạo Kitô giáo là linh đạo ngược chiều với đường lối tự nhiên: ở chỗ, thay vì trưởng thành, lớn lên thì lại phải càng nhỏ bé mới càng lớn trên Nước Trời (xem Mathêu 18:4). Chúa Kitô sau 3 năm đi khắp nơi rao giảng và làm phép lạ, cuối cùng đã trở thành bất lực trên thập tự giá, không thể xuống khỏi thập giá đúng như lời thách thức đầy mỉa mai khinh bỉ của thành phần đầu mục Do Thái, thì lại chính là lúc cứu độ, là lúc Thiên Chúa tỏ hết mình ra nơi Người và qua Người. Các môn đệ được Người kêu gọi "hãy theo Thày" cũng thế, theo đúng như nguyện vọng của Người: "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con".


Về phần mình, cho dù biết trước thân phận của mình như thế, vì yêu Thày hơn ai hết, nhất là sau 3 lần trắng trợn chối bỏ Người mà vẫn được Người thứ tha và tin tưởng trao phó đàn chiên cao quí của Người cho mình, vị tông đồ này vẫn đáp ứng lời kêu gọi của Thày: "Con hãy theo Thầy", trong việc đóng vai trò là "vị mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì chiên" (Gioan 10:11) như Thày, một đàn chiên không phải chỉ toàn dân Do Thái mà bao gồm cả dân ngoại trong đế quốc Rôma bấy giờ, một đế quốc đã sát hại ngài tại chính thủ đô Rôma mà cho tới nay đã trở Giáo đô của Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng. 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay và ngày mai là hai bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc để kết thúc Mùa Phục Sinh về chủ đề "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25). Hai bài Phúc Âm này của Thánh Gioan là những câu cuối cùng của Phúc Âm Thánh Gioan. Tuy nhiên, nếu để ý chúng ta sẽ thấy đoạn cuối cùng của các Phúc Âm nói chung và Phúc Âm Thánh Gioan nói riêng này không phải là một két thúc đóng mà là một kết thúc mở, ở chỗ, hướng về tương lai, hướng về Giáo Hội, hướng về truyền giáo, hướng về toàn thể thế giới nhân loại, hướng về cánh chung (như bài Phúc Âm ngày mai của Thánh ký Gioan sẽ cho thấy).

 

 

Thật vậy, đáng lẽ sau 3 bài Phúc Âm cho Thứ Ba, Thứ Tư và Thứ Năm tuần VII Phục Sinh này, theo Phúc Âm Thánh ký Gioan, đoạn 17 là đoạn về lời nguyện của Chúa Kitô kết thúc Bữa Tiệc Ly, một lời nguyện bao gồm tất cả dự án cứu độ và công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, phụng vụ lời Chúa của chung Mùa Phục Sinh đã kết thúc rồi mới phải.

 

 

Thế nhưng, Giáo Hội vẫn còn giành 2 bài Phúc Âm, cũng của Thánh ký Gioan, 2 bài Phúc Âm cuối cùng của vị thánh này, một liên quan đến tông đồ Phêrô (hôm nay), và một liên quan đến tông đồ Gioan (ngày mai), để kết thúc phụng vụ lời Chúa Mùa Phục Sinh, vì thật ra Mầu Nhiệm Chúa Kitô không kết thúc ở Mầu Nhiệm Vượt Qua là Tử Giá (được Giáo Hội cử hành trong Tuần Thánh) và Phục Sinh (được Giáo Hội cử hành trong Mùa Phục Sinh), mà ở Mầu Nhiệm Cánh Chung, bao gồm cả Mầu Nhiệm Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô, nơi Người "sẽ ở cùng cho đến tận thế" (Mathêu 28:20) bằng chính Thánh Thần của Người từ Cha sai đến trên các Tông Đồ vào Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem, nhờ đó Người tiếp tục tỏ mình ra cho chung nhân loại, "cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8), cho đến khi "Người lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng".

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến Thánh Phêrô là thủ lãnh Giáo Hội, là chủ chiên thay cho chính Chúa Kitô, một Chúa Kitô tiếp tục chẳng những chăn dắt đàn chiên của mình, cả chiên nhỏ (là giáo dân - lamb) lẫn chiên lớn (bao gồm cả hàng giáo sĩ - sheep, và giáo phẩm - sheep), nơi các vị giáo hoàng đại diện của Người trên trần gian này, mà còn "hiến mạng sống mình vì chiên... cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:11,10) qua các ngài nữa, như Người đã báo trước cho tông đồ Phêrô trong bài Phúc Âm hôm nay, vị tông đồ đã được Người gọi "hãy theo Thày" để có thể tỏ Thày ra cho thế gian bằng chứng từ của lòng mến đã đạt tới độ hiệp nhất nên một với Người "để thế gian tin rằng Cha đã sai Con" (Gioan 17:23).

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay còn chất chứa một câu Chúa Giêsu nói với tông đồ Phêrô về số phần chứng nhân là: "Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa", một câu đã cho thấy ý nghĩa đích thực của những gì Người đã nguyện cùng Cha của Người ở Lời Nguyện Hiến tế kết thúc Bữa Tiệc Ly: "Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một". Đúng thế, chính lời kêu gọi của Chúa Giêsu với vị chủ chăn tối cao đại diện Người trên trần gian là tông đồ Phêrô: "Con hãy theo Thày" kết thúc Bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy ý nghĩa đích thực về thân phận bất khả phân ly giữa Thày trò với nhau ở câu: "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian"

 

 

Ý nghĩa ấy là vinh hiển hay vinh dự của Người là Con Thiên Chúa cũng như vinh quang hay vinh danh của thành phần môn đệ tông đồ của Người đó là trở thành chứng từ của Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra, qua Con cũng như qua những ai "thuộc về Cha" và "là của Cha" mà "Cha đã ban cho Con trên thế gian", để nhờ đó Ngài được vinh hiển, ở chỗ được thế gian nhận biết mà hoàn thành ý muốn cứu độ tối cao của Ngài trong việc tạo dựng nên con người theo hình ảnh thần linh như Ngài và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-27): "Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con".

 

Bài Đọc 1 (Tông Vụ 25:13-21)


"Trong những ngày ấy, vua Agrippa và Berni xuống Cêsarêa chào Phestô. Vì hai người lưu lại đó nhiều ngày, nên Phestô đem chuyện Phaolô trình nhà vua rằng: 'Ở đây có một người tù Phêlixê để lại. Lúc tôi ở Giêrusalem, các thượng tế và kỳ lão Do-thái đã đến xin tôi lên án hắn. Tôi đã trả lời với họ rằng: 'Người Rôma không có thói quen lên án người nào trước khi bị cáo đối diện với nguyên cáo, và có cơ hội bào chữa để thanh minh tội mình'. Vậy họ liền đến đây, ngày hôm sau tôi ngồi toà án, truyền điệu bị cáo đến. Các nguyên cáo đều có mặt, nhưng không đưa ra một tội trạng nào, như tôi đã ngờ trước; họ chỉ tố cáo hắn mấy điều về mê tín, về một Giêsu nào đó đã chết mà Phaolô quả quyết là vẫn sống. Ðang phân vân về vấn đề ấy, tôi hỏi hắn có muốn đi Giêrusalem để được xét xử tại đó về các điều ấy không. Nhưng Phaolô nại đến thẩm quyền của hoàng đế Augustô, nên tôi đã truyền giữ hắn lại để nạp cho hoàng đế'".


Trong bài đọc 1 hôm nay, Thánh ký Luca chỉ thuật lại lời của nhân vật Phesto của đế quốc Rôma ngỏ cùng vua Agrippa về trường hợp của bị cáo Phaolô, mà nguyên cáo của bị cáo này "chỉ tố cáo hắn về mê tín, về một Giêsu nào đó đã chết mà Phaolô quả quyết là vẫn sống". 


Đây là chi tiết cho thấy tất cả chứng từ của vị tông đồ dân ngoại này là một Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng đã tỏ mình ra cho ngài trên đường ngài đang rong ruỗi bắt bớ Kitô hữu, và là Đấng đã làm cho ngài sáng mắt ra bằng quyền năng phục sinh của mình để biến đổi ngài thành "ánh sáng chư dân, thành phương tiện cứu độ cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 13:47).


Thế nhưng vị tông đồ dân ngoại này sẽ không thể nào hoàn thành sứ vụ vô cùng khó khăn đầy khổ nạn của mình nếu không Hiệp Nhất Thần Linh với Đấng đã tuyển chọn mình và sai mình đi. Đến độ, ngài đã cảm nghiệm thấy rằng: "sự sống tôi đang sống đây không phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20). 

 

 

                                                                                                        

Ngày 3 tháng 6

Thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

St.Ca-rô-lô Loan-ga

 
Cùng với hai mươi hai vị tử đạo U-găng-đa này, trang sử về các Chứng Nhân Tử Đạo những thế kỷ đầu lại tái diễn. Rất nhiều vị trong số đó chỉ mới là Ki-tô hữu được ít lâu. Bốn vị trong số đó được thánh Ca-rô-lô Loan-ga thanh tẩy ngay trước lúc hành hình. Phần lớn các vị bị thiêu sống ở Nu-mun-gun-gô (năm 1886) thuộc lớp tuổi từ mười sáu đến hai mươi bốn. Vị trẻ nhất tên là Ki-di-tô mới có mười ba tuổi.

 

Bài đọc 2

Vinh quang của các vị tử đạo là dấu chỉ về một cuộc tái sinh

Trích bài giảng của đức giáo hoàng Phao-lô VI trong lễ phong thánh các vị tử đạo U-găng-đa.

 

Các vị tử đạo Phi Châu này đã thêm một trang mới vào Danh Bộ Các Thánh Tử Đạo, vào cuốn sổ ghi tên những người chiến thắng. Trang sách đó cho thấy những sự việc vừa bi thảm, lại vừa cao đẹp. Chúng tôi coi đó là trang sử xứng đáng tiếp nối những bài tường thuật hiển hách về Châu Phi ngày xưa. Chúng ta, những con người của thời đại hôm nay, những người kém lòng tin, chúng ta vẫn tưởng rằng sẽ không bao giờ lại có những trang sử hùng tráng như xưa.

Thánh Âu-tinh và nhà thơ Pơ-ru-đen-xi-ô đã kể lại những thành tích đầy xúc động của các vị tử đạo ở Si-li-um, ở Các-tha-gô, và của các vị tử đạo trong “Đoàn Người Trắng thành U-ti-ca” (300 vị chết trong hầm vôi đang sôi). Thánh Gio-an Kim Khẩu thì hết lời tán dương các vị tử đạo Ai-cập. Những thành tích của tất cả các vị vừa được nhắc đến cùng với thành tích của các vị tử đạo trong cuộc bách hại của những người Văng-đan xưa, ai có thể ngờ rằng thời nay lại được tiếp nối bởi những câu chuyện mới không kém nét hào hùng, không kém phần hiển hách.

Phi Châu ngày xưa có các vị đại tử đạo và các bậc chứng nhân đức tin, những nhân vật nghìn năm không quên như thánh Síp-ri-a-nô, thánh Phê-li-xi-ta, thánh Pe-pê-tu-a, và nhất là thánh cả Âu-tinh. Trước đây, ai có thể tiên đoán rằng sau các vị đó sẽ có ngày chúng ta còn được kể thêm danh tánh rất thân thương của thánh Ca-rô-lô Loan-ga, thánh Mát-thi-a Mu-lum-ba, thánh Ca-lem-ba và hai mươi đồng bạn tử đạo. Cả những vị thuộc Giáo Hội Anh Giáo đã chịu chết vì danh Đức Ki-tô cũng cần phải được nêu danh nữa.

Các thánh tử đạo Phi Châu nói đây đã mở đầu một kỷ nguyên mới, không phải là kỷ nguyên bách hại và tranh chấp, nhưng là kỷ nguyên tái sinh về cả hai mặt đạo cũng như đời.

Phi Châu đã được tưới gội bằng máu của các vị tử đạo mới này, những vị tử đạo đầu tiên trong kỷ nguyên chúng ta -ước chi cũng là những vị cuối cùng, vì lễ toàn thiêu của các ngài cao quý và đắt giá biết bao !- Phi châu đã được tự do và độc lập. Quả thật, Phi châu đang tái sinh.

Người ta đã nghiền nát các ngài một cách tàn bạo. Thật khủng khiếp, nhưng cũng đầy ý nghĩa, vì sự tàn bạo đó ai cũng thấy là đã làm phát sinh những động lực mạnh mẽ khiến hình thành một dân mới -mới về phương diện đạo đức-. Một nếp sống tinh thần mới phải được kiến tạo để truyền lại cho hậu thế. Nếp sống đó phải là một biểu tượng nói lên sự chuyển biến và phải chuyển biến thật sự. Trước đây là một lối sống đơn sơ mộc mạc, tuy không thiếu những giá trị nhân bản đáng quý, nhưng người ta lại bị ràng buộc trong tình trạng nô lệ chính mình, khiến cho lối sống đó không còn đáng trọng, không đứng vững được nữa. Nay phải bước qua một nền văn minh hướng tới những biểu lộ cao quý nhất của tinh thần con người, tới những hình thái thượng đẳng của cuộc sống xã hội.

THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO, (St. Charles Lwanga)

Ngày 03/6

Kitô giáo còn hoàn toàn mới lạ đối với Phi châu cho tới khi việc truyền bá đạo Công giáo bắt đầu khai mào từ năm 1879. Các linh mục là những tu sĩ dòng Thừa Sai Phi Châu. Các ngài được mọi người biết đến dưới tước hiệu “các cha áo trắng” vì các ngài mang bộ tu phục màu trắng. Vua Mwanga chẳng biết Kitô giáo rao giảng những gì nhưng ông cảm thấy bực mình khi một tín hữu Công giáo là Giuse Mkasa khiển trách lối sống của ông. Vua đã sát hại một nhóm Kitô hữu và cả vị giám mục thân yêu của họ. Vua cũng can dự vào sinh hoạt đồng tính luyến ái. Ông đặc biệt ưa thích các chú tiểu đồng. Rồi sự bực mình của vua Mwanga trở nên phẫn nộ và căm thù đối với Giuse Mkasa và tôn giáo của anh. Một số giới chức tham tham của nhà vua đã kích động tâm trạng vua với những lời xu nịnh gian trá. Thế là vào ngày 18 tháng Mười Một năm 1885, Giuse Mkasa bị đem ra xử trảm. Cuộc bách hại khủng bố bắt đầu. Trước khi nó kết thúc, hàng trăm người đã bị thiệt mạng. Hai mươi hai người trong số họ được tôn phong lên bậc hiển thánh.

Với cái chết của Giuse Mkasa, Carôlô Lwanga trở thành thầy dạy đạo chính yếu cho các chú tiểu đồng của vua. Vào ngày 26 tháng Năm năm 1886, vua Mwanga nhận thấy một số tiểu đồng của ông là tín hữu Công giáo. Ông cho gọi Đênis Sêbugwawo vào. Ông hỏi có phải Đênis đã dạy đạo cho các tiểu đồng không. Đênis trả lời phải. Nhà vua liền chụp lấy ngọn giáo của mình và phóng xuyên qua cổ họng chàng thanh niên. Rồi ông la lớn tiếng không cho phép ai được rời khỏi tổng hành dinh của ông. Tiếng trống đấu tranh vang lên thâu đêm. Trong một căn phòng kín ẩn, Carôlô Lwanga đã bí mật rửa tội cho bốn chú tiểu đồng. Một em trong bọn trẻ là thánh Kizitô, chú bé mười ba tuổi có tính tình vui tươi quảng đại. Kizitô là người bé nhất trong nhóm. Thánh Carôlô Lwanga thường hay bảo vệ Kizitô thoát khỏi lòng ham muốn dâm dật của vua Mwanga.

Hầu như hai mươi hai vị thánh tử đạo Uganđa này đã bị giết chết vào cùng ngày mùng 3 tháng Sáu năm 1886. Các ngài bị bắt đi bộ chừng năm mươi chín cây số đến nơi hành quyết. Sau ít ngày bị giam tù, người ta ném các ngài vào một đống lửa lớn. Mười bảy người trong số ấy là những chú tiểu đồng thuộc vương gia. Một trong các cậu bé tử đạo là thánh Mbaga. Hôm ấy chính thân phụ ngài là người đao phủ. Một vị tử đạo khác là thánh Anrê Kagwa, mất ngày 27 tháng Giêng năm 1887, cũng ở trong số hai mươi hai vị tử đạo được đức thánh cha Phaolô VI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1964.

 Carôlô Lwanga là thánh bổn mạng của giới trẻ da mầu Phi châu. Ngài và các bạn tử đạo đã hết sức hiểu rõ và quý trọng ơn đức tin của mình. Các ngài đã là những anh hùng! Chúng ta hết thảy hãy cầu xin cùng thánh Carôlô Lwanga và các thánh tử đạo Phi châu này. Hãy xin các ngài chỉ cho chúng ta biết cách làm chứng cho Đức Chúa Giêsu và Giáo hội như các ngài.

http://giaophanvinhlong.net/thanh-carolo-lwanga-va-cac-ban-tu-dao.html




Dân da đen sống ở miền Ouganda, Trung Phi thuở ấy chưa hề nghe đến tên Chúa. Ma quỷ còn thống trị họ với mọi thứ phù phép. Họ chém giết lẫn nhau và ăn thịt nhau nữa. Trẻ em bị bỏ rơi. Đàn bà bị coi như thú vật phải làm việc mệt nhọc và bị sát hại theo sở thích của đàn ông.

Ngày kia hai cha thừa sai Lourdel và Livinhac đến với họ sau một cuộc hành trình đầy cực khổ. Các Ngài đến gặp nhà vua trong chòi của ông và buổi đầu mọi sự tốt đẹp. Các Ngài tận tụy phục vụ. 

 

Dân da đen đã không bao giờ tưởng tượng được điều các vị thừa sai nói cho lại là điều tốt đẹp như vậy: Họ có một người cha trên trời đã yêu thương họ đến nỗi đã ban con mình là Chúa Giêsu đến cứu chuộc họ, và Chúa Giêsu lại chết trên thánh giá đã họ được về trời với Người, như thế họ lại không yêu mến vâng phục Người để được gặp lại Người trong hạnh phúc bất tận sao? Để được như vậy, họ quyết yêu thương nhau theo luật Chúa để nên tốt hơn. Khi đã cố gắng lãnh phép Rửa tội. Chúa Giêsu đổ tràn ơn thánh vào trong lòng họ và kết hợp với họ trong Bàn tiệc Thánh Thể. 

 

Nhà Vua cũng rất thích điều các Cha nói. Những điều các Ngài rao giảng làm cho các phù thủy và bọn người Ả rập buôn người giận dữ. Một thị động bị vu oan và bị thiêu sống. Anh ta xin được rửa tội và đã can đảm chịu cực hình, các nhà thừa sai cảm thấy cơn bách hại đã đến nên vội rửa tội cho những người đã được chuẩn bị rồi rút lui với một số trẻ em các Ngài đã chuộc lại được. Các Ngài rút lui về bờ hồ phía nam, là nơi bệnh đậu mùa đang giết hại rất nhiều người. Số đông trẻ em sắp chết đều được rửa tội. 

 

Các Ngài nói với một em bé 9 tuổi: Hãy cầu nguyện xin Chúa Giêsu cứu chữa con. Nhưng em bé trả lời: – Bây giờ được làm con Thiên Chúa, con không sợ chết nữa. 

 

Được ba năm, nhà vua qua đời, các vị thừa sai trở lại, dân chúng mừng rỡ. Dân được rửa tội trước đã rửa tội cho nhiều người khác nữa. Việc tông đồ khởi sắc nhưng một viên chức của Tân vương đã gieo nghi ngờ đối với các thành quả của các Kitô hữu, nhất là đối với Giuse Mukasa, thủ lãnh các thị đồng, người đã chống lại sự vô luân của ông. Ông ta tâu vua rằng: các Kitô hữu mưu chiếm ngôi vua. Các phủ thủy bảo rằng bọn khởi xướng phải chết. Vua tin họ và Giuse bị thiêu sống. Lý hình muốn trói Ngài lại nhưng Ngài nói: – Tôi chết vì đạo mà lại tìm cách thoát thân sao? Một Kitô hữu không có sợ chết đâu. 

 

Nhà vua nghĩ rằng bản án nầy sẽ làm cho các Kitô hữu khiếp sợ. Trái lại, ngày càng có nhiều người theo đạo. Khi đi săn về, ông gọi tiểu đồng Mwafou 14 tuổi lại, và khi biết rằng em đang học đạo với một thiếu niên tên là Denis, ông truyền dẫn Denis lại, la lớn:

 

Tên nô lệ khốn khiếp, ngươi dạy đạo hả? Và ông dùng lưỡi dao tẩm thuốc độc hạ sát Denis. 

 

Giận dữ đi ra, ông gặp Honôrat và hỏi: – Mày cũng là Kitô hữu hả? – Phải. 

 

Và Hônôrat bị tra khảo, bị xẻ thịt. Bấy giờ vua khám phá ra một tân tòng là Giacôbê và tra gông vào cổ. Về nhà ông thúc trống tập họp các đao phủ lại. Bọn đao phủ và các phù thủy nhảy múa như được thoát khỏi ngục. Ngược lại tại các nhà thị đồng quang cảnh như thần tiên. Carôlô Lwanga, chiến sĩ anh dũng nhất của triều đình đã rửa tội cho em bé Kizitô và ba trẻ em khác, dọn mình cho các em chịu chết cách thánh thiện. 

 

Ngày 28 tháng 5, nhà vua truyền thiêu sống các thị đồng dám cầu nguyện. Mwa-Ga là con một đao phủ. Ba em khẩn khoản xin em trốn đi, nhưng em từ chối. Một chiến sĩ Kitô giáo nói với vua: – Con lên trời và cầu nguyện cho Đức Vua. 

Các phạm nhân mạnh dạn tiến đi chịu khổ hình, gặp Pontianô tên đao phủ hỏi anh: – Mày biết cầu nguyện không? 

 

Vừa trả lời "biết" Pontianô bị chém đầu ngay. Những người khác nói: – Ở trên trời Pontianô sẽ cầu nguyện cho chúng ta được can đảm chịu chết. 

 

Các vị tử đạo bị kềm cứng trong gông cùm trong khi người con của đao phủ bị ép đến với cha mẹ. Họ phải đợi sáu ngày để chuẩn bị giàn thiêu, đã đến ngày xử, Mwaga nhảy xổ đến nhập bọn tại pháp trường, các vị tử đạo nói với nhau: – Chính tại nơi đây chúng mình được thấy Thiên Chúa. 

 

Các Ngài bị đặt trên các tấm phên như những cây đuốc sống. Người ta đốt chân các vị tử đạo để mong các Ngài thôi cầu nguyện, nhưng các Ngài đã trả lời: – Còn sống, chúng tôi sẽ không ngừng cầu nguyện. 

 

Một phù thủy nói với các Ngài: Thiên Chúa sẽ không giải thoát các Ngài đâu. Brunô trả lời: – Ông không đốt cháy linh hồn chúng tôi được đâu, nhưng nó sẽ bay lên thiên đàng. 

 

Giàn thiêu được đốt lên. Lời kinh lạy cha của các thánh còn vượt trên những tiếng la hét man rợ và những tiếng nổ lốp đốp của lò lửa. Người ta biết được là các Ngài đã chết khi hết nghe tiếng các Ngài cầu nguyện. 

 

Ông vua da đen tự nhiên chắc rằng sau tội ác này, chẳng còn bóng dáng Kitô hữu nào trong xứ sở của ông nữa. Nhưng ngày nay, Ouganda có hơn nửa triệu tín hữu.

 
  
 “ Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc, dành sẵn cho các ngươi, ngay từ lúc tạo thành trời đất”( Mt 25, 34 ).Thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo đã làm cho Hội Thánh Ouganda càng lúc càng phát triển. Các Ngài xứng đáng lãnh nhận triều thiên trên trời.
 
HỘI THÁNH OUGANDA ĐƯỢC LỚN LÊN NHỜ MÁU CÁC THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO: “ Máu của các Kitô hữu làm nẩy sinh Giáo Hội” hay “ Máu vị tử đạo là hạt giống của các Kitô hữu”. Thánh Carôlô Lwanga luôn khích lệ, động viên các bạn kiên cường, tuyên xưng danh Chúa dẫu có phải hy sinh tới cả mạng sống của mình. Các thánh tử đạo Ouganda thuộc mọi lứa tuổi: có vị như Matthias mới lên 5 tuổi, thánh Kitô mới có 13 và các vị khác lớn hơn từ 16 tới 24 tuổi đời. Các Ngài đã hy sinh thí mạng sống của mình, đã đi con đường đức tin, con đường thập giá, con đường tình yêu như Thầy chí thánh Giêsu, những hình phạt như ném đá, voi dày, đòn vọt, gông cùm, xiềng xích không làm  chùn bước các Ngài. Các Ngài đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa:”Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác, ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá”( 1Co 2, 2 ) .   Hai mươi hai thánh tử đạo Ouganda trong đó có bốn vị chưa được chịu phép rửa tội, thánh Carôlô đã động viên, dậy dỗ và rửa tội cho họ trước khi các Ngài được phúc tử đạo. Hội Thánh Ouganda chỉ thực sự được phát triển và lớn mạnh nhờ máu của các vị tử đạo mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.
 
CHÚA THƯỞNG CÔNG CÁC NGÀI:
 
Cảm nghiệm sâu xa lời sách khải huyền:” Ai thắng, Ta sẽ cho ăn quả cây sự sống, trồng ở trên thiên đàng của Thiên Chúa”( Kh 2, 7 ). Thánh Carôlô Lwanga  và hai mươi mốt bạn được phúc tử đạo, đã lãnh triều thiên nước trời. Chúa thưởng công các Ngài, Giáo Hội trần thế tôn vinh các Ngài. “Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nẩy sinh thêm nhiều Kitô hữu. Xin cho máu của thánh Carôlô Lwanga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội Thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo ).

https://ditimchanly.org/sach-kinh-thanh/truyen-cac-thanh/thanh-carolo-lwanga-va-cac-ban-tu-dao-0306.html
 

Gương thánh nhân: Năm 1880, giữa lúc dân nước U-găn-đa còn sống trong lầm lạc, thờ lạy bụt thần, thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn đã đem đạo Chúa đến cho họ.

Lúc đầu, nhà vua rất vui mừng đón tiếp và sẵn sàng ủng hộ ngài. Nhờ đó, thánh nhân được tự do đi khắp nơi rao giảng cho mọi người biết Chúa. Dân chúng rất cảm kích khi nghe Ngài nói đến sự thương khó và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Họ không thể tưởng tượng được một vị Chúa cả vì thương họ đã bỏ trời sinh xuống làm người nghèo khổ như họ, và chịu chết đóng đinh khổ nục trên thập giá để cứu rỗi họ, đem hạnh phúc đến cho họ. Từ đó họ hết lòng thương mến Chúa và xin lãnh nhận bí tích rửa tội, để thờ kính Đấng đã hết lòng thương mến họ.

Thấy thế, các thầy phù thuỷ và buôn bán nô lệ ghen tức, vì họ bị mất ảnh hưởng, quyền lợi. Họ tố cáo với nhà vua là những người theo đạo Thiên Chúa mưu phản. Sẵn lúc đó, nhà vua đang bực tức vì những người có đạo chỉ trích đời sống vô luân của ông ta. Thế nên ông ta ra lệnh bắt Ca-rô-lô và 18 người Công giáo. Và để cho dân chúng khiếp sợ không còn ai dám theo đạo nữa, ông ta kết án thiêu sống thánh nhân cùng với những người bị bắt. Nhưng thay vì làm cho đạo Chúa bị bế tắc, ông đã giúp cho Châu Phi mở ra một kỷ nguyên mới:” Kỳ nguyên tái sinh về phương diện Tôn giáo và xã hội”, như lời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói, vì máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người có đạo. Chúng ta hãy nghe lời Đức Giáo Hoàng nói, trong dịp lễ phong thánh cho thánh Ca-rô-lo- Loan-ga và các bạn của Ngài:

“Ai có thể đoán được rằng tiếp theo các thánh tử đạo và tu sĩ thời danh ngày xưa ơ Phi châu như: Síp-ri-a-nô, Fê-li-xi-ta và Pê-pê-tu-a, nhất là thánh Aâu-tinh, ngày nay lại có những vị thời danh như Ca-rô-lô- Loan-ga, Mát-thi-a Mô-lum-ba, Ca-len-ba cùng với 20 đồng bạn tử đạo người công giáo. Ta cũng không thể quên những vị khác thuộc Anh giáo đã dám bỏ mạng mình vì danh Chúa Kitô. Các vị tử đạo này của Châu Phi mở ra một kỷ nguyên mới…dĩ nhiên không nên nghĩ là kỷ nguyên cấm đạo và đàn áp tôn giáo mà là kỷ nguyên tái sinh về phương diện tôn giáo và xã hội. Được tưới gội bằng máu của các thánh tử đạo mới này, những tử đạo đầu tiên của thời đại mới ( và ước gí là những tử đạo cuối cùng, vì lẽ, lễ hy sinh của các Ngài thật cao quý! ) một Phi Châu tự do và độc lập đang được tái sinh.

Sự chết bi thảm của các ngài thật quá lạ lùng và ý nghĩa, đến nỗi có thể tìm thấy ở đó đủ những bài học, để kiến tạo một dân mới về lòng đạo đức: xây dựng một truyền thống tinh thần mới để truyền lại cho hậu thế, một truyền thống đủ khả năng tượng trưng diễn tả và đem lại một tiến bộ cho dân tộc, đi từ một nền vănhoá thô sơ có nhiều giá trị nhân bản cao quý, nhưng cũng không tránh khỏi còn hoen ố nhược điểm và phần nào đang đóng kín, hẹp hòi, để tiến tới một nếp sống chân chính cởi mở, thuận lợi cho tinh thần con người có được những bộc lộ cao thượng hơn, và cuộc sống xã hội có được những hình thức cao cấp hơn.”

Quyết tâm:Noi gương thánh Ca-rô-lôLoan-ga, tôi sẵn sàng chịu gian nan khốn khó, để đem Chúa đến cho những người chưa biết Chúa và để làm chứng đạo Chúa là đạo thật.

Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho máu thánh tử đạo làm nảy sinh nhiều Kitô hữu, xin cho máu thánh Loan-ga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào.

http://giaoxutanviet.com/ngay-3-thang-6-thanh-ca-ro-lo-loan-ga-va-cac-ban-tu-dao/

1. Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ

Người ta ấn định ngày này để nhớ đến 22 vị thánh tử đạo Châu Phi da đen, bị giết tại Ouganda giữa 26 tháng 5; 3 tháng 6 năm 1886; và 27 tháng 1 năm 1887. Ngày 3 tháng 6 nhắc lại cuộc tử đạo của Thánh Charles Lwanga và 12 bạn chịu thiêu sống sau khi chịu nhiều cực hình khủng khiếp, tại Rubaga (03.06.1886). Các ngài là những của lễ hy tế đầu tiên trong cuộc bách hại do Mwanga chủ xướng. Ông là vị vua thâm độc và khát máu trong miền Đại Hồ (Grands Lacs). Các ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XV phong chân phước năm 1920 và được Đức Phaolô VI phong hiển thánh năm 1964, nhân chuyến viếng thăm của ngài tại Châu Phi.

Ouganda trước tiên được các linh mục Hội truyền giáo Châu Phi (Pères Blancs) rao giảng Tin Mừng năm 1879. Năm 1882, họ bị đuổi khỏi nơi này, nhưng hai năm sau họ trở lại theo lời yêu cầu của vua Mwanga. Sau đó, chính ông lại bách hại các Kitô hữu hết sức tàn bạo.

Để trả thù, một viên chức bị bắt trong khi âm mưu chống vua Mwanga đã thúc đẩy vua trước hết giết một số Kitô hữu và giám mục Anh Giáo Hannington (1885), bị cáo gian làm gián điệp. Sau đó vua sai chém đầu Joseph Mukusu, trưởng đội những người phục vụ. Họ bị cáo là “những người cầu nguyện” (17 tháng 11 năm 1885).

Charles Lwanga là người đầu bếp mới của triều đình, đã chuẩn bị cho mười hai bạn được phúc tử đạo. Sau khi bị kết án tử hình, các ngài bị dẫn đến địa điểm hành hình ở Kampala. Trong lúc đó, người bạn của vua là André Kagwa, bị chặt đầu rồi hỏa thiêu. Hôm sau, một nhân vật nổi tiếng khác cũng bị giết cách tàn bạo, đó là Matthias K.Mulumba. Các văn kiện của vụ án phong thánh đều ví Matthias K. Mulumba như “đoá hoa đẹp nhất trên chiếc triều thiên” của các thánh tử đạo này.

Sau khi trở lại đạo và chịu phép thánh tẩy, ngài không còn quan tâm đến các danh vọng bổng lộc ban cho ngài với tư cách là nhân vật cao cấp trong triều, ngài nói: “Tôi không phải là một người nô lệ, nô lệ của Đức Giêsu Kitô sao ?”

Sau vài ngày cần thiết chờ đợi để chuẩn bị ra pháp trường và trong khi vài kiếm đồng đã bị giết chết dọc đường, người ta xiềng xích các tù nhân. Người đầu tiên phải lên giàn hỏa thiêu là Charles Lwanga. Rồi những người khác, lần lượt bị thiêu sống. Trong nhóm họ có con trai của người trưởng toán lý hình. Anh không chấp nhận được tha bổng và trả lời cha: “Vua đã ra lệnh cho cha phải giết con. Con muốn chết vì Đức Giêsu Kitô”. Jean-Marie Jamari được mệnh danh là bậc “tiền bối” do bởi dáng vẻ oai nghi trang trọng và luôn sẵn sàng giúp đỡ người thân cận, hai năm sau cũng bước theo các bạn tử đạo của mình; ngài bị nhấn chìm trong hồ ngày 27 tháng 1 năm 1887.

Do đó, thật xứng đáng khi Đức Piô XI công bố Charles Lwanga là thánh Bảo Trợ cho Công Giáo Tiến Hành và giới trẻ châu Phi.

2. Thông điệp và tính thời sự

a. Lời nguyện trong ngày lễ được mở đầu bởi câu nói danh tiếng của Tertullien, cũng là một giáo dân châu Phi: “Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nảy sinh thêm nhiều Kitô hữu...” và lời nguyện tiếp theo: “Xin cho máu của thánh Lwanga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”.

Nhân chuyến hành hương sang châu Phi năm 1964, Đức Phaolô VI đã cử hành Thánh lễ phong thánh trên các hũ đựng di hài các thánh tử đạo. Như thế Ngài lặp lại truyền thống của thánh Cyprien là cử hành hy tế Tạ Ơn trên các mộ thánh tử đạo thành Carthage. Như để nhấn mạnh câu nói danh tiếng của Tertullien, Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng các tân thánh tử đạo này của châu Phi như thêm một mắc xích mới vào chuỗi các vị tử đạo của châu Phi xưa: “Thánh Augustinô và nhà thơ Prudence đã kể lại những thành tích đầy xúc động của các vị tử đạo ở Scillium, ở Carthage, và của các vị tử đạo trong “Đoàn Người Trắng thành Utique” (300 vị chết trong hầm vôi đang sôi). Thánh Gioan Kim Khẩu hết lời tán dương các vị tử đạo Ai-cập, cùng với thành tích của các vị tử đạo trong cuộc bách hại của những người Vandales xưa…”

b. Lời nguyện trên lễ vật gợi lại việc các thánh tử đạo trẻ tuổi đã từ chối và chống lại những lời khiếm nhã của Đức vua, họ thà chết hơn là phạm tội. Như thế, họ làm sống dậy các hành vi và cử chỉ của các thánh tử đạo vào những thế kỷ đầu tiên trong lòng Giáo hội trẻ trung vừa được rao giảng Tin Mừng từ thế kỷ XIX.

c. Lời nguyện hiệp lễ giúp chúng ta nắm được ý nghĩa hiện thực của ngày lễ nhớ các thánh tử đạo Ouganda. “Chính trong hy lễ Tạ Ơn mà các ngài đã tìm được sự dũng cảm để chịu đựng các nỗi cực hình”. Chúng ta cũng thế, giữa muôn vàn thử thách, chúng ta sẽ nhận lấy, trong mầu nhiệm hy lễ Tạ Ơn, một niềm tin và lòng bác ái tinh tuyền, không khiếm khuyết.

Enzo Lodi

Nguồn: https://www.tonggiaophanhanoi.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/11592-ngay-03-6-thanh-ca-ro-lo-loan-ga-va-cac-ban-tu-dao-1886-1887.html

 

 


Thứ Bảy sau Chúa Nhật VII Phục Sinh

 

Bài Ðọc I: Cv 28, 16-20. 30-31

"Ngài ở lại Rôma, rao giảng nước Thiên Chúa".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Khi chúng tôi đến Rôma, Phaolô được phép ở nhà riêng với người lính canh. Sau ba hôm, ngài mời các đầu mục người Do-thái đến. Khi họ đến, ngài nói với họ: "Thưa anh em, dầu tôi đây không làm điều gì phạm đến dân tộc hay tục lệ tổ tiên, mà tôi đã bị bắt tại Giêrusa-lem và bị nộp trong tay người Rôma. Khi đã điều tra, họ muốn thả tôi vì tôi không có tội gì đáng chết. Nhưng người Do-thái chống lại, nên tôi buộc lòng phải nại đến hoàng đế, nhưng không phải là tôi có gì kiện cáo dân tôi. Do đó tôi đã xin gặp anh em và nói chuyện: Chính vì niềm hy vọng của Israel mà tôi phải mang xiềng xích này".

Suốt hai năm, ngài trú tại ngôi nhà đã thuê, tiếp nhận tất cả những ai đến gặp ngài, ngài rao giảng nước Thiên Chúa và dạy dỗ những điều về Chúa Giêsu Kitô một cách dạn dĩ, không có ai ngăn cấm.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 10, 5. 6 và 8

Ðáp: Lạy Chúa, người chính trực sẽ nhìn thấy tôn nhan Chúa (c. 8b).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Chúa kiểm soát người hiền đức, kẻ ác nhân, ai chuộng điều ác, thì linh hồn Người ghét bỏ. - Ðáp.

2) Trên lũ tội nhân Người làm mưa than đỏ diêm sinh, và phần chén của chúng là luồng gió lửa. Bởi Chúa công minh, nên Người thích chuyện công minh, người chính trực sẽ nhìn thấy thiên nhan. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 16

Alleluia, alleluia! - Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 21, 20-25

"Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì sao?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy". Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: "Nó sẽ không chết", mà Người chỉ nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con".

Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

 

Phúc Âm (Gioan 21:20-25)


"Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi 'Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?' Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: 'Còn người này thì sao?' Chúa Giêsu đáp: 'Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy'. Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: 'Nó sẽ không chết', mà Người chỉ nói: 'Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con'. Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra".


Chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh trong bài Phúc Âm của ngày Thứ Bảy của Tuần VII Phục Sinh hôm nay, thời điểm áp Đại Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, không còn liên quan đến Tông Đồ Phêrô là đại diện Chúa Kitô trong việc chăn dắt đàn chiên của Người và chăn dắt thay Người nhưng chăn dắt như Người, mà liên quan đến "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu", một người môn đệ theo như lời Chúa Giêsu nói với Tông Đồ Phêrô thì "nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến".


Ở đây chính Thánh ký Gioan là "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" đã chú thích câu nói trên đây của Chúa Giêsu rằng: "Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: 'Nó sẽ không chết'", nghĩa là người môn đệ này vẫn chết như thường về thể lý, (theo lịch sử thì vào khoảng năm 100 AD), nhưng không chết một cách tử đạo như Tông Đồ Phêrô là người sau khi được Thày báo trước cho biết về số phận của mình đã lên tiếng hỏi về số phận của tông đồ Gioan: "Còn người này thì sao?". 


Sở dĩ Tông Đồ Gioan không chết tử đạo như tất cả mọi tông đồ khác không trừ vị nào là vì ngài đã tử đạo rồi khi cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá Chúa Kitô (xem Gioan 19:25). Có thể nói ngài là tiêu biểu cho chính Giáo Hội đã được Chúa Kitô trên cây thập giá trao phó cho Mẹ Maria chăm sóc và là một Giáo Hội phải lấy Mẹ làm gương mẫu - "đem Mẹ về nhà mình" (Gioan 19:27). Phải chăng Tông Đồ Gioan là người môn đệ được ngồi bên hữu Chúa Kitô, khi chỉ có một mình ngài trong số 11 tông đồ được đứng kề bên Thánh Giá của Người với Mẹ Maria, như ngài và người anh Giacôbê của ngài đã sẵn sàng chấp nhận uống chén với Người (xem Marco 10:36-39).


Chưa hết, như Tông Đồ Phêrô biểu hiệu cho đức tin thế nào thì Tông Đồ Gioan cũng tiêu biểu cho đức mến như vậy, một đức mến nhậy cảm hơn đức tin, như trường hợp Tông Đồ Gioan chạy nhanh hơn Tông Đồ Phêrô ra mồ và thấy thì tin, trong khi Tông Đồ Phêrô còn đang ngẫm nghĩ chưa tin (xem Gioan 20:4,8), hay như trường hợp đi đánh cá ở biển hồ Tibêria sau khi Chúa Kitô phục sinh, cũng người môn đệ được Chúa Giêsu yêu này nhận ra Người trước tiên và nói với Tông Đồ Phêrô (xem Gioan 21:7).


Như thế cho thấy mối Hiệp Nhất Thần Linh nơi Tông Đồ Gioan là người môn đệ được Chúa Giêsu yêu này sâu nhiệm biết là chứng nào, đến độ, vị tông đồ này "không chết" mà còn "ở lại mãi cho tới khi Thày đến", ở chỗ ngài còn được Thày tỏ mình ra cho thấy Người lại đến trong vinh quang như ngài thị kiến thấy và thuật lại trong sách Khải Huyền, nhất là đoạn 21 và 22 là 2 đoạn cuối cùng của sách Khải Huyền nói riêng và toàn bộ Thánh Kinh Kitô giáo nói chung, một sự kiện lịch sử có thể nói là đã ứng nghiệm lời Chúa Giêsu tiên báo chung các tông đồ và riêng tông đồ Gioán rằng: "Trong số các kẻ đang ở đây có một số sẽ không chết cho tới khi được xem thấy Vương Quốc của Thiên Chúa..." (Mathêu 16:28; Marco 9:1; Luca 9:27).  

 

Trong bài Phúc Âm còn 1 chi tiết rất đáng lưu ý nữa được Thánh ký Gioan bày tỏ nhận định của ngài, đó là “Còn nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nhưng nếu kể ra từng việc một thì tôi không nghĩ cả thế gian này chứa nổi những gì được viết ra” (Gioan 21:25). Căn cứ vào những lời này thì thoạt nghe hay mới đọc tôi có cảm tưởng là vị thánh ký này nói thật là thái quá, quá sức là phòng đại. Thế nhưng, hiểu theo nghĩa bóng thì hoàn toàn chân thực.  

 

Đúng vậy, nếu Chúa Giêsu chẳng những “là đường” mà còn là chính “sự thật và sự sống” (Gioan 14:6) thì chẳng có trí khôn hữu hạn nào của loài người có thể hiểu thấu và có thể viết ra đủ sách vở để nói về Người một cách chính xác, có nghĩa là “cả thế gian này cũng không chưa hết”. Chính Chúa Giêsu cũng đã nói với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly rằng “Thày còn cần phải nói nhiều với các con nữa, nhưng nay các con chưa thể thâu nhận được. Khi Ngài đến, là Thần Chân Lý, Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật” (Gioan 16:12-13). Nghĩa là chỉ nhờ Thánh Thần con người phàm trần mới có thể thấu hiểu được Chúa Kitô là Đấng không có một con người trần gian nào có thể tự mình triệt thấu. Và đó là lý do biến cố Người về cùng Cha (vượt trên thế gian này) thì có lợi cho các tông đồ, cho Giáo Hội vậy.

 

Ngoài ra, câu “còn nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nhưng nếu kể ra từng việc một thì tôi không nghĩ cả thế gian này chứa nổi những gì được viết ra”, nếu liên quan đến câu ngay trước đó: "Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật", thì ở đây có thể hiểu rằng thánh ký Gioan có ý nói về "lời chứng" hay "chứng từ" và việc "làm chứng" liên quan đến chứng nhân. Mà chứng nhân đây là ai nếu không phải thành phần môn đệ của Chúa Kitô từ Giáo Hội sơ khai cho đến tận thế. Những chứng nhân làm chứng này, hay chứng từ của họ về đức tin, về một thực tại thần linh siêu việt, về một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, về một tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, về những gì thế gian này không thể nào hiểu được, tức không "chứa nổi", như chính các vị tông đồ cũng không thể nào thấu hiểu cho đến khi Thánh THần được sai đến với các vị.

 

Bài Phúc Âm hôm nay, những câu cuối cùng của Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, được giáo Hội chọn đọc để kết thúc Mùa Phục Sinh, như hôm qua đã chia sẻ, là một bài Phúc Âm kết thúc theo chiều hướng cởi mở, chiều hướng cánh chung, thời điểm cánh chung đã được khai mở từ "khi thời gian viên trọn" (Galata 4:4), thời điểm "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), cho đến khi "Người lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng" (Kinh Tin Kính), chứ không đóng lại hay thắt nút.

 

Thật vậy, nếu bài Phúc Âm hôm qua, chiều hưóng cởi mở của Mầu Nhiệm Chúa Kitô, sau Mầu Nhiệm Vượt Qua, còn tiếp tục nơi Mầu Nhiệm Giáo Hội, một mầu nhiệm liên quan đến vai trò mục tử của tông đồ Phêrô, vị tông đồ biểu hiệu cho lòng tin, cũng như của các vị giáo hoàng kế vị ngài, là thành phần đại diện Chúa Kitô chăn dắt đàn chiên của Người trên thế gian cho đến khi Người lại đến, thì bài Phúc Âm hôm nay, liên quan đến tông đồ Gioan, vị tông đồ biểu hiệu cho lòng mến, có tính cách cởi mở hướng đến Mầu Nhiệm Cánh Chung của Chúa Kitô đối với toàn thể nhân loại vào ngày cùng tháng tận của loài người nhưng lại là thời điểm của một "trời mới đất mới...: Thành Thánh Giêrusalem mới từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống... là nơi Thiên Chúa ngự giữa loài người" (Khải Huyền 21: 1-3). 

 

Bài Đọc 1 (Tông Vụ 28:16-20,30-31)


"Khi chúng tôi đến Rôma, Phaolô được phép ở nhà riêng với người lính canh. Sau ba hôm, ngài mời các đầu mục người Do-thái đến. Khi họ đến, ngài nói với họ: 'Thưa anh em, dầu tôi đây không làm điều gì phạm đến dân tộc hay tục lệ tổ tiên, mà tôi đã bị bắt tại Giêrusa-lem và bị nộp trong tay người Rôma. Khi đã điều tra, họ muốn thả tôi vì tôi không có tội gì đáng chết. Nhưng người Do-thái chống lại, nên tôi buộc lòng phải nại đến hoàng đế, nhưng không phải là tôi có gì kiện cáo dân tôi. Do đó tôi đã xin gặp anh em và nói chuyện: Chính vì niềm hy vọng của Israel mà tôi phải mang xiềng xích này'. Suốt hai năm, ngài trú tại ngôi nhà đã thuê, tiếp nhận tất cả những ai đến gặp ngài, ngài rao giảng nước Thiên Chúa và dạy dỗ những điều về Chúa Giêsu Kitô một cách dạn dĩ, không có ai ngăn cấm".


Chiều kích Hiệp Nhất Thần linh trong bài đọc 1 hôm nay tiếp tục được thể hiện nơi Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, ở chỗ chính khi ngài bị giam lỏng ở Rôma: "được phép ở nhà riêng với người lính canh", với lý do duy nhất: "chính vì niềm hy vọng của Israel mà tôi phải mang xiềng xích này", thì ngài vẫn hiên ngang theo đuổi cho tới cùng sứ vụ làm chứng về Chúa Kitô: "Suốt hai năm, ngài trú tại ngôi nhà đã thuê, tiếp nhận tất cả những ai đến gặp ngài, ngài rao giảng nước Thiên Chúa và dạy dỗ những điều về Chúa Giêsu Kitô một cách dạn dĩ, không có ai ngăn cấm".

 

Chiều kích hiệp nhất thần linh nơi trường hợp của Thánh Phaolô ở trong bài đọc 1 hôm nay còn ở chỗ rất đặc biệt như sau. Đó là ngài được sai đến với Dân Ngoại, như Thánh Phêrô với Dân Do Thái (Galata 2:7-8), nhưng cuối cùng cả hai vị đều gặp nhau (hiệp nhất) ở Rôma là thủ đô của Đế Quốc Rôma, một đế quốc vào thời bấy giờ tiêu biểu cho quyền lực toàn trị của thế gian, quyền lực đã sát hại Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Con Thiên Chúa. Riêng Tông Đồ Phaolô, cho dù được sai đến với Dân Ngoại, cuối đời, chính vì niềm hy vọng của Israel”, ngài vẫn được quan phòng thần linh trở về với dân của mình ở Rôma, một thủ đô quyền lực chính yếu của Dân Ngoại, vì thế có thể nói là Rôma đã trở thành hay chính là một Giêrusalem mới của Kitô giáo như lịch sử đã chứng thực từ đó cho tới nay.