SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Vọng Năm A Tuần III 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 35, 1-6a. 10

"Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ chúng tôi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng, và khen ngợi rằng: Ðã ban cho Israel được vinh quang của xứ Liban, huy hoàng của Carmel và Saron. Chính chúng sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa, và huy hoàng của Thiên Chúa chúng ta.

Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm cho tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi.

Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10

Ðáp: Lạy Chúa, xin đến cứu độ chúng con (x. Is 35, 4).

Xướng: 1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.

2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù; Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục. Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.

3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Gc 5, 7-10

"Hãy vững lòng, vì Chúa gần đến".

Trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu. Vậy anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi phải bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa. Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Is 61, 1 (x. Lc 4, 12)

Alleluia, alleluia! - Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 2-11

"Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô. Ông sai môn đệ đến thưa Ngài rằng: "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?" Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".

Khi những người được sai đến đã đi rồi, Chúa Giêsu liền nói với đám đông về Gioan rằng: "Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: "Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con". Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả; nhưng người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông".

Ðó là lời Chúa.

 

 


Suy niệm

 

Chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng trông đợi được Chúa Kitô cứu độ


Chủ đề chung Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể" lại càng hiện tỏ hơn vào Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay là thời điểm Chúa gần đến, như phụng vụ hôm nay của Giáo Hội mang một mầu hồng tươi vui chứ không còn mầu tím xám hối nữa.

Đúng thế, ngay trong Tuần Ba Mùa Vọng này, Giáo Hội sẽ bắt đầu tuần bát nhật trước Giáng Sinh, từ ngày 17 đến hết 24 tháng 12, một thời điểm với những bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến biến cố nhập thể và giáng sinh của Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế.

Bởi vậy, Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay đây chẳng khác gì như một dạo khúc về mầu nhiệm và biến cố "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng sắp đến với dân của Chúa là thành phần đang trông đợi (thậm chí cho đến bây giờ) Người đến như một Vị Thiên Sai Cứu Độ.

Đó là lý do chúng ta thấy Bài Đọc 1 và 2, kể cả bài Đáp Ca đều có nội dung hân hoan vui mừng và đều kêu gọi dân Chúa hãy vui lên. 

Bài Đọc 1 hôm nay Tiên Tri Isaia đã cho thấy một bầu khí hãy vui lên tràn đầy hy vọng như sau:  

"Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng, và khen ngợi rằng: Ðã ban cho Israel được vinh quang của xứ Liban, huy hoàng của Carmel và Saron. Chính chúng sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa, và huy hoàng của Thiên Chúa chúng ta.... Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa".

Bài Đáp Ca hôm nay Thánh Vịnh gia cũng đã vang lên niềm hân hoan bằng lòng xác tín tin tưởng của mình về một Vị Thiên Chúa cứu độ như thế này: 

 1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.

2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù; Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục. Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.

3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.  

Bài Đọc II Thánh Giacôbê Tông Đồ, theo chiều hướng của Bài Đáp Ca, đồng thanh kêu gọi dân Do Thái hãy tin tưởng chờ đợi Vị Thiên Chúa cứu độ đã đến nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng "sẽ xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28): "Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu. Vậy anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến". 

Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến chính bản thân của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đang ngồi trong tù sai các môn đệ hỏi Chúa Giêsu là Đấng ngài đã loan báo đến sau ngài nhưng cao trọng hơn ngài, rằng "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?" Qua câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ của vị tiền hô này rằng "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó", Người chẳng những chứng tỏ rằng Người quả thật đúng như những gì vị tiền hô đã làm chứng, là Đấng đúng như Thánh Vịnh gia và các vị tiên tri đã nói đến, như được thấy ngay trong Bài Đọc I và Bài Đáp Ca hôm nay, mà còn củng cố đức tin cho chính vị tiền hô này nữa, khi ngài "ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô", nhưng cảm thấy hình như cũng chẳng cao trọng hay quyền năng hơn ngài gì hết. Đó là lý do ở cuối câu trả lời của mình, Chúa Giêsu đã cảnh giác như thế này: "phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".

Chắc là nhờ lời chứng của Chúa Kitô này mà Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã kiên trung cho đến cùng, đã tiếp tục làm chứng cho Chúa Kitô là "chân lý" (Gioan 14:6) bằng chính cái đầu của mình, và cái chết mất đầu của ngài đã ám chỉ cuộc tử nạn của Chúa Kitô là Đầu của ngài, Đấng đến sau nhưng cao trọng hơn ngài, nhờ đó ngài được nên giống Chúa Kitô hơn ai hết.

Thật vậy, nếu ngay từ ban đầu, khi vừa mới được cưu mang trong lòng thai mẫu 6 tháng, vị tiền hô này đã được Chúa Kitô mang ơn cứu độ đến cho ngài, nên ngài đã hân hoan nhẩy mừng trong lòng mẹ thế nào (xem Luca 1:41), thì trước khi chết, ngài cũng được Chúa Kitô mang ơn cứu độ đến cho ngài như vậy, bằng chính chứng từ của Người, giúp ngài thêm tin tưởng vào Đấng đến sau.

Không biết Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả có nghĩ rằng nếu nhân vật Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai, là Đấng đến sau cao trọng và quyền năng hơn mình mà tại sao không ra tay cứu ngài khỏi bị ngục tù hay chăng, nhưng quả thực Chúa Kitô đã cứu ngài thoát khỏi ngục tù ngờ vực bằng chính lời của Người trong bài Phúc Âm hôm nay. Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã đóng vai trò "quan toà đã đứng trước cửa" ngục thất của vị tiền hô, như Tông Đồ Giacôbê đã đề cập đến trong Bài Đọc II hôm nay.

 Việc Chúa Kitô củng cố niềm tin cho Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đang cảm thấy bối rối về chính Đấng đến sau ngài cũng nên trọn những lời tiên tri Isaia trong Bài Đọc I hôm nay về chung dân Do Thái, trong đó bao gồm cả chính bản thân của vị tiền hô này, như trong Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm cho tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi".

Nhờ được Chúa Kitô củng cố đức tin cho Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chẳng những tiếp tục sứ vụ làm chứng cho Đấng đến sau ngài bằng mạng sống của ngài mà còn nhờ đó ngài củng cố đức tin cho chung những ai đã đến lãnh nhận phép rửa của ngài ở Sông Jordan cũng như cho riêng thành phần môn đệ của ngài, nhờ đó, với tư cách là một vị tiên tri, vị tiên tri đệ nhất trong các tiên tri, ngài mới xứng đáng trở thành gương mẫu như Tông Đồ Giacôbê đã nêu lên trong Bài Đọc II hôm nay: "Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa".

Như thế, chính Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được sai đến trước Chúa Kitô để dọn đường của Người và cho Người cũng sống trong niềm tin tưởng của Mùa Vọng đợi trông. Tuy ngài đã được tận mắt thấy Đấng đến sau ngài, đã làm chứng về Đấng ấy, và đã làm phép rửa cho Người, theo ơn gọi và sứ vụ tiền hô của mình, nhưng tự bản thân của mình, ngài vẫn phải sống đức tin, bất khả châm chước, như chính Đức Maria Mẹ Chúa Kitô đầy ơn phúc đã phải trải qua cuộc sống đức tin, hay như các tông đồ được sống ngay bên cạnh Chúa Kitô cũng bị thử thách đức tin, một đức tin liên quan đến chính thực tại thần linh nơi nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, tức đến chính sự thật về con người Giêsu Nazarét này, một sự thật đã được Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ở trong tù đặt lại vấn đề: "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?", một sự thật đã được vị lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô tuyên xưng vô cùng chính xác: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), nhưng vị này vẫn chối bỏ Người 3 lần, một sự thật cuối cùng đã được Tông Đồ Toma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh từ trong cõi chết "là Chúa và là Thiên Chúa" (Gioan 20:28), nhưng là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta - Emmanuel.

 

 

 

 

Thứ Hai


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ds 24, 2-7. 15-17a

"Ngôi sao từ nhà Giacóp mọc lên".

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, Balaam ngước mắt lên nhìn Israel cắm trại theo từng bộ lạc, và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên ông, ông liền tuyên sấm và nói: "Lời sấm của Balaam, con ông Beor, lời sấm của người đang mở mắt; lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người chiêm ngắm Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Hỡi nhà Giacóp, doanh trại của ngươi đẹp biết bao! Hỡi Israel, chỗ cư ngụ của ngươi tốt dường nào! Nó rộng lớn như thung lũng, như những vườn bên dòng sông, như cây trầm hương mà Thiên Chúa đã trồng, như cây hương nam bên suối nước. Nước tràn ra khỏi thùng chứa, và hạt giống của ngươi được tưới dư dật. Vua ngươi sẽ trổi vượt Agag, và vương quốc ngươi sẽ uy hùng".

Balaam lại tuyên sấm và nói: "Lời sấm của Balaam, con của Beor, lời sấm của người đang mở mắt, lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người biết ý nghĩ Ðấng Tối Cao, của người xem thấy hình ảnh Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Tôi thấy Người, chưa phải bây giờ. Tôi thấy Người không phải gần. Một ngôi sao từ Giacóp mọc lên. Một phủ việt từ Israel xuất hiện".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa (c. 4b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúa đến, hãy ra đón Người; chính Người là Hoàng tử Bình an. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 21, 23-27

"Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy Chúa Giêsu vào Ðền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: "Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?" Chúa Giêsu trả lời: "Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. - Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?" Họ bàn tính với nhau rằng: "Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri". Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi không được biết". Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó".

Ðó là lời Chúa.

 

Matthew 21:23-27 Jesus Authority is Questioned — Tell the Lord Thank You


Suy niệm

 

nhập thể chứng từ


   

Hôm nay, Thứ Hai Mùa Vọng Tuần Thứ Ba, Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại lời đối đáp giữa "các trưởng tế và kỳ lão trong dân" hỏi Chúa Giêsu trong "đền thờ" về thẩm quyền của Chúa Kitô, Đấng vừa ra tay đánh đuổi thành phần dân chúng buôn bán trong đền thờ, và cả câu Người trả lời họ.

"Khi ấy Chúa Giêsu vào Ðền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: 'Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?' Chúa Giêsu trả lời: 'Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. - Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?' Họ bàn tính với nhau rằng: 'Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri'. Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: 'Chúng tôi không được biết'. Chúa Giêsu nói với họ: 'Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó'".

Ở đây, chúng ta không bàn đến những chi tiết nào khác ngoài chi tiết liên quan đến Mùa Vọng cũng là chi tiết liên quan tới chính bản thân của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng như đến phép rửa của ngài được Chúa Giêsu nhắc đến trong câu vừa trả lời vừa chất vấn của Người.

Tại sao Chúa Giêsu lại nhắc đến Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người ở đây, trong trường hợp này, liên quan đến thẩm quyền thanh tẩy đền thờ của Người, và vào thời điểm sắp sửa xẩy ra biến cố Vượt Qua của Người? Vẫn biết, để chứng tỏ mình là ai và từ đâu đến, Chúa Giêsu chỉ cần chứng từ bởi trời là Cha của Người qua những việc Người làm cũng đủ và mới chính xác, chứ không cần đến chứng từ của loài người là Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này, như Người đã khẳng định cùng dân Do Thái như thế:

"Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gio-an: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi".

Đúng vậy, chỉ vì lợi ích của chính thành phần lãnh đạo trong dân chất vấn Người mà Chúa Giêsu đã lấy chính chứng từ loài người để nhắc nhở họ, vì chính họ biết rằng Tiền Hô Gioan Tẩy Giả không phải là "Đức Kitô" mà là Đấng sau ngài, như chính vị tiền hô này đã chẳng những minh định mà còn chỉ cho dân chúng (bao gồm cả họ trong đó) thấy: "Kìa, Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Gioan 1:29). 

Chúa Giêsu còn nhắc nhở họ về việc họ đã từng tìm đến tận nơi ở và gặp tận mặt Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này: "Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật", như chính Thánh ký Gioan ghi lại về sự kiện không thể chối cãi này như sau: 

"Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: 'Ông là ai?' Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: 'Tôi không phải là Đấng Ki-tô'. Họ lại hỏi ông: 'Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?' Ông nói: 'Không phải'. - 'Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?' Ông đáp: 'Không'. Họ liền nói với ông: 'Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?' Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. Họ hỏi ông: 'Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?' Ông Gio-an trả lời: 'Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người'. Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa".

Qua câu vấn đáp giữa họ và vị mà họ tưởng là Đức Kitô, họ đã nghe chính miệng của vị này tuyên bố về tính chất trần gian nơi phép rửa của mình - "phép rửa trong nước", so với Đấng thẩm quyền hơn ngài nhưng đến sau ngài là Đấng "đang ở giữa các ông mà các ông không biết". 

Lời của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi thành phần lãnh đạo dân Do Thái này, ngay lúc bấy giờ, lúc Chúa Kitô vừa trả lời vừa chất vấn họ và gợi ý cho họ về bản thân Người, về Đấng được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả nói đến, có thẩm quyền hơn cả ngài mà họ không biết, cho dù ngay lúc ấy Người đã tỏ uy quyền của Người ra trước mắt họ bằng việc đánh đuổi dân chúng bán buôn trong đền thờ linh thiêng, một hành động có tính cách thanh tẩy, như Người vừa làm phép rửa để tẩy sạch tất cả những gì là trần tục nhơ nhớp nơi dân của Người nói chung cũng như nơi đền thờ bị họ làm ô uế nói riêng, một hành động như thể báo trước về chính phép rửa Người sắp phải lãnh nhận nơi cuộc Vượt Qua của Người. 

Tuy nhiên, dầu sao thì họ vẫn có thiện chí tìm kiếm chân lý, cho dù chưa nhận ra chân lý, bởi thành kiến trần gian và khả năng thiển cận của họ. Bởi thế, Chúa Giêsu mới tiếp tục dùng hết cách để tỏ mình ra cho họ, và bởi thế họ mới cần được Người cứu độ. 

Câu hỏi của thành phần lãnh đạo trong dân về thẩm quyền của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay, ở một khía cạnh nào đó và một nghĩa nào đó, cũng cho thấy họ đang tìm kiếm chân lý và mong đợi Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng đã được mạc khải Cựu Ước tiên báo qua nhiều hình thức, bao gồm cả "lời sấm của Balaam" là một tiên tri dân ngoại, được sai đến để nguyền rủa dân Do Thái nhưng lại nói tiên tri ám chỉ về Đức Kitô

"Lời sấm của Balaam, con ông Beor, lời sấm của người đang mở mắt, lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người biết ý nghĩ Ðấng Tối Cao, của người xem thấy hình ảnh Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Tôi thấy Người, chưa phải bây giờ. Tôi thấy Người không phải gần. Một ngôi sao từ Giacóp mọc lên. Một phủ việt từ Israel xuất hiện".

Bài Đáp Ca hôm nay thật sự là phản ảnh những gì Chúa Giêsu làm với thành phần lãnh đạo dân Do Thái trong bài Phúc Âm hôm nay, một Đấng Cứu Độ nhân từ và nhẫn nại trong việc thông cảm và dẫn dắt con người mù tối và lầm lạc về với chân lý và theo chân lý của Người:

 

1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. 

 

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. 

 

 

12/12

 

Lễ Đức Mẹ Gualalupe

 

Lễ Đức Mẹ Guadalupe dù chưa được Giáo Hội chính thức mừng kính trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, như Lễ Đức Mẹ Lộ Đức 11/2 hay Lễ Đức Mẹ Fatima 13/5, nhưng ở Mỹ Châu Latinh nói chung và ở Hoa Kỳ nói riêng Lễ Đức Mẹ Guadalupe được cử hành ở bậc lễ kính (feast). Sau đây là sự tích Mẹ Gualalupe theo https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%A9c_M%E1%BA%B9_Guadalupe

Đức Mẹ Guadalupe (Tiếng Tây Ban NhaNuestra Señora de Guadalupe) còn được biết với tên gọi Đức Trinh Nữ Guadalupe (Tiếng Tây Ban Nha: Virgen de Guadalupe) là một tước hiệu mà Giáo hội Công giáo Rôma dành cho Đức Trinh Nữ Maria.

Hai tài liệu, được xuất bản trong thập niên 1640, một bằng tiếng Tây Ban Nha, một bằng tiếng Nahuatl (ngôn ngữ của người dân Aztec), cùng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong khi đi bộ từ ngôi làng của mình đến thành phố Mexico vào sáng sớm ngày 9 tháng 12 năm 1531 (Ngày hôm sau là Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Đế quốc Tây Ban Nha)[1], nông dân Juan Diego thấy trên sườn đồi Tepeyac một cô gái chừng mười lăm mười sáu tuổi, được bao quanh bởi hào quang ánh sáng. Nói chuyện với anh ta bằng ngôn ngữ địa phương Nahuatl, Bà đã yêu cầu Juan Diego đi nói với Giám mục xây dựng một nhà thờ ngay tại nơi đó. Từ những lời nói của bà, Juan Diego nhận ra đó chính là Maria. Diego đã kể lại câu chuyện của mình với Tổng Giám mục người Tây Ban Nha, Fray Juan de Zumárraga, người đã yêu cầu ông quay trở lại đồi Tepeyac để nói với người phụ nữ lạ là hãy cho một dấu hiệu để chứng minh.

Dấu hiệu đầu tiên mà bà tỏ ra là việc chữa lành bệnh tật cho người chú của Juan. Đức Trinh Nữ nói với Juan Diego hãy leo lên đồi Tepeyac và hái những bông hồng. Mặc dù lúc đó đang là tháng 12 đã rất muộn so với mùa hoa nở nhưng Juan Diego đã tìm thấy những bông hoa hồng Castilian trên đỉnh đồi cằn cỗi, không có nguồn gốc từ Mexico. Đức Trinh Nữ yêu cầu ông sắp xếp những bông hồng vào trong chiếc áo choàng tilma dệt bằng sợi xương rồng của mình. Điều kỳ lạ xảy ra khi Juan Diego mở áo choàng trước khi sự chứng kiến của Giám mục Zumárraga vào ngày 12 tháng 12, những bông hoa rơi xuống sàn nhà nhưng ở vị trí đó lại xuất hiện hình ảnh của Đức Trinh Nữ Guadalupe một cách kỳ diệu được in trên vải[2].

Tấm hình này hiện nay vẫn còn được trưng bày tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ Guadalupe, một trong những điểm hành hương thu hút nhiều người nhất trong thế giới công giáo[3]. Hình ảnh này cũng phổ biến trong văn hóa Mê xi cô với tên gọi: Nữ Vương Mexico[4]. Năm 1910, Giáo hoàng Piô XI công bố Ðức Mẹ Guadalupe là Quan Thầy của châu Mỹ Latinh và sau đó của Philippin vào năm 1935. Năm 1999, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố Maria là Bổn mạng của toàn châu Mỹ, Nữ vương châu Mỹ La Tinh, và người bảo vệ cho những trẻ em không được sinh ra[5][6][7].

Tên gọi

Trong tài liệu đầu tiên viết về cuộc hiện ra, cuốn Mopohua Nican, viết bằng ngôn ngữ Nahuatl vào khoảng năm 1556[8], Maria nói với Juan Bernardino, chú của Juan Diego, rằng hình ảnh trên tấm áo choàng tilma được gọi bằng cái tên: "Đức Trinh Nữ hoàn hảo, Thánh Maria Guadalupe"[9].

Tuy nhiên, giữa các học giả hiện nay không đồng thuận về tên "Guadalupe" được gán cho hình ảnh này[10]. Các ý kiến khác nhau có thể được nhóm lại thành hai quan điểm chính. Quan điểm đầu tiên cho rằng đã có sự hiểu lầm giữa tiếng Tây Ban Nha và tiếng Nahuatl. Quan điểm thứ hai cho rằng tên gọi Tây Ban Nha "Guadalupe", có chung nguồn gốc với tên gọi Đức Maria Guadalupe vùng Extremadura.

Quan điểm đầu tiên về nguồn gốc Nahuatl của tên gọi này là của Luis Becerra Tanco[10]. Vào năm 1675, trong cuốn Felicidad de Mexico của mình, Becerra Tanco đã đưa ra ý kiến: Juan Bernardino và Juan Diego sẽ không thể hiểu được tên Guadalupe vì hai phụ âm " d. "và" g " không tồn tại trong ngôn ngữ Nahuatl. Ông đã đưa ra hai tên bằng tiếng Nahuatl được phát âm giống như "Guadalupe " là: Tecuatlanopeuh [tek ʷ at͡ɬa'nopeʍ"], "người được sinh ra từ tảng đá", và Tecuantlaxopeuh tek ʷ ant͡ɬa'ʃopeʍ, "người xua đuổi những kẻ dữ khỏi chúng ta"[10].

Nó cũng đưa ra gợi ý rằng cái tên Tây Ban Nha này là sự thuật lại một thuật ngữ trong tiếng Nahuatl, Coātlaxopeuh [koa ː t͡ɬa'ʃopeʍ], có nghĩa là "người đập đầu con rắn" và nó có thể được đề cập đến thần rắn lông vũ Quetzacoatl[11].

 

Những người ủng hộ nguồn gốc tiếng Tây Ban Nha của tên gọi đưa ra lập luận rằng:

  • Juan Diego và Juan Bernardino đã quen với tiếng Tây Ban Nha có hai phụ âm "g" và "d" kể từ khi lãnh nhận phép rửa tội mà trong tên của họ có cùng những phụ âm này.
  • Không có một tài liệu nào đưa ra tên gọi khác của Đức Trinh Nữ (ngoài cái tên Guadalupe) trong khoảng thời gian gần 144 năm giữa lần hiện ra vào năm 1531 và khi Becerra Tanco viết cuốn sách của mình năm 1675, cho thấy tên Tây Ban Nha "Guadalupe" là chính xác.
  • Các tài liệu của các tác giả người Tây Ban Nha hiện nay và của dòng thánh Phanxicô chứng tỏ rằng việc thay một cái tên Tây Ban Nha cho một cái tên bản địa, chẳng hạn như "Tepeaca" hoặc "Tepeaquilla" sẽ không có nghĩa nếu dùng cho 1 tên có nguồn gốc Nahuatl. Điều này cho thấy tên "Guadalupe" có nguồn gốc Tây Ban Nha là đúng[12].

Lịch sử

Sau cuộc xâm lược của người Tây Ban Nha kéo dài từ năm 1519-21, một đền thờ nữ thần Tonantzin tại đồi Tepeyac bên ngoài Thành phố Mexico đã bị phá hủy và một nhà nguyện dành riêng cho Đức Trinh Nữ được xây dựng nay tại đó. Các người da đỏ mới cải đạo theo Công giáo ở xa vẫn tiếp tục đến đó hành lễ và thực hiện các nghi thức thờ phượng của mình. Tuy nhiên không chắc chắn họ có gọi tên Maria giống như tên nữ thần Tonantzin hay không[13].

Một ghi chép đầu tiên nhắc đến sự tồn tại của bức vẽ là vào năm 1556, khi Tổng Giám mục Alonso de Montufar, dòng Ða Minh, giảng một bài khen ngợi lòng sùng kính Đức Mẹ Guadalupe, bày tỏ sự kính trọng với bức tranh được vẽ trong nhà nguyện tại Tepeyac, nơi phép lạ mới xảy ra. Vài ngày sau đó ông nhận được văn thư trả lời của Francisco de Bustamante, người đứng đầu các tu sĩ dòng Phanxicô và là người trông coi nhà nguyện Tepeyac, ông này bày tỏ thái độ không đồng tình trước vị Phó vương về việc Tổng Giám mục cổ vũ người dân bản địa mê tín dị đoan khi tôn thờ 1 bức tranh được vẽ bởi một họa sĩ người bản địa tên là Marcos Cipac de Aquino:

Lòng sùng kính đã được cổ vũ trong một nhà nguyện dành riêng cho Đức Mẹ, được gọi là Guadalupe, trong thành phố này là rất có hại cho người dân địa phương, bởi vì nó làm cho họ tin rằng hình ảnh này được vẽ bởi người da đỏ Marcos là trong một trường hợp thần kỳ.[14]

Ngày hôm sau, Tổng Giám mục Montufar mở một cuộc điều tra. Các tu sĩ Phanxicô nhắc lại tuyên bố của mình rằng hình ảnh khuyến khích thờ phượng ngẫu tượng và mê tín dị đoan, và làm chứng rằng nó đã được vẽ bởi "Người da đỏ tên là Marcos"[14]. Điều này đã có từ trước khi Dòng Đa Minh cho phép người Aztec kính viếng Guadalupe theo lời Tổng Giám mục. Vấn đề đã chấm dứt khi các tu sĩ dòng Phanxicô bị tước mất quyền trông coi đền thờ[15] và khung hình tilma được trưng bày trong 1 nhà thờ lớn hơn[16].

Một tài liệu đầu tiên diễn giải chi tiết hơn về hình ảnh và cuộc hiện ra là cuốn Imagen de la Virgen Maria, Madre de Dios de Guadalupe, một cuốn sách chỉ dẫn cách thờ phượng trong cộng đồng người nói tiếng Tây Ban Nha xuất bản năm 1648 bởi Miguel Sanchez, một linh mục giáo phận Mexico City[17]. Một bản văn ngắn dày 36-trang được viết bằng ngôn ngữ Nahuatl có tên là Huei tlamahuiçoltica ("sự kiện trọng đại"), đã được xuất bản vào năm 1649 bởi Luis Lasso de la Vega. Có ý kiến cho rằng tài liệu này có mối quan hệ chặt chẽ với câu chuyện về Đức Trinh nữ của Sánchez. Tài liệu này bao gồm 7 phần. Trong phần Mopohua Nican ("Ở đây nó được kể lại"), thuận lại các cuộc hiện ra và nguồn gốc siêu nhiên của hình ảnh; phần Nican motecpana ("Đây là một tài liệu theo lệnh truyền"), mô tả lại 14 phép lạ của Đức Mẹ Guadalupe, và Nican tlantica ("Ðến đây chấm dứt"), nói về việc tôn kính Đức Mẹ trong xứ Tây Ban Nha Mới[18].

Juan Diego

Sự nổi tiếng ngày càng tăng của hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe đã dẫn đến một sự quan tâm song song dành cho Juan Diego. Vào năm 1666 Giáo hội, với mục đích thiết lập một ngày lễ dành cho ông ta đã bắt đầu thu thập thông tin từ những người đã quen biết với Juan Diego. Vào năm 1723 một cuộc điều tra chính thức cuộc sống của ông được thực hiện, nhiều thông tin đã được thu thập. Năm 1987, dưới triều Giáo hoàng John Paul II, người có mối quan tâm đặc biệt với các vị thánh và người Công giáo ngoài châu Âu, đã thành công trong việc đề nghị Bộ phong thánh suy tôn Juan Diego lên hàng đáng kính. Vào ngày 06 Tháng 5 năm 1990, ông được phong chân phước bởi chính Joh Paul II trong Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ Guadalupe ở thành phố Mexico và được tuyên bố "là người bảo vệ và bênh vực của các dân tộc bản địa", với ngày lễ kính là ngày 09 tháng 12.

Thời điểm này, các sử gia và các nhà thần học đã bắt đầu đặt câu hỏi về mức độ tin cậy trong các bằng chứng về Juan Diego. Không có bất cứ dòng nào đề cập đến Juan hay sự việc kỳ lạ mà anh ta gặp trong các tác phẩm của Giám mục Zumárraga dòng Phanxicô, mặc dù trong bản viết tay của ông có nói đến bức vẽ kỳ lạ. Trong các bản ghi của cuộc điều tra mà Giáo hội tiến hành năm 1556 cũng bỏ qua những thông tin về người này. Và cũng không phải bất cứ một tài liệu nào khác nói đền sự tồn tại của 1 người tên là Juan Diego cho đến giữa thế kỷ 17.

Những nghi ngờ trên thực tế không phải mới được nêu ra. Ngay từ năm 1883 Joaquín García Icazbalceta, sử gia và người viết tiểu sử của Zumárraga, trong một văn bản mật về Đức Mẹ Guadalupe gửi cho Giám mục Labastida, đã rất do dự khi chứng minh các câu chuyện về cuộc hiện ra và nói kết luận của ông rằng hoàn toàn không có một người đàn ông[19]. Gần đây nhất là năm 1996, Giám đốc của Vương cung thánh đường Guadalupe, Guillermo Schulenburg, ở tuổi 83 tuổi và sau 33 năm phục vụ đã buộc phải từ chức sau một cuộc phỏng vấn với tạp chí Công giáo Ixthus, khi ông nói rằng Juan Diego là "một biểu tượng chứ không phải là một thực tế"[20]. Sau đó ông còn viết thư cho Giáo hoàng Gioan Phaolô II khuyên ngài đừng phong thánh cho Juan Diego vì cho rằng không có đủ chứng cớ rõ ràng về cuộc đời vị này. Theo Schulenburg, huyền thoại Juan Diego được dựng lên để an ủi người thổ dân da đỏ mà địa vị kinh tế và xã hội trong thế kỷ 16 thấp hơn so với người Mexico da trắng, có tổ tiên là người Tây Ban Nha [21].

 

Năm 1995, trong quá trình tiến hành phong thánh cho Juan Diego, Xavier Escalada, một linh mục dòng Tên đang viết một bách khoa thư về huyền thoại Guadalupe, đã cho công bố 1 tấm giấy bằng da (Codex Escalada) với những hình vẽ minh họa cuộc đời của Juan Diego và biến cố gặp gỡ Đức Trinh Nữ trong hào quang ánh sáng. Tài liệu quan trọng này đã được vẽ trong khoảng năm 1548, thời điểm mà những nhân chứng có thể đã biết đến Juan Diego. Đồng thời nó mang chữ ký của 2 học giả nổi tiếng ở thế kỷ 16 là linh mục Antonio Valeriano và Bernardino de Sahagun. Do đó nội dung của nó được xem là đáng tin cậy[22].

Tuy vậy một số học giả vẫn còn hoài nghi, mô tả hình ảnh trên cuộn giấy da "giống với hình ảnh Thánh Phaolô gặp Chúa Kitô trên đường Damascus, được vẽ bởi Thánh Luca và chữ ký của St Peter hơn là mô tả về Juan Diego"[23]. Linh mục Fidel Gonzalez, một thành viên trong ủy ban Toà Thánh có nhiệm vụ tìm hiểu về cuộc đời của Thánh Juan Diego đã kết luận là không thể phủ nhận Juan Diego là nhân vật có thật. Cuối cùng, các Giám mục Mexico cho hay, Toà Thánh xác nhận 1 phép lạ đã xảy ra qua lời cầu bàu của Thánh Juan Diego khiến cho một thanh niên người Mexico đã được chữa lành sau khi sọ bị vỡ vì lao mình từ một cái tháp cao dưới ảnh hưởng của bia rượu[21]. Năm 2002, Gioan Phaolô II, trong chuyến thăm Ðền Thánh Guadalupe lần thứ năm, đã cử hành Lễ Phong Thánh cho Juan Diego.


Phân tích bức ảnh

 

Tấm vải thô và hình ảnh đã được tiến hành phân tích nhiều lần bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện có. Có ít nhất 4 cuộc khảo sát đã được tiến hành trong khoảng 1751,1952 – 1982. Ba trong số đó đã được xuất bản thành sách.

 

Năm 1756, họa sĩ nổi tiếng Miguel Cabrera xuất bản tác phẩm nghiên cứu của mình trong cuốn sách "American Marvel". Bao gồm kết quả phân tích đôi mắt và các khảo sát thông thường khác của ông và 6 họa sĩ khác[24].

 

Năm 1929, Một tài liệu chú dẫn về hình ảnh chiếc đầu của một người đàn ông phản chiếu trong mắt phải của Ðức Trinh Nữ được công bố bởi nhà nhiếp ảnh Alfonso Marcue. Năm 1951, Carlos Salinas tiến hành xét nghiệm bức tượng ảnh và đưa ra hình ảnh một chiếc đầu của một người đàn ông phản chiếu trong mắt phải của Ðức trinh Nữ[25]. Năm 1956, Tiến sĩ Torroela-Bueno, một bác sĩ về nhãn khoa, xét nghiệm con mắt của Ðức Trinh Nữ trong bức ảnh.

 

Năm 1958, Tiến sĩ Rafael Torija-Lavoignet cho xuất bản tác phẩm nghiên cứu của ông, cuốn Purkinje-Sanson, được trình bày để nói về Bức Tượng Ảnh Ðức Bà Guadalupe. Năm 1962, Tiến sĩ Charles Wahig, O.D. tuyên bố sự khám phá của ông về hình ảnh phản chiếu trong mắt của Ðức Trinh Nữ khi nghiên cứu bức Tượng Ảnh với độ phóng lớn lên gấp 25 lần. Năm 1975, người ta đã cho gỡ khung kính ra để Tiến sĩ Enrique Grave, một bác sĩ nhãn khoa khác, có thể nghiên cứu kỹ hơn về bức vẽ [26].

 

Năm 1979, Tiến sĩ sinh lý học và côn trùng học USDA, Philip Serna Callahan đã chụp ra 40 bức hình của bức ảnh bằng tia hồng ngoại tuyến. Các bức ảnh và phát hiện của ông đã được xuất bản thành sách vào năm 1981[27]. Trong tác phẩm này, kết luận rằng bức vẽ nguyên thủy không có bản vẽ dưới, không có bản phác thảo hay bất kỳ nét cọ nào[28].

 

Cũng trong năm này, Tiến sĩ, bác sĩ nhãn khoa Jose Aste-Tonsmann dùng kỹ thuật phân tích sophisticate và nghệ thuật nhiếp ảnh digital để lấy ảnh cả hai mắt đã tuyên bố đã tìm thấy có ít nhất bốn hình ảnh của con người hiện ra trong cả hai mắt của Ðức Trinh Nữ. Khi phóng đại hình ảnh con mắt lên gấp 2500 lần, khẳng định sự có mặt của một nhóm người gồm 1 người đàn ông, người đàn bà và nhóm trẻ em. Tất cả là 14 người được lưu lại trong đồng tử của con mắt tương tự như bản chụp con mắt bình thường khi xảy ra "phép lạ" [29].

 

Năm 2002, José Antonio Flores Gómez, một nhà phục chế mỹ thuật, trong cuộc phỏng vấn với tạp chí Proceso Mexico đã đưa ra một số vấn đề kỹ thuật của mảnh vải mà ông đã tiến hành nghiên cứu trong các năm 1947 và 1973[30]. Bức vẽ chưa từng được sơn phủ.

 

Cuốn "Proceso" cũng được xuất bản vào năm 2002 ghi lại cuộc phỏng vấn với José Sol Rosales, trước đây là giám đốc Trung tâm Bảo tồn và Thống kê cổ vật nhân tạo (Patrimonio Artístico Mueble) của Viện Mỹ thuật (Inba) tại thành phố Mexico. Cuộc phỏng vấn này được trích dẫn từ một báo cáo mà Rosales đã viết vào năm 1982 trình bày những phát hiện của ông khi thực hiện quá trình kiểm tra tấm vải bằng ánh sáng tia cực tím - ở độ phóng đại thấp – dưới kính hiển vi âm thanh stereo, loại vẫn được sử dụng cho phẫu thuật để tạo nên không gian ba chiều của mẫu vật. Trong tác phẩm này đã khẳng định màu sắc và độ sáng của bức vẽ rất đặc biệt[31].

 

Những người công giáo có nhiều cơ sở cho niềm tin vào sự siêu nhiên và tính chất kỳ diệu của bức ảnh. Trong gần 500 năm tồn tại kể từ khi "phép lạ" xảy ra, tấm vải vẫn tồn tại mà không bị mục nát. Trong khi một bản sao được làm trên chất liệu tương tự chỉ giữ được khoảng 15 năm[32]. Năm 1971, sự cố tràn dung dịch axit amoniac lên phần trên và bên phải bức vẽ. Mặc dù không được sửa chữa nó đã tự phục hồi như cũ[33]. Năm 1921, một trái bom đã nổ ngay dưới chân bức vẽ khiến nhiều đồ vật bị phá hủy nhưng bức vẽ lại không bị hư hại gì. Các ngôi sao xuất hiện trên tà áo Đức Maria trùng với bản đồ sao xuất hiện trên bầu trời Mêxicô hôm xảy ra phép lạ.

 

Nhiều trang web Công giáo dẫn chứng (mặc dù không dẫn nguồn) vào năm 1936[34], Friz Hahn, giáo sư ở Mexico, lấy hai sợi chỉ từ tấm vải gửi cho Tiến sĩ Richard Kuhn, Khoa trưởng Phân khoa Hóa học Ðại Học Kaiser Wilhelm, sau khi nghiên cứu cùng với các giáo sư của phân khoa đã đi đến kết luận là màu sắc của các sợi chỉ không nằm trong danh sách những màu sắc mà họ đã nghiên cứu và hiểu biết[29].

Trong Giáo hội Công giáo

Năm 1555, trong một buổi họp Hội Ðồng, Tổng Giám mục thứ hai của Mexicô, Alonso de Montufar đã hoàn thành hồ sơ gián tiếp công nhận sự lạ Ðức Mẹ hiện ra. Liền năm sau đó, ông cho xây dựng thánh đường tôn kính Đức Mẹ tại đây và hoàn thành vào năm 1567.

Ngày 25 tháng 5 năm 1754,Giáo hoàng Biển Đức XIV chấp thuận Đức Mẹ Guadalupe là Thánh Quan Thầy của Tân Tây Ban Nha và cho phép cử hành lễ kính vào ngày 12 Tháng 12.

Năm 1910, Giáo hoàng Piô X công bố Ðức Mẹ Guadalupe là Quan Thầy của châu Mỹ Latinh. Năm 1935, Piô XI đặt Ðức Trinh Nữ Guadalupe làm quan thầy của Philippines[5][35][36]. Năm 1945, Piô XII tuyên bố rằng Ðức Trinh Nữ Guadalupe là "Nữ hoàng của Mixicô và của toàn lãnh thổ Mỹ Châu" và nhấn mạnh: Tượng Ảnh Ðức Mẹ đã được vẽ lại "qua ngòi bút linh ứng chứ không phải bởi thế giới này". Năm 1946, ông tuyên bố Ðức Bà Guadalupe là quan thầy của Mỹ Châu.

 

Năm 1961, Giáo hoàng Gioan XXIII cầu nguyện cùng Ðức Bà Guadalupe là Quan Thầy của Mỹ Châu. Ông diễn tả Ðức Bà Guadalupe là người Mẹ và là người Thầy Ðức Tin của tất cả người dân châu Mỹ. Năm 1966, Phaolô VI gửi tới Ðền Thánh Ðức Bà Guadalupe một Bông Hoa Hồng bằng vàng[37]. Năm 1979, Gioan Phaolô II gọi Ðức Bà Guadalupe là "Ngôi Sao dẫn đường Truyền giáo", ngài quỳ trước Tượng Mẹ, cầu xin Mẹ giúp đỡ và gọi Ðức Bà là Mẹ của Mỹ Châu.

 

Ngày 12 tháng 12 là ngày lễ kính Ðức Mẹ Guadalupe theo lịch phụng vụ theo quy định cho tất cả các địa phận ở Hoa Kỳ vào năm 1988. Vào năm 1999, Gioan Phaolô II, trong chuyến viếng thăm Ðền Thánh lần thứ 3, công bố ngày 12 tháng 12 là ngày Lễ kính Ðức Mẹ Guadalupe theo lịch phụng vụ cho cả toàn châu Mỹ.

 

 

 

 

 

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ - GIẢNG LỄ ĐỨC MẸ GUADALUPE

 

TẠI ĐỀN THỜ THÁNH PHÊRÔ CHIỀU NGÀY 12/12/2016

 

 

captura-de-pantalla-2016-12-12-a-las-18-27-46-740x466

 

 

"Việc nhìn lên Đức Mẹ Guadalupe là để nhớ lại rằng cuộc viếng thăm của Chúa bao giờ cũng nhờ ở những ai làm cho Lời Ngài 'hóa thành nhục thể', thành phần tìm cách hiện thực sự sống của Thiên Chúa nơi bản thân mình, trở thành những dấu hiệu sống động của lòng thương xót Ngài".

"Phúc cho em là kẻ đã tin": bằng những lời này, Bà Isave đã xức dầu cho sự hiện diện của Đức Maria nơi nhà của bà. Những lời xuất phát từ lòng dạ của bà, từ bên trong; những lời âm vang tất cả những gì bà cảm nghiệm thấy từ cuộc thăm viếng của người chị em họ hàng: "Khi tôi vừa nghe thấy tiếng em  chào thì thai nhi trong lòng tôi hân hoan nhẩy mừng. Phúc cho em là người đã tin tưởng".

Thiên Chúa thăm viếng chúng ta ở trong bụng dạ của một người phụ nữ, chuyển động bụng dạ của người phụ nữ kia bằng một bài ca ngợi khen chúc tụng, một bài ca hân hoan vui mừng. Cảnh tượng của bài Phúc Âm cho thấy tất cả những gì là sinh động của việc Thiên Chúa viếng thăm, đó là lúc Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta thì Ngài tác động nội tâm của chúng ta, Ngài bắt đầu lay chuyển những gì chúng ta là, cho đến khi tất cả đời sống của chúng ta được biến đổi thành lời chúc tụng và ngợi khen. Khi Thiên Chúa viếng thăm chúng ta thì Ngài khiến chúng ta cảm thấy xốn sang bồn chồn, bằng một thứ xốn sang bồn chồn của những ai cảm thấy họ đã được mời gọi để loan báo những gì Ngài sống và là Đấng ở giữa dân Ngài. Đó là những gì chúng ta thấy nơi Đức Maria, người môn đệ tiên khởi và là vị thừa sai đầu tiên, một Hòm Bia mới của Giao Ước, Đấng không muốn lưu lại ở một nơi được giành cho mình trong các đền thờ của chúng ta, nhưng lên đường thăm viếng và hỗ trợ vào thời kỳ thai nhi Gioan đang được thai nghén bằng sự hiện diện của mình. Người đã làm như thế vào năm 1531, ở chỗ Người đã đến Tepeyac để phục vụ và hỗ trợ thành phần Dân đang được thai nghén đớn đau này, để trở thành Mẹ của họ và là Mẹ của tất cả mọi dân tộc. 

Cùng với bà Isave, hôm nay đây, cả chúng ta nữa muốn xức dầu cho Người và chào Người bằng lời: "Phúc cho Người là Đấng đã tin", và tiếp tục tin tưởng "những gì Chúa đã phán cùng Người sẽ được nên trọn". Thế nên Đức Maria là biểu tượng của người môn đệ, của người nữ tin tưởng và nguyện cầu, vị biết cách để hỗ trợ và phấn khích đức tin của chúng ta và niềm hy vọng của chúng ta ở những giai đoạn đặc biệt chúng ta cần phải trải qua. Nơi Đức Maria, chúng ta thấy một phản ảnh trung thực không phải là một thứ đức tin thi ca ngọt ngào, mà là một đức tin mạnh mẽ, nhất là trong lúc những say mê ngọt ngào về các sự vật bị tan vỡ và lại xẩy ra khắp mọi nơi những thứ mâu thuẫn đầy xung khắc. 

Chắc chắn chúng ta cần phải học từ đức tin mạnh mẽ và hữu ích ấy là một đức tin đã từng biểu hiệu và đang biểu hiệu Người Mẹ của chúng ta; cần phải học từ đức tin này làm sao để đi vào bên trong lịch sử mà làm muối và ánh sáng trong đời sống của chúng ta cũng như trong xã hội của chúng ta.  Xã hội chúng ta đang xây đắp cho con cái của chúng ta càng ngày càng hiện lên những dấu hiệu chia rẽ và phân mảnh, đẩy nhiều con người vào hậu trường, nhất là những ai đang gặp khó khăn để có được những gì là tối thiểu cho một cuộc sống xứng đáng. Một xã hội muốn tỏ ra khoe khoang khoác lác về những tiến bộ khoa học và kỹ thuật mà lại mù quáng và vô cảm trước hằng ngàn ngàn những gương mặt trải dài dọc con đường tiến bộ ấy, bị loại trừ bởi cái kiêu hãnh mù quáng của một thiểu số. Một xã hội cuối cùng tiến đến chỗ thiết lập một thứ văn hóa vỡ mộng, một thứ văn hóa giải mê và một thứ văn hóa thua bại nơi nhiều người anh em của chúng ta, thậm chí sấu khổ nơi nhiều người khác vì họ cảm thấy những khó khăn họ cần phải đối diện để khỏi bị lạc lối.

Chúng ta, dù không nhận ra, dường như trở nên quen thuộc với lối sống trong môt xã hội ngờ vực, với tất cả những gì được xã hội này phỏng định cho hiện tại của chúng ta nhất là cho tương lai của chúng ta; nỗi ngờ vực dần dần phát sinh ra tình trạng ơ hờ lãnh đạm và phân tán.

Khó khăn biết bao để hãnh diện về cái xã hội phúc hạnh này của chúng ta khi chúng ta thấy rằng lục địa Mỹ Châu thân yêu của chúng ta đã trở nên quen thuộc với việc nhìn thấy hằng ngàn ngàn trẻ em và giới trẻ trên đường phố, ăn xin và nằm ngủ ở các trạm xe lửa, trong hầm xe điện ngầm hay bất cứ ở nơi nào có chỗ. Trẻ em và giới trẻ bị khai thác làm việc bất hợp pháp hay bị đẩy đi tìm kiếm một ít đồng bạc cắc ở các giao lộ, bằng cách lau chùi kính xe của chúng ta... và họ cảm thấy rằng họ không có chỗ trên 'chuyến xe lửa cuộc đời - train of life'. Biết bao nhiêu là gia đình đang hằn lên thương đau khi nhìn thấy con cái của mình trở thành nạn nhân của những tay buôn tử thần. Khó khăn biết bao khi thấy cách thức chúng ta bình thường hóa việc loại trừ đi những vị lão thành của chúng ta, mặc họ sống lẻ loi cô độc, chỉ vì họ không còn sản xuất được nữa, hay thấy, như các vị giám mục ở Aparecida quá biết, "tình trạng bấp bênh đang ảnh hưởng tới phẩm giá của nhiều phụ nữ. Một số trong họ, ngay từ hồi còn nhỏ hay thanh thiếu niên, đã chịu rất nhiều hình thức bạo lực cả trong lẫn ngoài nhà của họ". Chúng là những trường hợp có thể làm cho chúng ta thành bại liệt, có thể gây ngờ vực cho đức tin của chúng ta và nhất là cho niềm hy vọng cậy trông của chúng ta, cho cách nhìn về tương lai và đối diện với tương lai.

Trước tất cả những hoàn cảnh đó, chúng ta cần phải cùng với bà Isave nói rằng "Phúc cho em là người đã tin tưởng", và học từ đức tin mãnh liệt và hữu ích này là những gì đã trở thành biệu hiệu và đang là biểu hiệu cho Người Mẹ chúng ta.

Việc cử hành mừng Mẹ Maria, trước hết và trên hết, là việc tưởng nhớ đến Người Mẹ này, là nhớ rằng chúng ta không và sẽ không bao giờ là một thành phần dân mồ côi. Chúng ta có một Người Mẹ! Và đâu có người mẹ này thì ở đấy bao giờ cũng có sự hiện diện và hương vị gia đình. Đâu có người mẹ này thì anh em có thể đánh nhau nhưng cảm quan hiệp nhất bao giờ cũng sẽ thắng vượt. Đâu có người mẹ này thì cuộc tranh đấu cho tình huynh đệ sẽ không bao giờ bị thiếu vắng. Tôi luôn bị ấn tượng khi thấy, nơi các dân tộc khác nhau ở Châu Mỹ Latinh, những người mẹ tranh đấu này, những người mẹ, thường một mình, đảm đang nuôi con cái khôn lớn. Đó là Đức Maria với chúng ta, với con cái của Mẹ: một người nữ đang chiến đấu chống lại thuú xã hội của nỗi ngờ vực và mù tối, một xã hội thờ ơ lãnh đạm và phân tán; một người nữ đang chiến đấu để củng cố niềm vui Phúc Âm, đang chiến đấu để cống hiến "nhục thể" cho Phúc Âm.

Việc nhìn lên Đức Mẹ Guadalupe là để nhớ lại rằng cuộc viếng thăm của Chúa bao giờ cũng nhờ ở những ai làm cho Lời Ngài "hóa thành nhục thể", thành phần tìm cách hiện thực sự sống của Thiên Chúa nơi bản thân mình, trở thành những dấu hiệu sống động của lòng thương xót Ngài.

Việc cử hành tưởng nhớ Đức Maria cũng khẳng định trước tất cả những gì là khác biệt éo le rằng "nơi tâm can và đời sống của các dân tộc chúng ta vẫn đang có một cảm quan mãnh liệt về niềm hy vọng cậy trông, bất chấp các điều kiện sống dường như che khuất tất cả mọi niềm hy vọng cậy trông".

Mẹ Maria, vì Mẹ đã tin tưởng, đã mến yêu; vì Mẹ là nữ tỳ của Chúa và là tôi tớ của anh em Mẹ. Việc cử hành tưởng nhớ Mẹ Maria là cử hành ở chỗ chúng ta, như Mẹ, được mời gọi để ra đi gặp gỡ những người khác bằng cùng một cái nhìn, bằng cùng một lòng thương xót sâu xa, bằng các cử chỉ tương tự. Việc chiêm ngưỡng Mẹ đó là việc cảm thấy lời mời gọi mãnh liệt noi gương bắt chước đức tin của Mẹ. Sự hiện diện của Mẹ dẫn chúng ta đến chỗ hòa giải, cống hiến cho chúng ta sức mạnh để kiến tạo nên những mối liên hệ nơi mảnh đất Mỹ Châu Latinh diễm phúc của chúng ta, bằng cách "đồng thuận" với sự sống và "bất thuận" với tất cả những thứ lãnh đạm, loại trừ hay phủ nhận các dân tộc và con người. Chúng ta đừng sợ ra đi tìm kiếm người khác bằng cùng một ánh mắt. Một ánh mắt làm cho chúng ta thành anh em. Chúng ta làm thế là vì, như Juan Diego, chúng ta biết rằng ở đây có Mẹ của chúng ta, chúng ta biết rằng chúng ta đang nấp dưới bóng của Mẹ và sự bảo vệ bao che của Mẹ, nguồn mạch niềm vui của chúng ta, và chúng ta đang ở trong vòng tay của Mẹ.

https://zenit.org/articles/popes-homily-for-feast-of-our-lady-of-guadalupe/
Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch.

 

Francis with OL of Guadalupe

 

 



 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Xp 3, 1-2. 9-13

"Chúa hứa ban ơn cứu độ cho những người nghèo khó".

Trích sách tiên tri Xôphônia.

Chúa phán: Khốn cho thành phản nghịch và ô uế, cho thành làm sự hung bạo. Nó không nghe lời, không chịu sửa dạy, không tin tưởng vào Thiên Chúa, không đến gần Chúa mình.

Bấy giờ Ta sẽ cho dân Ta môi miệng thanh sạch để mọi người kêu cầu danh Chúa và nhất tâm phụng sự Người. Từ phía bên kia các sông xứ Ethiôpi, con cái những kẻ tha hương kêu cầu Ta, đem lễ vật đến dâng cho Ta.

Ngày đó, ngươi sẽ không còn phải xấu hổ vì các lỗi lầm của ngươi đã phạm đến Ta. Vì Ta sẽ cất xa khỏi ngươi những kẻ chiến thắng kiêu căng và từ đây, ngươi sẽ mãi mãi được vinh quang trên núi thánh Ta. Ta sẽ để lại giữa ngươi một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại sẽ không làm điều gian ác, không nói dối, người ta không thấy chúng nói lời phỉnh gạt. Chúng sẽ như đàn chiên ăn cỏ và nghỉ ngơi, và sẽ không ai làm phiền chúng.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 6-7. 17-18. 19 và 23

Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Ngài. Trong Chúa, linh hồn tôi hãnh diện. Bạn nghèo hãy nghe và hãy vui mừng. - Ðáp.

2) Hãy nhìn về Chúa, để các bạn sẽ vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Ngài đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.

3) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.

4) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương tan nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Này đây Chúa đến để cứu dân Người; hạnh phúc thay những ai sẵn sàng đón rước Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 21, 28-32

"Gioan đến và những kẻ tội lỗi tin ngài".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn cho cha!" Nó thưa lại rằng: "Con không đi". Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: "Thưa cha, vâng, con đi". Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất". Chúa Giêsu bảo họ: "Quả thật, Ta bảo các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài".

Ðó là lời Chúa.

 

 


Suy niệm


 

nhập thể nhận thức    


Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Mùa Vọng trong Tuần Thứ Ba hôm nay, tiếp theo ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua, vẫn liên quan đến Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả và vẫn với thành phần lãnh đạo dân do Thái.

 

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu mới đặt vấn đề với thành phần lãnh đạo trong dân này, như để gợi ý cho họ suy nghĩ, một thành phần trả lời lập lửng nửa vời như chối từ sự thật được Người gợi lên trong câu trả lời mang tính cách chất vấn của Người, và chính câu trả lời "chúng tôi không biết" của họ đã cho thấy niềm tin của họ tới đâu và ra sao.

Bởi thế không lạ gị Chúa Giêsu đã phải sử dụng đến một dụ ngôn nữa ám chỉ về chính họ, hy vọng họ sẽ không còn chạy quanh chối cãi về tình trạng quanh quéo giả hình của họ nữa, đó là dụ ngôn 2 người con trước ý muốn của người cha mong đứa nào của ông cũng đi làm vườn nho cho ông. 

"Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: 'Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn cho cha!' Nó thưa lại rằng: 'Con không đi'. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: 'Thưa cha, vâng, con đi'. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?'" 

Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua câu vừa trả lời vừa chất vấn của Chúa Giêsu với thành phần lãnh đạo trong dân chúng này liên quan đến phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã gián tiếp trả lời cho họ về thẩm quyền của Người được họ hạch hỏi Người họ không muốn trả lời, thì trong bài Phúc Âm hôm nay họ đã mắc bẫy Người khi lắng nghe dụ ngôn về 2 người con được cha sai đi làm vườn nho cho cha mình: "Họ đáp: 'Người con thứ nhất'". 

   Thấy họ đã rơi vào bẫy sự thật để nhờ đó sự thật mới có thể giải phóng họ (xem Gioan 8:32), "Chúa Giêsu bảo họ: 'Quả thật, Tôi bảo các ông hay, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài'".

   Ở đây, Chúa Giêsu như nhắc nhở thành phần lãnh đạo dân Do Thái này về hiện tượng Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã được chính Thánh ký Mathêu của bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ở phần đầu Phúc Âm của ngài, liên quan đến chung dân chúng, trong đó bao gồm cả "những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài" cũng như chính thành phần lãnh đạo này như sau:

   "Hồi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: 'Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần'. Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối...".

Căn cứ vào câu trả lời của thành phần lãnh đạo dân Do Thái cũng như vào câu xác nhận của Chúa Giêsu về câu trả lời đúng thật của họ, thì người con thứ nhất trong dụ ngôn hai người con được cha sai đi làm vườn nho cho ông là "những người thu thuế và gái điếm" (còn có thể bao gồm cả dân ngoại vốn bị chung dân Do Thái cho là tội lỗi - đồ bỏ), và người con thứ ám chỉ thành phần lãnh đạo dân Do Thái (bao gồm cả đa số thành phần biệt phái và luật sĩ giả hình đã bị Chúa Giêsu thậm tệ quở trách cho mà mở mắt ra - xem Mathêu nguyên đoạn 23)
Tuy Thánh ký Mathêu trong bài Phúc Âm hôm nay không cho biết phản ứng của thành phần lãnh đạo dân Do Thái khi bị Chúa Giêsu ghép cho họ là hạng người con thứ có vẻ làm theo ý cha của mình nơi việc giữ kỹ lề luật nhưng thật ra chỉ là giả hình, không theo tinh thần của lề luật, không đúng như ý cha mong muốn, nhưng khi họ nghe xong dụ ngôn thứ hai về thành phần tá điền gian ác bất trung ngay sau đó (xem Mathêu 21:33-44), họ mới thật sự có thái độ về cả 2 dụ ngôn như thế này: "Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ" (câu 45-46). Có nghĩa là họ vẫn mù quáng và cứng lòng!
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa cũng đã dùng miệng Tiên Tri Xôphônia để nói trước về dụ ngôn 2 người con được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay. 
Trước hết, về người con thứ mù quáng bất tuân: "Khốn cho thành phản nghịch và ô uế, cho thành làm sự hung bạo. Nó không nghe lời, không chịu sửa dạy, không tin tưởng vào Thiên Chúa, không đến gần Chúa mình". Sau đó về người con trưởng: "Bấy giờ Ta sẽ cho dân Ta môi miệng thanh sạch để mọi người kêu cầu danh Chúa và nhất tâm phụng sự Người. Từ phía bên kia các sông xứ Ethiôpi, con cái những kẻ tha hương kêu cầu Ta, đem lễ vật đến dâng cho Ta".
Bài Đọc 1 hôm nay còn cho thấy một Vị Thiên Chúa cứu độ qua Chúa Kitô là "Con Người đến để tìm kiếm và cứu với những gì hư hoại" (Luca 19:10)  những ai thuộc thành phần người con trưởng hoang đàng nhưng biết thống hối trở về với Ngài, "một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại" như sau:

"Ngày đó, ngươi sẽ không còn phải xấu hổ vì các lỗi lầm của ngươi đã phạm đến Ta. Vì Ta sẽ cất xa khỏi ngươi những kẻ chiến thắng kiêu căng và từ đây, ngươi sẽ mãi mãi được vinh quang trên núi thánh Ta. Ta sẽ để lại giữa ngươi một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại sẽ không làm điều gian ác, không nói dối, người ta không thấy chúng nói lời phỉnh gạt. Chúng sẽ như đàn chiên ăn cỏ và nghỉ ngơi, và sẽ không ai làm phiền chúng".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa tâm tình hân hoan vui sướng của những con người cảm nghiệm thần linh về một Vị Thiên Chúa cứu độ của mình như sau:

1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Ngài. Trong Chúa, linh hồn tôi hãnh diện. Bạn nghèo hãy nghe và hãy vui mừng.

2) Hãy nhìn về Chúa, để các bạn sẽ vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Ngài đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. 

3) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. 

4) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương tan nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. 

 

  


THÁNH LUCIA

13/12

A. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

 

Lucia sinh ra tại Syracusas ở đảo Sicilia thuộc nước Ý. Cô mồ côi cha ngay từ khi còn bé. Cô đã theo đạo ngay từ nhỏ, và đã được giáo dục đức tin vào Chúa thật chu đáo. Cô cũng đã có ước nguyện dành trọn của đời của mình để thờ phụng Chúa.

 

Cuộc sống tưởng sẽ êm đềm trôi, ai dè khi vừa tới tuổi trưởng thành  thì một sự việc đã xảy ra ngoài ý muốn của cô. Mẹ của cô, một người gốc Hy Lạp tên là Eutychia đã ép buộc cô phải lập gia đình với một chàng thanh niên giàu có của một gia đình quen biết theo tập tục thời bây giờ, bất chấp sự thoả thuận của đôi nam nữ này.

 

Rất may một biến cố bất ngờ xảy ra trong gia đình giúp Lucia "thoát nạn". Bà mẹ của cô bị một cơn bệnh "thập tử nhất sinh" nhưng cuối cùng bà đã qua khỏi. Lucia cho rằng bà được khỏi là do phép lạ của Chúa, do việc cầu nguyện của cô. Chính sự việc này đã khiến bà đổi ý không còn bắt Lucia phải kết hôn nữa. Từ đó Lucia thêm phần tin tưởng vào Chúa. Cô bán tất cả phần gia tài mình có rồi phân phát cho kẻ nghèo khó.

 

Sự việc tưởng như thế là xong nhưng có dè đâu chàng thanh niên bị từ chối kết hôn vẫn còn say mê Lucia. Vì bị từ chối kết hôn, anh ta cảm thấy cay cú nên đã tố cáo Lucia với Hoàng đế Roma là Ðiôclêtianô lúc đó. Ông vua này vốn là một người không có cảm tình gì với người Kitô hữu. Ngược lại còn căm ghét những người có đạo một cách điên cuồng. Lucia bị bắt và bị giam cầm chỉ vì cô là người có đạo và  hiện đang theo đạo.

 

Lính tráng đã giải cô đến trước mặt vị quan Paschase. Paschase đã dụ dỗ cô dâng hương tế thần nhưng cô không đồng ý, sau đó ông này âm mưu muốn hủy hoại đời trinh tiết của Lucia bằng cách để cho số thanh niên đâm đãng làm nhục cô cho đến chết. Nhưng tình thương của Chúa thật nhiệm màu. Chúa đã làm phép lạ gìn giữ Lucia làm cho thân xác Lucia hoá ra nặng như đá nên không kẻ nào có thế làm hại được nàng.

 

Sau đó với sự nóng giận của một người thua cuộc, quan Paschase đã đã cho quân lính tẩm dầu vào thân xác Lucia và đốt cháy cho đến chết. Lucia đã hy sinh ví Chúa 304.

 

B. LÒNG CAN ĐẢM CỦA MỘT CHỨNG NHÂN

 

Lucia bị bắt. Người ta điệu người ra trước mặt quan Paschase. Quan khuyên người bỏ đạo, Lucia đáp:

 

 - Thưa quan, tôi chỉ kính thờ một Thiên Chúa chân thật mà thôi. Vì yêu mến Người trên hết mọi sự, nên tôi đã phân phát gia tài tôi cho người nghèo, bây giờ còn chính mạng sống tôi đây, tôi sẵn sàng tận hiến để làm lễ vật tiến dâng Người.

- Cô hãy nói thế cho người có đạo nghe. Ở đây tôi chỉ biết vâng  lệnh hoàng đế Rôma thôi.

- Quan biết vâng phục mệnh lệnh vua chúa dưới đất thì tôi càng phải vâng giữ giới răn của Thiên Chúa trên trời. Ngài muốn làm gì tôi thì làm, tôi chỉ một mực trung thành với Chúa tôi thờ mà thôi.

- Chúa bà gì cô? Người ta tố cáo với tôi là cô đã phung phá sản nghiệp ông cha để lại cho tình nhân.

- Phải, tôi chỉ có một tình nhân mà tôi say mến, và vị đó chính là Chúa Giêsu Kitô.

- Ta truyền lệnh đánh đòn cô, xem cô còn nói hay được mãi hay không .

- Thưa quan, lời hay lẽ phải tôi chẳng lo thiếu. Vì chính Chúa Thánh Thần dùng miệng tôi mà nói, chứ không phải tôi nói đâu.

- Vậy trong cô có Chúa Thánh Thần ư ?

- Vâng, ai sống đạo đức và khiết trinh thì người ấy là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự.

- Được rồi. Ta sẽ giam cô vào một nhà chứa và những thanh niên xấu nết trong thành làm ô uế cô, như thế chắc Chúa Thánh Thần sẽ bỏ cô.

- Thưa quan, nếu bị cưỡng ép mà người ta xúc phạm đến thân xác tôi, thì linh hồn tôi vẫn còn thánh thiện. Sức mạnh của cánh tay loài người không thể phá nổi đền thờ thiêng liêng của

 

Thiên Chúa đâu. Nếu người ta hãm hiếp trái ý muốn của tôi thì tôi sẽ đẹp gấp đôi.

Nghe những lời đối đáp cứng rắn của một thiếu nữ như thế ông Paschase tức giận điên lên, liền hạ lệnh cho lính lôi Lucia đến một nhà chứa và cho phép mọi thanh niên được  tự do ra vào.

 

Nhưng lạ thay, Thiên Chúa đã làm cho thánh nữ hoá nặng như núi đá: dù quan đã phải huy động một số lính lực lưỡng khoẻ mạnh thậm chí còn dùng cả những cặp bò khoẻ mạnh để kéo, nhưng cũng chẳng động một ly. Trước phép lạ nhãn tiền như thế, ông Paschase đỏ mặt xấu hổ đến tột cùng. Không những ông đã không mở mắt ra để nhìn nhận quyền phép của Thiên Chúa mà lại còn căm hờn hơn để báo thù. Ông ra lệnh lấy nhựa và dầu trét kín thân thể Lucia rồi đốt. Nhưng một lần nữa Thiên Chúa đã dùng quyền phép giữ gìn Người trọn vẹn trong đống lửa: dù một sợi tóc cũng không bỉ cháy. Sau cùng lính phải dùng gươm mà chém đầu Lucia. Hôm ấy là ngày 13.12. 304.

 

Theo lời kể của Sigebert (1030-1112) một tu sĩ ở Genbloux trong sách "Sermo de Sancta Lucia" thì thi hài của Lucia được an táng tại Sicilia hơn 400 năm, cho đến khi Quận công Spoleto chiếm được đảo và cho di chuyển Thánh tích về Corfinium ở Ý. Năm 972, Thánh tích lại được dời chuyển một lần nữa bởi hoàng đế Otho I về nhà thờ Thánh Vincent tại Metz. Một cánh tay của Thánh nữ được cắt ra cho tu viện Luitburg thuộc giáo phận Spires. Một phần Thánh tích của Thánh nữ Lucia được tìm thấy tại Constantinopolis năm 1204 và chuyển về tu viện Thánh Geremia. Thánh tích được an vị tại đây hơn 777 năm.

 

Sau đó ngày 07 tháng 11 năm 1981, hai tên trộm người Sicilia đập vỡ hòm kiếng lấy hài cốt của Thánh nữ đem đi chỉ còn chừa lại xương sọ và mặt nạ. Thánh tích lại được trả về một tháng sau đó theo lời khẩn khoản yêu cầu của giáo quyền của đảo Sicilia.

Nguồn:tgpsaigon.net


C- Gương Thánh Nhân

Các thiếu nữ có tên thánh là Lucia chắc phải thất vọng khi muốn tìm hiểu về vị thánh quan thầy của mình. Các sách cổ viết dài dòng nhưng rất ít chi tiết liên hệ đến truyền thuyết. Các sách mới đây cũng dài dòng dẫn chứng một sự kiện là những truyền thuyết này không có trong lịch sử. Chỉ có một chi tiết về Thánh Lucia còn sót lại đến ngày nay, đó là người cầu hôn với thánh nữ vì bị từ chối nên đã tố cáo ngài là Kitô hữu, do đó ngài bị xử tử ở Syracuse thuộc Sicily vào năm 304. Nhưng cũng đúng là tên của thánh nữ đã được nhắc đến trong lời cầu nguyện Rước Lễ Lần Ðầu, có những địa danh và một bài dân ca mang tên thánh nữ, và qua bao thế kỷ, hàng chục ngàn thiếu nữ đã hãnh diện chọn ngài làm quan thầy.


Các bạn bè của Lucia có lẽ cũng ngạc nhiên về Ðấng mà Lucia yêu quý, đó là một người đi rao giảng khắp nơi, sống trong một dân tộc nô lệ và đã bị tiêu diệt cách đó 200 năm. Người từng là một người thợ mộc, từng bị chính dân của Người kết án và chết trên thập giá. Với tất cả tâm hồn, Lucia tin tưởng rằng chính Người đã sống lại từ cõi chết. Thiên Chúa đã minh chứng tất cả những gì Người nói và hành động. Ðể làm chứng cho đức tin ấy, thánh nữ đã thề giữ mình đồng trinh.
Thật là một điều khôi hài đối với các bạn ngoại giáo của thánh nữ! Giữ mình trong trắng trước khi thành hôn là một lý tưởng cổ hủ của người Rôma, ít người còn giữ nhưng không ai kết án lý tưởng ấy. Tuy nhiên, ngay cả cô ta không muốn kết hôn thì điều đó thật quá đáng. Chắc cô ta phải có điều gì xấu xa cần giấu diếm, như miệng lưỡi thế gian thường đồn đãi.

 

Cũng dễ để hiểu những khó khăn của một thiếu nữ Kitô Giáo, khi phải chiến đấu trong một xã hội trần tục như ở Sicily vào năm 300. Cũng tương tự như xã hội ngày nay, nhiều thói tục của xã hội đã ngăn cản chúng ta sống xứng đáng là người theo Ðức Kitô.

 

Chắc chắn Thánh Lucia đã nghe biết về nhân đức anh hùng của các vị đồng trinh tử đạo. Ngài muốn trung thành với tấm gương của các đấng ấy, cũng như theo gương của người thợ mộc, là Người mà ngài tin là Con Thiên Chúa.

 

Lời Bàn

Nếu bạn chọn Thánh Lucia làm quan thầy thì đừng thất vọng. Vị quan thầy của bạn thực sự là một nữ anh thư, hơn hẳn mọi người, là một hứng khởi vô tận cho bạn và cho mọi Kitô hữu. Sự can đảm sống luân lý của người thiếu nữ Sicilian tử đạo ấy đã tỏa sáng, như để soi dẫn giới trẻ ngày nay, cũng như giới trẻ trong thời đại ấy.

(xin lỗi không nhớ đã trích từ đâu hay đã tổng hợp một cách nào đó)


 

 

 

Thứ Tư


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 45, 6b-8. 18. 21b-26

"Trời cao, hãy đổ sương mai!"

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chính Ta là Chúa, và không có Chúa nào khác. Ta đã dựng nên ánh sáng và tối tăm. Ta đã dựng nên hạnh phúc và tai hoạ. Chính Ta là Thiên Chúa đã làm những sự ấy. Trời cao, hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính! Ðất hãy mở ra và trổ sinh Ðấng Cứu Ðộ, và đồng thời sự công chính hãy xuất hiện. Chính Ta là Chúa đã dựng nên loài người. Vì Thiên Chúa, Ðấng đã dựng nên các tầng trời, chính Người đã dựng nên địa cầu, đã tạo ra và làm cho (nó) bền vững. Người không dựng nên địa cầu hoang vu, nhưng đã dựng nên cho người ta ở, chính Người phán: Ta là Chúa và không có Chúa nào khác. Nào Ta chẳng phải là Chúa, và ngoài Ta, còn có Chúa nào khác đâu? Không có Thiên Chúa công bình và cứu độ nào khác ngoài Ta.

Hỡi các người ở tận cùng trái đất, hãy trở lại cùng Ta và các ngươi sẽ được cứu thoát. Vì Ta là Thiên Chúa và không có Chúa nào khác. Ta lấy tên Ta mà thề; lời công chính phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở lại: mọi gối sẽ quỳ xuống trước mặt Ta, và mọi lưỡi sẽ lấy tên Ta mà thề rằng: Nhờ Chúa mà tôi sẽ được công chính và sức mạnh. Người ta sẽ đến cùng Chúa, và mọi kẻ chống đối Người sẽ phải hổ thẹn. Toàn thể dòng dõi Israel sẽ được công chính hoá và được hiển vinh.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14

Ðáp: Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai! Hỡi ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính! (Is 45,8).

Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng ta. - Ðáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh từ trời nhìn xuống. - Ðáp.

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng ta sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúa đến, hãy ra đón Người, chính Người là Hoàng tử Bình an. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 7, 19-23 (Hl 18b-23)

"Hãy thuật lại với Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Gioan gọi hai người trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?" Khi những người này đến cùng Chúa Giêsu, họ thưa Ngài rằng: "Gioan Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Ngài: Ngài có phải là Ðấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?" Ngay lúc đó, Chúa chữa những người khỏi bệnh hoạn tật nguyền và quỷ ám, và cho nhiều người mù được thấy. Ngài đáp lại rằng: "Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy: người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng; và phúc cho ai không vấp phạm vì Ta".

Ðó là lời Chúa.


 

Widow's Son in Nain | JerusalemPerspective.com Online

 

 

Suy niệm

 

 

nhập thể phải đến   


 

   Tại sao có câu hỏi "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?". Theo bài Phúc Âm hôm nay thì đó là do Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, bấy giờ đang bị quận vương Hêrôđê giam trong ngục, đã "gọi hai người trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu" như thếVấn đề quan trọng được đặt ra ở đây là phải chăng vấn nạn này của chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, hay từ các môn đệ của vị tiền hô?

   Chẳng lẽ Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cảm thấy chán nản ở trong tù, vì không thấy Đấng đến sau ngài và quyền năng hơn ngài đến cứu ngài mà ngài có nẩy lên ý nghĩ ngờ vực về Đấng đã được ngài chẳng những tự mình nhận biết (xem Gioan 1:33-34) mà còn giới thiệu cho chung dân chúng (xem Gioan 1:29) cũng như cho riêng môn đệ của ngài (xem Gioan 1:35-36)? 

   Cũng không phải là không có thể xẩy ra với Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này như thế, như đã từng xẩy ra cho vị đại tiên tri Elia mà ngài là hậu thân như một Elia cần phải đến trước, như trong Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước cho biết, một Elia ngày xưa vừa mới làm cho toàn dân Do Thái mở mắt ra mà bỏ thần Baal quay về với Thiên Chúa, lại cảm thấy lo sợ bị bà hoàng hậu vốn tôn sùng vị thần này hăm dọa lấy mạng, đến độ chạy trốn và tỏ ra chán nản (xem Sách Các Vua, quyển 1, đoạn 18 và 19).

   Nếu câu hỏi này không phải của chính Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thì có thể từ các môn đệ của ngài thắc mắc về các công việc Chúa Giêsu làm, những việc làm theo như họ nhận xét có thể không được chính xác với những lời giới thiệu to tát của thày các vị trước kia về một Đấng đến sau, và vì thế nên các vị được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả khuyên họ nên đi tìm chính Đức Kitô mà hỏi, như thành phần lãnh đạo Do Thái xưa đến hỏi ngài có phải là Đức Kitô chăng?

Không cần biết câu hỏi "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?" từ chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả hay từ các môn đệ của ngài, chúng ta chỉ biết rằng, dường như là của chính Thánh Gioan Tẩy Giả, vì trong câu trả lời, Chúa Giêsu có nói rằng: "Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy", và đồng thời cũng có thể là từ các môn đệ của ngài, bởi thế trong câu trả lời của mình, Chúa Giêsu đã tỏ cho họ thấy quyền năng của Người vượt hẳn thày của các vị: "người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng". 

 Vấn đề chính yếu trong bài Phúc Âm hôm nay không phải là câu hỏi "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?" được đặt ra từ đâu mà có, từ chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả hay từ các môn đệ của ngài, nhưng là chính nội dung của câu Chúa Giêsu trả lời, một nội dung được Người vạch ra cho thấy sứ vụ cứu độ của Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, một sứ vụ được thể hiện vào lúc ban đầu như dấu báo Ơn Cứu Độ sắp tới, qua việc Người chẳng những chữa lành phần xác cho dân chúng là thành phần đang trông chờ Người đến ("người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại"), mà còn cứu rỗi cả phần hồn ("kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng").

Phải, Thiên Chúa sai Con của Ngài xuống trần gian là để cứu độ trần gian, bởi Ngài là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Đấng đã tự hứa cứu độ loài người ngay từ ban đầu (xem Khởi Ngyên 3:15) thì Ngài không thể nào không hoàn thành, bằng bất cứ phương cách nào khôn ngoan thượng trí nhất (kể cả chuyện gây ra tai họa), lời hứa của Ngài, Đấng đã dựng nên con người là để cho họ được sống và sống viên mãn chứ không phải chết, như những gì Thiên Chúa đã nói qua miệng Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Chính Ta là Chúa, và không có Chúa nào khác. Ta đã dựng nên ánh sáng và tối tăm. Ta đã dựng nên hạnh phúc và tai hoạ. Chính Ta là Thiên Chúa đã làm những sự ấy. Trời cao, hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính! Ðất hãy mở ra và trổ sinh Ðấng Cứu Ðộ, và đồng thời sự công chính hãy xuất hiện. Chính Ta là Chúa đã dựng nên loài người. Vì Thiên Chúa, Ðấng đã dựng nên các tầng trời, chính Người đã dựng nên địa cầu, đã tạo ra và làm cho (nó) bền vững. Người không dựng nên địa cầu hoang vu, nhưng đã dựng nên cho người ta ở, chính Người phán: Ta là Chúa và không có Chúa nào khác. Nào Ta chẳng phải là Chúa, và ngoài Ta, còn có Chúa nào khác đâu? Không có Thiên Chúa công bình và cứu độ nào khác ngoài Ta".

Bởi thế, muốn được cứu độ, con người cần phải tin tưởng vào Ngài và trông chờ chỉ một mình Ngài mà thôi, như Ngài kêu gọi con người ở đoạn cuối của Bài Đọc 1 hôm nay: 

"Hỡi các người ở tận cùng trái đất, hãy trở lại cùng Ta và các ngươi sẽ được cứu thoát. Vì Ta là Thiên Chúa và không có Chúa nào khác. Ta lấy tên Ta mà thề; lời công chính phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở lại: mọi gối sẽ quỳ xuống trước mặt Ta, và mọi lưỡi sẽ lấy tên Ta mà thề rằng: Nhờ Chúa mà tôi sẽ được công chính và sức mạnh. Người ta sẽ đến cùng Chúa, và mọi kẻ chống đối Người sẽ phải hổ thẹn. Toàn thể dòng dõi Israel sẽ được công chính hoá và được hiển vinh".

Bài Đáp Ca hôm nay bày tỏ tấm lòng của con người hướng về Chúa và mong chờ Ơn Cứu Độ của Ngài, một Ơn Cứu Độ xẩy ra như một cuộc hội ngộ thần linh giữa trời và đất, giữa "lòng nhân hậu và trung thành", giữa "đức trung thành và đức công minh". 


1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng ta. 

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh từ trời nhìn xuống. 

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng ta sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. 



 

 

Ngày 14 tháng 12

Thánh Gio-an Thánh Giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

 

Thánh Gio-an Thánh Giá chào đời năm 1542 ở Phon-ti-vê-rốt, nước Tây Ban Nha. Sau một ít năm sống trong dòng Các-men, và được thánh nữ Tê-rê-xa thành A-vi-la khuyến khích, thánh Gio-an đã muốn thực hiện việc cải cách trong dòng. Điều này khiến thánh nhân phải chịu đựng muôn vàn đau khổ, thử thách. Người qua đời tại U-bê-đa, nổi tiếng là một bậc khôn ngoan, thánh thiện, như chúng ta có thể nhận thấy qua các tác phẩm của người.

 

 

Nhận biết mầu nhiệm được ẩn giấu nơi Chúa Ki-tô Giê-su

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách - Bài đọc 2

Trích bài ca thiêng liêng của thánh Gio-an Thánh Giá, linh mục.

 

Dù các bậc thánh sư đã khám phá ra bao điều mầu nhiệm, lạ lùng, đồng thời nhiều tâm hồn đạo đức ngay ở đời này đã được cảm nghiệm những điều ấy, thế nhưng vẫn còn rất nhiều điều cần phải nói ra, cần được hiểu biết.

 

Chính vì vậy, ta phải đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Người như thể một hầm mỏ phong phú, chứa nhiều tầng kho tàng quý giá ở bên trong. Có hết sức đào, cũng chẳng bao giờ hết. Hơn thế nữa, ở mỗi tầng, chỗ này hay chỗ nọ, người ta còn khám phá ra những lớp kho tàng mới.

 

Vì thế, thánh Phao-lô đã nói về Chúa Ki-tô : Trong Người, có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa. Các kho tàng đó, linh hồn không thể vào, cũng không thể tới được, nếu trước đó không chịu những đau khổ thấm thía bên trong lẫn bên ngoài, không được Thiên Chúa ban cho ơn hiểu biết và nhạy cảm, không kiên trì tập luyện về đời sống thiêng liêng.

 

Thật vậy, tất cả những điều này còn ở cấp độ thấp và mới chỉ là những điều kiện giúp ta vươn tới thâm cung cao thẳm là hiểu biết các mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Đó mới là đỉnh cao của sự khôn ngoan ta có thể đạt tới khi còn ở đời này.

 

Ôi ! Ước chi sau cùng con người hiểu được rằng mình không thể nào đạt tới các kho tàng cũng như sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa, nếu trước đó không chịu đau khổ thấm thía và nhiều cách đến độ coi đó là niềm vui và ước muốn của mình ! Linh hồn nào thật sự khao khát sự khôn ngoan của Thiên Chúa, thì trước tiên phải ao ước đi vào mầu nhiệm thẳm sâu của thập giá.

 

Vì thế, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Ê-phê-xô kẻo họ nản chí khi gặp gian truân, ngõ hầu họ được mạnh mẽ và nhờ được bén rễ sâu, được xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể các thánh, họ đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài, rộng, cao, sâu và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy họ sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.

 

Thánh giá chính là cửa ngõ phải qua để rồi vào kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Đó là cửa hẹp. Có nhiều người muốn hưởng những hoan lạc xuất phát từ thánh giá, nhưng lại ít có người chịu đi qua cửa này.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Gio-an linh mục lòng nhiệt thành yêu mến thánh giá và hoàn toàn từ bỏ chính mình, xin ban cho chúng con hằng biết noi gương sáng của người, để mai sau được chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin

 

 

 

 

Tiểu Sử

Gioan de Yepes sinh tại Phontiveros, gần Avila. Tây Ban Nha ngày 24-6-1542. Cha ngài làm thợ dệt, bị gia đình giàu có làm nghề buôn bán loại trừ vì đã cưới một người vợ kém hơn. Mẹ ngài là một người đàn bà thánh thiện, trở thành goá phụ sau khi sinh Gioan. Không nguồn lợi, với 3 đứa con, bà đã làm thuê cho một thợ dệt. Bé Gioan dần dần đã học nghề thợ mộc, may vá, điêu khắc, hội hoạ trong tình yêu mến Chúa Giêsu Kitô.

Trong mọi việc, ngài có thói quen tự hỏi: “Vào trường hợp tôi, Chúa Giêsu sẽ làm gì?”

Ngài không trốn tránh một hy sinh nào. Lúc 12 tuổi, Gioan được học đọc, học viết với các nữ tu ở Medina del Campo. Đức bác ái của ngài bao la: tư hồi còn niên thiếu, ngài đã dùng giờ rảnh để phục vụ các bệnh nhân ở nhà thương, dầu vẫn theo học văm phạm và triết học nơi các cha dòng Tên.

Năm1563, Gioan gia nhập dòng Carmêlô và năm sau được gửi học tại Đại học Salamanca. Năm 1567, ngài thụ phong linh mục ở Medina và đã gặp thánh nữ Avila. Thánh nữ đã khuyên ngài thực hiện việc cải tổ dòng Camêlô như thánh nữ đang làm. Thánh nữ nói với ngài: “Đây là công trình đòi hy sinh và máu. Tôi không biết cha sẽ phải chịu khổ tới đâu nhưng chắc chắn cha phải chịu khổ”.

Gioan trở thành người con thiêng liêng của người nữ tu Carmêlô này. Cha 25 tuổi và chị 52 tuổi. Chị gửi cha đến với hai người bạn ở Duruelô trong cảnh cô tịch và đây là nguồn gốc của dòng Carmêlô canh tân đi chân không, ngài lấy tên là Gioan Thánh Giá. Sự nghèo túng thật khủng khiếp, ngài chỉ sống bằng cỏ, nhưng vẫn dùng những khúc ca tạ ơn Chúa vì đã chỉ cho biết phải sống và cư xử cách nào. Ngài hành động cách khác thường trên những người chung quanh, giải thoát họ khỏi những việc hư hỏng, tạo cho họ một lòng yêu thích hy sinh.

Sau khi chống lại đoàn thể các tu sĩ Carmêlô ở Alcala de Hélenrés, Ngài trở thành tuyên uý của tu viện Avila trong 5 năm, thánh nữ Têrêxa giới thiệu với con cái mình: “Cha là vị thánh”.

Sự thánh thiện của Gioan vượt quá nhiều người và trở nên khó hiểu, sự canh tân khiến ngài bị tố cáo là nổi loạn. Các thầy dòng Carmêlô chước giảm chống lại các thầy dòng Carmêlô đi chân không. Cuối cùng, sau những nhục mạ dữ dội, ngài bị cầm tù ở Tolêđô. Người ta đối xử cứng rắn với ngài, 3 lần mỗi tuần họ đưa ngài tới nhà cơm và đánh đập không nương tay. Nhưng ngài cảm thấy đang đi đúng đường Chúa muốn và tạ ơn Chúa vì đã chịu được hạ nhục và chịu khổ cực. Những bắt bớ tăng thêm đức tin và lý tưởng của ngài. Đáp lại, ngài yêu mến nhiều hơn và trong hầm tối thiếu khí trời, ngài trước tác những vần thơ bí nhiệm làm thành cuốn “Thánh ca thiêng liêng” (cantiques spirituelles).

Được 9 tháng, thánh nhân vượt ngục. Trước khi đến tu viện định tới, ngài dừng lại trong một dòng nữ. Ngài nghe một nữ tu ca hát về “hạnh phúc của đau khổ” và bỗng ngài phải bám chặt vào cửa sắt nhà khách. Ngài đã xuất thần. Ý tưởng được chịu khổ vì Chúa đã làm cho ngài cả thấy dư tràn hạnh phúc. Phép lạ này trong tâm hồn, như muốn lôi kéo cả thân xác đổi mới theo... thánh Têrêxa nói: “Không có cách gì để nói về Thiên Chúa với cha Gioan Thánh Giá. Ngài xuất thần ngay và lôi kéo người khác theo”.

Một ngày kia quỳ bên song sắt, thánh nữ nghe cha nói về Chúa Ba Ngôi, thì thánh linh như muốn nâng ngài lên. Khiêm tốn, ngài nắm lấy tay vào thành ghế. Nhưng hoạt động thần linh đã nâng ngài lên tới trần nhà. Têrêxa ở trước mặt ngài cũng xuất thần và bay bổng. Một nữ tu tiến vào, cảm kích và cảnh tượng vội đi gọi các nữ tu khác đến chiêm ngưỡng cả hai vị thánh được Chúa chúc phúc.

Đức Thánh Cha và vua Philipphe II ủng hộ những cuộc cải cách và bây giờ Gioan phải nhận nhiều trọng trách. Ngài làm bề trên dòng Calvariô. Ngài lập cộng đoàn Carmêlô Baeza và 3 năm sau được chọn làm tu viện trưởng ở Grenade. Đi đường qua các thành Tây Ban Nha, ngài chinh phục các linh hồn về cho Chúa Kitô, chính ngài đã xây dựng một thuỷ lộ, một tu viện. Trong 15 ngày, ngài đã viết cuốn “Ngọn lửa tình yêu sống động” (La vive flamme d'amour). Cuối cùng ngài trở thành Tổng Đại diện Andalousia.

Sự trong trắng của thánh nhân đã tạo cho ngài một quyền năng trên quỷ thần. Ngài đã giải thoát nhiều bị quỷ ám. Người ta nói rằng, bằng những dấu thánh giá ngài dẹp tan cơn bão, bằng lời nguyện, ngài dập tắt một hoả hoạn. Các thú vật quý mến ngài. Để giữ mình trong sạch, thánh nhân tự nhận lấy đau khổ nhưng lại rất thương cảm những đau khổ của người khác, ngài còn tế nhị hơn nữa đối với những đau khổ tinh thần mà ngài gọi là “đêm tối của tâm hồn”. Nhưng ngài hiểu rằng, những đau khổ này thanh tẩy tâm hồn rất nhiều. Không kết hợp với Chúa được nếu không có khổ hạnh trong tâm hồn.

Thường nhà dòng nghèo khó đến độ có ngày không có bánh ăn. Tập họp ở nhà ăn, thánh nhân nói với các tu sĩ về hạnh phúc được chịu khổ vì Chúa Giêsu Kitô. Họ khóc vì nhiệt tâm và lui ra. Bỗng chuông reo, một người vô danh đã đem bánh cho nhà dòng. Các tu sĩ trở lại phòng ăn. Lần này, thánh nhân khóc và nói: “Ôi, vậy là Chúa đã thấy sự yếu đuối của chúng con không chịu thử thách được lâu. Ngài đã sớm thương hại chúng ta”.

Lần kia, ngài đã trả lời Chúa Giêsu khi ngài hỏi về phần thưởng ngài muốn rằng: “Lạy Chúa, xin cho con được chịu khổ và bị khinh miệt vì Chúa”.

Và Ngài đã xin 3 ơn này là: đừng có ngày nào mà không được chịu đau khổ, đừng là bề trên vào lúc chết và được chết trong khiêm hạ. Thiên Chúa đã nhận lời Ngài.

Những tháng bị giam cầm, với bao đau khổ dữ dằn người ta đối xử, đã huỷ hoại thân thể ngài. Mệt nhọc vì du hành tới Andalousia, làm thánh nhân bị thiêu đốt ở chân, các vết thương mở rộng. Ngài chịu đau đớn kinh khủng đến nỗi lần kia ngài nói với người đối thoại:

- Xin lỗi, tôi không trả lời nổi. Tôi bị đay nghiến và đau nhức.

Thánh nhân được chọn một trong hai nơi để chữa bệnh, hoặc ở Baeza, nơi người ta quý mến, hoặc ở Ubeda, nơi tu viện trưởng có ác cảm với ngài. Ngài đã chọn tu viện Ubeda. Những cư xử nghiêm nhặt làm cho ngài đau đớn thêm. Nhưng ngài càng ôm chặt Thánh Giá vào lòng. Vị tu viện trưởng cảm động vì sự dịu dàng không mệt mỏi, vì lòng bác ái sâu xa của bệnh nhân, cuối cùng đã hiểu và xin ngài tha thứ.

Gioan báo trước mình sẽ chết đêm 14-12 (năm 1591). Các tu sĩ đọc kinh phó linh hồn, ngài xin đọc sách Diễn tình ca. Các cơn đau không ngừng gia tăng khi chuông reo giờ kinh sáng, ngài cầm thánh giá nói: “Lạy Chúa, con phó linh hồn trong tay Chúa”.

Ngài còn nhìn các tu sĩ, hôn Chúa Kitô và tắt thở. Ngài đã viết: “Vào xế chiều cuộc sống này, bạn được phán xét về tình yêu”.

Gioan Thánh Giá để lại nhiều sách luôn được suy gẫm như: Đường lên Carmêlô, Đêm tối tâm hồn, Ngọn lửa tình yêu sống động, Thánh ca thiêng liêng. Ngài được phong thánh năm 1726. Và Đức Piô XI đã đăt ngài làm Tiến sĩ Hội Thánh năm 1962.
 
 Trích trong Theo Vết Chân Người (Chân dung các thánh nhân)

 

http://truyen-tin.net/BiographyOfSaints.aspx?SID=240

 

Gương Sống

“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8, 34).
Câu Kinh thánh này được thể hiện rõ nét trong cuộc đời của Thánh Gioan Thánh Giá, con người của đam mê, bí ẩn và tin tưởng cùng phương châm sống của Ngài là “tình yêu và hy sinh” dệt nên con người sống hoàn toàn vì tình yêu trong tâm tình tạ ơn suốt cả cuộc sống ngài. Ngài sống trọn cuộc sống trong đau đớn nhưng vẫn hằng cảm tạ Chúa như trong Thánh vịnh 41 “Con ngâm nga bài thánh nhạc thâu đêm, Thành kinh nguyện dâng Chúa Trời hằng sống” (Tv 41,9). Thật khó để có thể tìm được một con người như ngài, dù cuộc sống có là chi, có bị đối xử bất công thế nào, bị đánh đập dã man, hay bị ngưỡi đãi vì sự ghét ghen của anh em mình,… thì ngài vẫn không ngừng cất lên lời ca tạ ơn vì Thiên Chúa đã ban cho ngài được như vậy, ngài đem tình yêu thương đến tận mọi nơi trong cộng đoàn, trong mọi người và trong chính sâu thẩm của tâm hồn ngài. Chính vì lẽ đó, ngài đã thốt lên “Có ai thấy Thiên Chúa bởi sự tàn nhẫn đâu ?” hay “Ở đâu không có tình yêu, hãy đem lại tình yêu và bạn sẽ tìm thấy tình yêu.” .

Đối với ngài, Thiên Chúa không bao giờ có sự tàn nhẫn, không bao giờ có bất công nhiều người trong chúng ta chúng ta chắc hẳn, khi gặp một biến cố, một khó khăn nào đó có thể sẽ thốt lên những lời than trách, những câu thở dài, nhưng với Gioan đó không phải là những hình phạt hay nói một cách tế nhị hơn “thánh giá Chúa gửi đến”. Những đau khổ mà ngài chịu là những kinh nghiệm sống, những lời tạ ơn cho thế hệ chúng ta hôm nay đang từng bước theo ngài, theo lại lối xưa ngài đã từng dấn thân và bước đi, để hôm nay ngài đã được ở lại trong Thiên Chúa của tình yêu. Ngài cũng muốn mời gọi chúng ta gieo rắc tình yêu của chính mình, tình yêu phát xuất tự trong tâm hồn sâu thẳm để dành cho mọi người xung quanh, để tất cả mọi nơi là tình yêu, và hy sinh cho nhau cách khiêm nhu trọn vẹn.

Khi suy niệm về cuộc đời của ngài, chúng ta có thể tìm thấy nhiều tâm tình tạ ơn của Thánh nhân để lại trong những tác phẩm của ngài, những tâm tình đó có thể được thốt lên bằng những vần thơ du dương, hay những hy sinh thường ngày của cuộc sống. Trong tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc sống ngài luôn sống với sự tạ ơn và niềm vui đến từ Thiên Chúa, có lẽ vì điều này mà con người của ngài toát lên được vẻ đẹp của thánh thiện và lòng trắc ẩn mà ngài cảm nghiệm được từ nơi Thiên Chúa đã dành cho nhân loại và chính ngài đã sống điều này suốt cả chặng đường theo Đức Kitô. Ngài dạy rằng, chỉ khi nào chúng ta dám cắt bỏ sợ dây dục vọng thì chúng ta mới có thể bay lên cùng Thiên Chúa. “Sợi dây dục vọng” mà Gioan muốn nhắc tới thiết nghĩ không đơn thuần chỉ là những thú vui xác thịt, xa hoa trần thế chóng qua, mà còn là những ước mơ danh vọng, những suy tính trong tương lai của một con người đang dấn thân, đang tìm kiếm. Có thể thấy rằng, chính ngài đã sống điều này trước khi dạy chúng ta sống, ngài đã sống điều ngài muốn nói và ngài tìm gặp được Chúa ngay trong cuộc sống trần thế.

“Vào trường hợp tôi, Chúa Giêsu sẽ là gì?” Thói quen đặt câu hỏi trong tất cả mọi công việc của mình làm đã khiến ngài không tránh né một hy sinh nào, vì ngài biết rõ việc mình đang làm và tâm tình mà Thiên Chúa muốn trao gửi vào công việc ấy qua bàn tay thánh thiện của ngài. Ngài yêu thương các bệnh nhân, đặc biệt là các bệnh nhân nghèo cách đặc biệt, yêu như Chúa đã yêu họ vậy. Gioan như gắn cuộc sống của mình với họ, họ đau mình cũng đau, họ thiếu vắng tình yêu, mình phải đem tình yêu đến và trao cho họ như là điều Thiên Chúa muốn và đã làm vậy. Sống mật thiết với Thiên Chúa trong tất cả con người của ngài đã tạo nên nơi ngài một đức ái bao la ngay từ lúc còn trẻ, thể hiện trong các công việc phục vụ bệnh nhân với tâm tình yêu thương và hy sinh mà rất nhiều người cảm phục và mến mộ.

Gioan Thánh Giá rất thích cuộc sống khó nghèo, và sự nghèo túng khủng khiếp không bao giờ lay chuyển được tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa. Ngài luôn dùng những khúc ca tạ ơn Chúa vì đã cho ngài biết ngài phải sống và cư xử cách nào. Vì vậy, ngài hành động khác thường trên những người xung quanh, giải thoát họ khỏi những việc hư hỏng tạo cho họ một lòng yêu thích hy sinh. Sự thánh thiện của ngài vượt quá nhiều người và trở nên khó hiểu, công cuộc canh tân cải tổ nhà dòng của ngài (cùng với Thánh nữ Têrêxa Avila) bị người khác cho là nổi loạn và đã trừng phạt ngài. Người ta đối xử cứng rắn với ngài, ba lần mỗi tuần họ đưa ngài tới nhà cơm và đánh đập không nương tay. Nhưng ngài cảm thấy đang đi đúng con đường của Chúa muốn, và tạ ơn Chúa vì đã chịu được hạ nhục và chịu được khổ cực. Những bắt bớ làm tăng thêm đức tin và lý tưởng của ngài. Đáp lại, ngài yêu mến nhiều hơn và trong hầm tối thiếu khí trời, ngài dệt nên những vần thơ từ đau khổ tạo thành cuốn “thánh ca thiêng liêng” mang phong thái riêng của ngài, tác phẩm của tình yêu và tạ ơn ngài dâng lên Thiên Chúa.

Thánh nhân đã nhận lấy đau khổ để đổi lấy sự trong sạch cho bản thân, thế nhưng ngài lại thương cảm cho những đau khổ của người khác, ngài còn tế nhị hơn với những đau khổ tình thần mà ngài diễn tả đó là “đêm tối của tâm hồn”.Nhưng ngài hiểu rằng, những đau khổ kia thanh tẩy tâm hồn rất nhiều. Ngài từng chia sẻ, chúng ta không thể kết hợp được với Thiên Chúa nếu không có khổ hạnh trong tâm hồn. Khi con người chúng ta đang lo nghĩ, đang suy tư về những danh vọng, những vinh hoa hay vinh quanh cho bản thân, là khi chúng ta chưa có thể kết hợp được với Thiên Chúa, chưa đi vào con đường mà tình yêu phải bước đi. Những đố kị, ghen ghét nhau trong cộng đoàn, trong anh em là những lệch lạc của con đường tình yêu mà ngài dạy. Sự trong sạch phải luôn đi kèm với tình yêu trao ban, cho dù chính bản thân bị thiệt thòi, bị đau khổ, chỉ có thế, chúng ta mới tìm thấy sự trong sạch cho tâm hồn được. Phải luôn đồng cảm với những con người khổ hạnh vì bệnh tật và trao gửi tình yêu của mình cho họ, để giúp họ ngày một nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa ngày đêm đang dành cho họ và không bao giờ ngưng.

“Lạy Chúa, xin cho con chịu khổ hạnh và khinh miệt vì Chúa”. Lời cầu nguyện ấy đã được Thiên Chúa nhậm lời khi mà Thiên Chúa đã ban cho ngài ngày nào cũng được chịu khổ hình, đau khổ, chết trong khiêm hạ và tâm nguyện của ngài đừng là bề trên trong giờ lâm chung. Có bao giờ chúng ta giống thánh nhân chưa? Cầu nguyện xin được đau khổ… điều đó không có nghĩa, ngày hôm nay chúng ta cứ xin cho được chịu đau khổ, chịu khinh miệt, nhưng ngài muốn qua cuộc sống của ngài, chúng ta hãy bắt chước noi theo, luôn tạ ơn Thiên Chúa trong tất cả các hoàn cảnh của cuộc sống, không cầu mong danh vọng, vinh quang cho bản thân, sống khiêm nhu và ngợi khen Chúa mỗi ngày.

Cuộc đời của ngài là một nổ lực quả cảm, dám sống trọn vẹn với tên gọi của ngài : “Gioan Thánh Giá”. Sự điên rồ của thập giá xưa thể hiện nơi Đức Kitô thế nào để nhân loại hứng lấy được tình yêu mà Thiên Chúa ban tặng, thì nay cũng tái diễn lại nơi cuộc sống của ngài như vậy dành cho hết thảy mọi người. Thánh giá, chỉ có những người có đức tin mới có thể chấp nhận được hình hài ô nhục của nó, chẳng phải người Do Thái từng cho đó là sự bỉ ổi, sự xấu xa đó sao? Chỉ có những người trộm cướp, những tên giết người mới bị dùng đến hình phạt này, nhưng Chúa Giêsu đã phải mang lấy hình phạt nhục nhã này, để chúng ta được giải thoát, được trở về với Chúa Cha và để minh chứng cho tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Gioan đã không sợ khi nhận lấy cái tên mới của mình, cái tên của “sự điên rồ thế gian” – Gioan Thánh Giá, để cũng mang vào mình bao sự bất công, dò xét, đánh đập mà những người khác dành cho mình. Thế nhưng, hoàn cảnh nào đi nữa, ngài luôn sống với một tâm tình của Tình yêu – Tạ ơn – Hy sinh. Thánh Gioan Thánh Giá cũng mời gọi chúng ta mỗi ngày cùng bước vào những chặng đường của hành trình tìm kiếm Đức Kitô, từ bỏ bản thân hay những ảo tưởng của mình bằng cách sống nhiệm nhặt và thật lòng khiêm nhường, cam chịu đau khổ thiệt thòi. Cuộc đời của ngài đã chứng minh cho chúng ta rằng đau khổ làm cho linh hồn chúng ta tinh khiết, ví tựa như thanh củi được đốt trong lò sưởi, lửa cháy thiêu đốt là làm tan nát thanh củi nhưng tạo nên được ngọn lửa hồng rực sáng.

Không am tường được hết ý nghĩa và tâm tình của ngài nơi cuộc đời cũng như những tác phẩm của ngài để lại nếu chúng ta không đi sâu vào cuộc đời tu hành của Gioan. Suốt cuộc đời tu hành bị anh em đày đọa nhưng không bao giờ oán hận, có lẽ trong thâm tâm Gioan vẫn im lặng chấp nhận với nụ cười nhân ái và tha thứ mà họ không thể nào hiểu được. Chính những hành hạ bất công đó đã làm cho Gioan ngày càng thêm gần gũi với Chúa Tình Yêu hơn. Có bao giờ, chúng ta đã im lặng để suy nghĩ, để học hỏi ngài về những nhân đức mà ngài đã sống chưa?

Lạy Thánh Gioan Thánh Giá, xin giúp chúng con từ bỏ con người, từ bỏ cái tôi tội lỗi thấp hèn của chúng con để sống cuộc sống vì Thiên Chúa, vì cộng đoàn và vì anh em xung quanh chúng con. Xin cũng cho chúng con luôn biết chấp nhận hy sinh, đau khổ vì tình yêu, vì lòng yêu mến như ngài đã từng sống và dạy chúng con. Trên Thiên quốc, xin hãy ngày đêm để mắt đến những công việc chúng con đang làm cũng như những gì chúng con đang suy nghĩ… Xin cho chúng con biết học đòi được nhân đức bác ái của ngài, để qua cuộc sống hôm nay của chúng con, nhiều người cũng nhìn ra Thiên Chúa là tình yêu nữa.
Francis John Mary MG

https://dongcatminh.org/gioan-thanh-gia-tinh-yeu-va-hy-sinh/

 

Thánh Gioan Thánh Giá

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI – Huấn Từ Triều Kiến Chung Thứ Tư 16/2/2011

Bài 132 Giáo Lý Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền 138 bài

  

 

 

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Hai tuần trước tôi đã trình bày về vị đại thần bí gia Tây Ban Nha Teresa of Jesus. Hôm nay, tôi muốn nói về một vị thánh quan trọng khác của mảnh đất này, một người bạn thiêng liêng của Thánh Teresa, một cải cách nhân, và như Thánh Teresa, cũng là phần tử của gia đình Dòng Carmelo, đó là Thánh Gioan Thánh Giá, vị thánh được Đức Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1926 công bố là một trong những vị tiến sĩ của Hội Thánh, và là vị theo truyền thống được nói đến như là “Vị Tiến Sĩ Thần Bí – Doctor Mysticus”.

 

Thánh Gioan Thánh Giá được sinh ra vào năm 1542 tại một khu làng nhỏ Fontiveros, gần Avila, ở Castilla la Vieja, con của ông bà Gonzalo de Yepes và Catalina Álvarez. Gia đình của ngài rất nghèo vì người cha, thuộc giòng quí tộc Toledo, bị tẩy chay khỏi gia đình và không cho hưởng gia tài bởi đã ông đã lập gia đình với Catalina, một thợ dệt tơ thường hèn. Cha của Thánh Gioan chết khi ngài còn rất trẻ, và vào năm lên 9 tuổi, Thánh Gioan đã cùng với mẹ và người anh em Phanxicô của mình đến Medina del Campo, gần Valladolid, một trung tâm thương mại và văn hóa.  đây ngài đã theo học "Colegio de los Doctrinos", đồng thời cũng thi hành các việc làm thấp hèn cho các nữ tu thuộc tu viện nhà thờ Magdalen.

 

Về sau, nhờ phẩm chất nhân bản và thành quả học vấn của mình, đầu tiên ngài được nhận làm y tá ở  Hospital of the Conception rồi  Học Viện các Cha Dòng tên vừa được thiết lập  Medina del Campo. Thánh Gioan vào nay name 18 tuổi và học các khoa về xã hội, hùng biện và các ngôn ngữ cổ điển trong vòng 3 năm. Vào cuối những ngày đào luyện của mình, ngài đã cảm thấy ơn gọi của mình rất rõ ràng, đó là sống đời tu sĩ, và trong số nhiều dòng tu hiện hữu  Medina bay giờ, ngài cảm thấy ơn gọi vào Dòng Carmelo.

 

Vào mùa thu name 1563, ngài bắt đầu thời gian tập sinh của mình giữa các tu sĩ Dòng Carmelo của thành phố ấy, với tên tu sĩ là Mathêu. Năm sau ngài được gửi đến Đại Học Salamanca danh tiếng, nơi ngài học Triết Lý và Nghệ Thuật 3 năm. Vào name 1567, ngài thụ phong linh mục và trở về Medina del Campo để cử hành Thánh Lễ mở tay với đầy những thong mean của gia đình ngài.


Chính ở nơi nay đã xẩy ra cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Thánh Gioan và Teresa of Jesus. Cuộc gặp gỡ này là cuộc gặp gỡ quan trọng cho cả hai vị: Thánh Teresa phác họa dự án của mình để canh tân Dòng Carmelo cho cả ngành nam nữa, và đề nghị Thánh Gioan cộng tác thực hiện “cho Thiên Chúa được vinh quang hơn”. Vị linh mục trẻ này cảm thấy được thu hút theo các ý nghĩ của Thánh Teresa cho đến độ trở thành một đại trợ tá viên của dự án này. Cả hai đã làm việc với nhau mấy tháng trời, chia sẻ với nhau các tư tưởng và dự thảo để sớm bao nhiêu có thể mở nhà đầu tiên cho các Đan Sĩ Carmelo Đi Chân Không (Discalced Carmelites). Việc khai trương này xẩy ra vào ngày 28/12/1568, ở Duruelo, một địa điểm hiu quạnh ở địa hạt Avila.

 

Nhờ Thánh Gioan, cộng đồng nam giới đầu tiên được hình thành với 3 đồng bạn khác. Khi tái khan dòng theo Luật Primitive, cả 4 vị đã nhận những tên mới: Thánh Gioan bay giờ gọi mình là Gioan “Thánh Giá”, một danh xưng sau này ngài được oàn vũ biết đến. Vào cuối name 1572, theo yêu cầu của Thánh Teresa, ngài trở thành vị giải tội và đại diện của Đan Viện Nhập Thể ở Avila là nơi Thánh Teresa là đan viện mẫu. Các vị có những năm tháng hợp tác chặt chẽ và thân hữu thiêng liêng giúp cho nhau trở nên phong phú hơn. Trong giai đoạn này các tác phẩm quan trọng nhất của Thánh Teresa và những bản văn đầu tiên của Thánh Gioan được viết ra.

 

Việc thiết tha canh tân Dòng Carmelo không trôi chảy xuôi may dễ dàng, thậm chí nó còn gây đau khổ trầm trọng cho Thánh Gioan nữa. Sự vụ thê thảm nhất đó là việc ngài bị bắt và giam giữ vào năm 1577 ở tu viện của các tu sĩ Dòng Carmelo Giữ Luật Cũ ở Toledo, gây ra bởi một cáo buộc bất chính. Vị thánh ở trong tù 6 tháng trời, chịu đựng thiếu thốn và kiềm chế về thể lý cũng như luân lý. Ở nay ngài đã sáng tác, trong số các bài thơ, thi phẩm nổi tiếng “Ca Khúc Linh Thiêng - Spiritual Canticle”. Sau heat, vào đêm 16 rạng 17 tháng 4 năm 1578, ngài đã có thể thoát thân một cách mạo hiểm liều lĩnh, trú ẩn ở đan viện các Đan Sĩ Carmelo Đi Chân Không của thành phố này. Thánh Teresa và các đồng bạn của Thánh Gioan đã heat sức vui mừng cử hành việc thoát thân này của Thánh Gioan, và sau một thời gian ngắn để lấy lại sức khỏe, Thánh Gioan được sai đến Andalucia, nơi ngài đã sống 10 năm ở mấy tu viện, nhất là ở Granada. Ngài đã càng ngày càng nắm giữ các chức vụ quan trọng trong hội dòng, từ từ trở thành vị đại diện tỉnh dòng, và hoàn thành việc biên soạn các luận đề về đời sống thiêng liêng.

 
Sau đó ngài trở về quê quán của mình, như một phần tử của việc tổng quản trị gia đình tu trì Thánh Teresa, một gia đình bấy giờ đã được toàn quyền tự lập. Ngài đã sống tại Đan Viện Carmelo ở Segovia, thi hành vai trò làm bề trên của cộng đồng này. Vào năm 1591, ngài đã được thôi hết tất cả mọi trách nhiệm để nhắm tới một Tỉnh Dòng tu trì mới ở Mễ Tây Cơ. Trong khi sửa soạn cho cuộc hành trình dài này với 19 đồng bạn, ngài đã rút về một tu viện quạnh hiu gần Jean, nơi ngài trở bệnh nặng.

 

Ngài đã phải đương đầu những khổ đau khủng khiếp một cách thanh thản và nhẫn nại đầy gương sáng. Ngài đã chết vào đêm ngày 13 rạng 14 Tháng 12 năm 1591, trong khi các an hem của ngài đang nguyện Kinh Ban Mai. Ngài đã giã từ họ khi nói rằng: “Hôm nay tôi về Trời hát Kinh Phụng Vụ”. Di hài của ngài được đưa về Segovia. Ngài được Đức Clemente X phong chân phước vào năm 1675 và được Đức Benedict XIII phong thánh năm 1726.

 

Thánh Gioan được coi như là một trong những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Tây Ban Nha. Những tác phẩm quan trọng nhất của ngài gồm có 4 cuốn sau đây: “Lên Núi Cát Minh - Ascent of Mount Carmel”, “Đêm Tối Linh Hồn - Dark Night of the Soul”, Ca Khúc Linh Thiêng - Spiritual Canticle”, và “Lửa Sống Yêu Thương - Living Flame of Love".

 

Trong cuốn “Ca Khúc Linh Thiêng”, Thánh Gioan trình bày con đường thanh tẩy của linh hồn, tức là việc gia tăng hoan hỉ chiếm hữu Thiên Chúa cho tới khi linh hồn cảm thấy rằng nó kính mến Thiên Chúa bằng chính tình yêu nó được Ngài yêu thương.

 


Cuốn “Lửa Sống Yêu Thương” tiếp tục chiều hướng này, diễn tả chi tiết hơn cuộc hiệp nhất biến đổi với Thiên Chúa. Thí dụ được Thánh Gioan sử dụng là thí dụ về ngọn lửa: khi lửa cháy và đốt củi tì nó trở thành ngọn lửa rực sáng thế nào thì Thánh Linh cũng vậy, Đấng trong thời gian đêm tăm tối thanh tẩy và “rửa sạch” linh hồn, sau đó, qua thời gian, soi chiếu và sưởi ấm linh hồn như một ngọn lửa. Sự sống của linh hồn là việc liên tục cử hành của Thánh Linh, để con người có thể thấy được vinh quang của mối hiệp nhất với Thiên Chúa trong cõi vĩnh hằng.

 

 

Cuốn “Lên Núi Cát Minh” trình bày cuộc hành trình thiêng liêng theo chiều hướng của cuộc thanh tẩy tiến triển của linh hồn, cần thiết để tiến lên đỉnh trọn lành Kitô giáo, được biểu hiệu bằng đỉnh Núi Cát Minh. Việc thanh tẩy này được nêu lên như một cuộc hành trình con người trải qua, hợp tác với tác động thần linh trong việc giải thoát linh hồn khỏi tất cả mọi thứ dính bén hay quyến luyến ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Cuộc thanh tẩy này, một cuộc thanh tẩy tiến đến chỗ hiệp nhất với Thiên Chúa, cần phải là một cuộc thanh tẩy toàn diện, bắt đầu với đường lối của các giác quan và tiếp tục với cuộc thanh tẩy chiếm được nhờ ba thần đức - tin cậy mến – đó là cuộc thanh tẩy về ý hướng, ký ức và ý muốn.

 

 

Cuốn “Đêm Tối” diễn tả khía cạnh “thụ động”, tức là khía cạnh Thiên Chúa nhúng tay can thiệp vào tiến trình “thanh tẩy” của linh hồn. Thật vậy, tự mình, nỗ lực của loài người không thể vào tận căn gốc sâu xa của những xu hướng và thói quen xấu xa: Nó có thể kềm chế chúng nhưng không thể làm cho cúng hoàn toàn bật gốc. Để làm điều ấy cần đến tác động đặc biệt của Thiên Chúa, tác động thanh tẩy tâm linh  một cách toàn diện và sửa soạn nó cho xứng với cuộc hiệp nhất yêu thương với Ngài. Thánh Gioan diễn tả việc thanh tẩy này là ‘thụ động” chính là vì, mặc dù được linh hồn chấp nhận, nó được hiện thực bởi tác động mầu nhiệm của Thánh Linh, Đấng là một ngọn lửa, thiêu đốt hết mọi ô nhơ. Trong tình trạng ấy, linh hồn phải trải qua tất cả mọi thứ thử thách, như thể nó ở trong đêm tăm tối vậy.

 


Những nhận định này về các tác phẩm cính của vị thánh này giúp chúng ta tiến đến những điểm nổi bật trong giáo huấn về thần bí bao rộng và sâu xa của ngài, một giáo huấn có mục tiêu bày tỏ cho thấy con đường vững chắc để đạt tới sự thánh thiện, đến tình trạng trọn lành Thiên Cúa kêu gọi tất cả mọi người chúng ta. Theo Thánh Gioan Thánh Giá, hết mọi sự hiện hữu, được Thiên Chúa dựng nên đều tốt lành. Nhờ các tạo vật, chúng ta có thể khám phá ra Đấng đã lưu lại dấu vết của Ngài nơi chúng. Tuy nhiên, đức tin là nguồn duy nhất được ban cho con người để họ nhận biết Thiên Chúa chính xác như Ngài là, như Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi. Tất cả những gì Thiên Chúa muốn truyền đạt cho con người Ngài đều nói nơi Chúa Giêsu Kitô, Lời hóa thành nhục thể của Ngài. Chúa Giêsu Kitô, Đấng là đường lối duy nhất và tối hậu đến cùng Cha (cf. John 14:6). Bất cứ một sự gì khác được tạo dựng nên chẳng là gì so với Thiên Chúa, và không một sự gì chân thực ngoài Ngài ra. Bởi thế, để có được một tình yêu Thiên Chúa trọn hảo, hết mọi tình yêu khác cần phải nên giống như tình yêu thần linh trong Chúa Kitô.

 

Đó là điểm xuất phát ra việc nhấn mạnh của Thánh Gioan Thánh Giá về nhu cầu cần phải được thanh tẩy và trống rỗng nội tâm để được biến đổi trong Thiên Chúa, Đấng là cùng đích duy nhất của sự trọn lành. Cuộc “thanh tẩy” này không phải là ở chỗ chỉ thiếu thốn về thể lý các sự vật hay việc sử dụng chúng. Trái lại, những gì linh hồn tinh tuyền và tự do làm đó là loại trừ đi hết mọi sự lệ thuộc lệch lạc vào các sự vật. Hết mọi sự cần phải được đặt trong Thiên Chúa như là tâm điểm và là cùng đích của đời sống. Tiến trình thanh tẩy dài lâu và khó khăn này đòi hỏi sự cố gắng của con người, nhưng vai chính thực sự vẫn là Thiên Chúa: tất cả những gì con người có thể làm đó là “phó mình”, là cởi mở trước tác động thần linh và đừng gây trở ngại cho tác động thần linh này.

 

Khi sống các thần đức, con người được thăng hoa và cống hiến giá trị cho nỗ lực của mình. Nhịp điệu gia tăng của đức tin, đức cậy và đức mến là những gì song hành với việc thanh tẩy cũng như với một hiệp nhất gia tăng với Thiên Chúa cho tới khi họ được biến đổi trong Ngài. Khi người ta tiến đến đích điểm ấy, thì linh hồn được chìm ngập vào chính sự sống của Ba Ngôi, tới độ Thánh Gioan khẳng định rằng linh hồn có thể yêu mến Thiên Chúa bằng chính tình yêu Thiên Chúa yêu thương linh hồn, vì Ngài yêu thương nó trong Thánh Linh. Đó là lý do tại sao Vị Tiến Sĩ Thần Bí này chủ trương rằng không có vấn đề hiệp nhất yêu đương với Thiên Chúa nếu không đạt đến tột đỉnh nơi cuộc hiệp nhất Ba Ngôi. Ở trong tình trạng cao cả này, linh hồn thánh hảo biết hết mọi sự trong Thiên Chúa và không còn phải qua tạo vật để đến với Ngài nữa. Bấy giờ linh hồn cảm thấy tràn ngập tình yêu thần linh và hoàn toàn hoan lạc trong tình yêu này.

 

Anh chị em thân mến, cuối cùng vấn nạn còn lại là: Vị thánh giảng dạy về thần bí cao cả này, về đường lối gian khổ để đạt đến đỉnh trọn lành này, phải chăng muốn nói với chúng ta một điều gì đó, nói với thành phần Kitô hữu bình thường sống trong các oàn cảnh của cuộc đời ngày nay, hay ngài chỉ là một mẫu gương, một mô phạm cho một ít linh hồn được tuyển chọn có thể thực sự thực hiện đường lối thanh tẩy này, đường lối tiến lên huyền nhiệm ấy? Để có thể thấy được câu trả lời, trước hết chúng ta cần phải nhớ rằng đời sống của Thánh Gioan Thánh Giá không phải là một “chuyến bay ngang qua các đám mây huyền nhiệm”, mà là một cuộc đời rất khó nhọc, rất thực tế và cụ thể, vừa là một con người cải cách hội dòng đến gặp phải nhiều chống đối, và vừa là bề trên tỉnh dòng, bị giam giữ bởi anh em dòng ngài, bị những xỉ nhục không thể nào tưởng tượng nổi cũng như việc đối xử tàn tệ về thể lý. Nó là một đời sống khó nhọc, thế nhưng, chính trong những tháng ngày ở trong tù ngục ấy, ngài đã viết một trong những tác phẩm tuyệt vời nhất của mình. Nhờ đó chúng ta mới có thể hiểu được rằng đường lối với Chúa Kitô, bước đi với Chúa Kitô là “Đường Lối” không phải là một đè nén chồng chất lên trên gánh nặng vốn đã đủ, mà là một cái gì hoàn toàn khác hẳn, nó là một thứ ánh sáng, là một thứ sức mạnh giúp chúng ta có thể mang vác gánh nặng ấy.

 

Nếu một người có tình yêu cao cả trong Ngài thì tình yêu này như cống hiến cho họ đôi cánh, và họ chịu đựng những trục trặc trong đời sống một cách dễ dàng hơn, vì họ có trong chính mình một thứ ánh sáng là đức tin: được Thiên Chúa yêu thương và để mình được yêu thương bởi Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Tác động để mình được yêu thương này là ánh sáng giúp chúng ta mang vác gánh nặng hằng ngày của mình. Thánh thiện không phải là công việc của chúng ta, là công việc khó khăn của chúng ta, mà đúng ra nó chính là “sự cởi mở”, ở chỗ mở ra các cánh cửa sổ của linh hồn để ánh sáng của Thiên Chúa có thể lọt vào bên trong, đừng lãng quên Thiên Chúa, vì chính lúc cởi mở trước ánh sáng của ngài linh hồn có được sức mạnh cũng như niềm vui của kẻ được cứu chuộc. Chúng ta hãy cầu cùng Chúa để Ngài giúp chúng ta tìm thấy sự thánh thiện ấy, đó là việc hãy để mình được Thiên Chúa yêu thương, một ơn gọi của tất cả mọi người chúng ta cũng là việc cứu chuộc thực sự vậy. Cám ơn anh chị em.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/2/2011

 

 

 

 

 

Thứ Năm

 

 

Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 54, 1-10

"Chúa kêu gọi ngươi như gọi người thiếu phụ sầu khổ".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa phán: Hỡi người son sẻ, hãy reo mừng! Hãy vui mừng, hãy hân hoan, hỡi người không sinh nở. Vì con cái người phụ nữ bị bỏ rơi sẽ nhiều hơn con cái người có đôi bạn. Hãy mở rộng trại ngươi ở, hãy giăng trướng nhà ngươi, chớ để chật hẹp; hãy giăng dây cho dài, đóng cọc cho chắc. Ngươi sẽ bành trướng ra bên tả bên hữu, dòng dõi ngươi sẽ được các nước làm gia nghiệp.

Ðừng sợ, vì ngươi sẽ không phải thất vọng, đừng xấu hổ, vì ngươi sẽ quên sự hổ thẹn thời niên thiếu, và nỗi nhục nhã của thời goá bụa, ngươi cũng quên đi. Vì Ðấng thống trị ngươi là Ðấng đã tạo thành ngươi, Danh Ngài là Chúa Thiên Binh; Ðấng Cứu Chuộc ngươi là Ðấng Thánh Israel, Người là Thiên Chúa khắp địa cầu.

Chúa ngươi phán: như người thiếu phụ bị bỏ rơi và sầu muộn, Chúa gọi ngươi. Sao có thể ly dị người vợ trong buổi thanh xuân? Trong một thời gian ngắn, Ta đã bỏ ngươi, nhưng với lượng từ bi, Ta sẽ đón nhận ngươi. Chúa Cứu Chuộc ngươi phán: Trong cơn nóng giận, Ta đã ẩn mặt khỏi ngươi, nhưng trong tình yêu vĩnh cửu, Ta xót thương ngươi. Cũng như trong thời Noe, Ta đã thề rằng nước lụt Noe sẽ không tràn ra trên đất nữa, thì Ta cũng thề rằng Ta sẽ không giận ngươi, không trách ngươi nữa. Chúa thương xót ngươi phán: Dù núi dời, dù đồi chuyển, tình yêu của Ta đối với ngươi không hề thay đổi, và giao ước bình an của Ta luôn vững bền.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11-12a và 13b

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Này đây Chúa đến để cứu dân Người. Hạnh phúc thay những ai sẵn sàng đón rước Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 7, 24-30

"Gioan là sứ thần dọn đường Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi những người Gioan sai đến đi rồi, Chúa Giêsu nói với đám đông về Gioan rằng: "Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc óng ả và đời sống xa hoa thì ở trong cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Chính về ông đã có lời chép rằng: "Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con". Ta nói cho các ngươi biết, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan, nhưng người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông".

Toàn thể dân chúng đã nghe Ngài, cả những người thu thuế đều vâng lời Thiên Chúa, và chịu phép rửa của Gioan. Còn những người Biệt phái và Luật sĩ đã khinh chê ý định của Thiên Chúa, và họ không chịu để Gioan thanh tẩy cho.

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm

 

 

Hôm nay, Thứ Năm Tuần III Mùa Vọng, Bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay là bài Phúc Âm chuyển tiếp rất hay, rất khít khao với Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh (17-24/12). Ở chỗ, chuyển từ Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là vị được sai đến trước sang Đức Giêsu Kitô là Đấng đến sau ngài. 

 

Thật vậy, từ 3 ngày trong tuần cuối cùng của Tuần II Mùa Vọng cho tới hôm qua, Thứ Tư Tuần III Mùa Vọng, chúng ta thấy Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả xuất hiện qua những lời Chúa Giêsu nói trong các bài Phúc Âm khác nhau. Thế nhưng, hôm nay, trước khi bước vào Tuần Bát Nhật trước Giáng Sinh, với những bài Phúc Âm liên quan trực tiếp hướng đến hay dẫn đến biến cố Giáng Sinh, một Đức Giêsu Kitô xuất hiện nơi vấn nạn được các môn đệ của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đặt ra cho Người: "Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?", trong Bài Phúc Âm hôm qua, mà còn qua lời khen tặng vị tiền hô của chính mình trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô như xác nhận rằng Người thật sự là Đấng đến sau vị tiền hô, đúng như vị tiền hô đã giới thiệu và báo trước rằng dù là Đấng đến sau nhưng Người lại cao trọng hơn chính vị tiền hô, như chúng ta sẽ thấy ở trong các bài phúc âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho Tuần Bát Nhật trước đại lễ Giáng Sinh (17-24/12).


Nếu để ý chúng ta sẽ thấy, trong khi các bài Phúc Âm cho các Chúa Nhật trong Mùa Vọng thì Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đóng vai chính trong sứ vụ ngài nói về hay làm chứng hoặc giới thiệu Đấng đến sau ngài là Chúa Giêsu Kitô, hay kêu gọi dân chúng dọn đường cho Đấng đến sau ngài, thì ở những bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho các ngày thường trong Mùa Vọng, chẳng hạn trong tuần III này, Chúa Giêsu lại đóng vai chính trong việc nói về Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người. Tại sao vậy?

 

Xin thưa, theo cảm nhận và nhận thức của người viết ở đây, chính vì Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là một trong những tiên tri sát với Người, "tiên tri của Đấng tối cao" (Luca 1:76), "nhận ra Người (xem Gioan 1:33 và Mathêu 3:13-14), làm chứng về Người (xem Gioan 1:34), giới thiệu Người cho cả dân chúng lẫn môn đệ của ngài (xem Gioan 1:29, 36), và là hình ảnh về Người (xem Mathêu 17:10-13), đến độ, nếu dân chúng thật sự tin tưởng vào vị tiền hô này thì mới có thể nhận ra Người là Đấng Thiên Sai, Đấng đến sau nhân vật đến trước mình, Đấng cao trọng và quyền năng hơn vị tiền hô của mình, đúng như vị tiền hô đã xác nhận (xem Gioan 1:27, 30).

 

Sau này Chúa Giêsu còn nói rõ Người, ngoài chứng từ do Người tự chứng về Người, Người còn hai chứng từ nữa, một bởi trời là Cha của Người và một bởi người ta là chính vị tiền hô Gioan Tẩy Giả của Người, một chứng từ tuy không cao trọng bằng chứng từ bởi trời nhưng dù sao vẫn cần thiết, bởi Người là một Vị Thiên Chúa hóa thân làm người, một Ngôi Vị Thần Linh có hai bản tính:

 

"Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Ðấng khác làm chứng về tôi và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gioan, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điêu này để các ông được cứu độ. Ông Gioan là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi" (Gioan 5:31-36).

 

Thật vậy, vai trò của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thật là quan trọng và cần thiết, ở chỗ, theo ý định thần linh cứu độ của Thiên Chúa, ngài cần phải được sai đến trước để dọn đường cho Người là Đấng đến sau, nên chính bản thân của vị tiền hô này cũng đã được thụ thai cách lạ trước Người 6 tháng (xem Luca 1:36), và là vị "còn hơn một tiên tri nữa", như Chúa Kitô đã minh định ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, bởi vì ngài còn là "sứ thần" của Thiên Chúa, một vai trò tương đương với vai trò của sứ thần Gabiên từ trời xuống truyền tin cho thân phụ của ngài (xem Luca 1:19), hay cho thân mẫu của Chúa Giêsu (xem Luca 1:26), vị sứ thần đã được Trời Cao sai đến với dân Do Thái nên đã được chính Thánh Kinh Cựu Ước của dân này tiên báo, như Chúa Giêsu đã trích lại trong lời Người nói về vị tiền hô của mình: "Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con",  là vị được Chúa Kitô trong cùng bài Phúc Âm hôm nay hết lời khen tặng, khen tặng hết lời: "Ta nói cho các ngươi biết, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan, nhưng người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông".

 

Chính vì cần phải tin vào Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được sai đến trước Chúa Kitô mới có thể tin Chúa Kitô mà cuối bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca đã viết cảm nhận của chính bản thân ngài là một trong hiếm nhân vật được linh ứng viết ra Phúc Âm và là cuốn Phúc Âm thứ ba mới quả quyết rằng: "Toàn thể dân chúng đã nghe Ngài, cả những người thu thuế đều vâng lời Thiên Chúa, và chịu phép rửa của Gioan. Còn những người Biệt phái và Luật sĩ đã khinh chê ý định của Thiên Chúa, và họ không chịu để Gioan thanh tẩy cho". Như thế có nghĩa là, chỉ có ai thật lòng khao khát và trông đợi Đấng Thiên Sai, một Đấng Thiên Sai đích thực của Thiên Chúa (chứ không phải của loài người, theo ý riêng hay định kiến của loài người liên quan đến quyền năng về chính trị), mới có thể nhận biết vị "sứ thần" loài người này của Thiên Chúa, nhờ đó mới sẵn sàng "chịu phép rửa của Gioan".

 

Vấn đề then chốt được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Kitô lại cần phải có tiền hô dọn đường? Tự mình Người không thể tỏ mình ra cho dân Do Thái được hay sao?? Xin thưa, theo cảm nhận và nhận thức của người viết ở đây, vì Chúa Kitô là một Vị Thiên Chúa hóa thân làm người, bởi thế, Con Người Lịch Sử Giêsu Nazarét là Thiên Chúa Nhập Thể đây, là Đấng Thiên Sai Cứu Thế đây, nơi thân phận của một con người thuần túy trước mắt thế gian, cần phải đươc một nhân chứng trực tiếp giới thiệu cho chung dân chúng cũng như cho riêng thành phần lãnh đạo và trí thức trong dân, nhờ đó họ mới có thể nhận biết Người, mà nhân vật có thế giá nhất trong dân bấy giờ không ai khác hơn là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, một con người đã khiến chung dân chúng cảm phục và tin theo, mà còn làm cho thành phần trí thức cùng lãnh đạo dân chúng phải thắc mắc tưởng ngài là Đấng Thiên Sai (xem Gioan 1:19-27).

 

Tuy nhiên, ơn cứu độ của Thiên Chúa bao gồm tất cả mọi người, nhất là những con người có vẻ cứng lòng tin, giả hình, cao ngạo như thành phần biệt phái và luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay. Họ mới thật sự đáng thương và cần phải cứu trước hết và trên hết. Phải chăng họ chính là thành phần tiêu biểu trong dân Do Thái được Tiên Tri Isaia nói tới trong Bài Đọc I hôm nay: 1- "son sẻ" không sinh hoa trái bởi đời sống nông cạn thuần hình thức của họ; 2- "chật hẹp" ở chỗ thiển cận theo phán đoán trần gian của họ về những gì Thiên Chúa tỏ ra cho họ, nên họ cần phải "mở rộng" con mắt đức tin để có thể "bành trướng ra bên tả bên hữu" là sống lòng thương xót đối với tha nhân. Lời Chúa qua miệng tiên tri Isaia đã kêu gọi và phấn khích họ như sau:

 

"Ðừng sợ, vì ngươi sẽ không phải thất vọng, đừng xấu hổ, vì ngươi sẽ quên sự hổ thẹn thời niên thiếu, và nỗi nhục nhã của thời goá bụa, ngươi cũng quên đi. Vì Ðấng thống trị ngươi là Ðấng đã tạo thành ngươi, Danh Ngài là Chúa Thiên Binh; Ðấng Cứu Chuộc ngươi là Ðấng Thánh Israel, Người là Thiên Chúa khắp địa cầu. Chúa ngươi phán: như người thiếu phụ bị bỏ rơi và sầu muộn, Chúa gọi ngươi. Sao có thể ly dị người vợ trong buổi thanh xuân? Trong một thời gian ngắn, Ta đã bỏ ngươi, nhưng với lượng từ bi, Ta sẽ đón nhận ngươi. Chúa Cứu Chuộc ngươi phán: Trong cơn nóng giận, Ta đã ẩn mặt khỏi ngươi, nhưng trong tình yêu vĩnh cửu, Ta xót thương ngươi. Cũng như trong thời Noe, Ta đã thề rằng nước lụt Noe sẽ không tràn ra trên đất nữa, thì Ta cũng thề rằng Ta sẽ không giận ngươi, không trách ngươi nữa. Chúa thương xót ngươi phán: Dù núi dời, dù đồi chuyển, tình yêu của Ta đối với ngươi không hề thay đổi, và giao ước bình an của Ta luôn vững bền".

 

 

Phụ Thêm: Tiền Hô Gioan Tẩy Giả - Dấu Báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế

 

Tiền Hô Gioan Tẩy Giả - Dấu Báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế, có thể nói, được chứng thực và tỏ hiện qua tiến trình Phúc Âm trong một thời gian 8 ngày liền, ngay trước Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh (17-24/12).

 

Thật vậy, tiến trình từ Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đến Đấng Đến Sau là Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai Cứu Thế, được Giáo Hội sửa soạn bằng những bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến vị Tiền Hô của Chúa Kitô, vị được chính Chúa Kitô là Đấng Đến Sau nói về như một nhân vật lịch sử đã đến trước của mình, không phải là để Người làm chứng về vị tiền hô của mình, như chính vị tiền hô làm chứng về Người, mà là để chứng thực Thánh Gioan Tẩy Giả quả thực là Vị Tiền Hô của Người, xứng đáng là Tiền Hô của Người, liên quan đến cả bản thân, ơn gọi, cũng như sứ vụ với sứ điệp cùng hoạt động của vị tiền hô này. Đó là lý do, từ Thứ 5 tuần thứ II Mùa Vọng đến hết Thứ 6 tuần thứ III Mùa Vọng (tới Thứ 6 Tuần III Mùa Vọng chỉ khi nào Lễ Giáng Sinh rơi vào Chúa Nhật), ngay trước Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh (17-24/12).

 

Chúng ta có thể thấy được toàn bộ 8 bài Phúc Âm về Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong Mùa Vọng hằng năm của Giáo Hội theo chiều kích Mùa Vọng - Chân Trời Giáng Sinh, nghĩa là theo chiều hướng ngưỡng vọng đến Chúa Kitô Cao Trọng Đến Sau Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, và cũng ngay trong chiều hướng từ Tiền Hô đến Đấng Thiên Sai Cứu Thế này, trước hết, chúng ta thấy được rằng không ai được Chúa Kitô nói đến hay nói về nhiều, (còn hơn là Mẹ Maria hay bất cứ một tông đồ nào nữa), như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhưng từ vị tiền hô này của mình, Người muốn tỏ mình ra Người thực sự là Đấng Đến Sau cao trọng hơn chính Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người, như chúng ta có thể phân tách từng bài phúc âm theo thứ tự sau đây:

 

Phúc Âm Thứ 5 Tuần II Mùa Vọng: "Trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả... chính Gioan là Elia, kẻ phải đến". Qua câu nói này, Chúa Giêsu muốn nói về một con người được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Tiền Hô cho Con Ngài, và vì thế nên con người ấy cần phải xứng đáng với vai trò Tiền Hô của mình, ở chỗ được truyền tin thụ thai cách lạ, được trời cao đặt tên cho, và được tràn đầy Thánh Linh ngay trong lòng mẹ khi mới là một thai nhi 6 tháng tuổi v.v. (xem Luca 1:13,41), những đặc ân xứng hợp với vị Tiền Hô này, như những đặc ân mà người nữ được Thiên Chúa chọn là Mẹ của Đấng Đến Sau ngài cũng cần phải đươc trang bị, xứng là một đệ nhất tạo vật về ân sủng.

 

Phúc Âm Thứ 6 Tuần II Mùa Vọng: "Gioan đến, không ăn không uống...". Bằng câu nói này, Chúa Giêsu muốn nói đến nhân cách và đức hạnh trổi vượt nơi Vị Tiền Hô của Người, một nhân vật không chiều theo khuynh hướng tự nhiên như chung loài người bị nhiễm nguyên tội với bản tính đã bị hư đi, mang mầm mống tội lỗi, với đầy những đam mê nhục dục và tính mê nết xấu, luôn hướng hạ về những gì là trần tục phù du giả dối, và chính đời sống khắc khổ cả về nơi trú ngụ, lẫn thực phẩm và y phục của nhân vật Tiền Hô này như thế, mới có thể và xứng đáng loan báo và phản ảnh Người là Đấng Đến Sau, Đấng đã sống trong hoang địa 40 ngày đêm để chay tịnh (x Mathêu 4:1-11) đã luôn tìm những nơi hoang vắng để cầu nguyện.

 

Phúc Âm Thứ 7 Tuần II Mùa Vọng: "Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ.... Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả". Đến đây Chúa Giêsu xác nhận vai trò của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, ở chỗ, ngài quả thực là Tiền Hô của Người, vì ngài đóng vai Elia cần phải đến trước để dọn đường cho Người là dân Do Thái và lòng dân, như Tiên Tri Elia ngày xưa, vị tiên tri đã làm cho dân Do Thái đã bỏ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ mà ngoại tình với tà thần Baan, mãi cho đến khi được tỏ tường chứng kiến thấy phép lạ nhãn tiền, từ lời chuyển cầu thần thế đầy tin tưởng của vị đại tiên tri Elia này (xem 1 Chư Vương 18:1-40), họ mới có thể trở về với Thiên Chúa.

 

Phúc Âm Thứ 2 Tuần III Mùa Vọng: "Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?" Câu chất vấn này, cũng chính là cầu Chúa Giêsu trả lời cho thành phần trưởng tế và kỳ lão có thẩm quyền ở Đền Thờ Giêrusalem muốn xem Người lấy quyền nào mà dám ra tay thanh tẩy đền thờ, đánh đuổi thành phần buôn bán trong đền thờ đã được họ cho phép, và cho dù họ không dám trả lời cho Người thì họ vẫn không thể nào phủ nhận được sự thật của vấn đề được Chúa Giêsu gợi ý đặt ra cho họ, hoàn toàn vì lợi ích thiêng liêng của họ, sự thật đó là phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chỉ là phép rửa thống hối, "bởi người ta", một dấu chứng thực lòng thống hối của những ai lãnh nhận, như thành phần thu thuế và gái điếm tin vào ngài, và là một cách thức dọn mình xứng đáng để lãnh nhận Phép Rửa tha tội "bởi trời" của Người, sau khi Người Vượt Qua, bằng lòng tin vào Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế.

 

Phúc Âm Thứ 3 Tuần III Mùa Vọng: "Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài". Ở đây, với câu này, Chúa Giêsu muốn nói đến một Tiền Hô "công chính" của Người, một thứ công chính không phải như kiểu giả hình của thành phần biệt phái và luật sĩ Do Thái, mà là một thứ công chính trong chân lý, ở chỗ, ngài chẳng những "không ăn không uống" trong "sa mạc", hơn là ở ngoài đường phố hay chiếm chỗ danh dự nơi các bữa tiệc như thành phần công chính giả hình, mà còn chối bỏ bản thân mình, không phải là Đấng Thiên Sai, hơn là tiếng kêu trong hoang địa, loan báo Đấng Đến Sau cao trọng hơn, đến độ, ngài không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người, đúng như ngài đã công khai tự thú và làm chứng, khi thấy dân chúng bắt đầu kéo đến với Đấng Đến Sau hơn ngài: "Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi" (Gioan 3:30).

 

Phúc Âm Thứ 4 Tuần III Mùa Vọng: "Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy". Câu nói này của Chúa Giêsu nhắn gửi cho Vị Tiền Hô của Người, bấy giờ đang bị quận vương Hêrôđê nhốt vào ngục, ngay từ khi Người bắt đầu công khai thừa tác vụ của Người, không hẳn là Người cho rằng vị Tiền Hô của Người đã tỏ ra hồ nghi về Người là Đấng Đến Sau, Đấng ngài nghe các môn đệ của ngài thuật lại có hành vi cử chỉ cấp tiến, như để cho các môn đệ sống thoải mái chẳng chay tịnh gì, thậm chí để cho họ lỗi luật Ngày Hưu Lễ nữa..., nên ngài cần phải sai hai môn đệ đến chất vấn xem "Người có phải là Đấng phải đến hay chăng?", trái lại, những gì Người nhắn cho ngài, qua các môn đệ của ngài, là cố ý nhắm đến chính các môn đệ của ngài, thành phần cần phải thấy ứng nghiệm những gì thày họ nói về Đấng Đến Sau quyền năng hơn thày họ, ở chỗ Người thương xót chữa lành.

 

Phúc Âm Thứ 5 Tuần III Mùa Vọng: "Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Chính về ông đã có lời chép rằng: 'Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con'". Đến đây Chúa Giêsu nói đến vai trò Tiền Hô của Gioan Tẩy Giả, một vai trò còn cao trọng hơn cả vai trò tiên tri như trong Cựu Ước nữa, hay nói đúng hơn, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chẳng những là vị tiên tri, bởi cũng nói tiên tri, nói về tương lai, về Đấng Đến Sau, mà còn là một đại tiên tri, vì là vị tiên tri duy nhất trong các tiên tri, được báo trước bởi chính vị tiên tri trước ngài là tiên tri Isaia, thậm chí còn hơn thế nữa, ngài còn là chứng nhân của Chúa Kitô, của Đấng Đến Sau, Đấng mà ngài chưa hề gặp hay quen biết để mà làm chứng, như thành phần các tông đồ sau này, nhờ được mắt thấy tai nghe đụng chạm (1Gioan 1:1), nghĩa là được trực tiếp sống với Chúa Kitô 3 năm, (sau khi phản Thày, bỏ Thày và chối Thày), mới có thể nhận biết Người mà làm chứng cho Người, nhất là Vị Tiền Hô còn đóng vai "bạn của chàng rể", giới thiệu chàng rể với cộng đồng dân Chúa nữa, như vị trung gian giữa Cựu Ước và tân Ước vậy (xem Gioan 3:29)

 

Phúc Âm Thứ 6 Tuần III Mùa Vọng: "Gioan là đèn cháy sáng, và các ngươi trong một lúc đã vui mừng vì ánh sáng đó. Nhưng phần Ta, Ta có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan". Câu cuối cùng này, trong loạt 8 bài Phúc Âm liền về Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong Mùa Vọng, của Chúa Kitô cho chúng ta thấy tất cả sự thật về ơn gọi và vai trò Tiền Hô của Thánh Gioan Tẩy Giả, và ý nghĩa cùng mục đích của những gì Người nói về vị Tiền Hô vô tiền khoáng hậu này của Người, trong suốt 7 ngày qua, ở các bài Phúc Âm chúng ta đã theo dõi và phân tích, đó là "Gioan (chỉ) là đèn cháy sáng" thôi, Người mới là "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), Đấng, khi "hóa thành nhục thể" (Gioan 1;14), là "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Gioan 1:5), bởi thế, đúng như Thánh Ký Gioan đã khẳng định trong đoạn mở đầu phúc âm của mình về mối liên hệ bất khả phân ly, nhưng vô cùng cách biệt, giữa vị Tiên Hô Gioan Tẩy Giả với Đấng Thiên Sai Cứu Thế đến sau ngài như thế này: "Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người". (Gioan 1:6-9).

Thế rồi, trong chính Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh (17-24/12), Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả nổi bật này còn được 4/8 bài Phúc Âm trực tiếp trình thuật lại nữa, vì ngài bất khả phân ly với Đấng Thiên Sai Cứu Thể, trong cả mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh của Người, đó là các bài Phúc Âm cho ngày thứ ba trong Tuần Bát Nhật 19/12, ngày thứ năm trong Tuần Bát Nhật 21/12, ngày thứ bảy và thứ tám trong Tuần Bát Nhật là 23 và 24/12, như chúng ta sẽ theo dõi và suy niệm trong từng ngày trong Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh, tức trước Khi "Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta. Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) 

 

Thứ Sáu

 

Bài Ðọc I: Is 56,1-3a,6-8

"Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Thiên Chúa phán: Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện. Phúc thay người làm như vậy, và con người trung thành với điều ấy, giữ ngày Sabbat không hề sai lỗi, và giữ tay mình không làm tội ác.

Và người ngoại bang tin theo Chúa sẽ không nói: Chúa sẽ tách tôi ra khỏi dân Ngài.

Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Ngài, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta.

Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện, Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc.

Chúa là Thiên Chúa đã tập hợp những người Israel tha hương, phán rằng: Ta sẽ tập hợp, những người khác lại với chúng.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 66,2-3,5,6-8

Ðáp: Chư dân, hãy ca tụng Chúa, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài!

Xướng 1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng tôi, xin tỏ ra cho chúng tôi thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu thiên hạ nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.

2) Các dân tộc hãy mừng vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.

3) Ðấng đã chúc phúc cho chúng tôi, Ðức Thiên Chúa, Chúa chúng tôi. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng tôi, để cho khắp cùng bờ cõi đất kính sợ Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Ngày của Chúa gần đến; Người sẽ đến cứu chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Jo 5, 33-36

"Gioan là đèn cháy sáng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do Thái rằng: Các ngươi đã sai người đến hỏi Gioan và ông đã làm chứng cho sự thật. Còn Ta, Ta không ỷ vào lời chứng của một người, nhưng Ta nói thế là để các ngươi được cứu thoát.

Gioan là đèn cháy sáng, và các ngươi trong một lúc đã vui mừng vì ánh sáng đó.

Nhưng phần Ta, Ta có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan: đó là những việc Cha Ta đã giao cho Ta thực hiện, chính các việc mà Ta đang làm minh chứng rằng Cha đã sai Ta.

Ðó là lời Chúa.

Cảm Nghiệm Lời Chúa

 

Rất hiếm khi thấy Mùa Vọng tuần thứ III kéo dài cho tới Thứ Sáu hôm nay (như năm 2022), trước khi tiến vào Tuần Bát nhật trước Lễ Giáng sinh (17-24/12). Theo chiều hướng chung của cả Tuần III Mùa Vọng chỉ có 6 ngày này, từ Thứ Hai đến hết Thứ Sáu, chúng ta thấy bài Phúc Âm hôm nay, ngày Thứ Sáu 16/12 Tuần III Mùa Vọng đây vẫn hoàn toàn liên quan đến nhân vật Tiền hô Gioan Tẩy giả như từ đầu tuần đến nay.

Trong 6 bài Phúc Âm liên quan đến vị Tiền hô Gioan Tẩy giả này, được Chúa Giêsu nói về ngài, thì ở bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa ngài và Chúa. Ở chỗ, ngài làm chứng cho Chúa trước dân Do thái: "Các ngươi đã sai người đến hỏi Gioan và ông đã làm chứng cho sự thật... Gioan là đèn cháy sáng, và các ngươi trong một lúc đã vui mừng vì ánh sáng đó".

Đó là ơn gọi và sứ vụ của vị tiền hô cần được sai đến, để đi trước Người mà dọn đường cho Người. Tuy nhiên, chứng từ của ngài chỉ là chứng từ về trần gian, nơi nhân loại, tuy cần thiết và bất khả thiếu, nhưng dù sao vẫn không phải là những gì quan trọng nhất, chính yếu, để có thể chứng thực Người là Đấng Thiên sai. Đó là lý do, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: "Ta không ỷ vào lời chứng của một người... Ta có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan: đó là những việc Cha Ta đã giao cho Ta thực hiện, chính các việc mà Ta đang làm minh chứng rằng Cha đã sai Ta".

Vì chứng của vị Tiền hô Tẩy giả này chỉ liên quan đến Dân Do thái thời bấy giờ thôi, thì làm sao dân ngoại sau này nhận biết Chúa Kitô là Đấng Thiên sai nếu không có vị Tiền hô được sai đến với dân Do thái đây. Tất nhiên, để dân ngoại có thể tin vào Chúa Kitô Thiên sai của dân Do thái mà được cứu độ, cần phải có chứng từ của thành phần tông đồ về một  Đấng Thiên sai Vượt qua, thành phần chứng nhân tiên khởi được sai "đi khắp thế gian" (Marcô 16:15), một thế gian đã được Đấng Thiên sai mang giòng máu Dân Do thái nhưng lại mặc lấy nhân tính của chung loài người để cứu độ toàn thể nhân loại, chứ không phải chỉ riêng dân Do thái.

Tuy nhiên, chính vì "ơn cứu độ xuất phát từ dân Do Thái" (Gioan 4:22), mà vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đã tuyển chọn cho Ngài một dân riêng, để từ đó, theo giòng lịch sử cứu độ của họ, Đấng Cứu Thế được Ngài hứa với 2 nguyên tổ sau nguyên tội (xem Khởi nguyên 3:15), và trong lời hứa với tổ phụ Abraham là tổ phụ của dân Chúa chọn đã bao gồm cả dân ngoại (xem Khởi Nguyên 17:4, 18:18). Đó là lý do "Chư dân, hãy ca tụng Chúa, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài!" ở câu đáp của Bài Đáp Ca hôm nay, bởi họ đã ý thức được tất cả sự thật về dự án cứu độ thần linh có tính cách phổ quát của LTXC, như trong Bài Đọc 1 hôm nay đã chất chứa những câu cảm nhận sau đây:

"Và người ngoại bang tin theo Chúa sẽ không nói: Chúa sẽ tách tôi ra khỏi dân Ngài. Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Ngài, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta. Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện, Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc. Chúa là Thiên Chúa đã tập hợp những người Israel tha hương, phán rằng: Ta sẽ tập hợp, những người khác lại với chúng".