SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 


PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

TUẦN VIII THƯỜNG NIÊN


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật Thánh Thần Hiện Xuống


Dẫn Nhập

 

Phụng niên của Giáo Hội bao gồm, theo thứ tự: Mùa Vọng và Giáng Sinh cùng Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh cùng Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh. Tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh là Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, cũng là lễ mở đầu cho Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh. Tột đỉnh của Mùa Phục Sinh là Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, cũng là lễ mở đầu cho Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, một thời điểm được kết thúc vào lễ Chúa Kitô Vua liên quan đến mầu nhiệm cánh chung.

Như thế, theo phụng niên Mùa Thường Niên được chia làm hai phần: Mùa Thường Niên sau Giáng Sinh, kéo dài ít là 5 tuần lễ, như Chu Kỳ Năm C 2013, hay nhiều nhất là 9 tuần lễ, như Chu Kỳ Năm A 2011; và Mùa Thường Niên sau Phục Sinh, thường tiếp nối bằng cách bỏ đi một tuần sau Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, chẳng hạn Chu Kỳ Năm B 2014 và 2021, Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kết thúc ở tuần 6 thì Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh được tiếp tục ở tuần 8 ngay sau Chúa Nhật Hiện Xuống.

Nếu phụng niên cho các Chúa Nhật được chia ra làm chu kỳ 3 Năm A-B-C, theo Phúc Âm Thánh Mathêu (A), Phúc Âm Thánh Marco (B) và Phúc Âm Thánh Luca (C), thì phụng niên cho ngày trong tuần được chia ra làm Năm I (năm lẻ, như năm 2015) và Năm II (năm chẵn, như năm 2016)nhưng chỉ áp dụng cho bài đọc 1 mà thôi, còn Phúc Âm thì tiếp tục theo thứ tự như sau: 9 tuần lễ đầu (hậu Giáng Sinh) theo Thánh ký Marco là vị thánh viết cuốn phúc âm có thể nói là đầu tiên và ngắn nhất, 12 tuần lễ tiếp (tức từ tuần 10 đến hết tuần 21) theo Thánh ký Mathêu và 13 tuần lễ cuối (tức từ tuần 22 đến 34) theo Thánh ký Luca

Nếu Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh là thời điểm kéo dài của Mùa Giáng Sinh và tiếp tục chủ đề "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" của Mùa Giáng Sinh, thì Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh cũng tiếp tục chủ đề "Thày là sự sống" của Mùa Phục Sinh. Đó là lý do, trong mấy tuần lễ đầu của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh có các Chúa Nhật hay ngày trong tuần là những Lễ Trọng liên quan đến sự sống thần linh

Trước hết là Chúa Nhật Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng ban sự sống; sau Chúa Nhật Hiện Xuống là Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi, nguồn mạch sự sống thần linh; trong chính tuần lễ sau Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi là Thứ Năm Lễ Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô, bí tích thông ban sự sống thần linh; một tuần sau Thứ Năm Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô là Thứ Sáu Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, động lực thông ban sự sống thần linh; ngay sau Thứ Sáu Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là Thứ Bảy Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, Mẹ của sự sống thần linh. Chính vì một loạt Chúa Nhật từ sau Chúa Nhật Hiện Xuống liên quan đến các Lễ Trọng về Sự Sống như thế mà PVLC cho các Chúa Nhật sau Hiện Xuống là PVLC cho các Lễ Trọng như được liệt kê trên đây, chứ không phải PVLC cho Chúa Nhật Thường Niên.

Ngo
ài ra, nếu tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh là Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, một biến cố Người chính thức và công khai tỏ mình ra cho riêng Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, để mở màn cho sứ vụ Thiên Sai của Người nơi cộng đồng xã hội Do Thái là thành phần dân tuyển chọn của Thiên Chúa đang trông mong Đấng Thiên Sai, nhất là trong thời gian họ đang bị đế quốc Rôma đô hộ, thì chủ đề chung của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh quả thực là "Lời ở giữa chúng ta", tức giữa Dân Do Thái. Đó là lý do chiều hướng của phụng vụ Lời Chúa cho Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hoàn toàn nhắm đến dân Do Thái, với những bài Phúc Âm của Thánh ký Marco trình thuật về một Chúa Kitô Thiên Sai của dân Do Thái.

Và nếu tột đỉnh của Mùa Phục Sinh là Lễ Hiện Xuống, một biến cố Chúa Kitô Phục Sinh, qua thành phần chứng nhân của Người, nhờ được "mặc lấy quyền lực từ trên cao" (Luca 24:49), bắt đầu tỏ mình ra "cho mọi tạo vật" (Marco 16:15) và "cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8), thì chủ đề chung cho Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh đúng là "sự sống" - "Thày là sự sống", một "sự sống đời đời" ở chỗ "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đức Giêsu Kitô Cha sai" (Gioan 17:3), mà muốn "nhận biết" là sự sống đời đời thì cần phải được rao giảng bởi "Giáo Hội lữ hành tự bản chất là truyền giáo" (Sắc Lệnh Truyền Giáo Ad Gentes của Công Đồng Chung Vaticanô II - đoạn 2). 


Tuy nhiên, Giáo Hội Chúa Kitô chỉ có thể rao giảng và làm chứng về Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Con Thiên Chúa hằng sống, với Chúa Thánh Thần và bởi Chúa Thánh Thầh mà thôi, một Ngôi Thần Linh đã hiện xuống chẳng những trên chung các tông đồ như luồng gió mạnh tràn vào đầy nhà, nơi các vị đang qui tụ, mà còn trên từng vị bằng hình lưỡi lửa, một Ngôi Thánh Linh được Chúa Kitô Thăng Thiên từ Cha sai đến không phải chỉ cho nội bộ Giáo Hội mà là cho toàn thể nhân loại qua Giáo Hội, bằng chứng từ của Giáo Hội, những chứng từ bao gồm 3 chiều kích của sứ vụ Thánh Linh trong việc tố giác, hay nói cách khác, chứng tỏ cho thế gian biết về tội lỗi, về công chính và về luận phạt (xem Gioan 16:8), tức là làm cho thế gian "tội lỗi", qua chứng từ "công chính" của Giáo Hội, để được cứu rỗi, chứ không bị "luận phạt".


Dầu sao tất cả những gì Thánh Thần thực hiện đều vì Đức Kitô, cho Chúa Kitô và dẫn đến Chúa Kitô, qua Giáo Hội của Người và với Giáo Hội của Người, như chứng nhân và thừa tác của Người, Đấng đã sai các vị "đi khắp thế gian rao giảng tin mừng cho tất cả mọi tạo vật" (Marco 16:15), để các vị "tuyển mộ môn đồ ở mọi dân nước, và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cùng giảng dạy cho họ những gì Thày đã truyền cho các con" (Mathêu 28:20), những gì về "Thày là đường, là sự thật và là sự sống" (Gioan 14:6): "là đường" qua quyền năng của Người, "là sự thật" nơi giáo huấn của Người và "là sự sống" với lòng thương của Người.

Đó là chủ đề chính và là chiều hướng của phụng vụ Lời Chúa cho Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh nhắm đến chung nhân loại, qua trung gian Giáo Hội, bởi Thánh Linh, Đấng tác động Giáo Hội bằng chính Lời Chúa được Giáo Hội cử hành, rao giảng và hiện thực, nhưng trước hết với những bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (từ tuần 10 đến hết 21), một phúc âm viết cho dân Do Thái để chứng thực Chúa Kitô đúng là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái, và chính vì là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái mà Người mới thực sự chính là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại, như Phúc Âm Thánh ký Luca chứng thực (từ tuần 22 đến hết 34), một Phúc Âm được một vị Thánh ký xuất thân từ dân ngoại viết cho dân ngoại. 


Nếu để ý chúng ta sẽ thấy chủ đề suốt phụng niên của Giáo Hội rất ăn khớp với nhau:


1- Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh và Mùa Thường Niên sau Mùa Giáng Sinh: "Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể (Mùa Vọng) và ở giữa chúng ta (Mùa Giáng Sinh). Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người (Từ Lễ Hiển Linh tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa), vình hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý (Mùa Thường Niên sau Mùa Giáng Sinh)" (Gioan 1:14);


2- Mùa Chay (6 tuần rưỡi) và Tuần Thánh: "Người ta sống không nguyên bởi bánh (4 tuần đầu Mùa Chay), mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (2 tuần cuối Mùa Chay)" (Mathêu 4:4); "Con Người đến không phải để được hầu hạ (3 ngày thường đầu Tuần Thánh) mà là hầu hạ (Thứ Năm Tuần Thánh) và hiến mạng sống mình cho nhiều người được cứu độ (Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh)" (Mathêu 20:28);


3- Mùa Phục Sinh và Mùa Thường Niên sau Mùa Phục Sinh: "Thày là sự sống lại (Tuần Bát Nhật Phục Sinh) và là sự sống (6 tuần còn lại của Mùa Phục Sinh)" (Gioan 11:25); "Thày là đường (qua quyền năng chữa lành và trừ quỉ của Người), là sự thật (nơi giáo huấn mạc khải và trọn lành của Người) và là sự sống (với lòng thương xót nhân ái và phục vụ của Người)" (Gioan 14:6).

 

Chúa Nhật

 

(Nếu Chúa Nhật này ở vào những năm không bị Lễ Hiện Xuống át đi như năm 2023)

 

Bài Ðọc I: Is 49, 14-15

"Ta sẽ không quên ngươi đâu".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Sion nói: "Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi". Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 61, 2-3. 6-7. 8-9ab.

Ðáp: Duy nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui (c. 2a).

Xướng: 1) Duy nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui; do chính mình Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Ðá Tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến lũy của tôi, tôi sẽ không hề nao núng. - Ðáp.

2) Duy nơi Thiên Chúa linh hồn tôi hãy nghỉ an, vì do chính mình Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Ðá Tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến lũy của tôi, tôi sẽ không hề nao núng. - Ðáp.

3) Vinh dự và an toàn của tôi ở nơi Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa, tôi có Ðá Tảng kiên cố và chỗ dung thân. Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc, hãy đổ dốc niềm tâm sự trước nhan Người. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 4, 1-5

"Chúa sẽ phơi bày những ý định của tâm hồn".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, như vậy người ta coi chúng tôi như những thừa tác viên của Ðức Kitô, và những người phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Do đó, người ta đòi hỏi nơi những người phân phát các mầu nhiệm là mỗi người phải trung tín. Phần tôi, tôi không lấy làm quan trọng khi bị anh em hay toà án nhân loại đoán xét; nhưng tôi cũng không đoán xét chính mình tôi. Vì chưng, mặc dầu lương tâm không trách cứ tôi điều gì, nhưng không phải vì thế mà tôi đã được công chính hoá. Ðấng đoán xét tôi chính là Chúa. Vì thế, anh em đừng đoán xét trước thời gian cho đến khi Chúa đến, Người sẽ đưa ra ánh sáng những điều giấu kín trong bóng tối và phơi bày những ý định của tâm hồn; và bấy giờ Thiên Chúa sẽ ban khen tương xứng cho mỗi người.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 24-34

"Các con chớ áy náy về ngày mai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mátthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được. Vì thế Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?

Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin.

Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó, Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

Chỉ khi nào "không làm tôi hai chủ", mới có thể "tìm kiếm nước Thiên Chúa trước"

hay ngược lại

Muốn "tìm kiếm nước Thiên Chúa trước" thì "không làm tôi hai chủ"

SUY NIỆM

Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật VIII Thường Niên Năm A tiếp tục Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu, một bài giảng về Phúc Đức Trọn Lành liên quan đến ơn gọi và sứ vụ tông đồ của thành phần môn đệ chứng nhân của Người, một bài giảng dài (đến 3 đoạn 5-7 của Phúc Âm Thánh ký Mathêu) được Phụng Vụ Giáo Hội cố ý chọn đọc cho những Chúa Nhật Thường Niên Năm A hậu Giáng Sinh, từ Chúa Nhật thứ IV cho đến Mùa Chay, tức cho tới Chúa Nhật IX Thường Niên, vì Chúa Nhật X là thời điểm phụng vụ tiến sang Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, với bài Phúc Âm tông đồ Mathêu được kêu gọi.

Theo chiều hướng Phúc Đức Trọn Lành, một giáo huấn được Chúa Kitô cố ý giảng dạy ở Trên Núi, tiêu biểu cho những gì là trổi vượt trên thế gian tầm thường là nơi thành phần môn đệ được Người huấn luyện để "hạ sơn hành hiệp", nội dung của bài Phúc Âm hôm nay nhắm đến đời sống nội tâm của riêng thành phần môn đệ của Người, sau khi Thày của các vị đã hướng các vị về một đức ái trọn hảo đối với tha nhân theo mô phạm "trọn lành như Cha của các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48) ở bài Phúc Âm tuần trước.

Thật vậy, chiều kích sống nội tâm của thành phần môn đệ Chúa Kitô theo giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay bao gồm hai yếu tố chính yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly, đó là, về tiêu cực, "không làm tôi hai chủ", nhờ đó, về tích cực mới có thể chỉ biết "tìm kiếm nước Thiên Chúa trước", bằng một tinh thần hoàn toàn tin yêu phó thác: "chớ áy náy lo lắng về ngày mai", phó thác cho sự quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan đầy yêu thương của Thiên Chúa, Đấng "vẫn nuôi" "chim trời" là loài "không gieo, không gặt, không thu vào lẫm", và vẫn "mặc cho" "hoa huệ ngoài đồng... không làm lụng, không canh cửi... nay còn, mai bị ném vào lò lửa" còn đẹp hơn "cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông".

Về Vị Thiên Chúa quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan đầy yêu thương, "Đấng hiện hữu" (Xuất Hành 3:14), bởi thế danh xưng bất diệt của Thiên Chúa đối với loài người theo đúng thực tại thần linh "hiện hữu" của Ngài là "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacóp" (Xuất Hành 3:15), Đấng không bao giờ bất trung với những gì Ngài đã hứa, cho dù con người có qua đi hay phản bội Ngài, Đấng không bao giờ bỏ rơi dân của Ngài, bỏ rơi sự nghiệp của Ngài, đúng như Ngài khẳng định qua miệng tiên tri Isaia ở Bài Đọc 1 hôm nay: "Sion nói: 'Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi'. Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".

Chính vì Thiên Chúa không bao giờ quên con người, thậm chí họ càng khốn khổ càng được Ngài thương và càng được Ngài tỏ mình ra cho họ, mà Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay mới có một cảm nhận đầy xác tín rằng: "Duy nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui" (Thánh Vịnh 61:2a), một cảm nhận đầy xác tín được bày tỏ bằng tâm tình tràn đầy tin tưởng an vui trong cùng Bài Đáp Ca như sau:

1) Duy nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui; do chính mình Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Ðá Tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến lũy của tôi, tôi sẽ không hề nao núng. 

2) Duy nơi Thiên Chúa linh hồn tôi hãy nghỉ an, vì do chính mình Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Ðá Tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến lũy của tôi, tôi sẽ không hề nao núng. 

3) Vinh dự và an toàn của tôi ở nơi Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa, tôi có Ðá Tảng kiên cố và chỗ dung thân. Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc, hãy đổ dốc niềm tâm sự trước nhan Người.  

Chính vì Thiên Chúa là "Đấng Hiện Hữu", trung thành và bao giờ cũng muốn cho con người sống, một sự sống thần linh viên mãn vĩnh hằng chứ không phải chỉ là một cuộc sống tạm bợ trên đời tạm gửi mau qua này mà, giữa nhu cầu trần thế, cho dù là những nhu cầu căn bản nhất và thiết yếu nhất cho sự sống thể lý của con người trên trần gian này: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?", so với "nước Thiên Chúa và sự công chính của Người" chỉ là những gì tầm thường, không quan trọng nhất bằng những gì thuộc về Thiên Chúa và hoàn toàn phụ thuộc vào những gì thuộc về Thần Linh: "còn các điều đó, Người sẽ ban thêm cho các con".

Đó là lý do chính Chúa Kitô đã trả lời cho các tông đồ về lương thực hằng ngày của Người, khi các vị dường như vào một khu làng gần đó ăn uống và đồng thời để mua lương thực cho Người, Đấng cố ý ngồi lại như thế chờ các vị ở Giếng Giacóp nhưng với ẩn ý là để câu một con cá thật bự là người phụ nữ Samaritano đáng thương (xem Gioan 4:6-26).

Việc Chúa Giêsu cần phải câu cho bằng được con cá sộp vào trường hợp hiếm quí này mới quan trọng hơn là vấn đề ăn uống thường tình của Người, Đấng đã dạy các môn đệ trong bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?", cũng là Đấng đã truyền cho các tông đồ khi đi rao giảng rằng: "Các con đừng mang đi đường áo khoác hay giầy dép hoặc gậy gộc" (Mathêu 10:10), và vì thế Người đã khẳng định với các tông đồ mời Người "ăn một chút" (Gioan 4:31) rằng: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người" (Gioan 4:34), để rồi ngay sau khi nói câu này Người đã hướng các vị về sứ vụ truyền giáo: "Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!" (Gioan 4:35).

Một trong các vị tông đồ tiêu biểu đã ý thức được những gì là ưu tiên đệ nhất trong cuộc đời của mình cần phải dấn thân cho đến cùng bất chấp mọi giá, và những gì là thứ yếu, tùy thuộc và phụ thuộc, không cần phải bận tâm và bị chi phối làm hỏng đại cuộc, nên ngài đã sống đúng như vậy, đó là Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, vị mà trong Thư 1 gửi giáo đoàn Corinto ở Bài Đọc 1 hôm nay, đã cho biết về mình như thế này:

Trước hết là ưu tiên đệ nhất trong cuộc đời của ngài là một trong "những thừa tác viên của Ðức Kitô, và là những người phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa", thành phần mà "do đó, người ta đòi hỏi nơi những người phân phát các mầu nhiệm là mỗi người phải trung tín"; sau nữa là những gì thứ yếu, phụ thuộc, tùy thuộc, không cần phải bận tâm lo lắng cho bằng hay giống như ưu tiên đệ nhất ấy: "Phần tôi, tôi không lấy làm quan trọng khi bị anh em hay toà án nhân loại đoán xét; nhưng tôi cũng không đoán xét chính mình tôi. Vì chưng, mặc dầu lương tâm không trách cứ tôi điều gì, nhưng không phải vì thế mà tôi đã được công chính hoá. Ðấng đoán xét tôi chính là Chúa".

 

Đức Thánh Cha Phanxicô - Huấn Từ Truyền Tin cho Chúa Nhật VIII Năm A ngày 2/3/2014:

 

"Túi tiền không ở nơi tấm khăn liệm mai táng"

 

Ở tâm điểm của phụng vụ Chúa Nhật hôm nay chúng ta thấy một trong những sự thật hết sức an ủi đó là sự quan phòng thần linh. Tiên tri Isaia trình bày nó như là hình ảnh yêu thương từ mẫu đầy dịu dàng như thế này: "Một người đàn bà có thể nào quên đứa con của mình được chăng, không dịu dàng với con cái của lòng mình chăng?" (49:15). Thế thì tuyệt vời biết bao! Thiên Chúa không quên chúng ta, từng người trong chúng ta! Ngài không quên từng người chúng ta theo tên gọi và tên họ của chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta và không quên chúng ta. Thật là một ý nghĩ tuyệt vời... Lời mời gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa ấy hợp với đoạn Phúc Âm Thánh Mathêu: "Các con hãy xem chim trời", Chúa Giêsu nói, "chúng không gieo vãi hay gặt hái, chúng không thu tích vào kho lẫm, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng... Hãy xem các bông hoa đồng nội mọc lên. Chúng không lam lũ hay kéo sợi. Thế mà Thày nói cho các con biết ngay cả Solomon vinh quang tột bậc cũng không được phục sức như chúng" (Matheu 6:26, 28-29).
 
Thế nhưng, có nhiều người sống trong các điều kiện nhất thời, hay trong tình trạng khốn khổ bất xứng với phẩm giá của họ thì những lời này của Chúa Giêsu dường như là những gì trừu tượng nếu không muốn nói là ảo tưởng. Thế nhưng trên thực tế họ còn hiện thực hơn nữa! Họ nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không thể làm tôi hai chủ là Thiên Chúa và giầu có. Bao lâu mọi người nhào ra tìm kiếm những gì họ có thể cho bản thân mình thì chẳng bao giờ có công lý hết. Chúng ta cần phải hiểu rõ điều ấy! Bao lâu mọi người nhào ra tìm kiếm những gì họ có thể cho bản thân mình thì chẳng bao giờ có công lý hết. Tuy nhiên, nếu tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, cùng nhau chúng ta tìm kiếm vương quốc của Ngài, thì bấy giờ không còn ai thiếu mất những gì họ cần để sống một cách xứng đáng.
 
Một trái tim bị chiếm cứ bởi ước muốn chiếm hữu là một con tim đầy những ước muốn chiếm hữu này mà lại thiếu Thiên Chúa. Vì lý do ấy Chúa Giêsu thường khiển trách thành phần giầu có, vì họ có một khuynh hướng mãnh liệt đặt niềm tin tưởng của mình vào các thứ sản vật của trần gian này, mà sự an toàn, an toàn thực sự chỉ ở nơi Thiên Chúa. Trong một con tim bị chiếm hữu bởi giầu sang thì không còn chỗ cho đức tin nữa: tất cả mối quan tâm là giầu sang, không có chỗ cho đức tin. Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa được chỗ đứng dành cho Ngài, tức là chỗ trước hết, thì tình yêu của Ngài sẽ dẫn chúng ta tới chỗ chia sẻ sự giầu có của chúng ta nữa, tới chỗ sử dụng chúng để phục vụ cho các dự án của tình đoàn kết và sự phát triển, như chúng ta thấy nơi rất nhiều tấm gương, ngay cả các tấm gương mới đây, trong lịch sử Giáo Hội. Nhờ thế mà sự quan phòng của Thiên Chúa truyền đạt tới những người khác qua việc phục vụ của chúng ta, việc chúng ta chia sẻ với họ. Nếu mỗi người chúng ta thu tích giầu có chẳng những cho mình mà còn phục vụ nhau thì qua đó sự quan phòng của Thiên Chúa được thể hiện nơi cử chỉ đoàn kết này. Tuy nhiên, nếu ai đó chiếm hữu sự vật cho mình mà thôi thì điều gì xẩy ra cho họ một khi họ được Thiên Chúa gọi về? Họ không thể nào mang theo mình các thứ giầu sang của họ, vì, như anh chị em biết, túi tiền không ở nơi tấm khăn liệm mai táng! Tốt hơn là chia sẻ, vì chúng ta chỉ mang về trời những gì chúng ta chia sẻ với người khác mà thôi
 
Đường lối mà Chúa Giêsu chỉ vẽ dường như không thực tiễn cho lắm theo quan điểm của một thứ tâm thức chung và cuộc khủng hoảng kinh tế; thế nhưng nếu chúng ta thận trọng nghĩ về nó thì nó dẫn chúng ta tới bậc thang đúng đắn về các thứ giá trị. Chúa Giêsu nói rằng: "Mạng sống không đáng giá hơn lương thực và thân xác không đáng giá hơn y phục hay sao?" (Mathêu 6:25). Để bảo đảm là không ai thiếu bánh ăn, nước uống, áo quần, nhà ở, việc làm, sức khỏe chúng ta cần nhìn nhận nhau như con cái của Cha trên trời và vì thế như anh chị em của nhau, theo đó chúng ta tác hành một cách thích hợp. Tôi đã nêu lên vấn đề này trong Sứ Điệp Hòa Bình ngày 1/1 của tôi: tình huynh đệ là đường lối dẫn đến hòa bình, điều này nghĩa là cùng nhau tiến bước, cùng nhau chia sẻ các thứ.
 
Theo ý nghĩa của Lời Chúa Chúa Nhật này, chúng ta cầu khấn Trinh Nữ Maria là Mẹ của Đấng Quan Phòng Thần Linh. Chúng ta hãy ký thác đời sống của chúng ta cho Mẹ, Đấng là đường lối của Giáo Hội và của nhân loại. Đặc biệt chúng ta xin Mẹ chuyển cầu để tất cả chúng ta có thể nỗ lực sống một cách giản dị và điều độ, khi lưu ý tới các nhu cầu của anh chị em chúng ta là những người cần đến sự giúp đáp của chúng ta nhất.


http://w2.vatican.va/content/francesco/en/angelus/2014/documents/papa-francesco_angelus_20140302.html

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch 



Thứ Hai sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

 

Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh

Lễ nhớ bắt buộc - Thứ Hai sau Đại Lễ Hiện Xuống


Tước hiệu Mẹ Hội Thánh được dành cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a vì chính Mẹ đã sinh hạ Đức Ki-tô là Đầu của Hội Thánh và trước khi Con lòng Mẹ trút hơi thở trên thập giá, Mẹ trở nên Hiền Mẫu của những kẻ được cứu chuộc. Đức Phao-lô VI đã long trọng xác nhận danh hiệu này trong diễn từ đọc trước các nghị phụ Công Đồng Va-ti-ca-nô II ngày 21-11-1964, và quyết định : “Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa.”


Sắc Lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích về việc cử hành trong lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh

 

Ngày 03 tháng 03 năm 2018, Toà thánh đã công bố Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích - ký ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức - về việc cử hành trong lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, theo lịch chung của Giáo Hội.

Sau đây là bản dịch Việt ngữ toàn văn Sắc lệnh, cùng bản văn phụng vụ với các bài đọc, và bài đọc II Giờ Kinh Sách của lễ này; bản dịch tiếng Việt của Uỷ ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.

* * *

Trong Hội Thánh hiện nay, việc hân hoan dâng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa, dưới ánh sáng của những suy tư về mầu nhiệm Chúa Kitô và về bản tính của chính Hội Thánh, luôn phải nhắc đến hình ảnh của một người nữ (x. Gl 4,4): Ðức Trinh nữ Maria, Ðấng vừa là Mẹ của Chúa Kitô vừa là Mẹ của Hội Thánh.

Ðiều này đã được khơi lên trong suy tư của Hội Thánh từ những gợi ý của thánh Augustinô và thánh Lêô Cả. Theo thánh Augustinô, Ðức Maria là mẹ của các chi thể Chúa Kitô, vì Mẹ đã yêu thương cộng tác vào việc tái sinh các tín hữu trong Hội Thánh; theo thánh Lêô, khi Ðầu được sinh ra thì toàn thân thể cũng được sinh ra, vì thế Ðức Maria vừa là mẹ của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, vừa là mẹ của các chi thể trong nhiệm thể Người chính là Hội Thánh. Ðây là những khẳng định liên quan đến tư cách Thánh Mẫu của Ðức Maria và sự kết hợp mật thiết của Mẹ với công trình của Ðấng Cứu thế, đạt đến cao điểm trong giờ hy tế thập giá.

Bên chân thập giá (x. Ga 19,25), Mẹ đã đón nhận lời trối đầy yêu thương của Chúa Giêsu Con Mẹ, và nơi người môn đệ được Chúa sủng ái, Mẹ đã tiếp nhận mọi người như những người con phải được tái sinh vào đời sống thần linh, và như thế, Mẹ đã trở nên người mẹ từ ái của Hội Thánh đã được tác sinh trên Thánh giá khi Chúa Kitô trao ban Thần Khí. Trong khi đó, cũng nơi người môn đệ yêu dấu, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ thay mặt Người thể hiện tình yêu thương đối với Ðức Maria, Người trao gửi để họ đón nhận Mẹ trong tâm tình thảo hiếu kính yêu.

Như một người hướng dẫn tận tâm của Hội Thánh vừa được thiết lập, Ðức Maria bắt đầu sứ mạng làm mẹ khi hiện diện với các Tông đồ nơi phòng Tiệc ly, cùng cầu nguyện đợi chờ Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,14). Trong tâm tình đó, suốt bao thế kỷ, nền đạo đức Kitô giáo đã tôn vinh Ðức Maria với những tước hiệu khác nhau, mang ý nghĩa tương tự nhau, chẳng hạn Mẹ các môn đệ, Mẹ các giáo hữu, Mẹ các tín hữu, Mẹ của tất cả những kẻ được tái sinh trong Chúa Kitô, và "Mẹ của Hội Thánh", tước hiệu này đã xuất hiện trong những tác phẩm của các tác giả tu đức cũng như trong các văn kiện Huấn quyền của Ðức Bênêđictô XIV và Lêô XIII.

Vào ngày 21 tháng 9 năm 1964, khi bế mạc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II, Ðức chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã dựa vào những yếu tố nói trên như cơ sở nền tảng để công bố Ðức Trinh Nữ Maria là "Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là Mẹ của toàn thể các Kitô hữu, giáo dân cũng như mục tử, những người vẫn gọi Mẹ là Mẹ vô cùng nhân ái", và Ðức Giáo hoàng xác lập việc "toàn thể đoàn dân Kitô giáo từ nay phải luôn gia tăng lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa dưới tước hiệu vô cùng dịu ngọt ấy".

Trong Năm Thánh Hòa giải 1975, Tòa Thánh đã biên soạn và đưa vào Sách Lễ Rôma bản văn lễ ngoại lịch kính Ðức Trinh Nữ Maria Mẹ Hội Thánh; tước hiệu này cũng được thêm vào Kinh cầu Ðức Mẹ (1980), một số bản văn khác cũng được phổ biến trong tập sách các lễ kính Ðức Trinh Nữ Maria (1986). Theo ý thỉnh nguyện, lễ này đã được phép ghi vào lịch riêng của một số quốc gia, giáo phận và hội dòng.

Ðức Giáo hoàng Phanxicô, sau khi thận trọng cân nhắc hiệu quả của việc sùng kính này có thể giúp nâng cao cảm thức làm mẹ của Hội Thánh, đồng thời cũng gia tăng lòng tôn kính Ðức Mẹ nơi các mục tử, tu sĩ và các tín hữu, đã quyết định đưa vào lịch chung của Hội Thánh Rôma, lễ nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, được cử hành hằng năm vào ngày thứ Hai sau lễ Hiện xuống.

Việc cử hành lễ này sẽ giúp chúng ta nhớ rằng, sự tăng trưởng của đời sống Kitô hữu phải luôn gắn kết với mầu nhiệm Thánh Giá, với hy tế của Chúa Kitô nơi bàn tiệc Thánh Thể cũng như với tâm tình hiến dâng của Ðức Trinh Nữ, Mẹ của Ðấng Cứu thế và của những người được cứu chuộc.

Lễ nhớ này phải được ghi trong lịch và sách phụng vụ để cử hành Thánh lễ và Phụng vụ Giờ kinh. Bản văn phụng vụ liên quan được phổ biến cùng với sắc lệnh này, và các bản dịch sẽ được công bố sau khi đã được các Hội Ðồng Giám Mục phê duyệt và Bộ Phụng Tự chuẩn nhận.

Tại những nơi đã được phép đặc biệt để cử hành lễ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, vào một ngày khác và với bậc lễ cao hơn, vẫn có thể tiếp tục cử hành như thế.

Bất chấp mọi điều trái nghịch.

Ban hành từ trụ sở Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích, ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức.

 

Hồng y Robert Sarah

Tổng trưởng

Tổng Giám mục Arthur Roche

Thư ký



Phụng Vụ Lời Chúa

Bài đọc I St 3,9-15.20

"Mẹ của toàn thể chúng sinh"

Bài trích sách Sáng thế

Sau khi Ađam ăn trái cấm,

9 Chúa là Thiên Chúa đã gọi ông

và nói cùng ông rằng: "Ngươi ở đâu vậy?"

10 Ông thưa: "Con nghe tiếng Ngài trong vườn, nhưng con sợ hãi,

vì con trần truồng và con ẩn núp".

11 Chúa hỏi ông: "Ai đã cho ngươi biết ngươi đang trần truồng?

Có phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi ăn không?"

12 Ađam thưa: "Người phụ nữ mà Ngài đã cho làm bạn với con,

chính bà ấy đã cho con trái cây và con đã ăn".

13 Chúa là Thiên Chúa nói cùng người phụ nữ rằng:

"Tại sao ngươi làm điều đó?"

Người phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối con, và con đã ăn".

14 Chúa là Thiên Chúa phán cùng con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều đó,

mi là thứ bị chúc dữ giữa mọi súc vật và thú hoang!

Mi sẽ bò bằng bụng và sẽ ăn bụi đất suốt đời mi.

15 Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ,

giữa miêu duệ mi và miêu duệ Bà,

người miêu duệ này sẽ đạp đầu mi, còn mi sẽ cắn gót chân người".

20 Rồi Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh.

Ðó là Lời Chúa.

 

Hoặc: Cv 1,12-14

"Các Tông đồ đồng tâm kiên trì cầu nguyện cùng với Ðức Maria, mẹ của Chúa Giêsu"

Bài trích sách Công vụ Tông đồ

12 Sau khi Chúa Giêsu lên trời,

các Tông đồ rời núi Cây Dầu trở về Giêrusalem,

núi này ở gần Giêrusalem,

chỉ cách một quãng đường được đi trong ngày sabbat.

13 Sau khi trở về thành, các ông lên phòng trên lầu.

Hiện diện tại đây có các ông Phêrô, Gioan, Giacôbê, Anrê,

Philipphê, Tôma, Bartôlômêô, Matthêu, Giacôbê con ông Alphê,

Simon nhiệt thành, và Giuđa con ông Giacôbê.

14 Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện,

cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria, mẹ của Chúa Giêsu,

và các anh em Người.

Ðó là Lời Chúa.

 

Thánh vịnh đáp ca Tv 86 (87) 1-2.3 và 5.6-7

Ðáp: Hỡi thành đô của Thiên Chúa,

mọi người truyền tụng những điều hiển hách về thành.

 

1 Nền móng Sion được đặt trên núi thánh,

2 Chúa yêu chuộng cửa thành

hơn mọi nơi cư ngụ của nhà Giacob.

3 Hỡi thành đô của Thiên Chúa.

Mọi người truyền tụng những điều hiển hách về thành. - Ð.

 

5 Nói đến Sion, thiên hạ bảo:

"Tại đó, người người đã sinh ra,

chính Ðấng Tối Cao củng cố thành". - Ð.

 

6 Thiên Chúa ghi vào sổ bộ các dân:

"Kẻ này người nọ đã sinh ra tại đó",

7 và họ múa nhảy hát ca:

"Mọi nguồn mạch của tôi ở nơi thành". - Ð.

 

Alleluia

Kính chào Ðức Trinh Nữ diễm phúc, Mẹ đã hạ sinh Chúa Giêsu.

Kính chào Mẹ Hội Thánh, Mẹ là Ðấng giữ gìn trong chúng con

Thần Khí của Thánh Tử Giêsu Kitô

 

Tin Mừng Ga 19, 25-27

Này là Con Bà. Này là Mẹ con.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan

Khi ấy, 25 đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người,

cùng với chị mẹ Người là bà Maria, vợ ông Clêôpas và Maria Mađalêna.

26 Khi thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu,

Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà".

27 Rồi Người nói với môn đệ: "Này là Mẹ con".

Và từ giờ đó môn đệ đã đón bà về nhà mình.

Ðó là Lời Chúa. 

Đức Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách - Bài đọc 2

 

Trích diễn từ của Đức Phao-lô VI, dịp kết thúc khoá III Công Đồng Va-ti-ca-nô II, ngày 21-11-1964.

Khi suy xét những mối tương quan liên kết chặt chẽ Đức Ma-ri-a với Hội Thánh, để tôn vinh Đức Thánh Trinh Nữ và để an ủi mọi người chúng ta, chúng tôi công bố : Đức Ma-ri-a rất thánh là Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là của toàn dân Ki-tô giáo, cả tín hữu lẫn mục tử, vốn gọi Người là Mẹ rất mực yêu thương, và chúng tôi quyết định rằng : Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa mà dâng lên Người những lời khẩn nguyện.

Chư huynh đáng kính, đây không phải là danh hiệu lạ lẫm đối với lòng đạo đức của các Ki-tô hữu, mà trái lại, các tín hữu Ki-tô và toàn thể Hội Thánh vẫn thích kêu cầu Đức Ma-ri-a bằng danh hiệu là Mẹ hơn các danh hiệu khác. Thật vậy, danh hiệu này dẫn đến lý do đích thực cho lòng sùng kính Đức Ma-ri-a, vì đặt nền vững chắc trên chính phẩm tước đã được ban cho Đức Ma-ri-a là Mẹ của Ngôi Lời Nhập thể.

Vì, cũng như thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa làm cho Đức Ma-ri-a có những tương quan hết sức đặc biệt với Đức Ki-tô và làm cho Mẹ hiện diện trong công trình cứu độ loài người do Đức Ki-tô Giê-su thực hiện, thì cùng một cách ấy, những tương quan giữa Đức Ma-ri-a và Hội Thánh cũng đặc biệt phát sinh từ thiên chức làm Mẹ, bởi lẽ Đức Ma-ri-a là Mẹ Đức Ki-tô, Đấng ngay khi nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng đồng trinh của Mẹ, đã lập tức liên kết thân mình mầu nhiệm của Người là Hội Thánh với bản thân Đấng là Đầu. Vậy Đức Ma-ri-a, với tư cách là Mẹ Đức Ki-tô, cũng phải được xem là Mẹ của mọi tín hữu và mọi mục tử, tức là của Hội Thánh.

Bởi thế, chúng ta có lý do để, dù bất xứng, dù yếu hèn, cứ lấy tinh thần đức tin và tình yêu con thảo mà đưa mắt sốt sắng nhìn lên Mẹ. Xưa kia Mẹ đã trao ban cho chúng ta Đức Giê-su là nguồn suối ân sủng từ trời, thì nay Mẹ không thể không đem lại cho Hội Thánh sự phù trợ từ mẫu của Mẹ, nhất là khi Hiền Thê của Đức Ki-tô đang hăng say nhiệt thành và nỗ lực chu toàn trọng trách mang ơn cứu độ cho mọi người.

Niềm tín thác này, chúng ta được khuyên dạy hãy bền lòng hơn nữa mà dưỡng nuôi và củng cố cho vững vàng, vì giữa Mẹ chúng ta trên trời với loài người vẫn có những mối ràng buộc hết sức chặt chẽ. Mặc dầu được Thiên Chúa ban dư đầy những hồng ân rất trọng đại và tuyệt vời để nên Thân Mẫu xứng đáng của Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ vẫn rất gần gũi chúng ta. Mẹ là nữ tử của A-đam như chúng ta và do đó cũng là chị em với chúng ta vì cùng chung bản tính loài người. Thực ra, Mẹ được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ nhờ công trạng sau này của Đức Ki-tô ; nhưng ngoài các ơn Chúa ban, Mẹ còn nêu gương đức tin hoàn hảo khiến Tin Mừng ca tụng : “Bà thật có phúc vì đã tin”.

Trong cuộc đời phải chết này, khi diễn tả mẫu người môn đệ hoàn hảo của Đức Ki-tô, Mẹ đã nêu gương mọi nhân đức và đã hoạ lại đầy đủ các mối phúc Đức Ki-tô rao giảng. Vì thế, khi quãng diễn sức sống thiên hình vạn trạng và đầy năng động nhiệt thành của mình, toàn thể Hội Thánh nhận Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa làm mẫu gương tuyệt vời mà bắt chước Đức Ki-tô cách hoàn hảo.

Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, khi chịu đóng đinh trên thập giá, Con Một Chúa đã muốn Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, thân mẫu Người, làm Mẹ chúng con ; xin cho Hội Thánh Chúa đang ngày một thêm đông, nhờ tình thương Mẹ hiền nâng đỡ, được vui mừng vì đoàn con thánh thiện và vì lôi cuốn muôn dân về với mình. Chúng con cầu xin

 

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa Thứ Hai sau CN VIII Thường Niên

 

(Nếu Thứ Hai tuần VIII Thường Niên này không bị Lễ Mẹ Giáo Hội cùng ngày át đi như năm 2023)

 

 I: (Năm I) Hc 17, 20-28

"Hãy trở về với Thiên Chúa và hãy nhận biết công minh của Người".

Trích sách Huấn Ca.

Thiên Chúa đã ban đường công chính cho người sám hối, nâng đỡ những kẻ mất niềm tin, và hướng dẫn họ đi vào đường chân lý.

Hãy trở về với Thiên Chúa và hãy từ bỏ tội lỗi. Hãy kêu cầu trước tôn nhan Chúa, hãy chấm dứt những điều xúc phạm, hãy trở về cùng Chúa, hãy lánh xa những điều gian ác, và hãy chê ghét những điều xấu xa. Hãy nhận biết công minh và sự xét xử của Thiên Chúa. Hãy đứng vững và cầu xin với Thiên Chúa Tối Cao.

Hãy thông công vào đời sống các thánh, và cùng với kẻ sống hãy xưng tụng Thiên Chúa. Ðừng ỷ lại vào sự sai lầm của bọn gian ác. Hãy thú nhận tội lỗi trước khi chết, vì chết rồi, thì không còn thú tội được nữa. Ngươi hãy thú nhận tội lỗi khi còn sống, hãy thú nhận tội lỗi khi còn sống và còn khoẻ mạnh.

Hãy ca tụng Thiên Chúa và ngươi sẽ được vinh hiển trong tình xót thương của Người. Lòng nhân lành của Chúa và sự tha thứ của Người đối với những kẻ trở lại với Người thật lớn lao dường nào!

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 6. 7

Ðáp: Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa (c. 11a).

Xướng: 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy. Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. - Ðáp.

2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi". - Ðáp.

3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người Này. - Ðáp.

4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ; Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 17-27

"Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại, quỳ gối xuống trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt, hãy thảo kính cha mẹ". Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ". Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta". Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh, và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao". Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa".

Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

"Chúa Giêsu trìu mến nhìn người ấy": "Ngươi chỉ còn thiếu một điều"
SUY NIỆM

Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (10:27-37) cho Thứ Hai Tuần 8 Thường Niên hôm nay là câu Chúa Giêsu trả lời cho câu hỏi của một người thành khẩn hỏi Chúa Giêsu: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy, trước hết, sự sống đời đời được chất chứa ngay trong Thập Giới, nghĩa là ai tuân giữ các giới răn, ít nhất tránh được những gì là tiêu cực thì cũng được rỗi, như Chúa Giêsu đã liệt kê: "đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt, hãy thảo kính cha mẹ".
Ở đây, chúng ta chỉ thấy 7 điều trong Thập Giới mà thôi, từ điều 4 tới điều 10: điều 4 - "thảo kính cha mẹ", điều 5 - "chớ giết người", điều 6 và 9 - "chớ ngoại tình", điều 7 và 10 - "chớ lấy của người" hay "chớ lường gạt" cũng có nghĩa là "chớ tham của người", và điều 8 - "chớ làm chứng dối", hoàn toàn không thấy 3 điều đầu tiên liên quan đến Thiên Chúa đâu. 
Vậy chẳng lẽ không cần 3 điều đầu tiên và chính yếu hết sức quan trọng trong 10 điều răn Chúa thì cuối cùng cũng được cứu rỗi, cũng được sống đời đời hay sao?
Có thể, đối với Chúa Giêsu, 3 điều đầu tiên trong Thập Giới chưa được Người nhắc đến liên quan đến vấn đề thứ hai như Người đặt ra cho kẻ đặt vấn đề "được sống đời đời", đó là: "ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta".
Đúng thế, vấn đề thứ hai được Chúa Giêsu nêu lên sau khi liệt kê 7 điều tối thiểu trong Thập Giới thật sự là liên quan đến 3 điều đầu tiên của Thập Giới. Vì một khi thực hành được vấn đề thứ hai này thì con người ta nói chung và con người giầu có trong bài Phúc Âm nói riêng đúng là "thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự" (điều 1 trong Thập Giới).
Tuy nhiên, trong trường hợp của con người giầu có trong bài Phúc Âm này cũng rất đặc biệt, ở chỗ, cho dù không thể làm theo lời khuyên của Chúa Giêsu trên đây, để có thể sống trọn lành hơn, nhưng người này vẫn không tham lam quá độ, hay vì tham lam mà lường gạt và gian lận sản vật của ai, thậm chí coi tiền bạc hơn mạng người, hay giầu có mà sinh tật trai gái ngoại tình, hoặc khinh thường bất kính với cha mẹ v.v. 
Đó là lý do, như Phúc Âm thuật lại, "Chúa Giêsu trìu mến nhìn người ấy", sau khi nghe người này cho biết là "Lạy Thày, những điều ấy tôi đã giữ từ nhỏ". Và đó cũng là lý do Chúa Giêsu mới nhắc nhở con người đã đủ điều kiện tối thiểu để "được sống đời đời" ấy rằng "Ngươi chỉ còn thiếu một điều", đó là sống trọn lành hơn, một đời sống trước hết mang đến cho chính bản thân của đương sự cái lợi đầu tiên đó là được bình an vui sống, chứ không còn cảm thấy băn khoan khắc khoải và bất an nữa, dù bản thân và đời sống của đương sự "có nhiều của cải", một tâm trạng mà đương sự đã không thể nào che giấu ở ngay vấn đề được đương sự thoạt tiên đặt ra hỏi Chúa Giêsu "tôi phải làm gì để được sống đời đời", nhất là qua thái độ cuối cùng của đương sự "bỏ đi với nét mặt u buồn", sau khi nghe lời khuyên sống trọn lành của Người.

Trong lời khuyên của Chúa Giêsu "ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta", chúng ta thấy Người không bảo người giầu có đem bố thí gia tài của anh ta, mà bán trước rồi bố thí sau. "Bán" tr
ước đây có nghĩa là gia tài này có giá trị chứ không phải đồ bỏ, và "bố thí" sau đó "cho người nghèo khó" có nghĩa là trao tặng những gì quí báu của mình cho thành phần có thể hiểu là nghèo khó thật sự về vật chất cần được chia sẻ giúp đỡ, mà cũng có thể nghèo khó về tinh thần bởi lòng tham vô đáy của con người cần ý thức lại trước gương từ bỏ của nghĩa cử "bố thí" rộng lượng của những ai muốn theo Chúa.

Và cũng chỉ sau khi "bán" và "bố thí" "tất cả gia tài" của mình đi, con người mới được "kho báu trên trời", ngay cả trước khi "theo" Chúa, ch
ứ không phải chỉ sau khi theo Chúa mới được. Bởi vì "kho tàng của các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó" (Mathêu 6:21). Như thế, so với "kho báu trên trời" thì "tất cả gia tài" của con người trên trần gian này chẳng có là gì, vậy mà chỉ cần "bán" và "bố thí" đi "tất cả gia tài" chẳng bao nhiêu của mình thì họ như thể đổi 1 xu lấy 1 triệu vậy.

Vì cho dù "tất cả gia tài" của con người ở trên đời này có giá trị đến đâu chăng nữa, cũng không quí bằng "kho báu trên trời" vốn l
à những gì vô giá và không gì có thể so sánh được. Nghĩa là chỉ khi nào lòng của con người không còn quyến luyến một sự gì trên thế gian này nữa, dù tự bản chất của chúng là tốt và cần, ngoài một mình Thiên Chúa, họ mới có thể theo Chúa mà thôi: "Không ai có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể vừa phụng sự Thiên Chúa và làm tôi tiền của được" (Mathêu 6:24). 

CẢM NGHIỆM

Trong đời sống đạo, đời sống thiêng liêng, đời sống đức tin, vì còn nguyên mầm mống nguyên tội trong bản thân, được lưu truyền từ nguyên tội và bởi nguyên tội ngay từ ban đầu qua bản tính loài người của mình, mà cuộc đời của Kitô hữu trên trần gian này mới trở thành hay mới được gọi là một cuộc hành trình đức tin, một cuộc sống theo đức tin hướng dẫn và trung thành với đức tin cho đến cùng, một cuộc sống siêu nhiên cao cả, ở ngay trong thế gian mà không thuộc về thế gian, một cuộc sống siêu thoát, hoàn toàn làm chủ thế gian, chẳng khác gì như "muối đất... (và như) ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:13-14), bất chấp mọi chước cám dỗ của ma quỉ, mọi quyến rũ của thế gian, nhất là liên quan đến lòng tham lam của cải sản vật thế gian như người thanh niên giầu có đạo hạnh trong bài Phúc Âm hôm nay, thậm chí còn thắng vượt mọi gian nan khốn khó bởi dám bơi ngược giòng đời.

Tuy nhiên, cũng chính vì mầm mống nguyên tội mà tự mình con người chỉ hướng hạ và thích đi vào con đường rộng dẫn đến diệt vong mà thôi (xem Mathêu 7:13) không thể nào nên trọn lành được, không thể nào, như người thanh niên giàu có trong bài Phúc Âm hôm nay, tự động và vui vẻ mau mắn bỏ đi những gì mình có, như của cải hay quyền lợi của mình là những gì vừa chính đáng vừa cần thiết, cho một lý tưởng mơ hồ nào đó, nếu họ không có đức tin và không được tác động bởi Trời Cao, không được "tuyển chọn" (Gioan 15:16), như các tông đồ ngày xưa.

Cho dù người thanh niên giầu có đưoọc Chúa Giêsu "trìu mến nhìn" ấy, ngay lúc bấy giờ không thể đáp ứng ngay lời kêu gọi nên trọn lành của Chúa Kitô, và cảm thấy buồn khổ, với một cuộc sống dù sang giầu nhưng vẫn khắc khoải ngôn nguôi ấy, có thể, vào một lúc nào đó trong đời, chẳng hạn bị thua lỗ hay bị trộm cướp v.v., đã nghĩ lại mà theo đuổi bậc trọn lành thì sao. Đó là lý do trong Bài Đọc 1 hôm nay, Sách Huấn Ca đã khuyên dạy và phấn khích niềm tin nơi những ai thành tâm thiện chí như sau:

"Thiên Chúa đã ban đường công chính cho người sám hối, nâng đỡ những kẻ mất niềm tin, và hướng dẫn họ đi vào đường chân lý. Hãy trở về với Thiên Chúa và hãy từ bỏ tội lỗi. Hãy kêu cầu trước tôn nhan Chúa, hãy chấm dứt những điều xúc phạm, hãy trở về cùng Chúa, hãy lánh xa những điều gian ác, và hãy chê ghét những điều xấu xa. Hãy nhận biết công minh và sự xét xử của Thiên Chúa. Hãy đứng vững và cầu xin với Thiên Chúa Tối Cao. Hãy thông công vào đời sống các thánh, và cùng với kẻ sống hãy xưng tụng Thiên Chúa.... Hãy ca tụng Thiên Chúa và ngươi sẽ được vinh hiển trong tình xót thương của Người. Lòng nhân lành của Chúa và sự tha thứ của Người đối với những kẻ trở lại với Người thật lớn lao dường nào!"

 

Theo chiều hướng của Bài Đọc 1 hôm nay, Bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa cảm nghiệm thần linh đầy tin tưởng vào Thiên Chúa như sau:

 

1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy. Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian.

2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi".

3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người Này.

4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ; Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ.

 


Thứ Ba sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 35, 1-15

"Chuyên giữ các điều răn là dâng của lễ hy tế cứu độ".

Trích sách Huấn Ca.

Ai tuân giữ lề luật, là dâng nhiều lễ vật. Chuyên giữ các điều răn và xa lánh mọi điều gian ác, là dâng lễ hy tế cứu độ.

Hãy dâng của lễ xin ơn tha thứ cho những bất công, hãy cầu nguyện xin ơn tha tội, và hãy xa lánh những điều gian tà.

Ai thực thi bác ái, là hiến dâng của lễ hoàn hảo; ai làm phúc bố thí, là dâng của lễ hy tế.

Ðiều làm đẹp lòng Chúa là xa lánh gian ác. Lánh xa bất công là dâng của lễ đền tội.

Ngươi đừng đến trước mặt Chúa với bàn tay không; vì tất cả những điều đó là do mệnh lệnh của Thiên Chúa. Của lễ người công chính làm cho bàn thờ nên phong phú, và hương thơm êm dịu của nó bay lên trước dung nhan Ðấng Tối Cao. Lễ vật hiến tế của người công chính đã được chấp nhận, và Chúa sẽ không quên kẻ ấy. Ngươi hãy tôn vinh Thiên Chúa với tâm hồn quảng đại, và đừng rút bớt lại của lễ đầu mùa do công lao tay ngươi làm ra.

Mỗi lần ngươi dâng của lễ, nét mặt ngươi hãy vui tươi, và hãy hân hoan thánh hiến một phần mười của ngươi dâng. Ngươi hãy dâng lên Ðấng Tối Cao tuỳ theo như Người đã ban cho ngươi, và hãy dâng với tâm hồn quảng đại theo sự ngươi đang có trong tay, vì Chúa là Ðấng thưởng công và sẽ trả lại cho ngươi gấp bảy lần. Ngươi chớ dâng những lễ vật hèn kém, vì Người sẽ không nhận của lễ như vậy đâu, ngươi cũng đừng trông gì nơi những của lễ bất chính, vì Chúa là Ðấng xét xử, Người không thiên vị ai đâu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 49, 5-6. 7-8. 14 và 23

Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).

Xướng: 1) "Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ". Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, vì chính Thiên Chúa, Người là thẩm phán. - Ðáp.

2) Hỡi dân tộc của Ta, hãy nghe Ta nói, hỡi Israel, Ta sẽ chứng tỏ lời phản đối ngươi: Ta là Thiên Chúa, Ðức Thiên Chúa của ngươi. Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. - Ðáp.

3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta, ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 28-31

"Ngay ở đời này, lúc bị bắt bớ, các con lãnh được gấp trăm, còn đời sau các con sẽ được sự sống vĩnh cửu".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".

Ðó là lời Chúa.

 



"Bỏ mọi sự mà theo Thầy": "được gấp trăm" bao gồm cả bị "bắt bớ". 

SUY NIỆM

Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (10:28-31) cho Thứ Ba Tuần 8 Thường Niên hôm nay liên quan đến việc "được sự sống vĩnh cửu ở đời sau" như câu Chúa Giêsu trả lời cho Thánh Phêrô.
Thật thế, bài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Nếu bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến vấn đề "tôi phải làm gì để được sống đời đời" của một con người giầu có đã tuân giữ các giới răn từ nhỏ nhưng vẫn cảm thấy bất an bởi "còn thiếu một điều" là sống trọn lành, thì bài Phúc Âm hôm nay (Marcô 10:28-31) liên quan đến đời sống trọn lành hơn nơi thành phần môn đệ theo Chúa Kitô, tiêu biểu là Tông Đồ Phêrô qua câu hỏi của ngài: "Phần chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy thì sao?" 
Tất nhiên, nếu không bỏ mọi sự mà theo Thày, như người giầu có trong bài Phúc Âm hôm qua mà giữ các giới răn đàng hoàng tử tế đối với tha nhân thì cũng hội đủ điều kiện tối thiểu để được cứu rỗi, "để được sống đời đời", thì thành phần bỏ mọi sự theo Chúa Kitô lại càng bảo đảm "được sự sống vĩnh cửu ở đời sau" hơn nữa. 
Thế nhưng, vấn đề khác nhau ở đây giữa hai trường hợp cũng được rỗi, "được sống đời đời", "được sự sống vĩnh cửu ở đời sau", giữa người không sống trọn lành (như trong bài Phúc Âm hôm qua) và người sống trọn lành hơn (trong bài Phúc Âm hôm nay), đó là ngay "ở đời này", trong khi người không sống trọn lành (như người giầu có trong bài Phúc Âm hôm qua) luôn cảm thấy khắc khoải bất an buồn sầu, thì người sống trọn lành hơn (như trường hợp các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay) "được gấp trăm về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ".
Đúng vậy, thành phần theo Chúa Kitô để sống trọn lành hơn, không phải đã được Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành, một bài giảng cho chính các vị tông đồ theo Chúa (xem Mathêu 5:1-2), thành phần được cho là "hiền như ma-sơ" là "ai hiền lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được đất làm của mình vậy" (Mathêu 5:5) - "Đất" đây phải chăng Chúa muốn ám chỉ "thế gian", ám chỉ "đời này", ngược lại với "Nước Trời" ở Phúc Thứ 1. Mà "thế gian" hay "đời này" đây bao gồm những gì nếu không phải là "nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ". 
Đối với phàm nhân thì "bắt bớ" "ở đời này" là một bất hạnh, là một sự dữ, thế nhưng, đối với thành phần theo Chúa Kitô sống trọn lành hơn thì lại là một vinh phúc: "Phúc cho những ai bị bắt bớ vì sự công chính vì Nước Trời là của họ. Phúc cho các con khi họ xỉ nhục các con và bách hại các con cùng lăng nhục các con vì danh Thày. Hãy hân hoan vui sướng, vì phần thưởng lớn lao của các con ở trên trời" (Mathêu 5:9,10-11).

Chi tiết trong lời hứa "gấp trăm" theo Thày đây là một yếu tố then chốt và là một điền kiện bất khả thiếu để "được gấp trăm". Bởi vì, người đàn bà chỉ sinh son trong cơn đau đớn (xem Gioan 16:21), cành nho càng sai trái hơn khi bị cắt tỉa đi (xem Gioan 15:2), và hạt lúa miến cần phải mục nát đi mới trổ sinh nhiều hoa trái (xem Gioan 12:24) thế nào thì muốn "được gấp trăm" thành phần môn đệ của Chúa Kitô không thể nào chỉ thực hiện việc "bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm", mà còn phải sẵn sàng chấp nhận mọi "bắt bớ" "vì Thầy và vì Phúc Âm" nữa.

Đó là lý do điều kiện theo Chúa và xứng đáng làm môn đệ của Chúa Kitô, như Người đã khẳng định dứt khoát bao gồm 2 điều kiện - bỏ mình và chịu khổ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mathêu 16:24).

CẢM NGHIỆM

Đời sống trên trần gian này của Kitô hữu là thành phần môn đệ của Chúa Kitô không phải chỉ ở chỗ làm sao để sống đạo cho ngoan, hằng ngày đi thờ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện, hằng tuần ăn chay kiêng thịt, hằng tháng xưng tội hòa giải, hằng năm tĩnh tâm hành hương v.v., nhờ đó mà được rỗi, được lên thiên đàng, khỏi sa hỏa ngục, trái lại, họ còn phải có tinh thần tông đồ truyền giáo nữa, qua những việc làm trong tầm tay của mình, làm sao để mang lại phần rỗi cho anh chị em đồng loại, đồng hương và đồng đạo của mình, nhờ đó họ mới thực sự là sống trọn ơn gọi và sứ vụ của mình là thành phần môn đệ của Chúa Kitô, Đấng đã phục sinh và trước khi thăng thiên về trời đã truyền cho các môn đệ của Người hãy loan truyền tin mừng sự sống cho muôn dân cho tới tận cùng trái đất (xem Mathêu 28:19; Marco 16:15; Tông Vụ 1:8), và cũng nhờ đó họ mới "được gấp trăm ngay ở đời này và hạnh phúc đời sau", như Chúa Kitô khẳng định với riêng Tông Đồ Phêrô và chung các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay.

Cuộc đời theo Chúa Kitô của các tông đồ, cũng như của tất cả thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói chung, tự nó, nhờ trở thành chứng nhân đích thực và sống động của Chúa Kitô ở chỗ hoàn toàn phản ảnh Người, chắc chắn sẽ sinh hoa kết trái "được gấp trăm ngay ở đời này và hạnh phúc đời sau". Vì cuộc đời của các vị chẳng khác gì như một hy tế như Chúa Kitô, Đấng đã "đến để hiến mạng sống mình cho phần rỗi của nhiều người" (Mathêu 20:28). Cuộc đời hy hiến dấn thân phục vụ Chúa Kitô, như Chúa Kitô và với Chúa Kitô như thế của thành phần môn đệ Chúa Kitô, ở một ý nghĩa nào đó rất thích hợp với những gì được Sách Huấn Ca trong bài Đọc 1 hôm nay:

"Của lễ người công chính làm cho bàn thờ nên phong phú, và hương thơm êm dịu của nó bay lên trước dung nhan Ðấng Tối Cao. Lễ vật hiến tế của người công chính đã được chấp nhận, và Chúa sẽ không quên kẻ ấy... Ngươi hãy dâng lên Ðấng Tối Cao tuỳ theo như Người đã ban cho ngươi, và hãy dâng với tâm hồn quảng đại theo sự ngươi đang có trong tay, vì Chúa là Ðấng thưởng công và sẽ trả lại cho ngươi gấp bảy lần".

Bài Đáp Ca hôm nay, Thánh Vịnh gia cũng phấn khích những ai hiến thân theo Chúa rằng: "Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và hãy làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta, ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ". Bởi vậy, muốn trung thành hiến thân phụng sự Chúa cho tới cùng, theo đúng những gì Chúa muốn, thành phần theo Chúa cần phải tâm nguyện đúng như câu Alleluia hôm nay gợi ý: "Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia".
 

 


Thứ Tư sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

Ngày 31 tháng 5

ĐỨC MA-RI-A THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT

lễ kính


Trong khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ Sinh Nhật thánh Gio-an Tẩy Giả, Hội Thánh mừng lễ Đức Ma-ri-a đi thăm viếng bà Ê-li-sa-bét. Lễ này mừng biến cố hai bà mẹ gặp nhau, nhưng nhất là, mừng Chúa Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ gặp gỡ vị Tiền Hô của mình trong lòng bà Ê-li-sa-bét. Lễ này tràn ngập niềm vui của bài thánh ca “linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”.

Phụng Vụ Giờ Kinh

Bài đọc 2

Đức Ma-ri-a ngợi khen Đức Chúa hoạt động nơi Người

Trích bài giảng của thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục.

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Qua những lời đó, trước hết Đức Mẹ muốn tuyên xưng những ơn riêng Chúa đã ban cho Người cách đặc biệt, sau là kể ra những ơn chung Thiên Chúa không ngừng ban cho nhân loại đến muôn đời.

Linh hồn ngợi khen Đức Chúa, khi đem hết mọi tình cảm con người bên trong ra mà ca ngợi phụng sự Chúa, khi tỏ ra luôn suy tưởng về quyền lực oai phong của Chúa qua việc tuân giữ các huấn lệnh của Người.

Thần trí hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, khi lấy làm vui vì tưởng nhớ đến một mình Chúa là Đấng Hoá Công và là Đấng ban cho niềm hy vọng được ơn cứu độ muôn đời.

Những lời đó thật thích hợp cho mọi người hoàn thiện, nhưng đặc biệt thích hợp cho Mẹ diễm phúc, khi Người tuyên xưng những lời ấy, vì nhờ đặc ân lạ lùng mà Người được cháy lửa yêu mến thiêng liêng đối với Đấng Người đã hoan hỷ cưu mang trong thân xác mình.

Người thật có lý để vui mừng một cách đặc biệt hơn các vị thánh khác trong Đức Giê-su, nghĩa là trong Đấng cứu độ Người, vì Người nhận biết Đấng là tác giả ơn cứu độ muôn đời sẽ sinh ra trong thời gian bởi thịt của Người, để trong cùng một ngôi vị duy nhất, Đức Giê-su thật sự vừa là con, vừa là Chúa của Người.

Bởi vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn. Người không kể gì là do công trạng riêng, vì cho tất cả sự cao trọng của mình là do ơn của Đấng tự bản tính vốn là quyền năng và vô cùng cao cả thường làm cho các tín hữu từ chỗ nhỏ bé thấp hèn nên mạnh mẽ cao sang.

Đức Mẹ còn khéo léo nói thêm : Danh Người thật chí thánh chí tôn, để khuyên nhủ thính giả và dạy tất cả những ai nghe được lời của Người biết mau đón nhận đức tin và kêu cầu danh Chúa, hầu chính họ có thể thông phần sự thánh thiện muôn đời và ơn cứu độ đích thực, như lời ngôn sứ : Phàm ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ. Đó chính là danh Đức Mẹ nói tới trong câu : Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Vì thế, trong Hội Thánh có thói quen rất tốt lành là hằng ngày mọi người hát thánh thi của Đức Mẹ khi nguyện kinh chiều, nhờ đó tâm hồn các tín hữu vừa năng tưởng nhớ đến mầu nhiệm của Chúa mà thêm lòng sốt mến, vừa năng suy niệm các gương lành của Thánh Mẫu mà thêm vững mạnh trên đường nhân đức. Đọc như thế vào giờ kinh chiều thật là thích hợp, vì tâm trí chúng ta sau một ngày làm việc mệt mỏi và ngổn ngang trăm mối, lúc sắp được nghỉ ngơi, có thể hồi tâm để cùng nhau suy gẫm.

Đấng cứu độ chúng ta đã chẳng nề sinh làm con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Ta hãy chúc tụng và tha thiết nguyện cầu :

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Mặt Trời soi đường công chính, đã muốn cho Đức Mẹ xuất hiện tựa hừng đông, - xin cho chúng con biết theo Người mà bước đi trong ánh sáng của ngày cứu độ.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Ngôi Lời hằng hữu, Thánh Mẫu Chúa đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, - xin cho chúng con hằng noi gương Thánh Mẫu mà gắn bó cùng Chúa trọn đời.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, Chúa đã muốn cho Đức Mẹ đứng kề bên thánh giá, - xin nhậm lời Người chuyển cầu mà cho chúng con hưởng nhờ ơn cứu độ.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Con Đức Trinh Nữ, và là anh của chúng con, xưa trên thánh giá, Chúa đã xin Đức Mẹ làm mẹ thánh Gio-an, - xin cho chúng con cũng nhận biết Người là mẹ, và trọn niềm hiếu thảo với Người.

Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

 

Thiên Chúa là Cha toàn năng đã muốn cho mọi đời phải ca ngợi Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Ki-tô. Vậy ta hãy tôn vinh Thiên Chúa Cha, và xin Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng ta :

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Thân Mẫu Chúa Giê-su, - xin cho các bà mẹ biết gây tinh thần bác ái và đời sống thánh thiện trong gia đình.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã đặt Đức Ma-ri-a làm Từ Mẫu của nhân loại, - xin cho tất cả những ai đang gặp cảnh gian truân được cảm nghiệm tình mẫu tử của Người.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã làm cho Đức Mẹ biết chăm chỉ lắng nghe lời Chúa, và tận tâm phục vụ Chúa, - xin cho chúng con được trở thành những môn đệ trung tín của Đức Ki-tô.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã phong Đức Ma-ri-a làm Nữ Vương thiên quốc, - xin cho các anh chị em đã lìa thế được chung hưởng vinh quang với thần thánh trên trời.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Thánh Mẫu Ma-ri-a vừa cưu mang Chúa Giê-su, Cha đã soi sáng cho Thánh Mẫu đi thăm viếng bà Ê-li-sa-bét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Đức Ma-ri-a ngợi khen Cha muôn đời. Chúng con cầu xin




Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: Xp 3, 14-18a

"Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi".

Trích sách Tiên tri Xôphônia.

Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi, và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.

Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: "Hỡi Sion, đừng sợ! Tay đừng bủn rủn! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Với ngươi, Người làm mới lại tình yêu của Người. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui, như thuở tao phùng".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc: Rm 12, 9-16

"Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà".

Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, đức ái không được giả hình: Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong tình bác ái huynh đệ. Hãy nhân nhượng tôn kính nhau. Hãy siêng năng, chớ biếng nhác: Hãy sốt mến trong tâm hồn và phụng sự Chúa. Hãy hân hoan trong niềm cậy trông, nhẫn nại trong gian truân và kiên tâm cầu nguyện. Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà.

Hãy chúc phúc cho những kẻ bắt bớ anh em: Hãy chúc phúc, chứ đừng chúc dữ. Hãy vui mừng với kẻ vui mừng, và khóc lóc với kẻ khóc lóc. Hãy đồng tâm hiệp ý với nhau: đừng tự cao tự đại, một hãy ưa thích những sự hèn kém. Ðừng tự đắc cho mình là khôn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6

Ðáp: Ðấng Thánh cao cả của Israel ở giữa ngươi (c. 6b).

Xướng: 1) Này là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi, tôi sẽ tin tưởng hành động và không sợ hãi: vì Chúa là sức mạnh và là sự ngợi khen của tôi, và Người đã đem lại cho tôi ơn cứu độ. - Ðáp.

2) Hãy tuyên xưng Chúa và kêu cầu thánh danh Người; hãy làm cho các dân tộc biết việc Chúa sáng tạo; hãy nhớ rằng danh Người thật cao sang. - Ðáp.

3) Hãy ca mừng Chúa, vì người đã làm những việc trọng đại; hãy công bố việc đó trong khắp hoàn cầu. Hỡi dân thành Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì Ðấng Thánh cao cả của Israel ở giữa ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: Lc 1, 45

Alleluia, alleluia! - Hỡi Trinh Nữ Maria, phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 39-56

"Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:

"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".

Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.

"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".

Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Viếng Thăm Là Dạo Khúc Cho Sứ Vụ Của Chúa Giêsu

 

1- Trong đoạn trình thuật về Cuộc Viếng Thăm, Thánh Luca cho chúng ta thấy, sau khi tràn đầy hồng ân Nhập Thể, Đức Maria đã mang ơn cứu độ và niềm vui đến cho gia đình bà Êlizabét ra sao. Đấng Cứu Thế nhân trần, được cưu mang trong lòng Mẹ mình, đã tuôn đổ Thánh Linh xuống, qua việc tỏ mình ra ngay từ lúc mới vào trần gian của mình.

Khi diễn tả việc khởi hành của Đức Maria lên đường đi xuống Giuđêa, Thánh Ký đã dùng động từ “anistemi”, nghĩa là “chỗi dậy”, là “bắt đầu di chuyển”. Nếu động từ này được các Phúc Âm sử dụng để nói đến việc Phục Sinh của Chúa Giêsu (Mk 8:31, 9:9,31; Lk 24:7,46), hay những tác động thể lý ám chỉ nỗ lực về tâm linh (Lk 5:27-28, 15:18,20), chúng ta có thể cho rằng Thánh Luca muốn dùng cách diễn tả này để nhấn mạnh đến cái nhiệt tình mạnh mẽ, theo ơn soi động của Thánh Linh, đã thúc đẩy Đức Maria ban tặng cho thế giới Vị Cứu Tinh của nó.

2- Bản văn Phúc Âm cũng trình thuật rằng Đức Maria “vội vàng” (Lk 1:39) lên đường. Ngay cả ghi chú về việc Người “đến một miền đồi núi”, Phúc Âm Thánh Luca cũng cho thấy một ý nghĩa sâu xa của nó, hơn là chỉ cố ý nói đến một địa dư vậy thôi, vì nó gợi lại cho chúng ta thấy hình ảnh một vị sứ giả loan báo tin mừng trong Sách Tiên Tri Isaia: “Đẹp thay trên các núi đồi bước chân của người loan báo tin vui, của người rao truyền an bình, của người mang tin thiện phúc, của người rao truyền ơn cứu độ, của người nói với Sion rằng: ‘Thiên Chúa của các người hiển trị’” (Is 52:7).

Như Thánh Phaolô, vị nhìn nhận đoạn sách tiên tri này đã được nên trọn ở việc loan truyền phúc âm (Rm 10:15), Thánh Luca hình như cũng muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn nơi Đức Maria như là “vị truyền bá phúc âm” tiên khởi, vị loan truyền “tin mừng”, khai mào các cuộc hành trình thừa sai cho Người Con thần linh của Người.

Sau hết, hướng đi trong cuộc hành trình của Đức Trinh Nữ cũng có một ý nghĩa đặc biệt, ở chỗ, Người đi từ Galilê xuống Giuđêa, giống như cuộc hành trình truyền giáo của Chúa Giêsu vậy (x 9:51).

Thật thế, cuộc viếng thăm bà Eâlizabét của Đức Maria là một dạo khúc cho sứ vụ truyền giáo của Chúa Giêsu, và ngay từ ban đầu, với vai trò làm mẹ cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Con mình, Người đã trở nên một mẫu gương cho những ai thuộc về Giáo Hội muốn ra đi mang ánh sáng của Chúa Kitô và niềm vui đến cho con người ở mọi thời và khắp mọi nơi.

3- Cuộc gặp gỡ bà Elizabét có tính cách của một biến cố cứu độ vui mừng, vượt lên trên những cảm xúc tự nhiên của tình nghĩa gia đình. Nơi đang ở vào hoàn cảnh bối rối về hành động thiếu tin tưởng, được tỏ hiện qua tình trạng bị câm lặng của ông Zacaria, thì Đức Maria đã làm bừng lên niềm vui của một đức tin mau mắn và cởi mở của Người: “Người đã vào nhà ông Zacaria và chào bà Elizabét” (Lk 1:40).

Thánh Luca cho thấy mối liên hệ này là: “Khi bà Elizabét nghe lời chào của Đức Maria thì con trẻ trong lòng bà liền nhẩy mừng” (Lk 1:41). Lời chào của Đức Maria đã khiến cho người con trai của bà Elizabét nhẩy lên vui sướng, ở chỗ, qua việc làm của Đức Maria, việc Chúa Giêsu vào nhà của bà Elizabét đã mang đến cho vị tiên tri thai nhi này một niềm vui được Cựu Ước tiên báo như là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Đấng Thiên Sai.

Với lời chào của Đức Maria, niềm vui cứu độ đã đến với cả bà Elizabét nữa, để rồi, “được đầy Thánh Linh… bà đã lớn tiếng kêu lên rằng ‘Người có phúc hơn mọi phụ nữ, và phúc cho hoa trái trong lòng của Người’ (Lk 1:41-42).

Nhờ được ơn soi sáng từ trên cao, bà hiểu được sự cao trọng của Đức Maria, vị còn hơn cả Jael và Judith là những nhân vật tiền thân của Người trong Cựu Ước, Người có phúc hơn mọi người nữ bởi quả phúc trong lòng Người là Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai.

4- Lời bà Elizabét hô lên ấy, hô một cách “lớn tiếng”, chứng tỏ cho thấy cả một tấm lòng nhiệt thành sốt sắng chân tình, một tấm lòng nhiệt thành sốt sắng chân tình sẽ được tiếp tục vang vọng trên môi miệng của tín hữu qua kinh “Kính Mừng”, một kinh nguyện như một bài ca của Giáo Hội chúc tụng những việc trọng đại được Đấng Tối Cao thực hiện nơi Người Mẹ của Con Ngài.

Trong việc tuyên tụng Người “có phúc hơn mọi người nữ”, bà Elizabét muốn nói đến đức tin của Đức Maria là lý do đã làm cho Người được diễm phúc: “Phúc cho Người vì đã tin rằng những gì Chúa nói cùng Người sẽ được thực hiện” (Lk 1:45). Sự cao cả và niềm vui của Đức Maria phát xuất từ việc Người là một con người tin tưởng.

Thấy được vai trò tuyệt hạng nơi Đức Maria, bà Elizabét cảm thấy cái vinh dự mình được Người đến viếng thăm: “Tôi làm sao lại có diễm phúc là được Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi?” (Lk 1:43). Bằng lời xưng tụng “Chúa tôi”, bà Elizabét đã nhìn nhận phẩm vị hoàng tộc, đúng hơn, phẩm vị thiên sai nơi Người Con của Đức Maria. Trong Cựu Ước, lời này quả thực được dùng để xưng tụng đức vua (x 1Kgs 1:13,20,21 v.v.) cũng như để nói về Vị Vua Thiên Sai (Ps 110:1). Thiên Thần đã nói về Chúa Giêsu rằng: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Đavít tổ phụ của Người” (Lk 1:32). “Được đầy Thánh Thần”, bà Elizabét cũng có cùng một minh thức như thế. Cuộc vinh hiển vượt qua của Chúa Kitô sau này mới tỏ cho thấy ý nghĩa cần phải hiểu về danh hiệu này, một ý nghĩa siêu việt (x Jn 20:28; Acts 2:34-36).

Bằng việc vang lên lời chúc tụng ấy, bà Elizabét mời gọi chúng ta hãy cảm nhận tất cả những gì do sự hiện diện của Đức Maria mang đến như là một ân phúc cho đời sống của mọi tín hữu.

Qua việc Viếng Thăm này, Người Trinh Nữ đã mang Chúa Giêsu đến cho mẹ của Vị Tẩy Giả, một Chúa Kitô là Đấng tuôn đổ Thánh Linh. Vai trò trung gian môi giới này phát xuất từ chính những lời của bà Elizabét: “Này, khi tai tôi vừa nghe thấy tiếng Người chào thì con trẻ trong lòng tôi liền nhẩy mừng” (Lk 1:44). Với tặng ân Thánh Linh được ban phát bấy giờ, sự hiện diện của Đức Maria đóng vai trò như một dạo khúc cho Cuộc Hiện Xuống, một Cuộc Hiện Xuống xác nhận việc hợp tác, được bắt đầu từ Biến Cố Nhập Thể, cần phải được thể hiện nơi toàn cục diện cứu độ thần linh.

(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 2/10/1996, Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 9/10/1996)

 

 

 

(Nếu Thứ Tư tuần VIII Thường Niên này không bị Lễ Mẹ Thăm Viếng cùng ngày át đi như năm 2023)

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 36, 1-2a. 5-6. 13-19

"Các dân tộc nhận biết rằng không có chúa nào khác ngoài Chúa".

Trích sách Huấn Ca.

Lạy Chúa muôn loài, xin thương xót chúng con, và xin đoái nhìn chúng con, xin hãy tỏ cho chúng con ánh sáng lòng từ bi của Chúa. Xin cho các dân tộc nhận biết Chúa như chính chúng con đã nhận biết Chúa, vì lạy Chúa, ngoài Chúa ra, không có Chúa nào khác.

Xin Chúa tái diễn các điềm lạ và làm các việc kỳ diệu khác. Xin Chúa quy tụ mọi người vào các chi họ Giacóp, để họ nhìn biết rằng không có Chúa nào khác ngoài Chúa, để họ cao rao các việc lạ lùng Chúa đã làm, và để Chúa cho họ được hưởng phần gia nghiệp như lúc ban đầu. Xin Chúa đoái thương đến dân Chúa, một dân được mang danh thánh Chúa, và xin thương đến Israel mà Chúa đã đặt làm con đầu lòng của Chúa. Xin cũng thương đến thành thánh Giêrusalem, nơi Chúa an ngự. Xin làm cho Sion vang dậy lời chúc tụng Chúa, và cho dân Chúa được đầy vinh quang của Ngài.

Xin Chúa hãy minh chứng cho dân tộc, tạo vật đầu tiên của Chúa và xin thực hiện những điều các tiên tri đầu tiên đã nhân danh Chúa mà tiên báo. Xin thưởng công cho những người đã trông cậy nơi Ngài, và xin cho các tiên tri của Chúa được trung trực.

Xin nhậm lời cầu nguyện của các tôi tớ Chúa, theo như lời Aaron chúc phúc cho dân Ngài, xin hướng dẫn chúng con đi trên đường công chính, và xin cho mọi người sống trên trần gian biết rằng Ngài là Thiên Chúa, Ðấng thống trị muôn đời.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 78, 8. 9. 11. 13

Ðáp: Lạy Chúa, xin hãy tỏ cho chúng con ánh sáng lòng từ bi của Chúa (Hc 36, 1b).

Xướng: 1) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con, xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi! - Ðáp.

2) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa, xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài. - Ðáp.

3) Xin cho tiếng tù binh rên siết vọng tới thiên nhan; xin ra tay thần lực giải thoát người mang án tử.

4) Phần chúng con là thần dân Chúa, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi, chúng con sẽ ca tụng Chúa tới muôn đời, đời nọ sang đời kia, chúng con loan truyền lời ca khen Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 32-45

"Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu lên đường đi Giêrusalem, Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước họ, và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi. Người gọi mười hai ông lại gần và nói cho các ông biết những gì sẽ xẩy đến cho Người: "Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại".

Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, đến gần Người và thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy". Người đáp: "Các con muốn Thầy làm gì cho các con?" Các ông thưa: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy". Chúa Giêsu bảo: "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?" Các ông đáp: "Thưa được". Chúa Giêsu bảo: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định". Mười môn đệ khác nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: "Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".

Ðó là lời Chúa.




"Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước họ... những người theo sau thì sợ hãi".

SUY NIỆM

Ý chính của Bài Phúc Âm của ngày Thứ Tư trong Tuần VIII Thường Niên hậu Phục Sinh hôm nay, qua câu nói của Chúa Kirtô kết thúc bài Phúc Âm, đó là: "Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".
Đúng thế, chính vì để cho con người được sự sống thần linh, sự sống đời đời, mà Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, đã phải "hiến mạng sống mình làm giá chuộc". Sở dĩ mạng sống của Người chỉ là một sự sống tự nhiên về thể lý mà có thể cứu được các linh hồn thiêng liêng bất tử, tức có thể mang lại sự sống thần linh siêu nhiên bất diệt cho họ là vì sự sống thể lý của thân xác Người, một thân xác đã cùng với linh hồn của Người, ngôi hiệp với Thần Tính vô cùng cao trọng của Người, bởi thế sự sống thể lý ấy vô cùng cao quí vì thuộc về chính Con Thiên Chúa.
"Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụđã được chứng thực ngay ở đầu bài Phúc Âm. Ở chỗ, như Thánh ký Marco thuật lại: "Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu lên đường đi Giêrusalem, Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước họ, và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi".

Qua lời tường thuật này chúng ta thấy hình ảnh của một Vị Mục Tử đích thực bao giờ cũng "đi trước chiên" (Gioan 10:4), nhất là khi đàn chiên "theo sau thì sợ hãi" được nói đến trong bài Phúc Âm, 
"đi trước chiênđể sẵn sàng đối đầu với bất cứ nguy hiểm nào xẩy đến cho chiên của mình và để bảo vệ chiên của mình cho đến cùng, nhất là với đám sói dữ, cho dù có phải "hiến mạng sống mình vì chiên" (Gioan 10:11). 
Vấn đề ở đây là không phải vị mục tử nhân lành sống chết cho chiên này không biết trước được số phận của mình, mà là cho dù có thực sự biết trước nhưng vẫn cứ "đi trước chiên", sẵn sàng bảo vệ sự sống của chiên, bằng cách "tự ý bỏ mạng sống mình đi" (Gioan 10:17;17:19), mà còn tỏ cho đàn chiên của mình biết như thế nữa: 

"Người gọi mười hai ông lại gần và nói cho các ông biết những gì sẽ xẩy đến cho Người: 'Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại'".
Việc vị chủ chiên ở trong bài Phúc Âm hôm nay tỏ cho đàn chiên "theo sau thì sợ hãi" này biết số phận vượt qua của mình như thế, không phải là vị chủ chiên chỉ cố ý để cho chiên biết được rằng mình yêu thương chiên biết là chừng nào, một tình yêu cao cả dám hiến mình vì bạn hữu (xem Gioan 15:13), mà còn muốn cho họ thấy rằng Người sẽ đi dọn chỗ cho họ để Người ở đâu thì họ cũng ở đó với Người nữa (xem Gioan 14:3), vì sau này chính họ cũng tiếp tục sứ vụ là chủ chiên thay Người và như Người, cũng phải "đến để phục vụ" theo gương mẫu của Người đối với họ.
Trong số các tông đồ được nghe Người tiết lộ bí mật về số phận vượt qua của Người bấy giờ đã có hai vị, đó là "Giacôbê và Gioan", dường như cảm thấu được những gì Người nói, nên đã tự động muốn theo đuổi bắt chước Người một cách triệt để, và đã mạnh dạn lên tiếng xin cho được có cùng một số phận như Người: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy".
Thoạt nghe, "mười môn đệ khác nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan", vì cứ tưởng là hai anh em này tham quyền cố vị. Thế nhưng, nếu xét cho kỹ thì không phải thế, hoàn toàn ngược lại, hai vị chỉ muốn được nên giống Thày của mình nhất trong số phần hy sinh cứu độ mà thôi
Đó là lý do khi nghe Chúa Giêsu đặt thẳng vấn đề với nhị vị "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?" thì cả hai đều mau mắn đồng thanh thưa lại rằng: "Thưa được". Và hai vị đã được Thày chấp nhận cho "thông phần với Thày" (Gioan 13:8): "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu". 
Thực tế cho thấy, những gì hai ông xin với Chúa Giêsu bấy giờ trước mặt các tông đồ khác đều đã được ứng nghiệm, ở chỗ, Tông Đồ Gioan được ngồi bên phải của Người, khi người tông đồ này là vị tông đồ duy nhất "đứng dưới chân thập giá của Chúa Giêsu" với Mẹ Maria (Gioan 19:25), một vị thế tử đạo khi tận mắt chứng kiến thấy tất cả khổ nhục tận cùng Thày mình phải chịu, và ở chỗ, Tông Đồ Giacôbê được ngồi bên tả của Người, vì ngài là vị tông đồ tử đạo đầu tiên trong các tông đồ (xem Tông Vụ 12:2), ở Giêrusalem, giáo đô của dân Do Thái, đích điểm nhắm tới mà cuộc hành trình Thiên Sai của Chúa Giêsu cần phải tiến về, như đầu bài Phúc Âm hôm nay đề cập tới: "Các môn đệ và Chúa Giêsu lên đường đi Giêrusalem".

"Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định", nghĩa là, do Cha chỉ định và xếp đặt tùy theo ý định của Ngài và ơn gọi của Ngài nơi từng người. Đó là lý do trong Bữa Tiệc Ly Chúa Kitô mới nói với các tông đồ rằng: "Trong nhà Cha của Thày có nhiều chỗ ở" (Gioan 14:2).

Lời thỉnh cầu của hai người môn đệ trong bài Phúc Âm hôm nay xin Thày cho được ngồi bên phải và bên trái của Chúa Kitô đây có thể hiểu là các vị, dù ý thức hay không ý thức, dù chủ quan hay khách quan, tự nó cũng là một ước muốn được thông phần vào công cuộc cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô cho chung nhân loại chứ không phải cho riêng gì dân Do Thái. Thế nhưng, dù sao, "việc cứu độ xuất phát từ dân Do Thái" (Gioan 4:22), một dự án cứu độ đã được Thiên Chúa mạc khải cho thấy trong lịch sử cứu độ của dân này, như Sách Huấn Ca đã cảm nhận và bày tỏ trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Xin Chúa quy tụ mọi người vào các chi họ Giacóp, để họ nhìn biết rằng không có Chúa nào khác ngoài Chúa, để họ cao rao các việc lạ lùng Chúa đã làm, và để Chúa cho họ được hưởng phần gia nghiệp như lúc ban đầu... Xin Chúa hãy minh chứng cho dân tộc, tạo vật đầu tiên của Chúa và xin thực hiện những điều các tiên tri đầu tiên đã nhân danh Chúa mà tiên báo. Xin thưởng công cho những người đã trông cậy nơi Ngài, và xin cho các tiên tri của Chúa được trung trực".

Như thế, cho dù công cuộc cứu độ (ecomony of salvation) "được xuất phát từ dân Do Thái", dự án cứu độ (plan of salvation) ngay từ ban đầu và hằng có tính cách phổ quát, đại đồng, "công giáo" (catholic), nghĩa là bao gồm toàn thể nhân loại nói chung, một dự án đầy từ bi nhân ái, được hiện thực nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng "không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người", đó là "những ai chấp Người" (Gioan 1:12), chấp nhận ơn cứu độ của Ngài, nghĩa là tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài, thành phần mang tâm nguyện như câu xướng trong Bài Đáp Ca hôm nay: "Lạy Chúa, xin hãy tỏ cho chúng con ánh sáng lòng từ bi của Chúa" (Huấn Ca 36: 1b), cũng như câu Alleluia hôm nay: "Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia".



Thứ Năm sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 42, 15-26

"Các công trình của Chúa đầy ánh vinh quang của Người".

Trích sách Huấn Ca.

Tôi sẽ ghi nhớ công trình của Chúa, và sẽ thuật lại những điều tôi đã thấy. Nhờ lời Chúa mà Chúa đã thực hiện những kỳ công. Mặt trời chiếu soi vạn vật, và công trình của Chúa đầy ánh vinh quang của Người.

Nào Chúa đã không ban cho các thánh được cao rao các việc kỳ diệu của Người, những việc mà Chúa toàn năng đã củng cố trong vinh quang của Người sao?

Người dò xét vực thẳm và lòng con người, thấu biết những mưu chước của họ, vì Chúa thấu suốt mọi sự và theo dõi những dấu thời đại, tuyên bố những gì thuộc về dĩ vãng và hậu lai, tỏ bày những dấu vết các việc ẩn kín. Không một tư tưởng nào mà Người không biết, không một lời nào có thể giấu được Người.

Người sắp đặt những kỳ công sự khôn ngoan của Người. Người có trước muôn đời và tồn tại muôn thuở, không thêm không bớt, không cần đến vị cố vấn nào. Mọi công trình của Người thực đáng quý chuộng, và như những ánh lửa người ta có thể ngắm nhìn. Mọi vật ấy đều sống động và tồn tại muôn đời, và vâng phục Người trong mọi hoàn cảnh. Tất cả đều có từng đôi và cái này đối diện với cái nọ, và Người không làm chi khuyết điểm. Vật này làm nổi bật vẻ đẹp cho vật kia. Và ai có thể nhàm chán nhìn xem vinh quang của Người?

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành (c. 6a).

Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.- Ðáp.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa. - Ðáp.

3) Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành, và mọi cơ binh chúng đều do hơi thở miệng Người. Chúa thu nước biển lại như để trong bầu, Người đặt những ngọn sóng trong kho chứa đựng. - Ðáp.

4) Toàn thể địa cầu hãy tôn sợ Chúa, mọi người sống trong vũ trụ hãy kính nể Người. Vì chính Người phán dạy mà chúng được tạo thành, chính Người ra lệnh mà chúng trở nên thực hữu. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 46-52

"Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ, và một đám đông, thì có con ông Timê tên là Bartimê, một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường. Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Ðavít , xin thương xót tôi".

Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: "Anh muốn Ta làm gì cho anh"? Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Ðược, đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

Ðó là lời Chúa.

 





"Liệng áo choàng, đứng dạy, đến cùng Chúa Giêsu"... "đi theo Người"

SUY NIỆM

Nếu sự sống thần linh, sự sống đời đời liên quan đến việc "nhận biết" (Gioan 17:3) thì bài Phúc Âm hôm nay cũng gián tiếp liên quan đến sự sống. Bởi vì, "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ không đi trong tăm tối, nhưng sẽ được ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12).
Chúa Giêsu, trong cuộc hành trình tiến về Giêrusalem, đã băng qua xứ Samaria và ghé vào thủ phủ của xứ này là Jericho, và như Thánh ký Marco thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay (10:46-52), thì khi "Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì có con ông Timê tên là Bartimê, một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường".
Tuy bị mù lòa về thể lý, nhưng tâm linh của con người này rất tinh anh bén nhậyđến độ, cho dù chưa hề được tận mắt thấy Chúa Giêsu và chứng kiến việc Người làm phép lạ, mà mới chỉ nghe về Người thôi, đã tỏ ra tin tưởng Người lắm rồi, thậm chí có thể tận thâm tâm của mình, con người mù này đã hết sức mong chờ được gặp Người nữa. 
Bởi thế, không lạ gì, như Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền kêu lên rằng: 'Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi'. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: 'Hỡi con vua Đavít , xin thương xót tôi'".
Là Đấng đã "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10) làm sao Chúa Kitô có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước con người đáng thương về phần xác nhưng đáng đáp ứng về phần hồn như "một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường" ấy chứ! Thế nên, Thánh ký Marco đã tiếp tục cho thấy phản ứng của Chúa Kitô và việc Người đáp ứng đối với người mù này như sau:
"Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: 'Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh'. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: 'Anh muốn Ta làm gì cho anh?' Người mù thưa: 'Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy'. Chúa Giêsu đáp: 'Được, đức tin của anh đã chữa anh'. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người".
Hành động "liệng áo choàng, đứng dạy, đến cùng Chúa Giêsu" của người mù ăn xin này không phải chỉ cho thấy nỗi vui mừng khôn tả của anh ta vì được chính Đấng anh ta chưa bao giờ thấy nhưng hết sức tin tưởng đáp ứng, mà còn nhất là cho thấy anh ta hoàn toàn tin tưởng rằng anh ta chắc chắn sẽ được chữa lành nữa theo như lòng anh ta mong ước "được thấy"
Theo bình thường chúng ta hiểu là con người ăn xin mù lòa này muốn "được thấy" ánh sáng mặt trời, muốn "được thấy" những người thân yêu của anh ta, muốn trở nên bình thường như mọi người với cặp mắt để "được thấy" tất cả mọi thực tại quanh mình v.v., Thế nhưng, nơi trường hợp của riêng người ăn xin mù lòa này thì anh ta muốn "được thấy" chính Đấng anh ta hằng tin tưởng và đã chữa lành anh ta. Đó là lý do sau khi anh ta "thấy được" thì "đi theo Người", cùng Người và các môn đệ của Người cũng như đám đông theo Người lên Giêrusalem, và chính vì anh ta "đi theo Người" "là ánh sáng thế gian" mà anh ta "có ánh sáng sự sống", "không (còn) đi trong tăm tối" nữa (Gioan 8:12). 

CẢM NGHIỆM

Thân phận mù lòa ngồi ăn xin của nhân vật Batimê trong bài Phúc Âm hôm nay là tiêu biểu cho thân phận của chung nhân loại sau nguyên tội, một thân phận bởi nguyên tội và từ nguyên tội đã trở nên bần cùng về sự sống thần linh, ở chỗ mất ơn nghĩa với Chúa, và mù lòa về đời sống tâm linh, ở chỗ lầm lạc không biết việc mình làm.

Thế nhưng, nhờ Phép Rửa, tức nhờ quyền linh của Chúa Kitô Vượt Qua, như người mù ăn xin Batimê, họ đã "được thấy và đi theo Người", bởi được Người thương, như lời Thánh Phêrô nhắc nhủ họ trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Anh em xưa kia không phải là dân của Thiên Chúa, nhưng nay là dân của Người; xưa kia anh em không được xót thương, nhưng nay được thương xót".

Phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho người mù trong bài Phúc Âm hôm nay là một kỳ công, bao gồm cả quyền năng và lòng thương xót Người muốn tỏ ra chẳng những cho chính nạn nhân mù lòa mà còn cho các các môn đệ cùng đám đông đang theo Người bấy giờ, lẫn quyết định theo Chúa của nạn nhân mù lòa sau khi được chữa lành, "được thấy" không phải chỉ muốn thấy thiên nhiên tạo vật cùng nhân sinh của mình mà là "thấy được" Đấng "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), "ánh sáng đã chiếu trong tăm tối" (Gioan 1:5), điển hình là đã làm cho bóng tối hằng bao trùm con mắt thể lý của anh hoàn toàn tan biến.

Chính vì thế, chính vì cảm nghiệm thần linh sâu xa của nạn nhân bị mù được chữa lành trong bài Phúc Âm hôm nay, mà khi mở mắt ra anh ta mới có thể nói như Sách Huấn Ca viết trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Tôi sẽ ghi nhớ công trình của Chúa, và sẽ thuật lại những điều tôi đã thấy". Ở chỗ nào, nếu không phải ở chỗ, như Bài Đọc 1 ngay sau đó viết: "Nhờ lời Chúa mà Chúa đã thực hiện những kỳ công. Mặt trời chiếu soi vạn vật, và công trình của Chúa đầy ánh vinh quang của Người.... Mọi công trình của Người thực đáng quý chuộng, và như những ánh lửa người ta có thể ngắm nhìn... Và ai có thể nhàm chán nhìn xem vinh quang của Người?"

Một khi chiêm ngưỡng thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi thiên nhiên tạo vật, nhất là nơi chính bản thân của mình là một người mù lòa được nhìn thấy, người mù trong Bài Phúc Âm hôm nay không thể nào không kêu gọi tất cả mọi tạo vật cùng nhau và cùng với mình chúc tụng ngợi khen Chúa như câu cuối cùng của Bài Đáp Ca hôm nay: "Toàn thể địa cầu hãy tôn sợ Chúa, mọi người sống trong vũ trụ hãy kính nể Người. Vì chính Người phán dạy mà chúng được tạo thành, chính Người ra lệnh mà chúng trở nên thực hữu".
 

 

Ngày 1 tháng 6

Thánh Giút-ti-nô, tử đạo


Thánh nhân là một triết gia và là anh hùng tử đạo. Người sinh tại Phơ-la-vi-a Nê-a-pô-li, ở Sa-ma-ri, trong một gia đình ngoại giáo, đầu thế kỷ II. Sau khi tin Chúa Ki-tô, người đã viết nhiều tác phẩm bênh vực Ki-tô giáo. Trong số đó, còn lại hai tác phẩm “Minh giáo” gửi cho hoàng đế An-tô-ni-ô và “Đối thoại với ông Tri-phông”, tranh luận với người Do-thái. Người cũng mở một trường dạy triết lý ở Rô-ma. Bị một đồng nghiệp tố cáo, người một lòng son sắt tuyên xưng đức tin trước mặt quan toà và đã được phúc tử đạo cùng với sáu Ki-tô hữu khác, quãng năm 165, thời hoàng đế Mác-cô Au-rê-li-ô.

Tôi đã theo đạo lý chân thật của các Ki-tô hữu

Bài đọc 2 giờ kinh sách ngày 1/6

Trích sử liệu về cuộc tử đạo của thánh Giút-ti-nô và các bạn.

Sau khi bị bắt, các thánh được điệu tới tổng trấn Rô-ma, tên là Rút-ti-cô. Lúc các ngài ra trước toà án, tổng trấn Rút-ti-cô nói với thánh Giút-ti-nô : “Trước hết ngươi phải tin các thần minh và tôn kính các hoàng đế.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Các ông không thể tố cáo hay bắt giam chỉ vì chúng tôi tuân lệnh Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng tôi.”

Quan Rút-ti-cô nói : “Nhà ngươi xưng tụng học thuyết gì vậy ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi đã cố học đủ mọi thứ học thuyết, nhưng tôi đã theo đạo lý chân thật của các Ki-tô hữu, dù đạo lý ấy không minh nhiên đối với những người đang chìm đắm trong sự lầm lạc.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Đạo lý ấy mà ngươi cho là minh nhiên ư, hỡi tên khốn kiếp ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Phải, vì giáo huấn đúng nên tôi theo đạo lý đó.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Giáo huấn đó thế nào ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Chúng tôi thờ Thiên Chúa của các Ki-tô hữu ; chúng tôi tin Người là Đấng Tạo Thành duy nhất từ ban đầu, là Hoá Công toàn thể thụ tạo hữu hình và vô hình ; và chúng tôi tin Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, Đấng được các ngôn sứ tiên báo sẽ đến rao giảng ơn cứu độ cho loài người và dạy dỗ các môn đệ Người tuyển chọn. Và vì tôi là người phàm, nên tôi nghĩ chỉ có thể nói được một vài điều, bởi lẽ thần tính của Người thì vô biên. Tôi công nhận uy tín của các ngôn sứ khi các ngài tiên báo Người là Con Thiên Chúa như tôi vừa nói. Quả thật, tôi biết các ngôn sứ được ơn trên báo cho biết trước về cuộc giáng lâm của Người đến với nhân gian.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi là Ki-tô hữu ư ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Đúng thế, tôi là Ki-tô hữu.”

Tổng trấn nói với thánh Giút-ti-nô : “Hãy nghe đây, hỡi kẻ được tiếng là thông thái và tưởng mình biết đạo lý thật : nếu ngươi bị đánh đòn và bị chặt đầu, ngươi có tin chắc là ngươi sẽ được lên trời không ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi hy vọng sẽ được ở trên đó, nếu tôi chịu được những điều này, vì tôi biết rằng cho đến tận thế, Chúa vẫn dành ơn ấy cho những ai ăn ở ngay lành.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi tưởng là ngươi sẽ được lên trời và nhận phần thưởng đích đáng sao ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Không phải là tưởng mà là biết rõ và chắc chắn như vậy.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Thôi, ta hãy đi vào vấn đề, vào công việc cần thiết và khẩn trương. Vậy các ngươi hãy đồng lòng tế thần đi.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Không ai là người có lương tri mà lại bỏ con đường đạo nghĩa để bước vào con đường vô đạo.”

Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Nếu không tuân lệnh, các ngươi sẽ phải chịu khổ hình không chút xót thương.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Chúng tôi ao ước chịu khổ hình vì Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng tôi, để được cứu độ, vì điều ấy mang lại cho chúng tôi ơn cứu độ và làm cho chúng tôi vững tin trước toà chung thẩm của Chúa là Thiên Chúa và Đấng cứu độ chúng tôi.”

Các vị tử đạo khác cũng nói như sau : “Ngài muốn làm thế nào tuỳ ý, chúng tôi là Ki-tô hữu, chúng tôi không tế thần.”

Tổng trấn Rút-ti-cô tuyên án : “Ai không muốn tế thần và tuân lệnh hoàng đế, đều phải bị đánh đòn và mang đi chặt đầu, phải chịu án tử hình theo luật định.”

Các thánh tử đạo ngợi khen Chúa, đi tới pháp trường, bị chặt đầu và hoàn tất cuộc tử đạo khi tuyên xưng Đấng Cứu Độ.

Xướng đápx. Cv 20,21.24 ; Rm 1,16

XTôi đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, không chút sợ hãi.

ĐMạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận là làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.

XTôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp.

ĐMạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận là làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Giút-ti-nô tử đạo ơn hiểu biết sâu xa về Đức Ki-tô, nhờ suy tưởng mầu nhiệm Thập Giá mà thế gian coi là điên dại. Nhờ lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con thoát khỏi mọi tư tưởng sai lầm và cương quyết giữ vững niềm tin. Chúng con cầu xin

 

 

Thánh JUSTINO, Tử đạo (+165)

Thánh Giustinô tử đạo sinh tại Nablus, Samaria, ở vào đầu thế kỷ thứ II. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân thật. Với nhiệt tình này, ngài đã tiếp xúc với mọi người triết thuyết đường thời và không thoả mãn được các đòi hỏi của trí khôn.

Trong tác phẩm “Đối thoại với Tryphon” (Dialogus cum Tryphone), chính Thánh Giustinô kể lại cuộc tìm kiếm của mình: Trước hết, ngài tin tưởng vào một người theo phái khắc kỷ. Những người này chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói rằng sư hiểu biết ấy không cần thiết gì. Sau đó, ngài đến với một người theo thuyết của Aristote. Ông này đòi thù lao quá cao, khiến sinh viên trẻ là Giustinô phẫn uất: người ta không rao bán triết học.

Một người theo lý thuyết của Pythagore hỏi Ngài: Anh đã học âm nhạc, thiên văn và địa lý chưa? Bởi vì để chiêm ngưỡng điều góp phần tạo nên hạnh phúc cần phải biết học giải thoát tâm hồn khỏi các đối tượng hữu hình để có thể tiếp nhận được những đối tượng trong trí khôn và cho phép thấy được sự thiện mỹ nội tại.

Giustinô chưa biết gì về những môn học, nhưng lại thấy mình bị thúc bách tìm kiếm Thiên Chúa hơn. Ngài gặp một người theo phái Platon. Ngài nói: Sau nhiều đàm luận, tôi hiểu được những điều vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng thế giới tư tưởng chấp cánh cho tinh thần của tôi.

Dầu vậy, không có gì làm cho ngài thoả mãn được cơn khát chân lý. Tại Ephesô, Giustinô gặp một cụ già đầy khôn ngoan. Ông trách ngài đã thích lý sự về từ ngữ hơn sự kiện. Ông đã cho ngài một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc Kinh Thánh: phải vượt qua những giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong thời gian hơn các triết gia, phải nghe các tiên tri là những người nói bởi Chúa Thánh Thần, nhất là phải cầu nguyện vì: Không ai có thể thấy hay nghe được những điều này nếu Thiên Chúa và Đức Kitô không cho họ hiểu biết.

Theo lời khuyên này, Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo đảm hơn triết học nhiều. Từ đấy đức tin là quy luật xử thế và sự thánh thiện lý tưỏng của ngài, ngài mở một trường học tại Rôma và sống đời tông đồ đích danh. “Tôi sẽ nói sự thật, không một đắn đo sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm mảnh”.

Gương mẫu của các thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều: Thấy các ngài kiên vững trước cái chết, tôi thầm nói rằng họ không thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái lạc được nữa.

Ngài sẽ tìm được ở đâu sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là trong Kitô giáo? Bởi vậy, ngài đã tìm mở rộng môi trường hoạt động ra ngoài ranh giới lớp học và những cuộc tranh luận, bằng việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn giáo. Ngày nay, chúng ta chỉ còn giữ lại được 2 cuốn: Đối thoại với Tryphone, và Hộ giáo (Apologiae). Nhưng với hai tác phẩm ấy, Thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà minh giáo có thế giá được thế kỷ thứ II và là người đã phác hoạ ra nền thần học Kitô giáo.

Từ một đức tin vững chắc vào các chân lý Kitô giáo. Thánh Giustinô đã không ngần ngại tìm hết khả năng trổi vượt của trí khôn để 2 lần viết thơ can ngăn các bạo vương. Lần thứ nhất vào năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux, và lần thứ hai cho Marcô Aurelio. Cả hai lần ngài cố gắng chỉ dẫn đến kết quả là bị kết án tử hình.

Giustinô và các bạn bị dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus, một người theo triết thuyết Khắc Kỷ. Ngài lớn tiếng tuyên xưng đức tin. - Không ai có lương tri mà lại bỏ rơi chân lý để theo sự lầm lạc cả.

Thánh nhân từ chối không chịu tố giác nơi các Kitô hữu hội họp. Sau cùng, ngài và các bạn bi đánh đòn rồi bị chém đầu. Tài liệu còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh nhân đã phát biểu trong cuộc đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: Mọi nguyên tắc chính đáng mà các triết gia và các nhà lập luật khám phá được và trình bày cũng phải nhớ ở điều mà Ngôi Lời đã diễn tả một phần.

Ngài còn nói: Không ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông ta dạy. Chính vì những lý do khác hẳn với lĩnh vực văn chương mà bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để ký nhận các công trình của các ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng các ngài.
Trích trong Theo Vết Chân Người (Chân dung các thánh nhân)

http://www.truyen-tin.net/BiographyOfSaints.aspx?SID=86

 

  1. Thánh Justin người Samaria (miền Trung nước Dothái thời Chúa Giêsu). Ông sống vào thế kỉ thứ 2. Cha ông không dạy ông về tôn giáo nào cả.

Khi còn nhỏ, Justin  ưa đọc văn thơ, lịch sử, khoa học. Lớn lên ông tiếp tục học như thế, nhưng trong lòng ông muốn tìm hiểu đạo nào là thật?

Người ta kể: Một hôm, trong khi đi dạo bờ biển, Justin gặp một ông già. Hai người nói chuyện. Justin nói rằng mình không có hạnh phúc và muốn tìm vị Chúa thật mà trong các sách chàng đọc, không thấy nói tới. Ông già chỉ cho Justin đọc Kinh thánh để biết về Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế. Ông khuyến khích Justin cầu nguyện để được hiểu biết về Thiên Chúa thật.

Justin từ hôm đó, bắt đầu cầu nguyện và đọc Kinh thánh, càng ngày ông càng thích thú Lời Chúa, ông cũng rất thán phục người Công giáo đã dám chết cho đức tin và tình yêu Chúa Giêsu.

Sau khi học đủ điều trong đạo, Justin xin được rửa tội để làm người Công giáo.

            2. Theo đạo, viết sách bênh đạo, chết vì đạo: Ông đến Rôma, mở trường triết học Kitô, tổ chức những cuộc tranh luận công khai về đạo.

            Một số người thời đó công kích niềm tin và sống đạo Kitô giáo, vì thế Justin bắt đầu nói và viết để bênh vực đạo Chúa. Các sách của ông giúp chúng ta hiểu hơn về Giáo hội Công giáo thời đầu. Ngày nay chỉ còn cuốn “Bênh đạo và cuốn Đối thoại với Trypho”. Nhờ đó ta biết về nghi lễ Rửa tội quãng năm 160, nghi lễ thời đó rất giống như nghi lễ ngày nay. Ông còn viết về sách “Nghi thức Thánh lễ Misa sáng Chúa nhật” của các cộng đoàn Kitô hữu thời đó gồm: đọc sách Thánh, bài dẫn giải Tin mừng, dâng bánh rượu, cho giáo dân rước lễ…

Năm 165, Justin bị bắt, vì ông là Kitô hữu. Nhưng ông quyết liệt không bỏ đạo Chúa để tế thần theo ý vua quan.

            3. Tranh luận bênh vực đức tin:

Chúa đã ban cho thánh Justinô nhiều ơn, và người đã dùng những ơn này đáp lại ơn Chúa kêu gọi. Khi người đã tìm ra sự thật, người đã theo đến cùng.

Quan Tổng Đốc Roma truyền lệnh :– Hãy tế thần và vâng lệnh hoàng đế.

– Justin nói: Chẳng ai có quyền bắt chúng tôi tuân lệnh tế thần,  vì chúng tôi đã theo Chúa Kitô,  Đấng Cứu Chuộc chúng tôi.

– Vậy anh theo chủ thuyết nào ?

– Tôi theo giáo lý chân thật của Chúa Kitô,  mặc dù giáo lý ấy các người lầm lạc không chấp nhận.

– Nếu không tuân lệnh,  các ngươi sẽ bị phạt không nương tay.

– Chúng tôi ao ước được chịu khổ vì Chúa Kitô,  vì sự khổ ấy sẽ đem chúng tôi về Thiên đàng trên trời.

–  Anh có nghĩ rằng anh sẽ được lên trời và lãnh phần thưởng xứng đáng không?

–  Không phải nghĩ, nhưng Thiên đàng có thực, tôi biết rất rõ và nắm vững chắc chắn.

– Tất cả những kẻ không chịu tế thần và bất tuân lệnh hoàng đế đều bị đánh đòn và bị chặt đầu đúng theo luật.

Quan án đã kết án tử hình cho ông Justin. Người đã bị chém đầu ngày 1 tháng 6 năm 166 tại Roma.

 Phần tôi, tôi có tìm Chúa trong Kinh thánh và cầu nguyện không? Xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho con.

http://linhthao.bplaced.net/2015/06/01/thanh-justino-tu-dao/

 

 

Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các văn bản ấy, chúng ta biết về cuộc đời ngài.

Thánh Justin sinh ở Flavia Neapolis, Samaria khoảng năm 100. Cha mẹ ngài là người ngoại giáo, gốc Hy Lạp. Ngài được giáo dục kỹ lưỡng và đặc biệt yêu thích khoa hùng biện, thi ca và sử học. Khi còn trai trẻ, ngài bị thu hút bởi triết thuyết Plato. Tuy nhiên, ngài nhận thấy chỉ có Kitô Giáo mới trả lời được những thắc mắc lớn lao về đời sống và sự hiện hữu.

Qua những tài liệu Kitô Giáo cũng như việc quan sát các gương anh hùng tử đạo, Thánh Justin đã trở lại Kitô Giáo khi ngài 30 tuổi. Ngài tiếp tục mặc áo choàng của các triết gia thời bấy giờ, và trở nên triết gia Kitô Giáo đầu tiên. Ngài tổng hợp Kitô Giáo với các yếu tính đặc sắc nhất trong triết lý Hy lạp. Theo quan điểm của ngài, triết lý là một nhà mô phạm của Ðức Kitô, một nhà giáo dục dẫn đưa người ta đến với Ðức Kitô.

Thánh Justin nổi tiếng là một người biện giáo thời bấy giờ. Ngài đi đây đó và tranh luận với các người ngoại giáo, lạc giáo và Do Thái Giáo. Khi người Kitô tiếp tục bị bách hại bởi nhà cầm quyền, ngài đã công khai bảo vệ Kitô Giáo qua lời giảng dạy cũng như văn bản. Trong các sáng tác của ngài, hiện nay chúng ta vẫn còn giữ được hai bản văn gửi cho hoàng đế Rôma và cho Thượng Viện.

Sau cùng ngài bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn Rôma là Rusticus. Khi được yêu cầu thờ cúng tà thần, Thánh Justin trả lời: “Người có suy nghĩ đúng đắn không vì sự giả trá mà chối bỏ sự thật”.

Thánh Justin bị chém đầu ở Rôma năm 165.

Lời Bàn

Là quan thầy các triết gia, Thánh Justin khích động chúng ta hãy dùng các sức mạnh tự nhiên (nhất là sức mạnh của sự hiểu biết) để phục vụ Ðức Kitô, và để hình thành đời sống Kitô Giáo trong nội tâm chúng ta. Vì con người dễ bị sai lầm, nhất là đối với các vấn đề sâu xa của đời sống và sự hiện hữu, chúng ta cũng phải sẵn sàng sửa đổi và kiểm soát lại tư duy chúng ta trong sự soi dẫn của chân lý Kitô Giáo. Do đó, chúng ta mới có thể nói như các thánh nhân uyên bác của Giáo Hội: Tôi tin để có thể hiểu, và tôi hiểu để có thể tin.

Lời Trích

“Triết lý là sự am tường những gì hiện hữu, và là sự hiểu biết rõ ràng về chân lý; và hạnh phúc là phần thưởng của sự am tường và sự hiểu biết đó” (Thánh Justin, Ðối Thoại Với Trypho, 3).

 

https://dongten.net/2019/05/31/hanh-cac-thanh-01-06-thanh-justino/




Thứ Sáu sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 44, 1. 9-13

"Cha ông chúng ta là những người biết xót thương người, danh tiếng tồn tại từ đời nọ sang đời kia".

Trích sách Huấn Ca.

Chúng ta hãy ca tụng những vĩ nhân và các tổ phụ chúng ta qua các thời đại. Có những người không ai nhớ đến nữa: Họ qua đi như không bao giờ có họ, họ sinh ra như thể không có họ sinh ra, và con cháu của họ cũng thế. Nhưng có những người nhân hậu mà việc thiện của họ không bao giờ bị lãng quên. Dòng dõi họ được hưởng hạnh phúc, và họ sẽ có con cháu nối dòng, miêu duệ họ trung thành với lời giao ước và con cái họ nhờ họ cũng được trung thành. Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời, và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b

Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.

2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.

3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Dt 4, 12

Alleluia, alleluia! - Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phơi bày tư tưởng và ý muốn của tâm hồn. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 11, 11-26

"Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc. Các ngươi hãy tin vào Thiên Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

(Khi nghe dân chúng hoan hô), Chúa Giêsu vào thành Giê-rusalem, lên đền thờ và sau khi đã đưa mắt quan sát mọi sự, và lúc trời đã xế chiều, Người ra về Bêtania cùng với nhóm mười hai. Hôm sau, khi thầy trò rời bỏ Bêtania, Người thấy đói. Và khi thấy ở đàng xa có một cây vả nhiều lá, Người đến xem coi có trái nào không. Nhưng khi lại gần, Người chỉ thấy có lá thôi, vì không phải là mùa có trái. Người phán bảo cây vả rằng: "Cho đến muôn đời sẽ không còn ai ăn trái của mi nữa". Và các môn đệ đã nghe Người nói.

Các ngài đến Giêrusalem. Và khi vào đền thờ, Chúa liền đuổi những người mua bán ở đó. Người xô đổ bàn của những người đổi tiền và ghế của những người bán chim câu. Người không để cho ai mang đồ vật đi ngang qua đền thờ. Người dạy bảo họ: "Nào chẳng có lời chép rằng: "Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dận tộc ư? Thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp". Ðiều đó đến tai các trưởng tế và luật sĩ, họ liền tìm cách giết Người, vì họ sợ Người, bởi tất cả dân chúng say mê giáo lý của Người. Chiều đến, Người ra khỏi thành.

Sáng hôm sau, khi đi ngang qua, các ngài trông thấy cây vả đã chết khô tận rễ. Phêrô nhớ lại và thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, hãy coi, cây vả Thầy nguyền rủa đã chết khô rồi". Chúa Giêsu đáp: "Hãy tin vào Thiên Chúa. Thầy bảo thật các con, nếu ai bảo núi kia: "Hãy dời đi và gieo mình xuống biển", mà trong lòng không hồ nghi, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì người ấy sẽ được như ý. Vì vậy Thầy bảo các con: Tất cả những gì các con cầu xin, hãy tin rằng các con sẽ được, thì các con sẽ được điều đó. Và khi các con đang đứng cầu nguyện, nếu các con có điều gì bất thuận với ai, hãy tha thứ để Cha các con trên trời cũng tha cho các con. Nếu các con không tha thứ, thì Cha các con trên trời cũng không tha tội cho các con".

Ðó là lời Chúa.

 




Đền Thờ ... hang trộm cướp!

SUY NIỆM

Cuộc hành trình tiến về Giêrusalem của Chúa Giêsu cùng với các môn đệ của Người, nh
ư bài Phúc Âm c
ủa Thánh ký Marco (11:11-26) cho Thứ Sáu Tuần VIII Mùa Thường Niên hôm nay cho thấy, đã tới nơi. Sau khi Người công khai "vào thành Giêrusalemtrước sự long trọng và linh đình nghênh đón của dân chúng, thì Người "lên đền thờ và sau khi đã đưa mắt quan sát mọi sự, và lúc trời đã xế chiều, Người ra về Bêtania cùng với nhóm mười hai". 

Đúng thế, nếu tiến "vào thành Giêrusalem" mà không "lên đền thờ" là tâm điểm của thành này, là Nơi Thánh, Nơi Thiên Chúa ngự, thì Chúa Kitô kể như chưa đạt đến đích điểm Người nhắm tới. Thế nhưng, ngay lúc bấy giờ, Người chưa vào bên trong Đền Thờ, mà chỉ mới "đưa mắt quan sát mọi sự" ở 
bên ngoài mà thôi. Bởi đó mới chưa có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra như ngày hôm sau khi Người trở lại, một ngày có hai biến cố liên hệ với nhau, như được Phúc Âm thuật lại như sau:

"Hôm sau, khi thầy trò rời bỏ Bêtania, Người thấy đói. Và khi thấy ở đàng xa có một cây vả nhiều lá, Người đến xem coi có trái nào không. Nhưng khi lại gần, Người chỉ thấy có lá thôi, vì không phải là mùa có trái. Người phán bảo cây vả rằng: 'Cho đến muôn đời sẽ không còn ai ăn trái của mi nữa'. Và các môn đệ đã nghe Người nói".

Đây là biến cố thứ nhất, biến cố xẩy ra trên đường Chúa Kitô cùng với các tông đồ 
lên Đền thờ Giêrusalem. Không biết lúc ấy là lúc nào, có thể là giữa trưa hay chăng. Vì bấy giờ Chúa Giêsu đã cảm thấy "đói". Có thể Thày trò của Người đêm hôm trước đã về ở trọ nhà của 3 chị em Matta, Maria và Lazarô là những người bạn thân của Người ở Bêtania (xem Gioan 11:1-2,5), và đã được cả 3 chị em phục vụ hết mình về cả của ăn lẫn chỗ ngủ, kể cả bữa ăn sáng hôm sau trước khi Thày trò rời nhà của họ trở lại Đền Thờ

V
ấn đề ở đây là tại sao Chúa Kitô lại nguyền rủa một cây vả không có trái như Người mong muốn, nhất là lúc Người cảm "thấy đói": "Cho đến muôn đời sẽ không còn ai ăn trái của mi nữa", trong khi đó lại "không phải là mùa có trái" của nó, cho dù nó vẫn còn "có láxanh tươi? Và lời nguyền rủa của Người đã hoàn toàn ứng nghiệm với cây vả tội nghiệp này, như phần dưới của cùng bài Phúc Âm hôm nay ghi nhận: "Sáng hôm sau, khi đi ngang qua, các ngài trông thấy cây vả đã chết khô tận rễ".

C
ó thể cây vả bị Chúa Kitô nguyền rủa ấy chỉ um tùm những lá xanh tươi như vậy thôi, mà chẳng bao giờ có trái, dù đến mùa sinh hoa kết trái của nó như những cây vả khác, nên nó mới bị nguyền rủa như vậy, bởi nó không đạt được ý nghĩa là thứ cây ăn trái của mình, và vì thế chỉ chiếm đất chứ chẳng có lợi gì, đáng bị đốn đi cho xong, như ý nghĩa của dụ ngôn về cây vả không sinh trái trong vườn nho được Chúa Giêsu nói đến (xem Luca 13:7).

Bi
ến cố cây vả bên đường không sinh trái bị Chúa Giêsu nguyền rủa và đã bị héo khô này phải chăng ám chỉ đến biến cố Thành Thánh Giêrusalem, giáo đô của Do Thái giáo của dân Chúa chọn, chỉ là một nơi nguy nga đồ sộ về kiến trúc và là một nơi đô hội vui nhộn theo trần thế hơn là nơi của tôn giáo và đức tin, nơi để dân Chúa "tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24), nên nó đã được chính Người báo trước cho biết về số phận bất hạnh của nó là "tất cả sẽ bị hủy hoại" (xem Marco 13:2). 

Đúng thế, biến cố thứ hai trong cùng một ngày, tiếp theo sau biến cố cây vả bên đường bị Chúa Giêsu 
nguyền rủa (hôm sau thấy chết khô), đó là biến cố có liên quan đến biến cố thứ nhất, một biến cố gián tiếp ám chỉ đến biến cố thứ hai, và biến cố thứ hai này đã được Thánh ký Marco thuật lại trong cùng bài Phúc Âm hôm nay như sau:

"Các ngài đến Giêrusalem. Và khi vào đền thờ, Chúa liền đuổi những người mua bán ở đó. Người xô đổ bàn của những người đổi tiền và ghế của những người bán chim câu. Người không để cho ai mang đồ vật đi ngang qua đền thờ. Người dạy bảo họ: 'Nào chẳng có lời chép rằng: 'Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dâ
n tộc ư? Thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp'".

Ở đây chúng ta thấy, hôm trước, Chúa Giêsu khi công khai tiến vào Thành Giêrusalem mới chỉ "
đưa mắt quan sát mọi sự" ở bên ngoài đền thờ, hôm nay, "khi vào đền thờ", thì ở bên trong Người mới thấy diễn ra một cảnh tượng không thể nào chấp nhận được, không thể nào không thẳng tay thanh tẩy đền thờ cho đúng với ý nghĩa "là nhà cầu nguyệncủa đền thờ, một nơi linh thiêng thánh hảo đã bị con người trần tục hóa, một nơi con người "đã biến thành hang trộm cướp", trở thành sào huyệt của lợi lộc thấp hèn trần tục.

Cấu trúc của đền thờ, theo lời chỉ dẫn của chính Thiên Chúa, được Sách Xuất Hành thuật lại về Lều Tạm (The Dwelling / Tabanacle) ở đoạn 26 (31-37) và được Thư Do Thái nhắc lại ở đoạn 9 (1-7), bao gồm 2 phần: phần thánh (holy place) ở bên ngoài (outside one) và phần cực thánh (the holy of holies) bên trong tấm màn thứ hai (behind the second veil): Phần Thánh gồm có cái bàn (table) ở phía bắc và chân đèn (lampstand) ở phía nam Lều Tạm, nơi các vị tư tế (priests) có thể vào thường xuyên. Còn Phần Cực Thánh là nơi có Bàn Thờ Hương bằng vàng và Hòm Bia đựng hai tấm bia giao ước (the tablets of covenant), một hũ bằng vàng đựng manna (the golden jar containing the manna) và cây gậy nở hoa của Aaron (the rod of Aaron which had blossomed), và là nơi chỉ có vị thượng tế (high priest) mới được vào mỗi năm 1 lần mà thôi. 

 

Tuy nhiên, Sách Xuất Hành ở đoạn 27 (9-19) sau đó còn thuật lại một phần nữa của Lều Tạm theo lời chỉ dẫn của Thiên Chúa hết sức tỉ mỉ bao gồm cả 4 phía đông, tây, nam, bắc, kèm theo kích thước đàng hoàng, gọi là Court of the Dwelling, có thể coi là tiền đường của Lều Tạm, một tiền đường có cửa vào được treo một tấm màn (curtain) nữa, tức tấm màn thứ nhất so với tấm màn thứ hai phân nơi thánh và nơi chí thánh ở nội cung Lều Tạm. Đền thờ Giêrusalem đầu tiên, theo Sách Chư Vương quyển 1 (6:15-38), được Vua Solomon xây 7 năm (27:38) và cũng được cấu trúc theo đúng như cấu trúc của Lều Tạm, cũng có nơi thánh và nơi cực thánh ở nội cung, và tiền đường bên ngoài (27:36), một cấu trúc có thể ám chỉ về con người có thân xác như tiền đường, linh hồn như nơi thánh và lương tâm như nơi cực thánh.  

Như thế, theo suy đoán thì Chúa Giêsu vào đền thờ bấy giờ là vào tiền đường của đền thờ mà thôi, nơi dân chúng tụ họp, chứ ngài không vào bên trong nơi thánh như một vị tư tế hay vào nơi cực thánh như một vị thượng tế. Và chính ở tiền đường cũng là một phần trong cấu trúc làm nên nguyên vẹn đền thờ là nơi cầu nguyện đầy tính cách linh thiêng này đã bị con người ta biến thành hang trộm cướp bằng những thứ buôn bán trần tục, bất xứng với một nơi gọi là đền thờ mà Người đã phải thẳng tay thanh tẩy như Phúc Âm hôm nay thuật lại. 

 

Hai biến cố trong cùng một ngày có liên hệ với nhau trên đây cho thấy, trước hết, về phương diện tự nhiên, một sinh vật (điển hình như cây vả là một thứ cây ăn trái) không thể nào không sinh hoa trái là những gì biểu hiệu cho sự sống đích thực và dồi dào của nó, sau nữa, về phương diện siêu nhiên, một con người có hồn thiêng bất tử không thể nào chỉ "sống nguyên bởi bánh" mà chính là "sống bởi mọi lời bởi miệng Thiên Chúa phán ra" (xem Mathêu 4:4), nghĩa là sống bởi đức tin nữa. 

Đó là lý do, sau khi nghe thấy Tông Đồ Phêrô báo cho biết rằng "Lạy Thầy, hãy coi, cây vả Thầy nguyền rủa đã chết khô rồi", Chúa Giêsu mới lợi dụng cơ hội ấy để dạy cho vị tông đồ này nói riêng và các tông đồ nói chung về đức tin, như bài Phúc Âm hôm nay trình thuật tiếp như sau: "Hãy tin vào Thiên Chúa. Thầy bảo thật các con, nếu ai bảo núi kia: 'Hãy dời đi và gieo mình xuống biển', mà trong lòng không hồ nghi, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì người ấy sẽ được như ý".

CẢM NGHIỆM


Biến cố Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Giêrusalem trong bài Phúc Âm hôm nay, nhưng trước đó Người nguyền rủa cây vả không sinh hoa trái và sau đó cây vả bị Người nguyền rủa chết khô, có thể hiểu về bản thân là Đền Thờ Thánh Linh của Kitô hữu (1Corinto 3:16-17; 6:19-20), thành phần nhờ Phép Rửa đã được thông phần vào bản tính thần linh của Thiên Chúa, nhờ đó được sống sự sống thần linh của Thiên Chúa và với Thiên Chúa, một sự sống thần linh vô cùng viên mãn không thể nào không sinh hoa trái, liên lỉ sinh hoa trái, chứ không theo thời hay tùy thời.


Tuy nhiên, nếu Kitô hữu sống lơ là theo bản tính tự nhiên vốn xu hướng về trần tục, về những sự dưới thế hơn là những sự trên trời, đến độ biến tâm hồn là nơi Thiên Chúa ngự trị bởi Thánh Linh của Ngài như là một "nhà cầu nguyện", một Đền Thờ linh thiêng "thành hang trộm cướp", thì chắc chắn sẽ "được" Người thương thanh tẩy để khỏi bị chết đi như cây vả không sinh hoa trái cho Người bất cứ lúc nào Người mong muốn và đòi hỏi.


Sự kiện đền thờ Giêrusalem được Chúa Giêsu thanh tẩy và hiện tượng cây vả chết khô theo lời nguyền rủa của Chúa Giêsu có một mối liên hệ hết sức chặt chẽ với nhau, ở chỗ cái chết của cây vả là dấu báo cho tình trạng đền thờ bị tục hóa rồi sẽ bị tàn phá, bởi đền thờ được bàn tay con ngưòi xây lên đã bị chính con người tục hóa. Mà hình ảnh đền thờ Giêrusalem bị tàn phá theo lời Chúa Giêsu tiên báo được coi là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận.


Trong Bài Đọc 1 hôm nay, số phận của cây vả tốt tươi nhưng không sinh hoa trái và thành Giêrusalem nguy nga nhưng sẽ bị tiêu hủy, cũng được ám chỉ nơi số phận của
"những người không ai nhớ đến nữa: Họ qua đi như không bao giờ có họ, họ sinh ra như thể không có họ sinh ra, và con cháu của họ cũng thế".


Thánh Marcellino và Phêrô, Tử Đạo (304)

 

Ngày 2/6

 

MarcellinusAndPeter.jpg

Dường như không có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai Thánh Tử đạo Marcellino và Phêrô cả. Lịch sử chép rất vắn tắt về đời sống hai Thánh Marcellino và Phêrô Tử đạo. Các ngài được phúc Tử đạo dưới thời hoàng đế Diocletiano.

Theo truyền thuyết, Marcellino là một Linh mục chuyên lo việc dạy giáo lý và Rửa tội cho tân tòng. Ngài nhiệt thành dạy đạo và đem nhiều người trở lại với Chúa, nên bị những kẻ thờ thần ganh ghét, tố cáo.

Còn Phêrô là một người trừ quỷ nổi tiếng ở La Mã. Thánh nhân đã cứu nhiều người khỏi ma quỷ ám hại, do đó, họ tin theo Chúa.

Nhờ được ơn trừ quỷ, Thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại cũng có nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Những người phù thủy ghen tương vì bị mất quyền lợi. Thế là cả hai vị Thánh đều bị tố giác, dưới thời hoàng đế Diocletiano bắt đạo. Tỉnh trưởng Serene ra lệnh tống giám Ngài. Bạn ông là Antemi có đứa con gái bị quỷ ám. Nghe biết Phêrô có quyền trừ quỷ, ông giới thiệu bạn mình tới ngục thất để gặp Thánh nhân. Gặp ông, Thánh nhân khuyên nhủ ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho rằng Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao Thánh nhân cứu nổi con ông được. Rồi ngay đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì Thánh nhân đã có mặt ở nhà Antemi. Cả gia đình Antemi bỡ ngỡ và xin theo đạo. Paulina, con gái Antemi được lành bệnh. Từ đó gia đình Antemi thành nơi tụ tập của các tín hữu, Phêrô thường hay lui tới dạy đạo và Rửa tội cho các tân tòng.

Tức giận, Sereno ra lệnh hành hạ hai Thánh nhân một cách dã man rồi giam ngục tối, nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các ngài cho chết. Tuy nhiên Chúa đã giải thoát cho các ngài trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng được chịu phép Rửa tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sereno ra lệnh giết cả gia đình ông.

Các ngài chịu thống khổ vì Chúa bao nhiêu, thì cũng được an ủi, được phần thưởng lớn lao bấy nhiêu, như Linh mục Origene xác quyết: “các sự thống khổ của Đức Kitô tràn đến chúng ta thế nào, thì nhờ Đức Kitô, sự an ủi chúng tôi cũng được tràn đầy thế ấy. Nếu vậy, thì chúng ta hãy hăm hở nhận lấy những sự thống khổ của Đức Kitô; và ước gì chúng tràn đến trên chúng ta, nếu chúng ta muốn được đầy tràn an ủi, bởi vì ai khóc lóc sẽ được an ủi, nhưng không bằng nhau cho hết mọi người đâu. Bởi vì, nếu sự an ủi bằng nhau cho hết mọi người thì đã không có lời chép rằng: Các sự thống khổ của Đức Kitô tràn đến chúng tôi thế nào thì sự an ủi chúng tôi cũng được đầy tràn thế ấy.

Sự chia sẻ những thống khổ của Đức Kitô thì tương đương với sự thống khổ mà họ chịu với Người. Điều này bạn hãy nghe Đấng đã nói rất tin tưởng rằng: chúng tôi biết rằng anh em đã thông phần thống khổ thế nào, thì cũng được thông phần an ủi thế ấy.

Các ngài bị hành hình khổ sở và giam trong ngục tối. Cuối cùng, khoảng năm 304, hai Thánh Marcellino và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành án quyết, đao phủ Dorote đã thấy linh hồn hai ngài bay về trời. Quá xúc động ông đã xin tòng giáo và qua đời cách lành Thánh. Còn xác hai Thánh nhân được chôn cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.

Khi Giáo Hội được sống trong an bình, hoàng đế Constantin cho xây trên mộ hai ngài một đại Thánh Đường rất nguy nga trên con đường Via Merulana, nằm giữa đại Thánh Đường Đức Bà Cả và Đền Thờ Laterano. Chính nơi đây hoàng đế đã cho chôn cất mẹ ngài. Tên hai Thánh nhân đã được nhắc đến trong lễ quy Roma.

Lạy Chúa, khi ban ơn cho hai Thánh Tử đạo Marcellino và Phêrô cùng anh dũng tuyên xưng đức tin, Chúa đã cho chúng con nghiệm thấy rằng: Chúa hằng gìn giữ che chở Giáo Hội. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Nguồn: Hạnh Các Thánh

https://danchuahiepthong.wordpress.com/2017/06/02/thanh-marcellino-va-phero-tu-dao-304/

Không có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai thánh tử đạo Marcellino và Phêrô cả. Các Ngài được phúc tử đạo dưới thời Diocletianô.

 

Thánh Marcellino được ơn tử đạo còn thánh Phêrô được ơn trừ quỉ.

 

Nhờ được ơn trừ quỉ, thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại cũng có nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Tỉnh trưởng Sêrênô ra lệnh tống giam Ngài. Bạn ông là Antêmi có đứa con gái bị quỉ ám. Nghe biết Phêrô có quyền trừ quỉ, ông giới thiệu bạn mình tới ngục thất để gặp thánh nhân. Gặp ông, thánh nhân khuyên nhủ ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho rằng: Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao thánh nhân cứu nổi con ông được. Rồi ngay đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì thánh nhân đã có mặt ở nhà Antêmi. Cả gia đình Antêmi bỡ ngỡ và xin theo đạo. Paulina, con gái Antêmi được lành bệnh. Từ đó gia đình Antêmi thành nơi tụ tập thường hay lui tới dạy đạo và rửa tội cho các tân tòng.

 

Tức giận, Sêrênô ra lệnh hành hạ hai thánh nhân một cách dã man rồi giam ngục tối, nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các Ngài cho chết. Tuy nhiên Chúa đã giải thoát cho các Ngài trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng được chịu phép rửa tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sêrênô ra lệnh giết cả gia đình ông.

 

Cuối cùng hai thánh nhân Marcellinô và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành án quyết, đao phủ Đorotê đã thấy linh hồn hai Ngài bay về trời. Quá xúc động ông đã xin tòng giáo và qua đời cách lành thánh. Còn xác hai thánh nhân được chôn cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.

 

Khi Giáo hội được sống trong an bình, người ta xây cất trên mộ hai Ngài một thánh đường rất nguy nga. Tên Hai thánh nhân đã được nhắc đến trong lễ quy Roma.

 

http://conggiao.info/thanh-marcellino-va-phero-tu-dao-304-d-16084

Ca hiệp lễ, lễ chung các thánh tử đạo có ghi:” Anh em đã một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp gian nan thử thách. Vì thế, Thầy sẽ ban quyền cai trị cho anh em, để anh em  được đồng bàn ăn uống với Thầy,  trên vương quốc của Thầy”( Lc 22, 28-30 ). Thánh Marcellinô và Phêrô là những chứng nhân cho Chúa, đã đổ máu đào để minh chứng cho tình yêu của Chúa.

 

THÁNH MARCELLINÔ VÀ THÁNH PHÊRÔ:

Lịch sử không ghi lại nhiều về hai thánh này, người ta chỉ biết rõ rằng thánh Phêrô được đặc ân Chúa ban cho trừ quỉ, Ngài đã làm nhiều phép lạ do tình thương của Chúa, xua trừ ma quỉ ra khỏi nhiều người bị chúng ám hại. Tiếng tăm của Ngài được loan truyền khắp nơi, Ngài đã thu hút được nhiều thành phần trong xã hội, có nhiều người mộ mến Ngài, nhưng cũng lắm kẻ ghen ghét, ganh tỵ, hận thù Ngài vì Ngài được nhiều người quí mến, yêu chuộng. Thánh nhân đã sống đúng lời Chúa:” Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”  ( Mc 8, 35 ). Chính vì Ngài có ảnh hưởng rộng lớn và lôi cuốn được nhiều người  theo Chúa. Viên tỉnh trưởng Sérène bắt Ngài và ra lệnh tống ngục Ngài. Trong tù, thánh nhân đã làm gương sáng: sống hiền lành, khiêm nhượng, làm phép lạ và đời thánh thiện của Ngài đã làm cho cả gia đình Antêmi trở lại theo Chúa do phép lạ thánh nhân đã chữa khỏi bệnh cho con gái Antêmi.

Thánh Marcellinô cũng bị tống ngục vì tội rao giảng và tội làm phép lạ, tội rửa tội cho nhiều tân tòng. Thánh nhân dù bị tù tội, dù bị tra tấn dã man vẫn một lòng kiên trung rao giảng, dậy giáo lý và tiếp tục rửa tội cho nhiều người.  Tỉnh trưởng Sérène quá bực tức vì tinh thần kiên cường của hai thánh nhân, nên đã dùng nhiều cực hình dã man nhất, tàn bạo nhất hầu làm nhụt chí hai vị, nhưng” vàng thử lửa, gian nan thử đức”. Hai vi thánh vẫn kiên trì theo Chúa và không hề nản lòng, nhụt chí. Chúa đã sai các thiên thần ban đêm đến giải cứu các Ngài để các Ngài củng cố niềm tin cho các tân tòng. Tỉnh trưởng Sérène nghi ngờ Antêmi đã tiếp tay để thánh Phêrô và Marcellinô trốn ngục, nên đã hạ lệnh giết cả gia đình của Antêmi.

 

CHÚA THƯỞNG CÔNG HAI THÁNH MARCELLINÔ và PHÊRÔ:

Thánh vịnh 33, 18 có viết:” Người công chính kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn”. Thánh Marcellinô và Phêrô đã được phúc tử đạo vào năm 304. Khi chém đầu các Ngài, tên đao phủ Đôrôtê đã trông thấy linh hồn các Ngài bay về thiên quốc. Ông đã hối hận, xin trở lại, chịu phép rửa và chết bình an trong tay Chúa.

 

“Lạy Chúa, khi ban ơn cho hai thánh tử đạo Marcellinô và Phêrô cùng anh dũng tuyên xưng đức tin, Chúa đã cho chúng con nghiệm thấy rằng:” Chúa luôn gìn giữ chở che Giáo Hội”. Vì lời hai thánh nguyện giúp cầu thay, xin cho chúng con được bắt chước các Ngài luôn giữ vững niềm tin như thế “( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Marcellinô và Phêrô tử đạo ).

 

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang6/Ngay2.htm

 

 

 

Thứ Bảy sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 51, 17-27

"Tôi sẽ tôn vinh Ðấng ban cho tôi sự khôn ngoan".

Trích sách Huấn Ca.

Tôi tuyên xưng, ca ngợi và chúc tụng danh Chúa.

Khi tôi còn trẻ, trước khi tôi đi đó đây, tôi đã công khai tìm kiếm sự khôn ngoan trong khi cầu nguyện. Trước đền thờ, tôi đã xin sự khôn ngoan, và tôi sẽ còn tìm nó cho đến ngày cuối đời tôi. Trước tinh hoa của sự khôn ngoan, như chùm nho hồng, tâm hồn tôi vui sướng: chân tôi bước đi trên đường ngay chính. Từ buổi thanh xuân, tôi đã tìm kiếm nó. Tôi đã lắng tai và nghe tiếng nó. Tôi đã tìm thấy trong tôi sự khôn ngoan cao cả, và nhờ nó tôi đã được tiến triển nhiều. Tôi sẽ tôn vinh Ðấng ban cho tôi sự khôn ngoan, vì tôi đã suy niệm để đem nó ra thực hành, tôi đã hăng say làm điều lành và tôi không hổ thẹn. Cùng với sự khôn ngoan, linh hồn tôi đã chiến đấu, và khi hành động, tôi được thêm vững chắc. Tôi đã giơ hai tay lên cao, và đã than khóc, vì đã không biết đến nó. Tôi đã hướng tâm hồn tôi về nó, và tôi đã tìm được nó với tâm hồn trong sạch.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11

Ðáp: Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can (c. 9a).

Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.

2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy. - Ðáp.

4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy tự tàng ong. - Ðáp.

 

Alleluia: Gc 1, 18

Alleluia, alleluia! - Do ý định của Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật, để chúng ta nên như của đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 11, 27-33

"Ông lấy quyền nào làm sự đó?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ lại đến Giêrusalem. Và trong khi Chúa Giêsu đi lại trong đền thờ, thì những trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão đến hỏi Người: "Ông lấy quyền nào mà làm sự đó? Và ai đã ban quyền cho ông để làm như vậy?" Chúa Giêsu đáp: "Tôi sẽ hỏi các ông một câu thôi, hãy trả lời cho Tôi thì Tôi sẽ bảo cho các ông hay Tôi lấy quyền nào mà làm việc đó: Phép rửa của Gioan bởi trời hay bởi người ta? Hãy trả lời Tôi đi". Họ liền bàn riêng với nhau rằng: "Nếu chúng ta trả lời "Bởi trời", ông ấy sẽ nói: "Vậy sao các ông không tin Người?" Nhưng nếu chúng ta nói "Bởi người ta", chúng ta sợ dân chúng, vì mọi người đều coi Gioan thật là một tiên tri. Vậy họ thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi không biết". Và Chúa Giêsu bảo họ: "Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết bởi quyền phép nào Tôi làm sự đó".

Ðó là lời Chúa.

 

 



"Ngồi trong tối tăm và trong bóng tối chết chóc"

SUY NIỆM

Ý nghĩa phụng vụ Lời Chúa cho Thứ Bảy Tuần VIII Thường Niên hôm nay vẫn bao gồm bài Phúc Âm theo Thánh Marco (11:27-33) và Sách Huấn Ca (51:17-27), như từ ngày đầu tuần lễ này cho tới ngày cuối tuần hôm nay.
 

B
ài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, bài Phúc Âm Chúa Kitô thẳng tay thanh tẩy đền thờ, một nơi linh thiêng thánh hảo "là nhà cầu nguyện" nhưng đã bị dân chúng "biến thành hang trộm cướp" với đầy những thứ buôn bán kiếm lợi, cho dù là những thứ cần thiết như "các con chim câu" (Marco 11:15), liên quan đến việc tuân giữ lề luật của những cha mẹ dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa trong đền thờ, như trường hợp của Thánh Gia (xem Luca 2:24). 

Chứng kiến thấy hành động dữ dội của Chúa Giêsu như một nhân vật đầy uy quyền như thế, thành phần có thẩm quyền của dân Do Thái là "những trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão"thành phần có thể đã cho phép buôn bán như thế trong đền thờ từ trước đến nay, và vì thế hành động của Người đã đụng đến họ, nên Người đã bị họ đặt vấn đề như hạch hỏi Người như sau: "Ông lấy quyền nào mà làm sự đó? Và ai đã ban quyền cho ông để làm như vậy?". Đại khái là họ không ủy quyền cho Người mà tại sao Người dám lộng quyền qua mặt họ như thế! 

Chúa Giêsu đã sử dụng cái chiêu để cho họ tự trả lời lấy. Bởi thế, thay vì Người nói thẳng ra là Người lấy quyền nào hay ai trao quyền cho Người để Người thẳng tay thanh tẩy đền thờ như vậy, Người đã đặt vấn đề ngược lại với họ để họ tự nhận thức lấy và trả lời thay cho Người: "Tôi sẽ hỏi các ông một câu thôi, hãy trả lời cho Tôi thì Tôi sẽ bảo cho các ông hay Tôi lấy quyền nào mà làm việc đó: Phép rửa của Gioan bởi trời hay bởi người ta? Hãy trả lời Tôi đi".

Thật ra, thành phần lãnh đạo dân chúng này đã thừa biết Người lấy quyền nào hay ai ban quyền cho Người để Người thẳng tay thanh tẩy đền thờ rồi. Nhưng họ muốn chính miệng Người nói ra để nại cớ bắt Người hay tố cáo Người, vì "Người chỉ là loài người mà dám coi mình ngang hàng với Thiên Chúa" (Gioan 10:33), và vì chính họ, qua thành phần được họ sai đến với Tiền Hô Gioan để điều tra xuất xứ của ngài đã biết rằng ngài không phải là Đấng Thiên Sai (xem Gioan 1:19-27).

Đó là lý do họ đã bàn với nhau như Phúc Âm thuật lại như thế này: "Nếu chúng ta trả lời 'Bởi trời', ông ấy sẽ nói: 'Vậy sao các ông không tin Người?' Nhưng nếu chúng ta nói 'Bởi người ta', chúng ta sợ dân chúng, vì mọi người đều coi Gioan thật là một tiên tri". Rồi Phúc Âm cho biết tiếp về câu trả lời dứt khoát 
của họ như sau: "Chúng tôi không biết". Và vì thế bài Phúc Âm được kết thúc: "Chúa Giêsu bảo họ: 'Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết bởi quyền phép nào Tôi làm sự đó'". 

 

Thật ra, “phép rửa của Gioan” chỉ là phép rửa thống hối chứ không phải là phép rửa tha tội như của Chúa Giêsu. Bởi thế, “phép rửa của Gioan” chỉ là phép rửa “bởi người ta” còn phép rửa của Chúa Giêsu mới “bởi trời”, và vì thế, Người có quyền thanh tẩy đền thờ, một hành động tiêu biểu cho việc Người thanh tẩy tội lỗi nơi tâm hồn của con người ta bằng Phép Rửa của Người vậy.

 

Tâm trạng của thành phần hạch hỏi và bắt bẻ Chúa Giêsu về hành động Người thanh tẩy đền thờ trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy rằng họ quả thực là sợ sự thật, không dám chấp nhận sự thật, bởi thế họ không gặp được sự thật, tức là họ không được sự thật giải phóng (xem Gioan 8:32), và vì thế họ vẫn tiếp tục "ngồi trong tối tăm và trong bóng tối chết chóc" hết sức là tội nghiệp, vì họ đã có cơ hội được trực diện với "ánh sáng thế gian... ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12) là Chúa Giêsu Kitô, nhưng họ không nhận ra Người, vì "họ yêu tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), "họ ghét ánh sáng không dám đến gần ánh sáng vì sợ các công việc họ làm bị lộ tẩy" (Gioan 3:20).


CẢM NGHIỆM


Câu trả lời mập mờ đầy nhút nhát không dám chân nhận sự thật của thành phần trong Hội Đồng Đầu Mục lãnh đạo dân Do Thái cũng chẳng khác nào tâm trạng của Kitô hữu mỗi khi gặp khó khăn trong đời sống đức tin, cần phải bỏ mình và vác thập giá theo Chúa thì tìm cách trốn tránh cho bằng được, với những lý lẽ trần tục, cố gắng trấn an lương tâm, thậm chí kể cả những lúc họ cầu nguyện để tìm biết rõ ý Chúa muốn để làm theo, họ cũng không dám làm khi biết rõ ý Chúa, giả vờ như không biết hay cho đó vẫn chưa phải là ý Chúa, bởi ý Chúa ấy không hợp với ý của họ, hóa ra ý họ mới là ý Chúa. Chỉ có ai biết chấp nhận sự thật, chân thành và can đảm chấp nhận sự thật mới là những con người khôn ngoan, và chỉ có họ mới sống chân chính tinh sạch theo đúng như Ý Chúa.


Đó là lý do tác giả Sách Huấn Ca trong Bài Đọc 1 hôm nay đã khuyên nhủ chúng ta rằng:
"Tôi sẽ tôn vinh Ðấng ban cho tôi sự khôn ngoan, vì tôi đã suy niệm để đem nó ra thực hành, tôi đã hăng say làm điều lành và tôi không hổ thẹn. Cùng với sự khôn ngoan, linh hồn tôi đã chiến đấu, và khi hành động, tôi được thêm vững chắc. Tôi đã giơ hai tay lên cao, và đã than khóc, vì đã không biết đến nó. Tôi đã hướng tâm hồn tôi về nó, và tôi đã tìm được nó với tâm hồn trong sạch".


Nhờ được ơn khôn ngoan phân định, chọn lựa, quyết định và tác hành theo sự thật ở nơi lề luật của Chúa cũng như trong Thánh Ý Chúa mà những ai khôn ngoan mới có thể vang lên những lời của Bài Đáp Ca hôm nay:

 

Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can (c. 9a).

1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.

2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy.

4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy tự tàng ong.

 

 

 

 

Ngày 3 tháng 6

Thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

St.Ca-rô-lô Loan-ga

 
Cùng với hai mươi hai vị tử đạo U-găng-đa này, trang sử về các Chứng Nhân Tử Đạo những thế kỷ đầu lại tái diễn. Rất nhiều vị trong số đó chỉ mới là Ki-tô hữu được ít lâu. Bốn vị trong số đó được thánh Ca-rô-lô Loan-ga thanh tẩy ngay trước lúc hành hình. Phần lớn các vị bị thiêu sống ở Nu-mun-gun-gô (năm 1886) thuộc lớp tuổi từ mười sáu đến hai mươi bốn. Vị trẻ nhất tên là Ki-di-tô mới có mười ba tuổi.

 

Vinh quang của các vị tử đạo là dấu chỉ về một cuộc tái sinh

Trích bài giảng của đức giáo hoàng Phao-lô VI trong lễ phong thánh các vị tử đạo U-găng-đa.

Các vị tử đạo Phi Châu này đã thêm một trang mới vào Danh Bộ Các Thánh Tử Đạo, vào cuốn sổ ghi tên những người chiến thắng. Trang sách đó cho thấy những sự việc vừa bi thảm, lại vừa cao đẹp. Chúng tôi coi đó là trang sử xứng đáng tiếp nối những bài tường thuật hiển hách về Châu Phi ngày xưa. Chúng ta, những con người của thời đại hôm nay, những người kém lòng tin, chúng ta vẫn tưởng rằng sẽ không bao giờ lại có những trang sử hùng tráng như xưa.

Thánh Âu-tinh và nhà thơ Pơ-ru-đen-xi-ô đã kể lại những thành tích đầy xúc động của các vị tử đạo ở Si-li-um, ở Các-tha-gô, và của các vị tử đạo trong “Đoàn Người Trắng thành U-ti-ca” (300 vị chết trong hầm vôi đang sôi). Thánh Gio-an Kim Khẩu thì hết lời tán dương các vị tử đạo Ai-cập. Những thành tích của tất cả các vị vừa được nhắc đến cùng với thành tích của các vị tử đạo trong cuộc bách hại của những người Văng-đan xưa, ai có thể ngờ rằng thời nay lại được tiếp nối bởi những câu chuyện mới không kém nét hào hùng, không kém phần hiển hách.

Phi Châu ngày xưa có các vị đại tử đạo và các bậc chứng nhân đức tin, những nhân vật nghìn năm không quên như thánh Síp-ri-a-nô, thánh Phê-li-xi-ta, thánh Pe-pê-tu-a, và nhất là thánh cả Âu-tinh. Trước đây, ai có thể tiên đoán rằng sau các vị đó sẽ có ngày chúng ta còn được kể thêm danh tánh rất thân thương của thánh Ca-rô-lô Loan-ga, thánh Mát-thi-a Mu-lum-ba, thánh Ca-lem-ba và hai mươi đồng bạn tử đạo. Cả những vị thuộc Giáo Hội Anh Giáo đã chịu chết vì danh Đức Ki-tô cũng cần phải được nêu danh nữa.

Các thánh tử đạo Phi Châu nói đây đã mở đầu một kỷ nguyên mới, không phải là kỷ nguyên bách hại và tranh chấp, nhưng là kỷ nguyên tái sinh về cả hai mặt đạo cũng như đời.

Phi Châu đã được tưới gội bằng máu của các vị tử đạo mới này, những vị tử đạo đầu tiên trong kỷ nguyên chúng ta -ước chi cũng là những vị cuối cùng, vì lễ toàn thiêu của các ngài cao quý và đắt giá biết bao !- Phi châu đã được tự do và độc lập. Quả thật, Phi châu đang tái sinh.

Người ta đã nghiền nát các ngài một cách tàn bạo. Thật khủng khiếp, nhưng cũng đầy ý nghĩa, vì sự tàn bạo đó ai cũng thấy là đã làm phát sinh những động lực mạnh mẽ khiến hình thành một dân mới -mới về phương diện đạo đức-. Một nếp sống tinh thần mới phải được kiến tạo để truyền lại cho hậu thế. Nếp sống đó phải là một biểu tượng nói lên sự chuyển biến và phải chuyển biến thật sự. Trước đây là một lối sống đơn sơ mộc mạc, tuy không thiếu những giá trị nhân bản đáng quý, nhưng người ta lại bị ràng buộc trong tình trạng nô lệ chính mình, khiến cho lối sống đó không còn đáng trọng, không đứng vững được nữa. Nay phải bước qua một nền văn minh hướng tới những biểu lộ cao quý nhất của tinh thần con người, tới những hình thái thượng đẳng của cuộc sống xã hội.

Xướng đáp

XKhi chúng ta lâm trận và chiến đấu cho đức tin, có Thiên Chúa chứng giám, có các thiên sứ của Người chứng giám, và cả Đức Ki-tô cũng chứng giám nữa.

ĐÔi vinh hiển dường bao, hạnh phúc biết chừng nào, khi xông vào cuộc chiến mà có Thiên Chúa hiện diện, có Đức Ki-tô làm trọng tài và đội triều thiên cho người chiến thắng.

XTa hãy võ trang cho đầy đủ, và sẵn sàng lâm chiến : tinh thần phải vững mạnh, đức tin phải nguyên tuyền, và đức ái nồng nàn mãnh liệt.

ĐÔi vinh hiển dường bao, hạnh phúc biết chừng nào, khi xông vào cuộc chiến mà có Thiên Chúa hiện diện, có Đức Ki-tô làm trọng tài và đội triều thiên cho người chiến thắng.

Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nảy sinh thêm nhiều Ki-tô hữu, xin cho máu của thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội Thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào. Chúng con cầu xin

 

THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO, (St. Charles Lwanga)

Ngày 03/6

 

Kitô giáo còn hoàn toàn mới lạ đối với Phi châu cho tới khi việc truyền bá đạo Công giáo bắt đầu khai mào từ năm 1879. Các linh mục là những tu sĩ dòng Thừa Sai Phi Châu. Các ngài được mọi người biết đến dưới tước hiệu “các cha áo trắng” vì các ngài mang bộ tu phục màu trắng. Vua Mwanga chẳng biết Kitô giáo rao giảng những gì nhưng ông cảm thấy bực mình khi một tín hữu Công giáo là Giuse Mkasa khiển trách lối sống của ông. Vua đã sát hại một nhóm Kitô hữu và cả vị giám mục thân yêu của họ. Vua cũng can dự vào sinh hoạt đồng tính luyến ái. Ông đặc biệt ưa thích các chú tiểu đồng. Rồi sự bực mình của vua Mwanga trở nên phẫn nộ và căm thù đối với Giuse Mkasa và tôn giáo của anh. Một số giới chức tham tham của nhà vua đã kích động tâm trạng vua với những lời xu nịnh gian trá. Thế là vào ngày 18 tháng Mười Một năm 1885, Giuse Mkasa bị đem ra xử trảm. Cuộc bách hại khủng bố bắt đầu. Trước khi nó kết thúc, hàng trăm người đã bị thiệt mạng. Hai mươi hai người trong số họ được tôn phong lên bậc hiển thánh.

Với cái chết của Giuse Mkasa, Carôlô Lwanga trở thành thầy dạy đạo chính yếu cho các chú tiểu đồng của vua. Vào ngày 26 tháng Năm năm 1886, vua Mwanga nhận thấy một số tiểu đồng của ông là tín hữu Công giáo. Ông cho gọi Đênis Sêbugwawo vào. Ông hỏi có phải Đênis đã dạy đạo cho các tiểu đồng không. Đênis trả lời phải. Nhà vua liền chụp lấy ngọn giáo của mình và phóng xuyên qua cổ họng chàng thanh niên. Rồi ông la lớn tiếng không cho phép ai được rời khỏi tổng hành dinh của ông. Tiếng trống đấu tranh vang lên thâu đêm. Trong một căn phòng kín ẩn, Carôlô Lwanga đã bí mật rửa tội cho bốn chú tiểu đồng. Một em trong bọn trẻ là thánh Kizitô, chú bé mười ba tuổi có tính tình vui tươi quảng đại. Kizitô là người bé nhất trong nhóm. Thánh Carôlô Lwanga thường hay bảo vệ Kizitô thoát khỏi lòng ham muốn dâm dật của vua Mwanga.

Hầu như hai mươi hai vị thánh tử đạo Uganđa này đã bị giết chết vào cùng ngày mùng 3 tháng Sáu năm 1886. Các ngài bị bắt đi bộ chừng năm mươi chín cây số đến nơi hành quyết. Sau ít ngày bị giam tù, người ta ném các ngài vào một đống lửa lớn. Mười bảy người trong số ấy là những chú tiểu đồng thuộc vương gia. Một trong các cậu bé tử đạo là thánh Mbaga. Hôm ấy chính thân phụ ngài là người đao phủ. Một vị tử đạo khác là thánh Anrê Kagwa, mất ngày 27 tháng Giêng năm 1887, cũng ở trong số hai mươi hai vị tử đạo được đức thánh cha Phaolô VI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1964.

 Carôlô Lwanga là thánh bổn mạng của giới trẻ da mầu Phi châu. Ngài và các bạn tử đạo đã hết sức hiểu rõ và quý trọng ơn đức tin của mình. Các ngài đã là những anh hùng! Chúng ta hết thảy hãy cầu xin cùng thánh Carôlô Lwanga và các thánh tử đạo Phi châu này. Hãy xin các ngài chỉ cho chúng ta biết cách làm chứng cho Đức Chúa Giêsu và Giáo hội như các ngài.

http://giaophanvinhlong.net/thanh-carolo-lwanga-va-cac-ban-tu-dao.html




Dân da đen sống ở miền Ouganda, Trung Phi thuở ấy chưa hề nghe đến tên Chúa. Ma quỷ còn thống trị họ với mọi thứ phù phép. Họ chém giết lẫn nhau và ăn thịt nhau nữa. Trẻ em bị bỏ rơi. Đàn bà bị coi như thú vật phải làm việc mệt nhọc và bị sát hại theo sở thích của đàn ông.

Ngày kia hai cha thừa sai Lourdel và Livinhac đến với họ sau một cuộc hành trình đầy cực khổ. Các Ngài đến gặp nhà vua trong chòi của ông và buổi đầu mọi sự tốt đẹp. Các Ngài tận tụy phục vụ. 

 

Dân da đen đã không bao giờ tưởng tượng được điều các vị thừa sai nói cho lại là điều tốt đẹp như vậy: Họ có một người cha trên trời đã yêu thương họ đến nỗi đã ban con mình là Chúa Giêsu đến cứu chuộc họ, và Chúa Giêsu lại chết trên thánh giá đã họ được về trời với Người, như thế họ lại không yêu mến vâng phục Người để được gặp lại Người trong hạnh phúc bất tận sao? Để được như vậy, họ quyết yêu thương nhau theo luật Chúa để nên tốt hơn. Khi đã cố gắng lãnh phép Rửa tội. Chúa Giêsu đổ tràn ơn thánh vào trong lòng họ và kết hợp với họ trong Bàn tiệc Thánh Thể. 

 

Nhà Vua cũng rất thích điều các Cha nói. Những điều các Ngài rao giảng làm cho các phù thủy và bọn người Ả rập buôn người giận dữ. Một thị động bị vu oan và bị thiêu sống. Anh ta xin được rửa tội và đã can đảm chịu cực hình, các nhà thừa sai cảm thấy cơn bách hại đã đến nên vội rửa tội cho những người đã được chuẩn bị rồi rút lui với một số trẻ em các Ngài đã chuộc lại được. Các Ngài rút lui về bờ hồ phía nam, là nơi bệnh đậu mùa đang giết hại rất nhiều người. Số đông trẻ em sắp chết đều được rửa tội. 

 

Các Ngài nói với một em bé 9 tuổi: Hãy cầu nguyện xin Chúa Giêsu cứu chữa con. Nhưng em bé trả lời: – Bây giờ được làm con Thiên Chúa, con không sợ chết nữa. 

 

Được ba năm, nhà vua qua đời, các vị thừa sai trở lại, dân chúng mừng rỡ. Dân được rửa tội trước đã rửa tội cho nhiều người khác nữa. Việc tông đồ khởi sắc nhưng một viên chức của Tân vương đã gieo nghi ngờ đối với các thành quả của các Kitô hữu, nhất là đối với Giuse Mukasa, thủ lãnh các thị đồng, người đã chống lại sự vô luân của ông. Ông ta tâu vua rằng: các Kitô hữu mưu chiếm ngôi vua. Các phủ thủy bảo rằng bọn khởi xướng phải chết. Vua tin họ và Giuse bị thiêu sống. Lý hình muốn trói Ngài lại nhưng Ngài nói: – Tôi chết vì đạo mà lại tìm cách thoát thân sao? Một Kitô hữu không có sợ chết đâu. 

 

Nhà vua nghĩ rằng bản án nầy sẽ làm cho các Kitô hữu khiếp sợ. Trái lại, ngày càng có nhiều người theo đạo. Khi đi săn về, ông gọi tiểu đồng Mwafou 14 tuổi lại, và khi biết rằng em đang học đạo với một thiếu niên tên là Denis, ông truyền dẫn Denis lại, la lớn:

 

Tên nô lệ khốn khiếp, ngươi dạy đạo hả? Và ông dùng lưỡi dao tẩm thuốc độc hạ sát Denis. 

 

Giận dữ đi ra, ông gặp Honôrat và hỏi: – Mày cũng là Kitô hữu hả? – Phải. 

 

Và Hônôrat bị tra khảo, bị xẻ thịt. Bấy giờ vua khám phá ra một tân tòng là Giacôbê và tra gông vào cổ. Về nhà ông thúc trống tập họp các đao phủ lại. Bọn đao phủ và các phù thủy nhảy múa như được thoát khỏi ngục. Ngược lại tại các nhà thị đồng quang cảnh như thần tiên. Carôlô Lwanga, chiến sĩ anh dũng nhất của triều đình đã rửa tội cho em bé Kizitô và ba trẻ em khác, dọn mình cho các em chịu chết cách thánh thiện. 

 

Ngày 28 tháng 5, nhà vua truyền thiêu sống các thị đồng dám cầu nguyện. Mwa-Ga là con một đao phủ. Ba em khẩn khoản xin em trốn đi, nhưng em từ chối. Một chiến sĩ Kitô giáo nói với vua: – Con lên trời và cầu nguyện cho Đức Vua. 

 

Các phạm nhân mạnh dạn tiến đi chịu khổ hình, gặp Pontianô tên đao phủ hỏi anh: – Mày biết cầu nguyện không? 

 

Vừa trả lời "biết" Pontianô bị chém đầu ngay. Những người khác nói: – Ở trên trời Pontianô sẽ cầu nguyện cho chúng ta được can đảm chịu chết. 

 

Các vị tử đạo bị kềm cứng trong gông cùm trong khi người con của đao phủ bị ép đến với cha mẹ. Họ phải đợi sáu ngày để chuẩn bị giàn thiêu, đã đến ngày xử, Mwaga nhảy xổ đến nhập bọn tại pháp trường, các vị tử đạo nói với nhau: – Chính tại nơi đây chúng mình được thấy Thiên Chúa. 

 

Các Ngài bị đặt trên các tấm phên như những cây đuốc sống. Người ta đốt chân các vị tử đạo để mong các Ngài thôi cầu nguyện, nhưng các Ngài đã trả lời: – Còn sống, chúng tôi sẽ không ngừng cầu nguyện. 

Một phù thủy nói với các Ngài: Thiên Chúa sẽ không giải thoát các Ngài đâu. Brunô trả lời: – Ông không đốt cháy linh hồn chúng tôi được đâu, nhưng nó sẽ bay lên thiên đàng. 

 

Giàn thiêu được đốt lên. Lời kinh lạy cha của các thánh còn vượt trên những tiếng la hét man rợ và những tiếng nổ lốp đốp của lò lửa. Người ta biết được là các Ngài đã chết khi hết nghe tiếng các Ngài cầu nguyện. 

 

Ông vua da đen tự nhiên chắc rằng sau tội ác này, chẳng còn bóng dáng Kitô hữu nào trong xứ sở của ông nữa. Nhưng ngày nay, Ouganda có hơn nửa triệu tín hữu.

 
  
 “ Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc, dành sẵn cho các ngươi, ngay từ lúc tạo thành trời đất”( Mt 25, 34 ).Thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo đã làm cho Hội Thánh Ouganda càng lúc càng phát triển. Các Ngài xứng đáng lãnh nhận triều thiên trên trời.
 
HỘI THÁNH OUGANDA ĐƯỢC LỚN LÊN NHỜ MÁU CÁC THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO: 

“ Máu của các Kitô hữu làm nẩy sinh Giáo Hội” hay “ Máu vị tử đạo là hạt giống của các Kitô hữu”. Thánh Carôlô Lwanga luôn khích lệ, động viên các bạn kiên cường, tuyên xưng danh Chúa dẫu có phải hy sinh tới cả mạng sống của mình. Các thánh tử đạo Ouganda thuộc mọi lứa tuổi: có vị như Matthias mới lên 5 tuổi, thánh Kitô mới có 13 và các vị khác lớn hơn từ 16 tới 24 tuổi đời. Các Ngài đã hy sinh thí mạng sống của mình, đã đi con đường đức tin, con đường thập giá, con đường tình yêu như Thầy chí thánh Giêsu, những hình phạt như ném đá, voi dày, đòn vọt, gông cùm, xiềng xích không làm  chùn bước các Ngài. Các Ngài đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa:”Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác, ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá”( 1Co 2, 2 ) .   Hai mươi hai thánh tử đạo Ouganda trong đó có bốn vị chưa được chịu phép rửa tội, thánh Carôlô đã động viên, dậy dỗ và rửa tội cho họ trước khi các Ngài được phúc tử đạo. Hội Thánh Ouganda chỉ thực sự được phát triển và lớn mạnh nhờ máu của các vị tử đạo mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.
 
CHÚA THƯỞNG CÔNG CÁC NGÀI:
 
Cảm nghiệm sâu xa lời sách khải huyền:” Ai thắng, Ta sẽ cho ăn quả cây sự sống, trồng ở trên thiên đàng của Thiên Chúa”( Kh 2, 7 ). Thánh Carôlô Lwanga  và hai mươi mốt bạn được phúc tử đạo, đã lãnh triều thiên nước trời. Chúa thưởng công các Ngài, Giáo Hội trần thế tôn vinh các Ngài. “Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nẩy sinh thêm nhiều Kitô hữu. Xin cho máu của thánh Carôlô Lwanga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội Thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo ).

https://ditimchanly.org/sach-kinh-thanh/truyen-cac-thanh/thanh-carolo-lwanga-va-cac-ban-tu-dao-0306.html
 

Gương thánh nhân: Năm 1880, giữa lúc dân nước U-găn-đa còn sống trong lầm lạc, thờ lạy bụt thần, thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn đã đem đạo Chúa đến cho họ.

Lúc đầu, nhà vua rất vui mừng đón tiếp và sẵn sàng ủng hộ ngài. Nhờ đó, thánh nhân được tự do đi khắp nơi rao giảng cho mọi người biết Chúa. Dân chúng rất cảm kích khi nghe Ngài nói đến sự thương khó và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Họ không thể tưởng tượng được một vị Chúa cả vì thương họ đã bỏ trời sinh xuống làm người nghèo khổ như họ, và chịu chết đóng đinh khổ nục trên thập giá để cứu rỗi họ, đem hạnh phúc đến cho họ. Từ đó họ hết lòng thương mến Chúa và xin lãnh nhận bí tích rửa tội, để thờ kính Đấng đã hết lòng thương mến họ.

Thấy thế, các thầy phù thuỷ và buôn bán nô lệ ghen tức, vì họ bị mất ảnh hưởng, quyền lợi. Họ tố cáo với nhà vua là những người theo đạo Thiên Chúa mưu phản. Sẵn lúc đó, nhà vua đang bực tức vì những người có đạo chỉ trích đời sống vô luân của ông ta. Thế nên ông ta ra lệnh bắt Ca-rô-lô và 18 người Công giáo. Và để cho dân chúng khiếp sợ không còn ai dám theo đạo nữa, ông ta kết án thiêu sống thánh nhân cùng với những người bị bắt. Nhưng thay vì làm cho đạo Chúa bị bế tắc, ông đã giúp cho Châu Phi mở ra một kỷ nguyên mới:” Kỳ nguyên tái sinh về phương diện Tôn giáo và xã hội”, như lời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói, vì máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người có đạo. Chúng ta hãy nghe lời Đức Giáo Hoàng nói, trong dịp lễ phong thánh cho thánh Ca-rô-lo- Loan-ga và các bạn của Ngài:

“Ai có thể đoán được rằng tiếp theo các thánh tử đạo và tu sĩ thời danh ngày xưa ơ Phi châu như: Síp-ri-a-nô, Fê-li-xi-ta và Pê-pê-tu-a, nhất là thánh Aâu-tinh, ngày nay lại có những vị thời danh như Ca-rô-lô- Loan-ga, Mát-thi-a Mô-lum-ba, Ca-len-ba cùng với 20 đồng bạn tử đạo người công giáo. Ta cũng không thể quên những vị khác thuộc Anh giáo đã dám bỏ mạng mình vì danh Chúa Kitô. Các vị tử đạo này của Châu Phi mở ra một kỷ nguyên mới…dĩ nhiên không nên nghĩ là kỷ nguyên cấm đạo và đàn áp tôn giáo mà là kỷ nguyên tái sinh về phương diện tôn giáo và xã hội. Được tưới gội bằng máu của các thánh tử đạo mới này, những tử đạo đầu tiên của thời đại mới ( và ước gí là những tử đạo cuối cùng, vì lẽ, lễ hy sinh của các Ngài thật cao quý! ) một Phi Châu tự do và độc lập đang được tái sinh.

Sự chết bi thảm của các ngài thật quá lạ lùng và ý nghĩa, đến nỗi có thể tìm thấy ở đó đủ những bài học, để kiến tạo một dân mới về lòng đạo đức: xây dựng một truyền thống tinh thần mới để truyền lại cho hậu thế, một truyền thống đủ khả năng tượng trưng diễn tả và đem lại một tiến bộ cho dân tộc, đi từ một nền vănhoá thô sơ có nhiều giá trị nhân bản cao quý, nhưng cũng không tránh khỏi còn hoen ố nhược điểm và phần nào đang đóng kín, hẹp hòi, để tiến tới một nếp sống chân chính cởi mở, thuận lợi cho tinh thần con người có được những bộc lộ cao thượng hơn, và cuộc sống xã hội có được những hình thức cao cấp hơn.”

Quyết tâm:Noi gương thánh Ca-rô-lôLoan-ga, tôi sẵn sàng chịu gian nan khốn khó, để đem Chúa đến cho những người chưa biết Chúa và để làm chứng đạo Chúa là đạo thật.

Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho máu thánh tử đạo làm nảy sinh nhiều Kitô hữu, xin cho máu thánh Loan-ga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào.

http://giaoxutanviet.com/ngay-3-thang-6-thanh-ca-ro-lo-loan-ga-va-cac-ban-tu-dao/

1. Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ

Người ta ấn định ngày này để nhớ đến 22 vị thánh tử đạo Châu Phi da đen, bị giết tại Ouganda giữa 26 tháng 5; 3 tháng 6 năm 1886; và 27 tháng 1 năm 1887. Ngày 3 tháng 6 nhắc lại cuộc tử đạo của Thánh Charles Lwanga và 12 bạn chịu thiêu sống sau khi chịu nhiều cực hình khủng khiếp, tại Rubaga (03.06.1886). Các ngài là những của lễ hy tế đầu tiên trong cuộc bách hại do Mwanga chủ xướng. Ông là vị vua thâm độc và khát máu trong miền Đại Hồ (Grands Lacs). Các ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XV phong chân phước năm 1920 và được Đức Phaolô VI phong hiển thánh năm 1964, nhân chuyến viếng thăm của ngài tại Châu Phi.

Ouganda trước tiên được các linh mục Hội truyền giáo Châu Phi (Pères Blancs) rao giảng Tin Mừng năm 1879. Năm 1882, họ bị đuổi khỏi nơi này, nhưng hai năm sau họ trở lại theo lời yêu cầu của vua Mwanga. Sau đó, chính ông lại bách hại các Kitô hữu hết sức tàn bạo.

Để trả thù, một viên chức bị bắt trong khi âm mưu chống vua Mwanga đã thúc đẩy vua trước hết giết một số Kitô hữu và giám mục Anh Giáo Hannington (1885), bị cáo gian làm gián điệp. Sau đó vua sai chém đầu Joseph Mukusu, trưởng đội những người phục vụ. Họ bị cáo là “những người cầu nguyện” (17 tháng 11 năm 1885).

Charles Lwanga là người đầu bếp mới của triều đình, đã chuẩn bị cho mười hai bạn được phúc tử đạo. Sau khi bị kết án tử hình, các ngài bị dẫn đến địa điểm hành hình ở Kampala. Trong lúc đó, người bạn của vua là André Kagwa, bị chặt đầu rồi hỏa thiêu. Hôm sau, một nhân vật nổi tiếng khác cũng bị giết cách tàn bạo, đó là Matthias K.Mulumba. Các văn kiện của vụ án phong thánh đều ví Matthias K. Mulumba như “đoá hoa đẹp nhất trên chiếc triều thiên” của các thánh tử đạo này.

Sau khi trở lại đạo và chịu phép thánh tẩy, ngài không còn quan tâm đến các danh vọng bổng lộc ban cho ngài với tư cách là nhân vật cao cấp trong triều, ngài nói: “Tôi không phải là một người nô lệ, nô lệ của Đức Giêsu Kitô sao ?”

Sau vài ngày cần thiết chờ đợi để chuẩn bị ra pháp trường và trong khi vài kiếm đồng đã bị giết chết dọc đường, người ta xiềng xích các tù nhân. Người đầu tiên phải lên giàn hỏa thiêu là Charles Lwanga. Rồi những người khác, lần lượt bị thiêu sống. Trong nhóm họ có con trai của người trưởng toán lý hình. Anh không chấp nhận được tha bổng và trả lời cha: “Vua đã ra lệnh cho cha phải giết con. Con muốn chết vì Đức Giêsu Kitô”. Jean-Marie Jamari được mệnh danh là bậc “tiền bối” do bởi dáng vẻ oai nghi trang trọng và luôn sẵn sàng giúp đỡ người thân cận, hai năm sau cũng bước theo các bạn tử đạo của mình; ngài bị nhấn chìm trong hồ ngày 27 tháng 1 năm 1887.

Do đó, thật xứng đáng khi Đức Piô XI công bố Charles Lwanga là thánh Bảo Trợ cho Công Giáo Tiến Hành và giới trẻ châu Phi.

2- Thông điệp và tính thời sự

a. Lời nguyện trong ngày lễ được mở đầu bởi câu nói danh tiếng của Tertullien, cũng là một giáo dân châu Phi: “Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nảy sinh thêm nhiều Kitô hữu...” và lời nguyện tiếp theo: “Xin cho máu của thánh Lwanga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”.

Nhân chuyến hành hương sang châu Phi năm 1964, Đức Phaolô VI đã cử hành Thánh lễ phong thánh trên các hũ đựng di hài các thánh tử đạo. Như thế Ngài lặp lại truyền thống của thánh Cyprien là cử hành hy tế Tạ Ơn trên các mộ thánh tử đạo thành Carthage. Như để nhấn mạnh câu nói danh tiếng của Tertullien, Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng các tân thánh tử đạo này của châu Phi như thêm một mắc xích mới vào chuỗi các vị tử đạo của châu Phi xưa: “Thánh Augustinô và nhà thơ Prudence đã kể lại những thành tích đầy xúc động của các vị tử đạo ở Scillium, ở Carthage, và của các vị tử đạo trong “Đoàn Người Trắng thành Utique” (300 vị chết trong hầm vôi đang sôi). Thánh Gioan Kim Khẩu hết lời tán dương các vị tử đạo Ai-cập, cùng với thành tích của các vị tử đạo trong cuộc bách hại của những người Vandales xưa…”

b. Lời nguyện trên lễ vật gợi lại việc các thánh tử đạo trẻ tuổi đã từ chối và chống lại những lời khiếm nhã của Đức vua, họ thà chết hơn là phạm tội. Như thế, họ làm sống dậy các hành vi và cử chỉ của các thánh tử đạo vào những thế kỷ đầu tiên trong lòng Giáo hội trẻ trung vừa được rao giảng Tin Mừng từ thế kỷ XIX.

c. Lời nguyện hiệp lễ giúp chúng ta nắm được ý nghĩa hiện thực của ngày lễ nhớ các thánh tử đạo Ouganda. “Chính trong hy lễ Tạ Ơn mà các ngài đã tìm được sự dũng cảm để chịu đựng các nỗi cực hình”. Chúng ta cũng thế, giữa muôn vàn thử thách, chúng ta sẽ nhận lấy, trong mầu nhiệm hy lễ Tạ Ơn, một niềm tin và lòng bác ái tinh tuyền, không khiếm khuyết.

Enzo Lodi

Nguồn: https://www.tonggiaophanhanoi.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/11592-ngay-03-6-thanh-ca-ro-lo-loan-ga-va-cac-ban-tu-dao-1886-1887.html