SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 


Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XII Thường Niên
Năm A (Chúa Nhật) Năm Lẻ (Ngày Thường)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Chúa Nhật

 

Bài Ðọc I: Gr 20, 10-13

"Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Ta đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố khắp nơi: Hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức: Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù nó cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa. Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 68, 8-10. 14 và 17. 33-35

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi (c. 14c).

Xướng: 1) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi, điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con. - Ðáp.

2) Nhưng, lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi xin nhìn đến tấm thân con. - Ðáp.

3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân Người bị bắt cầm tù. Hãy ngợi khen Chúa, hỡi trời và đất, biển khơi và muôn vật sống động bên trong. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 5, 12-15

"Không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Trước khi có lề luật, đã có tội trên thế gian; nhưng tội không bị bắt lỗi, khi không có lề luật. Nhưng từ Ađam cho đến Môsê, sự chết ngự trị cả trên những kẻ không phạm tội giống như sự lỗi phạm của Ađam, hình ảnh của người đến sau.

Nhưng không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu, vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Ðức Giêsu Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 17, 17b và a

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 26-33

"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.

"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.

"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Ánh Sáng khủng bố Bóng Tối

 

"Ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể át được ánh sáng"

 

 

 

Tinh thần của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, bao gồm cả Bài Đọc 1, Đáp Ca, Bài Đọc 2 và Phúc Âm, đó là "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể át được ánh sáng" (Gioan 1:5), trái lại, tối tăm lại còn bị ánh sáng xua tan, hay nói cách khác, ánh sáng khủng bố bóng tối.

 

Thật vậy, chiều hướng Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XII Thường Niên Năm A "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể át được ánh sáng" này đã được tỏ hiện ngay trong Bài Đọc 1 được trích từ Sách của Tiên Tri Giêrêmia, đoạn nói về vai trò ngôn sứ và sứ vụ chứng nhân được Chúa ủy thác cho vị tiên tri này, nhưng chính bản thân của vị tiên tri lại trở nên cớ vấp phạm cho thành phần vị này được sai đến: "Người này gieo khủng bố khắp nơi: Hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó", thế mà họ có dữ tợn đến đâu vẫn không làm gì được người của Chúa, trái lại còn bị triệt hạ nữa: 

 

"Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: 'Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó'. Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức: Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù nó cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa. Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ". 

 

"Chúa trả thù nó cho con" ở chỗ nào, hay bóng tối bị ánh sáng xua tan ra sao, đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong Thư gửi Giáo đoàn Rôma ở Bài Đọc 2 cho biết rất tuyệt vời, vượt ngoài tất cả mọi dự tưởng và suy nghĩ của trần gian, của khuynh hướng đòi công bằng của con người, như thế này: "Nhưng không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu, vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Ðức Giêsu Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần".  

 

Có nghĩa là, theo đường lối thần linh thật trọn lành của Thiên Chúa, "trả thù" không phải là ở chỗ "mắt đền mắt, răng đền răng", mà trái lại, lấy lành thắng dữ, lấy tình thương bù đắp hận thù, lấy thứ tha bù đắp tội lỗi, nhờ đó mới có thể biến dữ thành lành, biến tội lỗi thành ân sủng, biến sự chết thành sự sống, như trong mầu nhiệm và biến cố Vượt Qua của Chúa Kitô. 

 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm tiếp bài Phúc Âm Chúa Nhật XI vừa rồi, về Huấn Từ Truyền Giáo của Chúa Kitô, nhưng không liên tục. Ở câu cuối cùng (câu 8 đoạn 10) của Phúc Âm Thánh Mathêu tuần trước, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ phải đi đến đâu và phải rao giảng những gì: "Các con đừng đi về phía dân ngoại, và đừng vào thành các người Samaritanô. Nhưng tốt hơn, các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: "Nước Trời đã đến gần". Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không". 

 

Ở câu đầu tiên trong Bài Phúc Âm hôm nay, (câu 26 cùng đoạn 10), Chúa Giêsu liền dặn các tông đồ thừa sai của Người rằng: "Các con đừng sợ những người đó". "Những người đó" đây là ai, Chúa Giêsu muốn ám chỉ ai vậy? Chắc chắn không phải "dân ngoại", không phải "các người Samaritanô", thành phần các tông đồ chưa được Chúa Kitô sai đến, mà là chính đám "chiên lạc của nhà Israel", một đám "chiên lạc" ám chỉ chung dân Do Thái và riêng thành phần lãnh đạo Do Thái giáo đã từng ra tay bách hại và âm mưu sát hại các vị tiên tri nói chung (xem Mathêu 23:29-32) và tiên tri Giêrêmia (trong Bài Đọc 1 hôm nay) nói riêng. 

 

Có một điều lạ ở chỗ lý do được Chúa Giêsu sử dụng để trấn an các tông đồ "đừng sợ những người đó", lý do dường như chẳng ăn khớp gì với lời khuyên đừng sợ của Người, "đừng sợ những người đó" là "vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết", như thế có nghĩa là gì? Có nghĩa là "không có gì che giấu mà không bị thố lộ" ở nơi "những người đó", "và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết" ở nơi "những người đó". Tức là khi "những người đó" bách hại hay giết hại các tông đồ hay các vị tiên tri trong Cựu Ước, cả hai đều là thành phần được sai đến với họ, thì họ đều chủ trương cho rằng những vị thừa sai ấy đều là thành phần "gieo khủng bố khắp nơi", như Bài Đọc 1 hôm nay tiết lộ, nên họ chống lại và sát hại các vị.  

 

Tuy nhiên, tâm tưởng của "những người đó" không phải chỉ ám chỉ về thành phần chống đối, mà nhất là thành phần thiện tâm, lầm lạc, cho đến khi nhận ra sự thật thì tỏ lòng ăn năn thống hối, đúng như những gì xẩy ra trên Đồi Canve sau khi Chúa Kitô tử giá (xem Luca 23:47-48), ứng nghiệm lời tiên tri của vị tư tế lão thành Simêon khi ẵm hài nhi Giêsu trên tay và nói cùng Mẹ Maria rằng: "Phần cô sẽ có một lưỡi gươm đâm thấu tâm can, nhờ đó tâm tưởng nơi nhiều người sẽ được bộc lộ" (Luca 2:35). 

 

Thế nhưng, tự bản chất con người vốn yếu hèn với đầy những khuynh hướng sợ sệt, nên muốn can trường, họ không thể nào không tin tưởng vào Đấng đã sai mình, vào Đấng quan phòng thần linh, vào Đấng luôn ở với mình, vào Đấng duy nhất có thể cứu mình khỏi bất cứ một quyền lực chết chóc nào, Đấng có thể biến họ thành một dấu chỉ thần linh. Phải chăng đó là lý do Chúa Kitô đã trấn an các tông đồ bằng những lý lẽ siêu nhiên thật là bất diệt vô cùng thấm thía như trong Bài Phúc Âm hôm nay:  

 

"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần". 

 

Thật sự tự mình "bóng tối không át được ánh sáng" - "vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết", nên Chúa Kitô đã chẳng những trấn an các tông đồ thừa sai của Người mà còn phấn khích cùng thúc giục các vị hãy hiên ngang bất khuất thực hiện vai trò chứng nhân tiên khởi của các vị nữa, ở chỗ: "Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà". 

 

"Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối" đây là gì, và "điều các con nghe rỉ tai" đây là chi, những gì được Chúa Kitô bảo các tông đồ thừa sai của Người cần phải "nói ra nơi ánh sáng" và phải "rao giảng trên mái nhà", nếu không phải là những mạc khải thần linh ("Ðiều Thầy nói") mà bản thân của từng vị trong các ngài cảm nghiệm được ("nghe rỉ tai") bằng chính đức tin ("trong bóng tối") hơn là chỉ bằng cảm giác sôi nổi hay lý trí nông cạn trước một Vị "Thiên Chúa là thần linh, mà kẻ tôn thờ Ngài phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24).   

 

Đúng thế, chỉ bao giờ con người thừa sai sống một đời sống nội tâm, "nghe rỉ tai" "trong bóng tối", họ mới không cảm thấy sợ hãi trước bất cứ một quyền lực đối kháng nào, trái lại, họ còn có sức chịu đựng cho đến cùng vì họ biết tuyệt đối tin tưởng vào Đấng ở với họ và sai họ đi, như nội dung, chiều hướng và cảm nhận thần linh của Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi, điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con.

2) Nhưng, lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi xin nhìn đến tấm thân con.

3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân Người bị bắt cầm tù. Hãy ngợi khen Chúa, hỡi trời và đất, biển khơi và muôn vật sống động bên trong.

 

 

 


Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 12, 1-9

"Abram ra đi như Chúa đã truyền dạy".

Trích sách Sáng Thế.

Khi ấy, Chúa phán cùng Abram rằng: "Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn; Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho ngươi, và sẽ chúc dữ cho ai chúc dữ cho ngươi. Nơi ngươi mọi dân nước sẽ được chúc phúc".

Abram ra đi như Chúa đã truyền dạy, và có ông Lót đi theo. Khi bỏ đất Haran, Abram được bảy mươi lăm tuổi. Ông đem Sarai, vợ ông, và Lót là cháu, cùng với tất cả tài sản và gia nhân mà họ có ở Haran. Họ ra đi đến đất Canaan. Khi họ tới nơi, Abram rảo qua các xứ cho đến Sikem, thung lũng thời danh. Bấy giờ người Canaan đang ở xứ này.

Chúa đã hiện ra với Abram và phán rằng: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi". Ông đã dựng ở đó một bàn thờ kính Thiên Chúa, Ðấng đã hiện ra với ông. Rồi từ nơi ấy, ông đi đến núi ở phía đông Bêthel mà cắm trại: phía tây của trại là Bêthel và phía đông là Hai. Ông cũng dựng ở đó một bàn thờ kính Chúa, và khấn cầu danh Chúa. Abram cứ tiến dần mãi về (Nageb ở) phía nam.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 12-13. 18-19. 20 và 22

Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

Xướng: 1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta. - Ðáp.

2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.

3) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 1-5

"Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy. Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: "Ðể tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh", và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Ðồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 7, 1-5

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 

Cái nạn mù quáng tâm linh như một thứ hiệp sĩ mù là ở chỗ tỏ ra biết người hơn biết mình

 

 

Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh vẫn tiếp tục sang Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, như trong phần phụng vụ Lời Chúa cho ngày Thứ Hai Tuần XII Thường Niên hôm nay cho thấy.


"Sự sống" đây là sự sống công chính, như giáo huấn Chúa Kitô dạy cho các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 7:1-5), một bài phúc âm tiếp tục về Bài Giảng Trên Núi của Người cho các môn đệ của Người liên quan đến các Phúc Đức Trọn Lành mà các vị cần phải cảm nghiệm và theo đuổi mới xứng đáng làm môn đệ của Người và nhờ đó mới có thể làm chứng nhân cho Người. 

 

Căn cứ vào sự sắp xếp khéo léo của Giáo Hội cho các bài Phúc Âm trong tuần thì từ tuần X, XI và XII thường niên, Giáo Hội muốn sử dụng Bài Giảng Trên Núi (Phúc Âm Thánh mathêu đoạn 5, 6 và 7) của Chúa Giêsu về Các Phúc Đức Trọn Lành của Kitô hữu để nhắc nhở con cái mình: ở tuần X và XI hãy sống đức ái trọn hảo như Cha trên trời (Phúc Âm Thánh Mathêu nguyên đoạn 5); ở hai ngày cuối của Tuần XI (Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 6) về đời sống nội tâm (hoàn toàn chỉ vì Chúa và chỉ có tâm tư thần hiệp với Ngài như Kinh Lạy Cha) mà Kitô hữu cần phải có thì họ mới có thể sống đức ái trọn hảo như Cha; ở cả tuần XII, về tác hành của Kitô hữu phản ảnh đời sống nội tâm của họ, chẳng hạn biết mình trước nhan Chúa và đối với tha nhân, như giáo huấn của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay.


Vấn đề được đặt ra ở đây là, với cương vị lãnh đạo sau này của mình trong Giáo Hội, các vị không thể nào không đoán xét để bảo vệ Giáo Hội cũng như để phân xử công minh, thế mà ở đây, Chúa Giêsu lại dạy các vị rằng: 
"Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét". 


Tuy nhiên, lời khuyên của Chúa Giêsu ở đây không áp dụng vào việc quản trị Giáo Hội của các vị mà chỉ nhắm đến đời sống đức ái trọn hảo của bản thân các vị thôi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã đề cập đến luật nhân quả, gieo gió gặt bão: "Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy". 


Trên thế gian này đã xẩy ra đầy giẫy những chứng cớ về định luật "ác giả ác báo" này. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây là phạm nhân có nhận ra lỗi lầm cũ của mình để mà ăn năn thống hối và cải thiện đời sống hay chăng mới là những gì đáng quan tâm. Trong đường tu đức cũng thế, Thiên Chúa hay để cho những tâm hồn sốt sắng đạo đức mà lại hay khinh thường những người khô khan hơn mình, xa tránh những người tội lỗi xấu xa ở chung quanh mình, bị sa ngã phạm tội, cho dù cố gắng, nhờ đó họ biết cảm thương những người họ vốn khinh bỉ và xa tránh.

 

Một khi chúng ta xét đoán xấu cho người khác, chấp nhất người khác và chê trách người khác về những gì tiêu cực của họ, hay những gì vô tội nơi họ (tính tình hay tâm tưởng hoặc lối sống v.v.) nhưng chướng tai gai mắt chúng ta, chúng ta như thể ở trong trạng thái mù lòa không biết mình, đúng như lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người, khi Người đi từ chất vấn đến trách móc thành phần này trong bài Phúc Âm hôm nay:

 

"Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: 'Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh', và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".

 

Tóm lại, lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay dạy Kitô hữu chúng ta 2 điều then chốt:

 

1- Đừng biết người hơn là biết mình, bằng không, không biết mình thì chẳng khác gì như kẻ mù lòa không thể nào biết người khác để giúp họ, trái lại, con người không biết mình sẽ có những tâm tưởng, ngôn từ, tác hành và phản ứng sai lầm về người khác, thậm chí chụp mũ và lên án người khác một cách vô cùng trắng trợn và oan ức, trong khi chính họ không muốn bị như họ đối xử với nạn nhân của họ;

 

2- Kitô hữu chúng ta là môn đệ của Chúa Kitô và là con cái của Cha Trên Trời không có quyền phán xét ai, lên án ai và ném đá ai, quyền nay hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, trái lại, chúng ta chỉ có bổn phận thông cảm, tha thứ và yêu thương anh chị em của mình, nhất là những người anh chị em đối phương với mình và thù địch của mình, tác hại mình, thậm chí, với đức tin trong sự quan phòng thần linh của Thiên Chúa, chúng ta còn cần coi là đại ân nhân đã giúp mình nên thánh hơn, là huấn luyện viên giúp mình sống Lòng Thương Xót Chúa trọn hảo hơn.

 

Thật vậy, đối với tha nhân, con người không được mù quáng đoán xét nhau, vì họ chẳng những không biết được thâm tâm của nhau, mà nhất là không có quyền đoán xét nhau nữa. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa, Đấng vô cùng khôn ngoan và nhân hậu, con người cần phải tỏ ra mù quáng hơn ai hết và hơn bao giờ hết, ở chỗ hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Ngài ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự. 

 

Nhờ đó, Thiên Chúa có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi họ và qua họ cho tha nhân, như trường hợp của tổ phụ Abram, trong bài đọc 1 hôm nay (Khởi Nguyên 12:1-9), đã đáp ứng lời Chúa kêu gọi mà đi đến một nơi xa lạ, không biết mình đi đâu và đến đâu, cho đến nơi Ngài ấn định: 


"Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn; Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho ngươi, và sẽ chúc dữ cho ai chúc dữ cho ngươi. Nơi ngươi mọi dân nước sẽ được chúc phúc. Abram ra đi như Chúa đã truyền dạy". 


Và nơi được ấn định cho tổ phụ Abram cũng như cho giòng dõi của ông sau này đó là xứ Canaan, nhưng lại là một nơi đã có một dân tộc khác cư ngụ và sinh sống, hoàn toàn không thuộc chủ quyền của ông, nhưng Chúa lại lấy ban cho ông và giòng dõi của ông


"Họ ra đi đến đất Canaan. Khi họ tới nơi, Abram rảo qua các xứ cho đến Sikem, thung lũng thời danh. Bấy giờ người Canaan đang ở xứ này. 
Chúa đã hiện ra với Abram và phán rằng: 'Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi'". 


Hành động tin tưởng một cách mù quáng của tổ phụ Abram đã thật sự đẹp lòng Chúa, Đấng đã tuyển chọn ông để ông làm cha của một dân tộc sẽ trở thành gia nghiệp của Chúa và là mầm mống cho một dân tộc duy nhất dưới quyền lãnh đạo tối cao của Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai.

 

Bài Thánh Vịnh 32 (12-13,18-19,20 và 22) được Giáo Hội chọn đọc ở Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm nhận được cái phúc của dân tộc cho mọi dân tộc ấy nói chung và của những ai biết kính sợ vào Ngài nói riêng, thành phần chỉ biết cậy trông vào một mình Ngài mà thôi.  


1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (tức dân tộc Do Thái - người viết biệt chú riêng). Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta (ám chỉ các dân tộc khác trên thế giới - biệt chú riêng của người viết)

 

2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. 

 

3) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Đấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.  

 

 

 

 

 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 13, 2. 5-18

"Bác không muốn có sự bất bình giữa bác và cháu: vì chúng ta là anh em với nhau".

Trích sách Sáng Thế.

Bấy giờ Abram rất giàu, có nhiều vàng bạc. Ông Lót, người đi với Abram, cũng có nhiều đàn chiên, bò và lều trại. Miền đó không đủ chỗ cho cả hai cùng ở, vì họ có nhiều tài sản, nên không thể ở chung với nhau. Bởi thế các người chăn chiên của Abram và của Lót hay xảy ra cãi lẫy nhau. Khi ấy dân Canaan và dân Phêrêzê ở miền này.

Vậy Abram nói cùng Lót rằng: "Bác không muốn có sự bất bình giữa bác và cháu, giữa các người chăn chiên của chúng ta, vì chúng ta là anh em với nhau. Trước mặt cháu có cả một miền rộng rãi, xin cháu hãy lìa khỏi bác: nếu cháu đi bên tả, thì bác sẽ đi bên hữu; nếu cháu chọn phía tay phải, thì bác sẽ đi về phía tay trái". Vậy Lót ngước mắt lên trông thấy cả miền đồng bằng sông Giođan, có nước dồi dào. (Trước khi Chúa huỷ diệt thành Sôđôma và Gômôra, cả miền ấy và phía Segor như vườn địa đàng của Chúa và như đất Ai-cập). Lót chọn miền đồng bằng sông Giođan và đi về phía đông. Thế là hai bác cháu lìa xa nhau. Abram ở lại đất Canaan, còn Lót ở các đô thị gần sông Giođan, và cư ngụ tại Sôđôma. Dân thành Sôđôma rất xấu xa, vì quá tội lỗi trước mặt Chúa.

Sau khi Lót đi rồi, Chúa phán cùng Abram rằng: "Hãy ngước mặt lên và từ nơi ngươi đang ở, hãy nhìn tứ phía: đông tây nam bắc. Tất cả đất mà ngươi trông thấy, Ta sẽ ban vĩnh viễn cho ngươi và dòng dõi ngươi. Ta sẽ làm cho con cháu ngươi đông như bụi đất. Nếu ai có thể đếm được bụi đất thì mới có thể đếm được con cháu ngươi. Hãy chỗi dậy và đi khắp miền này, vì chưng Ta sẽ ban miền này cho ngươi". Bởi vậy Abram di chuyển lều trại đến ở thung lũng Mambrê, thuộc miền Hebron, và dựng bàn thờ kính Chúa ở đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 5

Ðáp: Lạy Chúa, ai sẽ được ở trong đền tạm Chúa? (c. 1a)

Xướng: 1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống. - Ðáp.

2) Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.

3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 6. 12-14

"Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.

"Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Ðấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.

"Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 4 Nhân Đức Trụ về 3 Nguyên Tắc Sống Khôn Ngoan


 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XII Thường Niên hôm nay vẫn tiếp tục Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu được Thánh ký Mathêu (7:6,12-14) chất chứa 4 luân đức của Kitô giáo hay cũng được gọi là 4 nhân đức trụ, những nhân đức cho thấy 3 nguyên tắc sống khôn ngoan sau đây:

 

Trước hết là 4 nhân đức trụ. Tu đức Kitô giáo liệt kê 7 nhân đức rõ ràng, đó là 3 thần đức và 4 luân đức. Ba thần đức tức là 3 nhân đức đối thần, 3 nhân đức hướng về Thiên Chúa là đối tượng của 3 nhân đức này. Đó là Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến, 3 thần đức được phú bẩm vào tâm hồn Kitô hữu ngay từ khi họ lãnh nhận Phép Rửa, nhờ đó họ có thể tác hành xứng đáng là một người con Thiên Chúa, người con được thông phần với bản tính thần linh của Thiên Chúa và sống sự sống thần linh với Thiên Chúa và như Thiên Chúa. Còn 4 luân đức là 4 nhân đức trụ của con người, lấy con người làm đối tượng và về tư cách làm người cần phải có của con người để họ có thể nên người trước khi nên thánh. Đó là nhân đức khôn ngoan, công bằng, dũng cảm và tiết độ.

 

Trong Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ của Người là thành phần phải công chính thánh thiện hơn thành phần biệt phái và luật sĩ, là muối đất và là ánh sáng thế gian: ở đoạn 5 thì sống đức ái trọn hảo và ở đoạn 6 thì sống đức tin chân thực và đức cậy trông vững vàng. Thế nhưng, ở đoạn 7 của Phúc Âm Thánh Mathêu là Phúc Âm thuật lại Bài Giảng Trên Núi của Người ở 3 đoạn 5-7, Người cũng không quên huấn dụ các vị về những gì là cơ bản nhất liên quan đến trực tiếp bản thân làm người của các vị, như thế Người muốn nói rằng các nhân đức về con người là điều kiện bất khả thiếu để sống 3 thần đức hợp với tư cách và thân phận làm con cái của Thiên Chúa và là môn đệ của Người.

 

4 luân đức cũng là 4 nhân đức trụ này được Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay thứ tự như sau:

 

Nhân đức khôn ngoan: "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con".

 

Nhân đức công bằng: "Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Ðấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy".

 

Nhân đức can đảm: "Hãy vào qua cửa hẹp... cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".

 

Nhân đức tiết độ: "Hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy"

 

Tuy nhiên, nếu trong 4 luân đức này nhân đức đầu tiên được liệt kê và quan trọng nhất cùng cần thiết nhất đó là nhân đức khôn ngoan, như đèn soi chiếu cả thân thể, bất khả thiếu, bằng không, không thể thực hành được 3 nhân đức trụ còn lại. Sau đây là 3 nguyên tắc sống khôn ngoan để có được hay để thực hành trọn vẹn 4 nhân đức trụ của con người, như sau:

 

Nguyên tắc thứ nhất: "Đừng lấy của thánh mà đem cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt loài heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con". 

 

Tại sao vậy? Tại vì chó hay heo là loài thú vật chẳng biết giá trị của những gì loài người vốn trân quí. Bởi thế, "lấy của thánh mà đem cho chó, và vất ngọc trai trước mặt loài heo" là một hành động hoàn toàn ngu xuẩn, phí của và vô ích, thậm chí còn nguy hiểm đến bản thân nữa là đàng khác, ở chỗ chúng cứ tưởng là chúng bị tấn công bằng các viên ngọc trai chẳng khác gì những cục đá vậy, nên chúng có thể "quay lại cắn xé các con".

 

Ở đây, nếu chú ý chúng ta thấy được hai con thú tiêu biểu được Chúa Giêsu sử dụng trong bài Phúc Âm, đó là con chó và con heo: "chó" có vẻ tinh khôn hơn nên liên quan đến "của thánh" linh thiêng và đến động từ "cho" có vẻ trân trọng chứ không phải là động từ "quẳng" có vẻ khinh bỉ; còn "heo" có vẻ xác thịt hơn nên liên quan đến "ngọc trai" là những gì thuần vật chất và đến động từ "quẳng"


Nhưng dù tinh khôn như "chó" cũng chẳng biết "của thánh" là gì, cũng chẳng nhờ đó mà được linh thiêng hơn, và cho dù xác thịt như "heo" cũng chẳng cần trang điểm bằng "ngọc trai" cho đẹp hơn và hãnh diện hơn. Phải chăng ở đây Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng giáo huấn của Người là những gì "thánh hảo" vô giá và quí báu hơn cả vàng bạc và "ngọc trai", được ban cho các vị để các vị mặc lấy và trang sức cho xứng với vai trò là môn đệ của Người?

 

Nguyên tắc thứ hai: "Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy". 

 

Nguyên tắc thứ hai này là nguyên tắc "tri kỷ tri bỉ - biết mình biết người", có vẻ tích cực hơn nguyên tắc của Khổng giáo: "đừng làm cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình". 

 

Nguyên tắc thứ hai này thường được gọi là luật vàng - golden rule, vì nó chất chứa trong tất cả "lề luật và các tiên tri dạy", vì nó phản ảnh giới luật bác ái "yêu người như thể thương thân - ái nhân như kỷ": yêu nhau như bản thân mình. 

 

Nguyên tắc này thật sự là "của thánh", là viên "ngọc trai" quí báu đối với những ai kính sợ Chúa, nhưng lại là những gì quái gở đối với những kẻ gian ác bất chấp thủ đoạn trong mưu đồ thỏa mãn ý riêng và đam mê nhục dục của họ, dù giá phải trả cho những gì họ muốn chiếm đoạt chính là tha nhân.

 

Tổ phụ Abram trong bài đọc 1 hôm nay (Khởi Nguyên 13:2,5-18) đã áp dụng nguyên tắc "ái nhân như kỷ" này khi để cho Lot cháu của ông chọn trước phần đất nó thích, hơn là chính ông chọn trước để cho cháu phần ông không thích: 

 

"Bác không muốn có sự bất bình giữa bác và cháu, giữa các người chăn chiên của chúng ta, vì chúng ta là anh em với nhau. Trước mặt cháu có cả một miền rộng rãi, xin cháu hãy lìa khỏi bác: nếu cháu đi bên tả, thì bác sẽ đi bên hữu; nếu cháu chọn phía tay phải, thì bác sẽ đi về phía tay trái".

 

Nguyên tắc thứ ba: "Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".

 

Đúng thế, muốn sống nguyên tắc thứ hai là yêu nhau như chính bản thân mình, con người cần phải bỏ mình đi, thậm chí cần phải coi người khác hơn mình. Như vậy thì chẳng khác nào con người cần phải "vào qua cửa hẹp", hoàn toàn đi ngược chiều với đa số phàm nhân luôn coi mình hơn tha nhân, không bao giờ chịu thua thiệt, nếu bị thua thiệt thì tìm cách triệt hạ đối phương hay lấy lại. 

 

Có thể nói, giáo huấn Phúc Đức Trọn Lành trong Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô trong Phúc Âm Thánh ký Mathêu, nhất là ở đoạn 5, liên quan đến Đức Ái Trọn Hảo, là "cửa và đường đưa tới sự sống", nhưng "chật hẹp" , phải có ơn Chúa mới có thể theo đuổi, phải sống đức tin mới có thể đi trọn, phải sống nội tâm mới có thể làm chủ bản thân mình và theo đúng đường lối của Thiên Chúa, bằng không, Kitô hữu cũng thuộc về đám đông, thành phần sống theo tự nhiên, chỉ tìm cầu những gì là dễ chịu nhất và thoải mái mất, nhưng lại là những gì dễ trở thành dịp tội khiến con người hư đi: "cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy".

 

Bởi thế nên Kitô hữu môn đệ đích thật của Chúa Kitô phải là những con người "hãy qua cửa hẹp mà vào", phải thuộc về thành phần thiểu số, "ít người đi" - "ít kẻ tìm thấy", thành phần dám sống dị chúng nhân, không theo đám đông, thậm chí bất chấp đám đông, bất chấp ý thức hệ hay áp lực của đám đông, bất chấp chống đối và chống phá của họ, xuất phát từ thành kiến và ác cảm của họ trước những tâm tưởng, ngôn từ, tác hành và phản ứng phúc đức trọn lành phản thế gian và vượt trên thế gian để soi chiếu thế gian của mình.

 

Thật vậy, về phương diện siêu nhiên, chính vì "cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp" như thế mà những ai hiên ngang tiến bước mới gặp "sự sống", mới trở nên dồi dào, như trường hợp tổ phụ Abram nhờ nhường cho cháu mà được Chúa chúc phúc: 

 

"Sau khi Lót đi rồi, Chúa phán cùng Abram rằng: 'Hãy ngước mặt lên và từ nơi ngươi đang ở, hãy nhìn tứ phía: đông tây nam bắc. Tất cả đất mà ngươi trông thấy, Ta sẽ ban vĩnh viễn cho ngươi và dòng dõi ngươi. Ta sẽ làm cho con cháu ngươi đông như bụi đất. Nếu ai có thể đếm được bụi đất thì mới có thể đếm được con cháu ngươi. Hãy chỗi dậy và đi khắp miền này, vì chưng Ta sẽ ban miền này cho ngươi'".  

 

Thánh Vịnh 14 (2-3ab,3cd-4ab,5) ở Bài Đáp Ca hôm nay đã diễn tả về con người sống luật vàng như tổ phụ Abram này như sau: 

 

1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống.  

 

2) Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. 

 

3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. 

 

 

Thánh Cyrilo Alexandria Giám Mục Tiến Sĩ
27/6

A Profile of Saint Cyril of Alexandria | MYSTAGOGY RESOURCE CENTER

 

Năm 412 thánh Cyrillô kế vị cậu Ngài là Theophilô làm giám mục Alexandria. Khi ấy Ngài đã vào khoảng trung tuần. Người ta không biết gì về cuộc sống Ngài trước đó, trừ trường hợp, Ngài có mặt trong vụ kết án thánh Gioan Kim Khẩu năm 408. Hiển nhiên là Ngài đã có thời sống như một ẩn sĩ trong sa mạc và đã được giáo dục kỹ lưỡng về văn chương Hy Lạp.

Vào thế kỷ V, các giáo phụ Alexandria đã trở thành những giám mục giàu có và uy quyền nhất trong đế quốc. Trở thành Kitô, người Ai cập vẫn còn mang những gì còn lại trong tâm tình dân tộc của mình. Các giám mục tự mô tả như là những Đấng kế vị thánh Marcô, nhưng cũng kế nhiệm các thượng tế Amen Ra và có phong cách nào đó của Pharao.

Suốt 15 năm đầu làm giám mục, thánh Cyrillô đã đập tan thế hệ cầm quyền và những nhà đổi tiền Do thái ở Alexandria. Việc thực thi đức ái của Ngài đối với người nghèo khó, bệnh hoạn cũng như lòng thương cảm sâu xa của Ngài với mọi tội nhân hối cải, luôn kèm theo một chút cứng rắn. Chắc chắn là các kẻ thù của Ngài cũng là kẻ thù của Thiên Chúa. Nhiệt tâm với các linh hồn và say mê bảo vệ đức tin Kitô giáo, Ngài sẵn sàng dùng đến mọi phương tiện trong tay như là của cải, tài khích lệ quần chúng và lực lượng các thầy dòng. Điều này giúp chúng ta hiểu được tại sao cuộc tranh luận về Kitô học mà Ngài giữ một vai trò lớn lao đã có màu sắc pha trộn chính trị lâu dài như vậy.

Năm 438, thầy dòng Nestôriô trở thành thượng phụ Constantinople. Dường như ông ta đã làm giám mục tại triều đình có tham vọng mãnh liệt, tin vào hiệu quả lớn mạnh do đời sống cầu nguyện của mình và có ý tiêu diệt mọi lạc thuyết. Đàng khác, không chắc rằng ông đã muốn trở thành lạc giáo. Vào đầu thế kỷ V, các thần học gia đều nhận rằng: Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Dầu vậy chưa có định tín về mối tương quan giữa Thiên tính và nhân tính của Người như thế nào. Thánh Cyrillo chủ trương rằng: cả hai bản tính kết hợp mật thiết với nhau, đến độ Mẹ Chúa Kitô cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Nestôriô thì phân biệt rằng Mẹ Con Trẻ Giêsu chỉ được gọi là Mẹ Chúa Kitô mà thôi. Mỗi bên đều tố cáo bên kia là lạc giáo.

Thánh Cyrillo liên kết với các tu sĩ Đông phương Ngài còn được Đức giáo hoàng nâng đỡ và cử làm Vị đại diện ở Đông phương. Với mệnh lệnh này, năm 430 Ngài kết án Nestôriô là lạc giáo tại một hội nghị ở Alexandria. Mùa hè năm 431, Ngài triệu tập và chủ tọa cộng đồng chung ở Ephesô. Nestôriô không những bị kết án mà còn bị truất phế nữa. Đức trinh Nữ được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa.

Công đồng Ephêsô được Đức giáo hoàng chuẩn nhận. Nhưng hoàng đế lại không công nhận vì thánh Cyrillo đã không đợi 43 giám mục có thiện cảm với Nestôriô tới họp. Thánh Cyrillo bị bắt ở Tiểu Á và bị giam tù trong hai tháng. Thánh phụ Antiôkia và các người dưới quyền cắt đứt hiệp thông với Ngài. Thánh nhân trốn về Ai cập và năm 433 kết hợp lại được với Antiôkia. Từ đó Ngài lại thúc đẩy hoàng đế chấp nhận các sắc lệnh của công đồng Ephêsô. Hoàng đế vẫn nghi ngờ Ngài cho đến khi Ngài qua đời vào năm 444. Thánh Cyrillo vẫn còn dấn thân vào cuộc tranh luận Kitô học này cho đến chết.

Không có nhà thần học Hy Lạp nào lớn hơn thánh Cyrillo. Ngài có khả năng tổng hợp và nhận định có thể so sánh được với thánh Augustinô. Không có thánh nhân nào bị phê bình tàn khốc như thánh nhân, nhưng ít có thánh nhân nào đã hăng hái như Ngài. Cả những người ghen ghét cũng không thể chất vấn về sự cao cả của Ngài. Bên dưới sự hăng hái của Ngài là cả một tình yêu mạnh mẽ đối với đức Kitô với niềm tin mãnh liệt vào lòng thương xót của Người. Đức giáo hoàng Celestinô xưng tụng Ngài là đấng bảo vệ Giáo hội và Đức tin”.

Thánh Cyrillô Alexandria là gương sáng cho chúng ta về lòng can đảm, dám đứng lên đấu tranh cho sự thật, bảo vệ đức tin. Xin Chúa vì công nghiệp của Thánh nhân ban cho mỗi chúng ta ơn can đảm làm chứng cho Chúa, bảo vệ đức tin vì lòng yêu mến Chúa và Giáo hội.

(tổng hợp)

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-27-6-thanh-cyrillo-alexandriatien-si-hoi-thanh-48352

https://giaophanvinhlong.net/thanh-cyrillo-alexandrino-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-444.html

http://giaoxutrungdong.com/phung-vu/hanh-cac-thanh/ngay-276-thanh-cyrillo-alexandrino-giam-muc-tien-si-hoi-thanh.html

Thánh Cyril sinh ở Alexandria, Ai Cập. Ngài là cháu của Ðức Theophilus, thượng phụ của Alexandria. Sau khi học xong kinh điển và thần học, ngài được chính bác của mình tấn phong linh mục và tháp tùng Ðức Theophilus đến Constantinople để tham dự Thượng Hội Ðồng Oak nhằm truất phế Ðức Gioan Kim Khẩu (sau này mới biết là bị kết tội oan).
 
    Khi Ðức Theophilus từ trần vào năm 412, ngài lên kế vị bác của mình sau cuộc tranh đấu với phe ủng hộ người đối thủ là Timotheus. Ngay sau khi lên ngôi, Ðức Cyril bắt đầu tấn công lạc thuyết Novatianô với việc đóng cửa các nhà thờ; đuổi những người Do Thái ra khỏi thành phố; và phản bác một số hành động của quan đầu tỉnh Orestes là người theo phe Novatianô.
 
    Vào năm 430, Ðức Cyril lại xung đột với Nestorius, thượng phụ của Constantinople, là người cho rằng Ðức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa vì Ðức Kitô là Thiên Chúa chứ không phải con người, hậu quả là không thể dùng chữ theotokos (người-mang-Thiên-Chúa) áp dụng cho Ðức Maria. Ðức Cyril thuyết phục được Ðức Giáo Hoàng Celestine I triệu tập một công đồng ở Rôma nhằm lên án Nestorius, và chính ngài cũng hành động tương tự trong công đồng Alexandria.
 
    Vào năm 431, Ðức Giáo Hoàng Celestine ra lệnh cho Ðức Cyril truất phế Nestorius. Trong Ðại Công Ðồng Ephêsô lần thứ ba, với sự tham dự của hai trăm giám mục và dưới sự chủ tọa của Ðức Cyril, công đồng đã lên án mọi giáo thuyết của Nestorius là sai lầm trước khi Ðức Tổng Giám Mục Gioan ở Antiôkia và bốn mươi hai môn đệ ủng hộ giáo thuyết của Nestorius kịp đến tham dự. Khi thấy mọi sự đã lỡ, họ tổ chức một công đồng riêng để truất phế Ðức Cyril. Hoàng Ðế Theodosius II bắt giữ cả hai người, Ðức Cyril và Nestorius nhưng sau đó đã trả tự do cho Ðức Cyril khi các đại diện của đức giáo hoàng xác nhận các quyết định của công đồng.
 
    Hai năm sau, Ðức Tổng Giám Mục Gioan, đại diện cho các giám mục ôn hòa ở Antiôkia, đã ký kết một thỏa ước với Ðức Cyril và cùng lên án Nestorius. Trong quãng đời còn lại, Ðức Cyril đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ học thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể nhằm ngăn chặn lạc thuyết Nestorius và Pelagian khỏi ăn sâu vào cộng đồng Kitô Hữu.
 
    Ngài là thần học gia sáng chói nhất của truyền thống Alexandria. Văn bút của ngài có đặc tính chính xác về tư tưởng, lập trường rõ ràng, và lý luận sắc bén. Các văn bản của ngài gồm các nhận định về Thánh Gioan, Thánh Luca, và ngày lễ Ngũ Tuần, các luận thuyết về thần học tín lý, cũng như các thư từ và bài giảng. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên xưng là tiến sĩ Giáo Hội vào năm 1882.
   
    Trích từ NguoiTinHuu.com

http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&tabId=392&ArticleID=60102 

 

Thứ Tư 3/10/2007 – Bài Giáo Lý 52 - Thánh giáo phụ Cyril Thành Alexandria

(ĐTC Biển Đức XVI)

 

 

 

Thứ Tư

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 15, 1-12. 17-18

"Abram tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công chính".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, có lời Chúa phán cùng Abram trong thị kiến rằng: "Hỡi Abram, ngươi chớ sợ, Ta là Ðấng phù trợ và là phần thưởng rất bội hậu cho ngươi". Abram thưa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho con điều gì? Con sẽ qua đi mà không có con; chỉ có Eliêzer này, người Ðamas, con của người giúp việc gia đình con". Abram nói tiếp rằng: "Chúa không cho con sinh con; đây con của người giúp việc sẽ là kẻ nối nghiệp con". Tức thì có lời Chúa phán cùng ông rằng: "Chẳng phải người này sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi, nhưng là chính người con ngươi sinh ra, sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi". Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: "Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao". Rồi Chúa nói tiếp: "Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế". Abram tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công chính.

Và Chúa lại nói: "Ta là Chúa, Ðấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ này làm gia nghiệp". Abram thưa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm sao con có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?" Chúa đáp: "Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non". Abram bắt tất cả những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này đối diện với phân nửa kia: nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm lao xuống trên những con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi.

Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ mê; một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông. Khi mặt trời đã lặn rồi, bóng tối mù mịt phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: "Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Euphrát".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 1-2. 3-4. 6-7. 8-9

Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

2) Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. - Ðáp.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

4) Tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Người đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Người đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Người đã thề với Isaac. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 15-20

"Hãy xem quả thì các con sẽ biết chúng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".

Ðó là lời Chúa.

 

Wolves in Sheep's Clothing (Mt 7:15, 20) by Alice Chapman - LIFE Runners  Team

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Chân dung của những "con sói... cắn xé"

Suy Niệm

 

Chủ đề "sự sống" từ Mùa Phục Sinh vẫn được tiếp tục ở bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XII Thường Niên, ở chỗ hoa trái của sự sống này, một thứ hoa trái cho biết là sự sống đó thật hay giả, siêu nhiên hay tự nhiên, dồi dào hay cằn cỗi. Chúa Giêsu đã sử dụng ngay định luật tự nhiên về sự sống để áp dụng vào sự sống siêu nhiên, ở chỗ căn cứ vào hoa trái của nó, như Người phán dạy như sau:

"Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".

Căn cứ vào lời Chúa khẳng định trên đây thì thành phần "tiên tri giả", được Người nhắc đến ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, cho dù "mặc lốt chiên", "nhưng bên trong là sói dữ" nên không thể sinh hoa trái tốt lành:
 "cây xấu không thể sinh trái tốt", trái lại, "cây xấu thì sinh trái xấu" là thứ hoa trái "cắn xé", sát hại, chia rẽ, phá hoại, tiêu diệt, hung tàn, bạo loạn v.v. những thứ hoa trái hiểm độc không thể nào tồn tại như hoa trái của sự sống, những thứ hoa trái cuối cùng "sẽ bị chặt đi và ném vào lửa" xứng với số phận bóng tối không thể nào át được ánh sáng, mà còn bị ánh sáng xua tan nữa.

Thành phần "tiên tri giả" được Chúa Giêsu đề cập đến ở đây, ở vào phần cuối của Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi mà Người trực tiếp ngỏ cùng các tông đồ và gián tiếp cho dân chúng, chắc Người không ám chỉ thành phần biệt phái và luật sĩ sau này bị Người công khai và thậm tệ quở trách là "đồ giả hình" ở đoạn 23 của cùng Phúc Âm Thánh Mathêu, mà là chính các tông đồ hằng được nghe Người giảng dạy và thấy gương sống của Người mà vẫn sống ngược lại với Người.

Một trường hợp điển hình cho thấy có thể Người ám chỉ thành phần "tiên tri giả" là các tông đồ hay môn đệ của Người, bề ngoài có vẻ hiền lành dễ thương như "chiên" nhưng bề trong vốn còn tính chất "sói dữ... cắn xé", đó là trường hợp của chính tông đồ Gioan, vị tông đồ đã có lần ngăn cản người khác không được lấy danh Thày mà trừ quỉ bởi không thuộc về nhóm của ngài (xem Luca 9:49), và ngay sau đó ngài còn cùng tông đồ Giacôbê anh mình đã ngỏ ý xin Thày sai lửa trời xuống thiêu rụi một thành Samaritano vì họ không tiếp rước Người (xem Luca 9:54).

Sở dĩ có bài Phúc Âm hôm nay ở phần cuối của Bài Giảng Trên Núi, là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến việc thực hành giáo huấn phúc đức trọn lành của Người vừa giảng dạy cách riêng cho các tông đồ. Những ai thực hành lời của Người thì sẽ sinh hoa trái tốt đẹp nhờ lời của Người, bằng không sẽ chẳng sinh hoa trái gì, thậm chí còn sinh hoa trái xấu theo bản tính và xu hướng tự nhiên hướng hạ của mình.


Cảm Nghiệm

Như thế, bất kỳ ai, không phải chỉ ở nơi dân ngoại không biết Chúa hay chưa biết Chúa, hoặc ở nơi những kẻ được coi là tội lỗi gian ác, mà là chính thành phần mang danh môn đệ của Chúa Kitô, Đấng "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), cũng có thể là thành phần "tiên tri giả", ở vào một lúc nào đó hay ở một nơi nào đó, nếu họ không sống trọn lành theo giáo huấn của Bài Giảng Trên Núi được Chúa Giêsu truyền dạy suốt trong gần 3 tuần vừa qua ở Tuần X, XI và XII Mùa Thường Niên này.

Thực tế quả thực cho thấy đúng như vậy. Như lịch sử Giáo Hội và đời thường cho thấy, thành phần Kitô hữu nói chung và Công giáo nói riêng đã có những thái độ "sói ... cắn xé" còn gian dối hơn cả lương dân, còn dữ dằn độc ác hơn cả dân ngoại, thậm chí lấy chính chân lý hay nhân danh chân lý để sát hại nhau chứ không phải để giải thoát nhau, để cứu giúp nhau như chính bản chất của chân lý là soi sáng và giải phóng (xem Gioan 8:32), còn chia rẻ nhau trong nội bộ Kitô giáo của mình, gây gương mù và tai hại trầm trọng cho công cuộc truyền giáo là bản tính của Giáo Hội Chứng Nhân của Chúa Kitô và cho Chúa Kitô.

Những trường hợp điển hình cho thấy thành phần "tiên tri giả" là thành phần, như Chúa Kitô diễn tả, có 3 đặc tính: "mặc lốt chiên", nhưng bên trong lại là "sói dữ" nên đời sống của họ gây ra tác dụng "cắn xé" tai hại. Chẳng hạn các vị linh mục lạm dụng tình dục trẻ em, "mặc lốt chiên" là cha cụ, nhưng lại thèm muốn hèn hạ đến độ như "sói dữ" dám lén lút ăn thịt con chiên của mình, và vì thế các vị quả thực đã "cắn xé" chẳng những biết bao nhiêu là giới trẻ đã bỏ đạo bởi gương mù của các vị bị phanh phui mà còn "cắn xé" cả tài sản của giáo hội địa phương là nơi các vị thuộc về, liên quan đến việc bồi thường cái hậu quả "cắn xé" như một con "sói dữ" là các vị.

Hay trường hợp cha mẹ Kitô hữu đạo đức tốt lành, đọc kinh "xem" lễ và rước lễ hằng ngày, nhưng con cái vẫn cứ hư đi, vẫn bỏ đạo, bởi vì bên trong cái vỏ đạo đức như "mặc lốt chiên" ấy, họ vẫn chất chứa tâm tưởng của loài "sói dữ" đầy những thành kiến xấu, những ác cảm, những hận thù ghen ghét, những chấp nhất lặt vặt, những nghĩ bậy cho nhau, được bộc lộ qua những lời nói hành nói xấu, phê bình chỉ trích chủ quan, chửi bới và nguyền rủa nhau v.v., khiến con cái bị "cắn xé" bởi gương mù gương xấu của họ, đến nỗi có những đứa bỏ đạo, không đi thờ đi lễ như cha mẹ mong muốn và thúc giục nữa, bởi theo chúng, việc đi thờ đi lễ của cha mẹ và như cha mẹ chúng chẳng mang lại lợi ích, trái lại, còn gây hại nữa... thì theo gương các vị mà làm gì, chẳng có lợi thì chớ mà lại còn mất giờ và bị mang tiếng là giả hình nữa.


Tuy nhiên, cho dù trong lòng Giáo Hội tự bản chất "thánh thiện" hằng liên lỉ có những đứa con "sói dữ... cắn xé", dù vô tình hay chủ ý, bằng cách này hay cách khác, ở thời này hay thời kia, Giáo Hội "thánh thiện" của Chúa vẫn không thể bị hủy hoại, bởi Giáo Hội chính là công việc của Chúa, chứ không phải là việc làm của con người thuần túy. Chúa sẽ ở với Giáo Hội và qua những gian nan khốn khó thử thách cả trong lẫn ngoài như thể bị nội công ngoại kích ấy, Giáo Hội lại càng trở thành dấu chứng cho thấy Giáo Hội là Nhiệm Thể của Chúa Kitô có Chúa Kitô là Đầu, và càng hiệp nhất nên một với Người ở chỗ giống Người trong tình trạng bị bách hại và bị sát hại.

Đúng thế, không ai có thể phá hủy được Giáo Hội, cho dù là quyền lực kinh khủng của hỏa ngục đi nữa, vì Chúa ở cùng Giáo Hội như Thiên Chúa ở cùng dân Do Thái xưa, ngay từ ban đầu, qua tổ phụ Abram của họ, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy, một vị tổ phụ đã già mà vẫn còn son sẻ: "Con sẽ qua đi mà không có con; chỉ có Eliêzer này, người Ðamas, con của người giúp việc gia đình con", thế nhưng, theo sự quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa thì: "chính người con ngươi sinh ra sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi", một sự nghiệp chẳng những bao gồm đất hứa mà chính yếu là muôn vàn con cháu, cả dân Do Thái lẫn các dân ngoại: "Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao... Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế".

Chính vì tin tưởng mọi sự vào Thiên Chúa, vào ý định vô cùng huyền diệu của Ngài, một ý định được Ngài tỏ hiện và bày tỏ qua giao ước Ngài đã tự động lập ra và ký kết với dân của Ngài qua các vị tổ phụ của họ, Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất bất biến dù con người có qua đi hay bất trung với Ngài: "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp" (Xuất Hành 3:15) - "Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước", mà Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay dường như đã âm vang tâm tình ngợi khen chúc tụng của tổ phụ Abram, Vị được Bài Đọc 1 hôm nay khẳng định: "Abram tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công chính".

 

1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa.

2) Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.

4) Tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Người đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Người đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Người đã thề với Isaac.  

 

 

Ngày 28 tháng 6

Thánh I-rê-nê, giám mục, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

Saint Irene High Resolution Stock Photography and Images - Alamy


Chào đời khoảng năm 130, lớn lên học ở Xi-miếc-na, I-rê-nê trở thành môn đệ của thánh Pô-ly-cáp, giám mục thành này. Năm 177, người chịu chức linh mục tại Ly-ông (Pháp). Sau đó một thời gian ngắn, người làm giám mục giáo phận này. Trong nhiệm vụ mục tử, người lo loan báo Tin Mừng cho các dân xứ Gô-lơ, nhưng người cũng lo bảo vệ đức tin tinh tuyền chống lại những sai lầm của phái ngộ đạo. Các tác phẩm của người cho ta có được cái nhìn sâu sắc về kế hoạch của Thiên Chúa, về ơn gọi của con người và mầu nhiệm Hội Thánh. Người lãnh nhận triều thiên tử đạo khoảng năm 200.

 

Bài đọc 2

Con người sống là vinh quang của Thiên Chúa,
còn sự sống của con người là nhìn thấy Thiên Chúa

Trích khảo luận Chống lạc giáo của thánh I-rê-nê, giám mục.

Vinh quang của Thiên Chúa làm cho sống, nên ai thấy Thiên Chúa thì đón nhận được sự sống. Vì thế, Đấng mà loài người không thể dò thấu, không thể lãnh hội, không thể thấy được thì lại tỏ mình ra cho họ thấy, cho họ lãnh hội và dò thấu, để ban sự sống cho những ai đón nhận và thấy Người. Vì không thể sống mà không có sự sống, nên sự sống chỉ tồn tại khi nó thông phần vào sự sống của Thiên Chúa, mà thông phần vào sự sống của Thiên Chúa là được thấy Thiên Chúa và vui hưởng lòng nhân hậu của Người.

Vì vậy, nếu muốn được sống thì con người phải thấy Thiên Chúa ; nhờ được thấy như thế, họ trở thành bất tử và đạt tới chính Thiên Chúa. Như tôi đã nói trên đây, đó là điều mà các ngôn sứ đã diễn tả một cách bóng bẩy, vì những ai mang thần khí Thiên Chúa và đợi chờ Thiên Chúa đến thì được thấy Người. Và như ông Mô-sê nói trong sách Đệ nhị luật : Trong ngày ấy, chúng tôi sẽ thấy, vì Thiên Chúa nói với con người và họ sẽ được sống.

Đấng thực hiện mọi sự nơi mọi người, Đấng cao cả và vô cùng lớn lao, Đấng vô hình và khôn tả đối với muôn loài Người đã dựng nên, Đấng ấy lại không phải là Đấng không ai biết đến. Thật vậy, nhờ Ngôi Lời của Người, vạn vật học biết rằng có một Thiên Chúa là Cha, Đấng bao trùm vạn vật và làm cho chúng hiện hữu như trong Tin Mừng có lời chép : Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chính Con Một, Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, không tỏ cho biết.

Vậy, Đấng tỏ cho biết, từ đầu đã là Con của Chúa Cha, vì từ đầu Người vẫn ở với Chúa Cha. Người là Đấng đã tỏ cho loài người một cách tuần tự, hài hoà và đúng thời đúng lúc, những thị kiến tiên tri, những ân điển và tác vụ khác nhau để tôn vinh Chúa Cha, đồng thời mưu ích cho nhân loại. Quả vậy, ở đâu có tuần tự thì ở đó có hài hoà, ở đâu có hài hoà thì ở đó đúng thời đúng lúc, và ở đâu đúng thời đúng lúc thì ở đó có ích lợi.

Bởi thế, vì lợi ích của nhân loại, Ngôi Lời đã trở thành Đấng phân phát ân sủng của Chúa Cha. Chính vì nhân loại mà Người đã thực hiện biết bao việc diệu kỳ, để mặc khải Thiên Chúa cho con người và tỏ bày con người với Thiên Chúa. Một đàng, Người vẫn tôn trọng tính vô hình của Chúa Cha, để con người không coi thường Thiên Chúa, trái lại luôn biết phải hướng về mục tiêu nào ; đàng khác, qua nhiều việc kỳ diệu, Người lại cho nhân loại thấy được Thiên Chúa, kẻo họ hoàn toàn xa lìa Thiên Chúa mà không còn tồn tại. Thật vậy, con người sống là vinh quang của Thiên Chúa, còn sự sống của con người là nhìn thấy Thiên Chúa. Quả thế, nếu việc Thiên Chúa được nhận biết qua thụ tạo đã mang lại sự sống cho mọi kẻ hiện hữu trên mặt đất, thì việc Chúa Cha được nhận biết qua Ngôi Lời càng mang lại sự sống hơn biết bao cho những ai nhìn thấy Thiên Chúa.

 

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh giám mục I-rê-nê thành công bênh đỡ đức tin chân chính và xây dựng sự thuận hoà trong Giáo Hội. Xin nhậm lời thánh nhân chuyển cầu mà củng cố niềm tin và lòng mến của chúng con, để chúng con đem hết sức mình làm cho mọi người luôn đồng tâm nhất trí. Chúng con cầu xin

 

 

Thánh Irênê sinh tại Tiểu Á vào giữa thế kỷ II. Chúng ta biết được phần nào ngày sinh của Ngài, dựa vào bản tường thuật Ngài viết về thánh Policarpô. Ngài viết cho Flôrinô:

- “Tôi có thể nói với ông nơi thánh Pôlicarpô ngồi khi Ngài rao giảng lời Chúa, tôi được thấy Người ra vào. Bước chân, phong thái, cách sống và lời Ngài nói in sâu vào lòng tôi. Tôi như còn nghe thấy Người kể lại cách người đàm luận với thánh Gioan và các tông đồ khác đã thấy mặt Chúa. Người nói lại cho chúng tôi những lời nói và những điều các Ngài đã học được liên quan đến Chúa Giêsu. Các phép lạ và giáo thuyết của Chúa.”

Thánh Irênê còn phấn khởi ghi thêm:

- “Tôi ghi nhận các hành vi và lời nói ấy không phải trên bảng viết mà là trong sâu thẳm tâm hồn. Thiên Chúa cho tôi được ơn không ngừng nhớ lại những kỷ niệm ấy trong lòng.”

Như vậy, thánh Irênê luôn nhớ mãi hình ảnh sống động của thánh Policarpô qua đời năm 155. Vậy có thể là thánh Irênê ra đời khoảng từ năm 130 đến 135, và Ngài được giáo dục tại Smyrna, làm môn đồ của thánh Pôlicarpô. Hấp thụ nền giáo dục gần với các tông đồ. Nhất là với thánh Gioan, thánh Irênê còn ở trong vòng ánh sáng mà tâm điểm là tình yêu đằm thắm giữa thánh Gioan với Chúa Kitô. Trong tác phẩm dài “Adversus Haereses” của Ngài. Chúng ta cảm thấy Ngài là người được thấm nhiễm một trực giác hiếm có.

Thánh Pôlicarpô gọi Irênê sang Gaule. Tại đây thánh Pôthinô, Giám mục Lyon phong chức linh mục cho Ngài. Phần đóng góp của thánh Irênê cho Giáo Hội thật lớn. Ngài chú tâm tới mọi khoa học, chuyên cần suy gẫm Thánh Kinh. Khi nghiên cứu huyền thoại và các hệ thống triết học ngại giáo, Ngài biết tìm ra nguồn gốc các sai lầm và bác bỏ các lạc thuyết pha trộn huyền thoại vào Kitô giáo. Tertulianô đã tuyên nhận rằng không có ai nỗ lực tìm tòi hơn là thánh Irênê. Thánh Hiêrônimô, nại đến thánh nhân để củng xố uy tín của mình. Ngài được coi như là ánh sáng các vùng Gaules ở Phương Tây.

Năm 177, thánh Irênê được cử làm đại diện về Rôma, bên cạnh Đức Giáo Hoàng để thực hiện một sứ mệnh tế nhị là dàn xếp ngày mừng lễ Phục sinh

Trở lại Lyon, thánh Irênê gặp lại một giáo đoàn côi cút. Marcô Aureliô vừa mới giết hại các Kitô hữu. Đức cha Pothinô đã bị sát hại. Thánh Irênê được bầu lên kế vị. Ngài trở thành thủ lãnh Giáo Hội tại xứ Gaule, bận rộn với công việc rao giảng, thánh nhân vẫn viết sách để chống đỡ chân lý. Ngài phải chiến đấu không ngừng, bởi vì cuộc bách hại tưởng chấm dứt khi Marcô Aureliô qua đời, nhưng các lạc giáo lại nổi lên chống phá Giáo Hội. Thánh Irênê dùng hết tâm trí và đức tin chống lại các lạc thuyết nhưng vẫn yêu thương những lẻ lầm lạc, Ngài cầu nguyện cho họ van nài họ trở về với Giáo Hội thật:

- “Hợp nhất với Chúa là sự sống và là Sự sống... Khốn khổ cho ai lìa xa sự hợp nhất ấy. Hình phạt đổ xuống họ không phải do Thiên Chúa mà do chính họ, vì khi chọn quay mặt khỏi Thiên Chúa, họ đánh mất mọi tài sản.”

Các tác phẩm lừng danh Ngài đã soạn khiến cho Ngài đáng được gọi là “Ánh sáng bên trời Tây.”

Dưới sự dẫn dắt của thánh Irênê, Lyon đã trở thành một trường dạy phụng sự Chúa đào tạo nhà tri thức và có khả năng truyền giáo. Thế hệ đầu tiên của trường đã bảo vệ đức tin tinh tuyền bằng những nghiên cứu và sách vở của họ. Thế hệ thứ hai phổ biến Tin Mừng đến những miền khác.

Hoàng đế Seltinô – Severô tái diễn cuộc bách hại. Ông gia hình cho đến chết những ai kiên trì với đức tin. Lyon là thành phố diễn ra cuộc hãm xác tập thể các Kitô hữu thật khủng khiếp. Máu chảy thành suối trên đường phố tiếp nối dòng máu các Giám mục tử đạo, thánh Irênê, cũng bị hạ sát với đàn chiên mình. Một tài liệu cố tìm được cho thấy có đến 19 ngàn Kitô hữu cùng chịu khổ chịu chết vì đạo với Ngài.

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-irene-giam-muctu-dao-42722

 

https://giaophanvinhlong.net/thanh-irene-giam-muc-tu-dao-130202.html

 

Thánh Irênê sinh vào khoảng năm 135 tại Smyrna, tức Ízmir, Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay. Ngài xuất thân từ một gia đình Ki-tô giáo gốc Hy-lạp, và là người có học thức. Có lẽ Thánh Nhân là môn sinh của Thánh Polykarpo Giám mục thành Smyrna. Khi lớn lên, Irênê đã đi tới nước Pháp và lập cư tại Lyon. Tại đó, anh đã làm việc trong một nhóm thương gia gốc Tiểu Á nói tiếng Hy-lạp. Nhóm này càng ngày càng thêm đông số và cần có một Linh mục phụ trách. Vì thế, Irênê đã được phong chức Thánh và được chỉ định phụ trách Cộng Đoàn nói tiếng Hy-lạp đó.

 

Khi chủ thuyết Montano xuất hiện và lan rộng, một số các Ki-tô hữu đến từ thành phố Viên cũng như đến từ thành phố Lyon đã cử Cha Irênê về Rô-ma để thỉnh ý Giáo hội Mẹ về chủ thuyết nói trên. Trong lúc Cha Irênê trẩy đi Rô-ma thì tại Lyon đã xảy ra một cuộc bách hại lớn nhắm vào các Ki-tô hữu. Đức Giám mục của Giáo phận Lyon lúc ấy là Pothinus đã bị bắt giam cùng với nhiều Ki-tô hữu khác, và đều được phúc Tử Đạo. Khi rời Rô-ma để trở về Lyon, Cha Irênê đã được số Ki-tô hữu còn sót lại của Cộng Đoàn này bầu làm Giám mục. Thời gian Ngài trở thành Giám mục được xác định là năm 177.

 

Vào năm 180, trong cuộc tranh luận với giáo thuyết của bè rối Duy Tri cũng như với những luồng tư tưởng khác cùng thời với Ngài, Thánh Irênê đã viết một bộ Bút Chiến gồm năm cuốn mang tính kinh điển với tựa đề "Adversus haereses“ nhằm chống lại những lạc thuyết đó. Với tác phẩm này, Thánh Irênê đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về Đức Tin Ki-tô giáo, rồi với những bằng chứng cặn kẽ được trích từ Kinh Thánh, đã vạch trần và bác bỏ lạc thuyết được gọi là Duy Tri. Mãi tới năm 1904 người ta mới phát hiện ra một tác phẩm ngắn của Ngài về những lời chứng của các Tông Đồ đã được dịch sang tiếng A-ram. Với tư cách là những bài Giáo Lý, tác phẩm này muốn trình bày sứ điệp Ki-tô giáo qua việc giải thích các bản văn Kinh Thánh Cựu Ước dưới nhãn quan Ki-tô học.

 

Thánh Irênê đã đặt Giáo hội vào trong sự nguyên sơ, vào tính phổ quát và vào tính thống nhất của chính Giáo hội để chống lại các lạc thuyết đang bị ghi đậm dấu ấn của sự chệch hướng cũng như của sự phân hóa. Ngài nhấn mạnh tới tính hợp pháp của Giáo hội nhờ vào việc kế vị các Tông Đồ của các Giám mục, chẳng hạn như các Đức Giám Mục thành Rô-ma, cũng như nhờ vào việc theo sát các bản văn Cựu và Tân Ước mà chỉ duy chúng mới có thẩm quyền với tư cách là quy điển chân lý. Thánh Nhân cũng phát triển một khoa chú giải Kinh Thánh dựa vào phương pháp luận.

 

Nhằm chống lại những giáo thuyết của phái Duy Tri, Thánh Irênê còn nhấn mạnh tới Đức Tin vào một Thiên Chúa duy nhất và là Đấng sáng Tạo, Đấng chứng thực cho sự sống trên thế giới, cũng như nhấn mạnh tới tầm quan trọng của nền luân lý, và sự mong chờ cuộc tái lâm của Chúa Ki-tô. Theo Thánh Nhân, con người được Thiên Chúa tạo dựng nên từ chính đôi tay của Ngài sẽ luôn hướng tới sự hoàn thiện theo nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa; tội lỗi của A-đam đã bị bãi bỏ nhờ Mầu Nhiệm Làm Người của Chúa Ki-tô. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, con người sẽ càng ngày càng được đến gần hơn với Thiên Chúa, và khát khao hưởng sự phục sinh cả thể xác lẫn linh hồn, có nghĩa là được dự phần vào Thần Khí của Thiên Chúa, Đấng duy nhất có khả năng làm cho sống.

 

Trong các tác phẩm của mình, Thánh Irênê đã viện dẫn một số các tác giả lớn đến từ Tiểu Á, chẳng hạn như Thánh Polykarpo thành Smyrna và Papias thành Hierapolis. Theophilos thành Antiochia cũng là tác giả được Ngài trưng dẫn nhiều. Ngoài ra, Ngài còn biết tới các tác phẩm của Đức Giáo Hoàng Clemens I, của Thánh Ignatio thành Antiochia, cũng như của Thánh Justinô.

 

Thánh Irênê là một trong những sáng lập viên của nền Thần Học Ki-tô giáo. Vì thế, người ta đã gọi Ngài với tước hiệu danh dự là Tổ Phụ ngành Tín Lý và Ngọn Đèn Sáng của Phương Tây. Và do đó, Ngài được liệt vào số các Giáo Phụ.

 

Thánh Giê-rô-ni-mô đã gọi Thánh Irênê là Thánh Tử Đạo. Còn Thánh Grê-gô-ri-ô thành Tour thì nói về Giám mục của thành Lyon rằng, Thánh Irênê đã được phúc Tử Đạo vào năm 202 dưới triều hoàng đế Lucius Septimius của Rô-ma. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy Thánh Irênê đã chết với tư cách là một vị Tử Đạo cả. Truyền thống vẫn cho rằng Ngài qua đời vào ngày 28 tháng 06 năm 202 tại Lyon, Pháp Quốc. Và theo truyền thuyết thì sau khi qua đời, thi hài của Thánh Irênê đã được người môn đệ thân tín của mình là Linh mục Clemens mai táng. Các tín hữu đã sớm tôn kính Ngài không chỉ với tư cách là một vị Thánh, nhưng cũng còn với tư cách là một vị Tử Đạo nữa.

 

Giáo hội Công giáo mừng Kính Thánh Irênê Giám mục Tử Đạo vào ngày 28 tháng 06 với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III. Các Giáo hội Tin lành và Anh giáo cũng mừng kính Ngài vào ngày 28 tháng 06. Nhưng Giáo hội Chính thống và Giáo hội Armenie thì lại mừng kính Ngài vào ngày 23 tháng 08.

 

Lm. Đa-minh Trần Tiến Thiệu, O.Cist

 

http://hoidongxitothanhgia.com/thu-vien/thanh-irene-giam-muc-tu-dao-3444.html

 

 

Thứ Tư 28/3/2007 – Bài 35: Thánh Irênê Thành Lyon

(ĐTC Biển Đức XVI)


 

 

THỨ NĂM

 

Ngày 29 tháng 6

Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, Tông đồ

Lễ Trọng

 

sspp-eccusa.org

Parish Feast Day Liturgy Sts. Peter and Paul on Wednesday, June 28 ...

 

 

Ngày 29 tháng 6
THÁNH PHÊ-RÔ VÀ THÁNH PHAO-LÔ, TÔNG ĐỒ

 

Phụng Vụ Giờ Kinh

 

St. Peter and St. Paul Holding Up the Church — Graber | Found

lễ trọng

Thánh Phê-rô và thánh Phao-lô không giống nhau về tính khí, cũng không giống nhau về phạm vi hoạt động. Hoàn cảnh các vị gặp Chúa đã tạo nên nét đặc biệt cho sứ vụ tông đồ của mỗi vị. Rồi tài ba của thánh Phao-lô quả là có một không hai trong Ki-tô giáo. Nhưng hai vị liên kết với nhau nhờ lòng tin sâu xa và lòng yêu mến nhiệt thành đối với Đức Ki-tô. Các vị đã đổ máu mình để làm chứng cho Chúa Ki-tô, tại Rô-ma : có lẽ thánh Phê-rô năm 64 và thánh Phao-lô năm 67.

Cuộc thương khó của hai thủ lãnh
Đã làm nên ngày thánh huy hoàng,
Phê-rô thắng trận vẻ vang,
Phao-lô chỉ cách bạn vàng ít lâu.

Cùng dòng máu anh hào tử tiết,
Kết giao thành bạn thiết nghìn thu,
Niềm tin vào Đức Ki-tô
Kiện toàn cuộc sống phượng thờ Chúa Cha.

Phê-rô thật chính là anh cả,
Nhưng Phao-lô cũng chả thua chi,
Bình vàng Chúa chọn ai bì,
Niềm tin son sắt kém gì hiền huynh.

Cây giá ngược chẳng kinh chẳng sợ,
Si-mon làm rạng rỡ Thánh Danh,
Nhớ câu Thầy nhắn nhủ mình,
Thân treo thập giá đóng đinh như Thầy.

Lòng sùng bái từ đây vươn mạnh,
Cả Rô-ma thành kính dâng lên,
Máu ai thắm đỏ tinh tuyền,
Máu Phê-rô đã thấm nền thánh đô.

Ai ngờ thiên hạ nô nức tới,
Người bốn phương trẩy hội nơi này.
Kinh thành vạn quốc là đây,
Ngai toà của Đấng làm thầy muôn dân.

Nguyện xin Chúa khoan nhân từ ái
Khấng nghe lời con cái nài van,
Ban cho hưởng phúc thiên đàng
Cùng hai thánh cả hát vang muôn đời.


Bài đọc 2

Các ngài được thấy thể hiện điều các ngài đã rao giảng

Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.

Cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ diễm phúc là thánh Phê-rô và thánh Phao-lô đã làm cho ngày hôm nay trở thành ngày thánh đối với chúng ta. Các thánh chúng ta nói tới hôm nay không phải là những vị tử đạo vô danh nào đó. Thật ra, tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. Một khi các ngài đã đi theo đường công chính vì tuyên xưng và chết cho chân lý, thì giờ đây các vị tử đạo này được thấy thể hiện điều các ngài đã rao giảng.

Thánh Phê-rô, thủ lãnh các Tông Đồ, con người say mê Chúa Ki-tô, đã xứng đáng nghe lời này : Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô. Quả vậy, vì trước đó chính ông Phê-rô đã nói : Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, nên Đức Ki-tô đáp lại : Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây dựng đức tin mà anh tuyên xưng. Đối lại điều anh vừa nói : Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Tên anh quả là Phê-rô. Phê-rô lấy từ “tảng đá”, chứ không phải tảng đá lấy từ Phê-rô. Ki-tô hữu lấy từ danh Ki-tô thế nào, thì Phê-rô cũng lấy từ “tảng đá” như vậy.

Như anh em đã biết, trước khi chịu thương khó, Chúa Giê-su đã chọn một số môn đệ mà Người gọi là Tông Đồ. Trong số các ngài, hầu như bất cứ nơi đâu, chỉ một mình ông Phê-rô là xứng đáng đại diện cho toàn thể Hội Thánh. Chính vì là đại diện duy nhất của toàn thể Hội Thánh, nên ông xứng đáng được nghe Chúa nói : Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời. Không phải một cá nhân, nhưng cả Hội Thánh duy nhất đã lãnh nhận chìa khoá này. Do đó, địa vị nổi bật của Phê-rô được đề cao, vì chính ông tiêu biểu cho đặc tính phổ quát và duy nhất của Hội Thánh, khi Chúa nói với ông : Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá mà Thầy đã trao cho tất cả. Vì chưng, để anh em biết Hội Thánh đã lãnh nhận chìa khoá Nước Trời thế nào, thì hãy nghe điều Chúa nói với tất cả các Tông Đồ ở một đoạn khác : Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Rồi Người tiếp : Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.

Sau khi phục sinh, Chúa cũng đã trao đoàn chiên của Người cho chính ông Phê-rô chăn dắt. Trong số các môn đệ, không phải chỉ mình ông xứng đáng chăn dắt đoàn chiên của Chúa ; nhưng khi Chúa nói với một người, là Chúa dạy phải giữ sự duy nhất ; dạy ông Phê-rô trước tiên, vì ông là người thứ nhất trong các môn đệ. Thưa thánh Phê-rô, xin ngài đừng buồn ; xin hãy đáp lời Chúa một lần, đáp lần thứ hai nữa, rồi lần thứ ba. Ước chi lời tuyên xưng vì yêu mến thắng thế ba lần, bù lại lòng quá tự tin đã thất bại ba lần vì sợ hãi. Ngài đã ba lần cột trói, thì cũng phải ba lần tháo cởi. Ngài đã cột trói vì sợ hãi, thì hãy tháo cởi vì yêu mến. Thế mà Chúa vẫn trao đoàn chiên của Người cho ông Phê-rô một lần, hai lần, rồi đến ba lần.

Một ngày kính chung cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ. Nhưng hai vị xưa kia chỉ là một ; dù các ngài chịu tử hình những ngày khác nhau, các ngài cũng chỉ là một. Thánh Phê-rô đi trước, rồi thánh Phao-lô theo sau. Đối với chúng ta, ngày lễ chúng ta cử hành hôm nay là một ngày thánh, vì đã được ghi bằng máu của các Tông Đồ. Chúng ta hãy quý chuộng đức tin, đời sống, công lao khó nhọc và những khổ hình của các ngài, quý chuộng những lời các ngài tuyên xưng, những điều các ngài rao giảng.

Nguồn Ánh Sáng thiên thu soi vạn kỷ,
Khai mở ngày muôn tia nắng điểm tô,
Ngày tôn vinh hai thủ lãnh Tông Đồ,
Bao tội lỗi phàm nhân được tha thứ.

Đấng mở cửa Nước Trời lên thập tự,
Vị Tông Đồ dân ngoại phải đầu rơi !
Thẩm phán trần gian, ánh sáng soi đời,
Nay vinh hiển khải hoàn vào thiên quốc.

Rô-ma hỡi, ngươi quả là diễm phúc
Nhuốm máu hồng hai chiến sĩ hùng oai,
Nhờ anh linh, nhờ công đức các ngài,
Ngươi trổi vượt mọi kỳ quan thế giới.

Quỳ dâng Chúa Ba Ngôi bài ca ngợi,
Đấng quang vinh và hạnh phúc trường tồn,
Nắm chủ quyền trên vũ trụ càn khôn
Từ muôn thuở tới muôn đời muôn kiếp. 

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con được vui mừng hoan hỷ nhân ngày đại lễ kính hai thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Chính nhờ các ngài mà Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, thì xin cho Hội Thánh cũng luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Chúng con cầu xin

 


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Cv 12, 1-11

"Bây giờ tôi biết thật Chúa đã cứu tôi khỏi tay Hêrôđê".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, vua Hêrôđê làm khổ mấy người trong Hội thánh. Ông đã dùng gươm giết Giacôbê anh của Gioan. Ông thấy việc ấy đẹp lòng người Do-thái, nên lại cho bắt cả Phêrô. Bấy giờ là ngày lễ Bánh Không Men. Bắt được người, vua cho tống ngục, giao cho bốn đội binh, mỗi đội bốn người canh giữ, có ý đợi sau lễ Vượt Qua, sẽ điệu người ra cho dân. Phêrô bị giam trong ngục, nhưng Hội thánh vẫn luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa cho người. Ðến khi vua Hêrôđê sắp điệu người ra, thì đêm ấy, Phêrô phải mang xiềng xích, nằm ngủ giữa hai tên lính, và có quân canh giữ trước cửa ngục. Bỗng có thiên thần Chúa đứng kề bên, một luồng ánh sáng chiếu giãi vào ngục; thiên thần đập vào cạnh sườn Phêrô, đánh thức người dậy mà rằng: "Hãy chỗi dậy mau". Xiềng xích liền rơi khỏi tay người. Thiên thần bảo người rằng: "Hãy thắt lưng và mang giày vào". Người làm y như vậy. Thiên thần lại bảo rằng: "Hãy khoác áo vào mà theo ta".

Người liền đi ra theo thiên thần, mà chẳng biết việc thiên thần làm có thật chăng, người tưởng như trong giấc mộng. Qua khỏi chặng thứ nhất và chặng thứ hai, thì đến cửa sắt thông ra thành. Cửa ấy tự nhiên mở ra. Thiên thần và Phêrô rảo qua một phố nọ, rồi thiên thần biến đi. Phêrô hoàn hồn và nói rằng: "Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Chúa đã cứu tôi khỏi điều lo sợ (c. 5b).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ. - Ðáp.

3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.

4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Tm 4, 6-8. 17-18

"Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện. Nhưng có Chúa phù hộ giúp sức cho cha, để nhờ cha, việc giảng đạo nên trọn, và tất cả Dân Ngoại được nghe giảng dạy: và cha đã thoát được khỏi miệng sư tử. Nguyện cho Người được vinh quang muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Mt 16, 18

Alleluia, alleluia! - Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 13-19

"Con là Ðá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".

Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Matthew 16,13-19 | Digital Catholic Missionaries (DCM)

 

 

 

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ GIẢNG LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ THÀNH PHAOLÔ

 

Nhị vị Tông đồ Phêrô và Phaolô hiện lên trước chúng ta như những vị chứng nhân. Các vị không bao giờ mệt mỏi trong việc rao giảng và hành trình như những vị thừa sai từ mảnh đất của Chúa Giêsu đến chính Roma. Ở đó, các vị đã cống hiến chúng từ tột đỉnh của mình, khi các vị hiến dâng mạng sống mình như những vị tử đạo. Nếu chúng ta tiến vào cốt lõi của chứng từ ấy, chúng ta mới có thể thấy các vị như những chứng nhân cho cuộc sống, những chứng nhân cho việc thứ tha  những chứng nhân cho Chúa Giêsu.

Những chứng nhân cho cuộc sống. Tuy nhiên, đời sống của các vị không phải là trơn tru ngon lành gì. Cả hai vị đều rất sùng đạo: Thánh Phêrô là một trong những môn đệ đầu tiên (xem Gioan 1:41), và Thánh Phaolô là một con người “nhiệt thành với truyền thống của tổ tiên” (Galata 1:14). Tuy nhiên, các vị cũng phạm những lầm lỗi to lớn: Thánh Phêrô đã chối Chúa, còn Thánh Phaolô đã bách hại Giáo Hội của Chúa. Cả 2 vị đều bị cảm thấy nhức nhối trước vấn nạn của Chúa Giêsu: “Simon con Gioan, con có yêu mến Thày hay chăng?" (Gioan 21:15); “Saolê, Saolê, tại sao ngươi lại bắt bớ Ta?” (Tông Vụ 9:4). Thánh Phêrô đã cảm thấy buồn khổ trước câu hỏi của Chúa Giêsu, còn Thánh Phaolô trở nên mù lòa trước những lời của Người. Chúa Kitô đã gọi đích danh các vị và đã biến đổi cuộc đời của các vị. Sau khi đã xẩy ra tất cả những điều ấy thì Người đặt tin tưởng vào các vị, tin vào kẻ đã chối bỏ mình và tin vào kẻ đã bách hại thành phần môn đồ của mình, tin vào hai tội nhân thống hối. Chúng ta có thể ngẫm nghĩ rằng tại sao Chúa đã không muốn cống hiến cho chúng ta hai nhân chứng hoàn toàn tinh vẹn, lý lịch thanh bạch và đời sống bất khả trách cứ? Tại sao là Phêrô mà không phải là Gioan? Tại sao là Phaolô mà không phải là Barnabê?

Đây là một bài học cả thể: khởi điểm của đời sống Kitô hữu không phải là tính chất xứng đáng của chúng ta; thật vậy, Chúa có thể hoàn thành chíu xíu nơi những ai nghĩ rằng mình tốt lành và đàng hoàng. Bất cứ khi nào chúng ta coi mình thong minh hơn hay khá  hơn người khác thì bấy giờ là khởi điểm của tận cùng. Chúa không làm phép lạ nơi những ai coi mình là công chính, nhưng với những ai cảm thấy mình bần cùng thiếu thốn. Người không bị lôi cuốn bởi những gì là thiện hảo của chúng ta; đó không phải là lý do tại sao Người yêu thương chúng ta. Người yêu thương chúng ta đúng như chúng ta là; Người tìm kiếm những ai không tự mãn, nhưng sẵn sàng mở lòng mình ra cho Người. Những con người giống như Thánh Phêrô và Phaolô là những con người trong sáng trước nhan Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Con là một con người tội lỗi” (Luca 5:8). Thánh Phaolô viết rằng ngài “nhỏ mọn nhất trong các tông đồ, không xứng đáng được gọi là tông đồ” (1Corinto 15:9). Dọc suốt cuộc đời của mình, các vị bảo tồn lòng khiêm nhượng này, cho đến cùng. Thánh Phêrô đã chết tử giá lộn ngược, vì ngài không coi mình xứng đáng được nên giống Chúa. Thánh Phaolô luôn thích thú với tên gọi của mình là “bé nhỏ - little”, quên đi tên gọi của mình là Saolê, tên của vị vua đầu tiên của dân ngài. Cả 2 vị đều hiểu rằng thánh thiện không phải là ở chỗ nâng mình lên mà là hạ mình xuống. Thánh thiện không phải là một trận đấu, mà là vấn đề trao phó cho Chúa từng ngày tình trạng nghèo khốn của mình, Đấng thực hiện những điều cao trọng cho những ai thấp hèn. Đâu là bí quyết làm cho các vị kiên trì giữa nỗi yếu hèn của các vị? Chính là ơn tha thứ của Chúa.

Chúng ta hãy nghĩ đến các vị như là nhân chứng cho ơn tha thứ nữa. Nơi những sai phạm của mình, các vị đã được gặp gỡ lòng thương xót mãnh liệt của Chúa, Đấng đã tái sinh các vị. Nơi việc tha thứ của Người, các vị đã gặp được nỗi an bình và niềm vui khôn tả. Nghĩ lại những sai phạm của mình, các vị đã trải qua những cảm giác lỗi lầm. Biết bao nhiều lần Thánh Phêrô đã nghĩ lại việc ngài chối Chúa! Biết bao nhiêu hối hận Thánh Phaolô đã cảm thấy vì đã gây đớn đau cho rất nhiều kẻ vô tội! Về phương diện loài người, các vị đã sai phạm. Tuy nhiên, các vị đã gặp được một tình yêu lớn lao hơn cả những sai phạm của các vị, một ơn tha thứ mạnh mẽ để để chữa lành ngay cả các cảm giác tội lỗi của các vị. Chỉ khi nào chúng ta cảm thấy ơn tha thứ của Thiên Chúa chúng ta mới thực sự cảm thấy mình được tái sinh. Từ đó chúng ta mới bắt đầu lại, bắt đầu lại từ ơn tha thứ; từ đó chúng ta mới tái nhận thức chúng ta thực sự là ai: trong việc xưng thú các tội lỗi của chúng ta.

Là thành phần nhân chứng cho cuộc sống cũng như cho ơn tha thứ, Thánh Phêrô và Phaolô cuối cùng đã trở thành các nhân chứng cho Chúa Giêsu. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa hỏi: “Người ta bảo Con Người là ai?” Câu trả lời gợi lại các hình ảnh trong quá khứ: “Gioan Tẩy Giả, Elia, Giêrêmia hay một trong các tiên tri”. Những con người đáng kể, nhưng tất cả đều đã chết. Thay vào đó, Thánh Phêrô đáp lại rằng: “Thày là Đức Kitô” (Mathêu 16:13-14,16). Đức Kitô, tức là Đấng Thiên Sai. Một lời không hướng về quá khứ mà là về tương lai: Đấng Thiên Sai là một nhân vật đang được mong đợi, Người là những gì mới mẻ, Đấng mang đến cho thế giới việc xức dầu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là quá khứ mà là hiện tại và là tương lai. Người không phải là một nhân vật xa cách cần phải tưởng nhớ mà là nhân vật được Thánh Phêrô thân tình nói rằng: “Thày là Đức Kitô”. Đối với những ai là nhân chứng của Người thì Chúa Giêsu không phải chỉ là một nhân vật lịch sử; Người là một con người sống động: Người là những gì mới mẻ, không phải là vật gì chúng ta đã thấy, mà là những gì mới mẻ của tương lai chứ không phải ký ức trong quá khứ.

Chứng nhân, bởi thế, không phải là ai đó biết chuyện về Chúa Giêsu, mà là người cảm nghiệm thấy chuyện tình với Chúa Giêsu. Cuối cùng thì chứng nhân chỉ công bố điều này là Chúa Giêsu đang sống động và Người là bí quyết của đời sống. Thật vậy, Thánh Phêrô, sau khi nói rằng: “Thày là Đức Kitô” thì nói tếp rằng: “Con Thiên Chúa hằng sống” (câu 16). Chứng nhân xuất phát từ một cuộc gặp gỡ Đức Giêsu sống động. Ở tâm điểm đời sống của Thánh Phaolô, chúng ta cũng thấy cùng ngôn từ xuất phát từ cõi lòng của Thánh Phêrô: Đức Kitô. Thánh Phaolô lập đi lập lại danh xưng này gần 4 trăm lần trong các bức thư của ngài! Đối với ngài, Chúa Kitô chẳng những là một mô phạm, một mẫu gương, một điểm qui chiếu: Người là chính sự sống nữa. Thánh Phaolô viết: “Đối tôi sống là Chúa Kitô” (Philiphe 1:21). Chúa Giêsu là hiện tại và là tương lai của ngài, đến độ ngài coi qua khứ như cặn bã so với kiến thức siêu việt về Chúa Kitô (xem Philiphe 3:7-8).

Thưa anh chị em, trước sự hiện diện của những vị nhân chứng này, chúng ta hãy tự vấn xem: “Tôi có lập lại hằng ngày việc tôi gặp gỡ riêng với Chúa Giêsu hay chăng?” Chúng ta có tò mò tìm hiểu về Chúa Giêsu, hay có chuyên chú đến các vấn đề của Giáo Hội hay các tin về đạo giáo hay chăng? Chúng ta có thể thiết lập các mạng  điện toán hay các báo chí mà nói về các sự linh thánh hay chăng? Thế nhưng điều này vẫn ở lãnh vực về những gì dân chúng nói? Chúa Giêsu chẳng màng chi tới các thứ thăm dò, lịch sử quá khứ hay thống kê. Người không tìm kiếm những biên soạn về tôn giáo, lại càng không tìm kiếm thành phần Kitô hữu ở “trang nhất – front page” hay “theo thống kê”. Người tìm kiếm những chứng nhân nói cùng Người từng ngày rằng: “Lạy Chúa, Chúa là sự sống của con”.

Được gặp gỡ Chúa Giêsu và được cảm nghiệm thấy ơn tha thứ của Người, các vị Tông Đồ này đã làm chứng về Người bằng sống cuộc đời mới: các vị không còn nhìn lại quá khứ, mà là hiến trọn bản thân mình. Các vị không còn mãn nguyện nửa vời nữa, mà là theo đuổi mức độ duy nhất có thể đối với những ai theo Chúa Giêsu, đó là mức độ của một tình yêu vô hạn. Các vị được “tuôn đổ như là một thứ tửu tế” (xem 2 Timôthêu 4:6). Chúng ta hãy xin ơn đừng trở thành thứ Kitô hữu ương ương dở dở, sống nửa vời, để cho tình yêu của chúng ta trở thành nguội lạnh. Chúng ta hãy tái nhận thức chúng ta thực sự là ai qua mối liên hệ hằng ngày với Chúa Giêsu, và nhờ quyền năng của ơn Người tha thứ. Như Người đã hỏi Thánh Phêrô, giờ đây Người cũng hỏi chúng ta: “Con bảo Thày là ai?”, “Con có yêu mến Thày hay chăng?” Chúng ta hãy để cho những lời này thấm nhập cõi lòng của chúng ta và tác động chúng ta không tiếp tục thỏa nguyện với những gì là tối thiểu mà là nhắm đến những cao điểm, nhờ đó cả chúng ta nữa có thể trở nên thành phần chứng nhân sống động cho Chúa Giêsu.

Hôm nay chúng ta làm phép những chiếc áo bào tổng giám mục cho các vị TGM được bổ nhiệm trong năm qua. Áo bào này nhắc nhở đến con chiên mà vị mục tử được kêu gọi vác trên vai của mình. Nó là dấu hiệu cho thấy các vị mục tử không sống cho bản thân mình mà là cho chiên. Nó là một dấu hiệu cho thấy để có được sự sống chúng ta cần phải thí nó đi, bỏ nó đi…. (mấy lời cuối cùng ĐTC ngỏ cùng các vị đại diện Tòa Thượng Phụ Đại Kết…)

 

http://w2.vatican.va/content/francesco/en/homilies/2019/documents/papa-francesco_20190629_omelia-pallio.html 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch   

 

Thứ Năm 

 

(Nếu ngày thứ Năm trong Tuần XII này không bị Lễ Trọng 2 Thánh Phêrô và Phaolô át đi như năm 2022)

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 16, 1-12. 15-16

"Agar đã sinh cho Abraham một con trai và ông gọi nó là Ismael".

Trích sách Sáng Thế.

Bà Sarai vợ ông Abram không sinh con, nhưng bà có một nữ tỳ người Ai-cập, tên là Agar, bà đã nói cùng ông rằng: "Này, Chúa không cho tôi sinh con, ông hãy ăn ở với nữ tỳ của tôi, may ra nhờ nó, tôi có con cháu". Và Abram nghe theo lời bà Sarai. Ðã mười năm trời, từ ngày ông bà đến ở đất Canaan, bà Sarai chọn Agar, người Ai-cập làm nữ tỳ, rồi trao cho chồng làm nàng hầu: ông đã ăn ở với nàng. Nhưng khi nàng thấy mình thụ thai thì khinh dể bà chủ. Sarai nói cùng Abram rằng: "Ông đối xử bất công với tôi. Tôi đã trao đứa nữ tỳ tôi vào tay ông, từ khi nó thấy mình thụ thai, liền khinh dể tôi. Xin Chúa xét xử giữa tôi và ông". Abram trả lời rằng: "Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý". Sarai hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi.

Thiên thần Chúa gặp nàng trong rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa. Thiên thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi". Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà". Thiên thần Chúa nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều không thể đếm được". Và nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ sinh một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự khốn khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar đã sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi Agar sinh Ismael.

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc bài vắn này: St 16, 6-12. 15-16

Abram trả lời Sarai rằng: "Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý". Sarai hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi. Thiên thần Chúa gặp nàng trong rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa. Thiên thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi". Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà". Thiên thần Chúa nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều không thể đếm được". Và nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ sinh một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự khốn khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar đã sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi Agar sinh Ismael.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 1-2. 3-4a. 4b-5

Ðáp: Hãy ca tụng Chúa, vì Người nhân hậu (c. 1a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? - Ðáp.

2) Phúc cho những ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. - Ðáp.

3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 21-29

"Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta".

"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".

Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Ðấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.

Ðó là lời Chúa. 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm 

 

 

Nữ tỳ Agar... cuộc đời cát đá


Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XII Thường Niên hôm nay là bài phúc âm (Mathêu 7:21-29) kết thúc Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu. Qua bài phúc âm kết thúc Bài Giảng Trên Núi này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ của Người rằng: 


1- Chỉ có ý Chúa được thể hiện qua việc con người tin tưởng chấp nhận, đáp ứng và tuân hành mới mang lại ơn cứu độ cho họ: 
"Không phải tất cả những ai nói với Thầy: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời" 

 

2- Chứ không phải là những việc làm gì khác, cho dù là việc thu hút thế gian nhất, như nói tiên tri có vẻ thông biết mọi sự, hay trừ quỉ hoặc làm phép lạ với đầy quyền năng: "Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?' Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: 'Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta'"..  

 

3Đời sống thiêng liêng cũng chỉ vững chắc khi được căn cứ vào lời của Người, vào giáo huấn vô cùng chân thật và trọn hảo của Người, vào tất cả những gì Người đã truyền dạy mà thôi: "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".  

 

Ở đầu Bài Giảng Trên Núi, Thánh ký Mathêu cho biết là "thấy đoàn lũ dân chúng thì Chúa Giêsu lên núi; khi Người ngồi xuống thì các môn đệ đến cùng Người". Có nghĩa là giáo huấn về phúc đức trọn lành của Người trực tiếp ngỏ cùng thành phần được Người kêu gọi theo Người, nhờ đó họ có thể trở thành "muối đất", thành "ánh sáng thế gian". 


Thế nhưng, kết thúc Bài Giảng Trên Núi này, Thánh ký Mathêu lại cho thấy là chính dân chúng cũng được nghe "ké" giáo huấn phúc đức trọn lành 
này của Chúa Giêsu nữa, hay cũng có thể tiếng của Người nói với các môn đệ càng lúc càng vang to hơn khi Người thấy dân chúng tiếp tục kéo đến gần ngay chỗ qui tụ của Người và các môn đệ bấy giờ: "Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ (là dân chúng - chú giải của người viết) như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ". 

 

Qua lời diễn tả ngay sau Bài Giảng Trên Núi này của Thánh ký Mathêu, chúng ta thấy 2 điều: 1- về phía dân chúng, cho dù ở tầm mức bình dân, không thông thái như thành phần luật sĩ và biệt phái, cũng có thể cảm nhận được giáo huấn cao siêu của Chúa Giêsu; 2- về phía Chúa Giêsu, giáo huấn phúc đức trọn lành của Người tuy cao siêu "chật hẹp" nhưng hoàn toàn hợp với lòng người, hợp với nhân bản, và nếu được mang ra áp dụng thực hành con người sẽ được biến đổi và thăng hóa theo đúng ơn gọi cùng thân phận làm người của h.


Trong bài đọc 1 hôm nay, được Giáo Hội trích từ Sách Khởi Nguyên (16:1-12,15-16 hay 16:6-12,15-16), cho thấy nữ tỳ Agar của tổ phụ Abram tỏ ra lên mặt "khinh dể bà chủ" Sarai của mình, sau khi được bà chủ hiến nàng cho chồng để chồng có con với nàng thay cho bà là vợ nhưng lại bị son sẻ, nên nàng đã bị bà chủ ra tay "hành hạ... đến nỗi nàng phải trốn đi", nhưng nàng được "Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: 'Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà'". 

 

Hành động khinh bỉ bà chủ của nữ tỳ Agar là hành động tự nhiên theo thế gian xác thịt, như xây nhà trên cát, sẽ bị sụp đổ khi bão tố nổi lên, đến độ nàng không chịu được tình trạng bị bà chủ hành hạ nên phải bỏ đi. Hành động trở về tùng phục bà chủ theo như lời thiên thần dạy là hành động xây nhà trên đá của người tỳ nữ này, nên đứa con do nàng sinh ra cho tổ phụ Abram không mồ côi cha (nếu nàng bỏ đi không trở về), và nó được thân phụ của nó đặt tên cho là Ismael khi ông vừa đúng 80 tuổi. 


Tuy nhiên, tự bản chất là đứa con sinh ra bởi một người tỳ nữ, chứ không bởi người vợ chính thức, nhất là không bởi lời hứa như Isaac sau này, mà Ismael tiêu biểu cho những gì là xác thịt đầy ngỗ nghịch phản chống, như thể thừa hưởng giòng máu và khuynh hướng xác thịt của người mẹ nữ tỳ của nó, đúng như lời thiên thần đã tiên báo: "Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". 


Phải chăng li tiên báo cách đây cả hơn 4 ngàn năm này đang được hiện thực hơn bao giờ hết nơi hiện tượng Ả Rập Hồi giáo quá khích, khủng bố và tàn sát, như các nhóm khủng bố quốc tế khét tiếng là Al Queda ở A Phú Hãn, được biết đến từ sau biến cố 911 hay 9/11/2001 ở Hoa Kỳ, hay là ISIS (Islamic State of Iraq and Syria) là Nhà Nước Hồi Giáo Iraq và Syria từ năm 2014, khủng khiếp xuất hiện ở miền bắc nước Iraq sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Iraq? 


Thế nhưng, tất cả mọi sự xẩy ra đều ở trong sự quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa là chủ tể lịch sử loài người, Đấng làm gì cũng chỉ nhắm đến lợi ích thiêng liêng bất diệt cho chung loài người cũng như cho từng người, cho dù trong ruộng của Ngài đầy những cỏ lùng (xem Mathêu 13:24-30). 


Biết đâu hiện tượng Nhà Nước Hồi Giáo ISIS trong quá khứ và cuộc chiến tranh xâm lược của đại cường Nga ở Ukraine xẩy ra vào ngày 24/2/2022, một cuộc chiến xẩy ra khi đại dịch covid-19 kinh hoàng chưa từng thấy trong lịch sử loài người khủng bố con người toàn cầu vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt, lại là những phương tiện hay phương cách thuận lợi nhất bất khả thiếu, cần phải có để Vị Thiên Chúa quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan và toàn năng muốn sử dụng để thanh tẩy thế giới Tây phương Âu Mỹ Kitô giáo càng 
văn minh kỹ thuật và càng văn hóa nhân quyền càng phá sản đức tin Kitô giáo, càng trở nên vô thần về văn hóa và duy vật về văn minh, càng hiện sinh hưởng thụ về văn minh và càng bạo loạn sát hại về văn hóa, càng duy nhân bản và phản nhân bản, càng phi nhân và bất luân, càng trở nên man di sống theo luật rừng mạnh được yếu thua, chẳng khác gì con người đóng khố đi giầy tây vậy!


Bởi thế, Thánh Vịnh 105 (1-2,3-4a,4b-5) ở Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm nhận được tình yêu nhân hậu của Ngài đối với chung nhân loại (câu 1) cũng như đ
ối với thành phần tuân giữ huấn lệnh của Ngài (câu 2) và với dân của Ngài (câu 3):


1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? 
 

2) Phúc cho những ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. 

 

3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài.  

 

 


Thứ Sáu

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Gen 17,1.9-10.15-22

"Mọi đứa con sẽ chịu cắt bì để làm dấu giao ước. Sara sẽ sinh cho ngươi đứa con trai".

Bài trích sách Sáng Thế.

Khi Abram vừa được chín mươi chín tuổi, Chúa hiện ra với ông và phán bảo ông rằng: "Ta là Chúa toàn năng, hãy đi trước mặt Ta và hãy nên trọn lành".

Chúa lại phán bảo Abram rằng: "Vậy ngươivà dòng dõi ngươi qua muôn thế hệ, hãy giữ giao ước của Ta. Ðây là giao ước phải giữ giữa Ta với ngươi, nghĩa là dòng dõi ngươi sau này: Tất cả con trai của các ngươi sẽ chịu cắt bì".

Chúa lại bảo Abraham rằng: "Ngươi sẽ không còn gọi Sarai vợ ngươi là Sarai nữa, nhưng gọi là Sara. Ta sẽ chúc phúc cho Sara; và Sara sẽ sinh một con trai; Ta sẽ chúc phúc đứa con đó, nó sẽ làm đầu nhiều dân, và do nó sẽ sinh ra nhiều vua nhiều nước".

Abraham cúi mặt cười, nghĩ trong lòng rằng: "Già đã trăm tuổi mà còn có con được sao? Sara đã chín mươi tuổi sẽ sinh con ư?"

Rồi ông thưa cùng Chúa: "Xin Chúa cho Ismael được sống trước mặt Chúa!"

Chúa phán bảo Abraham rằng: "Sara vợ ngươi sẽ sinh cho ngươi một con trai, ngươi đặt tên nó là Asaac. Ta sẽ lập giao ước muôn đời với nó, và dòng dõi nó. Ta cũng nghe lời ngươi cầu cho Ismael: này Ta sẽ chúc phúc cho nó sinh sản nhiều. Nó sẽ sinh ra mười hai tướng quân, và Ta sẽ làm cho nó nên một dân tộc lớn. Còn lời giao ước của Ta chỉ ký kết với Isaac, do Sara sẽ sinh ra cho ngươi mùa này sang năm".

Sau khi nói hết lời cùng Abraham, Thiên Chúa biến đi.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: 127,1-2,3,4-5

Ðáp: Ðó là ơn phúc dành cho người kính sợ Chúa. (4)

Xướng 1) Phúc cho ai biết kính sợ Chúa, và bước đi trong đường lối Người. Ngươi sẽ hưởng công khó của tay ngươi, ngươi có phúc và sẽ được may mắn. - Ðáp.

2) Vợ ngươi như cây nho sai trái, trong nội cung gia thất nhà ngươi. Con cái ngươi như chồi non cây dầu ở chung quanh bàn ăn của ngươi. - Ðáp.

3) Ðó là ơn phúc dành cho người kính sợ Chúa. Từ Sion xin Chúa chúc lành cho ngươi. Chúc ngươi thấy Giêrusalem thịnh đạt suốt mọi ngày trong đời sống của ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 1-4

"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người. Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch". Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: "Ta muốn. Anh hãy lành bệnh". Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: "Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết".

Ðó là lời Chúa. 

 

 

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm


Hình ảnh Thiên Chúa... bị phong cùi

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XII Thường Niên, Thánh ký Mathêu (8:1-4) đã cho biết ở ngay câu đầu của đoạn 8 là: "Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người". Tức là, sau Bài Giảng Trên Núi của Người, một bài giảng đã gây một tác dụng mãnh liệt nơi dân chúng như câu kết của đoạn 7 sau bài Giảng Trên Núi ở bài Phúc Âm hôm qua cho thấy: "Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ".


Nhưng có một cái lạ là hình như trong đám đông dân chúng ấy có một người cùi, không biết nặng hay nhẹ, chắc là nhẹ thôi nên không ai chú ý lắm, bằng không anh ta đâu có thể lẻn vào đám đông như vậy được mà đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho một cách dễ dàng như thế: "Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: 'Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch'". 


Còn một cái lạ hơn nữa, đó là, sau khi chữa cho người cùi được lành rồi, Chúa Giêsu chẳng những bảo anh ta đi trình diện các vị tư tế theo đúng luật định mà trước hết căn dặn anh ta phải giữ kín chuyện được chữa lành nữa: "Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'. Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: 'Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết'".

 

Nếu Chúa Giêsu đã chữa cho người cùi này lành mạnh ngay giữa đám đông dân chúng theo Người bấy giờ thì Người còn căn dặn "'Hãy ý tứ, đừng nói với ai" đây nghĩa là gì, trong khi đó bao nhiêu người bấy giờ đã biết chuyện anh ta được chữa lành và sẽ đồn ra khắp nơi, cho dù anh ta không nói. Hay là Chúa Giêsu đã gặp riêng người cùi này khi dân chúng đã tự động giải tán vào một lúc nào đó, vì Người cùng với các môn đệ đi vào một nơi hoang vắng nào đó, nơi ẩn náu của thành phần bị cùi hủi sống xa tránh dân chúng?


Thật ra, ngay trước Bài Giảng Trên Núi, theo Thánh ký Mathêu (4:23-25), Chúa Giêsu đã nổi tiếng tới tận Syria về các phép lạ Người chữa lành cho các thứ bệnh nạn tật nguyền rồi. Nhưng ngay sau Bài Giảng Trên Núi thì người cùi này là trường hợp cá nhân đầu tiên được kể đến bởi quyền năng chữa lành của Người.

 

Thái độ khiêm cung ("đến lạy Người") và hoàn toàn tin tưởng phó thác tùy ý Chúa muốn ("Lạy Ngài nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch") của nạn nhân phong cùi đã được Chúa Giêsu đáp ứng, bằng cách Người "giơ tay chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'".


Bệnh phong cùi là chứng bệnh làm hư hoại hình dạng của con người, một chứng bệnh tiêu biểu cho tác dụng của nguyên tội đã làm cho con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) không còn nguyên vẹn hình hài tốt lành như thuở ban đầu nữa. 


Thế nhưng, Thiên Chúa đã hứa cứu độ con người ngay sau khi nguyên tổ của họ sa ngã (xem Khởi Nguyên 3:15), để họ có thể lấy lại dung nhan hình hài thần linh của mình, bằng cách được trở nên giống Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài "là hình ảnh Thiên Chúa vô hình" (Colose 3:15). 


Để thực hiện dự án cứu độ thần linh này, Ngài đã tuyển chọn một dân tộc và lập giao ước với họ qua tổ phụ Abram của họ, một giao ước liên quan đến sự trọn lành của họ, như Chúa phán trong bài đọc 1 (Khởi Nguyên 17:1,9-10,15-22) hôm nay: "
Ta là Chúa toàn năng, hãy đi trước mặt Ta và hãy nên trọn lành". 


Sự trọn lành về phía con người này, một sự trọn lành tương ứng với giao ước của Thiên Chúa Cứu Độ, là ở chỗ, như Ngài đã phán với vị tổ phụ này trong cùng bài đọc 1 hôm nay rằng: "Vậy ngươi và dòng dõi ngươi qua muôn thế hệ, hãy giữ giao ước của Ta. Đây là giao ước phải giữ giữa Ta với ngươi, nghĩa là dòng dõi ngươi sau này: Tất cả con trai của các ngươi sẽ chịu cắt bì".


Giao ước liên quan đến sự trọn lành của dân được Thiên Chúa tuyển chọn bởi thế không xuất phát từ xác thịt, được tiêu biểu nơi Ismael, đứa con sinh ra bởi người tỳ nữ Ai Cập Agar, mà phát xuất từ thần linh, được tiêu biểu nơi Isaac, đứa con của Lời Hứa: 

 

"Ngươi sẽ không còn gọi Sarai vợ ngươi là Sarai nữa, nhưng gọi là Sara. Ta sẽ chúc phúc cho Sara; và Sara sẽ sinh một con trai; Ta sẽ chúc phúc đứa con đó, nó sẽ làm đầu nhiều dân, và do nó sẽ sinh ra nhiều vua nhiều nước... Sara vợ ngươi sẽ sinh cho ngươi một con trai, ngươi đặt tên nó là Isaac. Ta sẽ lập giao ước muôn đời với nó, và dòng dõi nó".

 

Tuy Ismael là đứa con sinh bởi xác thịt chứ không phải do Lời Hứa nhưng vẫn không bị Thiên Chúa bỏ rơi, trái lại, còn được Thiên Chúa ban cho khả năng phát triển theo bản chất bẩm sinh thiên về xác thịt của nó: "Ta cũng nghe lời ngươi cầu cho Ismael: này Ta sẽ chúc phúc cho nó sinh sản nhiều. Nó sẽ sinh ra mười hai tướng quân, và Ta sẽ làm cho nó nên một dân tộc lớn". 


Bài Đáp Ca hôm nay, được Giáo Hội trích từ Thánh Vịnh 127 (1-2,3,4-5), chất chứa ý nghĩa liên quan đến vị tổ phụ công chính Abram, một vị tổ phụ đã được Chúa chúc phúc cho làm cha của dân Do Thái nói riêng và các dân tộc trên thế giới nói chung, qua người con được vợ ông sinh ra theo Lời Hứa:  

 

1) Phúc cho ai biết kính sợ Chúa, và bước đi trong đường lối Người. Ngươi sẽ hưởng công khó của tay ngươi, ngươi có phúc và sẽ được may mắn. 

2) Vợ ngươi như cây nho sai trái, trong nội cung gia thất nhà ngươi. Con cái ngươi như chồi non cây dầu ở chung quanh bàn ăn của ngươi. 

 

3) Đó là ơn phúc dành cho người kính sợ Chúa. Từ Sion xin Chúa chúc lành cho ngươi. Chúc ngươi thấy Giêrusalem thịnh đạt suốt mọi ngày trong đời sống của ngươi.  



Các Thánh Tử Đạo Roma Tiên Khởi 30/6


the-First-Martyrs-of-the-Church-of-Rome.jpg

“Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi. Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gẫy” (Tv 33, 20-21).

 

Các Thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Roma đã anh dũng bảo vệ đức tin để làm chứng cho Chúa Giêsu. Các Ngài đã làm vinh danh Chúa và đã làm cho đức tin rực sáng. Các Ngài xứng đáng lãnh nhận triều thiên Nước Trời và góp phần xây dựng giáo đoàn Roma trần thế.

 

Các Thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Roma là các vị anh hùng gồm một số rất đông đã đổ máu đào để tuyên xưng danh Chúa, làm chứng cho Chúa dưới thời bạo Chúa Néron: Các Ngài đã bị người ta vu khống là đã đốt thành Roma, phá hủy thành, nên các Ngài đã bị Néron ra lệnh hành quyết, xử tử bằng mọi cực hình, bằng mọi phương cách tàn bạo, dã man. Có những vị đã bị nhốt tù, đánh đập tàn ác, bỏ đói cho đến chết. Có những vị bị thú vật cắn xé, dầy vò, đùa giỡn, những vị khác bị đốt, bị nung trên giường sắt, có những vị bị treo ngược trên thập giá, có những vị khác bị đốt cháy sáng như những ngọn đuốc trong đêm đen. Tuy nhiên, cảm nghiệm Lời Chúa nói: "Anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp gian nan thử thách. Vì thế, Thầy sẽ ban quyền cai trị cho anh em để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy, trên vương quốc của Thầy” (Lc 22, 28 - 30) hoặc “Các thánh đã theo chân Đức Kitô, được vui mừng trên thiên quốc. Các Ngài đã đổ máu mình ra, vì lòng yêu mến Đức Kitô, nên luôn được hoan hỷ với Người" (Ca nhập lễ, lễ nhiều Thánh tử đạo). Các thánh tử đạo đã hân hoan chịu chết.

 

“Hạt giống gieo xuống đất không thúi đi...”, các Thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Roma là những môn đệ của các tông đồ, các Ngài đã được Chúa thương, tuyển lựa để nên như của lễ đầu mùa hiến dâng cho Thiên Chúa và trở nên hạt giống đức tin gieo vào lòng đất cho hoa trái được nẩy nở tốt tươi. Các Ngài đã đổ máu ra để làm phát sinh Hội Thánh Roma. Các Ngài xứng đáng được Chúa thưởng công và Giáo Hội tôn vinh vì các Ngài vẫn một lòng gắn bó với Chúa (Lc 22, 28).

 

Lạy Chúa, Chúa đã dùng máu các thánh tử đạo thánh hiến giáo đoàn Roma trong những bước đầu. Vì các thánh đã chiến đấu anh dũng để bảo vệ đức tin, xin cho cuộc chiến thắng vẻ vang của các Ngài làm cho chúng con được bền lòng vững chí (Lời nguyện nhập lễ, lễ các Thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Roma).

(Sưu tầm)

https://tgpsaigon.net/bai-viet/cac-thanh-tu-dao-tien-khoi-cua-giao-doan-roma-42710

 

Sau khi Chúa Giê-su về trời, và đặc biệt là sau cuộc bách hại nhắm vào các Ki-tô hữu tại Giê-ru-sa-lem, các môn đệ của Ngài đã mau chóng có mặt tại rất nhiều nơi. Và trong một thời gian ngắn sau đó, các Ki-tô hữu đã hiện diện tại kinh thành muôn thuở. Vì là một nhóm nhỏ, lại có lối sống khác biệt một cách căn bản đối với dân ngoại, nên các Ki-tô hữu tiên khởi của Giáo đoàn Rô-ma đã bị nhìn xem với con mắt nghi kỵ. Trong các năm đầu tiên của Giáo hội, các Ki-tô hữu luôn phải sống trong sự chế nhạo và dè bửu. Dù vậy, cộng đoàn Ki-tô hữu càng ngày càng lớn mạnh, càng thêm đông số và càng được nhiều người biết tới.

 

Khi các cộng đoàn Ki-tô giáo càng lớn mạnh, và khi toàn bộ tư tưởng Ki-tô giáo càng ngày càng được biết tới, trong khi tư tưởng này lại biện phân một cách căn bản với giới ngoại giáo, thì cũng là lúc sự chống đối nhắm vào tôn giáo non trẻ có vẻ như rất nguy hiểm cho nhà nước này, cũng càng ngày càng tăng lên. Hoàng đế Nê-rô (54-68) đã phát động một cuộc bách hại nhắm vào các Ki-tô hữu, và cuộc bách hại này đã kéo dài tới hơn 250 năm. Vào tháng 07 năm 64, một cuộc hỏa hoạn đã xảy ra tại thành phố Rô-ma. Theo tương truyền, chính hoàng đế Nê-rô đã ra lệnh thực hiện cuộc hỏa hoạn đó để lấy hứng làm thơ. Tuy nhiên, cuộc hỏa hoạn đã diễn ra ngoài tầm kiểm soát và đã gây ra rất nhiều thiệt hại, nên đã khiến dân chúng nổi loạn. Để tìm cách chối tội và trấn an dân chúng, hoàng đế Nê-rô đã đổ lỗi cho các Ki-tô hữu rằng, họ là những người đã thiêu đốt thành phố. Và vì thế, rất đông tín hữu đã bị bắt giam. Tất nhiên, các tín hữu đã không bao giờ thừa nhận việc gây hỏa hoạn, nhưng họ lại công khai tuyên xưng Đức Tin Ki-tô giáo của mình. Và việc công khai tuyên xưng Đức Tin như thế là đủ để bị khép vào án tử hình. Và để thực hiện án tử hình trên các Ki-tô hữu, hoàng đế Nê-rô đã không cho phép thi hành việc hành hình họ một cách đơn giản, nhưng ông ta đã nghĩ ra những cuộc tra tấn và những cách hành hình hết sức man rợ, chẳng hạn như cho sư tử đói vào xé xác các Ki-tô hữu, hay cho đóng đi các Ki-tô hữu vào Thập Giá rồi tẩm dầu vào thân thể họ, sau đó châm lửa đốt như một ngọn đuốc sống v.v…

 

Sử gia Tacitus, người Rô-ma và cũng là một người ngoại giáo, đã mô tả lại trong cuốn thứ 15 bộ biên niên sử của ông về cuộc bách hại này. Theo những lời ông viết, một số người rất đông đã bị hành hình:

 

Để tránh tiếng đồn rằng, chính ông là người đã đốt thành phố Rô-ma, „hoàng đế Nê-rô đã tìm cách đổ lỗi cho người khác, và ra lệnh trừng phạt những người bị căm thù vì tội ác của họ, đó là những người mà dân chúng gọi là Ki-tô hữu. Danh xưng này bắt nguồn từ ông Ki-tô; ông này đã bị hành hình bởi tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô, dưới thời trị vì của hoàng đế Tiberius… Vì thế, trước tiên người ta bắt giam tất cả những ai tuyên xưng rằng, mình là Ki-tô hữu; sau đó, những người này khai ra rằng, họ thuộc về một đám người rất đông. Họ không chỉ bị kết tội là những kẻ gây ra vụ đốt phá, nhưng còn bị quy cho tội rằng, họ là những kẻ thù ghét tất cả mọi người. Người ta biến những kẻ bị kết án tử hình thành những vở kịch. Người ta nhốt họ vào trong những chiếc chuồng dành cho thú vật, và để cho họ bị cắn xé bởi những con chó, người ta đóng đinh họ vào Thập Giá rồi châm lửa để đốt họ, và sau khi màn đêm ập xuống, người ta đốt họ như là đốt những ngọn đuốc. Hoàng đế Nê-rô đã giao vườn thượng uyển của hoàng cung cho người ta thực hiện những vở kịch này, cũng như đã ra lệnh tổ chức một hý trường để biểu diễn những màn kịch này: Trong cảnh một người lái xe, ông hòa mình vào giữa đám đông, hay đứng trên xe của mình…“

 

Người ta cho rằng, số các Ki-tô hữu bị hành hình trong cuộc bách hại của hoàng đế Nê-rô là rất nhiều và không thể đếm nổi. Còn theo Thánh Hieronymus, có tổng cộng 979 Ki-tô hữu đã bị hành hình trong vụ này. Hầu hết những Ki-tô hữu đó đều là những người vô danh, giờ đây không ai biết đến danh tánh hay tên tuổi của họ. Vì thế, trong suốt một thời gian dài, các vị Tử Đạo này đã không được Giáo hội cử hành Lễ kính nhớ.

 

Mãi tới năm 1923, một Đại Lễ kính chung tất cả các Thánh Tử Đạo mới được cử hành lần đầu tiên tại Rô-ma. Sau đó, từ năm 1969, với cuộc cải tổ Lịch Phụng Vụ, ngày Lễ này đã chính thức được ghi vào trong lịch Kính Các Thánh chung của toàn Giáo hội Công Giáo, và được đổi tên thành Lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Tiên Khởi của Giáo đoàn Rô-ma. Kể từ đó, Giáo hội cử hành Lễ này vào ngày 30 tháng 06, sau Đại Lễ Kính Hai Thánh Phê-rô và Phao-lô Tông Đồ, ở bậc Lễ Nhớ không buộc.

Lm. Đa-minh Thiệu

https://daminhtamhiep.net/2016/06/cac-thanh-tu-dao-tien-khoi-cua-giao-doan-ro-ma/

 

Những người mà chúng ta mừng kính hôm nay đều có một điểm chung: đó là các ngài đã hy sinh từ bỏ mạng sống mình vì Chúa Kitô. Các ngài được phúc tử vì đạo bởi các ngài là những người đã noi theo lối Đức Chúa Giêsu.

Những người mà chúng ta mừng kính hôm nay đều có một điểm chung: đó là các ngài đã hy sinh từ bỏ mạng sống mình vì Chúa Kitô. Các ngài được phúc tử vì đạo bởi các ngài là những người đã noi theo lối Đức Chúa Giêsu. Vào năm 64, khi đám cháy bất ngờ phát tỏa trong thành Rôma ngày 16 tháng Bảy. Người ta đều cho rằng chính hoàng đế là người phải lãnh trách nhiệm. Khi hai phần ba thành phố Rôma bị thiêu rụi, sự căm tức phẫn nộ bắt đầu dâng cao. Nêrô hoảng hồn lo sợ. Ông cần một người đứng mũi chịu sào; và thế là, ông đã đổ tội vụ gây ra hỏa hoạn cho các Kitô hữu.

 

Các thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Rôma
Tất cả những vị đó đều là môn đệ của các thánh tông đồ, các ngài đã được hiến dâng cho Chúa như của lễ đầu mùa

 

Taxitô, một sử gia danh tiếng thời ấy, đã ghi nhận rằng các Kitô hữu đã phải chịu những cái chết thật dã man hiểm độc. Một số bị ném cho các thú hoang ăn thịt. Số khác bị trói vào các cột trụ và trở nên những “ngọn đuốc người” thắp sáng các đường phố Rôma. Chúng ta không biết được chính xác tổng số các vị anh hùng là bao nhiêu, nhưng chứng từ đời sống và lễ vật của các ngài đã gây một ấn tượng đặc biệt cho mọi người. Cuộc bách hại khủng bố đầu tiên của Nêrô dù là hoàng đế Rôma cũng chẳng kéo dài mãi được. Giáo hội càng bị bách hại thì Giáo hội càng phát triển. Các thánh tử vì đạo đã trả một giá rất đắt để những ai bước theo các ngài sẽ có được cơ hội giữ vững đức tin.

 

Chúng ta hãy cầu xin các thánh tử đạo tiên khởi Rôma ban cho lòng can đảm để trung thành với những điều Giáo hội truyền dạy. Các thánh tử đạo này cũng nhắc nhớ chúng ta hãy nên nghiêm túc học hỏi về đức tin và đọc các sách vở Công giáo lành mạnh.

(theo tinmung.net)

http://www.cgvdt.vn/lich/hanh-cac-thanh/cac-thanh-tu-dao-tien-khoi-cua-giao-doan-roma_a3007

 

Sau Jerusalem và Antioch, Roma là trung tâm quan trọng nhất của Giáo Hội thời sơ khai. Nhiều tín hữu đã đến sinh sống tại Roma: một số là Do Thái, nhưng phần đông là dân ngoại tòng giáo.

Hôm nay, chúng ta mừng kính các tín hữu đã chịu bách hại dưới thời bạo vương Nero, sau cuộc hỏa hoạn năm 64 tại Roma.

Sống gương mẫu giữa thế gian.

Đức tin Kitô Giáo đã sớm lan truyền đến Roma, trung tâm của thế giới văn minh vào thời kỳ ấy. Có lẽ các tín hữu đầu tiên tại thủ đô của đế quốc Roma là những người Do Thái tòng giáo. Họ đã tiếp nhận đức tin tại Jerusalem hoặc một thành phố nào đó thuộc miền Tiểu Á, nơi đã được thánh Phaolô giảng đạo. Đức tin được truyền bá từ người này sang người nọ, giữa những nhóm bạn hữu và thân nhân… Thánh Phêrô đã đến Roma vào khoảng năm 43 và củng cố cho cộng đồng Kitô Giáo bé nhỏ tại đây. Từ Roma, đạo thánh đã lan truyền sang nhiều miền khác của đế quốc. Hoàn cảnh an bình của đế quốc Roma thời ấy tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu các luồng tư tưởng và thông tin về những điều mới lạ, tất cả đều góp phần cho việc truyền bá Kitô Giáo. Các con đường khởi từ Roma dẫn đến các vùng xa xăm nhất của đế quốc, các đoàn tàu thương mại thường xuyên vượt Địa Trung Hải, tất cả đều thuận lợi cho việc truyền bá Kitô Giáo khắp đế quốc.1

Thật khó mà trình bày tiến trình cải hóa và trình tự của kinh nghiệm tác động đến từng cá nhân trở lại với Kitô Giáo tại Roma trong thế kỷ I, cũng như hiện nay, vì mỗi cuộc trở lại luôn là một phép lạ của ơn thánh và sự đáp ứng của từng cá nhân với ơn Chúa. Chắc chắn cuộc sống gương mẫu của các tín hữu, hương thơm của Chúa Kitô – bonus odor Christi2 – cũng là một tác nhân có tính quyết định, ảnh hưởng đến môi trường làm việc qua các yếu tố như niềm vui, đức bác ái, sự cảm thông dành cho mọi người, đời sống khổ hạnh, và tư cách nhân bản cao thượng… Các tín hữu nam nữ là những người phấn đấu sống đức tin trọn vẹn giữa những hoạt động thường ngày. Daniel là một thanh niên, Joseph là một nô lệ. Có người như Aquila làm nghề bán vải nhuộm trong một cửa hàng; người thì làm lính canh ngục; có người như Cornelius làm bách quân trưởng; Timothêu là người yếu bệnh; Onesimus là nô lệ bỏ trốn. Tất cả những loại người khác nhau này đều được đức tin qui hồi. Những nghề nghiệp và điều kiện của họ không tạo nên ngãng trở. Mọi người đều có thể nên thánh, nam và nữ, trẻ và già, nô lệ và tự do, binh lính và dân thường.3

Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại cho chúng ta một câu chuyện thật hay về tinh thần hiếu khách của các tín hữu Roma đối với thánh Phaolô khi ngài bị giải về đó như một người tù. Thánh Luca viết, Các anh em ở Roma nghe tin chúng tôi tới thì đến tận chợ Appius và Ba Quán để đón chúng tôi. Thấy họ, Phaolô tạ ơn Thiên Chúa và thêm can đảm.4 Thánh Phaolô đã được thêm can trường nhờ những biểu hiệu của tình bác ái huynh đệ.

Các tín hữu thời ấy không bỏ những hoạt động xã hội và nghề nghiệp. Bằng cuộc sống và lời nói, các tín hữu coi mình là thành viên trong thế giới, và tin Chúa muốn họ phải là muối, là ánh sáng. Một tác giả cổ thời đã tóm tắt điều ấy như sau: Linh hồn đối với thể xác là gì, thì các tín hữu đối với thế giới cũng như vậy.5

Hôm nay, chúng ta hãy xét xem chúng ta có như các tín hữu tiên khởi, nêu gương sáng trong những công việc chúng ta làm để lôi kéo tha nhân về với Chúa Kitô hay không? Chúng ta có xây đắp tha nhân bằng cuộc sống điều độ, cách tiêu dùng, thái độ vui tươi, cách làm việc tử tế, sống trung tín và công bình khi làm việc với thuộc quyền và đồng nghiệp, tham gia các việc từ thiện, và không bao giờ nói xấu bất kỳ ai hay không?

Thái độ trong nghịch cảnh.

Các tín hữu tiên khởi thường gặp những trở ngại và hiểu lầm nghiêm trọng, và không ít trường hợp, các ngài đã hy sinh mạng sống để bảo toàn niềm tin vào Thầy Chí Thánh. Hôm nay, chúng ta mừng kính chứng từ của các vị tử đạo Roma, những người đã chịu chết sau cuộc hỏa hoạn năm 64.6 Tai ương này đã nên cớ cho nhà cầm quyền tiến hành cuộc bách hại thảm khốc đầu tiên. Chúng ta đọc trong một bản văn cổ thời của Kitô Giáo như sau: Mô phạm rạng sáng nhất cho chúng ta là thánh Phêrô và thánh Phaolô, hai đấng đã được kể thêm vào số đông các người được ưu tuyển, những người đã chịu nhiều đau khổ và nhục hình chỉ vì sự ganh ghét.7

Những tân toan và hiểu lầm mà các giáo hữu tân tòng phải chịu không hẳn lúc nào cũng đưa họ đến phúc tử đạo. Họ thường phải chịu những điều mà Chúa Thánh Thần đã cảnh báo trong Thánh Kinh: Thực vậy, những ai ước muốn sống đời sống trong Chúa Giêsu Kitô sẽ phải chịu bắt bớ.8 Nhiều khi sự thù nghịch của dân ngoại đối với các môn đệ Chúa Kitô bộc phát chỉ vì họ không thể chịu nổi kết quả mỹ mãn và lòng sùng kính rộ nở trong sinh hoạt của Kitô Giáo. Đôi khi, cuộc bách hại bùng lên chỉ vì các tín hữu kiêng lánh các nghi thức lễ giáo truyền thống vốn được coi là bằng chứng cho sự trung thành với đế quốc và hoàng đế. Hậu quả là hễ ai theo Kitô Giáo sẽ liều bị hiểu lầm và công kích vì không chịu đồng hóa, không sống như mọi người.

Rất có thể Thiên Chúa không đòi chúng ta phải đổ máu để minh chứng đức tin, nhưng nếu Người cho phép một cuộc thử thách như thế xảy ra, chúng ta hãy nài xin Chúa ban ơn để có thể hiến thân minh chứng tình yêu đối với Người. Tuy nhiên, bằng cách này hay cách khác, chúng ta sẽ gặp đủ các hình thức ganh ghét, bởi vì theo Chúa Giêsu nghĩa là chắc chắn sẽ gặp thập giá. Khi chúng ta phó mình trong tay Chúa, Người thường để chúng ta nếm mùi ưu phiền, cô đơn, chống đối, vu khống, lăng mạ, chế giễu. Những biến cố này có thể phát xuất từ bên trong lẫn bên ngoài Giáo Hội. Chúa muốn đào tạo nhào nặn chúng ta nên giống Người. Thiên Chúa thậm chí còn để chúng ta bị gọi là đồ điên dại và ngu xuẩn… Đây là cách Chúa Giêsu đào luyện những linh hồn Người ưu ái, nhưng đồng thời, Người không quên ban cho họ một niềm bình an và điềm tĩnh.9

Chúng ta phải lợi dụng những nghịch cảnh để sống bác ái một cách anh hùng, nhất là với những người có thể vì hiểu lầm mà không coi chúng ta ra gì. Thái độ của chúng ta có thể bao hàm một sự tự vệ chính đáng khi cần, nhất là để tránh gương mù hoặc gây tổn thương cho người thứ ba. Những nghịch cảnh rất hữu ích vì giúp thanh luyện chúng ta khỏi tội lỗi và khuyết điểm, cho chúng ta cơ hội để đền tạ giúp người khác, và sau cùng, là để thăng tiến trên đường nhân đức và tình yêu đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa nhiều khi muốn thanh luyện chúng ta như vàng trong lửa. Lửa tẩy luyện vàng khỏi cặn ghét và làm gia tăng giá trị của vàng thế nào, thì Thiên Chúa cũng đối xử các tôi trung, những người trông cậy và kiên trung giữa thử thách như thế.10

Nếu chỉ vì chúng ta theo Chúa Kitô mà phải chịu những nghịch cảnh và gian truân, khi ấy chúng ta hãy vui mừng tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã cho chúng ta được chịu đau khổ vì Người như các Tông Đồ xưa. Lòng họ hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu.11

Các Tông Đồ khi ấy chắc chắn đã nhớ lại lời Thầy Chí Thánh, như hôm nay chúng ta tưởng nhớ đến các ngài trong ngày lễ kính các thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Roma: Phúc cho các con khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, và vu khống đủ điều xấu xa. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng dành cho các con ở trên trời thật trọng hậu.12

Làm việc tông đồ trong mọi hoàn cảnh.

Mặc dù chịu vu khống, sỉ vả, lăng mạ đủ điều trong các cuộc bách hại, nhưng tiền nhân trong đức tin của chúng ta vẫn thực hiện việc tông đồ một cách hiệu quả. Các ngài vẫn nói cho mọi người về Chúa Kitô, kho tàng mà các ngài đã may mắn tìm được. Hơn nữa, thái độ chịu đựng thanh thản và vui tươi của các ngài giữa nghịch cảnh, ngay cả phải chết, đã trở thành lý do khiến nhiều người tìm đến với Thầy Chí Thánh.

Cái chết của các vị tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu.13 Giáo đoàn Roma sau cuộc bách hại đã mất rất nhiều tín hữu, nhưng vẫn được củng cố và vươn tiến mạnh mẽ. Những năm sau đó, Tertullian đã viết: Chúng tôi mới chỉ hôm qua, vậy mà đã lan tràn khắp thế giới và mọi sự của các người: các thành phố, hải đảo, thị trấn, làng mạc, quân đội, dinh thự, nghị viện, diễn đàn. Chúng tôi chỉ để lại cho các người những đền chùa mà thôi…14

Trong môi trường và hoàn cảnh hiện tại, nếu vì trung thành với đức tin mà chúng ta phải gặp một khó khăn nào đó, chúng ta hãy biết rằng sự phiền hà này sẽ trở nên ích lợi cho mọi người. Chính những lúc ấy, chúng ta có lý do và nhu cầu phải nói một cách hiền từ về những điều kỳ diệu của đức tin, về tặng ân lớn lao các bí tích, về vẻ đẹp của đời sống trinh khiết thánh thiện. Chúng ta hãy tin rằng chúng ta được kén chọn để chiến thắng trong cuộc chiến đời này, và cuộc sống quang vinh đời sau đang chờ đợi chúng ta không bao lâu nữa. Không gì có thể sánh được với hạnh phúc được sống với Chúa Kitô. Mặc dù chúng ta nghèo nàn, chịu nhiều bệnh tật đau đớn, bị vu khống sỉ vả, nhưng nếu có Chúa Giêsu là chúng ta có tất cả. Hiệu quả của sự ý thức này sẽ biểu hiện ra lối sống bên ngoài. Chúng ta biết, trong mọi lúc, ngay cả trong những cảnh ngộ ấy, chúng ta vẫn phải là muối đất, là ánh sáng thế gian, như Thầy Chí Thánh đã dạy chúng ta.

Đề cập đến các triết gia thời xưa, thánh Justin đã có lý khi nói rằng, Tất cả những điều tốt lành họ nói đều thuộc về chúng ta là các Kitô hữu, bởi vì chúng ta tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa. Ngôi Lời nhiệm xuất từ Thiên Chúa tự hữu, vì yêu thương chúng ta, đã nhập thể để chia sẻ những đau thương và chữa lành cho chúng ta.15

Với phụng vụ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã thánh hóa Giáo Hội Roma bằng máu các vị tử đạo tiên khởi. Xin cho chúng con tìm được sức mạnh từ sự can trường và hân hoan trong chiến thắng của các ngài.16

https://www.dongcong.net/DoiSongKH/LeQuanhNam/Thang6/21.htm




Thứ Hai 28/4 Nhóm TĐCTT Hành Hương Tia Sáng Từ Balan 2014 tại chính vị trí các vị anh hùng đức tin tiên khởi Roma được tử đạo trong Hí Trướng Colossium này

 

 

Thứ Bảy

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 18, 1-15

"Ðối với Thiên Chúa có gì khó đâu. Ta trở lại thăm ông và Sara được một đứa con trai".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa hiện ra cùng Abraham dưới chòm cây ở Mambrê, đang lúc ông ngồi ở cửa lều giữa trưa nóng bức. Ông ngước mặt lên thấy ba người nam xuất hiện, đứng gần ông. Vừa trông thấy, từ cửa lều, ông chạy ra đón các vị ấy, rồi sấp mình lạy và thưa rằng: "Lạy Chúa, nếu con được đẹp lòng Chúa, xin đừng bỏ đi qua. Con xin lấy ít nước để các Ðấng rửa chân, và nghỉ mát. Con xin đem ít bánh mời các Ðấng dùng để lấy sức lại rồi sẽ đi: chính vì thế mà các Ðấng đã ghé vào nhà con". Các Ðấng ấy nói: "Như ông đã ngỏ, xin cứ làm".

Abraham liền vào lều và bảo Sara rằng: "Hãy mau mau trộn ba đấu bột làm bánh nướng". Còn ông, ông chạy đến đàn bò bắt một con bê non hảo hạng, trao cho đầy tớ đem đi nấu. Ông lấy bơ sữa và thịt bê đã chín, dọn ra trước mặt các Ðấng. Chính ông đứng hầu các Ðấng dưới bóng cây.

Ăn xong, các Ðấng hỏi Abraham rằng: "Sara bạn ông đâu?" Ông trả lời: "Kìa, bạn con ở trong lều". Một Ðấng nói tiếp: "Ðộ này sang năm, khi Ta trở lại thăm ông, thì cả hai vẫn còn mạnh khoẻ, và Sara bạn ông sẽ được một con trai". Sara đứng sau cửa lều nghe vậy thì bật cười, vì cả hai đã già nua tuổi tác: Sara đã qua thời kỳ sinh nở. Bà cười thầm rằng: "Tôi đã già, ông nhà tôi đã lão, nào tôi còn tìm lạc thú nữa sao!" Chúa phán cùng Abraham rằng: "Sao Sara lại cười mà rằng: "Nào tôi đã già mà còn sinh nở được sao?" Ðối với Chúa, có gì khó đâu? Theo đúng kỳ hẹn, độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ông, cả hai vẫn còn khoẻ mạnh, và Sara sẽ được một con trai". Sara chối mà rằng: "Con không có cười", bởi vì bà khiếp sợ. Nhưng Chúa đáp lại: "Không đúng, bà có cười".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Lc 1, 46-47. 48-49. 50 và 53. 54-55

Ðáp: Chúa đã nhớ lại lòng từ bi của Chúa (c. 54b).

Xướng: 1) Ðức Maria đã nói: Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi. - Ðáp.

2) Bởi Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ khen rằng tôi phước đức, vì Ðấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Người quyền năng và danh Người là Thánh. - Ðáp.

3) Ðức từ bi Người từ đời nọ tới đời kia dành cho những ai kính sợ Người. Kẻ đói khát, Người cho đầy thiện hảo; bọn giàu sang, Người đuổi về tay không. - Ðáp.

4) Chúa đã nhận săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng từ bi của Người. Như Người đã hứa cùng tổ phụ chúng tôi, dành cho Abraham và miêu duệ ông tới muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 5-17

"Những người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!" Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan rằng: "Ông cứ về, ông được như ông đã tin". Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh.

Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài.

Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm


Từ phương đông và phương tây  


Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (8:5-17) cho Thứ Bảy Tuần XII Thường Niên hôm nay tiếp tục bài phúc âm hôm qua, cả hai bài đều được vị thánh ký này ghi lại về 2 trường hợp chữa lành khác nhau, nhưng bài phúc âm hôm qua việc chữa lành của Người liên quan đến một người Do Thái, còn bài phúc âm hôm nay việc chữa lành của Người liên quan đến một người dân ngoại, đó là "một đại đội trưởng".

 

Thế nhưng, phải công nhận là viên đại đội trưởng Roma này có lòng bác ái yêu thương nên vừa nghe ông yêu cầu: "Lạy Thầy, thằng nhỏ giúp việc cho nhà tôi - my serving boy - đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" nên đã được Chúa Giêsu đáp ứng liền: "Tôi sẽ đến chữa nó". 


Đúng thế, viên đại đội trưởng Roma này đã tỏ ra chăm sóc cho cả thằng nhỏ đầy tớ giúp việc nhà cho ông, chứ không phải là con của ông. Nếu có máu đế quốc thì ông chẳng để ý đến nó làm gì, có thể đã bảo nó về nhà của nó để nghỉ ngơi cho đến khi nào khỏi bệnh thì trở lại. 


Ngoài ra, có thể 
ông cũng biết nói cả tiếng Do Thái để sống với họ là thành phần sống dưới quyền đô hộ của đế quốc Rôma. Do đó, không thấy Thánh ký Mathêu nói có người thông dịch hay ông bảo ai nói thay ông. Thánh ký Luca, trong cùng câu chuyện, lại thuật rằng ông "sai một số vị trưởng lão Do Thái đến với Người" (7:3), chứ ông không đích thân đến như trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay. 


Ở Phúc Âm Thánh ký Luca, chúng ta còn 1 chi tiết nữa cho thấy viên đại đội trưởng này sống bác ái yêu thương dân chúng bị đô
 hộ của mình nên được họ thương mến, đó là chi tiết được chính các vị trưởng lão do ông sai đến với Chúa Giêsu bày tỏ cho Người biết rằng: "Ông ta yêu thương dân chúng tôi, thậm chí xây dựng hội đường cho chúng tôi nữa" (Luca 3:5).

 

Tuy nhiên, không thể bác ái yêu thương nếu không có lòng khiêm nhượng. Viên đại đội trưởng này quả thực có cả một tấm lòng khiêm nhượng trong vai trò làm đại đội trưởng khá nhiều quyền lực trong vùng trách nhiệm của ông. Trước hết, theo Thánh ký Mathêu, chính ông có thể đã biết tiếng Do Thái (nhờ học hỏi giao tiếp) để sống hòa đồng với thành phần dân bị đế quốc ông đô hộ, chứ không cần nhờ người chuyển dịch cho ông. Sau nữa, chính ông đích thân đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ Do Thái của ông, chứ không sai bảo ai dưới quyền ông. Sau hết, chính ông đích thân bày tỏ cái cảm giác bất xứng trong việc được diễm phúc đón rước vào nhà của ông một vị ông rất coi trọng, ngưỡng phục và đầy lòng tin tưởng là Chúa Giêsu

 

"Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ đầy tớ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"

 

Đó là lý do, không lạ gì, sau khi đối diện với viên đại đội trưởng này, nhất là sau khi nghe ông bày tỏ cả lòng bác ái lẫn khiêm nhượng như vậy, Chúa Giêsu đã không ngớt lời khen tặng ông, như Thánh ký Mathêu đã ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay:


"Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". 

 

Lòng bác ái yêu thương và khiêm nhượng của viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma này phát xuất từ một đức tin hữu thần, dù sống trong một thế giới vô thần, một đức tin còn mãnh liệt hơn cả dân Do Thái của Người, một đức tin được bày tỏ với chính vị Thiên Chúa Làm Người, Đấng đã "nói với viên sĩ quan rằng: 'Ông cứ về, ông được như ông đã tin'. Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh".

 

Việc Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ của viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma cho thấy rằng Người đến không phải chỉ cứu dân Do Thái mà là để cứu chuộc cả loài người nói chung và những ai tin vào Người nói riêng. Bởi vì, Người tuy mang giòng máu Do Thái nhưng lại mặc lấy bản tính chung của loài người, một bản tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội, và vì thế, đúng như câu cuối của bài Phúc Âm hôm nay trích lại lời tiên tri Isaia: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".

 

"Chúng ta" đây nơi lời Tiên Tri Isaia trước hết ám chỉ riêng dân Do Thái, một dân tộc dầu sao cũng đã được Thiên Chúa tuyển chọn để chẳng những tỏ mình ra cho họ và qua họ cho cả dân ngoại nữa. Bởi thế, ngay trong giao ước với tổ phụ Abraham về đất hứa và về một dân tộc đông như sao trời như cát biển đã bao gồm cả dân ngoại rồi (xem Khởi Nguyên 22:17), một dân tộc xuất phát từ một người con sinh ra bởi lời hứa là Isaac chứ không phải theo xác thịt như Ismael từ người tỳ nữ Ai Cập Agar. 

 

Bài đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên (18:1-15), đã cho thấy người con giao ước được hứa ban cho vị tổ phụ này trong lúc người vợ của ông là Sara đã hết thời sinh nở, như chính bà nghiệm thực như vậy, khi nghe 3 vị thiên sứ nói về việc bà thụ thai và sinh con: 

 

"Sara đứng sau cửa lều nghe vậy thì bật cười, vì cả hai đã già nua tuổi tác: Sara đã qua thời kỳ sinh nở. Bà cười thầm rằng: 'Tôi đã già, ông nhà tôi đã lão, nào tôi còn tìm lạc thú nữa sao!'" 

 

Thế nhưng, những gì con người không làm được thì không thành vấn đề với Thiên Chúa, và chính vì thế mới là việc của Ngài, và người con sinh ra ngoài khả năng tự nhiên của con người mới quả thực là người con thực sự của giao ước để thực hiện những gì Ngài hứa phải thành hiện thực:

 

"Chúa phán cùng Abraham rằng: 'Sao Sara lại cười mà rằng: Nào tôi đã già mà còn sinh nở được sao?' Đối với Chúa, có gì khó đâu? Theo đúng kỳ hẹn, độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ông, cả hai vẫn còn khoẻ mạnh, và Sara sẽ được một con trai". 


Bài Đáp Ca hôm nay, được Giáo Hội lấy từ một số câu tiêu biểu trong Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ Maria (Luca 1: 46-47,48-49,50 và 53,54-55), chẳng những liên quan đến vợ tổ phụ Abraham là bà Sara mà còn đến cả viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma nữa:  

 

1) Đức Maria đã nói: Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi.  

 

2) Bởi Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ khen rằng tôi phước đức, vì Đấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Người quyền năng và danh Người là Thánh.

3) Đức từ bi Người từ đời nọ tới đời kia dành cho những ai kính sợ Người. Kẻ đói khát, Người cho đầy thiện hảo; bọn giàu sang, Người đuổi về tay không.

 

4) Chúa đã nhận săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng từ bi của Người. Như Người đã hứa cùng tổ phụ chúng tôi, dành cho Abraham và miêu duệ ông tới muôn đời.