SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XIV Thường Niên

Năm A (Chúa Nhật) Năm
Lẻ (trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Dcr 9, 9-10

"Này vua ngươi khiêm tốn đến với ngươi".

Trích sách Tiên tri Dacaria.

Ðây Chúa phán: "Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng! Này vua ngươi đến với ngươi. Người là Ðấng công chính và là Ðấng cứu độ; Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ephraim, và ngựa khỏi Giêrusalem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người sẽ công bố hoà bình cho các dân tộc. Quyền bính của Người sẽ bành trướng từ biển này đến biển nọ, từ sông cái đến tận cùng trái đất".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 1-2. 8-9. 10-11. 13cd-14

Ðáp: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời (c. 1).

Xướng: 1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.

4) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 8, 9. 11-13

"Nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được hành động của xác thịt, thì anh em sẽ được sống".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Ðức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Và nếu Thánh Thần của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Ðấng đã làm cho Ðức Kitô từ cõi chết sống lại, cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.

Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động (xấu xa của) thân xác, thì anh em sẽ được sống.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 10, 17

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 25-30

"Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. - Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.

"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".

Ðó là lời Chúa.

 

Comboni

 

Suy Niệm Lời Chúa

 


"Những điều ấy" là những điều nào?

 

 

Có thể đặt nhan đề chung cho Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm A tuần này bằng ba chữ: "Những điều ấy", ba chữ được lấy từ câu đầu tiên của Bài Phúc Âm hôm nay.  

Thật vậy, nếu 3 tuần vừa rồi, Chúa Nhật XI, Chúa Nhật XII và Chúa Nhật XIII, Giáo Hội đã chọn đọc đoạn 10 (không trọn cả đoạn) của Phúc Âm Thánh ký Mathêu cho chu kỳ phụng niên Năm A liên quan đến ơn gọi kèm theo sứ vụ rao giảng của các môn đệ tông đồ (Chúa Nhật Tuần XI), tinh thần và nội dung rao giảng của các vị (Chúa Nhật Tuần XII), và thái độ "đón tiếp" cần có ở nơi thành phần được nghe các môn đệ thừa sai rao giảng (Chúa Nhật Tuần XIII), thì Chúa Nhật Tuần XIV này bao gồm chính chủ thể được các môn đệ thừa sai rao giảng "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16). 

Đúng thế, "những điều ấy" đây, những điều mà "Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết... mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn" được Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay đó chính "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", Đấng đã khẳng định ngay trong Bài Phúc Âm hôm nay rằng: "không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho". 

Chúa Kitô tự mình quả thực là một mầu nhiệm, loài người thiển cận và hạn hữu không thể nào tự mình có thể nhận biết được nếu không được "Cha Thày trên trời đã mạc khải cho biết" (Mathêu 16:17), và cho dù đã được mạc khải cho biết nhưng nếu con người được mạc khải ấy không lấy đức tin mà chấp nhận thì vẫn bị nhầm lạc như thường, như chính bản thân của vị tông đồ Phêrô tuyên xưng chính xác mạc khải thần linh ấy (xem Mathêu 16:23). Bởi thế Chúa Kitô mới nói đến thành phần "những kẻ bé mọn". Tại sao? Nếu không phải tại vì chính đối tượng đức tin, cốt lõi của mạc khải thần linh "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".  

Có thể nói "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" là cốt lõi của mạc khải thần linh, bao gồm cả mạc khải Cựu Ước (hướng về và trông đợi "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" là tột đỉnh của Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái) lẫn Tân Ước, cả sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội cho đến tận thế. Chính Chúa Kitô, "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) của mình, cũng đã tự chứng nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là bản thân Người chính là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", bằng chính Cuộc Vượt Qua của Người, từ tử nạn như một "Đức Kitô" Thiên Sai đến sống lại như "Con Thiên Chúa hằng sống". 

Thế nhưng, kinh nghiệm phũ phàng cho thấy, thành phần "những người hiền triết và khôn ngoan", như phái Pharisiêu và luật sĩ thông luật, giữ luật và dạy luật chẳng những không chấp nhận nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" mà còn âm mưu sát hại Người cho bằng được: "Quí vị tìm Tôi (tức họ rất muốn biết Người là ai và từ đâu đến - xem Gioan 10:24) nhưng quí vị sẽ chết trong tội lỗi của quí vị (bằng cách lên án tử cho Người ngay sau khi Người tự xưng căn tính đích thực của Người để đáp ứng lệnh truyền của vị thượng tế nhân danh Thiên Chúa hỏi Người)" (Gioan 8:21; Mathêu 26:63-64). 

Sở dĩ thành phần "những người hiền triết và khôn ngoan" thế gian không thể nhận biết nhân vật lịch sử Giêsu Nazzarét "là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" là vì Người chẳng có tướng Thiên Sai tí nào trước con mắt trần tục và niềm mong đợi giải phóng đầy quyền lực của họ, trái lại, họ lại thấy "Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ", như Bài Đọc 1 hôm nay báo trước và Người quả thực là như thế trước mắt họ khi Người vinh quang tiến vào thành Giêrusalem là giáo đô của dân Do Thái (xem Mathêu 21:1-9).  

Hiện tượng phủ nhận nhân vật Giêsu Nazarét "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" nơi thành phần "những người hiền triết và khôn ngoan" cũng dễ hiểu thôi, bởi họ sống theo xác thịt và không sống bởi Thánh Thần, đúng như những gì Thánh Phaolô đã đề cập đến trong Thư gửi Giáo đoàn Rôma ở Bài Đọc 2 hôm nay, những lời ngài đã vừa nhắc nhủ và vừa cảnh giác tín hữu giáo đoàn này: "Anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Ðức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người"; "nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động (xấu xa của) thân xác, thì anh em sẽ được sống". 

Như thế, thành phần "những kẻ bé mọn" chẳng những được Cha Trên Trời mạc khải cho biết Con của Ngài mà còn có thể chấp nhận mạc khải thần linh của Cha là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" là vì họ không sống theo xác thịt mà là nhờ và theo Thánh Thần tác động trong họ. Theo bản chất tự nhiên, họ cũng cảm thấy "khó nhọc và gánh nặng" của cuộc đời trần gian đầy gian nan thử thách, trước sức hấp dẫn của thế gian bên ngoài và khuynh hướng chỉ muốn buông thả bên trong khó lòng mà chống lại được với đủ mọi mưu chước cám dỗ quỉ quyệt của satan và thần dữ.  

Thế nhưng, chính vì là thành phần "những kẻ bé mọn" mà họ không bao giờ cậy mình, trái lại, họ chỉ tin tưởng vào một mình Thiên Chúa là Đấng, như Bài Đáp Ca hôm nay xác tín và tuyên xưng: "nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa", "nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa".  

Nhờ đó, nhờ lòng tin tưởng cậy trông vào một mình Thiên Chúa như thế, mà họ, "những kẻ bé mọn", đã được "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" "nâng đỡ bổ sức cho", đến độ khiến họ có thể dễ dàng "mang lấy ách" của Người là tất cả lề luật cùng giáo huấn trọn lành của Người, bằng tất cả tâm hồn "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" như Người, Đấng "đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập tự giá" (Philiphê 2:6), một tâm hồn "được bình an" bởi họ thực sự cảm nghiệm thấy "ách của (Người) thì êm ái và gánh của (Người) thì nhẹ nhàng" hợp với tầm vóc nhỏ bé nhưng nội công thâm hậu của họ nhờ quyền lực Thánh Thần ở trong họ. Họ quả đúng như lời Chúa phán trong câu Alleluia hôm nay: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.



Thứ Hai

Bài Ðọc I: (Năm I) St 28, 10-22a

"Ông thấy một cái thang dựng đứng, thấy các thiên thần lên xuống trên thang, và nghe Thiên Chúa phán".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, ông Giacóp ra khỏi xứ Bersabê, đi sang thành Haran. Khi ông tới một nơi kia, mặt trời đã lặn, ông muốn ngủ đêm lại đó, nên ông lấy một hòn đá nơi ấy mà gối đầu và ngủ tại đó. Ông chiêm bao thấy một cái thang, chân thang chấm đất và đầu thang chạm đến trời: các thiên thần lên xuống trên thang ấy.

Chúa ngự trên đầu thang và phán rằng: "Ta là Thiên Chúa Abraham tổ phụ ngươi, và là Thiên Chúa Isaac: Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất ngươi đang ngủ đây. Dòng dõi ngươi sẽ đông đúc như bụi trên mặt đất. Ngươi sẽ tràn sang đông, tây, nam, bắc, và nhờ ngươi và dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên thế giới này sẽ được chúc phúc. Bất cứ ngươi đi đâu, Ta sẽ gìn giữ ngươi và Ta sẽ dẫn ngươi vào đất này: Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta đã thi hành điều Ta hứa với ngươi".

Khi Giacóp tỉnh giấc mộng, ông nói: "Quả thực Chúa ngự nơi này mà tôi không biết". Ông run sợ mà nói rằng: "Nơi này đáng kinh hãi là dường nào! Ðây chẳng khác gì đền của Thiên Chúa và cửa thiên đàng". Sáng ngày Giacóp chỗi dậy, ông lấy hòn đá đã dùng gối đầu mà dựng lên làm bia ghi dấu, rồi đổ dầu lên trên. Ông gọi tên thành ấy là Bêthel, khi trước thành này gọi là Luza.

Giacóp đã khấn rằng: "Nếu Thiên Chúa ở với con và gìn giữ con trên đường con đang đi, ban cho con cơm ăn áo mặc, và nếu con trở về nhà cha con bằng yên, thì Chúa sẽ là Thiên Chúa của con và hòn đá con dựng lên làm bia ghi dấu đây sẽ gọi là Nhà của Thiên Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 90, 1-2. 3-4. 14-15ab

Ðáp: Lạy Chúa con, con tin cậy ở Ngài (c. 2b).

Xướng: 1) Bạn sống trong sự che chở của Ðấng Tối Cao, bạn cư ngụ dưới bóng của Ðấng Toàn Năng, hãy thưa cùng Chúa: "Chúa là chiến lũy, nơi con nương náu; lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài".- Ðáp.

2) Vì chính Ngài sẽ cứu bạn thoát lưới dò của kẻ bẫy chim, và thoát khỏi quan ôn tác hại. Ngài sẽ che chở bạn trong bóng cánh của Ngài, và dưới cánh Ngài, bạn sẽ nương thân: lòng trung tín của Ngài là mã giáp và khiên thuẫn. - Ðáp.

3) Vì người quý mến Ta, Ta sẽ giải thoát cho, Ta sẽ che chở người bởi lẽ người nhìn biết danh Ta. Người sẽ kêu cầu Ta và Ta sẽ nhậm lời; Ta sẽ ở cùng người trong lúc gian truân. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 14cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 18-26

"Con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến, nó sẽ sống lại".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đang nói, thì có một vị kỳ mục kia đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại". Chúa Giêsu chỗi dậy, và cùng với các môn đệ, đi theo ông ấy. Và này có người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm, tiến lại đàng sau Người và chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi. Chúa Giêsu ngoảnh lại, trông thấy bà ta, liền phán rằng: "Này con, hãy vững lòng. Ðức tin của con đã cứu thoát con". Và người đàn bà được khỏi bệnh.

Khi Chúa Giêsu đến nhà vị kỳ mục, và thấy những người thổi kèn và đám đông đang xôn xao, thì bảo rằng: "Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi". Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy. Tin này đồn đi khắp cả miền ấy.

Ðó là lời Chúa.

 

Evangelho de hoje (Mt 9,18-26) - Egídio Serpa | Egídio Serpa - Diário do  Nordeste

 


Như "cái thang" đưa con người từ đất lên trời


Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Mathêu thuật lại một sự kiện giống như Thánh ký Marcô đã thuật lại trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm B tuần trước. Tuy nhiên, Thánh ký Mathêu thuật lại có vẻ ngắn gọn hơn, ít chi tiết hơn Thánh ký Marco, bao gồm một số chi tiết khác hẳn nhau:


Hai chi tiết hoàn toàn khác nhau, thậm chí nghịch nhau như sau: Chi tiết thứ nhất đó là người đến xin Chúa cứu đứa con gái của mình là "một vị kỳ mục" chứ không phải là một "trưởng hội đường" như Thánh Marco cho biết, và chi tiết thứ hai đó là "con gái tôi vừa mới chết" chứ không phải "đang hấp hối" như trong Phúc Âm Thánh ký Marco.


Ngoài ra, còn hai chi tiết khác cả hai bài Phúc Âm đều giống nhau, đó là chi tiết về người đàn bà loạn huyết 12 năm được Chúa Giêsu chữa lành nhờ bà có lòng tin: "Này con, hãy vững lòng. Đức tin của con đã cứu thoát con", và chi tiết về người con gái vừa qua đời được Người đến cải tử hoàn sinh cho: "'Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi'. Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy"


Về hai chi tiết hoàn toàn khác nhau, thậm chí nghịch nhau giữa bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay và bài Phúc Âm của Thánh ký Marco hôm Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm B tuần trước, chúng ta có thể đặt vấn đề tại sao, nhưng cả hai chỉ là những chi tiết phụ thuộc không đáng lưu ý bằng những gì chính yếu hơn, đó là việc Chúa Giêsu tỏ mình ra qua cái chết của người con gái này nơi cả 2 bài Phúc Âm (cho dù là hấp hối hay vừa chết), chẳng những cho cha mẹ của em (cho dù người bố của em là trưởng hội đường hay kỳ mục) mà còn cho cả dân chúng bấy giờ nữa. 


Nếu bài đọc 1 cho năm lẻ hôm nay được trích từ Sách Khởi Nguyên về giấc chiêm bao của tổ phụ Giacóp "thấy một cái thang, chân thang chấm đất và đầu thang chạm đến trời: các thiên thần lên xuống trên thang ấy", thì ý nghĩa của bài đọc này có liên hệ gì với bài Phúc Âm hôm nay nói riêng và phụng vụ Lời Chúa nói chung (bao gồm cả bài Đáp Ca) hay chăng? Thưa có - ở chỗ như thế này:


Cả việc chữa lành cho người đàn bà loạn huyết 12 năm, lẫn việc cải tử hoàn sinh cho người con gái của gia chủ thân phụ xin Chúa Giêsu cứu giúp, đều được Chúa Giêsu thực hiện bằng những thứ tiếp xúc khác nhau với thân xác của Người: Trước hết, người đàn bà loạn huyết 12 năm được chữa lành nhờ "chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi", còn người con gái được cải tử hoàn sinh nhờ "Người vào cầm tay đứa bé". 


Có nghĩa là quyền năng chữa lành bệnh nạn tật nguyền và cải tử hoàn sinh của Chúa Giêsu là những gì xuất phát từ thân xác của Người, thậm chí từ cả "gấu áo" Người mặc, hay nói cách khác, thân xác của Người và những gì liên hệ tới Người đều có thể trở thành phương tiện cứu độ con người, như "cái thang" đưa con người từ đất lên trời. 


Thật vậy, tổ phụ Giacóp đã mơ thấy hình bóng của một Vị Cứu Tinh nơi hình ảnh "cái thang" có "các thiên thần lên xuống trên thang ấy", ám chỉ nhân tính của Người nói chung và thân xác của Người nói riêng, một nhân tính và một thân xác được các thiên thần hầu cận và phục vụ, như ở biến cố Người chay tịnh 40 ngày trong hoang địa ngay sau khi Người bị cám dỗ (xem Mathêu 4:11), hay biến cố Người sầu thương trong Vườn Cây Dầu trước khi Người toát mồ hôi như máu nhỏ xuống đất (xem Luca 22:43), hoặc biến cố Người phục sinh từ trong cõi chết có hai thiên thần ngồi trong mồ một vị đằng đầu và một vị đằng chân theo vị thế thi thể Người được mai táng (xem Gioan 20:12).


Tâm trạng của con người sống với bản tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội và mang nơi thân xác của mình những hậu quả của nguyên tội là đau khổ (như người đàn bà loạn huyết 12 năm) và sự chết (như đứa con gái của gia chủ thân phụ) trong bài Phúc Âm hôm nay đều cảm thấy cần được Thiên Chúa cứu độ, Đấng thực sự đã thực hiện việc cứu độ họ qua Con Một của Ngài đã hóa thân làm người mặc lấy bản tính con người là Chúa Giêsu Kitô. Tâm trạng của họ có thể phản ảnh qua bài Đáp ca hôm nay:


1) Bạn sống trong sự che chở của Đấng Tối Cao, bạn cư ngụ dưới bóng của Đấng Toàn Năng, hãy thưa cùng Chúa: "Chúa là chiến lũy, nơi con nương náu; lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài".

2) Vì chính Ngài sẽ cứu bạn thoát lưới dò của kẻ bẫy chim, và thoát khỏi quan ôn tác hại. Ngài sẽ che chở bạn trong bóng cánh của Ngài, và dưới cánh Ngài, bạn sẽ nương thân: lòng trung tín của Ngài là mã giáp và khiên thuẫn. 

3) Vì người quý mến Ta, Ta sẽ giải thoát cho, Ta sẽ che chở người bởi lẽ người nhìn biết danh Ta. Người sẽ kêu cầu Ta và Ta sẽ nhậm lời; Ta sẽ ở cùng người trong lúc gian truân. 


 

 

 


Thứ Ba


 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 32, 22-32

"Tên ông sẽ được gọi là Israel, vì ông có sức mạnh chống lại Thiên Chúa".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Giacóp chỗi dậy sớm, đem hai vợ, hai người đầy tớ gái, và mười một người con đi sang qua khe suối Giabốc. Sau khi dẫn họ và đem tất cả của cải qua bên kia suối, ông ở lại một mình, và đây, có một người vật lộn với ông cho đến sáng. Người ấy thấy mình không thể vật ngã Giacóp được, nên đá vào gân đùi ông, và lập tức gân ấy khô bại. Người ấy nói với ông rằng: "Hãy buông ta ra, vì đã hừng đông rồi". Ông trả lời: "Tôi chỉ buông ông ra khi nào ông chúc lành cho tôi". Vậy người ấy hỏi: "Ông tên gì?" Ông trả lời: "Tôi tên là Giacóp". Người ấy lại nói: "Tên ông sẽ không còn gọi là Giacóp nữa, nhưng sẽ gọi là Israel, vì nếu ông có sức mạnh chống lại Thiên Chúa, ắt ông sẽ còn mạnh sức thắng được loài người". Giacóp hỏi người ấy: "Xin ông cho tôi biết ông tên gì?" Người ấy đáp: "Tại sao ông lại hỏi tên ta?" Bấy giờ người ấy chúc lành cho Giacóp chính nơi ấy. Giacóp đặt tên cho nơi ấy là Phanuel, và bảo rằng: "Tôi đã thấy Chúa nhãn tiền mà mạng sống tôi vẫn an toàn".

Khi ông đã ra khỏi Phanuel, thì mặt trời liền mọc lên, nhưng ông đi khập khễnh một chân. Vì lẽ đó, con cái Israel không ăn gân đùi cho đến ngày nay, vì gân đùi Giacóp bị khô bại: bởi thiên thần đã đá vào gân đùi ông, nên ông bị bại.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 16, 1. 2-3. 6-7. 8b và15

Ðáp: Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan (c. 15a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con; xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe con thốt ra từ cặp môi chân thành! - Ðáp.

2) Từ cái nhìn của Chúa hãy diễn ra sự phán quyết về con: vì mắt Ngài thấy rõ điều chân chính. Nếu Ngài lục soát lòng con, nếu ban đêm Ngài thăm viếng, nếu Ngài thử con trong lửa, Ngài sẽ không gặp điều gian ác ở nơi con. - Ðáp.

3) Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con; lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. Xin tỏ ra đức từ bi lạ lùng của Chúa, là Ðấng giải thoát khỏi bọn đối phương những ai tìm nương tựa tay hữu của Ngài. - Ðáp.

4) Xin che chở con trong bóng cánh tay Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan; khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 32-38

"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: "Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel". Nhưng các người biệt phái nói rằng: "Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ".

Và Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".

Ðó là lời Chúa.

 

 

My Reflections...: Reflection for July 9, Tuesday: Fourteenth Week in  Ordinary Time; Matthew 9:32-38

 

 

Một con người dám đấu với Thiên Chúa và "có sức mạnh chống lại Thiên Chúa"

 


Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Ba Tuần XIV Thường Niên hôm nay bao gồm 2 sự kiện khác nhau: trước hết về việc Chúa Giêsu trừ quỉ, và sau đó về tình trạng chiên cần chủ chiên.


Về việc Chúa Giêsu trừ quỉ, Thánh ký Mathêu thuật lại ở phần trên của bài Phúc Âm hôm nay thế này: "Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: 'Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel'. Nhưng các người biệt phái nói rằng: 'Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ'".


Về tình trạng chiên cần chủ chiên, Thánh ký Mathêu thuật lại ở phần dưới của bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Người liền bảo môn đệ rằng: 'Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa'".


Ý tưởng chính yếu của bài Phúc Âm hôm nay đó là câu Thánh ký Mathêu ghi nhận về Chúa Giêsu rằng: "Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn". 


Đúng thế, tất cả những gì Thiên Chúa làm cho con người đều do bởi tình thương của Ngài trước thân phận tháp hèn và khốn khổ của con người, thành phần không thể tự cứu được mình mà chỉ hoàn toàn trông chờ vào Ngài, Đấng quả thực đã sai Con của Ngài đến với loài người, cũng chỉ vì thương con người, và Con của Ngài trở thành hiện thân sống động của tình thương Ngài đối với chung nhân loại và riêng thành phần nạn nhân của "mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền" hay bị quỉ ám về thể lý, như "người câm bị quỷ ám" trong bài Phúc Âm hôm nay, nhất là thành phần đáng thương tiêu biểu của nhân loại ngay trước mắt Người bấy giờ không được ai giúp đỡ và phục vụ


Bởi thế, trong dự án thần linh của mình, Người cần tuyển mộ thêm một số cộng sự viên đắc lực với Người trong sứ vụ cứu độ bất khả thiếu của Người. Đó là lý do Người "liền bảo với các môn đệ" là thành phần được Người gọi theo Người, chứ không bảo chung dân chúng, rằng: '"Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".


"Lúa chín đầy đồng" đây nghĩa là gì, nếu không phải là thành phần dân chúng đáng thương cần được cứu vớt, họ là thành phần bình dân chất phác thường cởi mở và dễ tin tưởng vào Chúa cùng chấp nhận Lời Chúa hơn thành phần luật sĩ và biệt phái vốn hay tự phụ kiêu căng nên khó tin, khó chấp nhận những gì không hợp với họ hay họ có thành kiến, ngay cả khi họ thấy Người trừ quỉ câm trong bài Phúc Âm hôm nay mà họ vẫn cho rằng "Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ'". 


Và cũng vì thế mới xẩy ra tình trạng "thợ gặt thì ít", nghĩa là những người lãnh đạo tinh thần cho dân chúng thì nhiều đấy nhưng về phẩm thì vẫn quá ít ỏi và hiếm hoi, hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả (xem Gioan 10:8 - "tất cả những kẻ đến trước Tôi đều là trộm cướp)" vừa bất xứng về tinh thần và uy tín vừa bất khả về cung cách và hiệu quả, đến không phải là để phục vụ như Người mà chỉ lo hưởng thụ ở chỗ tìm cầu những gì là danh dự và uy quyền thôi (xem Mathêu 20:28 và đoạn 23). 


Do đó, cần phải "xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa", nghĩa là sai những con người sống tinh thần của Chúa Kitô và như Chúa Kitô đến mới có thể đáp ứng nhu cầu cùng lòng mong đợi của dân chúng, nhờ đó hoàn thành dự án cứu độ thần linh vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa. 


"Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn" là những gì chứng tỏ cho thấy dù con người hèn yếu nhưng vẫn thắng được cõi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, đến độ đã khiến cho Thiên Chúa phải cúi mình xuống phục vụ họ. 


Chẳng khác gì tổ phụ Giacóp trong bài đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, tuy là một con người yếu kém hơn "một người vật lộn với ông cho đến sáng" nhưng kể như vị tổ phụ này đã thắng trận đấu: "Người ấy thấy mình không thể vật ngã Giacóp được, nên đá vào gân đùi ông, và lập tức gân ấy khô bại". Chính chỗ "gân khô bại" bị "thiên thần đã đá vào gân đùi ôngấy, khiến "ông đi khập khễnh một chân" như thế cũng là và chính là dấu chứng tỏ "ông có sức mạnh chống lại Thiên Chúađúng như tên gọi "Israel" mới được vị ấy đặt cho ông cuối trận đấu.


Một con người dám đấu với Thiên Chúa và "có sức mạnh chống lại Thiên Chúa" như thế phải là một con người công chính, như tổ phụ Giacóp, cho dù là yếu hèn về mọi phương diện, như thành phần dân chúng trong bài Phúc Âm, nhưng càng vì thế họ lại càng hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, nhờ đó Thiên Chúa toàn năng có thể tỏ mình ra cho họ và qua họ, khiến họ trở thành quyền năng và vô đch như Thiên Chúa. Bài Đáp ca hôm nay đã bày tỏ tâm tình của một con người công chính đối với Thiên Chúa như sau:


1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con; xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe con thốt ra từ cặp môi chân thành! 

2) Từ cái nhìn của Chúa hãy diễn ra sự phán quyết về con: vì mắt Ngài thấy rõ điều chân chính. Nếu Ngài lục soát lòng con, nếu ban đêm Ngài thăm viếng, nếu Ngài thử con trong lửa, Ngài sẽ không gặp điều gian ác ở nơi con. 

3) Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con; lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. Xin tỏ ra đức từ bi lạ lùng của Chúa, là Đấng giải thoát khỏi bọn đối phương những ai tìm nương tựa tay hữu của Ngài. 

4) Xin che chở con trong bóng cánh tay Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan; khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa. 



Ngày 11/7 là Lễ Thánh Biển Đức - Đệ Nhất Thánh Quan Thày của Âu Châu

Men Saint Icons: St. Benedict Icon | Monastery Icons

Chào đời quãng năm 480 tại Noóc-xi-a (Um-ri-a), sau một thời gian theo học ở Rô-ma, Biển-đức rút lui vào một hang ở Xu-bi-a-cô và bắt đầu sống đời ẩn sĩ, chiêu mộ các đồ đệ rồi chuyển đến Mon-tê Cát-xi-nô. Tại đây, người lập một đan viện thời danh, chính người soạn tu luật cho đan viện. Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây”. Người qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547. Từ cuối thế kỷ VIII, người đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7. Ngày 24 tháng 10 năm 1964, đức giáo hoàng Phao-lô VI ra tông thư “Sứ giả hoà bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.

Tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Ki-tô

Trích tu luật của thánh Biển-đức, viện phụ.

Tiên vàn, bạn hãy đem lời khẩn cầu tha thiết mà xin Thiên Chúa hoàn thành bất cứ công việc tốt lành nào bạn đã khởi sự, ngõ hầu Đấng đã thương kể chúng ta vào số các con cái Người, sẽ không lúc nào phải phiền lòng vì những hành vi xấu xa của chúng ta. Thật vậy, trong mọi lúc, chúng ta phải dùng các ơn lành Thiên Chúa đã ban để phục vụ Người. Như thế, Thiên Chúa sẽ không như một người cha nổi giận truất quyền thừa kế của con cái. Người cũng không như một ông chủ đáng sợ, bực tức vì các việc xấu xa chúng ta đã làm mà bắt chúng ta phải chịu hình khổ đời đời như những tên đầy tớ gian ác nhất đã không muốn đi theo Người vào chốn vinh quang.

Vậy chúng ta hãy trỗi dậy như Kinh Thánh đã từng thúc giục chúng ta : Đã đến lúc anh em phải thức dậy. Chúng ta hãy mở đôi mắt đón nhận ánh sáng thần hoá, hãy lắng tai nghe tiếng Thiên Chúa vẫn hằng ngày nhắc nhở : Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa. Người phán : các ngươi chớ cứng lòng. Và lời khác nữa : Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh.

Thần Khí nói gì ? Các con ơi, hãy đến mà nghe, Ta sẽ dạy cho biết đường kính sợ Chúa. Hãy nhanh chân bao lâu các con còn có ánh sáng của sự sống, kẻo bóng tối bắt chợt các con.

Khi đến giữa đoàn dân đông đảo để đi tìm thợ, Chúa còn nói thêm : Ai là người thiết tha được sống, ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc chứa chan. Nghe như thế, bạn hãy thưa lại : Dạ, con đây ! Chúa bảo bạn : Nếu con muốn được sống đời sống thật và vĩnh cửu, con phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa, hãy làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà. Khi các con làm như vậy, Ta sẽ để mắt nhìn các con và sẽ lắng tai nghe lời các con cầu nguyện. Và trước cả khi các con kêu cầu Ta, Ta sẽ đáp lại : Này Ta đây !

Anh em thân mến, còn gì dịu ngọt đối với chúng ta hơn là tiếng nói của Chúa đang mời gọi ta ? Bạn thấy đó, vì yêu thương, Người chỉ cho chúng ta con đường đưa tới sự sống.

Vậy chúng ta hãy lấy đức tin và các việc lành làm đai thắt lưng, và nhờ Tin Mừng hướng dẫn, hãy tiến bước trong đường lối của Chúa, để một ngày kia chúng ta đáng được nhìn thấy Chúa là Đấng đã gọi chúng ta vào vương quốc của Người. Nếu muốn có một chỗ ở trong vương quốc ấy, chúng ta phải ra công làm việc lành phúc đức thì mới mong đạt được.

Nếu có một thứ nhiệt thành xấu xa chua chát làm xa cách Chúa và dẫn đến hoả ngục, thì cũng có một lòng nhiệt thành tốt đẹp làm xa rời thói xấu, dẫn đến cùng Thiên Chúa và sự sống đời đời. Vậy các đan sĩ phải lấy hết lòng yêu mến nồng nàn mà luyện tập lòng nhiệt thành tốt đẹp này, nghĩa là người này coi người khác trọng hơn mình ; phải hết sức kiên nhẫn chịu đựng những yếu đuối của nhau, về thể xác hoặc về tinh thần ; phải thi đua vâng lời nhau, đừng ai tìm kiếm điều mình xét thấy là lợi ích cho mình, nhưng nhắm lợi ích cho người khác thì hơn ; phải thực thi tình bác ái huynh đệ trong sáng ; phải đem lòng yêu mến mà kính sợ Chúa ; phải đem lòng bác ái chân thành và khiêm tốn mà yêu mến viện phụ của mình ; phải tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Ki-tô, Đấng muốn dẫn đưa chúng ta đến hưởng sự sống đời đời.

Xướng đáp

XGiã từ cha, không màng chi gia sản, chỉ ôm ấp trong lòng một nỗi đam mê là làm vui lòng Chúa, Biển-đức dấn thân vào cuộc đời chiêm niệm

Đvà trong nơi thanh vắng, người sống dưới cái nhìn của Đấng thấu suốt những gì bí ẩn.

XNgười rút lui khỏi thế giới loài người, giàu sang danh vọng không ham, mánh khoé mưu mô chẳng thiết.

Đvà trong nơi thanh vắng, người sống dưới cái nhìn của Đấng thấu suốt những gì bí ẩn.

Lạy Chúa, Chúa đã đặt thánh viện phụ Biển-đức làm tôn sư lỗi lạc dạy những ai muốn hiến thân phục vụ Chúa, xin cho chúng con hằng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, để tâm hồn được thảnh thơi mà rảo bước trên con đường theo Chúa. Chúng con cầu xin



Xin m
ời mở bài Giáo Lý Tông Truyền 70, ngày 19/4/2008, của ĐTC Biển Đức XVI, ở cái link dưới đây:

Thánh Biển Đức Tổ Phụ Đan Tu Tây Phương  




Thứ Tư


 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 41, 55-57; 42, 5-7a. 17-24a

"Chúng ta phải chịu thế này thật xứng đang, vì chúng ta đã phạm đến em chúng ta".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, cả nước Ai-cập gặp nạn đói kém, dân chúng kêu vua Pharaon, xin cho họ của ăn. Vua trả lời họ rằng: "Các ngươi hãy đến cùng Giuse và ông bảo thế nào, các ngươi hãy làm như vậy". Cơn đói kém ngày càng gia tăng khắp mặt đất. Bấy giờ ông Giuse mở các kho lúa, bán cho người Ai-cập, vì họ cũng đói kém khổ sở. Khắp mọi nước, người ta tuôn đến Ai-cập để mua lương thực ăn cho đỡ đói.

Các con ông Giacóp cũng đi chung với những người khác đến Ai-cập để mua lúa, vì nạn đói cũng hoành hành trong đất Canaan. Giuse có quyền trên toàn lãnh thổ Ai-cập, nên ông bán lúa thóc cho hết mọi người. Khi các anh của Giuse sấp mình lạy ông, ông nhận ra các anh, nên ông nói giọng cứng cỏi như nói với khách lạ. Ông hỏi họ: "Các ngươi ở đâu đến?" Họ đáp: "Chúng tôi từ đất Canaan đến mua thực phẩm".

Giuse đã truyền giam họ trong ba ngày; đến ngày thứ ba, ông cho dẫn họ ra khỏi tù và bảo rằng: "Các ngươi hãy làm điều ta dạy bảo, thì sẽ được sống: vì ta kính sợ Thiên Chúa. Nếu các ngươi là người lương thiện thì một người trong các ngươi sẽ ở lại trong tù, còn những người khác hãy đem lúa về nhà. Rồi các ngươi hãy dẫn đứa em út các ngươi tới đây cho ta, để ta có thể tin lời các ngươi, và các ngươi sẽ khỏi chết. Họ đã làm như Giuse dạy bảo.

Bấy giờ họ mới nói với nhau rằng: "Chúng ta phải chịu thế này thật xứng đáng, vì chúng ta đã phạm đến em chúng ta. Chúng ta đã thấy tâm hồn em chúng ta khổ sở, khi nó năn nỉ chúng ta tha cho nó, nhưng chúng ta không chịu nghe. Vì thế nên chúng ta phải chịu nỗi khốn khổ này". Bấy giờ, một người trong anh em là Ruben nói rằng: "Chớ thì tôi đã chẳng bảo anh em đừng có phạm đến đứa trẻ sao". Nhưng không ngờ rằng Giuse hiểu tiếng họ, vì ông dùng thông ngôn mà nói với họ. Ông Giuse lánh mặt đi một chút mà khóc.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 2-3. 10-11. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài (c. 22).

Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm; với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. - Ðáp.

2) Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Ngài còn mãi đời nọ sang đời kia. - Ðáp.

3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 1-7

"Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.

Ðây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.

Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: "Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Đâu là thành phần "những con chiên lạc nhà Israel": Họ là ai?

 


Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XIV Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, ở chỗ, trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu thấy dân chúng bơ vơ như chiên không chủ chăn, và ngỏ ý muốn kêu gọi thêm cộng sự viên trong công cuộc cứu độ với Người, bằng cách kêu gọi các môn đệ hãy xin thêm thợ gặt đến làm mùa, thì trong bài Phúc Âm hôm nay "Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền". 


Thành phần được Chúa Giêsu ưu tuyển này là những ai, được Thánh ký Mathêu cho biết như sau: "Đây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người".


Và sứ vụ của 12 môn đệ được gọi là tông đồ này như thế nào, cũng được Thánh ký Mathêu cho biết như thế này: "Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: 'Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".


Ở đây có 2 vấn đề được đặt ra: thứ nhất là danh xưng môn đệ và tông đồ có khác nhau không, nếu có thì như thế nào? Và thứ hai là địa bàn hoạt động của các tông đồ tại sao chỉ giới hạn vào "các chiên lạc nhà Israel" mà thôi? 

 


Trước hết về danh xưng "môn đệ" (disciple) và "tông đồ" (apostle), căn cứ vào Phúc Âm, chúng ta nên hiểu như thế này: 

 

1- "Môn đệ" là một ơn gọi, ơn gọi theo Chúa Kitô, còn "tông đồ" là sứ vụ đặc biệt, sứ vụ "làm chứng" cho Chúa Kitô, sứ vụ chính yếu của thành phần làm "môn đệ" Chúa Kitô

2- Bởi thế "tông đồ" căn bản cũng là "môn đệ" của Chúa Kitô, tức là thành phần theo Chúa Kitô, nên các Phúc Âm hay thuật lại rằng Chúa Giêsu đi với các môn đệ của mình hoặc Người nói với các môn đệ của Người, chứ hầu như không viết là với các tông đồ. Ngay trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thấy: "Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại", chứ không phải gọi 12 tông đồ lại.

3- Trong thành phần theo Chúa Kitô được Thánh Luca cho biết là có 72 "môn đệ" (disciples), thế nhưng cả 3 Phúc Âm Nhất Lãm (Mathêu, Marco và Luca) đều liệt kê chỉ có 12 "tông đồ" (apostles), thành phần "tông đồ" có tên tuổi đàng hoàng, như trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, trong khi các "môn đệ" không được liệt kê tên tuổi như vậy, và các môn đệ này có thể bao gồm cả thành phần nữ giới theo phục vụ Chúa nữa, nhưng không cần toàn thời (full time) như các tông đồ, mà bán thời (part time) cũng được.

4- Để trở thành "tông đồ" cần phải hội đủ 3 điều kiện chính yếu bất khả thiếu: thứ nhất, phải được chính Chúa Kitô tuyển chọn + thứ hai, phải được chính Chúa Kitô tỏ mình ra cho + thứ ba, phải được chính Chúa Kitô sai đi. Thánh Phaolô cũng được gọi bằng danh xưng "tông đồ", (cho dù không sống trực tiếp với Người ngay từ đầu và có tên trong danh sách "tông đồ"), là vì ngài cũng hội đủ 3 yếu tố để làm "tông đồ" trên đây: cũng được chính Chúa Kitô tuyển chọn (xem Tông Vụ 9:15), cũng được chính Chúa Kitô tỏ mình ra cho (xem Tông Vụ 9:4-6) và cũng được chính Chúa Kitô sai đi (xem Tông Vụ 13:47)

Vấn đề thứ hai là địa bàn hoạt động của các tông đồ tại sao "các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria" mà chỉ giới hạn vào "các chiên lạc nhà Israel" thôi? Phải chăng tại vì dân ngoại (nhất là ở Galilêa) có thể nói đã biết nhiều về Chúa Giêsu, Đấng đã bắt đầu xuất hiện như ánh sáng chiếu trong tăm tối ở miền đất này, một sự kiện được Thánh ký Mathêu ghi nhận như sau: 

"Khi Chúa Giêsu nghe Gioan đã bị tống giam thì Người lui về Galilêa. Người bỏ Nazarét mà đi đến sống ở Capernaum gần địa hạt Zebulun và Naphtali, cho trọn những gì đã được Tiên Tri Isaia nói: "Miền Galilêa dân ngoại: dân sống trong tăm tối đã được thấy ánh sáng cả thể..." (Mathêu 4:12-16). 

Vì Galilêa là vùng đất của Dân Do Thái sống chung đụng với rất nhiều dân ngoại, một miền bắc hoàn toàn khác với miền nam Giuđêa thuần túy Do Thái và là nơi có giáo đô Giêrusalem, một miền bắc đã trở thành vùng hoạt động chính yếu của Chúa Giêsu, nơi Người cũng đã tuyển chọn 12 tông đồ, mà sau khi sống lại Người cũng đã hẹn với các tông đồ về lại Galilêa gặp Người (xem Mathêu 28:7), và các vị quả thực đã gặp Người ở đó (xem Mathêu 28:16) để được Người sai đi "tuyển mộ môn đồ khắp các dân nước" (Mathêu 28:19).

Galilêa còn là vùng đất không được Chúa Giêsu bao gồm trong lệnh truyền sai các tông đồ đi rao giảng khắp nơi trước khi Người thăng thiên về cùng Cha: "Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền GiuđêA, SamariA và cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8).

Vậy đối tượng các tông đồ được sai đến là "các chiên lạc nhà Israel" - Chúa Giêsu có ý ám chỉ những ai đây, nếu không phải thành phần dân Do Thái lầm lạc, chứ không phải thành phần Do Thái thành tâm đang tìm kiếm chân lý và thiết tha trông đợi Đấng Thiên Sai, như một Nicôđêmô (xem Gioan 3:1-2). Họ ở đâu? Nếu không phải ở ngay Galilêa, chứ không ở đâu xa, vì họ là thành phần đáng thương nhất! 

Mà thành phần "các chiên lạc nhà Israelđây thực sự là ai, nếu không phải là nhóm biệt phái và luật sĩ, thành phần mà các môn đệ của Chúa Kitô cần phải trổi vượt hơn về thánh đức (xem Mathêu 5:20), và không được nhiễm lây men gương mù gương xấu của họ (xem Mathêu 16:6), thành phần luôn có thái độ cao ngạo và thù nghịch với Chúa Kitô, bằng những hành động rình rập, bắt bẻ, chống đối và chụp bắt Người.

Phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu đã báo trước cho các tông đồ được Người sai đi rằng: "Thày sai các con đi như chiên giữa sói rừng" (Mathêu 10:16) và cảnh giác các vị về những gian nan khốn khó xẩy ra do đối phương gây ra cho các vị, nhưng Người trấn an và phấn khích các vị rằng: "Đừng sợ kẻ chỉ giết được sự sống phần xác nhưng không thể hủy diệt được linh hồn" (Mathêu 10:28)?

Ý nghĩa lời Chúa Giêsu sai các tông đồ đến với "con chiên lạc nhà Israel" rất hợp với bài đọc 1 hôm nay. Ở chỗ, trong khi dân ngoại Ai Cập được no đầy cơm gạo nhờ Giuse, một người em được cha là tổ phụ Giacóp thương yêu đặc biệt, nên đứa em này đã bị các anh ghen ghét ám hại.

Nhưng không ngờ mưu độc của các anh lại được Thiên Chúa quan phòng thần linh lợi dụng để biến Giuse thành quan đệ nhị nước Ai Cập, nhờ đó, qua Giuse, Ngài chẳng những cứu được đại gia đình của tổ phụ Do Thái Giacóp trong nạn đói bấy giờ mà còn mở con mắt lầm lạc của những người anh ác tâm, "những con chiên lạc nhà Israel" đầu tiên, như họ đã nhờ Giuse mà nhận biết lỗi lầm quá khứ của họ trong bài đọc 1 hôm nay:

"'Chúng ta phải chịu thế này thật xứng đáng, vì chúng ta đã phạm đến em chúng ta. Chúng ta đã thấy tâm hồn em chúng ta khổ sở, khi nó năn nỉ chúng ta tha cho nó, nhưng chúng ta không chịu nghe. Vì thế nên chúng ta phải chịu nỗi khốn khổ này'. Bấy giờ, một người trong anh em là Ruben nói rằng: 'Chớ thì tôi đã chẳng bảo anh em đừng có phạm đến đứa trẻ sao?'"

Bài Đáp Ca hôm nay chúc tụng Chúa (câu 1), bởi Ngài có thể thực hiện mọi sự theo ý định của Ngài, không ai có thể ngăn cản hay phá đám được (câu 2), như những gì Ngài đã định liệu cho đại gia đình tổ phụ Giacóp khi gặp nạn đói sau này, một ý định luôn thiên về thành phần kính sợ Ngài và tin tưởng cậy trông vào Ngài (câu 3), như Giuse trong bài đọc 1 hôm nay.
 
 

 

1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm; với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. 

2) Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Ngài còn mãi đời nọ sang đời kia. 

3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. 



Thứ Năm


Bài Ðọc I: (Năm I) St 44, 18-21. 23b-29; 45, 1-5

"Ðể cứu sống anh em mà Thiên Chúa đã sai em xuống Ai-cập trước anh em".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Giuđa lại gần mà nói thật thà với Giuse rằng: "Thưa ngài, xin ngài nghe tôi tớ của ngài nói đôi lời, xin ngài đừng phẫn nộ với tôi tớ của ngài, vì sau vua Pharaon ngài là chủ của tôi. Trước đây ngài đã hỏi các tôi tớ ngài rằng: "Các ngươi còn cha, còn đứa em nào nữa chăng?" Chúng tôi đã trả lời với ngài rằng: Chúng tôi còn cha già, và một đứa em út sinh ra lúc cha chúng tôi đã già. Anh áp út đã chết rồi: mẹ nó chỉ còn lại một mình nó, cha chúng tôi thương nó lắm. Vậy mà ngài đã bảo các tôi tớ ngài: "Hãy đem nó tới đây cho ta xem thấy nó". Chúng tôi đã thưa với ngài rằng: "Ðứa nhỏ không thể bỏ cha nó được". Nhưng ngài đã nói dứt khoát với các tôi tớ ngài rằng: "Nếu em út các ngươi không tới với các ngươi, thì các ngươi sẽ không thấy mặt ta nữa". Vậy khi chúng tôi trở về cùng tôi tớ của ngài là cha chúng tôi, chúng tôi đã thuật lại hết mọi điều ngài đã nói. Cha chúng tôi bảo rằng: "Các con hãy trở lại mua thêm ít lúa thóc nữa". Chúng tôi trả lời với người rằng: "Chúng con không thể đi được. Nếu em út đi với chúng con, thì chúng con cùng đi chung với nhau. Nếu em út không đi với chúng con, thì chúng con không dám đến trước mặt người". Cha chúng tôi nói: "Các con biết rằng bạn ta chỉ sinh ra cho ta hai đứa con trai, một đứa đã ra đi và các con đã nói nó phải thú dữ ăn thịt, và cho đến nay chưa thấy nó trở về; các con lại đem thằng này đi nữa, nếu dọc đường có gì rủi ro xảy đến cho nó, thì các con đưa cha già đầu bạc sầu não này xuống suối vàng cho rồi".

Khi ấy Giuse không thể cầm lòng nổi trước mặt mọi người đang đứng đấy, nên truyền cho mọi người ra ngoài, và không còn người nào khác ở đó lúc ông tỏ cho anh em biết mình, ông khóc lớn tiếng: những người Ai-cập và cả nhà vua đều nghe biết. Giuse nói với các anh em rằng: "Tôi là Giuse đây, cha còn sống không?" Các anh em sợ hãi quá nên không dám trả lời. Giuse nói với anh em cách nhân từ rằng: "Hãy đến gần tôi". Khi họ đến gần, ông lại nói: "Tôi là Giuse em các anh mà các anh đã bán sang Ai-cập. Các anh chớ khiếp sợ, và đừng ân hận vì đã bán tôi sang đất này, vì chưng để cứu sống các anh em mà Thiên Chúa đã sai tôi sang Ai-cập trước anh em".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 16-17. 18-19. 20-21

Ðáp: Các ngươi hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm (c. 5a).

Xướng: 1) Chúa đã gọi cảnh cơ hàn về trên đất nước, và rút đi mọi sự nâng đỡ bằng cơm bánh. Ngài đã sai một người đi trước họ: Giuse đã bị bán để làm nô lệ. - Ðáp.

2) Thiên hạ đã lấy xiềng để trói chân người, và cổ người bị cột bằng xích sắt, cho tới khi ứng nghiệm lời tiên đoán của người, lời của Chúa đã biện minh cho người. - Ðáp.

3) Vua đã sai cởi trói cho người, Chúa của chư dân cũng đã giải phóng người. Vua đã tôn người làm chủ của mình, và làm chúa trên toàn diện lãnh thổ. - Ðáp.

  

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 7-15

"Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy đi rao giảng rằng "Nước Trời đã gần đến". Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn.

"Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: "Bình an cho nhà này". Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy. Nhưng nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại. Thật, Thầy bảo các con: Trong ngày phán xét, đất Sôđôma và Gômôra sẽ được xét xử khoan dung hơn thành ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

The Gospel of the day: 7th July – Archdiocese of Malta

 


Thái độ "giũ bụi chân" của một vị tổ phụ


Bài Phúc Âm cho ngày Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên hôm nay, cũng như cho 2 ngày còn lại trong tuần này, đều chất chứa những lời huấn dụ của Chúa Giêsu về sứ vụ được sai đi của các tông đồ.

Riêng trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã căn dặn và nhắn nhủ các tông đồ 4 điểm chính yếu sau đây: sứ điệp rao giảng (1); năng lực rao giảng (2); tinh thần rao giảng (3); thái độ giao tiếp (4).

1- Sứ điệp rao giảng - Nước Trời: "Các con hãy đi rao giảng rằng 'Nước Trời đã gần đến'". Nếu các tông đồ được tuyển chọn trong số các môn đệ là để làm chứng cho Chúa Kitô, và nếu các vị được sai đến với riêng "con chiên lạc nhà Israelđược cho là thành phần biệt phái và luật sĩ ở Galilêa, thì "Nước Trời" đây có thể hiểu là chính Chúa Kitô mà thành phần biệt phái và luật sĩ ở Galilêa là những "con chiên lạc nhà Israel" cần phải tin tưởng để được cứu độ và nên công chính thực sự.

2- Năng lực rao giảng - Cứu chữa: "Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ". Nếu "Nước Trời" được hiểu là chính Chúa Kitô là Đấng các tông đồ được Người sai đi rao giảng, mà Chúa Kitô "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10), thì các tông đồ là môn đệ của Người cũng được Người thông ban cho quyền năng cứu chữa của Người và như Người, một quyền năng cứu độ nhân loại mà thành phần luật sĩ và biệt phái lãnh đạo tinh thần của dân chúng không thể nào có được.

3- Tinh thần rao giảng - Tin tưởng: "Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn". Vì sứ vụ rao giảng của các tông đồ được Chúa Kitô trao cho thì đó là việc của Người làm qua các vị, hơn là chính công việc "của" các vị, nên các vị không cần phải lo toan những gì phụ thuộc liên quan đến bản thân của các vị, mà chỉ cần lưu ý đến những gì trực tiếp liên quan đến sứ vụ rao giảng của các vị. 

4- Thái độ rao giảng - Khách quan vô tư: "Nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại". Tất nhiên, ở đâu cũng thế, với ai cũng vậy (kể cả với chính Chúa Kitô), có người ủng hộ, tin tưởng, và có người coi thường, không ưa. Phần các tông đồ, sau khi đã hết sức chu toàn sứ vụ rao giảng của mình đúng như những gì Chúa Kitô mong muốn mà vẫn không gặt hái được thành quả mong muốn thì hãy cứ bình an, không cần phải lo gì hết, các vị không phải chịu trách nhiệm ("giũ bụi chân") về những ai không nghe.

Trong bài đọc 1 hôm nay, sau khi nghe tâm sự của chung 10 người anh và riêng người cha của mình liên quan đến người con út trong gia đình, được Giuđa là người con trong 12 anh em của tổ phụ Giacóp đại diện thành thật thân thưa bày tỏ với mình bấy giờ là tể tướng của một đại quốc Ai Cập, thì bấy giờ: "Giuse không thể cầm lòng nổi trước mặt mọi người đang đứng đấy, nên truyền cho mọi người ra ngoài, và không còn người nào khác ở đó lúc ông tỏ cho anh em biết mình, ông khóc lớn tiếng: những người Ai-cập và cả nhà vua đều nghe biết". 

Câu nói của Giuse ở cuối bài đọc 1 hôm nay cho thấy Giuse quả thực, như các tông đồ được Chúa Kitô sai đi rao giảng cho "chiên lạc của Nhà Israel", đã nói cho 10 người anh là những "chiên lạc của Nhà Israel" đầu tiên, về quá khứ của họ ra tay mưu hại Giuse, về "Nước Trời" là ý định thần linh vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa, kèm theo thái độ của Giuse đối với các anh bằng việc "giũ bụi chân" không chấp nhất các anh của mình, như sau: "Tôi là Giuse em các anh mà các anh đã bán sang Aicập. Các anh chớ khiếp sợ, và đừng ân hận vì đã bán tôi sang đất này, vì chưng để cứu sống anh em mà Thiên Chúa đã sai tôi sang Aicập trước anh em".

Bài Đáp ca hôm nay đã nói về chính bản thân và thân phận cùng sứ vụ của Giuse trong dự án thần linh của Thiên Chúa và trong lịch sử cứu độ của Dân do Thái như sau:

1) Chúa đã gọi cảnh cơ hàn về trên đất nước, và rút đi mọi sự nâng đỡ bằng cơm bánh. Ngài đã sai một người đi trước họ: Giuse đã bị bán để làm nô lệ. 

2) Thiên hạ đã lấy xiềng để trói chân người, và cổ người bị cột bằng xích sắt, cho tới khi ứng nghiệm lời tiên đoán của người, lời của Chúa đã biện minh cho người. 

3) Vua đã sai cởi trói cho người, Chúa của chư dân cũng đã giải phóng người. Vua đã tôn người làm chủ của mình, và làm chúa trên toàn diện lãnh thổ. 







Ngày 13/7 - Thánh Henry II

 

Thánh Henri II, hoàng đế

 

 

Chuyện về cuộc đời thánh Henry II kể lại rằng[1]:  Thánh Henry II sinh năm 972 tại Đức. Năm 23 tuổi (995) ngài trở thành công tước miền Bavaria. Một đêm kia, Henry nằm mộng. Henry thấy thánh Wolfgang (Vót-cang), là thầy giáo rất yêu chuộng của Henry thời thơ ấu, hiện ra với ngài. Wolfgang chỉ tay vào hai chữ “sau sáu” được viết trên bức tường. Henry tự hỏi điều đó có ý nghĩa gì? Có lẽ sáu ngày nữa Henry sẽ chết chăng? Sau sáu ngày hết lòng cầu nguyện và sám hối, Henry vẫn sống. Vậy là sáu tháng chăng? Henry lại tận tụy hết mình làm những việc thiện hơn bao giờ hết. Sau sáu tháng, Henry II càng mạnh khỏe hơn trước kia. Vậy là chỉ còn sáu năm để sống ở trần gian này nữa chăng? Thế nhưng, sáu năm trôi qua, thay vì qua đời, thánh Henry II lại được chọn làm hoàng đế nước Đức. Lúc đó, thánh nhân mới hiểu được toàn bộ ý nghĩa của thị kiến trước đây…

Năm 42 tuổi (1014), Henry II và hoàng hậu đến Roma và được phong vương cai trị Rôma. Cả đức vua lẫn hoàng hậu được chính đức thánh cha Bênêđictô VIII đội vương miện cho. Phải nói rằng, vua Henry II là một trong những nhà lãnh đạo tài giỏi vào bậc nhất của Rôma. Đối với thần dân, ngài ra công làm việc để giúp họ an vui hiệp nhất, ngài hết mực sống công bình, công tâm và luôn yêu cầu các tướng sĩ của ngài phải biết quý trọng danh dự. Đối với Giáo hội, ngài lưu tâm đến việc canh tân Giáo hội, xây dựng nhiều đại giáo đường, cải tạo nhiều nhà thờ, lập thêm các tòa giám mục, ngài tỏ lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu và Giáo hội bằng tấm lòng chân thành. Đối với bản thân, ngài là một người năng cầu nguyện và rất ham mộ đời sống đạo đức. Đối với gia đình, ngài đã thực hiện vai trò làm chồng với đầy lòng quảng đại và trách nhiệm. Ngày 13/7/1024, Henry II qua đời lúc 52 tuổi.

Nhận ra dấu chỉ của Chúa để thay đổi cuộc đời hướng đến phục vụ Chúa và Hội thánh đó là điều quan trọng thiết yếu của đời sống. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với người trẻ rằng: “Ơn gọi bản thân của riêng các bạn không chỉ hệ tại ở việc làm của các bạn, mặc dù đó là một cách biểu hiện. Ơn gọi của các bạn là một điều gì hơn điều đó nhiều: đó là một nẻo đường hướng dẫn nhiều nỗ lực và hành động của các bạn đối với việc phục vụ người khác.”[2]
 Thánh Henry II đã làm được điều này. Từ khi nhận được dấu chỉ, ngài đã ân cần chăm lo cho Hội thánh mới thiết lập được bình an và yên ổn, ngài “đặt lợi lộc trần gian xuống hàng thứ yếu, để cố đạt được nơi vĩnh cửu ở trên trời. Thật vậy, vinh quang hiện tại thật là mau qua và phù phiếm mà một khi hưởng thụ, người ta không còn nghĩ tưởng gì đến sự vĩnh cửu trên trời. Nhưng tình thương Chúa đã tiên liệu một phương dược hữu ích cho con người: Người ban cho chúng tôi của cải trần gian làm phương thế mua lấy một chỗ ở trên quê trời.”[3]

Phải nhìn nhận rằng, nhiều khi chúng ta và đặc biệt là các người trẻ tự cảm thấy mình chưa được trang bị đầy đủ và thích hợp cho việc đáp trả lại các dấu chỉ của Chúa, cả về phương diện kỹ năng lẫn phương diện phẩm chất đức hạnh. Chúng ta thường e sợ và lo ngại. ĐTC Phanxico cũng đã nói với những người trẻ: “Hỡi những người trẻ, các con là hiện tại, vì các con sống tích cực, cống hiến một sự đóng góp quyết định và quảng đại bởi sự lựa chọn của các con; đồng thời các con cũng là tương lai, vì sắp tới các con sẽ được mời gọi nắm giữ việc hướng dẫn linh hoạt, huấn luyện, phục vụ, và công tác truyền giáo… Trong tình hiệp thông huynh đệ, các con sẽ làm cho mình nên phong phú…, góp phần mở tung ra sự tươi mát và hăng say của các con, cùng nhau đưa ra các hình thức mới để sống Phúc Âm và các câu trả lời thích hợp cho việc chứng tá và loan báo Tin Mừng.

Nhờ lời chuyển cầu của thánh Henry II, xin Chúa cho chúng con nhìn ra và đáp lại tiếng Chúa qua các dấu chỉ Chúa gởi đến cho chúng con hằng ngày.

Henry đệ nhị tài ba
Làm vua nước Đức khi là quận công.
Hồng ân Thiên Chúa nhưng không,
Phong vương cho kẻ một lòng tín trung.
Rôma đế quốc trùng phùng
Trung tâm Giáo hội oai hùng thánh đô
Phong ba bão táp vô bờ
Tuy nhiên, được vững cũng nhờ Henry
Kỷ cương đạo đức ai bì
Dựng xây Nước Chúa không gì lung lay
Gương cho người trẻ ngày nay
Quyền hành giàu có chẳng lay tâm hồn
Một lòng vì Chúa chí tôn
Đời nay hạnh phúc, trường tồn đời sau. Amen

[1] Susan Helen Wallace, FSP. Các thánh dành cho bạn trẻ ngày 13/7, Đa Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC chuyển ngữ.
http://tinmung.net/CACTHANH/DanhChoBanTre/CacThanhBanTreINDEX.htm
[2] Đức Thánh Cha Phanxico, Tông huấn Christus Vivit, số 255.
[3] Trích hạnh thánh Henry của một tác giả xưa. Bđ 2, BĐKS ngày 13/7.

 

http://daminhrosalima.net/phut-cau-nguyen-moi-ngay/ngay-137---thanh-henry-ii-29484.html

 

 

Thánh Henry II sinh năm 972. Ngài trở thành công tước miền Bavaria năm 995. Một đêm kia, Henry nằm mộng. Henry thấy thánh Wolfgang, là thầy giáo rất yêu chuộng của Henry thời thơ ấu, hiện ra với ngài. Wolfgang chỉ tay vào hai chữ “sau sáu” được viết trên bức tường. Điều đó có ý nghĩa gì? Có lẽ sáu ngày nữa Henry sẽ chết chăng? Nghĩ như vậy nên ngài đã cầu nguyện hết sức tha thiết. Tuy nhiêu, sáu ngày trôi qua và sức khỏe Henry vẫn tốt đẹp. Vậy có lẽ là sáu tháng chăng? Vị công tước Bavaria lại tận tụy hết mình làm những việc thiện hơn bao giờ hết. Sau sáu tháng, Henry II vẫn mạnh khỏe hơn cả trước kia nữa. Vậy Henry II lại nghĩ rằng ngài chỉ còn sáu năm để sống ở trần gian này nữa thôi. Thế nhưng sáu năm trôi qua, thay vì qua đời, thánh Henry II lại được chọn làm hoàng đế nước Đức. Lúc đó, thánh nhân mới hiểu được toàn bộ ý nghĩa của thị kiến trước đây.

Thánh Henry II đã ra công làm việc để giúp cho thần dân của ngài được an vui và đất nước được hiệp nhất. Để bảo vệ sự công bình, Henry II đã tổ chức nhiều cuộc chinh chiến. Trong các trận chiến, Henry II rất có công tâm và ngài cũng yêu cầu các tướng sĩ của ngài phải biết quý trọng danh dự. Khoảng năm 998, Henry II kết hôn với một phu nhân hiền lành và dễ thương tên là Cunêgun. Đến năm 1014, Henry II và Cunêgun sang Rôma và được phong vương cai trị Rôma. Đó là một vinh dự lớn lao vì cả đức vua lẫn hoàng hậu được chính đức thánh cha Bênêđictô VIII đội vương miện cho.

Vua Henry II là một trong những nhà lãnh đạo tài giỏi nhất của Rôma. Ngài đã đề đạt việc canh tân Giáo hội, khuyến khích phát triển những tu viện mới thành lập và xây cất nhiều ngôi thánh đường nguy nga tráng lệ. Henry II bày tỏ lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu và Giáo hội bằng tấm lòng chân thành. Thánh nhân là một người năng cầu nguyện và rất ham mộ đời sống đạo đức. Ngài đã thực hiện vai trò làm chồng và làm người lãnh đạo với đầy lòng quảng đại và trách nhiệm. Khi qua đời năm 1024, Henry II mới 52 tuổi. Đến năm 1146, Henry II được đức chân phước giáo hoàng Êugiêniô III tôn phong hiển thánh. Đức thánh giáo hoàng Piô X đã đặt vua thánh Henry II làm bổn mạng của các hội viên sống tinh thần thánh Bênêđictô. 

Thiên Chúa mời gọi mọi người, trong mọi nghề nghiệp và mọi lãnh vực của đời sống, nên thánh. Đừng ai nghĩ rằng mình quá bận rộn hoặc quá quan trọng đến nỗi không thể đặt Thiên Chúa lên trên đời sống của mình. Thật ra, khi Thiên Chúa được đặt lên trên hết, thì mọi thứ khác sẽ tự có chỗ cho riêng nó. Đối với chúng ta, Thiên Chúa phải được đặt ở vị thế ưu tiên số một.

Biên dịch: Đa Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC

http://mtgcaimon.net/mtgnews/index.php/suy-niem/hanh-cac-thanh/4493-ngay-13-thang-7-thanh-henry-ii.html

 

Gương Thánh nhân: Thánh Hen-ri sinh năm 973, nước Đức, thuộc gia đình vương giả quý tộc. Lớn lên, Ngài được Đức Giám mục giáo phận Ra-tít-bon giáo dục đạo đức, và đã khấn giữ mình đồng trinh cho đến chết.

Nhưng cha mất sớm, Thánh nhân phải thay cha làm vua miền Ba-vi-ê. Ngài phải vâng lời mẹ lập gia đình. Nhưng Chúa quan phòng hướng dẫn Ngài cưới cô Cu-nê-gon-đa, một thiếu nữ xinh đẹp cả thể xác lẫn tâm hồn, chính cô cũng đã hứa với Chúa sống đời độc thân. Thế là cả hai sống với nhau như bạn thân cho đến chết.

Thánh nhân làm vua, cai trị nước Đức cả nước Ý, và được Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô thứ 8 tấn phong hoàng đế vào năm 1014. Ngài là một vị hoàng đế thông minh nhân đức, tính tình hiền hậu nhân ái, được toàn dân quý mến kính chuộng. Công việc trước tiên Ngài thực hiện là tái lập trật tự an ninh, công bằng xã hội, cho người dân được an cư lạc nghiệp. Ngài đi khắp nước dẹp loạn, chống áp bức bất công; đến đâu Ngài cũng tìm gặp những người nghèo khổ, kẻ thất nghiệp, giải quyết công ăn việc làm cho họ.

Và mặc dầu việc nước đa đoan. Thánh nhân cũng hết lòng lo giúp việc đạo. Ngài chọn những người tài đức lên làm Giám mục cai quản các giáo phận trong khắp cả nước Ý và nước Đức, đồng thời thành lập thêm nhiều giáo phận mới, mở mang Giáo hội, canh tân các dòng tu, xây dựng Thánh đường, như lời một tác giả đã viết về Ngài:

“Khi người tôi tớ thánh thiện của Thiên Chúa được xức dầu làm vua, Ngài không lấy việc lo cho phần đời làm đủ, nhưng để được triều thiên bất tử, Ngài còn lo chiến đấu cho Vua Cả trời đất, vì phục vụ Người là cai trị vậy. Thế nên Ngài ân cần mở mang đạo thánh làm cho các nhà thờ có tư hữu và trang hoàng lộng lẫy các nhà thờ đó. Ngài lấy chính đất của mình mà lập toà Giám mục Bam-béc, chọn hai Thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô với Thánh Gio-gi-ô tử đạo làm bổn mạng cho toà Giám mục ấy, lập hợp đồng đặc biệt giữa toà Giám mục và Toà Thánh Rô-ma, để quy về cho ngôi toà độc nhất cái vinh dự như ý Chúa muốn, và để làm cho toà Giám mục mới nhờ sự bảo trợ ấy mà được vững chắc hơn”.

“Để cho mọi người thấy rõ người tôi tớ thánh thiện của Chúa đã lo lắng đến mức nào cho giáo phận mới nầy được bình an và êm thắm, ngay cả trong tương lai nữa, thì chúng tôi xin trích dẫn mẫu thư dưới đây để làm bằng chứng:

“Hen-ri nhờ lòng từ ái quan phòng của Chúa mà được làm vua, xin gởi lời thăm tất cả con cái trong Hội thánh, bây giờ và sau nầy. Chúng ta được Kinh Thánh dạy dỗ và nhắc nhở bằng những giáo huấn hết sức tốt lành, là phải từ bỏ của cải phù vân và đưa các lợi ích trần gian nầy xuống hàng thứ yếu, để lo cho được nơi cư ngụ vĩnh viễn ở trên trời…”

“Thế nên trẩm không hề quên ơn thương xót đó, cũng hằng ý thức rằng: nhờ lương hải hà nhưng không của Chúa mà được vinh dự hoàng đế nầy. Và vì vậy, trẩm nghĩ các việc sau đây thật là hợp lý: Không những trẩm phải trang hoàng thêm cho các đền thờ mà các bậc tiên vương đã xây dựng, mà để sáng danh Chúa hơn, trẩm còn phải xây dựng thật nhiều đền thờ khác và công đức nhiều vào đó để bày tỏ lòng đạo đức và biết ơn”.

Thánh nhân qua đời ngày 13 tháng 7 năm 1024, sau khi đã tận lực phục vụ Thiên Chúa và đồng loại.

Quyết tâm: Noi gương Thánh Hen-ri, hằng ngày lo làm tròn bổn phận đối với gia đình, và quê hương xứ sở, đồng thời cũng hết lòng giúp việc Chúa và phục vụ Hội thánh Người.

Lời nguyện: Lạy Chúa, Cha đã ban cho Thánh Hen-ri được đầy tràn ân sủng và đưa Thánh nhân từ ngai báu trần gian lên hưởng vinh quang thiên quốc. Vì lời Thánh nhân chuyển cầu, xin ban cho chúng con giữa cuộc sống hay thay đổi nầy, biết giữ lòng trong sạch ngay thẳng, mà mau bước tiến về cùng Chúa.

GPVL

http://giaoxutanviet.com/13-thang-bay-thanh-henry-ii-972-1024/

 

Thánh Henri sinh năm 972. Cha Ngài là Henri bá tước xứ Bavière. Mẹ Ngài là Gisèle, con gái của Conrad, vua miền Bourgogne. Để bảo đảm cho việc giáo dục con cái, Ngài được mẹ giao phó cho các thầy dòng ở Mildeshim, miền Saxe, rồi sau đó cho thánh Wolfgang, giám mục Ratisbonne.

Nhưng thật rủi ro, trong một năm, Henri đã chịu hai cái tang cha và thầy.

Thánh Wolfgang từ trần ngày 30 tháng 10 năm 994 và vua Henri từ trần ngày 28 tháng 12 năm 994. Tuy nhiên ở bên kia thế giới các Ngài dường như không ngừng săn sóc Henri. Một truyền thuyết kể rằng: Henri đã mơ thấy thánh Wolfgang hiện ra viết trên tường nhà thờ hai chữ “còn sáu”. Tỉnh dậy, Henri nghĩ rằng mình chỉ còn sống được sáu ngày nữa. Ngài vội vã bố thí rộng rãi để chuẩn bị ra trước tòa Chúa. Nhưng rồi hạn định đã qua Henri vẫn sống. Vị bá tước nghĩ rằng Ngài còn sáu tháng để làm việc lành. Sáu tháng trôi qua Ngài vẫn sống. Lần này Ngài nghĩ thời hạn kéo dài 6 năm và cố gắng sống hoàn hảo hơn nữa. Sau 6 năm trong trường nhân đức ấy, Henri bỗng được chọn làm hoàng đế nước Đức -Roma.

Trước khi lên ngai hoàng đế, Henri đã kế vị người cha từ trần, lên làm bá tước miền Bavière. Các lãnh Chúa thân thiết với Ngài. Dân chúng cũng cảm mến Ngài sâu xa. Họ ao ước bá tước trẻ của mình lập gia đình. Nhưng Ngài đã hứa với Chúa sẽ sống độc thân. Vì vâng lời mẹ và dưới áp lực của các lãnh Chúa. Ngài nhận cưới Cunégonda, một thiếu nữ trong số 11 người con của công tước miền Luxembourg.

Nàng có sắc đẹp mặn mà và nhiều đức tính làm cho mọi người mến phục. Sau các lễ nghi cưới hỏi, lúc về chốn riêng tư, Henri mở lời với người bạn đời: – Em yêu, anh không muốn em không hay biết rằng anh đã thề với Chúa sẽ hiến dâng hồn xác phụng sự Ngài, và vì tình yêu Chúa Giêsu Kitô, anh muốn tiếp tục hoàn toàn.

Và Cunégonde vui sướng trả lời: – Chúa công của em, lời khấn hứa, em cũng đã hứa rồi. Thật hạnh phúc, chúng ta có thể trung thành với những ước nguyện của chúng ta.

Đó là đám cưới tinh tuyền của Henri và Cunégonde. Hoàng đế Henri lên ngôi và được Đức Giám mục thành Mayence xức dầu phong vương năm 1002. Mấy hôm sau hoàng hậu Cunégonde cũng được truy phong và đội triều thiên ở giáo đường Paderbonne. Với tính tình vui vẻ, bình dân và đầy lòng bác ái, hoàng đế rất được dân chúng mến chuộng. Nhưng đế quốc Đức – Roma lúc ấy đang thời suy vong và tình hình rất phức tạp. Vì thế việc đầu tiên của hoàng đế là lo giải hoà các cuộc tranh chấp. Trước hết, Ngài nhường quyền bá tước miền Bavière chi Henri, người Luxembourg.

Tuy nhiên có thể nói rằng: suốt đời hoàng đế, Ngài luôn phải lo vãn hồi trật tự trong đế quốc. Ngay khi lên ngôi hoàng đế, Ngài mang quân sang chinh phục đất Ý, là nơi Arduin tự phong làm vua, tách rời khỏi đế quốc. Dẹp tan đối phương ở biên giới, gần núi Alpes, Ngài đã được dân chúng tưng bừng đón rước. Đức Tổng Giám mục Milanô phong vương cho Ngài tại Pavie. Trở về nước Ngài lại phải đối phó với Boleslaw, xứ Balan. Mấy năm sau, Boleslaw bị quân nhà vua đánh tan và Jarômia lên quản trị xứ Balan.

Bất đắc dĩ, vua Henri mới phải dùng đến binh lực, nhưng Ngài luôn tỏ ra nhân từ. Chẳng hạn Hermann vì muốn tiếm ngôi, đã đốt phá thành Strabourg. Trước lời khuyên nên trả thù thành phố dung dưỡng Hermann, hoàng đế trả lời: – Thiên Chúa trao quyền tối thượng cho ta, không phải là mang đến quanh ta những sát nhân và cướp bóc, nhất là không phải để cho ta phải thiệt mất linh hồn.

Lời này đến tai Hermann và ông ta hối cải.

Hoàng đế Henri bảo vệ Đức giáo hoàng Bênêditô chống lại đức giáo hoàng giả. Nhờ Ngài. Đức giáo hoàng nghĩ tới một Giáo hội trần thế, đã trao cho Ngài một trái cầu bằng vàng có cắm thánh giá để biểu trưng quyền hạn trao phó của Ngài, lo cho vương quyền Chúa Kitô phổ biến khắp muôn dân. Trở lại quốc gia, Ngài vội lo dẹp loạn ở Lombardie. Rồi với nhiệt tình, Ngài đã viếng tu viện Cluny. Ơ đó cầu nguyện lâu ngày và tặng cho tu viện món quà của Đức giáo hoàng.

Hoàng đế sống trong cung điện như trong tu viện và chỉ nghĩ tới hòa bình và đức ái. Ngài góp phần cải hóa dân Hungarie bằng việc gả em gái mình cho vua thánh Stêphanô. Để gây thuận hòa giữa các dân tộc, Ngài thực hiện cuộc gặp gỡ vua Robert nước Pháp. Đối với Giáo hội, Ngài lo trùng tu các thánh đường, giúp đỡ các giám mục. Đặc biệt hơn cả, Ngài đã thành lập giáo phận Banberg và chính tại nhà thờ chính tòa giáo phận này Ngài sẽ được mai táng.

Trên ngôi hoàng đế, Ngài luôn trung thành với lý tưởng. Giữa muôn công việc bề bộn, Ngài luôn dành thời gian cho việc cầu nguyện. Tương truyền rằng ao ước lớn lao nhất của Ngài là được sống trong tu viện. Lần kia, Ngài tới thăm tu viện thánh Vanne ở Verdun. Ngài đã xin với chân phước Richasd, tu viện trưởng nhận Ngài làm tu sĩ. Đức Đan viện phụ nói rằng: chỗ an toàn của vị hoàng đế là ở trên ngai tòa hơn là ở trong tu viện. Khi thấy vị hoàng đế khẩn nài, Đức Đan viện phụ hỏi: – Ngài có sẵn sàng thực hiện đức vâng lời cho đến chết không ?

Hoàng đế Henri cương quyết trả lời : – Con sẵn sàng.

Đức Đan viện phụ liền nhận Ngài như một tu sĩ của dòng và nhân danh đức vâng lời, truyền cho Ngài cai quản đế quốc để hiến thân tìm vinh quang Chúa và ông cứu rỗi cho thần dân.

Ngày 15 tháng 7 năm 1024 hoàng đế Henri từ trần, ai khi đã dùng trọn sức lực để xây dựng một đế quốc theo tinh thần Kitô giáo. 

 

http://yeuthuongphucvu.com/2019/07/12/thanh-henri-973-1024-ngay-13-7/

 



Thứ Sáu

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 46, 1-7. 28-30

"Cha chết cũng vui lòng, vì Cha đã trông thấy mặt con".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, ông Israel ra đi, đem theo tất cả những gì ông có và đến Giếng Thề; tại đây ông dâng hy tế lên Thiên Chúa của Isaac, cha của ông. Ban đêm trong một thị kiến, ông nghe Chúa gọi ông và nói với ông rằng: "Hỡi Giacóp, Giacóp!" Ông liền thưa: "Này con đây". Thiên Chúa nói tiếp: "Ta là Thiên Chúa rất hùng mạnh của cha ngươi, nên ngươi đừng sợ, hãy xuống xứ Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ xuống đó với ngươi. Cũng chính Ta sẽ đưa ngươi trở về, (sau khi) tay Giuse đã vuốt mắt cho ngươi".

Bấy giờ Giacóp bỏ Giếng Thề mà đi: các con cái đưa ông và vợ con lên các xe Pharaon đã phái đến rước cha già và tất cả những gì ông có ở Canaan; ông sang Ai-cập với tất cả dòng dõi ông, gồm con trai, con gái và cháu chắt.

Bấy giờ Giacóp sai Giuđa đi trước báo tin cho Giuse biết mà đón rước cha tại Ghêsen. Khi ông đến đó, thì Giuse thắng xe đi đón cha tại Ghêsen. Vừa thấy cha, ông ôm cổ cha mà khóc. Giacóp nói với Giuse rằng: "Cha chết cũng vui lòng, vì cha đã trông thấy mặt con và biết con còn sống".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 36, 3-4. 18-19. 27-28. 39-40

Ðáp: Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ (c. 39a).

Xướng: 1) Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu. - Ðáp.

2) Chúa chăm lo cho mạng sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời. Ngày tai hoạ, những người đó không tủi hổ, và trong nạn đói, họ sẽ được ăn no. - Ðáp.

3) Hãy tránh ác và hãy làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu, bởi vì Chúa yêu điều chân lý, và không bỏ rơi những tôi tớ trung thành. - Ðáp.

4) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ: trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân, Chúa bang trợ và giải thoát họ. Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người. - Ðáp. 

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy vào Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 16-23

"Không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.

"Anh sẽ đem nộp giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến".

Ðó là lời Chúa.

 

Mt 10: 16-23 - GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG


"khi người ta bắt bớ các con trong thành này, hãy trốn sang thành khác" 

tức là "Ta sẽ xuống đó với ngươi. Cũng chính Ta sẽ đưa ngươi trở về"


 

Tiếp tục bài huấn dụ sai đi của mình với các tông đồ, trong bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XIV Thường Niên tuần này, Chúa Giêsu nói đến số phận gian nan khốn khổ bất khả phân ly với sứ vụ chứng nhân của các vị. 

 

 

"Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết". 


Thế nhưng, Chúa Giêsu đồng thời cũng trấn an các vị với 3 điều để các vị có thể tin tưởng chống đỡ, khôn ngoan tồn tại cho đến khi hoàn thành sứ vụ của các vị như sau:

 

"Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.


... Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến".


Điều thứ nhất trong 3 điều này đó là tin tưởng chống đỡ: "khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con". Đúng thế, vì là việc của Thiên Chúa, Ngài sẽ lo việc của Ngài và bảo vệ thành phần thừa sai của Ngài, nhất là trong những lúc chúng từ của họ lên đến mức tột đỉnh và hùng hồn nhất.


Điều thứ hai trong ba điều đó là khôn ngoan tồn tại: "Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác". Ở đây Chúa Giêsu cho phép các tông đồ được trốn tránh những bách hại xẩy ra, không phải vì sợ chết cho bằng vì lợi ích cho chung đoàn chiên, không phải vì liều lĩnh cho bằng quí trọng mạng sống. Chính Chúa Giêsu mấy lần cũng tự thoát khỏi tay những kẻ tìm bắt Người khi chưa tới giờ của Người (xem Luca 4:30; Gioan 8:59).


Điều thứ ba trong ba điều đó là hoàn thành sứ vụ: "Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến". Câu này có thể Chúa Giêsu ám chỉ đến Cuộc Vượt Qua của Người hơn là đến việc Người tái giáng lần thứ hai. Nghĩa là các tông đồ chưa rao giảng xong cho thành phần "chiên lạc của Nhà Israel" thì đã đến thời điểm các vị cần phải theo Người lên Giêrusalem, nơi Người 3 lần đã tiên báo cho các vị về số phận kết thúc của Người ở đó.


Nếu "khi người ta bắt nộp các con, các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì?" và "khi người ta bắt bớ các con trong thành này, hãy trốn sang thành khác" thì cũng thế, trong bài đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, khi đại gia đình của tổ phụ Giacóp gặp nạn đói ở đất Canaan, Thiên Chúa cũng đã lo liệu trước mọi sự cho tổ phụ Giacóp cùng với toàn thể đại gia đình 72 người của ông, trong việc tỏ cho ông biết ý định của Ngài muốn gia đình ông lánh nạn sang Ai Cập để tránh nạn đói này ở Canaan là nơi Ngài đã hứa ban đất ấy cho dân Do Thái, và cũng là nơi Ngài còn hứa với chính tổ phụ Giacóp rằng Ngài sẽ đem họ từ Ai Cập trở về mảnh đất hứa này:

 


"Ta là Thiên Chúa rất hùng mạnh của cha ngươi, nên ngươi đừng sợ, hãy xuống xứ Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ xuống đó với ngươi. Cũng chính Ta sẽ đưa ngươi trở về, (sau khi) tay Giuse đã vuốt mắt cho ngươi".

 


Bài Đáp Ca hôm nay đã bày tỏ cảm nhận tin tưởng cậy trông nơi Vị Thiên Chúa quan phòng thần linh đầy quyền năng và yêu thương, nhất là trong lúc những gian nan khốn khó:


1) Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu. 

2) Chúa chăm lo cho mạng sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời. Ngày tai hoạ, những người đó không tủi hổ, và trong nạn đói, họ sẽ được ăn no. 

3) Hãy tránh ác và hãy làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu, bởi vì Chúa yêu điều chân lý, và không bỏ rơi những tôi tớ trung thành. 

4) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ: trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân, Chúa bang trợ và giải thoát họ. Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người. 

 

 

Thánh Kateri Tekakwitha

(1656-1680)

 

 

14 Tháng Bảy Thánh Kateri Tekakwitha (1656-1680) – HUYNH ...

 

 

Máu các vị tử đạo là hạt giống nẩy sinh các thánh. Chín năm sau khi các linh mục dòng Tên là Cha Isaac Jogues và Jean de Brebeuf bị các thổ dân da đỏ Huron và Iroquois tra tấn cho đến chết, một bé gái đã chào đời gần nơi các vị tử đạo, ở Auriesville, Nữu Ước. Cô là thổ dân da đỏ đầu tiên thuộc vùng Bắc Mỹ được phong chân phước. Mẹ cô là một Kitô Hữu người Algonquin, bà đã bị người Iroquois bắt và buộc phải làm vợ của tù trưởng bộ lạc Mohawk, là bộ lạc dũng cảm và tàn bạo nhất trong Ngũ Quốc.

 

Khi lên bốn tuổi, Kateri mất cha mẹ và cả đứa em trai trong trận dịch đậu mùa mà chính cô cũng bị gần như mù và khuôn mặt bị méo mó. Cô được một người chú đem về nuôi sau khi ông lên kế vị cha cô làm tù trưởng. Ông không thích các tu sĩ A¨o Đen nhưng ông không thể làm gì được vì một thỏa ước ký kết với Pháp, buộc phải có sự hiện diện của tu sĩ trong các làng có người Kitô Giáo bị bắt giữ. Kateri rất thích nghe các vị tu sĩ A¨o Đen giảng thuyết, nhưng chú cô lại sợ rằng cô sẽ theo đạo Công Giáo. Thật vậy, khi lên 19 tuổi, sau khi từ chối lời cầu hôn của một thanh niên Mohawk, vào Chúa Nhật Phục Sinh, cô đã được rửa tội và lấy tên thánh là Kateri (Catarina).

 

Bây giờ cô bị đối xử như một người nô lệ. Vì cô không làm việc ngày Chúa Nhật nên cô không được lãnh thực phẩm trong ngày ấy. Đời sống ơn sủng của cô gia tăng mau chóng. Cô nói với một vị thừa sai rằng cô thường suy niệm về ơn cao trọng khi được rửa tội. Cô rất cảm kích bởi tình yêu mà Thiên Chúa dành cho loài người và cô nhìn thấy phẩm giá nơi mỗi một người dân. Cô luôn luôn trong tình trạng nguy hiểm, vì sự trở lại đạo và đời sống thánh thiện của cô đã tạo nên sự chống đối dữ dội. Theo lời khuyên của một linh mục, một đêm kia cô bỏ trốn và đi bộ 200 dặm đến một làng da đỏ Công Giáo ở Sault St. Louis, gần Montreal (Gia Nã Đại).

 

Trong ba năm, Kateri ngày càng thánh thiện dưới sự dẫn dắt của một linh mục và một bà người Iroquois. Cô hiến mình cho Thiên Chúa qua những giờ cầu nguyện, làm việc bác ái và tích cực ăn chay hãm mình. Từ sáng sớm cô đã đứng chờ nơi cửa nhà thờ để dự lễ lúc 4 giờ sáng và ở lại đó cho đến Thánh Lễ cuối cùng. Cô đặc biệt sùng kính Thánh Thể và Đức Giêsu trên Thánh Giá.

 

Vào năm 23 tuổi, Kateri thề giữ mình đồng trinh, đó là một hành động bất thường của một phụ nữ da đỏ, là người chỉ sống nhờ vào chồng. Cô lập một cái chòi trong rừng vắng để cầu nguyện hàng ngày và bị dèm pha là để gặp gỡ một người đàn ông! Việc cô thề giữ mình đồng trinh là một hành động theo bản năng, vì cô không biết trong Giáo Hội có đời sống tu trì dành cho nữ giới, mãi cho đến khi cô đến Montréal. Thấy vậy, cô phấn khởi cùng với hai người bạn định tâm thành lập một tu hội, nhưng vị linh mục địa phương đã ngăn cản cô. Rất khiêm tốn, cô chấp nhận một cuộc sống "bình thường" mà trong đó, cô ăn chay hãm mình một cách khắt khe như để đền tội cho dân tộc của cô.

 

Vào ngày 7 tháng Tư 1680, cô từ trần vào buổi tối trước Thứ Năm Tuần Thánh, mới hai mươi bốn tuổi. Các nhân chứng cho biết, lúc ấy khuôn mặt hốc hác của cô đổi màu và tươi tắn như một đứa trẻ khỏe mạnh. Các nếp nhăn, ngay cả các vết rỗ trên khuôn mặt cũng biến mất và một nụ cười hé nở trên môi cô.

Người da đỏ gọi cô là "Hoa huệ người Mohawk". Sự ngưỡng mộ Kateri đã giúp hình thành các trung tâm truyền giáo cho người da đỏ ở Hoa Kỳ và Gia Nã Đại. Kateri được phong chân phước năm 1980.


https://giaophanvinhlong.net/thanh-kateri-tekakwitha.html


Vào giữa những năm 1642 và 1649, thánh Isaac Giogiơ (Isaac Jogues) và các Bạn tử đạo đã từ Pháp trẩy tàu sang vùng Đất Mới để rao giảng Tin mừng. Các ngài đã bị những người Mohawk giết hại đang khi rao giảng lời Chúa cho những thổ dân da đỏ Huron. Mười năm sau khi thánh Isaac Giogiơ qua đời, Kateri Tekakwitha được sinh ra ngay tại ngôi làng mà thánh Isaac đã tử vì đạo. (Chúng ta cử hành thánh lễ kính thánh Isaac và các Bạn tử đạo vùng Bắc Mỹ ngày 19 tháng Mười.) Tekakwitha sinh tại Auriesville, New York, vào năm 1656. Thân mẫu ngài là một Kitô hữu người Mỹ gốc Algonquin. Thân phụ ngài, là tù trưởng của dân Mohawk, chưa gia nhập đạo. Cha mẹ và anh trai của Tekakwitha đã chết vì căn bệnh đậu mùa khi Tekakwitha lên 4 tuổi. Cũng căn bệnh này đã hủy hoại vẻ đẹp và làm cho khuôn mặt của Tekakwitha bị biến dạng. Người chú, cũng là tù trưởng của dân Mohawk, đã nuôi nấng Tekakwitha. Đây là cách Tekakwitha gặp gỡ các nhà truyền giáo. Vào một dịp kia, chú của Tekakwitha tiếp đón ba nhà truyền giáo thuộc dòng Tên. Têkakwitha được nghe những lời chỉ dạy về đức tin. Rồi ngài được chịu phép Thanh tẩy vào Chúa nhật Phục Sinh năm 1676. Đó cũng là dịp Tekakwitha nhận tên thánh Kateri, nghĩa là Catarina.

Ngôi làng Tekakwitha đang sống chưa phải là ngôi làng Công giáo. Thực sự, chẳng có Kitô hữu nào sống trong căn nhà của Tekakwitha. Việc Tekakwitha chọn lối sống độc thân đã làm cho những người thổ dân da đỏ phật lòng. Họ đã lăng mạ Tekakwitha và có vài người đã phẫn nộ vì Tekakwitha không chịu làm việc trong ngày Chủ nhật. Nhưng Kateri vẫn giữ vững lập trường của mình. Ngài đã đọc kinh Mân Côi mỗi ngày, ngay cả khi bị người ta giễu cợt. Kateri đã nhẫn nại chấp nhận và âm thầm chịu đựng. Cuộc sống của Kateri càng trở nên khó khăn vì sự bách hại của những người cùng làng. Sau cùng, Kateri đã tới sống tại một ngôi làng Công giáo gần Montriơ. Tại đây, vào ngày lễ Chúa Giáng Sinh năm 1677, Kateri đã được Rước lễ lần đầu. Và đó là một ngày hồng phúc! Cha Phêrô Côlônec (Pierre Cholonec), một linh mục thuộc dòng Tên, đã hướng dẫn đời sống thiêng liêng cho Kateri suốt ba năm sau đó. Kateti và một phụ nữ Iroquois tên Anastasia đã sống đời Kitô hữu rất quảng đại và phấn khởi. Vào ngày 25/3/1679, Kateri đã tuyên lời khấn tự giữ mình đồng trinh. Ngài qua đời ngày 17/4/1680. Sau đó 300 năm, vào ngày 22/6/1980, Kateri Tekakwitha được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc Chân phước. Ngày 21/10/2012, Đức Bênêdictô XVI phong thánh cho vị nữ thánh người da đỏ đầu tiên.

 

Những người mến mộ đã đặt cho Kateri Tekakwitha một tên gọi rất dễ thương, “bông hoa huệ của những người Mohawk”. Ngài  được các sắc dân da đỏ ở Mỹ và Canada sùng kính cách riêng.

 

 Chân phước Kateri Tekakwitha đã nhận được hồng ân đức tin vào Chúa Giêsu qua những hy sinh gian khó của các vị thừa sai. Chúng ta cũng hãy cảm tạ Chúa Giêsu vì Người đã sai các thừa tác viên đem Tin mừng đến cho chúng ta. Họ là ai? Là ông bà, cha mẹ, người thân, cha xứ, giáo lý viên… Chúng ta hãy nài xin chân phước Kateri Tekakwitha dạy chúng ta sống biết ơn qua việc chia sẻ đức tin của mình cho những người khác.



tinmung.net


Thứ Bảy


Bài Ðọc I: (Năm I) St 49, 29-33; 50, 15-24

"Thiên Chúa sẽ thăm viếng anh em, và dẫn anh em ra khỏi đất này".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Giacóp trối lại cho các con rằng: "Cha sắp về sum họp cùng dân cha. Các con hãy chôn xác cha gần mồ cha ông, trong hang đôi ngoài cánh đồng của Êphron, người Hêthê, ngang thung lũng Mambrê trong đất Canaan, mà Abraham đã mua của Êphron, người Hêthê, để làm nghĩa trang. Nơi đó đã mai táng Abraham và bạn ông là Sara, nơi đó cũng đã mai táng Isaac và bạn ông là bà Rébecca, nơi đó cũng đã mai táng bà Lia". Trối cho các con xong, Giacóp rút chân lên giường và trút hơi thở, trở về sum họp với dân người.

Khi Giacóp đã qua đời, anh em của Giuse lo sợ và nói với nhau rằng: "Có khi Giuse còn nhớ sự sỉ nhục đã phải chịu mà trả đũa lại điều ác mà chúng ta đã làm chăng?" Họ liền sai người đến nói với Giuse rằng: "Trước khi chết, cha ngài đã trối lại cho chúng tôi là hãy lấy lời cha mà nói với người rằng: "Cha xin con hãy quên tội ác và lỗi lầm của các anh con đã làm cho con". Chúng tôi cũng xin ngài tha thứ tội ác của các tôi tớ Thiên Chúa của cha ngài". Nghe vậy, Giuse bật khóc lên. Các anh em của Giuse đến sấp mình xuống đất mà nói rằng: "Chúng tôi là tôi tớ của ngài". Giuse đáp rằng: "Anh em đừng sợ! Nào chúng ta có thể chống lại thánh ý Chúa sao? Các anh đã lo nghĩ sự dữ cho tôi, nhưng Thiên Chúa đã đổi nó ra sự lành để tôi được vinh hiển như anh em thấy hôm nay và để cứu sống nhiều dân tộc. Anh em đừng sợ, chính tôi sẽ nuôi dưỡng anh em và con cái anh em". Ông đã an ủi và lấy lời êm dịu hiền lành mà nói với anh em.

Giuse và gia quyến cha của ông đã cư ngụ trong nước Ai-cập, và ông sống được một trăm mười tuổi. Ông đã được thấy con cái của Ephraim đến ba đời. Con cái của Makir, là con của Manassê cũng đã sinh ra trên đầu gối Giuse. Các việc ấy đã qua đi, Giuse đã nói cùng anh em: "Sau khi tôi chết, Thiên Chúa sẽ thăm viếng anh em, và dẫn anh em ra khỏi đất này và đưa đến đất mà Người đã thề hứa ban cho Abraham, Isaac và Giacóp".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 1-2. 3-4. 6-7

Ðáp: Các bạn khiêm cung, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh (Tv 68, 33).

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

2) Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. - Ðáp.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 24-33

"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.

"Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.

"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời".

Ðó là lời Chúa.


Mạnh Dạng Tuyên Xưng Thầy - Suy Niệm Thứ Bảy Tuần XIV Thường Niên C
"Anh em đừng sợ! Nào chúng ta có thể chống lại thánh ý Chúa sao?"

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XIV Thường Niên, Chúa Giêsu tiếp tục huấn từ sai đi của Người với 12 tông đồ. Người tiếp tục bằng những lời trấn an các vị: "đừng sợ", sau khi đã tỏ cho các vị biết về số phận đầy gian nan khốn khổ của thành phần thừa sai như các vị trong bài Phúc Âm hôm qua.

"Đừng sợ" những ai chụp mũ xuyên tạc cho mình: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Belzebul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó".

"Đừng sợmới có thể rao giảng làm chứng: "Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà".

Ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến sức mạnh vô địch của sự thật, một sự thật có sức giải phóng con người (xem Gioan 8:32), một "sự thật" cho dù có bị che giấu hay đè nén cuối cùng cũng được "thổ lộ". Bởi thế, Chúa Giêsu đã khuyên dạy các tông đồ rằng: "điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà".

Phải chăng "điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng" đây có nghĩa là những gì linh hồn Kitô hữu biết được qua đêm tối tăm đức tin như một cảm nghiệm thần linh, một xác tín siêu nhiên, cần phải loan truyền một cách trung thực như "nói nơi ánh sáng" hay "giữa ban ngày", "và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà" có nghĩa là những gì Kitô hữu cảm nhận được khi lắng đọng tâm hồn cầu nguyện thì hãy mang công bố công khai như "trên mái nhà"?

"Đừng sợ" thậm chí cả những ai sát hại mạng sống của mình: "Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần".

Ở đây Chúa Giêsu đã khôn khéo sử dụng những thí dụ cụ thể để chẳng những trấn an các môn đệ "đừng sợ" mà còn củng cố lòng tin tưởng của các vị nữa, bằng cách so sánh giá trị trổi vượt của các vị với loài chim, cũng như bằng hình ảnh tóc trên đầu rụng xuống, cả hai đều được Thiên Chúa quan phòng thần linh lưu ý, dù chúng chẳng là gì như sợi tóc rụng xuống hay chắng đáng gì như giá của 2 con chim sẻ.  
 
"Đừng sợ" mới có thể tuyên xưng đức tin: "Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời".

"Đừng sợ" trong bài Phúc Âm hôm nay cũng có thể áp dụng cho 10 người anh của Giuse, những người anh mà sau khi thân phụ Giacóp của các ông chết rồi thì lo sợ bị Giuse là đứa em các ông đã ám hại trước kia không còn nể cha nữa ra tay trả thù, đến độ đã phải cùng nhau lên tiếng xin lỗi em mình:

"Khi Giacóp đã qua đời, anh em của Giuse lo sợ và nói với nhau rằng: 'Có khi Giuse còn nhớ sự sỉ nhục đã phải chịu mà trả đũa lại điều ác mà chúng ta đã làm chăng?' Họ liền sai người đến nói với Giuse rằng: 'Trước khi chết, cha ngài đã trối lại cho chúng tôi là hãy lấy lời cha mà nói với người rằng: Cha xin con hãy quên tội ác và lỗi lầm của các anh con đã làm cho con'. Chúng tôi cũng xin ngài tha thứ tội ác của các tôi tớ Thiên Chúa của cha ngài".

Thế nhưng, chính Giuse em của các ông đã trấn an các ông cũng bằng chữ "đừng sợ", kèm theo một câu trả lời tràn đầy đức tin vào Thiên Chúa và bác ái yêu thương nhau vì Chúa và trong Chúa, một câu trả lời chẳng khác gì như một huấn dụ cho thành phần đàn anh lầm lỗi của mình như sau:  

"Anh em đừng sợ! Nào chúng ta có thể chống lại thánh ý Chúa sao? Các anh đã lo nghĩ sự dữ cho tôi, nhưng Thiên Chúa đã đổi nó ra sự lành để tôi được vinh hiển như anh em thấy hôm nay và để cứu sống nhiều dân tộc. Anh em đừng sợ, chính tôi sẽ nuôi dưỡng anh em và con cái anh em".

Bài Đáp Ca hôm nay dâng lời ca tụng Thiên Chúa là Đấng đã làm những việc kỳ diệu, vì Ngài là chủ cả địa cầu, Đấng con người cần phải tìm kiếm thiên nhan và loan truyền công cuộc của Ngài:

1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. 

2) Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. 

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. 



Ngày 15 tháng 7

Thánh Bô-na-ven-tu-ra, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

 

Tiểu sử 
Chào đời khoảng năm 1218 ở Ba-nho-rê-gi-ô, tỉnh Vi-téc-bô, Bô-na-ven-tu-ra theo học triết lý rồi thần học ở Pa-ri, sau đó dạy các tu sĩ dòng Anh Em Hèn Mọn. Khi được chọn làm tổng phục vụ, người đã chu toàn nhiệm vụ một cách khôn ngoan, đã soạn thảo hiến chương nhằm giúp anh em sống luật dòng thánh Phan-xi-cô. Là một nhà thần học sâu sắc, theo trường phái thánh Âu-tinh, người nghiên cứu và giảng dạy lộ trình đưa linh hồn về với Thiên Chúa. Được đặt làm hồng y giám mục An-ba-nô, người qua đời năm 1274 giữa lúc Công Đồng Ly-ông đang họp.

St. Bonaventure Print - Portraits of Saints

Bài đọc 2 (Phụng vụ giờ kinh sách)

Sự khôn ngoan nhiệm mầu được mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần

Trích tác phẩm “Lộ trình của tâm hồn đến với Thiên Chúa” của thánh Bô-na-ven-tu-ra, giám mục.

Đức Ki-tô là đường và là cửa. Đức Ki-tô là thang và là xe, là nắp xá tội được đặt trên Hòm Bia Chứng Ước và là mầu nhiệm đã được giữ kín từ muôn thuở. Người nào hoàn toàn ngước mặt nhìn về nắp xá tội này, nhìn về Đấng chịu treo trên thập giá, với lòng tin, cậy, mến, lòng sùng kính, ngưỡng mộ, vui mừng, lòng quý trọng, ngợi khen và hoan hỷ, thì người ấy cùng với Đức Ki-tô làm một cuộc vượt qua, nghĩa là băng qua Biển Đỏ nhờ cây gậy thập giá. Người ấy rời Ai-cập đi vào hoang địa, ở đó được thưởng thức man-na đã được giấu kỹ, được an nghỉ trong mồ cùng với Đức Ki-tô. Người ấy bề ngoài như thể đã chết, nhưng trong thân phận lữ hành, lại cảm nghiệm được lời Đức Ki-tô trên thập giá nói với kẻ trộm gắn bó với Người : Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.

Trong cuộc vượt qua này, nếu người ấy muốn nên hoàn hảo, thì phải bỏ đi những hoạt động của trí óc, và trọn tâm tư ước muốn phải được đưa về Thiên Chúa và được biến đổi trong Người. Đây là mầu nhiệm cao siêu nhất, chẳng ai biết được trừ ra người đón nhận, chẳng ai đón nhận được trừ ra người khao khát, chẳng ai khao khát được trừ ra người đã thấy bừng lên trong cõi thâm sâu của lòng mình ngọn lửa Chúa Thánh Thần mà Đức Ki-tô phái xuống trần gian. Thế nên thánh Phao-lô bảo sự khôn ngoan nhiệm mầu này được mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần.

Nếu bạn thắc mắc việc đó xảy ra thế nào, bạn hãy hỏi ơn thánh chứ đừng hỏi kiến thức, hỏi lòng khao khát thâm sâu chứ đừng hỏi lý trí, hỏi tiếng rên siết của lời cầu khẩn chứ đừng hỏi việc chuyên chăm đọc sách, hỏi hôn phu chứ đừng hỏi thầy giáo, hỏi Thiên Chúa chứ đừng hỏi người phàm, hỏi mây mù chứ đừng hỏi ánh quang, cũng đừng hỏi ánh sáng nhưng hãy hỏi ngọn lửa đốt cháy trọn vẹn con người và đưa con người lên tới Thiên Chúa bằng ân sủng chứa chan và lòng yêu mến nồng nàn. Ngọn lửa này là chính Thiên Chúa và lò thì ở Giê-ru-sa-lem. Chính Đức Ki-tô đã nhóm lên ngọn lửa ấy trong cuộc Thương Khó nồng cháy của Người. Chỉ có người nói được như ông Gióp mới thật sự hiểu được điều ấy : Tôi chẳng thà bị treo, chẳng thà bị chết. Ai yêu cái chết như thế mới có thể nhìn thấy Thiên Chúa. Vì lời sau đây là lời chân thật : Con người không thể thấy Ta mà vẫn sống. Vậy chúng ta hãy chết, hãy tiến vào trong mây mù, hãy bắt những lo toan, những dục vọng, những ảo ảnh phải im lặng. Cùng với Đức Ki-tô chịu đóng đinh, chúng ta hãy bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Và một khi Chúa Cha đã được tỏ ra cho chúng ta, thì cùng với ông Phi-líp-phê, chúng ta hãy nói : Như thế là chúng con mãn nguyện. Cùng với thánh Phao-lô, ta hãy nghe : Ơn của Thầy đã đủ cho con. Cùng với vua Đa-vít, ta hãy hân hoan thưa rằng : Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn. Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en từ muôn thuở cho đến muôn đời. Toàn dân hãy hô lên : A-men ! A-men !

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con đang họp nhau mừng ngày thánh giám mục Bô-na-ven-tu-ra về trời. Xin cho chúng con vừa được đức khôn ngoan phi thường của thánh nhân soi sáng, vừa được lòng bác ái nồng nhiệt của người khích lệ. Chúng con cầu xin

 

 

Xin xem 1/3 bài ĐTC Biển Đức XVI nói về ngài ở cái link sau đây: 

 

Thánh Bonaventura - Cuộc đời và con người