SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Thường Niên Tuần IX 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Dẫn Nhập

 

Phụng niên của Giáo Hội kéo dài 34/52 tuần lễ và bao giờ cũng có các Mùa chính yếu thứ tự như sau: 1- Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh; 2- Mùa Chay và Mùa Phục Sinh; 3- Mùa Thường Niên, một thời điểm phụng niên được chia thành 2 phần: hậu Giáng Sinh và hậu Phục Sinh.

Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh - thời khoảng kéo dài

Theo phụng vụ của Giáo Hội thì Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, nghĩa là thời khoảng phụng niên kéo dài bắt đầu từ Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa mở đầu Mùa Thường Niên sau Mùa Giáng Sinh đến hết Thứ Ba áp Thứ Tư Lễ Tro bắt đầu Mùa Chay, tùy theo năm, dài nhất có thể kéo dài đến tuần thứ 9 (rất hiếm thấy, như năm 2000 hay năm 2011), và ngắn nhất chỉ kéo dài đến tuần thứ 5 (như năm 1986, 1989, 1991, 1997, 2002, 2005, 2008, 2016).

Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh - thời điểm bắt đầu

Như thế, nếu Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh có thể kéo dài nhất cho tới 9 tuần thì bình thường Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh sẽ được tái tục vào Tuần X. Tuy nhiên, thực tế lại xẩy ra là nếu Mùa Thường Niên nào kết thúc sớm hay muộn thì được tái tục sớm hay muộn ở Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh.

Chẳng hạn Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh đã được kết thúc sớm ở Tuần Thứ V, như Năm 2013 hay Năm 2016 thì Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh của cả hai năm này đã được bắt đầu ở Tuần Thứ VIII. Còn Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh đã được kết thúc muộn ở Tuần Thứ IX, như Năm 2011, thì Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh của cả hai năm này đã được tái tấu vào Chúa Nhật Tuần XII.

Tuy nhiên, không phải Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh nào có thời khoảng kéo dài tuần lễ giống nhau đều tái tục ở Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh giống nhau. Chẳng hạn Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kết thúc ở tuần Thứ VIII, như năm 2014, 2017, 2019 và 2022, nhưng từng năm này đã được tái tục ở Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh đôi khi khác nhau, như Năm 2014 ở Tuần XI và Năm 2017 ở Tuần X, nhưng thường giống nhau ở Tuần XI, như Năm 2019 và Năm 2022 giống năm 2011.

Phụng Niên: Các Mùa Phụng Vụ theo niên lịch 52 tuần lễ

Vấn đề Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh được bắt đầu sớm muộn như thế nào chăng nữa miễn là làm sao phụng niên năm nào cũng có đầy đủ 34 tuần lễ Mùa Thường Niên, cùng với các Mùa Phụng Vụ chính yếu khác trong năm, như Mùa Vọng bao giờ cũng có 4 tuần, Mùa Giáng Sinh (hơn 2 tuần từ Lễ Giáng Sinh tới hết tuần Lễ Hiển  Linh), Mùa Chay (5 tuần rưỡi 40 ngày từ Thứ Tư Lễ Tro và nguyên Tuần Thánh là 6 tuần rưỡi), và Mùa Phục Sinh (8 tuần từ Chúa Nhật Phục Sinh tới Lễ Hiện Xuống, thời điểm vừa là tột đỉnh của Mùa Phục Sinh vừa mở màn cho Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh).

Nếu cộng lại các tuần lễ được tính như trên của một phụng niên thì lên tới 54 tuần (Mùa Thường Niên 34 + các Mùa Khác 20), nghĩa là dư mất 2 tuần hay hơn 2 tuần so với lịch dân sự chỉ có 52 tuần lễ.

Bởi thế, có hai thời điểm cần phải uyển chuyển ở đây cho đủ một năm dân sự 52 tuần lễ. Thời điểm thứ nhất cần phải uyển chuyển xẩy ra vào Mùa Giáng Sinh, tùy Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh: nếu Lễ Giáng Sinh 25/12 rơi vào đúng Chúa Nhật, thì Mùa Giáng Sinh chỉ có 2 tuần, nhưng nếu Lễ Hiển Linh chính thức cử hành vào ngày 6/1 hằng năm sau Giáng Sinh rơi vào ngay Chúa Nhật (chứ không phải được dời) thì Mùa Giáng Sinh có 3 tuần.

Thời điểm thứ hai cần phải uyển chuyển xẩy ra vào lúc giao điểm giữa Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh và Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh. Bởi thế chúng ta thấy có những phụng niên Mùa Thường Niên bị mất đi chỉ có 1 tuần, như năm 2012, 2017, 2018, 2023 v.v., nhưng bình thường là 2 tuần, như năm 2011 cùng những năm liên tiếp như 2013-2016 và năm 2019-2022, chứ không tiếp nối liên tục từ hậu Giáng Sinh đến hậu Phục Sinh.

Phụng Vụ: lịch dân sự trở thành Lịch Sử Cứu Độ

Sự kiện Mùa Thường Niên không bao giờ liên tục và thường bị mất đi 2 tuần lễ đã chứng tỏ con số 54 tuần phụng niên vượt quá 52 tuần theo lịch dân sự, cần phải uyển chuyển làm sao cho đủ.

Ngay ở chi tiết uyển chuyển của lịch phụng vụ với lịch dân sự hằng năm này cho thấy ý nghĩa sâu xa của Mầu Nhiệm Nhập Thể cũng như của chiều hướng hội nhập truyền giáo, nhờ đó có thể thăng hoa văn hóa của con người, bởi lịch dân sự được sử dụng để cử hành Mầu Nhiệm Thần Linh, Mầu Nhiệm Chúa Kitô nói chung và Mầu Nhiệm Vượt Qua là tột đỉnh của phụng niên nói riêng, một Mầu Nhiệm Cứu Độ đã biến đổi những gì là sự dữ và chết chóc thành ân sủng và sự sống bằng cuộc Tử Giá của Chúa Kitô, và đã chiến thắng tội lỗi cùng sự chết bằng cuộc Phục Sinh của Người, nhờ đó lịch sử của con người (biểu hiệu nơi lịch dân sự) trở thành Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa, một Lịch Sử Cứu Độ cho con người được Giáo Hội hằng năm nhắc nhở và cử hành theo lịch phụng vụ của Giáo Hội.

 

 

Chúa Nhật

 

 

Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi

 

 

 

 



Thứ Hai

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tb 1, 1a. 2; 2, 1-9

"Tôbia kính sợ Thiên Chúa hơn là nhà vua".

 

Khởi đầu sách Tôbia.

Tôbia, người chi họ và thành Nephthali, ông bị bắt lưu đày trong đời Salmanasar, vua xứ Assyria. Mặc dầu bị lưu đày, ông không bỏ đường chân lý.

Khi đến lễ trọng kính Chúa, trong gia đình Tôbia có dọn bữa ăn thịnh soạn, ông nói với con trai ông rằng: "Con hãy đi mời mấy người, thuộc chi họ chúng ta biết kính sợ Chúa, đến dự tiệc với chúng ta". Con ông đi, rồi trở về báo tin cho ông hay rằng: "Một người con cái Israel bị bóp cổ chết nằm ngoài đường". Lập tức, ông bỏ bàn ăn, ra khỏi phòng, bụng còn đói, chạy đến chỗ tử thi. Ông lén vác xác về nhà, để chờ lúc mặt trời lặn sẽ chôn cất cẩn thận. Sau khi đã giấu xác rồi, ông vừa dùng bữa vừa than khóc và run sợ, vì nhớ lại lời Chúa dùng miệng tiên tri Amos mà phán rằng: "Ngày lễ của các ngươi sẽ trở thành ngày than khóc và tang chế". Khi mặt trời lặn, ông đi chôn xác. Tất cả các người bà con chỉ trích ông rằng: "Ông đã bị lên án tử hình cũng vì công việc đó, và may là ông thoát khỏi án tử, nay ông lại đi chôn kẻ chết nữa sao?" Nhưng Tôbia kính sợ Thiên Chúa hơn là sợ nhà vua, vẫn lấy trộm xác kẻ bị giết, giấu trong nhà, rồi đến nửa đêm ông đem đi chôn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Phúc đức thay người tôn sợ Chúa (c. 1a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.

2) Trong nhà người có tài sản phú quý, và lòng quảng đại người còn mãi muôn đời. Trong u tối, người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. - Ðáp.

3) Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Gc 1, 21

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng, lời đó có thể cứu thoát linh hồn anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 1-12

"Chúng bắt cậu con trai giết đi và quăng xác ra vườn nho".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão rằng: "Có người trồng một vườn nho, rào dậu xung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp, đoạn cho tá điền thuê vườn nho và trẩy đi phương xa.

"Ðến kỳ hạn, ông sai đầy tớ đến với tá điền thu phần hoa lợi vườn nho. Nhưng những người này bắt tên đầy tớ đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai đầy tớ khác đến với họ. Người này cũng bị chúng đánh vào đầu và làm sỉ nhục. Nhưng người thứ ba thì bị chúng giết. Ông còn sai nhiều người khác nữa, nhưng kẻ thì bị chúng đánh đập, người thì bị chúng giết chết.

"Ông chỉ còn lại một cậu con trai yêu quý cuối cùng, ông cũng sai đến với họ, (vì) ông nghĩ rằng: "Chúng sẽ kiêng nể con trai ta". Nhưng những tá điền nói với nhau rằng: "Người thừa tự đây rồi, nào ta hãy giết nó và cơ nghiệp sẽ về ta". Ðoạn chúng bắt cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn nho. Chủ vườn nho sẽ xử thế nào? Ông sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác. Các ông đã chẳng đọc đoạn Thánh Kinh này sao: "Tảng đá những người thợ xây loại ra, trở thành đá góc tường. Ðó là việc Chúa làm, thật lạ lùng trước mắt chúng ta".

Họ tìm bắt Người, nhưng họ lại sợ dân chúng. Vì họ đã quá hiểu Người nói dụ ngôn đó ám chỉ họ. Rồi họ bỏ Người mà đi.

Ðó là lời Chúa.

 





Khủng bố Nhân Danh Thiên Chúa: "Allah Vĩ Đại"
Suy Niệm

Trước hết là dụ ngôn về vườn nho của Thiên Chúa được Ngài trồng là chính dân Do Thái (xem Isaia 5:7), một dân tộc được Ngài tuyển chọn riêng và chăm sóc đặc biệt, với Lề Luật của Ngài để bảo vệ họ khỏi nếp sống đa thần hay ngẫu tượng như dân ngoại, như thể Ngài "rào dậu chung quanh" họ, cùng với các ngày lễ và nghi lễ phụng thờ được Ngài thiết lập cho họ, như thể Ngài "đào bồn đạp nho" nơi họ, còn việc Ngài "xây một cái thápở vườn nho của Ngài là dân Do Thái có thể hiểu là Đền Thờ Giêrusalem, nơi Ngài ẩn ngự, hay cũng có thể là Ngài đã thiết lập giao ước với các vị tổ phụ của họ, và lời hứa của Ngài trở thành như niềm hy vọng hướng về tương lai của họ

Th
ế nhưng, thành phần "tá điền" lãnh đạo dân của Ngài đã chẳng những không mang lại "hoa lợi vườn nho", lại còn tỏ ra hung dữ bạo nghịch đối với thành phần tiên tri "đầy tớ" của Ngài, được Ngài sai đến với họ, khi họ "đánh đập và đuổi về tay không" đối với người "đầy tớ" đầu tiên, khi họ "đánh vào đầu và làm sỉ nhục" đối với "đầy tớ" thứ hai, và khi họ "sát hại" người "đầy tớ" thứ ba. Thậm chí họ còn dám "sát hại" cả "người con trai yêu quí" của Ngài là Đức Giêsu Kitô khi Ngài sai Người đến với họ nữa, với mục đích để cướp đoạt "gia nghiệp" của Người, ở chỗ họ lên án tử cho Con của Ngài nhân danh "Thiên Chúa hằng sống" (xem Mathêu 26:63), nhân danh chính Ngài để "bắt cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn nho".

T
ất nhiên, cho dù "họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34; xem Tông Vụ 3:17), nhưng tự bản chất việc của họ vẫn là những tội ác cần phải đền trả, ở chỗ, như dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Thiên Chúa là chủ vườn nho "
sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác", như lịch sử cho thấy, vườn nho của Thiên Chúa đã trở thành một Dân Tân Ước là chính Giáo Hội Chúa Kitô, một Giáo Hội được chính Người thiết lập (xem Mathêu 16:16), một Giáo Hội được xây dựng trên chính bản thân của Người đã từng là "Tảng đá bị những người thợ xây loại bỏ đã trở thành đá góc tường", như Người ám chỉ trong bài Phúc Âm hôm nay

Quả thực, đúng như lời Chúa Giêsu tuyên bố trong bài Phúc Âm hôm nay về dụ ngôn vườn nho của Chúa và bọn tá điền gian ác (ám chỉ thành phần lãnh đạo Do Thái giáo) đã sát hại các đợt đầy tớ được chủ sai đến thu hoa lợi, thậm chí sát hại cả chính người con duy nhất vô cùng yêu quí của chủ nữa để cướp gia tài của người con này: "Ông sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác" phải chăng chính là thành phần lãnh đạo Dân Tân Ước Con Ngài.
 


Nh
ư thế có nghĩa là Thiên Chúa vẫn có thể biến tất cả những sự dữ gây ra bởi con người để mang lại thiện hảo cho họ theo đúng như ý định vô cùng nhân hậu và quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan đầy quyền năng của Ngài. Như từ một tảng đá bị thợ xây loại bỏ là một Đức Kitô khổ nạn và tử giá, Thiên Chúa đã biến thành tảng đá góc tường là một Chúa Kitô phục sinh, Đấng "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), để Người có thể thông ban sự sống thần linh của Người cho nhân loại, qua Giáo Hội Nhiệm Thể của Người, thành phần "tá điền" mới được sai đến để làm vườn nho của Người và cho Người: "Bởi thế, các con hãy đi tuyển mộ môn đồ ở khắp mọi dân nước và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần ..." (Mathêu 28:19).

Cảm Nghiệm

Thành phần "tá điền" lãnh đạo Dân Do Thái thời Cựu Ước (đối với các vị tiên tri) cũng như "thời viên trọn" (Galata 4:4) của Chúa Giêsu, bề ngoài và thực tế, đã quả thực ra tay sát hại các tiên tri nhất là Con Thiên Chúa, với chủ ý muốn chiếm đoạt gia tài của người con chủ, nghĩa là chỉ vì bênh vực vinh quang Thiên Chúa mà họ đã giết Chúa Kitô:

 

"'Nhân danh Thiên Chúa hằng sống ta truyền cho ngươi phải nói thật cho chúng ta biết ngươi có phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa hay chăng?' Ðức Giêsu trả lời: 'Chính ngài nói đó. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến'. Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói:

 

'Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Ðấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?' Họ liền đáp: 'Hắn đáng chết!'" (Mathêu 26:63-66).

Phải chăng cùng tâm thức đó mới xẩy ra hiện tượng khủng bố ngày nay, hoàn toàn xuất phát từ thế giới Ả Rập Hồi giáo, nhân danh Thiên Chúa mà sát hại đồng loại, đồng hương và đồng đạo của mình một khi thành phần bị họ khủng bố được họ cho là đã làm bất cứ điều gì đó xúc phạm đến "Allah Vĩ Đại" hay xúc phạm đến vị đại tiên tri Muhammed duy nhất cao cả sáng lập đạo giáo của họ?

 

Thế nhưng, tự bản chất việc sát hại ấy đã là xấu, con người tạo vật dù có ý tốt mấy chăng nữa, cũng không thể và không có quyền biến dữ thành lành, một cách bất chấp thủ đoạn, ở chỗ biến phương tiện (xấu) thành mục đích (tốt) như chủ trương phương tiện biện minh cứu cánh của chủ nghĩa cộng sản vô thần thời cận đại và hiện đại.

 

Tuy nhiên, con người vẫn có thể biến sự dữ thành sự lành, bằng cách tha thứ, hay lấn sự ác bằng sự thiện, như trường hợp của nhân vật Tobia cha trong Bài Đọc 1 hôm nay, ở chỗ bất tuân lệnh vua (xấu) và cứ chôn xác đồng hương của mình (lành): "Tôbia, người chi họ và thành Nephthali, ông bị bắt lưu đày trong đời Salmanasar, vua xứ Assyria. Mặc dầu bị lưu đày, ông không bỏ đường chân lý... Tôbia kính sợ Thiên Chúa hơn là sợ nhà vua, vẫn lấy trộm xác kẻ bị giết, giấu trong nhà, rồi đến nửa đêm ông đem đi chôn".

 

Nhân vật Tobia cha này thật sự đáng được Thánh Vịnh gia ca ngợi như trong bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.

2) Trong nhà người có tài sản phú quý, và lòng quảng đại người còn mãi muôn đời. Trong u tối, người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính.

3) Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời.    

 

 


 

 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) Tob 2, 10-23

"Tuy bị mù lòa, ông cũng không phiền trách Thiên Chúa".

Trích sách Tobia.

Xảy ra trong một ngày nọ, Tobia đi chôn xác mệt nhọc, trở về nhà, ông liền nằm ngủ bên vách tường, thì phân nóng chim én từ tổ rơi xuống mắt ông, khiến ông bị mù.

Chúa cho phép ông chịu thử thách như thế, để nêu gương nhẫn nại cho hậu thế như thánh Gióp xưa.

Vì từ lúc còn bé, ông có lòng kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn của Người, tuy bị mù lòa, ông cũng không phiền trách Thiên Chúa.

Trái lại, ông vẫn một lòng kính sợ Thiên Chúa, và tạ ơn Người hằng ngày trong đời ông.

Vả các vua xưa nhạo báng thánh Gióp thế nào, thì nay bà con họ hàng cũng chê cười đời sống của ông mà rằng: "Hy vọng của ông ở đâu? Ông làm phúc và chôn xác được ích gì?"

Nhưng Tobia quở trách họ rằng: "Các ngươi đừng nói vậy, vì chúng ta là con cái các thánh, chúng ta trông đợi cuộc sống mà Thiên Chúa sẽ ban cho những ai không bao giờ thay đổi lòng tin vào Người".

Còn bà vợ của ông là Anna, hằng ngày đi dệt vải, hễ kiếm được gì bởi tay mình làm để nuôi thân, bà đem về, bởi đó, có lần bà nhận được một con dê đem về nhà; ông ông chồng nghe tiếng dê be be, liền nói: "Coi chừng, kẻo lỡ phải của ăn trộm đó. Hãy dắt đem trả cho chủ nó, vì chúng ta không được phép dùng đến của ăn trộm".

Bà vợ ông nổi giận trả lời rằng: "Rõ là niềm hy vọng của ông ra vô ích, và kết quả việc bố thí của ông nay đã rõ ràng!"

Và bà tiếp tục nói những lời như thế mà mạt sát ông.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: TV. 111, 1-2, 7bc-8,9

Ðáp: Lòng người công chính vững vàng trông cậy vào Chúa.

Xướng 1) Ph1uc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.

2) Người không kinh hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng, cậy trông vào Chúa. Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, cho tới khi nhìn thấy kẻ thù phải hổ ngươi. - Ðáp.

3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Pr 1, 25

Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 13-17

"Các ông hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?" Nhưng Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền". Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: "Hình và ký hiệu này là của ai?" Họ thưa: "Của Cêsarê". Người liền bảo họ: "Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa". Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.

Ðó là lời Chúa.





Suy Niệm Cảm Nghiệm


"Chúa đã dựng nên con cho Chúa nên lòng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa"
(Thánh Augustino: Tự Thú I,1).

Suy Niệm

Bài Phúc Âm Thứ Ba Tuần IX Thường Niên hôm nay thuật lại câu Chúa Giêsu trả lời cho "nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê" là thành phần "lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói" đó là "
hãy trả về cho Cesa những gì của Cesa và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa".

Câu trả lời của Người dù đã làm cho
"
họ rất đỗi kinh ngạc về Người", như bài Phúc Âm kết thúc, thế nhưng, trước khi trả lời cho câu họ đặt ra: "Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsa không?", một câu hỏi thật hóc búa, Người trả lời đằng nào cũng chết, "có" thì theo đế quốc Roma phản dân tộc, còn "không" thì tỏ ra xui dân phản loạn với đế quốc này, Người đã phải căn cứ vào một vật thể, đó là "đồng tiền", vì vấn đề "nộp thuế cho Cêsa" liên quan đến "đồng tiền" của đế quốc Rôma. 

Thế rồi sau khi
 "h
ọ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: 'Hình và ký hiệu này là của ai đây?' Họ thưa: 'Của Cêsa'. Người liền bảo họ: 'Vậy thì của Cêsa, hãy trả cho Cêsa; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa'". 

Câu trả lời này của Chúa Giêsu không phải chỉ là một
 nguyên tắc cần phải áp dụng vào lãnh vực 
chính trị, ám chỉ phải tuân phục quyền bính thích hợp, mà còn có một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, đó là dù có tuân phục quyền bính trần gian ("trả cho Cêsa") nhưng với một tinh thần đức tin siêu nhiên vì Chúa ("trả cho Thiên Chúa"), ở chỗ, vì Chúa là Đấng quan phòng làm chủ lịch sử hơn là vì sợ con người có quyền bính: "Đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không thể nào hủy hoại được linh hồn. Đúng ra hãy sợ Đấng có thể hủy hoại cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục" (Mathêu 10:28).

Chưa hết "
của Cesa trả cho Cesa, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa" còn có nghĩa là "người ta không sống nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phá
n ra" (Mathêu 4:4). Cho dù cần phải "có thực mới vực được đạo", thế nhưng, vì con người được dựng nên để được sống đời đời chứ không phải chỉ sống trên thế gian mau qua tạm gửi này thôi, nên "chính thần trí mới cống hiến sự sống chứ xác thịt là thứ vô dụng" (Gioan 6:63): "cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh" (Gioan 3:6).

B
ởi thế, trong Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi, Chúa Kitô đã khẳng định với thành phần môn đệ của Người là "không ai có thể làm tôi hai chủ ... Các con không thể vừa làm tôi cho Thiên Chúa vừa làm tôi cho tiền của được" (Mathêu 6:24). Nghĩa là "của Cesa hãy trả cho cesa và của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa" là thế. 

Nếu "hình và ký 
hiệu" trên đồng tiền được thành phần âm mưu bắt bẻ Người bảo là "của Cesa" ở đây và vì thế "của Cesa hãy trả cho Cesa", thì con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27), có thể so sánh như một đồng tiền quí giá, nếu không muốn nói là vô giá, chứ không phải đồ bỏ vì mang "hình và ký hiệu" của Thiên Chúa nên cần phải trả về cho Ngài những gì thuộc về Ngài, nghĩa là cần phải sống xứng đáng với ơn gọi và thân phận thần linh của mình. Ở chỗ, như Thánh Âu Quốc Tinh (Augustine), sau cuộc đời vừa lạc giáo về tâm thần vừa trác táng về xác thể, đã có được một cảm nghiệm rất chí lý và xác thực là: "Chúa đã dựng nên con cho Chúa nên lòng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa" (Tự Thú I,1).

Cảm Nghiệm

 

Thật vậy, nếu con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) thì quả thực chỉ có một mình Thiên Chúa là tất cả mọi sự của con người và cho con người, là nguyên ủy và là cùng đích của họ, ngoài Ngài ra con ngưòi chắc chắn sẽ bị lầm lạc và chẳng bao giờ có hạnh phúc chân thật, trọn hảo và bất tận, nếu con người không tìm kiếm Ngài, nhận biết Ngài, chấp nhận Ngài và đáp ứng Ngài.

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, nhân vật Tobia cha, trước mắt trần gian có vẻ bị bất hạnh và khốn nạn đấy, nhưng trước nhan Thiên Chúa, nhân vật này quả thực đã tỏ ra mình là một đồng tiền quí giá mang "hình và huy hiệu" của Thiên Chúa, bằng đời sống tin tưởng Ngài và kính sợ Ngài của ông: "Từ lúc còn bé, ông có lòng kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn của Người", Đấng vì thế phải chăng đã càng cần phải làm cho "hình và huy hiệu" của Ngài càng trở thành đậm nét hơn nữa nơi con người và cuộc đời của nhân vật này bằng những gian nan khốn khó: "Xảy ra trong một ngày nọ, Tobia đi chôn xác mệt nhọc, trở về nhà, ông liền nằm ngủ bên vách tường, thì phân nóng chim én từ tổ rơi xuống mắt ông, khiến ông bị mù. Chúa cho phép ông chịu thử thách như thế, để nêu gương nhẫn nại cho hậu thế như thánh Gióp xưa".

 

Quả thực nhân vật Tobia cha này đã chẳng những "trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa" ở chỗ: "tuy bị mù lòa, ông cũng không phiền trách Thiên Chúa. Trái lại, ông vẫn một lòng kính sợ Thiên Chúa, và tạ ơn Người hằng ngày trong đời ông", mà còn "trả về cho Cesa những gì của Cesa" là thế gian được tiêu biểu nơi thành phần "bà con họ hàng cũng chê cười đời sống của ông mà rằng: 'Hy vọng của ông ở đâu? Ông làm phúc và chôn xác được ích gì?'" như thế này: "Các ngươi đừng nói vậy, vì chúng ta là con cái các thánh, chúng ta trông đợi cuộc sống mà Thiên Chúa sẽ ban cho những ai không bao giờ thay đổi lòng tin vào Người".

 

"Lòng người công chính vững vàng trông cậy vào Chúa", câu thưa chính của Bài Đáp Ca hôm nay thật là chính xác nơi trường hợp của nhân vật Tobia cha trong Bài Đọc 1 hôm nay, một nhân vật đã được chính Thiên Chúa càng in đậm nét "hình và huy hiệu" của Ngài nơi con người và trong cuộc đời của nhân vật này, một nhân vật thực sự đã biết "trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa, và trả về cho Cesa những gì của Cesa", một nhân vật đáng được Thánh Vịnh gia thán phục và ca ngợi trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.

2) Người không kinh hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng, cậy trông vào Chúa. Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, cho tới khi nhìn thấy kẻ thù phải hổ ngươi.

3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang.

 

 

 

Thánh NÔBERTÔ Giám Mục (1080-1134)

 

norbert.jpg

 

Thánh Noberto sinh khoảng năm 1080 tại Xanten, Ngài là con út trong một gia đình vương giả và có họ với nhà vua. Theo truyền thống cao thượng, Ngài đã được dự tính cho làm linh mục. Nhưng thời còn niên thiếu, Noberto đã sống quá xa lý tưởng. Giàu có của cải cũng như dồi dào sinh hư, lại có bản chất dễ dãi, Noberto cho mình vào những buổi lễ linh đình và những cuộc vui chơi thế gian. Không bao giờ một ý tưởng đứng đắn lại có thể xóa tan được những ảo tưởng Ngài nuôi dưỡng trong lòng.

 

Điều may mắn là khi ham vui như vậy, Ngài vẫn không sao nhãng việc học hành. Nhờ vậy, Noberto thông hiểu mọi khoa học, vua Henry mến chuộng Noberto và thâu dụng vào triều đình. Tuy nhiên Noberto vẫn tiếp tục nếp sống xưa. Biết rằng: chỉ có nhân đức mới mang lại hạnh phúc cho tâm hồn, nhưng Noberto lại yêu chuộng "xiềng xích" và không can đảm bẻ gãy được.

 

Một ngày kia Noberto cỡi ngựa đến một làng ở miền Wesphale. Ngài dẫn theo một giai nhân đi tìm thú vui. Khi đến giữa một đồng cỏ thì một cơn giông tố nổi lên sấm chớp dữ dằn. Khó tìm được một nơi trú ngụ, nên Ngài phi ngựa nước rút mong sớm tới đích. Nhưng một cú sét đánh ngay vào chân ngựa. Con vật hoảng hốt hất tung Kỵ sĩ xuống đất. Noberto nằm bất tỉnh tại chỗ như chết trong một giờ. Tỉnh dậy Noberto kêu lên như thánh Phaolô ngày trước : - Lạy Chuá, Chúa muốn con làm gì ?

 

Một tiếng nói bên trong đáp lại : - Hãy tránh sự dữ và làm điều lành.

 

Noberto chỗi dậy và quyết đền bù đời sống đã qua. Khi trở lại triều đình , Ngài trở về Xanten, sống những thinh lặng nội tâm, mặc áo nhặm và dành trọn thời gian cho viêc suy gẫm cầu nguyện. Từ đó, Ngài đã không còn đặt một giới hạn nào cho bậc trọn lành nữa, Ngài đã dành hai năm sám hối để dọn mình chịu chức linh mục và chỉ dâng thánh lễ đầu tiên sau 40 ngày chuẩn bị trực tiếp, Ngài bán hết mọi của cải, phân phát cho người nghèo rồi đi chân không đến xin Đức giáo hoàng ban quyền cho đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Những bài giảng nhất là chính đời sống gương mẫu của Ngài đã tạo nên được nhiều cuộc hối cải là lùng. Chính trong khi thực hiện nỗ lực tông đồ này mà thánh Noberto đã thiết lập tu viện ở Premontré, thường được gọi là dòng áo trắng.

 

Năm 1126, Noberto được đặt làm Tổng giám mục tại Magdburg. Đức tân giám mục vẫn không giảm bớt khắc khổ đi chân không, Ngài nỗ lực đổi mới giáo phận với nhiệt tâm của một thánh nhân bậc nhất. Trong nỗ lực ấy, Ngài phải chịu dựng biết bao là khó khăn, người ta tìm cách cản trở đến độ muốn mưu sát Ngài, nhưng lòng quả cảm và sự nhẫn nại đã đưa Ngài tới thành công. Trong một ít năm, Ngài đã sửa lại được những lạm dụng và làm cho mọi chỗ nên đạo đức hơn. Ngài thường nói: - Tôi đã ở trong triều đình đã rút vào đơn độc, đã được đặt nhiều chức vụ, nhưng tôi đã không tìm thấy được điều gì đẹp hơn là được phụng sự Chúa và thuộc trọn về Ngài.

 

Ở vào địa vị tổng giám mục, thánh Noberto từ đây cũng ảnh hưởng tới Giáo hội ngày càng nhiều hơn. Ngài là bạn của thánh Bernađô và đã giúp đỡ thánh nhân chống lại giáo hoàng giả Anacletus, Ngài cũng đã thành công trong việc chống lại lạc thuyết của Chúa trong bí tích Thánh Thể. Sau bao nhiêu nỗ lực để đổi mới lòng đạo đức trong giáo phận thánh Noberto qua đời vì kiệt sức vào năm 1134.

http://conggiao.info/thanh-noberto-giam-muc-1080-1134-d-16155

https://giaophanlangson.org/news/cac-thanh-theo-lich-phung-vu/ngay-06-6-thanh-noberto-giam-muc-1080-1134-6634.html

http://giaoxutrungdong.com/phung-vu/hanh-cac-thanh/ngay-66-thanh-noberto-giam-muc-1080-1134.html

https://conggiao24h.com/thanh-noberto-giam-muc-1080-1134.html

 

“ Chúa đã chọn vị thánh này làm thượng tế, và mở kho tàng của Chúa cho người, để cho người được sung mãn muôn ơn”( ca nhập lễ thánh Giáo Hoàng hay Giám Mục ). Thánh Nôbertô đã được Chúa tuyển chọn lên hàng Giám Mục, Ngài đã hy sinh quên mình đến cạn kiệt sức lực vì Chúa Kitô và vì Giáo Hội, Giáo phận.

 

MỘT CON NGƯỜI. MỘT CUỘC ĐỜI:

 

Thánh Nôbertô sinh ra trong một gia đình quyền uy, thế giá, giầu sang, phú quí vào năm 1085 tại miền Phénanie. Ngay từ nhỏ thánh nhân đã được dậy dỗ cẩn thận để có thể nối nghiệp cha mình lúc đó đang có thế giá, chức vị trong triều đình. Nhờ óc thông minh, lòng ham học, sự phán đoán chính xác và sự phấn đấu cầu tiến không biết mệt mỏi, thánh nhân đã thành công trên đường học vấn, thi đậu và được tuyển thẳng vào làm việc trong triều đình của Hoàng Đế Henri V.Thánh nhân tuysống trênnhung lụa quyền hành, thế giá trong tay nhưng Ngài vẫn cảm nghiệm:” Phù vân là phù vân”...Mọi sự trên đời như bóng mây, như gió thổi, như mây bay, Ngài cảm nghiệm sâu sắc lời Chúa nói với người thanh niên giầu có:” Hãy về bán hết của cải, phân chia cho kẻ nghèo khó, rồi hãy đến theo Ta”. Thánh nhân đã ước ao đi tìm một cái gì tuyệt đối, cao thượng hơn, đẹp đẽ hơn. Nên, nghe được tiếng Chúa mời gọi, thánh nhân đã bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Thánh nhân đã cố gắng tu tập, sau khi lãnh nhận sứ vụ linh mục, Ngài đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng và đem được không biết bao linh hồn quay về với Chúa. Thánh  nhân có đức tính nổi bật nhất là yêu thương người nghèo, sống tinh thần nghèo khó như lời Chúa nói trong tám mối phúc:” Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ”( Mt 5, 1tt...). Thánh nhân đã hoán cải được biết bao tâm hồn tội lỗi nhờ sự hy sinh và lòng nhiệt thành, đạo đức, thánh thiện của Ngài.

 

Thánh Nôbertô vâng lệnh Ðức Giáo Hoàng và được đặt làm gám mục Mardebourg.  Với một tấm lòng say mê Chúa, với một tâm hồn đạo đức, thánh thiện, thánh Nôbertô luôn vâng lời vì thế năm 1120, Ngài đã tuân hành ý của Đức Thánh Cha Calixtô II, thiết lập một tu viện tại miền Prémontré với ý hướng, tôn chỉ :”sống nghiêm nhặt và chuyên về cầu nguyện”. Danh tiếng tốt lành của Ngài lan tỏa và trí thông minh sáng suốt của Ngài đã là nét son cho Ngài vì thế Ngài đã được bổ nhiệm làm Giám Mục giáo phận Mardebourg. Trên ngôi vị Giám Mục, thánh Nôbertô đã phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách: phục hưng lại nền luân lý lúc đó đang bị suy đồi, bảo vệ quyền lợi của Giáo Hội đang bị giới quyền thế đàn áp. Thánh nhân đặc biệt lưu tâm tới sự độc thân của giới linh mục vì nước trời. Thánh nhân đã làm việc không ngơi nghỉ, với cương vị Giám Mục, Ngài đã làm được biết bao việc tốt đẹp cho Địa Phận, cho Giáo Hội.

 

THÁNH NÔBERTÔ CÓ CÔNG NHIỀU VỚI GIÁO HỘI:

 

Thánh Nôbertô đã rất có công đối với Hội Thánh: đặc biệt Ngài đã giúp Đức Giáo Hoàng Innocentê II cách đắc lực khi công đồng Reims được triệu  tập. Thánh nhân cũng phải đương đầu mạnh mẽ, quyết liệt với nhóm ly giáo Pierre de Léon. Thánh nhân đã làm việc không ngừng nghỉ. Nên, sau cùng vì quá mệt mỏi, kiệt quệ với công việc, thánh nhân lâm bệnh nặng và ra đi trở về với Chúa vào ngày 06 tháng 6 năm 1134 tại địa phận Mardebourg, nước Pháp.  “Lạy Chúa, Chúa đã thương ban cho Hội Thánh một vị giám mục rất nổi danh về đời sống cầu nguyện và  lòng nhiệt thành của người mục tử là thánh Nôbertô. Vì lời thánh nhân chuyển cầu, xin Chúa sai những người mục tử vừa ý  Chúa đến hướng dẫn chúng con tới nguồn ơn cứu độ”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Nôbertô, giám mục ).

 

http://giaophanvinhlong.net/thanh-noberto.html

http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang6/Ngay6.htm

 

 

Thánh Norbertô sinh ở Xanten, Rhineland, nước Đức, khoảng năm 1080. Khi là thanh niên, Norbertô rất yêu chuộng thế gian và các vui thú của nó. Ðó là thói quen từ một gia đình quyền quý và được nối tiếp trong sinh hoạt của triều đình nước Ðức. Không một cuộc vui nào mà anh không có mặt. Ðể đảm bảo cho việc thăng quan tiến chức trong triều đình, anh không do dự chấp nhận chức kinh sĩ, là một chức thánh, và các lợi lộc tài chánh của chức vụ đó.

 

 Tuy nhiên, anh đã do dự khi trở thành một linh mục với tất cả các trách nhiệm của ơn gọi ấy. Các biến cố xảy ra trong đời là để Thiên Chúa thức tỉnh con người. Một ngày kia, trong cơn bão Norbertô đã ngã ngựa và bất tỉnh gần một giờ đồng hồ dưới cơn mưa tầm tã. Khi tỉnh dậy, câu đầu tiên anh tự hỏi là, “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Và tận đáy tâm hồn, anh nghe như có câu trả lời, “Hãy tránh xa sự dữ và làm việc lành. Hãy tìm kiếm bình an và theo đuổi sự bình an ấy.” Anh bắt đầu một cuộc đời cầu nguyện và sám hối.

 

Sau khi chịu chức linh mục năm 1115, Cha Norbertô thay đổi hoàn toàn đến độ các bạn bè cũ trong triều đình đều cho là ngài giả hình. Ngài phản ứng bằng cách phân phát hết của cải cho người nghèo và đến xin đức giáo hoàng cho phép ngài đi rao giảng. Với hai linh mục bạn, Cha Norbertô đi khắp Âu Châu để truyền giáo. Và để ăn năn đền tội, ngài đi chân đất giữa mùa đông buốt giá.

 

Không may, hai linh mục bạn đã lâm bệnh và từ trần. Tuy nhiên, ngài bắt đầu được cảm tình của các giáo sĩ trước đây từng khinh miệt ngài. Ðức giám mục của Laon muốn ngài canh tân các kinh sĩ trong giáo phận, nhưng các kinh sĩ lại không muốn thay đổi theo kiểu của Cha Norbertô, họ cho là quá khắt khe. Vị giám mục không muốn mất con người thánh thiện này, nên đã tặng cho Cha Norbertô một phần đất đai để ngài có thể khởi sự một cộng đoàn. Trong thung lũng cô tịch có tên là Premontre, ngài đã khởi sự một tu hội với mười ba kinh sĩ. Dù với quy luật khắt khe, hay có lẽ chính vì sự khắt khe, nhiệm nhặt đó mà càng ngày tu hội càng thu hút được nhiều người, kể cả các kinh sĩ trước đây từng chống đối ngài.

 

Dù được sự giúp đỡ của các nhân vật thế lực trong triều, Cha Norbertô biết không sức mạnh nào có thế lực cho bằng uy quyền của Thiên Chúa, do đó, tu hội Premonstratensian đặc biệt sùng kính Thánh Thể, và các tu sĩ đã thành công trong việc hoán cải các người lạc giáo, hoà giải các kẻ chống đối Giáo Hội và kiên cường đức tin cho các tín hữu. Trong tu hội của thánh Norbertô, chúng ta còn nhận ra được dấu vết của sự tham dự của giáo dân vào trong cuộc sống của dòng tu. Đó là trường hợp bá tước Theobald muốn đến với thánh Robertô. Ngài nhận ra được rằng bá tướcTheolbald không được gọi để nhận lãnh các chức thánh, mà là được gọi thi hành các nhiệm vụ của sống đời hôn nhân và trần thế. Nhưng ngài không hoàn toàn loại bỏ Theobald, mà con ban cho ông ta một qui luất và những cách thi thố lòng sùng kính, thậm chí cả bộ áo dòng để mặc hầu minh định ông ta thuộc về nhà dòng.

 

Chính trong cuộc đi tham dự lễ cưới của bá tước Theobald này,  Cha Norbertô được Hoàng Ðế Lothair để ý và chọn ngài làm giám mục của Magdebourg. Với nhiệt huyết canh tân giáo hội, ngài đã cải tổ giáo phận và gặp nhiều sự chống đối cũng như có lần bị ám sát hụt. Chán nản vì giáo dân không muốn cải tổ, ngài bỏ đi nhưng được hoàng đế và đức giáo hoàng gọi lại. Khi hai vị giáo hoàng đối địch nhau được bầu lên sau sau cái chết của Ðức Giáo hoàng Honorius II, Ðức Norbertô đã giúp hàn gắn Giáo Hội bằng cách thúc giục hoàng đế hậu thuẫn cho vị giáo hoàng được chọn đầu tiên, là Ðức Innôxentê II. Vào cuối đời, Ðức Norbertô được chọn làm tổng giám mục, nhưng ngài đã từ trần sau đó không lâu, khi 53 tuổi.

 

Lời Bàn

Một thế giới khác biệt không thể hoàn thành bởi những người thờ ơ, lãnh đạm. Ðiều đó cũng đúng với Giáo Hội. Giáo Hội không thể nào thay đổi phù hợp với tinh thần của Công Ðồng Vatican II nếu hàng giáo sĩ và giáo dân không tha thiết với việc xây dựng đức tin. Noi gương Thánh Norbertô, chúng ta phải trung thành với Giáo Hội, nhiệt tâm sùng kính Thánh Thể để có sức mạnh giúp chúng ta sống theo đường lối của Ðức Kitô.

 

Lời Trích

Trong dịp tấn phong linh mục của tu hội, Thánh Norbertô giảng, “Ôi linh mục! Bạn không còn cho chính bạn vì bạn là tôi tớ và thừa tác viên của Ðức Kitô. Bạn không còn thuộc chính mình vì bạn là hôn phu của Giáo Hội. Bạn không còn là chính bạn vì bạn là người

 

https://dongten.net/2019/06/05/hanh-cac-thanh-06-06-thanh-norberto/

 

 

 

 

Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tb 3, 1-11. 24-25 (Hl 1-11. 16)

"Lời cầu nguyện của hai người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận".

Trích sách Tôbia.

Trong những ngày ấy, Tôbia thổn thức và khóc lóc cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, Chúa công bình, mọi sự xét đoán của Chúa đều công minh, mọi đường lối của Chúa là từ bi, chân lý và phán quyết. Lạy Chúa, giờ đây xin hãy nhớ đến con, xin đừng báo oán tội lỗi con, xin đừng nhớ đến những lỗi lầm của con và của cha ông con. Bởi chúng con đã không vâng theo các giới răn của Chúa, nên Chúa để cho chúng con bị cướp bóc, tù đày, chết chóc, nhạo báng, và khinh bỉ nơi các dân mà chúng con bị lưu đày. Lạy Chúa, giờ đây sự xét xử của Chúa thật cao cả và công bình, vì chúng con không sống theo giới răn Chúa, và không thành tâm tiến bước trước thánh nhan Chúa. Lạy Chúa, giờ đây xin cứ đối xử với con theo thánh ý Chúa, và xin hãy cho linh hồn con được an nghỉ; vì thà con được chết còn hơn sống!"

Cũng trong ngày đó, xảy ra là Sara, con gái của Raguel, người thành Mêđi, cũng bị một đứa đầy tớ gái của cha cô lăng mạ, bởi vì cô đã kết hôn với bảy người đàn ông, nhưng khi họ vừa đến gần cô, thì bị quỷ Asmođêô giết chết ngay. Vậy khi một đứa tớ gái có lỗi, cô quở mắng nó, nó liền trả lời rằng: "Ðồ sát chồng, chúng tôi sẽ không nhìn thấy con trai con gái của bà trên mặt đất này. Nào bà muốn giết tôi như đã giết bảy người chồng của bà đó sao?" Nghe lời đó, cô liền đi thẳng lên lầu nhà cô, và trong ba ngày đêm, cô không ăn uống gì cả, cô chỉ cầu nguyện, khóc lóc than van cùng Thiên Chúa, mong Người cứu thoát cô khỏi cảnh nhục nhã ấy.

Lúc ấy, lời cầu nguyện của hai người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận. Chúa liền sai thiên thần Raphael đến để cứu giúp hai người trong chính lúc họ dâng lời cầu nguyện lên trước tôn nhan Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 2-4a. 4b-5ab. 6-7bc. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, con vươn linh hồn lên tới Chúa (c. 1b).

Xướng: 1) Con tin cậy vào Chúa, xin đừng để con tủi hổ. Xin đừng để quân thù hoan hỉ về con. Phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi, hổ ngươi sẽ là những kẻ liều thân phản bội. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào Chúa. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

4) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối, Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 18-27

"Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc".

Ðó là lời Chúa.


Mark 12:18-27 – What will the Resurrection be like? | Fr. Charles Erlandson  Erlandson


Suy Niệm Cảm Nghiệm

"Thiên Chúa kẻ sống"

Suy Niệm


Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh trở lại một cách tỏ tường hơn 2 ngày đầu tuần này ở phụng vụ Lời Chúa hôm nay, Thứ Tư Tuần IX Thường Niên, qua lời Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (12:18-27), xác quyết với "
ít người phái Sađốc" là thành phần "không tin có sự sống lại" rằng: "
Ngài không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống"

Một trong những chứng cứ được phái Sađốc căn cứ vào để phủ nhận sự kiện sống lại, đó là chính câu họ đặt ra chất vấn Chúa Giêsu:
 


"Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ".

Nghe như thế, Chúa Giêsu đã khẳng định với họ rằng:
 "các ông thật lầm lạc". Ở chỗ nào? Ở chỗ, như Người vạch ra cho họ thấy, trước hết về lý do họ lầm lạc
"Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa", sau nữa về chính vấn đề vợ chồng liên quan đến việc sống lại: "khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: 'Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp'".

"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" 
là một chân lý được chính Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay. 

Trước hết, 
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" 
ám chỉ mầu nhiệm thân xác của con người sẽ được sống lại, dù họ là người lành hay kẻ dữ. Thật vậy, thân xác của loài người, sau nguyên tội và bởi nguyên tội, "đã từ đất bụi phải trở về với đất bụi" (Khởi Nguyên 3:19). Thế nhưng, nhờ "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) và Vượt Qua mà thân xác của con người đã được giải cứu khỏi sự chết về thể lý, nghĩa là sẽ được sống lại, trở thành thiêng liêng "như thiên thần", không còn vấn đề liên hệ xác thịt như trong đời sống vợ chồng nữa. Con người thực sự đã được Chúa Kitô cứu chuộc cả linh hồn lẫn thân xác chứ không phải chỉ nguyên một minh linh hồn bất t mà thôi, nhờ đó, thân xác thiêng liêng mới có thể cùng với linh hồn vô hình tồn tại đến muôn đời muôn kiếp.

Sau n
ữa, "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" còn ám chỉ Ngài là Thiên Chúa của thành phần công chính sống theo đức tin, như 3 vị tổ phụ tiêu biểu của dân Do Thái là "Abraham, Isaac và Giacóp", thành phần nhận biết Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất nên đã chấp nhận ý muốn của Ngài và đáp ứng những gì Ngài muốn, cho dù tương lai có mù mịt không biết bỏ quê cha đất tổ đi về đâu, thậm chí cho dù có phải chính tay sát hại đứa con duy nhất của một giòng dõi đông như sao trời nhiều như cát biển theo lời Chúa hứa, như trường hợp của tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 12:1-4 và 22:15-18), cha của các kẻ tin (xem Roma 4:9-12).

Thật vậy, tất cả mọi xác phàm đều sống lại, nhưng chỉ có kẻ nào tin tưởng "
nhận biết Cha là 
Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô" (Gioan 17:3) mới được "sự sống đời đời" (cùng đoạn vừa dẫn), vi một thân xác phục sinh vinh hiển như thân xác phục sinh của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21). Tuy nhiên, kể cả thành phần bị hư đi trong hỏa ngục chăng nữa, thậm chí bao gồm cả Satan và ma quỉ, cho dù không muốn, bấy giờ, trong cõi đời đời, cũng vẫn "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô". 

Thế nhưng, sự "nhận biết" này ở trong cõi hư mất không phải bởi Thánh Linh của Thiên Chúa ở trong họ như khi họ chưa hư đi nữa, mà bởi họ 
không thể nào chối bỏ được sự thật bất diệt này, hay nói cách khác, bởi "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5) không thể nào không chiếu soi, cho dù con người có chấp nhận hay phủ nhận, một "ánh sáng thật" (Gioan 1:9): "Ánh sáng chiếu trong tăm tối, thứ tối tăm không thể nào át được ánh sáng" (Gioan 1:5). 

Cảm Nghiệm

 

Chính vì "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" mà Ngài đã chẳng những tỏ mình ra cho riêng dân Do Thái qua suốt giòng lịch sử cứu độ của họ cho tới khi Ngài tỏ hết mình ra "vào thời viên trọn" (Galata 4:4) nơi Con của Ngài là Lời Nhập Thể Vượt Qua, mà còn cho chung loài người qua chứng từ của Giáo Hội Chúa Kitô, một Nhiệm Thể được cấu trúc liên hợp giữa Chúa Kitô là Đầu và các chi thể Kitô hữu của Người, nhất là những chi thể gắn bó với Người như cành nho dính liền với thân nho để nhờ đó họ có thể sinh nhiều hoa trái bằng chứng từ "đức tin thể hiện qua đức ái" của họ (xem Galata 5:6). 

Thật vậy, trong Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Tobia, chúng ta đã thấy được chân lý "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" ở nơi 2 tâm hồn thống khổ, nhưng vẫn tin tưởng vào vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân tộc mình, nên chỉ còn biết bày tỏ nỗi lòng đớn đau nhức buốt của mình với Ngài thôi, đó là nhân vật Tobia bố và Sara là người con dâu tương lai của ông.

Nỗi đớn đau thống thiết của nhân vật Tobia bị vợ đay nghiến bởi việc làm bác ái yêu thương, qua việc liều mình chôn xác kẻ chết của đồng hương, và thái độ công chính của mình, về của cải trần gian, đã lên đến tột cùng, đến độ, sau khi nhận biết mình cùng ăn năn thống hối trước nhan Chúa, đã chân thành và tha thiết nguyện xin cùng Ngài rằng: "Lạy Chúa, giờ đây sự xét xử của Chúa thật cao cả và công bình, vì chúng con không sống theo giới răn Chúa, và không thành tâm tiến bước trước thánh nhan Chúa. Lạy Chúa, giờ đây xin cứ đối xử với con theo thánh ý Chúa, và xin hãy cho linh hồn con được an nghỉ; vì thà con được chết còn hơn sống!"

Còn nỗi đớn đau thống thiết nơi đứa con dâu tương lai của ông là Sara, đối với thân phận nữ giới thời bấy giờ ở dân tộc Do Thái và với vai trò làm con của gia chủ đầy quyền hành, bị một đứa nữ tỳ thậm tệ mỉa mai đay nghiến một cách hỗn xược, như một lời nguyền rủa: "Ðồ sát chồng, chúng tôi sẽ không nhìn thấy con trai con gái của bà trên mặt đất này. Nào bà muốn giết tôi như đã giết bảy người chồng của bà đó sao?". Bởi thế, thay vì quát tháo, chửi mắng và đuổi ngay con nữ tỳ quái gở ấy đi, thì phản ứng bác ái của nàng là: "Nghe lời đó, cô liền đi thẳng lên lầu nhà cô, và trong ba ngày đêm, cô không ăn uống gì cả, cô chỉ cầu nguyện, khóc lóc than van cùng Thiên Chúa, mong Người cứu thoát cô khỏi cảnh nhục nhã ấy".

Với hai tâm hồn sống "đức tin thể hiện qua đức ái" của họ (xem Galata 5:6) như thế, Vị "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" đã tỏ mình ra một cách thực tế ngay trong trường hợp của cả hai người như sau: "Lúc ấy, lời cầu nguyện của hai người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận. Chúa liền sai thiên thần Raphael đến để cứu giúp hai người trong chính lúc họ dâng lời cầu nguyện lên trước tôn nhan Chúa". Và đó là lý do những tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay rất thích hợp với hai tâm hồn tin tưởng vào Vị "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống", như sau:

1) Con tin cậy vào Chúa, xin đừng để con tủi hổ. Xin đừng để quân thù hoan hỉ về con. Phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi, hổ ngươi sẽ là những kẻ liều thân phản bội.

2) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào Chúa.

3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.

4) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối, Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.



Thứ Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Tb 6, 10-11a; 7, 1. 9-17; 8, 4-10

"Thiên Chúa đã khiến các người đến nhà tôi để con gái tôi kết hôn với người trong thân tộc".

Trích sách Tôbia.

Trong những ngày ấy, Tôbia hỏi thiên thần rằng: "Ngài muốn chúng ta ở đâu?" Thiên thần trả lời rằng: "Ở đây có người tên là Raguel, người bà con thuộc chi tộc của anh; và ông này có người con gái tên là Sara". Thiên Thần và Tôbia đi vào nhà Raguel, và được Raguel vui mừng đón tiếp.

Sau khi trò truyện, Raguel bảo giết chiên dọn tiệc, rồi mời khách ngồi vào bàn ăn. Tôbia liền nói: "Hôm nay đây cháu không ăn uống gì cả, nếu bác không chấp nhận lời cháu thỉnh nguyện: xin bác hứa gả con của bác là Sara cho cháu".

Vừa nghe câu đó, Raguel hoảng sợ, vì biết việc đã xảy ra cho bảy người chồng trước, khi họ tới gần con gái của ông. Ông lo sợ kẻo người này cũng đồng số phận như vậy chăng. Trong lúc ông lưỡng lự, không biết phải trả lời làm sao với kẻ xin cưới con mình, thiên thần liền nói: "Ông đừng sợ gả con gái ông cho người này, vì con gái ông xứng đáng làm vợ người này vốn hay kính sợ Thiên Chúa; do đó, không ai khác cưới được nàng". Bấy giờ Raguel thưa: "Tôi không còn hồ nghi, vì Chúa đã chấp nhận lời tôi kêu cầu và nước mắt tôi chảy ra trước tôn nhan Người. Tôi cũng tin rằng vì thế mà Người khiến các người đến nhà tôi, để con gái tôi kết hôn với người trong thân tộc mình theo luật Môsê, và giờ đây tôi không ngần ngại gả con gái tôi cho cháu". Ông liền nắm tay con gái ông, đặt vào lòng tay mặt của Tôbia và nói rằng: "Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp ở cùng hai con, chính Người phối hợp hai con, xin Người ban tràn đầy ơn phúc lành của Người xuống cho hai con. Hai bên làm giấy hôn thú. Và sau đó họ ăn tiệc cưới cảm tạ Thiên Chúa.

Bấy giờ Tôbia khuyên bảo nàng trinh nữ rằng: "Hỡi Sara, hãy chỗi dậy, chúng ta hãy cầu nguyện cùng Thiên Chúa hôm nay, mai và mốt; trong ba đêm đầu, chúng ta hãy kết hợp với Thiên Chúa. Qua đêm thứ ba rồi, chúng ta mới giao hợp với nhau: vì chúng ta là con cái các thánh, chúng ta không thể giao hợp với nhau như những người dân ngoại không biết gì đến Thiên Chúa". Cả hai cùng chỗi dậy, cùng cầu nguyện không ngừng, để xin ơn được sống thanh sạch. Tôbia nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ phụ chúng con, danh Chúa đáng chúc tụng cho đến muôn đời! Hỡi trời đất, biển cả, sông ngòi và mọi tạo vật, hãy chúc tụng Chúa. Chúa đã lấy bùn đất mà dựng nên Ađam, và ban cho người một bà nội trợ là Evà. Và giờ đây, lạy Chúa, Chúa biết không phải vì dục tình mà con cưới em này làm vợ, song chỉ vì muốn có con cái nối dòng, để danh Chúa được chúc tụng muôn đời". Sara cũng nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, xin thương xót chúng con, xin cho hai chúng con được an khang trường thọ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5

Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa (x. c. 1a).

Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người: Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn; con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. - Ðáp.

3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con! - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 28b-34

"Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất và ngươi hãy kính mến Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?" Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó". Luật sĩ thưa Người: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất, và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác. Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh". Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.

Ðó là lời Chúa.

 




Suy Niệm Cảm Nghiệm


Tin Yêu Lẽ Sống


Suy Niệm

 

 

Phụng vụ Lời Chúa cho Thứ Năm của Tuần IX Thường Niên hôm nay bao gồm bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (12:28b-34) và bài đọc 1 trích từ Sách Tobia (6:10-11a; 7:1,9-17; 8:4-10) cùng với bài Đáp Ca trích từ Thánh Vịnh 127 (1-2,3,4-5), tất cả đều phản ảnh ý nghĩa của chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh ở một khía cạnh nào đó. 

 

Trước hết, lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm đã cho thấy "sự sống" thần linh là ở chỗ kính mến Thiên Chúa hết bản thân mình: "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức", cùng yêu thương tha nhân như bản thân mình: "hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". 

 

Giới răn thứ hai "yêu tha nhân như bản thân mình" là giới răn gắn liền bất khả phân ly với giới răn thứ nhất và là giới răn bất khả châm chước. Đến độ, Chúa Giêsu đã khẳng định với vị luật sĩ hỏi Người "trong các giới răn, điều nào trọng nhất?" về cả 2 giới răn bất khả phân ly này rằng: "Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó", một câu trả lời chí lý khiến nhà thông luật đặt vấn nạn đã phải công nhận một cách rất chính xác rằng: "Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh", một nhận thức tuyệt vời chỉ cần thực hành nữa là trọn vẹn nên vị luật sĩ đã được Chúa Giêsu vừa khen tặng vừa phấn khích rằng: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". 

 

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao "Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó"? Phải chăng "yêu thương là hoàn trọn lề luật(Roma 13:10)!? Và phải chăng yêu thương mới làm cho con người hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, ở chỗ tác động yêu thương chính là tác động con người nhận biết Ngài là "Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất", chỉ có Ngài là đáng yêu trước hết mọi sự và trên hết mọi sự, Đấng "đã yêu chúng ta trước" (1Gioan 4:19), như Ngài đã tự tỏ mình ra đúng là như thế trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái: Ngài đã yêu thương dân của Ngài tuyển chọn một cách nhưng không, đã yêu thương một cách trọn lành, đã yêu thương một cách thủy chung, bất chấp dân này phản bội Ngài và liên lỉ gian dâm ngoại tình với tà thần ngoại bang cùng ngẫu tượng của họ.

 

Vì Chúa Kitô "xuất hiện lần thứ hai là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28), tức những ai "bền đỗ cho đến cùng" (Mathêu 24:13) bằng lòng tin tưởng mãnh liệt vào Người, mà "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), một đức ái chính là hoa trái của đức tin, là tầm vóc viên mãn của đức tin. Bởi thế, trong cuộc chung thẩm, để được sự sống đời đời hay bị luận phạt, con người sẽ bị Vị Thẩm Phán Giêsu phán xét theo tiêu chuẩn đức ái về hành động đối với tha nhân - yêu thương nhau như bản thân mình, mà thật ra là đức tin về tinh thần đối với Thiên Chúa - kính mến Thiên Chúa hết mình (xem Mathêu 25:37-39,44).


Cảm Nghiệm
 

 

"Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó", ở chỗ con người phải kính mến Chúa hết mình và yêu tha nhân như mình; nhưng muốn được như thế, chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa, như ở nơi hai tâm hồn trong Bài Đọc 1 hôm nay, như được Sách Tobia thuật lại, đó là chàng Tobia con và nhân vật nhạc phụ tương lai của chàng, tương tự như trường hợp Tobia cha và nàng con dâu tương lai của ông trong Bài Đọc 1 hôm qua.

Chính vì kính mến Thiên Chúa hết mình và yêu tha nhân như mình mà ông bố của người vợ tương lai của chàng Tobia con mới lo sợ không dám gả con mình cho chàng, kẻo chàng cũng chịu chung số phận tử vong như 7 người chồng mới cưới khác trong ngay đêm động phòng của họ với con gái của ông. Cho tới khi ông nhận biết ý Chúa, qua lời thiên sứ Raphael mà ông cứ tưởng là bạn đồng hành với chàng con rể tương lai của ông, ông mới tin tưởng mau mắn tuân theo


"'Tôi không còn hồ nghi, vì Chúa đã chấp nhận lời tôi kêu cầu và nước mắt tôi chảy ra trước tôn nhan Người. Tôi cũng tin rằng vì thế mà Người khiến các người đến nhà tôi, để con gái tôi kết hôn với người trong thân tộc mình theo luật Môsê, và giờ đây tôi không ngần ngại gả con gái tôi cho cháu'.
Ông liền nắm tay con gái ông, đặt vào lòng tay mặt của Tôbia và nói rằng: 'Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp ở cùng hai con, chính Người phối hợp hai con, xin Người ban tràn đầy ơn phúc lành của Người xuống cho hai con'". 

Về phần chàng Tobia con cũng thế, thậm chí hơn thế nữa, ở chỗ đã tin tưởng vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của cha ông mình, nên đã tỏ ra kính mến Ngài hết mình, qua lời cầu rất tuyệt vời của một người chàng rể lý tưởng nhất, có thể nói không thể tìm thấy trên trần gian này ở vào đêm động phòng, qua lời chàng khuyên vợ, nhất là lời chàng cầu với Thiên Chúa như sau: 

"'Hỡi Sara, hãy chỗi dậy, chúng ta hãy cầu nguyện cùng Thiên Chúa hôm nay, mai và mốt; trong ba đêm đầu, chúng ta hãy kết hợp với Thiên Chúa. Qua đêm thứ ba rồi, chúng ta mới giao hợp với nhau: vì chúng ta là con cái các thánh, chúng ta không thể giao hợp với nhau như những người dân ngoại không biết gì đến Thiên Chúa'. Cả hai cùng chỗi dậy, cùng cầu nguyện không ngừng, để xin ơn được sống thanh sạch. Tôbia nguyện rằng: 'Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ phụ chúng con, danh Chúa đáng chúc tụng cho đến muôn đời! Hỡi trời đất, biển cả, sông ngòi và mọi tạo vật, hãy chúc tụng Chúa. Chúa đã lấy bùn đất mà dựng nên Ađam, và ban cho người một bà nội trợ là Evà. Và giờ đây, lạy Chúa, Chúa biết không phải vì dục tình mà con cưới em này làm vợ, song chỉ vì muốn có con cái nối dòng, để danh Chúa được chúc tụng muôn đời'".

Những lời chúc tụng như thể chúc phúc trong Bài Đáp Ca hôm nay thật xứng đáng với chung đôi tân hôn trong Bài Đọc 1 hôm nay, cách riêng với người chàng rể đã yêu Chúa hết mình và yêu người như mình là chính người vợ của chàng trong giây phút động phòng có thể ngất ngây hưởng thụ ngay bấy giờ, bởi chàng thực sự thuần khiết yêu nàng như bản thân mình (xem Epheso 5:28):

1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người: Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn; con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa.

3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con!

 

 


Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Tob 11, 5-17

"Chúa đã sửa phạt tôi, và lại cứu chữa tôi, đây tôi nhìn thấy con trai tôi"

Bài trích sách Tobia.

Trong những ngày ấy, mỗi ngày bà Anna đến ngồi ở vệ đường bên sườn núi, nơi đó có thể nhìn xa được.

Cũng tại chỗ đó, đang lúc bà ngóng chờ con bà trở về, thì bà thấy và nhận ra con bà từ đàng xa đi đến, bà chạy báo tin cho chồng rằng: "Kìa, con mình đang về tới kia".

Và Raphael nói với Tobia rằng: "Lúc bạn vào nhà rồi, lập tức bạn hãy thờ lạy Chúa là Thiên Chúa bạn, và cảm tạ Người, rồi bạn đến gần mà hôn cha của bạn. Liền sau đó, bạn hãy lấy mật cá đem theo mình, xức lên mắt ông. Mắt của ông sẽ mở ra, cha của bạn sẽ thấy ánh sáng mặt trời, và hân hoan trước mặt bạn".

Bấy giờ con chó đi theo Tobia, chạy về trước, nó vui mừng vẫy đuôi như báo tin. Người cha mù lòa của Tobia chỗi dậy, loạng choạng đi ra cửa đón con mình.

Ông đón lấy và hôn con ông và vợ nó.

Cả hai oà lên khóc vì vui mừng.

Sau khi thờ lạy và cảm tạ Thiên Chúa, họ cùng ngồi xuống.

Bấy giờ Tobia lấy mật cá, xức lên mắt cha mình.

Chờ đợi nửa giờ, thì một vẩy trắng tựa như màng trứng tách ra khỏi hai mắt.

Tobia cầm vẩy trắng ấy kéo ra khỏi mắt cha mình, ông liền thấy được.

Rồi ông, vợ ông và những người quen thuộc ca tụng Chúa.

Còn Tobia thì cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa sửa phạt tôi, và lại cứu chữa tôi; đây chính tôi đang nhìn thấy Tobia con trai của tôi".

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 145, 2abc, 7,8-9abc-10

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa. (2a)

Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa, tôi sẽ ngợi khen Chúa suốt cả cuộc đời, bao lâu còn có thân tôi, tôi còn ca ngợi Chúa. - Ðáp.

2) Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. - Ðáp.

3) Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.

4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi, quả phụ và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 35-37

"Sao họ có thể bảo Ðức Kitô là Con vua Ðavít?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: "Sao các luật sĩ lại nói Ðấng Cứu Thế là con vua Ðavít? Vì chính Ðavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con". Chính Ðavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Ðavít được?" Và đám dân chúng thích thú nghe Người nói.

Ðó là lời Chúa.

 




Suy Niệm Cảm Nghiệm

Sự sống chiếu soi


Suy Niệm

 

 

"Đám dân chúng thích thú nghe Người nói". Bài Phúc Âm hôm nay (Marco 12:35-37) đã được kết thúc như thế. Bởi vì, họ thấy vấn đề được Người đặt ra rất là kỳ lạ nhưng hết sức lý thú mà họ chắc chưa bao giờ nghe thấy, hoặc tự nghĩ ra hay đặt vấn đề.

 

Theo bài Phúc Âm của Thánh ký Marco thì đây không phải là vấn đề được thành phần thông luật vốn chất vấn ngài đặt ra, mà chính Người tự nêu lên: 

 

"Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: 'Sao các luật sĩ lại nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít? Vì chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con'. Chính Đavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Đavít được?'" 

 

Ở đây, trong bài Phúc Âm này, không thấy Thánh ký Marco thuật lại những lời giải đáp của Chúa Giêsu về vấn nạn chính Người tự nêu lên ấy. Thế nhưng, căn cứ vào chính vấn nạn tự đặt ra này của Chúa Giêsu: "Chính Đavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Đavít được?", chúng ta thấy dường như Người muốn kín đáo mạc khải cho dân Do Thái biết rằng Người là vị Thiên Chúa nhập thể, có 2 bản tính, thiên tính và nhân tính. 

 

Thiên tính ở chỗ: "Chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con'. Chính Đavít gọi Người là Chúa". Nhân tính ở chỗ: "Các luật sĩ lại nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít". 

 

Đây là một mạc khải thần linh do chính Đấng có 2 bản tính tỏ ra, chứ không phải do loài người suy luận. Loài người chỉ suy luận theo những dấu hiệu bề ngoài, và lập luận theo lý lẽ của trần gian mà thôi. Ở chỗ, nếu "Đấng Cứu Thế là con Vua Đavít", mà Vua Đavít là loài người thì tất nhiên con của vua cũng phải là loài người và chỉ là loài người như vua, chứ không thể nào lại là một Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả, tự hữu và hằng hữu có trước vua và dựng nên vua. 

 

Vấn đề ở đây là tại sao Chúa Giêsu lại đặt vấn đề này ở đây, với mục đích gì? Thánh ký Marco không cống hiến cho chúng ta một chút ánh sáng nào, trong khi đó Thánh Mathêu ở cuối đoạn 22, đã cho biết thêm mấy chi tiết như sau: chi tiết thứ nhất đó là sở dĩ Người đặt câu hỏi này là để răn cho thành phần Pharisiêu kiêu ngạo một bài học biết mình trước mặt Người.

 

Thật vậy, theo trình thuật của Thánh Mathêu thì sau khi thấy phái Sađốc vừa bị Chúa Giêsu bịt miệng về vấn đề sống lại, (được bài Phúc Âm hôm Thứ Tư tuần này thuật lại), nhóm người Pharisiêu đã qui tụ lại như thể muốn chứng tỏ họ khôn ngoan thông giỏi hơn nhóm Sađốc, với một câu hỏi khác còn độc hơn vấn đề của phái Sađóc nữa, đó là vấn đề giới răn trọng nhất (được bài Phúc Âm hôm qua Thứ Năm thuật lại). 

 

Thế rồi, sau khi Chúa Giêsu trả lời cho nhóm Pharisiêu xong, Thánh ký Mathêu liền cho biết tiếp thế này: "Chúa Giêsu đã đặt một câu hỏi ngược lại cho những người Pharisiêu qui tụ bấy gi" (22:41), đó là chính câu cũng được Thánh ký Marco thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, để rồi sau câu hỏi của Người, Thánh Ký Mathêu đã kết luận như sau: "Không ai có thể trả lời, vì vậy, từ hôm ấy trở đi, chẳng có ai dám hỏi Người bất cứ câu hỏi nào nữa" (22: 46). 

 

Thái độ tỏ ra thông luật mà lại mù tịt trước vấn đề được Chúa Giêsu đặt ra như thế chứng tỏ thành phần thông luật này chỉ là thứ đám con nít trước mặt một vị Đại Sư Thần Linh Giêsu vậy thôi. Đó là lý do ngày mai chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu càng tỏ ra thẩm quyền của mình đối với thành phần thông luật giả hình này như thế nào....


Cảm Nghiệm

 

 

 

Vần đề được Chúa Giêsu đặt ra trong Bài Phúc Âm hôm nay, theo mạc khải Thánh Kinh, đó là "các vị luật sĩ nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít", đúng như mạc khải Thánh Kinh của Thiên Chúa, nhưng họ chưa có thể áp dụng nhận thức thánh kinh này vào chính bản thân Chúa Kitô, tức họ chưa nhận ra Chúa Kitô, Đấng vì thế mà đang cố gắng giúp cho họ nhận ra Người khi cố ý gợi lên thắc mắc về nguồn gốc thần linh của "Đấng Cứu Thế là con vua Đavít" theo nguồn gốc trần gian bởi huyết nhục của Người: "Vì chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con'".

 

Vậy thì nội dung của Bài Phúc Âm hôm nay có liên hệ gì với câu truyện được Sách Tobia thuật lại trong Bài Đọc 1 hôm nay hay chăng, câu chuyện về sự kiện nhân vật Tobia bố được chữa lành con mắt đã bị đui mù sau khi ông thực hiện một việc bác ái, được xuất phát từ lòng tin của ông vào Thiên Chúa, là chôn xác đồng hương Do Thái của mình, cho dù nguy hiểm đến tính mạng?

 

Xin thưa có, ở chỗ, nếu cuối bài Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marcô ghi nhận rằng: "Đám dân chúng thích thú nghe Người nói", vì họ thấy vấn đề được Người đặt ra rất là kỳ lạ nhưng hết sức lý thú mà họ chắc chưa bao giờ nghe thấy, hoặc tự nghĩ ra hay đặt vấn đề, thì trong Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta cũng thấy thậm chí cả con vật cũng vui mừng nữa: "Bấy giờ con chó đi theo Tobia, chạy về trước, nó vui mừng vẫy đuôi như báo tin", nhất là thầy hai cha con Tobia tốt lành, tin Chúa yêu người: "Cả hai oà lên khóc vì vui mừng". Tại sao thế?

 

Tất nhiên tại vì hai cha con gặp lại nhau sau bao nhiêu ngày xa cách nhớ nhung, một nỗi nhung nhớ đến độ, như được tỏ hiện qua hành động của người mẹ cũng là người vợ của hai cha con này: "Trong những ngày ấy, mỗi ngày bà Anna đến ngồi ở vệ đường bên sườn núi, nơi đó có thể nhìn xa được. Cũng tại chỗ đó, đang lúc bà ngóng chờ con bà trở về, thì bà thấy và nhận ra con bà từ đàng xa đi đến, bà chạy báo tin cho chồng rằng: 'Kìa, con mình đang về tới kia'".

 

Chính vì gặp lại nhau mà cả nhà Tobia đã vui mừng hớn hở như thế thì họ còn vui mừng đến là chừng nào khi thấy ơn Chúa tuôn đổ xuống cho gia đình này, chẳng những trên cá nhân Tobia con đã lấy được người vợ đúng như Thiên Chúa xe định, cũng như trên cả Tobia bố, và tất nhiên bao gồm cả người vợ đã đay nghiến ông đến độ ông muốn chết đi cho xong, nhờ đó, qua những gì bà thấy được ơn Chúa xuống cho ông mà nhận biết Chúa hơn, và ơn đó chính là ơn ông được chính Thiên Chúa, qua trung gian của thiên sứ Raphael của Ngài, chữa lành đôi mắt bị mù lòa của ông, khiến ông đã dâng lên Ngài lời tri ân chúc tụng như sau: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa sửa phạt tôi, và lại cứu chữa tôi; đây chính tôi đang nhìn thấy Tobia con trai của tôi".

 

Phải chăng nhân vật Tobia con, vừa là con của Tobia bố vừa là tác nhân được Thiên Chúa sử dụng chữa lành cho bố, như "Đấng Cứu Thế là con vua Đavít" theo nhân tính, nhưng lại là "Chúa tôi" của vua?! Nhưng dù là Tobia bố, hay Tobia con, hoặc người vợ lắm mồm cay nghiệt của ông, thậm chí cả những ai thân quen của ông, qua sự kiện ông được Thiên Chúa chữa lành, đã như Bài Đọc 1 cho biết: "Rồi ông, vợ ông và những người quen thuộc ca tụng Chúa", những lời ca tụng chắc hẳn đã phản ảnh Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa, tôi sẽ ngợi khen Chúa suốt cả cuộc đời, bao lâu còn có thân tôi, tôi còn ca ngợi Chúa.

2) Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù.

3) Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.

4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi, quả phụ và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.

 

 

Thánh Ephrem, Phó Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh
(306 - 373)

Ephrem.jpg

Vào ngày mồng 09 tháng 06, Giáo hội Công giáo cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem Phó Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh (Ephrem có nghĩa là sự phong nhiêu kép). Thánh Nhân là một con người hết sức vĩ đại nhưng lại sống một cuộc đời vô cùng khiêm nhu. Sau đây là một số chi tiết liên quan đến cuộc đời Thánh Nhân.

1.Tiểu sử

Thánh Ephrem sinh năm 306 tại Nisibe, một thành phố nằm ở khu vực biên giới giữa đế quốc Persia và đế quốc Byzantin hồi đó (tức Iran và Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay). Các sử gia vẫn chưa thống nhất với nhau được về niềm tin tôn giáo của cha mẹ Ngài. Nhiều sử gia cho rằng, thân mẫu của Ephrem là một nữ Ki-tô hữu, sinh ra tại Amid (tức Diar Bekir, Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay). Còn thân phụ Ngài thì sinh ra tại Nisibe, và là một tư tế ngoại giáo. Khi đã cao niên, thân phụ của Thánh Nhân mới đón nhận Đức Tin Ki-tô giáo. Và cùng với người bạn đời của mình, ông đã được đón nhận hồng phúc Tử Đạo dưới thời hoàng đế Schabur II của Persia.

Một số nhà chuyên chép sử về các Thánh nói rằng, Thánh Ephrem đã lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy vào lúc khoảng 18 tuổi. Ngài đã bị thân phụ tống cổ khỏi nhà vì coi thường những thực hành tôn giáo phù phép của người ngoại giáo. Người thanh niên trẻ đã tìm được nơi ẩn trú bên Thánh Gia-cô-bê, Giám Mục thành Nisibe. Vị Giám Mục này đã cảm thấy rất ấn tượng về lòng đạo đức cũng như về trí thông minh vượt trội của Ephrem, và đã nhận người thanh niên này vào trường của mình. Ở đó, Ephrem đã tỏa sáng nhờ đức hạnh cao vời của mình cũng như nhờ những thành công rực rỡ trong học tập. Sau đó, Thánh Gia-cô-bê đã đặt Ephrem vào chính chức vụ do Ngài đang đảm nhận: Ngài bổ nhiệm Ephrem làm giáo sư, và làm hiệu trưởng của trường rất nổi tiếng do chính vị Giám Mục này sáng lập. Và rồi, Thánh Nhân đã phong chức Phó Tế cho Ephrem. Theo một số sử gia, Thánh Gia-cô-bê còn đặt Thầy Ephrem làm thư ký riêng của mình để Thầy cùng được tham dự Công Đồng Nicea năm 325. Và theo một số truyền thuyết, Ephrem đã gặp Thánh Basilio Cả, Giám mục thành Cesarea (329-379), và Thầy đã tiếp tục con đường của mình tới tận Ai-cập, rồi ở đó, Thầy có được kinh nghiệm về đời sống Ẩn Sĩ.

Sau khi Thánh Gia-cô-bê qua đời, Ephrem vẫn tiếp tục làm hiệu trưởng của trường học do Giáo Phận quản lý, dưới thời ba vị Giám mục khác: Babo (338-349), Walgache (349-361) và Áp-ra-ham (361).

Khi hoàng đế Jovian giao Nisibe lại cho vua Persia vào năm 359, Ephrem đã rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn của mình để đi tới Edessa (tức thành phố Urfa của Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay). Tất cả các giáo viên của trường Nisibe và phần lớn những người nổi tiếng khác cũng đều đi theo Ngài. Tại Edessa, Ngài đã lập nên một ngôi trường rất nổi tiếng và đã dậy học ở đó cho tới những năm cuối cùng đời Ngài. Thánh Ephrem đã qua đời vào ngày mồng 09 tháng 06 năm 373. Sau này, một Đan Viện đã được kiến thiết ngay trên phần mộ của Ngài. Khi người Kurd xâm lược Edessa vào năm 1145, các hiệp sĩ của Thập Tự Quân đã mang hài cốt và những Thánh Tích khác của Ngài về Rô-ma.

2.Thánh Nhân

Thánh Ephrem là một vị Đại Thánh. Đức Giám Mục của Ngài đã rất lấy làm cảm phục trước sự đạo đức và sự thông minh của Ngài, và đã muốn phong chức Linh mục cho Ngài. Nhưng Thánh Nhân đã coi mình là bất xứng, và vì Ngài đã không biết cách phải chạy trốn trước niềm mong muốn của Đức Giám Mục Giáo phận thế nào, nên Ngài đã giả bộ hóa điên, và nhờ thế, Ngài đã suốt đời làm Phó Tế.

Ngài sống trong một hang động tại Edessa. Ban ngày Ngài đi dậy học và đặt mình trong sự phục vụ tha nhân, còn đêm về thì Ngài dành thời gian để cầu nguyện và nghiên cứu Kinh Thánh. Một người sống cùng thời với Ngài là Thánh Grê-gô-ri-ô thành Nyssê (355-394), đã để lại cho chúng ta một bức chân dung sau đây về Thánh Ephrem: „Thánh Ephrem là một người sống theo gương mẫu của các Tông Đồ đầu tiên; Ngài trở thành mẫu gương của tất cả mọi Đan Sĩ và Ẩn Sĩ. Ngài sống nhưng không hề có tiền túi, cũng chẳng hề có của dư. Ngài không có vàng cũng chẳng có bạc. Lương thực của Ngài là bánh lúa mạch và rau xanh; đồ uống của Ngài chỉ là nước lã hoặc nước đun sôi. Thân xác Ngài giống như một bộ xương làm bằng đất sét.“ Dẫu rằng Ngài đã gỡ mình ra khỏi thế gian, nhưng Ngài lại sống trong sự phục vụ những người đau khổ trên thế gian này. Theo gương mẫu của Thầy mình trong đời sống Ẩn Sĩ, Ngài đã liên kết đời sống hoạt động với đời sống chiêm niệm. Một trận dịch bệnh đáng sợ đã bất ngờ tấn công thành phố Edessa. Ngay lập tức Thánh Ephrem đã rời bỏ nơi cô tịch và sách vở của Ngài để đi chăm sóc các bệnh nhân, an ủi những người phiền muộn và kêu gọi mọi người giúp đỡ cũng như bố thí cho họ.

Ngay trước lúc qua đời, Thánh Ephrem đã xin các học trò và những người bạn của Ngài cầu nguyện cho mình, cũng như xin họ hãy chôn cất mình ngay tức khắc và đừng tổ chức nghi lễ rình rang dưới bất cứ hình thức nào. Ngài cũng xin họ chỉ bận cho thi hài Ngài một chiếc áo duy nhất của người Đan Sĩ, đừng đặt thi hài Ngài dưới một bàn thờ, vì Ngài thấy mình là một tội nhân, nhưng hãy chôn cất Ngài ở nghĩa địa dành cho những người ngoại kiều, vì Ngài cũng là một ngoại kiều như họ.

3.Tiến Sĩ Hội Thánh

Trong một Thánh Thi của mình, Thánh Ephrem đã kể lại rằng, khi Ngài còn rất nhỏ, Ngài đã nhìn thấy một hình dạng trong đêm, mà theo Ngài, nó giống như một cây nho đang phát triển; các nhánh của nó có rất nhiều chùm, và trông nó có vẻ như thế khi nó phủ lên toàn bộ khu đất. Nhiều đàn chim kéo đến và thưởng thức những trái nho, mà những trái nho ấy càng ngày lại càng mọc thêm ra nhiều, cho tới khi đàn chim mổ hết sạch. Đó là một giấc mơ hay là một thị kiến? Có lẽ các tác phẩm của Thánh Ephrem được ví giống như những gì liên quan đến con số của chúng: đó là một đại dương mà người ta hầu như không thể nhận ra bờ của nó. Urtez Urban, một Linh mục uyên bác Dòng Tên, người am tường cách đặc biệt về văn chương Syria, đã không ngần ngại viết như sau: "Chúng ta đừng coi chứng từ của sử gia Sosimus là cường điệu. Ông này viết rằng, Thánh Ephrem đã sáng tác khoảng ba triệu câu thơ". Còn Photius, Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinopoli (858-886) thì nói: Bên cạnh những Thánh Thi và những bài Thánh Ca, Thánh Ephrem còn để lại hơn một ngàn bài diễn văn và bài giảng.

Vào ngày mồng 05 tháng 10 năm 1920, trong Tông Sắc tôn phong Thánh Ephrem lên bậc Tiến Sĩ Hội Thánh, Đức Bê-nê-đíc-tô XV (+1922) đã viết rằng: "Thánh Ephrem chính là vị Ngôn Sứ vĩ đại của dân tộc Syria, là triều thiên của đất nước vùng Aram này, là mặt trời của các ngôi trường, là Thầy của các vị thầy, là đầu của các nhà giáo, là hoàng tử của các thi sĩ, là giếng phun trào của khoa học, là chiếc búa đối với những kẻ lạc giáo, là mẫu gương của các Ẩn Sĩ, là mỏ ngọc, là cột trụ của Giáo hội, là triết gia của Thiên Chúa, là cây hạc cầm của Chúa Thánh Thần…"

Không những thế, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XV còn bổ sung thêm vào với những tước hiệu lấp lánh kể trên một tước hiệu khác mà nó là triều thiên của tất cả những tước hiệu đó. Ngài viết: "Sẽ thật là vô cùng hạnh phúc đối với chúng ta khi bổ sung cho triều thiên của Thánh Ephrem Ẩn Sĩ một bông huệ mới… Theo lời mời gọi của Chúa Thánh Thần, Cha cảm thấy tràn ngập niềm vui khi tặng cho thánh Ephrem tước hiệu "Tiến Sĩ Hội Thánh".

Ở đây cũng cần phải nhấn mạnh rằng, trong số rất nhiều các Thánh Tiến Sĩ Hội Thánh, chỉ có một mình Thánh Ephrem là Phó Tế mà thôi. Vì sự khiêm nhượng, nên Ngài đã giữ chức vụ Phó Tế cho đến suốt đời.

4.Thần Học Gia

Thánh Ephrem đã sáng tác 56 Thánh Thi để chống lại những người theo tà thuyết, 87 Thánh Thi về Đức Tin, 4 Thánh Thi chống lại hoàng đế Julian và những người chối đạo, 15 Thánh Thi về Thiên Đàng, một thiên khảo luận về Chúa Giê-su Ki-tô, một thiên khảo luận về Lời Tựa của Tin Mừng theo Thánh Gio-an, 52 Thánh Thi về mầu nhiệm Chúa Ki-tô và về Đức Trinh Nữ Maria, 52 Thánh Thi về Giáo hội, 2 Thánh Thi về tính tự cao tự đại của thế gian, một Thánh Thi về thư gửi các Ẩn Sĩ tại Edessa, cũng như nhiều thiên khảo luận về bài giảng của Ngôn Sứ Giô-na tại Ninive và về lòng thống hối.

5.Sử gia và chuyên viên Phụng Vụ

Thánh Ephrem đã sáng tác 16 Thánh Thi về cuộc Giáng Sinh của Chúa Ki-tô và về cuộc Hiển Linh của Ngài, 8 Thánh Thi về Mùa Chay và về sự Phục Sinh, 21 Thánh Thi về bánh Không Men, 12 Thánh Thi về các vị Thánh Tử Đạo và về những người công khai tuyên xưng Đức Tin, 15 Thánh Thi theo bảng chữ cái ABC về vị Thầy của Ngài trong đời sống Ẩn Sỹ, đó là thánh Abraham Al Kaydouni, 24 Thánh Thi về Thánh Julian, một Thánh Thi về anh em nhà Macabê, một thiên khảo luận về cơn mưa, 77 Thánh Thi «De Nisibena» về những cuộc khởi nghĩa của người Nisibe (Thổ-nhĩ-kỳ) chống lại đế quốc Persia (Iran) và người kế vị Thánh Gia-cô-bê Giám mục thành Nisibe.

6.Nhà bút chiến và hộ giáo

Trước Thánh Ephrem, một nhà thơ tên là Bardeisan (154-222) đã lôi kéo nhiều người nhờ vào những khúc ca hời hợt và có tính tà giáo của mình. Để chống lại thi sĩ đó, Thánh Ephrem đã biến những ca khúc của chính ông ta thành những vũ khí, bằng cách là: Thánh Nhân giữ lại những vần điệu của Bardeisan, nhưng thay đổi từ ngữ. Ngài thành lập một Ca Đoàn với những chàng trai và cô gái trẻ để phổ biến cách tốt hơn những Học Thuyết lành mạnh. Sáng kiến đầy can đảm này đã lan rộng khắp cả Đông Phương lẫn Tây Phương. Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XV đã nói về sáng kiến đó như sau: "Chúng ta có thể khẳng định được rằng, các Ca Đoàn và các ca điệu trong Phụng Vụ đều có nguồn gốc từ Thánh Ephrem. Thánh Gio-an Kim Khẩu (+407) "đã vay mượn" những ca điệu đó cũng như đã du nhập chúng vào Constantinopoli; Thánh Ambrôsiô (+337) đã đưa chúng về Mi-lan; và từ Mi-lan, các ca điệu của Thánh Ephrem đã lan rộng trên toàn nước Ý. Dưới Triều Đức Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô Cả (+604), những điệu nhạc đó đã đạt tới cao điểm của chúng. Theo các chuyên gia, công lao chính của Thánh Ephrem là tạo ra nghệ thuật Thánh Nhạc, mà sau đó, nghệ thuật này đã được các Giáo Phụ, cả Hy-lạp lẫn La-tinh "nhận làm con"…"

7.Thi sĩ và ca sĩ của Đức Trinh Nữ Maria

Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XV nói về Thánh Ephrem rằng: "Không ai, kể cả những người hùng biện nhất của nhân loại, có thể miêu tả về Tình Yêu bừng cháy của Mẹ Thiên Chúa như cách mà Thánh Ephrem đã mô tả.“ Rất sớm, trước tất cả các Giáo Phụ, các Tiến Sĩ Hội Thánh và các Công Đồng, trong một cuộc đối thoại với Chúa Giê-su, Thánh Nhân nói rằng: "Ôi Chúa Giê-su và Thân Mẫu Chúa, cả Chúa và Mẹ đều có sự mỹ miều cao nhất; nơi Chúa không hề có bất cứ tì vết nào, và nơi Thân Mẫu Chúa cũng không một chút bợn nhơ". Thánh Nhân còn viết về đức Khiết Trinh trọn đời của Mẹ Thiên Chúa như sau: "Đức Maria đã sinh ra Đấng Emmanuel, Chúa Giê-su, và sau cuộc sinh nở đó, Mẹ đã không sinh bất cứ người con nào khác". Thánh Nhân đã ca ngợi tư cách làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria với một giọng hùng vang sánh ngang tiếng sét: "Từ nơi huyệt mộ, xương cốt con gầm thét lên rằng, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa".

8.Các ngày cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem của các Giáo hội

Hiện tại, Giáo hội Công giáo đang cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào chính ngày Ngài qua đời, tức ngày mồng 09 tháng 06. Nhưng trước đây Giáo hội cử hành Lễ Kính Ngài vào ngày mồng 01 tháng 02.

Giáo hội Tin lành cử hành ngày tưởng nhớ Thánh Ephrem cũng vào ngày mồng 09 tháng 06.

Giáo hội Anh giáo cử hành ngày kính Thánh Ephrem cũng vào ngày mồng 09 tháng 06.

Các Giáo hội Chính Thống cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào ngày 28 tháng Giêng, tức ngày di dời Thánh Tích của Ngài từ Thổ Nhĩ Kỳ về Rô-ma.

Giáo hội Armenia cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem cũng vào ngày 28 tháng Giêng.

Giáo hội Coptit cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào ngày mồng 02 tháng Giêng và vào ngày mồng 9 tháng 07.

Còn Giáo hội Chính thống Syria thì cử hành Lễ Kính Thánh Ephrem vào các ngày sau: mồng 01 tháng Giêng; mồng 01 tháng 02; 19 tháng 02; 20 tháng 02; thứ Bảy đầu tiên của Mùa Chay; mồng 09 tháng 06; 15 tháng 06; 18 tháng 06 và ngày mồng 09 tháng 07.


Lm Đa-minh Trần Tiến Thiệu, O.Cist

http://hoidongxitothanhgia.com/thu-vien/thanh-ephrem-pho-te-3413.html

 

Thánh Ephrem sinh năm 306 tại Nisibis, miền Mesopotamia, thuộc đế quốc La mã. Gia đình ngài là người ngoại giáo, và cha ngài là thầy cả đền thờ Abnil, nhưng thánh nhân lại có thiện cảm với người Kitô hữu. Khi trở lại Kitô giáo, thánh nhân đã trở nên mẫu mực cho nhiều người khác về sự khiêm tốn, bác ái, say mê học hỏi khoa học thánh, yêu thích sự tĩnh lặng, chuyên chăm cầu nguyện và nhiệt thành nói về Chúa cho người khác.

Chúng ta có thể dừng lại ở hai nét nổi bật sau:

·         Yêu Thích Cuộc Sống Thanh Vắng

Thánh Ephrem luôn muốn sống ẩn dật, để tách mình khỏi những vướng bận thế gian và  dành trọn cuộc đời cho Chúa. Ngài thường lui vào nơi thanh vắng, chuyên chăm cầu nguyện, hy sinh hãm mình, nhưng cũng sẵn sàng giúp đỡ những ai tìm đến ngài. Với thánh Ephrem, “sa mạc” không phải là nơi của chết chóc, cô độc mà là không gian thuận lợi cho con người cởi bỏ cái tôi ích kỷ, thanh luyện bản thân và luôn sống trong mối tình thân thiết với Chúa. Cũng từ nơi hoang vằng, ngài đã viết nhiều bài văn có ý tưởng phong phú, diễn tả một đời sống nội tâm sâu sắc và khát vọng luôn làm đẹp ý Chúa: “Lạy Chúa, Đấng cứu chuộc chúng con, kế hoạch thần diệu của Chúa là hình ảnh của thế giới thần thiêng, xin cho chúng con biết đi trong kế hoạch đó như là con người thần thiêng”.

Được thụ phong phó tế, nhưng vì sự khiêm tốn, thánh nhân đã từ chối chức linh mục.

·         Một Văn Sĩ Tài Ba

      Khi chiến trang bùng nổ, Nisibis nằm dưới ách thống trỉ của người Ba tư, và thánh Ephrem đã lui về Edessa. Ở đây, ngài đã tận tình chăm sóc bệnh nhân, người nghèo khổ, an ủi và đồng hành với những người bị bỏ rơi. Ngoài ra, thánh nhân còn chú tâm hoạt động về lãnh vực tri thức như: Giảng Lời Chúa cho mọi người, viết  sách tu đức, giải thích thơ phú  và chú giải Kinh Thánh. Với tâm hồn nghệ sĩ, ngài đã viết các bài giảng bằng thơ, các thánh thi ca ngợi Đức Kitô và Đức Trinh Nữ Maria. Các thánh thi của ngài hiện nay vẫn còn được sử dụng trong Phụng Vụ Syria và gây ảnh hưởng sâu rộng trong việc sáng tác các thánh thi ở Châu Âu.  

Thánh nhân được mệnh danh là “Cây đàn của Thánh Linh”, và là người tiên phong trong việc tôn kính Đức Maria Trinh Nữ, đấng mà ngài hằng tuyên xưng là “hoàn toàn trong sạch mọi tội lỗi”.

Thánh Ephrem qua đời tại Edessa vào ngày 09 tháng 06 năm 373. Ngày 05tháng 10 năm 1920, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV đã nâng ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Ephrem phó tế ơn sức mạnh của Chúa Thánh Thần, để thánh nhân luôn biết ca tụng tình yêu Chúa bằng chính cuộc sống yêu thích sự thanh vắng, thực thi bác ái và  đào luyện tri thức. Xin cho chúng con biết đón nhận tất cả với niềm tri ân cảm tạ để danh Chúa luôn được hiển vinh. Amen. 

                                                                       Montfort Nguyễn Xuân Pháp O.Cist

http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang6/Ngay9_Ephrem.htm 

 

Thánh nhân sinh tại Nisibis, miền Mesopotamia vào khoảng đầu thế kỷ thứ IV. Có truyện kể rằng: hồi nhỏ, một lần Ngài lấy đá chọi con bò mẹ gần chết. Khi chủ nhân hỏi thăm có thấy con bò ở đâu Ngài đã trả lời xấc xược để chữa lỗi. Ephrem đã khóc suốt đời về sự độc ác và hèn nhát này. Sau này có lần vào đêm khuya bị lạc vào giữa đồng, một đứa chăn chiên cho Ngài trú ngụ trong lều của nó. Nhưng đứa chăn chiên này đã xấu bụng lại đang say rượu. Đêm ấy chó sói vào tàn sát đàn chiên. Để chữa mình, thằng chăn chiên đổ lỗi cho Ephrem. Trong tù Ngài nghe nhiều người than thở vì bị hàm oan. Một buồi chiều, trong giấc mơ, Ngài thấy thiên thần cho biết lần này Ngài vô tội nhưng phải khổ để đền bù vào những lỗi lầm khác. Thức dậy, Ephrem nhớ lại con bò và thú nhận với mọi người. Thân phụ Ephrem là một thày cả thờ thần Abnil. Hình như Ngài bị đuổi khỏi nhà vì có thiện cảm với các Kitô hữu. Thánh Giacôbê, Giám mục Nisibis tiếp nhận dạy dỗ và rửa tội cho Ngài hồi 10 tuổi. Để sống, Ngài làm việc ở những hồ tắm công cộng. Nhưng sau đó Ngài lại vào sa mạc sống với sự hướng dẫn của thánh Abbê ẩn tu; dệt vải để sống như thói quen của các ẩn sĩ Ai cập và Mêsôpôtamia thời đó.

Ephrem thường khóc tội mình và tội người khác. Các tập “tự thú” Ngài viết cho thấy Ngài rất mực khiêm tốn, Ngài rất ghét tính kiêu căng:

- Tính kiêu căng phá đổ ơn Chúa và thiêu hủy mọi nhân đức.

Thánh Ephrem luôn ao ước sống đời ẩn dật. Nhưng một cuộc chiến đã bùng ra giữa người Rôma và người Batư. Người Batư bách hại các Kitô hữu cách tàn bạo. Nghe tin này, Ephrem về Nisibis để giúp đỡ và khích lệ họ. Danh thơm nhân đức của Ngài lan rộng đến nỗi người ta cho việc giải phóng khỏi ách thống trị của Sapor II là bởi lỗi cầu nguyện của thánh nhân.

Được thụ phong phó tế, nhưng rồi thánh nhân đã từ chối chức linh mục vì khiêm tốn. Được Đức Giám mục Nisibis trao cho trách nhiệm rao giảng lời Chúa, Ngài dùng hết tài lợi khẩu để khêu gợi nhiệt tình nơi các linh hồn:

- “Thần dữ nói: Ta đi tìm những người khô khan là bạn hữu của ta, và ta không cần phải tìm đến mưu kế, ta chỉ cần giữ chúng trong xiềng xích mà chúng ưa thích là đủ.”

Thánh Ephrem đã gặp thánh Basiliô thành Cappadocia. Truyền thuyết cho rằng: hai vị hiểu nhau dầu ngôn ngữ bất đồng.

Chiến tranh tái phát, Nisibis rơi vào tay người Batư, thánh Ephrem trốn đến Sdessa. Nơi đây, Ngài tận tâm phục vụ bệnh nhân và người nghèo, hoạt động trí thức bằng việc viết sách và giải thích thơ phú. Thánh Ephrem đã viết các bài giảng bằng thơ, các thánh thi ca ngợi vinh quang Chúa Kitô và Đức Trinh Nữ Maria. Người luôn được gọi là “cây đàn của Thánh Linh” là một trong những người rao truyền việc VÔ NHIỄM THAI.

- Lạy Chúa, chỉ có Chúa và Mẹ Chúa là tuyệt mỹ. Nơi Mẹ Chúa không vương một tì tích nào.

Một năm trước khi thánh nhân qua đời, Edessa bị một cơn đói. Ngài kêu gọi lòng quảng đại của mọi người và người ta đã rộng tay đóng góp vào công cuộc phát chẩn của thánh. Cơn đói chấm dứt, thánh nhân trở lại chòi của mình. Lên cơn sốt, Ngài nghĩ tới lúc chết:

- Đừng liệm xác tôi bằng đồ quí giá, cũng đừng dựng đài tưởng niệm. Hãy đối xử với tôi như một người lữ khách vì thực sự tôi là một lữ khách xa lạ trên mặt đất này thôi.

Ngài qua đời có lẽ vào tháng 6 năm 373. Thánh Gregoriô miền Nyssa viết về thánh Ephrem:

- Vinh quang đời sống và giáo thuyết của thánh nhân chiếu giãi khắp hoàn cầu.

Năm 1820, Đức Bênêđictô XI tôn phong Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-ephrempho-tetien-si-hoi-thanh-42855

http://giaophanvinhlong.net/thanh-ephrem-pho-te-tien-si-hoi-thanh-306373.html


 

 

 

 Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Tob 12, 1-5.20

"Tôi phải trở về cùng Ðấng đã sai tôi; còn các ngươi hãy chúc tụng Thiên Chúa".

Bài trích sách Tobia.

Trong những ngày ấy, Tobia kêu con trai lại và hỏi rằng: "Chúng ta phải tặng cái gì cho người thánh thiện đi với con?"

Rồi cả hai cha con gọi thiên thần đến và đưa người ra chỗ riêng và xin người vui lòng nhận một nửa những gì đã mang về.

Bấy giờ người bảo nhỏ hai cha con rằng: "Các người hãy chúc tụng Chúa trời, và tuyên xưng Người trước mặt mọi sinh vật, vì người tỏ lòng từ bi đối với các người.

Bởi chưng, giữ kín sự bí mật của nhà vua là một việc tốt, nhưng công bố và tuyên xưng các kỳ công của Thiên Chúa là một vinh dự, cầu nguyện, ăn chay, bố thí, thì tốt hơn là cất giấu kho vàng, vì việc bố thí cứu khỏi chết, tẩy sạch tội lỗi, mang lại lòng từ bi và sự sống đời đời.

Còn những ai phạm tội và làm điều gian ác, thì là thù địch của linh hồn mình.

Vậy tôi tiết lộ cho các người biết sự thật, và không giữ kín câu chuyện bí mật với các người nữa: Khi ông than khóc cầu nguyện, chôn xác kẻ chết, bỏ cơm trưa, và ban ngày giấu xác chết trong nhà, rồi ban đêm mang đi chôn, chính tôi đã dâng lời nguyện của ông lên cùng Chúa.

Và vì ông đã được đẹp lòng Chúa, nên cần phải có thử thách để thanh luyện ông.

Nay Chúa sai tôi đến để chữa ông và cứu Sara con dâu của ông khỏi ma quỷ.

Vì tôi là thiên thần Raphael, một trong bảy thiên thần chầu chực trước mặt Chúa.

Vậy đã đến lúc tôi phải trở về cùng Ðấng đã sai tôi; còn các người hãy chúc tụng Thiên Chúa và cao rao mọi việc kỳ diệu của Người".

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tob 13, 2, 6, 7, 8

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa cao cả muôn đời. (1b)

Xướng 1) Chúa trừng phạt, rồi Chúa lại tha thứ; Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát khỏi tay Chúa. - Ðáp.

2) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những việc làm của các ngươi. - Ðáp.

3) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm tội. - Ðáp.

4) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực hiện sự công chính trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với các ngươi. - Ðáp. 

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 38-44

"Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn". Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".

Ðó là lời Chúa.

 



Suy Niệm Cảm Nghiệm

                                                                                                          

tận cùng sự sống


Suy Niệm

 

 

Phụng vụ Lời Chúa cho Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên hôm nay với bài Phúc Âm cuối cùng của Thánh ký Marco (12:38-44) là Phúc Âm có 16 đoạn được Giáo Hội chọn đọc cho 9 tuần đầu của Mùa Thường Niên, và cũng là đoạn áp cuối của Sách Tobia (12:1-5,20) ở Bài Đọc 1. Chưa hết, hôm nay bài Đáp Ca không được trích từ Thánh Vịnh như thường thấy mà lại được trích từ đoạn cuối cùng của chính Sách Tobia. 


Trước hết, bài Phúc Âm được Thánh ký Marcô thuật lại nhận định của Chúa Giêsu cho dân chúng biết về thành phần "luật sĩ" và lời khuyên dạy của Người giành cho "các môn đệ" về hành động dâng cúng chẳng là gì của một bà góa. 


Đây là một cảnh tượng trái nghịch nhau được Thánh ký Marco ghép lại từ hai trường hợp hoàn toàn tương phản nhau, giữa thành phần luật sĩ thông thái và bà góa đơn nghèo quê mùa. 


Trước hết Chúa Giêsu đã nặng lời chê trách và cảnh báo thành phần thông luật trước mặt công chúng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn". Trong phán quyết này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người có nhắc đến thành phần "các bà góa", trong đó có một bà góa được Người sử dụng để khuyên dạy các môn đệ của Người:


"Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: 'Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống'".


Quả thật là thế, sở dĩ bà góa được Chúa Giêsu nói đến và khen tặng như một tấm gương sáng cho các môn đệ "bỏ nhiều hơn hết", hơn cả "lắm người giầu bỏ nhiều tiền" hơn bà nữa, là vì trong khi các người khác, nhất là các người giầu "bỏ của mình dư thừa", thì người đàn bá góa ấy lại "đang túng thiếu", nhưng bất chấp túng thiếu, thậm chí chẳng cần khôn ngoan, hành động đến như điên dại, ở chỗ bà "đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".


Tinh thần và hành động của bà góa này đúng là anh hùng trước nhan Chúa hơn là trước mặt người đời, nhất là trước mặt thành phần giầu sang phú quí, thành phần có thể còn tỏ ra khinh bỉ bà nữa là đằng khác. Bà góa này vốn nghèo còn có thể càng nghèo hơn nữa bởi sự bóc lột của thành phần luật sĩ bị Chúa Giêsu vạch mặt trong bài Phúc Âm: "Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá". 


Thế nhưng, trước nhan Chúa, bà lại giầu sang hơn ai hết, vì bà có một sự sống nội tại siêu việt trên cả thành phần thông luật Chúa hơn bà, thành phần có thể đã bóc lột tiền bạc ngặt nghèo của bà. Chính đức tin của  và lòng trông cậy hoàn toàn vào Chúa của bà đã khiến bà có những hành động phi thường trổi vượt đáng khâm phục. Bà đã biết lợi dụng tiền bạc chẳng là bao của mình để trả về cho Chúa tất cả những gì Ngài ban cho bà. Sự sống của bà do Chúa ban không thể lệ thuộc vào tiền bạc để sống hơn là vào chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên bà và ban sự sống cho bà.

 

Cảm Nghiệm

 

 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo lối sống giả hình của thành phần luật sĩ là những kẻ đóng vai thày dạy của dân chúng, và đã lên tiếng khen bà góa bỏ tiền vào đền thờ với tất cả tấm lòng chân tình của mình đối với Thiên Chúa. Bài Đọc 1 hôm nay cũng chứng thực những gì Chúa Giêsu đã tỏ ra với cả thành phần luật sĩ giả hình cùng tham lam lẫn bà góa đầy lòng tin tưởng và quảng đại, ở câu được vị thiên sứ Raphael nói riêng với 2 cha con Tobia thế này: "Cầu nguyện, ăn chay, bố thí, thì tốt hơn là cất giấu kho vàng, vì việc bố thí cứu khỏi chết, tẩy sạch tội lỗi, mang lại lòng từ bi và sự sống đời đời".

 

Chính vì bà góa trong Bài Phúc Âm hôm nay tin tưởng vào Chúa đến độ ký thác cả sự sống của mình cho Ngài, và Tobia bố cũng hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, đến độ bất chấp nguy hiểm với bản thân mình trong việc bác ái chôn cát kẻ chết đồng hương không thể không làm, mà cả hai đã trở nên cao trọng trước nhan Thiên Chúa, nghĩa là đã được Ngài nâng lên. Nếu bà góa trong Bài Phúc Âm hôm nay đã trở nên cao trọng trước nhan Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô bấy giờ, và đã được Ngài, qua Con của Ngài, nâng lên làm gương cho cả thành phần môn đệ của Người vốn hơn bà về vai trò và quyền thế của các vị, thì nhân vật Tobia cha cũng thế, như lời thiên sứ Rapheal đã tiết lộ cho ông biết chính vì ông đẹp lòng Thiên Chúa mà Ngài đã thanh luyện ông để ông sinh hoa trái hơn, nơi nhận thức mới của vợ ông về ông, nơi cả lời cầu của con dâu ông, bao gồm cả con trai ông lấy được vợ theo ý Chúa:

 

"Vậy tôi tiết lộ cho các người biết sự thật, và không giữ kín câu chuyện bí mật với các người nữa: Khi ông than khóc cầu nguyện, chôn xác kẻ chết, bỏ cơm trưa, và ban ngày giấu xác chết trong nhà, rồi ban đêm mang đi chôn, chính tôi đã dâng lời nguyện của ông lên cùng Chúa. Và vì ông đã được đẹp lòng Chúa, nên cần phải có thử thách để thanh luyện ông. Nay Chúa sai tôi đến để chữa ông và cứu Sara con dâu của ông khỏi ma quỷ".

 

Tâm tình đầy xác tín của Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ chính sách Tobia, và cũng chính là lời nguyện của nhân vật Tobia bố dâng lên Thiên Chúa, thật là thấm thía, hết sức đáng cho chúng ta suy nghĩ, chấp nhận và noi gương bắt chước ông để suốt cuộc hành trình đức tin trần thế của Kitô hữu chúng ta bao giờ cũng thế: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống", kẻ tin tưởng kính sợ Ngài, như Chúa Kitô đã mạc khải trong Bài Phúc Âm Thứ Tư tuần này.

 

1) Chúa trừng phạt, rồi Chúa lại tha thứ; Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát khỏi tay Chúa.

2) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những việc làm của các ngươi.

3) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm tội.

4) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực hiện sự công chính trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với các ngươi.