SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XIII Thường Niên 

Năm A (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (Ngày trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Chúa Nhật 13 Quanh Năm Năm A

 

Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: 2 V 4, 8-11. 14-16a

"Người đến trọ nhà mình, là một vị thánh của Thiên Chúa".

Trích sách Các Vua quyển thứ hai.

Một ngày nọ, Êlisê đi ngang qua miền Sunam. Ở đó có một bà sang trọng mời ông ở lại dùng bữa. Và từ đấy, mỗi khi ông đi ngang qua đó, ông đều đến nhà bà dùng bữa. Bà nói với chồng bà rằng: "Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó".

Một ngày nọ Êlisê đến, ông lên căn phòng trên lầu và nghỉ tại đó. Ông nói (với Giêzê, tiểu đồng của ông): "Bà muốn chúng ta làm gì cho bà?" Giêzê nói rằng: "Thầy khỏi hỏi, bà ấy không có con, và chồng bà đã già". Êlisê bảo gọi bà ta. Nghe gọi, bà liền đến đứng trước cửa, ông nói với bà rằng: "Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 16-17. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).

Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.

2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. - Ðáp.

3) Vì Chúa là vinh quang quyền năng của họ; nhờ ân huệ Chúa, uy quyền của chúng tôi được suy tôn. Bởi chưng khiên thuẫn chúng tôi là của Chúa, và vua chúng tôi thuộc về Ðấng Thánh của Israel. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 6, 3-4. 8-11

"Chúng ta chịu mai táng với Ngài nhờ phép rửa, chúng ta phải sống đời sống mới".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi vì được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng: chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Cả anh em cũng thế, anh em hãy tự kể như mình đã chết đối với tội lỗi, nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 6

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 37-42

"Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy; kẻ nào tiếp đón các con, là tiếp đón Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.

"Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu".

Ðó là lời Chúa.

 

Relationships We Keep, Bound in Jesus Christ -



Suy Niệm


Chỉ có Con Đường dẫn đến Sự Thật mới gặp Sự Sống


Có thể nói nội dung của tất cả Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm A tuần này nằm ở câu Alleluia:
"Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Gioan 14:6).

Thật vậy, Chúa Kitô 'là đường" ở mầu nhiệm nhập thể của Người: "Không ai đến được với Cha mà không qua Thày" (Gioan 14:6), "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng "hằng ở bên Cha đã tỏ Cha ra" (Gioan 1:18).

Chúa Kitô "là sự thật" ở mầu nhiệm khổ nạn và tử giá của Người để chứng thực "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16): "Khi nào quí vị treo Con Người lên, quí vị mới biết được Tôi LÀ" (Gioan 8:28).

Chúa Kitô "là sự sống" ở mầu nhiệm phục sinh và thăng thiên của Người, Đấng đã tự hiến mạng sống mình đi để lấy nó lại (xem Gioan 10:17-18) như một "Vị Mục Từ nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên cho được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:11,10).

Bởi thế, không có Chúa Kitô sẽ chẳng bao giờ có ơn cứu độ: "Không có ơn cứu độ ở bất cứ một ai. Không có một danh nào dưới gầm trời này được ban cho con người nhờ đó chúng ta được cứu độ" (Tông Vụ 4:12).

Đó là sứ điệp cứu độ vô cùng quan trọng và khẩn thiết bất khả thiếu đối với phần rỗi đời đời của nhân loại, một sứ điệp Kitô giáo cần phải loan báo cho toàn thể nhân loại, đến độ chính Chúa Kitô đã phải đích thân tuyển chọn và sai các môn đệ của Người đi ngay khi Người còn sống, một biến cố đã được Thánh ký Mathêu trình thuật ở đoạn 10 và được Giáo Hội trích lại từ Chúa Nhật Tuần XI, qua Chúa Nhật XII và đến Chúa Nhật XIII hôm nay.

Nếu nội dung của bài Phúc Âm Chúa Nhật Tuần XII nhắm vào thành phần môn đệ thừa sai, ở chỗ các vị không được sợ hãi khi đến với "con chiên lạc nhà Israel" để loan truyền những gì các vị thấy "trong bóng tối" đức tin và "nghe nơi kín đáo" nội tâm, thì riêng Bài Phúc Âm và chung Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật Tuần XIII này nhắm đến thành phần thính giả, thành phần cần phải lãnh nhận sứ điệp cứu độ này, ở chỗ, trước hết, họ cần phải đón nhận sứ điệp cứu độ của Người qua thành phần môn đệ thừa sai của Người, đến độ, như Người khẳng định:

"Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính".

Đúng thế, ở đây, qua câu khẳng định này của Chúa Kitô, nếu "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đức Kitô Cha sai" (Gioan 17:3) thì muốn "đón tiếp Thầy" và "đón tiếp Ðấng đã sai Thầy" còn cần phải "đón tiếp" cả thành phần môn đệ thừa sai của Người nữa: "Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy". Vì Người, theo tác động của Thánh Linh, vẫn liên tục tỏ mình ra trong lịch sử loài người, trong thời Cựu Ước đặc biệt là qua các vị tiên tri, và trong thời Tân Ước qua Giáo Hội của Người.

Tác dụng thần linh của việc chấp nhận thành phần tiên tri ngôn sứ trong Cựu Ước và thành phần môn đệ thừa sai trong Tân Ước là gì, nếu không phải là chính Ơn Cứu Độ được các vị rao giảng hay mang đến vào thời điểm lịch sử của các vị, đúng như lời minh định của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay: "Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính".

Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy quả thực "Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri" nơi trường hợp của "một bà sang trọng", "không có con, và chồng bà đã già", đối xử rất tốt với tiên tri Elisa là người hay "đi ngang qua miền Sunam" của bà, và vì thế, "mỗi khi ông đi ngang qua đó, ông đều đến nhà bà dùng bữa".

Chính vì bà đã "đón tiếp một vị tiên tri với danh nghĩa là tiên tri", như bà đã bày tỏ với chồng của bà: "Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó", mà bà "sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri", khi bà được chính vị tiên tri báo trước cho bà rằng: "Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai", một phần thưởng tuy về thể lý nhưng lại xuất phát từ thế giá của một vị tiên tri mà bà tin tưởng và "đón tiếp".

Vậy còn "kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính" ở trong cùng câu Chúa Giêsu nói trong Bài Phúc Âm hôm nay thì sao? Câu trả lời có thể tìm thấy ở những gì Thánh Phaolô viết cho Giáo đoàn Roma trong Bài Đọc 2 hôm nay. Nghĩa là liên quan đến Kitô hữu chúng ta, thành phần đã được công chính hóa bởi đức tin vào Chúa Kitô, Đấng "đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa", Đấng đã được các môn đệ thừa sai của Người, theo lệnh truyền phục sinh của Người (xem Mathêu 28:18-20) rao giảng như Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô này.

Nếu mỗi một người Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô ý thức được như chính Thánh Phaolô xác tín và huấn dụ trong Bài Đọc II hôm nay: "tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi vì được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế", thì tất cả những ai "đón tiếp" họ, tức chấp nhận họ hay chấp nhận chứng từ "sống cho Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô" của họ về một Chúa Kitô sống trong họ, tất cả những người đó "sẽ lãnh phần thưởng của người công chính" là đức tin cứu độ như chính Kitô hữu chứng nhân vậy.

Như thế, cuối cùng, tất cả được nên trọn theo Thánh Ý Chúa, theo Dự Án Cứu Độ thần linh của Thiên Chúa, một dự án cứu độ đã được hiện thực nơi Công Cuộc Cứu Độ của Chúa Kitô Nhập Thể và Vượt Qua, tột đỉnh của mạc khải thần linh nơi giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, một công cuộc cứu độ vẫn còn được Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập để tiếp tục thông truyền Ơn Cứu Độ qua giòng lịch sử của nhân loại. Tất cả đều chỉ là những cách thế Vị Thiên Chúa là Tình Yêu vô cùng nhân hậu muốn sử dụng để tỏ lòng thương xót của Ngài cho loài người tội nhân vô cùng khốn nạn đáng thương, cần phải tin tưởng và chấp nhận vào Lòng Thương Xót của Ngài, như tâm tình của bài Đáp Ca hôm nay:

1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín.

2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài.

3) Vì Chúa là vinh quang quyền năng của họ; nhờ ân huệ Chúa, uy quyền của chúng tôi được suy tôn. Bởi chưng khiên thuẫn chúng tôi là của Chúa, và vua chúng tôi thuộc về Ðấng Thánh của Israel.



THỨ HAI

 

Ngày 3 tháng 7

THÁNH TÔ-MA, TÔNG ĐỒ

lễ kính

Thomas.jpg

Vào lúc Đức Giê-su chịu thương khó và phục sinh, khuôn mặt của thánh Tô-ma nổi bật. Trong bữa ăn tối, đáp lại thắc mắc của người, Đức Giê-su nói : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Khi nghe nói Đức Giê-su đã phục sinh, vị tông đồ này không tin ngay. Mãi tới lúc Đức Giê-su cho người thấy tay và cạnh sườn bị đâm thủng, người mới tuyên xưng : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28). Theo truyền khẩu thì thánh nhân đã đi loan báo Tin Mừng cho dân Ấn-độ. Từ thế kỷ IV, người ta mừng ngày rước hài cốt của người về Ê-đét-xa, tức là ngày 3 tháng 7.

Bài đọc 2

Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !

Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, về các sách Tin Mừng.

Một người trong nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Chỉ có người môn đệ này vắng mặt. Khi trở về, ông nghe thuật lại sự việc đã xảy ra nhưng không chịu tin những điều đã nghe. Chúa đến lần nữa và đưa cạnh sườn cho người môn đệ không tin chạm tay vào. Người đưa tay ra và, khi cho ông thấy các thương tích của Người, Người chữa lành vết thương cứng tin của ông. Anh em thân mến, trong chuyện này, anh em chú ý đến điều gì ? Lúc đầu, người môn đệ được chọn này vắng mặt, sau đó ông về và nghe kể lại, nghe rồi nghi ngờ, nghi ngờ rồi đưa tay chạm, chạm rồi tin, chẳng lẽ anh em cho tất cả chuyện này là tình cờ hay sao ?

Không, không phải tình cờ đâu, nhưng Thiên Chúa an bài cho xảy ra như thế. Thật vậy, Đấng từ bi cao cả đã hành động cách lạ lùng là cho người môn đệ hoài nghi đó chữa lành vết thương cứng tin nơi chúng ta khi ông chạm tay vào thương tích trên thân thể của Thầy mình. Đàng khác, đối với đức tin của chúng ta, sự cứng tin của ông Tô-ma còn hữu ích hơn đức tin của những môn đệ khác là những người đã tin. Vì ông đã chạm tay vào Chúa và đã tin, nên tâm trí chúng ta không còn hoài nghi nữa và được một đức tin vững mạnh. Thật vậy, người môn đệ nghi ngờ và được chạm tay vào Chúa đã trở thành người làm chứng Chúa đã sống lại thật.

Ông đã được chạm tay vào Chúa và đã kêu lên : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con. Đức Giê-su bảo : Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Thánh tông đồ Phao-lô lại nói : Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Vì thế, chắc chắn đức tin là bằng chứng của những điều không thể thấy đó. Thật vậy, những gì đã thấy thì không cần phải tin, nhưng phải nhìn nhận. Thế tại sao khi ông Tô-ma thấy và được chạm tay vào Chúa, Chúa lại bảo ông rằng : Vì đã thấy Thầy, nên anh tin ? Nhưng điều ông thấy là một chuyện, điều ông tin lại là chuyện khác. Người phàm phải chết không thể nhìn thấy Thiên Chúa được. Thế mà ông thấy một con người và ông tuyên xưng Thiên Chúa : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con ! Nhờ đã thấy nên ông đã tin : khi nhìn xem một con người thật, ông đã gọi người ấy là Thiên Chúa, Đấng ông không thể thấy được.

Lời tiếp theo còn làm cho chúng ta vui hơn : Phúc thay những người không thấy mà tin. Chắc chắn lời này đặc biệt nhắm đến chúng ta, vì chúng ta không thấy Chúa bằng giác quan nhưng lại gắn bó với Người bằng tâm trí. Câu ấy nhắm đến chúng ta, nhưng với điều kiện là chúng ta phải thể hiện đức tin bằng hành động. Vì chưng ai thực hành điều mình tin mới là người tin thật sự. Còn những ai chỉ tin ngoài môi ngoài miệng, thì thánh Phao-lô nói về họ rằng : Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa, nhưng trong hành động họ lại chối Người. Thánh Gia-cô-bê cũng nói : Đức tin không có hành động là đức tin chết.

 

Lạy Thiên Chúa toàn năng, hôm nay chúng con hoan hỷ mừng lễ thánh Tô-ma tông đồ. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22

"Anh em được xây dựng trên nền tảng các tông đồ".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, anh em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Ðức Giêsu Kitô làm Ðá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2

Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).

Xướng: 1) Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa! Hỡi ngàn dân, hãy ca tụng Người. - Ðáp.

2) Vì lòng từ bi Người vững bền trên chúng ta, và lòng trung kiên Người tồn tại đến muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 20, 29

Alleluia, alleluia! - Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 20, 24-29

"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđy-mô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".

Ðó là lời Chúa.

 

TIỂU SỬ VÀ SỨ VỤ TÔNG ĐỒ


Thánh Thomas (Tôma) Tông Đồ hay cũng còn được gọi là là Đi-đy-mô, xuất thân từ một gia đình nghèo túng tại Galilea, Do-thái. Tuy nhiên, không ai biết về ngày tháng năm sinh của Ngài, cũng không ai biết Ngài đã sinh ra tại địa điểm cụ thể nào ở Galilea. Theo tương truyền, Ngài đã đến Mailapur, một khu vực thuộc thánh phố Madras của Ấn-độ ngày nay, và đã chết tại đó vào năm 72 sau Chúa Ki-tô với tư cách là một vị Tử Đạo. Ngài là một trong nhóm 12 Tông Đồ, tức những môn đệ thân tín nhất của Chúa Giê-su, đã đồng hành với Chúa Giê-su suốt ba năm trường với tư cách là những người bạn và những môn sinh (xc. Ga 15,15). Tên của Ngài được đặt theo tiếng Aram: ta'am (Thomas), có nghĩa là „một cặp“ hay „người được sinh đôi“. Vì thế, trong Kinh Thánh, Thomas cũng được gọi là Didymos, vì từ Thomas được dịch sang tiếng Hy-lạp là δίδυμος (didymos). Theo truyền thống Syria, Thánh Nhân cũng còn được gọi là Judas Thomas, vì tại đó, Thomas được hiểu là tên đệm, hay tục danh.


Trong các Giáo hội Công giáo, Chính thống giáo và Anh giáo, Thánh Thomas được tôn kính với tư cách là vị Thánh Tông Đồ Tử Đạo. Trong các Giáo hội Tin Lành cũng có ngày tưởng nhớ tới Ngài.


1.Hình ảnh của Thánh Thomas trong Kinh Thánh:


Thánh Thomas được cả bốn Tin Mừng nhắc tới trong bảng danh sách các Tông Đồ. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, tức ba cuốn Tin Mừng đầu tiên, Ngài đứng bên cạnh Thánh Mát-thêu - viên quan ngành thuế (Mt 10,3; Mc 3,18; Lc 6,15). Trong sách Công Vụ Tông Đồ, người ta thấy Ngài đứng bên cạnh Tông Đồ Philiphê (Cv 1,13). Tin Mừng theo Thánh Gio-an đã cung cấp một số chi tiết đặc biệt về Thánh Nhân, mà những chi tiết đó đã mô tả một cách rõ nét về những tính cách nơi con người Ngài.


a.Thomas là người đa nghi:


Trước tiên, con đường dẫn tới việc tuyên xưng Đức Tin vào Con Thiên Chúa được trình bày nơi Thánh Thomas, dựa trên nền tảng căn bản phát xuất từ mối tương quan cá nhân của Ngài với Chúa Giê-su. Tin Mừng theo Thánh Gio-an (xc. Ga 20,19-29) đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn như thế:


Vào chiều ngày ấy, tức ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."


„Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"


Sở dĩ Thánh Thomas bị gọi là người „đa nghi“ là vì, như được trình bày trong đoạn văn Kinh Thánh nêu trên, trước khi tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giê-su Phục Sinh thì Ngài đã nghi ngờ về sự phục sinh của Chúa, cho tới khi chính Ngài tận mắt thấy được những vết đanh trên người của Đấng Phục Sinh.


b.„Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống“:


Một chi tiết tiếp theo về Thánh Thomas được ghi lại trong trình thuật về Bữa Tiệc Ly (xc. Ga 14,4). Trong Bữa Tiệc này, sau khi loan báo về cái chết đang đến gần của Ngài, Chúa Giê-su đã nói rằng, Ngài sẽ đi để dọn chỗ cho các Môn Đệ, để Ngài ở đâu thì các ông cũng sẽ được ở đó với Ngài; và Ngài đã giải thích cho các ông rằng: „Thầy đi đâu thì anh em cũng đã biết đường đến đó rồi“ (Ga 14,4). Nhưng Thánh Thomas đã xen vào và nói: „Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?“ (Ga 14,5). Câu hỏi của Thánh Nhân đã tạo điệu kiện cho Chúa Giê-su tuyên bố một lời rất nổi tiếng: „Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống“ (Ga 14,6).


c.“Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!:


Thánh Thomas lại xuất hiện một lần nữa trong Tin Mừng trước khi Chúa Giê-su làm cho La-gia-rô phục sinh. Trong một khoảnh khắc đầy nguy ngập đối với cuộc sống của Ngài, Chúa Giê-su đã quyết định đi tới Bê-ta-ni-a để làm cho La-gia-rô được sống lại, và như thế, Ngài đã lên đường trong sự nguy hiểm, vì Bê-ta-ni-a nằm rất gần Giê-ru-sa-lem, nơi các thủ lãnh của dân đã quyết định làm mọi cách để khử trừ Chúa Giê-su (xc. Ga 10,22-39), do đó, chỉ cần nói tới đi đến Giê-ru-sa-lem thôi thì tất cả các môn đệ của Chúa Giê-su lẫn những người đi theo Ngài đều cảm thấy kinh hoàng và sợ hãi (xc. Mc 10,32). Trước sự quyết tâm của Chúa Giê-su và trước nỗi do dự của các Tông Đồ khác, Thánh Thomas đã nói với họ: „Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!


2.Thánh Thomas đã nghi ngờ về cuộc Thăng Thiên của Đức Maria:


Theo tương truyền, Thánh Thomas cũng là một Tông Đồ duy nhất đã không có mặt trong cuộc Thăng Thiên của Đức Maria. Khi được các Tông Đồ khác thuật lại cho biết sự kiện vừa nêu, Ngài cũng đã tỏ ra nghi ngờ giống như Ngài đã từng nghi ngờ về cuộc Phục Sinh của Chúa Giê-su. Vì thế Đức Mẹ đã hiện ra với kẻ đa nghi này và trao cho Ngài dây thắt lưng của Mẹ như là bằng chứng về việc cả hồn lẫn xác của Mẹ đều đã được nghinh đón trên Thiên Đàng. Do đó, trong nền kiến trúc Barock, hình ảnh Đức Maria cầm dây thắt lưng chính là một Mô-típ rất được yêu chuộng và phổ biến trong nghệ thuật Ki-tô giáo.


3.Những tương truyền về hoạt động tông đồ của Thánh Thomas:


Cuốn Didache, tức cuốn Giáo Lý của các Thánh Tông Đồ - một trong những tác phẩm Ki-tô giáo cố nhất ngoài 27 cuốn sách của Tân Ước – xuất hiện vào khoảng năm 100 sau Chúa Ki-tô, chứa đựng những bằng chứng cổ nhất bằng văn bản về hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại Ấn-độ. Theo cuốn sách này, Ngài đã thành lập Giáo hội tại Ấn-độ và tại những khu vực lân cận.


Khoảng một trăm năm sau, những tài liệu được gọi là những văn kiện về Thánh Thomas mới xuất hiện. Những tác phẩm này đã tường thuật lại một cách khá giống nhau về những công việc của Thánh Thomas, nhưng được thêu dệt thêm bởi rất nhiều những tình tiết giầu tính tưởng tượng, và có vẻ như bị ảnh hưởng nhiều bởi ngộ đạo thuyết.


Giáo phụ Ô-ri-gen cho biết rằng, trước tiên Thánh Thomas đã đến loan báo Tin Mừng tại Irak và Iran. Sau đó Ngài mới đến miền Nam Ấn-độ để hoạt động Tông Đồ, và vì những hoạt động truyền giáo của mình, nên Ngài đã bị giết tại Mailapur – một khu vực thuộc miền Nam Ấn-độ - vào năm 70 của thế kỷ thứ nhất. Người ta vẫn còn giữ được nhiều văn bản nói về những hoạt động của Thánh Thomas tại Ấn-độ, nhưng những văn bản đó xuất hiện sau thời Ô-ri-gen. Trong đó có những bản văn của Thánh Hieronymô (347-420), và của những người sống cùng thời với Ngài là Thánh Gaudentiô thành Brescia và Thánh Paulinô thành Nola (354-431).


Thánh Grêgôriô thành Tours (538-594) đã không chỉ cho chúng ta biết rằng, Thánh Thomas Tông Đồ đã hoạt động và chết tại Ấn-độ, nhưng còn cho biết thêm là, Ngài đã được mai táng tại đó trong một thời gian dài, và sau đó, các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển tới Edessa, nhưng nơi có ngôi mộ nguyên thủy của Ngài vẫn còn được tiếp tục tôn kính tại Ấn-độ. Thánh Isidor thành Sevilla (560-636) cũng nói tương tự như thế về Thánh Thomas, và cũng nói về cách thức lãnh nhận ơn Tử Đạo của Ngài tại Ấn-độ.


Một truyền thống khác phát sinh tại Nam Ấn-độ, và có nguồn gốc từ thời các Thánh Tông Đồ, và luôn tồn tại từ đó tới nay, đã cho biết về những hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại đó, và cho biết rằng, Ngài đã thành lập 7 giáo đoàn đầu tiên tại vùng duyên hải Malabar, cũng như cho biết về cuộc Tử Đạo của Ngài tại Mailapur nằm đối diện với vùng duyên hải Coromandel. Ngay cả truyền thống có tính địa phương của Ấn-độ về Thánh Thomas cũng xác nhận về việc các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển một phần lớn về Edessa, mà tại đây, trong các cuộc khai quật sau sau này, người ta đã phát hiện ra một ít Thánh Tích vẫn còn sót lại của Ngài.


Ibas Edessa đã cho xây dựng một ngôi Thánh Đường tại quê hương của ông để tôn kính các Thánh Tích của Thánh Thomas. Còn hộp sọ được cho là của Thánh Thomas thì hiện tại đang được bảo quản trong Nhà Thờ Chính Tòa Sioni tại Tiflis, Giorgia, và được tôn kính tại đó bởi Giáo hội Tông Truyền Chính thống Giorgia như là Thánh Tích. Trong cuộc Thập Tự Chinh vào năm 1258, phần lớn Thánh Tích của Thánh Thomas đều được chuyển từ Edessa về Ortona, Ý, và những Thánh Tích đó vẫn đang được bảo quản tại đó cho tới tận ngày nay, trong một hòm đựng Thánh Tích đặt trong Nhà Nguyện nằm bên dưới Vương Cung Thánh Đường Ortona. Ngôi mộ nguyên thủy của Thánh Thoams tại Ấn-độ hiện đang là một điểm hành hương có sức lôi cuốn rất mạnh. Ngoài Vương Cung Thánh Đường kính Thánh Thomas được xây dựng ngay trên ngôi mộ trước đây của Ngài tại Mylapore, thuộc thành phố Chennai, thì tại khu vực phía Nam Ấn-độ cũng còn vô số những điểm hành hương khác, mà những điểm hành hương này đều có liên quan đến Thánh Thomas cũng như liên quan tới những hoạt động truyền giáo của Ngài tại đó. Sau đây là một số địa điểm nổi tiếng nhất:


1.Thánh Đường kính Thánh Thomas trên núi Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Ngài đã Tử Đạo tại đó;


2.Thánh Đường kính Thánh Thomas nằm trên một ngọn núi nhỏ khác tại Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Thánh Thomas đã đến ẩn náu tại đó trước khi chịu Tử Đạo;


3.Núi và Thánh Đường Malayattoor tại Kerala: đây là nơi được cho là Thánh Thomas đã đến sống ẩn dật tại đó trong một thời gian dài để cầu nguyện và suy niệm;


4.Thánh Đường Codungallur: theo tương truyền, nơi đây đã từng là một thành phố cảng nổi tiếng, và vào năm 52, Thánh Thomas đã cập bến tại đây, và là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy do Thánh Thomas thành lập. Một cánh tay của Thánh Nhân đang được tôn kính tại đây. Cánh tay này đã được chuyển đến từ Ortona, nước Ý, như là một món quà của Đức Pi-ô XII nhân dịp mừng kỷ niệm 1900 năm Ngày thánh Thomas đặt chân tới Ấn-độ.


5.Thánh Đường Palayur: đây là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy tại vùng duyên hải Malabar, và nguyên là một đền thờ của người Ấn giáo. Sau khi hầu hết các Giáo sĩ Bà-la-môn gia nhập Giáo hội Công giáo, Thánh Thomas đã biến ngôi đền này thành một ngôi Thánh Đường.


Theo một số truyền thống khác, mà những truyền thống này có lẽ có nguồn gốc từ ngộ đạo thuyết và từ phái Manichê, Thánh Thomas được coi là người anh em song sinh của Chúa Giê-su.


Thánh Thomas còn bị gán là tác giả của một cuốn Tin Mừng và của nhiều tác phẩm khác. Nhưng tất cả các tác phẩm này đều bị liệt vào số các sách Ngụy Thư.


4.Việc tôn kính Thánh Thomas:


Tại Châu Âu, ngoài việc được tôn kính với tư cách là Thánh Tông Đồ Tử Đạo, Thánh Thomas còn được tôn kính với tư cách là vị Bổn Mạng của những người làm nghề thợ nề và thợ mộc. Bên cạnh đó, Ngài còn được tôn kính là Bổn Mạng của các Thần Học Gia.


Trước đây Giáo hội mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12, nhưng từ năm 1969, với cuộc cải tổ Phụng Vụ, Giáo hội đã mừng kính Ngài vào ngày mồng 03 tháng 07 với bậc Lễ Kính, tức Lễ Bậc II. Ngày mồng 03 tháng 07 được coi là ngày di chuyển các Thánh Tích của Thánh nhân từ nơi Ngài được phúc Tử Đạo, tức từ Kalamina về Edessa hồi thế kỷ thứ III.


Giáo hội Chính Thống giáo mừng kính Thánh Thomas vào ngày mồng 06 tháng 10.


Còn các Giáo hội Tin Lành thì vẫn tiếp tục mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.


Và Giáo hội Anh giáo cũng mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.

 

Lm Đa-minh Thiệu O.Cist

http://conggiao.info/thanh-toma-tong-do-d-41872

 

Thứ Tư  27/9/2006 - Bài 19: Tông Đồ Tôma (ĐTC Biển Đức XVI)

 


 

 

Thứ Hai

 

(nếu không bị Lễ Kính Thánh Tôma Tông đồ át đi)


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 18, 16-33

"Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao?"

Trích sách Sáng Thế.

Khi những vị ấy chỗi dậy, ra khỏi thung lũng Mambrê, liền trông về phía thành Sôđôma. Abraham cùng đi để tiễn chân các đấng. Chúa phán: "Nào Ta có thể giấu Abraham điều Ta sắp làm không? Vì Abraham sẽ trở nên một dân tộc vĩ đại và hùng cường, và muôn dân thiên hạ chẳng nhờ đó mà được chúc phúc sao? Ta biết Abraham sẽ truyền dạy cho con cháu và gia tộc mai sau phải tuân theo đường lối của Chúa, ăn ở ngay lành công chính, để Thiên Chúa ban cho Abraham những gì Người đã hứa cùng ông". Vậy Chúa phán: "Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ".

Các vị ấy bỏ nơi đó, đi về hướng thành Sôđôma. Nhưng Abraham vẫn còn đứng trước mặt Chúa. Ông tiến lại gần Người và thưa: "Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao? Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ, đừng đối xử với người công chính như với kẻ dữ! Xin đừng làm thế! Chúa phán xét thế giới, Chúa không xét đoán như thế đâu". Chúa phán cùng Abraham rằng: "Nếu Ta tìm thấy trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, Ta sẽ vì họ mà tha thứ cho cả thành". Abraham thưa lại: "Dù con chỉ là tro bụi, con đã bắt đầu nói, nên con xin thưa cùng Chúa con: Nếu trong số năm mươi người công chính đó còn thiếu năm người thì sao? Vì thiếu năm người Chúa có tàn phá cả thành không?" Chúa phán: "Nếu Ta tìm thấy bốn mươi lăm người công chính, Ta sẽ không phá huỷ cả thành". Abraham lại thưa cùng Chúa rằng: "Nhưng nếu có bốn mươi người thì Chúa sẽ làm gì?" Chúa phán: "Ta sẽ vì bốn mươi người đó mà không trừng phạt cả thành". Abraham thưa: "Lạy Chúa, nếu con lên tiếng, xin Chúa đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?" Chúa phán: "Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không phạt". Abraham nói: "Vì con đã trót nói thì con sẽ thưa cùng Chúa: Nếu trong thành tìm được hai mươi người công chính thì sao?" Chúa phán: "Vì hai mươi người đó Ta sẽ không tàn sát". Abraham thưa: "Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?" Chúa phán: "Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá".

Khi đã nói với Abraham xong, Chúa ra đi, và Abraham trở về nhà mình.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 8-9. 10-11

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi ân sủng. - Ðáp.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. - Ðáp.

4) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên trái đất, lòng nhân hậu Người siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 18-22

"Con hãy theo Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng vây quanh Người, thì Người ra lệnh sang qua bờ bên kia. Một luật sĩ đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, bất cứ Thầy đi đâu, con cũng xin theo Thầy". Chúa Giêsu trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu". Một môn đệ khác thưa Người rằng: "Thưa Thầy, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã". Chúa Giêsu trả lời: "Con hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết".

Ðó là lời Chúa.

 

The Gospel of the day: 9th July – Archdiocese of Malta

 


Suy Niệm

 

 

"kẻ chết chôn kẻ chết"

 

 

Bài Phúc Âm cho ngày trong tuần XIII Thường niên hôm nay rất ngắn gọn, chỉ bao gồm 2 câu trả lời của Chúa Giêsu cho 2 trường hợp khác nhau. Trường hợp thứ 1 về "Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo'" , và trường hợp thứ 2 về "Một người khác là người môn đệ thưa với Người: 'Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.'"


Chúa Giêsu đã trả lời cho vị kinh sư rằng "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu", và trả lời cho người môn đệ rằng: "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ". 


Tr
ước hết, chúng ta thấy nơi 2 câu Chúa Giêsu trả lời như thế này: câu thứ nhất cho vị kinh sư hoàn toàn có tính chất khách quan, thách đố và mời gọiđể vị kinh sư này suy nghĩ xem có thể theo Người là một tôn sư homeless vô gia cư để rồi tự quyết định lấy. 


Trái lại, câu trả lời thứ hai của Người (hình như) cho một trong thành phần môn đệ đã theo Người ngỏ lời xin Người cho phép về nhà lo phần an táng thân phụ của mình, có tính cách chủ quan, cương quyết và nghiêm ngặt, như thể đã theo Người thì không được coi ai hơn Người, dù là thân nhân ruột thịt của mình, và vì thế đừng lo chuyện thế gian, hãy để cho thế gian lo chuyện thế gian, "phần con, hãy theo Thày" (Gioan 21:22). 


Cả 2 câu trả lời này đều phản ảnh Bài Giảng Trên Núi về các Phúc Đức Trọn Lành mà Người đã huấn dụ các môn đệ của Người. Câu trả lời thứ nhất liên quan đến mối phúc đức trọn lành "ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật, vì chưng Nước Chúa Trời là của họ" (Mathêu 5:3), và câu trả lời thứ hai liên quan đến lời huấn dụ của Người: "Trước hết hãy tìm Nước Chúa và sự cống chính của Ngài, còn tất cả mọi sự khác sẽ được ban cho sau" (Mathêu 6:33). 


Tóm lại, qua hai câu trả lời này, Chúa Giêsu kêu gọi ai muốn theo Người thì phải sống trọn lành hơn, một sự sống như Người (câu trả lời 1) và với Người (câu trả lời 2), một sự sống nhờ đó mới có thể "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48). 


Câu Chúa Giêsu huấn dụ người môn đệ nào đó "xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã" rằng "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ" không phải là một thứ huấn dụ dạy con cái bất hiếu với cha mẹ của mình, trái lại, Người muốn thăng hóa và thánh hóa tình nghĩa xác thịt, như Người đã đối xử với chính Mẹ của người sau khi Mẹ Người tìm thấy Người trong đền thờ sau 3 ngày lạc mất Người (xem Luca 2:49), hay khi Mẹ Người và anh chị em họ của Người ở bên ngoài muốn gặp Người (xem Luca 8:20).

 

Bởi thế, phải hiểu cái "chết" trong câu Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây không phải chỉ hoàn toàn về phần xác mà còn nhất là về phần hồn. Và vì thế lời khuyên của Chúa Giêsu ở đây có thể hiểu là ai muốn theo Người và muốn làm môn đệ đích thực của người thì phải làm sao sống vượt lên trên thế gian, đừng chiều theo khuynh hướng chết chóc của thế gian, khuynh hướng "chuộng tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), khuynh hướng thích đi vào con đường rộng dẫn đến diệt vong (xem Mathêu 7:13). Nhờ đó, họ chẳng những thoát khỏi cái chết của thế gian mà còn có thể cứu được thế gian nữa bằng thế giá thánh đức của họ trước nhan Chúa.

 

Tổ phụ Abraham trong Bài Đọc 1 hôm nay quả thật là cha của kẻ tin nên mới có thế giá trước mặt Thiên Chúa như vậy, mới thân tình với Thiên Chúa như thế, đến độ Ngài không thể giấu ông những gì Ngài đang có ý định thực hiện: "Nào Ta có thể giấu Abraham điều Ta sắp làm không?" Đó là ý định hủy diệt Thành Sodoma và Gomora vì "tội lỗi chúng quá nặng nề!"

 

Khi biết được ý định của Thiên Chúa, nhờ thân tình với Ngài, và vì mối thân tình thần linh không thể nào lại là một mối thân tình vị kỷ, chỉ biết hoan hưởng mối hiệp thông thần linh giữa mình với Chúa, bất chấp mọi sự khác liên quan đến phần rỗi đời đời của tha nhân. Thiên Chúa sở dĩ tỏ cho Abraham biết ý định của Ngài không phải để cho Abraham biết vậy thôi, mà có ý muốn Abrahm can thiệp với Ngài cho 2 thành tội lỗi quá mức đáng bị hủy diệt này, nghĩa là bao giờ Thiên Chúa cũng vẫn tỏ lòng thương xót trước khi Ngài bất đắc dĩ phải thi hành công lý của Ngài.

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, trích từ Sách Khởi Nguyên, cho dù tổ phụ Abraham đã vì thân tình với Thiên Chúa mà mặc cả cùng Ngài về số người công chính có thể cứu cả thành, không dám xuống thấp hơn 10 người, nhưng Thiên Chúa vô cùng nhân hậu thật ra cũng chẳng cần đến 10 người công chính, mà chỉ cần một người công chính cũng được, như chính một mình bản thân của Abraham là cha của kẻ tin, như Ngài sau này chỉ vì một mình Mose van xin mà Thiên Chúa đang bừng cơn thịnh nộ sẽ tha chết cho cả một dân tộc ương ngạnh, cứng đầu và nổi loạn (xem Xuất Hành 32:11-14).

 

Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới có câu đáp chính yếu là "Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót" một câu đáp sau mỗi một tâm tình tri ân cảm tạ và chúc tụng ngợi khen Lòng Thương Xót của Ngài:

 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi ân sủng.

3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn.

4) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên trái đất, lòng nhân hậu Người siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người.

 

 

Thứ Ba

Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 19, 15-29

"Chúa cho mưa sinh diêm và lửa xuống trên thành Sôđôma và Gômôra".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, các thiên thần hối thúc ông Lót rằng: "Hãy chỗi dậy đem vợ và hai con gái của ngươi đi, kẻo chính ngươi cũng phải chết lây vì tội của thành Sôđôma!" Khi ông Lót còn đang do dự, các thiên thần nắm tay ông cùng vợ ông và hai con gái ông, vì Chúa muốn cứu thoát ông. Các thiên thần kéo ông ra ngoài thành và nói: "Ngươi muốn sống thì hãy chạy đi, đừng nhìn lại phía sau; cũng đừng dừng lại nơi nào cả trong miền quanh đây, nhưng hãy trốn lên núi, để khỏi chết lây!" Ông Lót thưa: "Lạy Chúa tôi, tôi van xin Ngài: Tôi tớ Chúa đã được Chúa thương yêu, và Chúa đã tỏ lòng khoan dung đại độ gìn giữ mạng sống tôi. Tôi không thể trốn lên núi kẻo gặp sự dữ mà chết mất. Gần đây có một thành phố nhỏ, tôi có thể chạy tới đó và thoát nạn. Thành đó chẳng nhỏ bé sao, xin cho tôi ẩn tránh tại đó để được sống". Thiên thần nói: "Thôi được, ta cũng chiều ý ngươi xin mà không tàn phá thành ngươi đã nói tới. Ngươi hãy mau mau trốn thoát tới đó, vì ta chẳng làm được gì trước khi ngươi đi tới đó". Bởi đó đã gọi tên thành ấy là Sêgor.

Mặt trời vừa mọc lên thì ông Lót vào đến thành Sêgor. Vậy Thiên Chúa cho mưa sinh diêm và lửa từ trời xuống trên thành Sôđôma và Gômôra. Người huỷ diệt các thành này, cả miền chung quanh, toàn thể dân cư trong thành cùng các giống xanh tươi trên đất. Bà vợ ông Lót nhìn lại phía sau, nên đã biến thành tượng muối.

Sáng sớm (hôm sau) ông Abraham thức dậy, đi đến nơi ông đã đứng hầu Chúa trước đây, ông nhìn về phía thành Sôđôma, và Gômôra và cả miền ấy, ông thấy khói từ đất bốc lên cao như khói một lò lửa hồng.

Khi Chúa phá huỷ các thành trong miền ấy, Người đã nhớ đến Abraham mà cứu ông Lót thoát cảnh tàn phá tại các thành mà ông đã cư ngụ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 25, 2-3. 9-10. 11-12

Ðáp: Lạy Chúa, con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt (c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin hãy thăm dò và thử thách con, xin Ngài luyện lọc thận tạng và tâm can. Vì con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt, và con sống theo chân lý của Ngài. - Ðáp.

2) Xin đừng cất linh hồn con cùng linh hồn người tội lỗi, đừng cất mạng sống con cùng mạng sống kẻ sát nhân; bọn người này nắm chặt tội ác trong tay, và tay hữu chúng ôm đầy lễ vật. - Ðáp.

3) Phần con, con vẫn sống tinh toàn, xin Ngài giải thoát và xót thương con. Chân con đứng vững trong đường bằng phẳng, trong các buổi hội họp, con sẽ chúc tụng Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 23-27

"Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, có các môn đệ theo Người. Và đây biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ. Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!" Chúa phán: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?" Bấy giờ Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ! Cho nên những người ấy kinh ngạc mà rằng: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?"

Ðó là lời Chúa.


When your life is threatened (Matthew 8:23-27) – Seeking the kingdom

Jesus Calms the Storm – by Ritchie Way - Good News Unlimited



Suy Niệm


Muốn sống thì đừng nhìn lại

Bài Phúc Âm hôm nay của Thánh ký Mathêu (8:23-27) tương tự như bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Chúa Nhật XII Thường Niên Năm B. 

Tương tự ở 3 điểm sau đây: 1- thày trò đang ở trên cùng một thuyền thì "biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ"; 2- cảm thấy hoảng sợ "Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!'"; 3sau khi thấy Người dẹp yên bão tố xong thì các môn đệ tỏ vẻ kinh ngạc về Người: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?".

Thế nhưng, có một chi tiết hơi khác nhau giữa 2 bài phúc âm cùng thuật về một biến cốđó là thái độ của Chúa Giêsu trước tâm trạng của các môn đệ khi gặp nạn bấy giờ. Trong khi ở bài Phúc Âm Thánh ký Marco Chúa Giêsu dẹp yên sóng gió đã rồi mới lên tiếng khiển trách lòng tin của các môn đệ: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?", thì ở bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay Người lại khiển trách các vị trước khi ra tay dẹp yên bảo tố: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?" 

Trong câu Chúa Giêsu khiển trách sau khi dẹp yên bão tố, vấn đề sợ hãi trước rồi mới tới đức tin sau, như thể Người muốn nói với các vị rằng: "Vì các con sợ nên các con mới yếu tin, do đó Thày đã tỏ quyền năng của Thày ra để các con tin vào Thày hầu sau này có bị nạn các con không sợ hãi nữa"; còn ở câu Người khiển trách trước khi ra tay khuất phục sóng gió, vấn đề đức tin trước sợ hãi sau, như thể Người muốn nói với các vị rằng: "Vì các con yếu tin nên các con mới sợ, bởi vậy Thày sẽ tỏ cho các con biết Thày là ai để các con lần sau không cảm thấy sợ hãi nữa khi Thày đang ở với các con". 

Trong bài đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, từ Sách Khởi Nguyên (19:15-29), Thiên Chúa cũng đã ra tay cứu Lot và gia đình của người cháu Abraham này khi Ngài ra tay thiêu hủy thành Sođôma và Gômôra, và sở dĩ gia đình người cháu này được cứu là nhờ ở vị tổ phụ công chính luôn tin tưởng vào Chúa ấy: "Khi Chúa phá huỷ các thành trong miền ấy, Người đã nhớ đến Abraham mà cứu ông Lót thoát cảnh tàn phá tại các thành mà ông đã cư ngụ.".

Thiên Chúa đã vì Abraham mà cứu cháu Lot của ông và gia đình cháu, đến độ, như Sách Khởi Nguyên trong bài đọc 1 hôm nay kể: "Khi ông Lót còn đang do dự, các thiên thần nắm tay ông cùng vợ ông và hai con gái ông, vì Chúa muốn cứu thoát ông. Các thiên thần kéo ông ra ngoài thành và nói: 'Ngươi muốn sống thì hãy chạy đi, đừng nhìn lại phía sau; cũng đừng dừng lại nơi nào cả trong miền quanh đây, nhưng hãy trốn lên núi, để khỏi chết lây!'"

Sở dĩ người cháu này của tổ phụ Abraham tỏ ra lưỡng lự không phải vì tiếc của hay vì không tin vào thần sứ của Thiên Chúa cho bằng xin chạy đi lánh nạn ở một thành phố nhỏ gần đó hơn là lên núi: "Lạy Chúa tôi, tôi van xin Ngài: Tôi tớ Chúa đã được Chúa thương yêu, và Chúa đã tỏ lòng khoan dung đại độ gìn giữ mạng sống tôi. Tôi không thể trốn lên núi kẻo gặp sự dữ mà chết mất. Gần đây có một thành phố nhỏ, tôi có thể chạy tới đó và thoát nạn. Thành đó chẳng nhỏ bé sao, xin cho tôi ẩn tránh tại đó để được sống".

Thiên Chúa chẳng những đã chiều theo ý của người cháu này mà còn vì người cháu ấy mà không thiêu hủy thành mà người cháu ấy ngỏ ý muốn đến trú ẩn nữa: "'Thôi được, ta cũng chiều ý ngươi xin mà không tàn phá thành ngươi đã nói tới. Ngươi hãy mau mau trốn thoát tới đó, vì ta chẳng làm được gì trước khi ngươi đi tới đó'. Bởi vậy thành ấy được gọi là Segor. Mặt trời vừa mọc lên thì ông Lót vào đến thành Segor. Vậy Thiên Chúa cho mưa sinh diêm và lửa từ trời xuống trên thành Sôđôma và Gômôra". 

Như thế, chúng ta thấy, chính nhờ đức tin được thể hiện qua đời sống công chính mà Abraham đã cứu được gia đình cháu Lot của ông khỏi bị thiêu hủy trong thành mà cháu đã sống, và cũng nhờ đức tin công chính của người cháu Lót này của ông mà thành phố có sự hiện diện của người cháu ấy đã thoát bị thiêu hủy. 

Trong Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịnh 25 (2-3,9-10,11-12), tâm tình của thành phần công chính, như của tổ phụ Abraham hay của Cháu Lot của ông, đã được bày tỏ cùng Thiên Chúa như sau:

1) Lạy Chúa, xin hãy thăm dò và thử thách con, xin Ngài luyện lọc thận tạng và tâm can. Vì con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt, và con sống theo chân lý của Ngài. 


2) Xin đừng cất linh hồn con cùng linh hồn người tội lỗi, đừng cất mạng sống con cùng mạng sống kẻ sát nhân; bọn người này nắm chặt tội ác trong tay, và tay hữu chúng ôm đầy lễ vật.


3) Phần con, con vẫn sống tinh toàn, xin Ngài giải thoát và xót thương con. Chân con đứng vững trong đường bằng phẳng, trong các buổi hội họp, con sẽ chúc tụng Chúa. 



Thứ Tư


Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 21, 5.8-20

"Con của người nữ tỳ không được thừa hưởng gia tài cùng với con tôi".

Trích sách Sáng Thế.

Khi Abraham được một trăm tuổi, thì Isaac sinh ra.

Ðứa trẻ lớn lên và thôi bú.

Ngày Isaac thôi bú, Abraham thết tiệc linh đình.

Bà Sara thấy con của Agar, người đàn bà Ai Cập, chơi với Isaac, con của bà, liền nói với Abraham rằng: "Hãy đuổi mẹ con người tì nữ này đi, vì con của người đầy tớ không được thừa hưởng gia tài cùng với con tôi là Isaac".

Abraham lấy sự ấy làm đau lòng cho con mình.

Chúa phán cùng Abraham rằng: "Người đừng buồn vì con trẻ, và con của nữ tì ngươi. Bất cứ Sara nói gì, ngươi hãy nghe theo vì nhờ Isaac, sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Nhưng Ta cũng sẽ cho con trai của nữ tì trở thành một dân tộc lớn, vì nó thuộc dòng dõi của ngươi".

Sáng sớm, Abraham chỗi dậy,lấy bánh mì và bầu nước, đặt lên vai người nữ tì, trao con trẻ cho nàng rồi bảo nàng đi.

Sau khi ra đi, nàng đến rừng Bersabê.

Và khi đã uống hết bầu nước, nàng bỏ con trẻ dưới gốc cây trong rừng.

Nàng ra ngồi cách xa đó khoảng tầm một tên bắn.

Vì nàng nói: "Tôi chẵng nỡ thấy con tôi chết", và nàng ngồi đó, thì bên trong đứa bé cất tiếng khóc.

Chúa đã nghe tiếng khóc của đứa trẻ, và thiên thần Chúa từ trời gọi Agar mà rằng: "Agar, ngươi làm gì thế? Ngươi đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe tiếng đứa trẻ khóc từ chỗ nó đang nằm kia.

Ngươi hãy chỗi dậy, ẵm con đi, và giữ chặt tay nó, vì Ta sẽ cho nó trở thành một dân tộc vĩ đại".

Và Thiên Chúa mở mắt cho Agar, nàng thấy một giếng nước và đến múc đầy bầu nước cho đứa trẻ uống.

Chúa phù trợ đứa trẻ; nó lớn lên, cư ngụ trong rừng vắng, và trở thành người có tài bắn cung tên.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33,7-8.10-11,12-13

Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe. (7a)

Xướng 1) Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. Thiên thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ. - Ðáp.

2) Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. - Ðáp.

3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia. - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8,28-34

"Ông đến lúc này để hành hạ các quỷ".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên thuyền sang bờ bên kia, đến miền Giêrasa, thì gặp hai người bị quỷ ám từ các mồ mả đi ra, chúng hung dữ đến nỗi không ai dám qua đường ấy.

Và chúng kêu lên rằng: "Lạy Ông Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng tôi có can chi đến ông? Ông đến đây để hành hạ chúng tôi trước hạn định sao?"

Cách đó không xa có một đàn heo lớn đang ăn.

Các quỷ nài xin Người rằng: "Nếu ông đuổi chúng tôi ra khỏi đây, thì xin cho chúng tôi nhập vào đàn heo".

Người bảo chúng rằng: "Cứ đi".

Chúng liền ra khỏi đi nhập vào đàn heo.

Tức thì cả đàn heo, từ bờ dốc thẳng, nhào xuống biển và chết chìm dưới nước.

Các người chăn heo chạy trốn về thành, báo tin ấy và nói về các người bị quỷ ám. Thế là cả thành kéo ra đón Chúa Giêsu. Khi gặp Người, Họ xin Người rời khỏi vùng của họ.

Ðó là Lời Chúa.


Free Visuals: Jesus heals the demoniacs Jesus sails to the other ...


Suy Niệm


Tần Số Tội Lỗi và Remote Control / Viễn Khiến Cám Dỗ

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Phúc Âm Thánh Ký Mathêu (8:28-34) cho Thứ Tư Tuần XIII Thường Niên, Thánh ký Mathêu thuật lại việc Chúa Giêsu trừ quỉ cho hai người bị quỉ ám.

Có mấy chi tiết hay hay trong câu chuyện trừ quỉ lần này có một không hai của Chúa Giêsu: trước hết là chi tiết không phải thân nhân của hai nạn nhân xin Chúa Giêsu trừ quỉ cho họ; sau nữa là chi tiết "hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người", trong khi đó có lẽ 2 người này chưa bao giờ đã từng gặp Chúa Giêsu mà lại nhận ra Người, chắc là nhờ đám quỉ tinh quái ám họ; sau hết là chi tiết chính Chúa Giêsu không trực tiếp ra tay trừ bọn quỉ ấy, mà chính bọn quỉ muốn xuất khỏi hai người bị chúng ám này, để tránh khỏi bị Người khu trừ: "Bọn quỷ nài xin Người rằng: 'Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo kia'". 

Qua câu chuyện này chúng ta thấy ma quỉ nhận biết Chúa Kitô là ai và đến thế gian để làm gì: "Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?" Đúng như lời Thánh Gioan viết trong Thư Thứ Nhất của ngài: "Chính là để phá hủy các công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (3:8). 

Công việc của ma quỉ là gì, nếu không phải là những gì liên quan đến chết chóc, nên hai người bị quỉ ám đã sống ở nơi "mồ mả" chết chóc, và chết chóc lại liên quan đến xác thịt (cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - "khuynh hướng của xác thịt thiên về sự chết" - Roma 7:6), nên bọn quỉ đã xin nhập vào đàn heo là loài vật vốn được tiêu biểu cho xác thịt, khiến cho "tất cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối hết".

Quả vậy, sau nguyên tội, con người như bị quỉ ám, bởi bản tính của loài người đã bị nọc độc tội lỗi và chết chóc của ma quỉ tiêm nhiễm vào, khiến họ bắt đầu xu hướng về tội lỗi và rất dễ sa ngã phạm tội. Bởi nơi bản thân họ đã chất chứa sẵn mầm mống tội lội là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, những thứ mầm mống tội lỗi đóng vai trò làm nội công cho ma quỉ, như thể con người bị ma quỉ cài đặt sẵn (build-in) tần số tội lỗi nơi họ, đến độ nó chẳng cần cám dỗ con người mà chỉ cần sử dụng bộ phận viễn khiến - remote control từ hỏa ngục là con người cũng đủ quay cuồng mù quáng làm theo ý muốn gian ác của chúng.

Cho dù con người có lãnh nhận Phép Rửa chăng nữa, họ chỉ được khỏi nguyên tội (nếu mới sơ sinh) và tư tội (nếu đã khôn lớn) cùng với các hình phạt kèm theo tội lỗi, nhưng bản tính của họ vẫn còn nguyên mầm mống nguyên tội là đam mê nhục dục cùng với các tính mê nết xấu, và vẫn phải chịu hậu quả nguyên tội - tâm linh bị tối tăm về trí khôn và bị yếu nhược về ý chí, thể lý thì đau khổ và chết chóc. Tuy nhiên, bởi Phép Rửa họ đã có được sự sống thần linh, một sự sống của Đấng Vượt Qua "nắm toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), đã chiến thắng tội lỗi và sự chết của chung loài người, nhờ đó họ có thể cùng với Chúa Kitô Phục Sinh chiến thắng tội lỗi và sự chết nơi bản thân của họ. 

Trong bài đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên (21:5,8-20), chúng ta thấy xuất hiện đứa con sinh bởi xác thịt của tổ phụ Abraham với người tỳ nữ Ai Cập Agar. Đứa con mang tên Ismael này cho dù không phải là đứa con sinh bởi lời hứa như Isaac, và vì thế không được thừa hưởng gia nghiệp của vị tổ phụ này theo lời hứa của Thiên Chúa, nhưng "vì nó là dòng dõi ngươi"  nó cũng được Thiên Chúa quan tâm chăm sóc theo thân phận và sứ mệnh thiên định của nó

"Thiên Chúa nghe thấy tiếng đứa trẻ và từ trời sứ thần Thiên Chúa gọi Hagar và nói: 'Sao thế, Hagar? Đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa trẻ, ở chỗ nó nằm. Đứng lên! Đỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay, vì Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn'. Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và nàng thấy một giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da, rồi cho đứa trẻ uống. Thiên Chúa ở với đứa trẻ, nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành người bắn cung". 


Phải chăng giòng dõi của Ismael này vẫn được cho là khối Ả Rập nói chung, một khối dân hầu hết theo Hồi giáo cũng tin kính tổ phụ Abraham, và giòng dõi của đứa con của lời hứa Isaac là dân Do Thái, một dân được tuyển chọn, tuy nhỏ bé cả về địa dư lẫn dân số, (khoảng hơn kém 15 triệu dân khắp thế giới), giữa một khối Ả Rập khổng lồ bao gồm cả 22 quốc gia hùng hậu cả về dân số (khoảng 422 triệu dân) lẫn địa dư, hầu hết tập trung ở vùng Trung Đông và Tiểu Á, nhưng vẫn ngang nhiên tồn tại một cách hết sức gai mắt đối với Khối Ả Rập mà khối khổng lồ này vẫn không thể nào ăn tươi nuốt sống họ nổi?

Phải chăng Thiên Chúa để như vậy cho có lợi cho cả đôi bên: bên Khối Ả Rập Hồi giáo nhận biết rằng Thiên Chúa ở cùng dân tộc được Ngài tuyển chọn, và bên Dân Do Thái luôn ý thức về thân phận của mình được Thiên Chúa ưu tuyển giữa chư dân và cho chư dân nói chung, nhất là Khối Ả Rập Hồi giáo là anh em cùng tổ phụ Abraham với họ?

Phải chăng trận chiến thiêng liêng giữa xác thịt hùng mạnh và thánh sủng thiêng liêng trong linh hồn cũng thế, cũng liên lỉ kéo dài như tới thiên thu bất tận, và thường xác thịt thắng thế nhưng chẳng những vẫn không làm gì nổi thánh sủng mà còn nhờ thánh sủng trong linh hồn mà được thanh tẩy và thánh hóa nữa?

Bài Đáp Ca hôm nay được áp dụng vào trường hợp của 2 mẹ con người nữ tỳ Ai Cập trong cơn khốn cùng, những con người dầu sao cũng có mối liên hệ mật thiết bất khả phân ly với tổ phụ Abraham, bao gồm cả về xác thịt, nên cũng xứng đáng được Chúa quan tâm chăm sóc, chứ không bị Ngài bỏ rơi và đầy đọa như một thứ đồ vô giá trị, nhờ đó cả họ nữa, cũng nhận biết Ngài mà được hưởng phúc lành của tổ phụ Abraham nơi miêu duệ của ông, xuất phát từ đứa con được sinh ra theo Lời Hứa của Chúa:

1) Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. Thiên thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ.

2) Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo.

3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc.



Thánh Antôn Zacaria Linh Mục (5/7)

 

12005 St Anton Maria Zacaria

 

 

Thánh Antôn Zaccaria, Linh mục, (1502-1539)
 
Thánh Antôn Maria Giacaria sinh năm 1502 tại Grêmôna, cha Ngài mất sớm, mẹ Ngài, người góa phụ trẻ 18 tuổi không còn biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào tạo tâm hồn người con nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và biết kiên trì hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình bác ái đối với người nghèo khổ, làm gương cho con.
 
Thành Grêmôna nơi Antôn sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc chiếm đóng của người Pháp, dân thành lại phải chiến đấu với Ludorse Sforza. Tình cảnh thật khốn khổ. Ngày kia trên đường về học, cậu bé Antôn đã cởi tấm áo thêu của mình cho người nghèo mặc. Thấy vậy, người mẹ đã âu yếm ôm con vào lòng. Từ đó Antôn xin cho con được ăn mặc bình thường, có khi còn nhịn phần ăn cho người nghèo nữa.
 
Thân mẫu Antôn đã chọn cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy lạp và Latinh. Vào tuổi 15, Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại theo đuổi y học ở Padua. Ở đại học người ta chế nhạo nếp sống nghèo khó của Ngài. Tốt nghiệp phải cấp bằng tiến sĩ ưu hạng, Ngài được rất nhiều khách hàng tín nhiệm. Nhưng đây lại là thời Luthênô nổi dậy. Antôn bỏ nghề thuốc để theo môn thần học.
 
Antôn Giacaria bắt đầu tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các chân lý cao trọng. Cha mẹ chúng cũng thường tới nghe dạy. Họ nói : - Nào chúng mình đến nghe thiên thần của Chúa.
 
Tay cầm thánh giá, thánh nhân rảo qua khắp các đường phố nói về ơn cứu chuộc và việc thống hối. Nơi nào bị chế nhạo, bị xỉ nhục, Ngài càng năng lui tới hơn.
 
Năm 1528, lúc được 26 tuổi, Antôn được thụ phong linh mục. Ngài đến ở Milan, thăm viếng các người đau khổ trong các nhà thương, nhà tù, nơi các xóm nghèo. Các nghĩa cử Ngài làm đã mang lại cho Ngài danh hiệu "người cha dân tộc". Ngài ngồi tòa hàng giờ để phục sinh các linh hồn. Ngài chống lại phái thệ phản và đối đầu với bất cứ ai muốn tấn công đức tin tinh tuyền. Cha Antôn có hai người bạn tông đồ là Mariggia và Ferrari. Đức giáo hoàng truyền cho các Ngài lập một hội dòng mới, các tu sĩ dòng thánh Phaolô. Các Ngài được trao cho việc coi sóc thánh đường thánh Barnabê, nên người ta gọi các Ngài là các cha Barnabê.
 
Thánh Antôn Maria Giacaria thường nói với các môn sinh: - "Đặc tính của những tâm hồn đại lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương bổng. Hãy tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình và cho người khác".
 
Ngài dạy họ phải quen với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm như vậy được nếu không hướng trọn ý tưởng về với Chúa, và nếu kinh nguyện chưa nên của ăn nuôi sống linh hồn. Các linh mục và cả hàng giáo sĩ đã bắt đầu. Chiều về anh em họp nhau lại để thú tội. Thánh nhân còn dẫn anh em rảo qua đường phố bằng cách vác Thánh giá mà rao giảng. Họ còn tự động cột giây vào cổ, làm những việc nặng nhọc trong khi một số khác đi ăn xin cho người nghèo.
 
Thấy vậy, nhiều người thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn cổ động lòng sùng kính Thánh Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người ta chỉ rước lễ một hai lần trong năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người coi sự nhiệt thành của Ngài là cuồng tín dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng và cảm nghiệm điều Ngài thường nói : - Bạn sẽ được thấp nhập vào Chúa đến độ không còn lo tưởng đến những sự trên thế gian này nữa.
 
Năm 1530, Ngài giúp nữ công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức giáo hoàng Phaolô III đã chuẩn y hội dòng này và đặt tên là "Dòng chị em các thiên thần".
 
Năm 1536, cha Antôn Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ đầu để đi truyền giáo. Ngài rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh chấp. Công việc thật bề bộn, không thể lường trước được, dầu vậy thánh nhân vẫn trung thành với tác vụ, các cuộc tĩnh tâm và thư tín.
 
Tuy nhiên lần này, tại Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn sinh, Ngài lui về với thân mẫu. Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn nói :- Mẹ ơi ! Mẹ đừng khóc nữa. Chẳng bao lâu rồi mẹ cũng được vui mừng với con trong vinh quang bất tận mà bây giờ con đang tiến vào.
 
Ba giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 1539, linh mục trẻ 36 tuổi Antôn Maria Giacaria thở hơi cuối cùng trong tay mẹ hiền.
 
*
Ngày 05-07: Thánh ANTÔN MARIA GIACARIA  Linh mục (1502 - 1539)

Khi Martin Luther tấn công những lạm dụng trong Giáo Hội, lúc ấy một phong trào canh tân đang manh nha thành hình. Trong số những người của phong trào có Thánh Antôn Zaccaria
 
Thuộc dòng dõi quý tộc, cha của Antôn Zaccaria mất sớm khi ngài mới hai tuổi, và mẹ ngài, người goá phụ 18 tuổi, ở vậy nuôi con. Bà tận tụy dạy dỗ đạo lý cho con ngay từ nhỏ. Khi 22 tuổi, Antôn lấy bằng tiến sĩ y khoa và làm việc ở Cremona, giúp đỡ người nghèo và siêng năng hoạt động tông đồ. Ngoài phần xác của con bệnh, ngài còn lo lắng đến phần hồn của họ, ngài là một giáo lý viên và được thụ phong linh mục lúc 26 tuổi.
 
Ðược sai đến Milan trong một vài năm, Cha Antôn Zaccaria thành lập hai tu hội, một cho nam giới và một cho nữ giới. Mục đích của tu hội là canh tân xã hội đang sa sút vào thời ấy, bắt đầu từ hàng giáo sĩ và tu sĩ.
 
Vì rất cảm kích Thánh Phaolô, Cha Antôn Zaccaria đặt tên cho tu hội là Bácnabê -- tên bạn đồng hành của Thánh Phaolô -- và ngài hăng say rao giảng ở trong nhà thờ cũng như ngoài đường phố, tổ chức các nhóm truyền giáo và không xấu hổ khi công khai ăn năn sám hối. Ngài còn khuyến khích những hình thức sinh hoạt mới mẻ, như giáo dân cộng tác trong công việc tông đồ, siêng năng rước lễ, chầu Thánh Thể và rung chuông nhà thờ vào 3 giờ chiều thứ Sáu hàng tuần.
 
Sự thánh thiện của Cha Antôn đã khích lệ nhiều người thay đổi đời sống, và như tất cả các vị thánh khác, ngài cũng bị nhiều người chống đối. Hai lần, tu hội của ngài phải chịu sự điều tra của các giới chức trong Giáo Hội, và cả hai lần đều được miễn trừ.
 
Ðang khi trên đường công tác hòa giải, ngài bị bệnh nặng và được đưa về thăm người mẹ. Ngài từ trần ở Cremona khi mới 36 tuổi.

Lời Bàn
Sự hăng say canh tân của Thánh Antôn Zaccaria có lẽ khiến nhiều người ngày nay "thất vọng". Vào thời điểm mà nhiều người trong Giáo Hội lẫn lộn giữa thế quyền và thần quyền, thì lời rao giảng, lối sống của Thánh Antôn không khác gì một cản trở cần diệt trừ. Nhưng lối sống ấy đích thực là linh đạo của Ðức Kitô, một Ðấng bị đau khổ, bị đóng đinh. Chúng ta cũng không thể "cao trọng hơn Thầy", và con đường thập giá luôn luôn là con đường dẫn đến vinh quang.
 
Trích từ NguoiTinHuu.com

http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&tabId=392&ArticleID=50627

 

1. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Là Đấng sáng lập dòng Banabê (theo tên nơi trụ sở dòng mẹ là tu viện Thánh Banabê ở Milan), Thánh Antôn Giacaria được kính nhớ theo ngày qua đời năm 1539 ở Crémone lúc 37 tuổi. Được phong thánh năm 1897.

Sinh năm 1502, tại Crémone nước Ý. Antôn được mẹ giáo dục theo tinh thần đạo hạnh. Chồng chết lúc bà mới mười tám tuổi, bà từ chối tái hôn để được toàn tâm toàn ý lo cho đứa con duy nhất là Antôn. Tuy còn nhỏ tuổi, Antôn đã khấn giữ khiết trinh trọn đời; sau khi tuyên thệ và từ chối không nhận tài sản cha để lại, Antôn theo học triết lý ở Pavie và ngành y tại Padone. Năm 1524, Antôn trở lại Crémone, dấn thân phục vụ các bệnh nhân. Cảm thấy được Ơn Gọi làm linh mục, Antôn chuẩn bị bước lên đời tư tế, dưới sự hướng dẫn của hai tu sĩ dòng Đaminh. Hai mươi sáu tuổi, năm 1528, Antôn thụ phong linh mục. Năm 1530, ngài tới định cư ở Milan. Tại đây, cùng với hai thành viên Hội Đấng Khôn Ngoan Vĩnh Cửu, ngài thành lập Hội dòng các Giáo sĩ Thánh Phaolô. Hội dòng có mục đích cải tạo hàng giáo sĩ cũng như giáo dân và đã được Đức Giáo Hoàng Clementê VII chuẩn thuận năm 1533.

Thánh Antôn Giacaria có thể được xem là người đi trước Thánh Carôlô trong cuộc phục hưng công giáo: khi Thánh Carôlô tới Milan, năm 1569, đã thấy các tu sĩ Banabê hoạt động ở đó từ nhiều năm trước.

2. Thông điệp và tính thời sự

Lời nguyện của ngày phác thảo diện mạo Thánh Antôn, người sống đồng thời với thời kỳ Luther nổi lên chống đối Roma (1520 – 1524). Lời nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được sự hiểu biết khôn vời của Đức Kitô như đã ban cho Thánh Phaolô xưa và đã giúp Thánh Antôn Giacaria loan báo Lời Cứu Rỗi cho Hội Thánh.

Thánh Antôn đã thụ huấn tại trường học của Thánh Phaolô để “sống tình yêu Đức Kitô vượt mọi sự hiểu biết” (Ep 3, 19). Bởi thế, Người đã muốn là thầy thuốc chữa bệnh tâm hồn hơn thầy thuốc chữa bệnh phần xác. Nhiệt tình bác ái của thánh nhân biểu lộ qua việc chuyên cần giảng dạy giáo lý và công tác giáo dục; Ngài loan báo Lời Cứu Rỗi ngoài đường phố, trên các quảng trường, lôi kéo nhiều người trở lại, chấn chỉnh các tu viện, như ở Vicence và đem nhiều thành phố làm hòa lại với nhau.

Bài giảng cho các tu sĩ Banabê (Phụng vụ bài đọc) là một trong những bản văn quý hiếm của ngài còn giữ được (mười hai bức thư, sáu bài diễn văn và bản Hiến Pháp). Thánh Antôn Maria mô tả những công hiệu của cái khoa học làm ta “trở nên điên dại vì Đức Kitô” theo như giáo huấn của Thánh Tông Đồ mà thánh nhân gọi là “Đấng hướng dẫn và bảo vệ chúng ta”. Nhà cải cách không muốn thành lập một dòng tu gồm các tu sĩ hoặc tu huynh, nhưng muốn gồm những tông đồ được gọi vào sứ vụ phục vụ Lời và các bí tích, bởi ý đồ của người là muốn chống lại lạc giáo của Luther. Thánh nhân đã can đảm chịu đựng những hiểu lầm và bách hại gây nên cho mình trước khi được phục hồi sau hai phiên tòa mở ra để chống đối Ngài (1534 – 1537), do những người từng đồng hành trong các buổi đầu của viện do người thành lập. Thành viên của viện thời đầu được gọi là tu huynh Phaolô, về sau gọi là các tu sĩ Banabê; hội dòng đã được thành lập, dưới sự bảo trợ của Thánh Phaolô Tông Đồ, xem Người như Đấng hướng dẫn. Thánh Antôn Maria viết: “Dưới sự lãnh đạo của một thủ lãnh như thế, chúng ta không có quyền nhát đảm hay chạy trốn, cũng không được là những đứa con thoái hóa của một người cha như thế”. Từ hội dòng này có hai vị thánh: Thánh Phanxicô Xavie Bianchi và Thánh Alexandre Sauli, một trong những giám mục nổi tiếng nhất của cuộc cải cách do Công Đồng Tridentê khởi xướng.

Enzo Lodi

https://www.tonggiaophanhanoi.org/ngay-5-7-thanh-anton-maria-zacaria-linh-muc-1502-1539/

https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/05-07-thanh-anton-maria-zacaria-linh-muc-1502-1539-le-nho-tuy-chon/




Thứ Năm

Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 22, 1-19

"Lễ hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi". Vì vậy ban đêm Abraham chỗi dậy, thắng lừa, dẫn theo hai đầy tớ và Isaac, con của ông; khi đã chặt củi dành để đốt của lễ toàn thiêu, ông đi đến nơi Chúa đã truyền dạy. Ðến ngày thứ ba, ngước mắt lên, ông thấy nơi còn xa xa; ông bảo các đầy tớ rằng: "Các ngươi và con lừa hãy đợi tại đây. Ta và con trẻ đi đến nơi kia, sau khi cử hành việc thờ phượng xong, chúng tôi sẽ trở lại đây với các ngươi". Ông lấy củi dành để đốt của lễ toàn thiêu mà đặt trên vai Isaac, con ông, còn ông thì cầm lửa và gươm. Khi cha con cùng đi trên đường, Isaac hỏi cha mình rằng: "Thưa cha". Ông Abraham trả lời: "Hỡi con, con muốn gì?" Isaac nói: "Củi và lửa có đây rồi, còn của lễ toàn thiêu ở đâu?" Ông Abraham đáp: "Hỡi con, Thiên Chúa sẽ dự liệu của lễ toàn thiêu". Vậy hai cha con tiếp tục cùng đi.

Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên đống củi trên bàn thờ. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham! Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây, Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Ông gọi tên nơi này là "Chúa trông thấy". Bởi vậy, mãi cho đến ngày nay, người ta quen nói rằng "Trên núi Chúa sẽ trông thấy".

Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".

Ông Abraham trở về cùng các đầy tớ, và họ cùng nhau đi về Bersabê, và lập cư tại đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 114, 1-2. 3-4. 5-6. 8-9

Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước Thiên nhan Chúa, trong miền đất của nhân sinh (c. 9).

Xướng: 1) Tôi mến yêu Chúa, vì Chúa đã nghe, đã nghe tiếng tôi cầu khẩn; vì Chúa đã lắng tai nghe lời tôi trong ngày tôi kêu cầu Chúa. - Ðáp.

2) Thừng chão tử thần đã quấn lấy tôi, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người tôi; tôi đã rơi vào cảnh lo âu khốn khó. Và tôi đã kêu cầu danh Chúa: "Ôi lạy Chúa, xin cứu vớt mạng sống con". - Ðáp.

3) Chúa nhân từ và công minh, và Thiên Chúa của chúng tôi rất từ bi. Chúa gìn giữ những người chất phác, tôi đau khổ và Người đã cứu thoát tôi. - Ðáp.

3) Bởi Người đã cứu tôi khỏi tử thần, cho mắt tôi khỏi rơi lệ và chân tôi không quỵ ngã. Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 1-8

"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi". Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: "Ông này nói phạm thượng". Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: "Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng "Tội con được tha rồi", hay nói "Hãy chỗi dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội". Bấy giờ Người nói với người bất toại: "Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con". Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế.

Ðó là lời Chúa.

 

GOSPEL REFLECTIONS DAILY: HEALING THE PARALYTIC – JULY 1ST ...

 




Suy Niệm


 Chữa lành phần xác là một dấu chỉ tha tội phần hồn


Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh tiếp tục với b
ài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XIII Thường Niên hậu Phục Sinh hôm nay, trong đó, Thánh ký Mathêu (9:1-8) đã thuật lại việc Chúa Giêsu chữa một người bại liệt để tỏ quyền năng tha tội của Người, một sự kiện tha tội liên quan đến sự sống thần linh

"Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: 'Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!'" 

Thật vậy, chính vì nguyên tội mà con người đã bị chết về phần hồn (xem Khởi Nguyên 2:17), kèm theo cả cái chết về phần xác là hậu quả tất yếu của tội lỗi nữa (xem Khởi Nguyên 3:19). Tất cả những khổ đau con người phải chịu trên trần gian này đều là biểu hiệu của sự chết cả về tâm linh lẫn thể xác. Chứng bại liệt nơi thân xác của con người, như nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, chẳng những là hậu quả của nguyên tội mà còn là biểu hiệu cho tình trạng bất lực của con người mang bản tính nhiễm lây nguyên tội nữa. 

Đó là lý do, một khi con người được tha tội là con người được giải phóng về phần hồn, và vì bệnh nạn tật nguyền về phần xác gây ra bởi tội lỗi mà họ cũng có thể thoát được những chứng bệnh họ đang mắc phải, như trường hợp của người bất toại ở bài Phúc Âm hôm nay. Cho dù được khỏi tội mà không khỏi bệnh con người có tâm hồn trong sạch theo lòng tin tưởng vẫn có thể sống với bệnh tật một cách an bình, thậm chí còn lợi dụng được cả bệnh tật để làm vinh danh Chúa nữa (xem Gioan 9:3). 

Có ích gì cho con người nếu thân xác được lành mạnh mà lại lạm dụng nó để sống đời tội lỗi chứ. Nếu thà mất đi một phần thân thể mà được vào Nước Trời còn hơn lành cả thân xác mà bị quẳng vào hỏa ngục (xem Mathêu 5:29), thì đúng như Chúa Giêsu nói với thành phần "kinh sư nghĩ bụng rằng: 'Ông này nói phạm thượng'", "trong hai điều: một là bảo: 'Con đã được tha tội rồi', hai là bảo: 'Đứng dậy mà đi', điều nào dễ hơn?"

Đối với Thiên Chúa thì "con đã được tha tội rồi" thì "dễ hơn", còn đối với loài người thiển cận và dính bén với trần thế thì "đứng dậy mà đi" thì "dễ hơn", "dễ hơn" ở chỗ họ (nếu là nạn nhân) được "dễ" chịu hơn, vì được khỏi bệnh, và ở chỗ họ (thành phần khán giả hay chứng dự) "dễ" nhận hơn vì thấy được tỏ tường quyền năng thần linh. 

Bởi thế, Chúa Giêsu đã phải chiều theo khuynh hướng của loài người, hay nói đúng hơn, đã lợi dụng yếu điểm tò mò của loài người để tỏ mình ra cho họ, nhờ đó họ có thể thấy được vị thế thần linh siêu việt của Người, một vị thế vượt trên tất cả mọi vị tiên tri trong lịch sử của họ, hơn cả Moisen là vị cứu tinh dân tộc của họ cũng đã thực hiện không ít dấu lạ, một vị thế thần linh ở nơi quyền tha tội của Người, một con người như họ và ở giữa họ: 

 "Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội - bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại liệt: 'Đứng dậy, vác giường đi về nhà!' Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà. Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế".

Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có quyền tha tội cho con người qua Con của Ngài một cách "dễ" dàng như thế, Ngài vẫn không "dễ" dãi với Con của Ngài, trái lại, Thiên Chúa "đã không dung tha cho Con của Ngài, một phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32), nghĩa là Ngài muốn, hay đúng hơn, Ngài "bắt" Người Con duy nhất vô cùng dấu yêu của Ngài phải khổ nạn và tử giá vô cùng hèn hạ và ô nhục như một đệ nhất đại tội nhân trên trần gian này, như một hy tế đền bù tội lỗi của nhân loại và cho nhân loại, thành phần tội nhân phạm đến Ngài là Đấng vô cùng thì cũng phải có một Đấng vô cùng là Con Ngài đền thay mới cân xứng.

Cuộc khổ nạn và tử giá của Người Con duy nhất chí ái này của Thiên Chúa cho phần rỗi của chung loài người, như trong bài đọc 1 hôm nay trích Sách Khởi Nguyên (22:1-19) cho thấy, đã được tiên báo ở biến cố tổ phụ Abraham (hình bóng của Thiên Chúa Cha) sẵn sàng sát tế Isaac là người con duy nhất (hình bóng Chúa Giêsu Kitô: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu") được sinh ra theo lời hứa cho một dân tộc "đông như sao trời cát biển" (ám chỉ thành phần dân thánh Chúa, thành phần tin vào Ngài, thành phần được cứu độ).

Thế nhưng, chính lúc "Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình" thì "sứ thần Thiên Chúa từ trời gọi ông: 'Abraham! Abraham!... Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!... Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta'".

Bài Đáp Ca hôm nay phản ảnh tâm trạng khổ đau nhưng đầy tin tưởng của cả hai cha con tổ phụ Abraham: Người cha thì giết đứa con Lời hứa duy nhất của mình là mầm mống của một dân tộc đông như sao trời cát biển, nhưng vì tin tưởng và tuân phục Đấng đã ban cho mình người con này, nên đã sẵn sàng trả nó về cho Ngài, dâng cho Ngài như một hiến tế, một người con cũng không hề cự lại cha mình, cho dù có bị chết bởi chính tay cha của mình như Thiên Chúa muốn:

1) Tôi mến yêu Chúa, vì Chúa đã nghe, đã nghe tiếng tôi cầu khẩn; vì Chúa đã lắng tai nghe lời tôi trong ngày tôi kêu cầu Chúa.

2) Thừng chão tử thần đã quấn lấy tôi, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người tôi; tôi đã rơi vào cảnh lo âu khốn khó. Và tôi đã kêu cầu danh Chúa: "Ôi lạy Chúa, xin cứu vớt mạng sống con".

3) Chúa nhân từ và công minh, và Thiên Chúa của chúng tôi rất từ bi. Chúa gìn giữ những người chất phác, tôi đau khổ và Người đã cứu thoát tôi.

3) Bởi Người đã cứu tôi khỏi tử thần, cho mắt tôi khỏi rơi lệ và chân tôi không quỵ ngã. Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh.


 

Thánh Maria Goretti đồng trinh tử đạo
ngày 6/7


About St. Maria Goretti - Patron Saint Article



Thánh Maria Goretti, Đồng trinh Tử đạo (1890-1902)


Có đến 250.
000 người tham dự lễ phong thánh cho “cô bé” Maria Goretti.
Maria Goretti là con một tá điền người Ý nghèo nàn, không được đi học nên không biết đọc biết viết. Maria Goretti được rước lễ lần đầu không được bao lâu thì qua đời lúc 12 tuổi.

Vào một buổi chiều tháng Bảy nóng bức, Maria Goretti ngồi trên đầu cầu thang trong nhà để sửa áo, chưa đầy 12 tuổi như cơ thể đã nảy nở. Một chiếc xe bò dừng lại 
bên ngoài, một người hàng xóm là Alessandro Serenelli, 18 tuổi, chạy lên cầu thang. Hắn chộp lấy Maria Goretti và đưa vào giường. Maria Goretti chống cự dữ dội và kêu cứu, hắn định tự sát chứ không chịu bị bắt. Maria Goretti nói: “Không, Chúa không muốn vậy. Đó là tội. Anh sẽ sa hỏa ngục vì tự tử”. Alessandro bắt đầu chĩa dao và đâm Maria Goretti.

Maria Goretti được đưa tới bệnh viện. Giây phút cuối, Maria Goretti lo cho mẹ sẽ có ngủ được hay không, và sẵn sàng tha thứ cho kẻ giết mình. Maria Goretti trút hơi thở cuối cùng sau 24 giờ bị đâm.
Kẻ sát nhân bị kết án 30 năm tù. Một thời gian lâu sau mà hắn vẫn không hối hận. Có một đêm hắn chiêm bao thấy Maria Goretti hái những bông hoa trao cho hắn. Từ đó hắn thay đổi cuộc sống. Sau 27 năm tù, Alessandro được tha, hành động đầu tiên là anh ta đến xin lỗi mẹ của Maria Goretti.

Lòng sùng kính vị thánh trẻ tử đạo này lan nhanh, các phép lạ xuất hiện, Maria Goretti được phong thánh chỉ sau gần 50 năm. Năm 1947, tại lễ phong chân phước cho Maria Goretti, người mẹ (lúc đó 82 tuổi), 2 em gái và 1 em trai đã xuất hiện cùng với ĐGH Piô XII trên lan can Đền thờ thánh Phêrô. Ba năm sau, tại lễ phong thánh cho Maria Goretti, Alessandro Serenelli (lúc đó đã 66 tuổi) quỳ giữa hàng trăm người và bật khóc.



https://giaophanvinhlong.net/thanh-maria-goretti-dong-trinh-tu-dao-18901902.html

Thánh Maria Goretti sinh ngày 16 tháng 10 năm 1890 tại Ancona. Cha mẹ ngài là những người nhà quê thất học. Vì hoàn cảnh nghèo túng, năm 1899, gia đình người dời về sống trong một nông trại ở làng Auziô, gần Neturô. Đây là một gia đình nghèo khó nhưng giầu lòng tin đến độ chuyển núi dời non. Cha ngài vào một hợp tác và sống chung trong một nhà với một gia đình khác, ông cần cù vỡ đất trồng trọt để nuôi sáu người con. Còn mẹ thánh nữ, bà rất mệt nhọc trong việc săn sóc đoàn con bé bỏng.

Nhưng gia đình can đảm và thân mật này đã bị dao động khi người cha bất ngờ qua đời. Bà góa phụ Assunta không biết nương tựa vào đâu và quyết định tiếp nối công việc nặng nhọc vừa khởi sự. Bà giao các con nhỏ cho trưởng nữ mới 10 tuổi săn sóc. Maria, người con gái ấy là một đứa trẻ hiền lành can đảm biết vâng phục. Thánh nữ thật là một nguồn an ủi cho người mẹ hiền lành nhưng cương quyết với các con. Dù còn trẻ thánh nữ đã sớm trở thành một người nội trợ mới.

Hàng xóm của bà Assunta, là gia đình Serenrlli, họ là những người có tinh thần phục vụ. Nhưng Alessandrô lại chơi với các bạn bè xấu và ham đọc sách nguy hiểm. Nhiều lần anh ta giúp đỡ Maria trong những việc nặng nhọc. Người ta có thể nghĩ là Alessandrô đã cải tính sửa nết. Maria thì biết ơn và còn quá trong trắng để mà nghi ngờ. Nhưng Alessandrô đã không ngần ngại đưa ra những đề nghị bỉ ổi, lại còn đe dọa cô không được nói với ai, không hiểu biết gì, Maria Goretti cảm thấy nguy hiểm phạm tội, và đã thú thực hết với mẹ. Run sợ cho tâm hồn còn tinh trong của con bị hoen ố, bà Assunta đã dạy cho Maria cách thắng vượt sự dữ, đề phòng cho cô khỏi mắc cơn nguy hiểm mà cô chưa biết đến. Maria Goretti hứa sẽ không bao giờ nhượng bộ.

Maria mới 12 tuổi, nhưng đã nẩy nở xinh đẹp. Alessandrô thúc bách, nhưng người thiếu nữ đã biết giữ gìn và chống cự lại. Thảm cảnh diễn ra ngày 5 tháng 7 năm 1902. Sáng hôm đó, đợi cho mọi người đi khỏi, Alessandrô tới gần ve vãn cô gái. Cầm dùi trong tay, anh còn đe dọa :

- Nếu cô không chịu, tôi sẽ giết cô.

Cô gái la lớn:

- Không, đó là việc tội Chúa cấm ! Anh sẽ phải vào hỏa ngục.

Không còn kềm được bản năng , Alessandrô lao vào con mồi, đâm cô hơn 14 nhát.

Tiếng kêu la của kẻ hung bạo và của nạn nhân vang tới mọi người lân cận. Bà Assunta vội đưa người con hấp hối của mình tới nhà thương ở Nettunô. Dọc đường Maria nói với mẹ:

- Mẹ ơi ! Anh đã muốn con phạm tội với anh con đã cự tuyệt.

Linh mục tới đầu giường cô và nhắc lại cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá với lưỡi đòng, sự hối cải của người trộm lành... rồi Ngài hỏi:

- Marietta, con có tha thứ không?

- Dạ tha, vì tình yêu Chúa Giêsu, chớ gì anh được lên thiên đàng với con .

Alessandrô bị kết án 30 năm khổ sai. Tính hung hăng của anh càng tăng làm các bạn tù khiếp sợ. Tám năm sau, một đêm đã làm biến đổi tất cả. Tội nhân mơ thấy Maria sáng chói giữa vườn huệ và hái trao chàng một bông. Hôm sau anh viết lời thú tội, tự thú tất cả cho Đức Giám mục và kể lại cả giấc mơ cho ngài. Anh đã hối hận. Từ ngày đó, thái độ của anh rất gương mẫu. Năm 1929 anh được phóng thích. Năm 1937, quì dưới chân bà Assunta, anh hỏi:

- Bà có tha thứ cho con không?

Và người mẹ thánh nữ trả lời:

- Nó đã tha cho con rồi, tôi làm khác sao được?

Lễ Giáng sinh năm ấy, hai người cùng tiến lên bàn thờ rước lễ.

Maria Goretti được phong chân phước ngày 27 tháng 4 năm 1927. Đến ngày 24 tháng sáu năm 1930, trước mặt người mẹ đã 87 tuổi, Maria Goretti được Đức Giáo Hoàng Piô XII tôn phong lên bậc hiển thánh.

https://tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-maria-gorettidong-trinh-tu-dao-42646

Thứ Sáu


Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 23, 1-4. 19; 24, 1-8. 62-67

"Isaac yêu thương Rêbecca, cho nên ông tìm được niềm an ủi, vì thương nhớ mẹ đã qua đời".

Trích sách Sáng Thế.

Bà Sara được một trăm hai mươi bảy tuổi thì qua đời tại thành Cariatharbê, tức là Hêbron, trong đất Canaan. Ông Abra-ham đến khóc lóc thương tiếc bạn mình. Khi lo việc chôn cất, Abraham chỗi dậy nói với các con ông Hét rằng: "Tôi là ngoại bang, là khách lạ giữa quý ông, xin quý ông nhượng cho tôi một phần mộ để chôn xác người nhà tôi qua đời". Rồi Abraham chôn cất bà Sara vợ ông trong Hang Ðôi ngoài đồng ruộng, đối diện với Mambrê, tức Hêbron, trong đất Canaan.

Khi ấy, Abraham đã già nua, và Chúa đã chúc lành cho ông trong mọi sự. Abraham nói với người đầy tớ lớn tuổi nhất trong nhà, cũng là người quản lý mọi của cải của ông rằng: "Ngươi hãy đặt tay vào dưới bắp vế ta mà thề trước mặt Chúa là Thiên Chúa trời đất, sẽ không cưới cho con ta một người vợ thuộc dân Canaan mà ta đang ở chung với họ đây. Ngươi hãy đi về quê họ hàng ta, mà cưới vợ cho con ta là Isaac". Người đầy tớ thưa lại: "Nếu người phụ nữ không muốn theo tôi về xứ này, thì tôi có phải đem con trai ông về quê quán của ông chăng?" Abraham trả lời rằng: "Ngươi hãy cẩn thận chớ bao giờ dẫn con ta về đó: Chúa là Thiên Chúa, đã đưa ta ra khỏi nhà cha ta và quê quán ta, đã phán và thề hứa cùng ta rằng: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi". Thiên Chúa sẽ sai thiên thần đi trước mặt ngươi, và ngươi cưới cho con trai ta một người vợ trong xứ đó. Nếu người phụ nữ không chịu theo ngươi về, thì ngươi không còn mắc lời đoan thề mà ta bảo người đây. Chỉ có một điều là đừng dẫn con trai ta về nơi đó".

Khi ấy, Isaac đi bách bộ trên đường dẫn đến cái giếng gọi là "Ðấng Hằng Sống và Trông Thấy", vì ông cư ngụ tại mạn nam. Lúc gần tối, Isaac đi ra ngoài cánh đồng để suy ngắm. Khi ngước mắt lên nhìn, thấy những con lạc đà đang trở về từ đàng xa. Rêbecca cũng ngước mắt nhìn thấy Isaac, nàng liền nhảy xuống khỏi lạc đà, và hỏi người đầy tớ rằng: "Người đang đi trong cánh đồng để ra đón chúng ta là ai vậy?" Người đầy tớ đáp: "Người đó là chủ tôi đấy". Nàng vội vàng lấy khăn che mặt. Người đầy tớ lại kể lại cho Isaac hay mọi việc mình đã làm. Isaac đưa Rêbecca vào nhà xếp của Sara mẹ ông, ông lấy nàng làm vợ và yêu thương nàng lắm, cho nên ông tìm được niềm an ủi bớt thương nhớ mẹ đã qua đời.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 1-2. 3-4a. 4b-5

Ðáp: Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu (c. 1a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói cho hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? - Ðáp.

2) Phúc cho ai tuân giữ những điều huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. - Ðáp.

3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 9-13

"Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ". Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".

Ðó là lời Chúa.




Jesus Calls Matthew, the Tax Collector | Life of Jesus


Suy Niệm

"với bọn thu thuế và quân tội lỗi"

Nếu bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến quyền năng tha tội của Chúa Giêsu thì bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XIII Thường Niên hôm nay (Mathêu 9:9-13), tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, liên quan đến tội nhân, đúng hơn liên quan đến sứ vụ của Người đối với thành phần tội nhân.

Đúng thế, sau khi gọi "một người tên là Mathêu đang ngồi tại trạm... 'Anh hãy theo tôi!'", Chúa Giêsu đã đến nhà của viên thu thuế này để "dùng bữa ... có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ", và hậu quả xẩy ra là: "Thấy vậy, những người Pharisiêu nói với các môn đệ Người rằng: 'Sao Thầy của các anh lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi như thế chứ?'".

Nếu chính vì loài người tội lỗi mà "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14), thì sứ vụ của Người đó là "tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10), nên Người càng cần phải làm sao để có thể đến gần với họ hơn ai hết và hơn bao giờ hết, nhờ đó họ có thể cảm nghiệm được tình thương của Người mà trở về nhà Cha của Người. Đó là lý do: 

"Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói: 'Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi'".

Trước mặt Thiên Chúa loài người không ai là người công chính, tất cả đều là tội nhân đáng thương và cần được cứu độ, bao gồm cả tổ phụ Abraham vốn được xưng "là cha của tất cả các kẻ tin" (Roma 4:11), thậm chí kể cả đệ nhất tạo vật về ân sủng là Mẹ Maria, cho dù được hoài thai vô nhiễm nguyên tội, cũng đã chân nhận là mình được cứu độ (được gìn giữ một cách đặc biệt nhờ hưởng trước ơn cứu chuộc của Chúa Kitô Con Mẹ), như lời Mẹ tuyên xưng trong Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hân hoan trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi" (Luca 1:46-47), huống chi là thành phần biệt phái (Pharisiêu) trong dân Do Thái, thành phần bị Chúa Giêsu thậm tệ quở trách là "đồ giả hình", "thứ gian trá", "những hướng đạo viên mù quáng" (xem Mathêu toàn đoạn 23). 

Đời sống và thái độ của họ tỏ ra như thể họ là "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc". Thế nhưng, họ đã hoàn toàn lầm lạc, chỉ sống theo chữ nghĩa của lề luật hơn là tinh thần của lề luật, và sử dụng chính lề luật để xét đoán xấu cùng lên án tha nhân và khinh bỉ thành phần "thu thuế và tội lỗi", nghĩa là để sát hại hơn là để cảm thông và cứu giúp, hoàn toàn ngược với cốt lõi của dự án thần linh, phản lại với cõi lòng yêu thương vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa. Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã khuyên thành phần biệt phái kiêu hãnh về đời sống công chính hoàn toàn giả tạo của họ rằng: "Hãy về mà học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân lành chứ đâu cần lễ tế".

Thiên Chúa tỏ tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài ra ở mạc khải Thánh Kinh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, cho cả tội nhân (bằng việc tha thứ) cũng như chính nhân (bằng việc chăm sóc). Trong bài đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên (23:1-4,19; 24:1-8,62-67), chúng ta cũng thấy lòng nhân lành của Thiên Chúa được tỏ ra qua việc Ngài chăm sóc cho vị tổ phụ Abraham và Isaac con ông, khi Ngài sắp xếp cho người con được sinh ra bởi lời hứa này lấy được người vợ đúng như lòng mong ước của vị tổ phụ, một lòng mong ước trước hết ở chỗ trung thành với tất cả những gì Thiên Chúa muốn, không hề dám làm gì trái ý của Ngài.

Vị tổ phụ này cương quyết không muốn cho người con trai được sinh ra theo lời hứa này của ông lấy con gái xứ Canaan dân ngoại là nơi ông đang sống, và ông cũng không muốn cho người con trai quí báu này của ông lấy bất cứ người con gái nào ở nơi ông đã bỏ đi từ đó mà đến xứ Canaan này, nhưng lấy một người con gái thuộc chính gia tộc của ông. Ông đã dặn người lão bộc đã ở với ông ngay từ đầu như thế, bằng một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng thần linh nhân hậu của Thiên Chúa:

"'Chú hãy đặt tay dưới đùi tôi, và tôi xin chú nhân danh Thiên Chúa là Chúa trời đất, mà thề rằng chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ Canaan, nơi tôi đang sống. Nhưng chú sẽ về quê tôi, đến với họ hàng tôi, mà cưới vợ cho con tôi là Isaac'. Người lão bộc thưa với ông: 'Có thể người đàn bà ấy không chịu đi theo tôi về đất này; vậy tôi có phải đưa cậu con trai ông về đất mà từ đó ông đã ra đi không?' Ông Abraham bảo người ấy: 'Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó! Thiên Chúa là Chúa Trời, Đấng đã đưa tôi ra khỏi nhà cha tôi, khỏi quê hương tôi, Đấng đã phán với tôi và thề với tôi rằng: 'Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này', chính Người sẽ sai sứ thần Người đi trước mặt chú, để từ nơi đó chú cưới vợ về cho con tôi. Nếu người đàn bà không chịu đi theo chú, thì chú không còn buộc phải giữ lời thề với tôi nữa. Nhưng dù sao, cũng đừng đưa con tôi về đó".

Quả thực, qua đoạn Sách Khởi Nguyên không được trích dẫn (vì quá dài), giữa đoạn trên đây và đoạn dưới đây, chúng ta thấy được Thiên Chúa chính là Đấng xe duyên kết nghĩa cho con người được Ngài hứa cho xuất phát một dân tộc đông như sao trời cát biển, nhưng dân tộc đông như sao trời cát biển bao gồm tất cả những ai được cứu độ ấy lại cần phải được chung hưởng gia nghiệp với một giòng dõi được tuyển chọn là dân Do Thái, bắt đầu từ cặp vợ chồng Isaac và Rebeca:

 

"Khi ấy cậu Isaac đã bỏ vùng giếng Beer-lahai-roi, và đang ở trong miền Negeb. Cậu Isaac ra ngoài đồng dạo mát lúc chiều tà. Ngước mắt lên, cậu thấy một bầy lạc đà đang tiến đến. Ngước mắt lên, cô Rebeca thấy cậu Isaac, cô bèn từ trên lưng lạc đà nhảy xuống và hỏi người lão bộc: 'Người đang đi ngoài đồng tiến về phía chúng ta là ai đó?' Người lão bộc trả lời: 'Chủ tôi đấy!' Cô bèn lấy chiếc khăn che mặt. Người lão bộc thưa lại với cậu Isaac tất cả những gì ông đã làm. Cậu Isaac đưa cô Rebeca vào lều của bà Sara mẹ cậu; cậu lấy cô làm vợ, cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ". 


Giờ đây, cùng với "bọn thu thuế và quân tội lỗi"
trong Bài Phúc Âm, tiêu biểu cho tội nhân, và với những con người công chính như tổ phụ Abraham với vợ chồng Isaac và Rebecca con cái của ông, chúng ta "hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời" theo tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay dưới đây:

1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói cho hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người?

2) Phúc cho ai tuân giữ những điều huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài.

3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài.


Thứ Bảy



Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) St 27, 1-5. 15-29

"Giacóp chiếm vị và trộm lấy chúc lành của anh".

Trích sách Sáng Thế.

Isaac đã già, mắt loà không còn trông thấy được nữa. Ông gọi con trai cả là Êsau mà bảo rằng: "Hỡi con". Êsau thưa: "Dạ, con đây". Ông nói tiếp: "Con thấy cha đã già rồi, cha không biết ngày nào cha chết. Con hãy lấy khí giới: cung, tên, rồi đi ra ngoài; khi săn được gì, con hãy lấy mà dọn món ăn mà con biết cha ưa thích, rồi đem cho cha ăn, và cha sẽ chúc lành cho con trước khi cha chết".

Bà Rêbecca nghe lời ấy (...) và khi Êsau ra đồng để thi hành lệnh của cha (...) thì bà lấy áo tốt của Êsau mà bà vẫn giữ trong nhà, đem mặc cho Giacóp. Bà lấy da dê mà bọc tay và quấn cổ Giacóp. Ðoạn bà lấy cháo và bánh đã nấu trao cho Giacóp...

Giacóp bưng lên cho cha mà nói rằng: "Thưa cha". Isaac nói: "Cha nghe rồi. Hỡi con, con là ai?" Giacóp thưa: "Con là Êsau trưởng nam của Cha. Con đã làm như cha dạy, xin cha chỗi dậy, ngồi ăn thịt con đã săn được để cha chúc lành cho con". Isaac lại nói với con: "Hỡi con, lẽ nào con săn được mau như thế?" Giacóp thưa: "Thánh ý Thiên Chúa đã định, nên con chóng được như ý muốn". Isaac bảo rằng: "Hỡi con, con hãy lại đây để cha rờ thử xem con có phải là Êsau con của cha hay không". Giacóp tiến lại gần cha. Isaac rờ con mà nói: "Tiếng nói là tiếng Giacóp, còn tay lại là tay Êsau". Ông không nhận ra được, vì tay (cậu) có lông như tay anh cả. Vậy ông chúc lành cho con mà nói: "Con có phải là Êsau con cha thật không?" Giacóp đáp: "Thưa phải". Ông nói tiếp: "Hỡi con, hãy đem cho cha ăn thịt săn của con, để cha chúc lành cho con". Khi ông ăn đồ con đem đến xong, con ông lại đem rượu cho ông uống. Uống xong, ông bảo con rằng: "Hỡi con, hãy lại đây hôn cha". Giacóp lại gần hôn cha; ông ngửi thấy mùi thơm của bộ áo con, thì chúc lành cho con mà rằng: "Mùi thơm của con ta như mùi hương cánh đồng phì nhiêu mà Chúa đã chúc phúc. Xin Thiên Chúa ban cho con những giọt sương trời, giải đất mầu mở, lúa miến và rượu nho dư đầy. Các dân tộc sẽ suy phục con, các chi họ sẽ sấp mình trước con. Con hãy làm chủ các anh em con, các con cái của mẹ con sẽ phủ phục trước mặt con. Ai nguyền rủa con, thì sẽ bị nguyền rủa; và ai chúc lành cho con, thì sẽ được đầy phúc lành".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 134, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Các ngươi hãy ngợi khen Chúa, vì Người nhân hậu (c. 3a).

Xướng: 1) Các ngươi hãy ngợi khen danh Chúa, hãy ngợi khen Chúa, hỡi các tôi tớ của Người là những kẻ đứng trong nhà Chúa, trong tiền đường nhà Chúa chúng ta. - Ðáp.

2) Các ngươi hãy ngợi khen Chúa, vì Người nhân hậu; hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người rất ngọt ngào. Vì Chúa đã chọn Giacóp cho mình, đã chọn Israel làm sở hữu. - Ðáp.

3) Tôi đã nhận biết Chúa cao cả, Thiên Chúa chúng tôi vượt lên trên hết thảy các thần. Mọi sự Chúa muốn Chúa đã làm, trên trời dưới đất, trong biển và nơi các vực thẳm. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 9, 14-17

"Làm sao các phù rể có thể buồn rầu khi tân lang còn đang ở với họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, [Chúa Giêsu sang miền Giêsarênô,] các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?" Chúa Giêsu nói với họ rằng: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay. Không ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vải mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn".

Ðó là lời Chúa.

 




Suy Niệm

"rượu mới bầu mới"

Bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 9:14-17), Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên, ghi lại câu trả lời của Chúa Giêsu về vấn đề được "các môn đệ ông Gioan" (Tẩy Giả) đặt ra: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisiêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?".

Câu trả lời của Chúa Giêsu cho họ là: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay. Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai".

Bài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, mà bài Phúc Âm hôm qua về việc Chúa Giêsu cùng với các môn đệ của Người ngồi ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi ở nhà viên thu thuế Mathêu sau khi chàng được Người kêu gọi theo Người. Có thể vì thế mà việc thày trò của Người mới trở thành vấn đề (gương mù) ngứa mắt cho thành phần môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả  vốn chay tịnh nhiệm nhặt theo gương thày của họ. 

Bởi vì, thành phần môn đệ của vị tiền hô ấy chắc chắn không thể nào quên được những gì vị thày rất khả kính của họ đã hết lời nói hay nói tốt về Đức Kitô là "một Đấng đến sau nhưng cao trọng hơn tôi, tôi không đáng cởi giây giầy cho Người" (Gioan 1:27). Thế mà giờ đây nhân vật được thày họ ca tụng hết mình ấy lại ngồi "ăn nhậu" ngon lành với bọn thu thuế và tội lỗi đáng khinh bỉ và xa lánh trong xã hội!

Tuy nhiên, trong câu chất vấn của những người môn đệ theo Tiền Hô Gioan Tẩy Giả không hề đặt vấn đề với chính Chúa Giêsu mà chỉ đặt vấn đề về các môn đệ của Người mà thôi "Tại sao chúng tôi và các người Pharisiêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?". Có lẽ họ thấy các môn đệ hầu hết có vẻ quê mùa của Người ăn uống một cách tự nhiên thoải mái không kiêng cữ gì, chẳng những lần này ở nhà của viên thu thuế Mathêu mà còn ở những lần khác nữa hay chăng, trong khi Chúa Giêsu Thày của họ có ngồi chung bàn ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi cũng vẫn tỏ ra tư cách xứng đáng là một bậc sư phụ của các vị.

Trong câu trả lời của mình, Chúa Giêsu đã ám chỉ Người là "chàng rể" và các môn đệ của Người là thành phần "khách dự tiệc cưới". Không biết nhóm môn đệ của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chất vấn Chúa Giêsu có hiểu câu trả lời bóng bẩy nhưng đầy ý nghĩa sâu xa của Người hay chăng. 

Chỉ biết rằng, Người cố ý nói là khi Người còn ở với các môn đệ và sống với các môn đệ thì các vị chưa cần phải chay tịnh, "cho đến khi chàng rể bị đem đi rồi thì bấy giờ họ mới ăn chay", nghĩa là cho tới khi Người "đi để dọn chỗ cho các con" (Gioan 14:3), tức là "đi" tử nạn, nhờ đó và tới lúc đó các môn đệ của Người "mới chay tịnh" nghĩa là các vị cần phải sống đức tin hơn bao giờ hết và hơn ai hết, một đức tin bao giờ cũng vượt trên và ngược lại với khuynh hướng và đời sống tự nhiên, cho dù bấy giờ vì sống đức tin mà "các con sẽ than van khóc lóc còn thế gian thì hân hoan, nhưng nỗi sầu thương của các con trong một thời gian sẽ trở thành niềm vui" (Gioan 16:20), như hai tông đồ Phêrô và Gioan đã cảm thấy "tràn đầy hân hoan" chính khi các vị bị cấm đoán và hành hạ (xem Tông Vụ 5:41). 

Trường hợp của hai tông đồ Phêrô và Gioan này đúng là trường hợp "rượu mới thì đổ vào bầu mới": nếu "rượu mới" đây ám chỉ giáo huấn trọn lành của Chúa Kitô, thì "bầu mới" (chứ không phải "bầu cũ" ám chỉ tinh thần vị luật như khuynh hướng và lối sống của nhóm luật sĩ và biệt phái) để có thể đựng thứ "rượu mới" này đó là tinh thần vị tha, là "lòng nhân lành" mà Chúa Kitô đã mong muốn trong bài Phúc Âm hôm qua, một "lòng nhân lành" rất thích hợp với thứ "rượu mới" là "giới răn mới" của Người (Gioan 13:34), và nhờ đó mới có thể hiện thực "giới răn mới" này được: ở chỗ "các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34). 


Thật vậy, ý nghĩa của "áo cũ" với "vải mới" và "rượu mới" cùng "bình cũ" trong lời Chúa Giêsu huấn dạy ở đây có ngụ ý gì, nếu không phải Người muốn nhắc nhở thành phần đặt vấn đề chay tịnh với Chúa Giêsu liên quan đến các môn đệ không chay tịnh của Người, như Người đã huấn dạy người phụ nữ Samaritano bên bờ Giếng Giacóp rằng: "Thiên Chúa là thần linh, nên ai tôn thờ Thiên Chúa phải tôn thờ Ngài trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24): "Tinh thần" đây chính là "vải mới", thứ vải mới không hợp với "áo cũ" ám chỉ những gì là hình thức, nghi thức, bề ngoài, như chủ trương và đường lối của thành phần "tôn thờ Ta bằng môi bằng miệng còn lòng chúng thì xa Ta" (Mathêu 15:8); và "rượu mới" đây là "chân lý", là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa về những sự trên trời cũng như những sự dưới đất (xem Gioan 3:12), chứ không phải là những thứ ngẫu tượng do con người tạo ra, như chủ trương duy luật của họ, một thứ "bình cũ" ở nơi họ bất khả chấp và bất khả thích đáng với thứ "rượu mới" là chính "giới răn mới" (Gioan 13:34) theo giáo huấn của Chúa Kitô liên quan đến lòng nhân lành. Đó là lý do Người cũng đã nhắc nhở họ trong bài Phúc Âm hôm qua rằng: "Hãy về mà học câu này Ta muốn lòng nhân lành (tinh thần biết yêu thương) chứ không phải hy lễ (hình thức theo luật định)".

Bài đọc 1 hôm nay, trích từ Sách Khởi Nguyên (27:1-5,15-29), cũng cho thấy hai tính cách tương phản, chay tịnh (vất vả) và tiệc cưới (hân hoan), ở chỗ, trong khi Esau cần phải vất vả mới có thể đáp ứng những gì cha yêu cầu nhờ đó mới được cha chúc phúc cho, trong khi đó Giacóp lại chiếm được phúc của cha một cách dễ dàng vui vẻ không vất vả như anh của mình, nhờ có bà mẹ khôn khéo là Rebeca.

Thật vậy, bà Rebeca đã tỏ ra yêu con thứ hơn con trưởng, bởi Giacóp dường như luôn quanh quẩn ở nhà với mẹ, vụng về chứ không tài giỏi xông xáo như anh, nhưng lại dễ nghe lời mẹ và hoàn toàn cậy dựa vào mẹ của mình, nên được mẹ chăm sóc đặc biệt, nhất là trong lần được cha chúc phúc này, ở chỗ, bà chẳng những mách bảo ý định của cha cho Giacóp biết, mà còn tìm cách giúp cho Giacóp vừa không bị lộ lại vừa thỏa đáng món ăn cha thích. Sách Khởi Nguyên trong bài đọc hôm nay đã trình thuật như sau:

"Đang khi ông Isaac nói với Esau, con trai ông, thì bà Rebeca nghe được. Esau đi ra đồng để săn thú mang về.

Bà Rebeca lấy áo của Esau, con trai lớn của bà, áo sang nhất mà bà có ở nhà, và mặc cho Giacóp, con trai nhỏ của bà. Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và phần cổ nhẵn nhụi của cậu. Rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay Giacóp, con bà".


"Gia-cóp thưa với cha: 'Con là Esau, con trưởng của cha; con đã làm như cha bảo. Mời cha ngồi dậy xơi món thịt rừng của con, để cha đích thân chúc phúc cho con'. Ông Isaac hỏi con: 'Con ơi ! sao con tìm được mau thế?' Cậu thưa: 'Chúa, Thiên Chúa của cha, đã cho con gặp được may mắn'. Ông Isaac bảo Giacóp: 'Con ơi, lại gần đây, để cha rờ con, xem con có đúng là Esau, con cha, hay không'. Gia-cóp lại gần ông Isaac, cha ông; ông rờ cậu và nói: 'Tiếng thì tiếng Giacóp, mà tay là tay Esau'. Ông không nhận ra cậu, vì tay cậu lông lá như tay Esau, anh cậu; thế là ông chúc lành cho cậu. Ông hỏi: 'Con có đúng là Esau, con cha không?' Cậu thưa: 'Vâng, chính con'. Ông nói: 'Con ơi, bưng lại cho cha ăn món thịt rừng, để cha đích thân chúc phúc cho con'. Cậu bưng lại cho ông, ông ăn; rồi cậu đem rượu đến, ông uống. Ông Isaac, cha cậu, bảo: 'Con ơi, lại gần đây và hôn cha đi!' Cậu lại gần và hôn ông. Ông hít mùi áo cậu và chúc phúc cho cậu".

 

Trong Bài Đáp Ca hôm nay, Thánh Vịnh gia, trích từ Thánh Vịnh 134 đã kêu gọi "hỡi các tôi tớ của Người là những kẻ đứng trong nhà Chúa, trong tiền đường nhà Chúa chúng ta" - Họ là ai, nếu không phải là thành phần "khách dự tiệc" trong Bài Phúc Âm hôm nay, và là Giacóp nhờ mẹ đã được cha mình chúc phúc cho thay Esau anh của mình. Họ "hãy ngợi khen Chúa" bởi vì họ được mọi phúc lành không phải tự họ xứng đáng mà là "vì Người nhân hậu" trong "mọi sự Chúa muốn Chúa đã làm" cho họ và qua họ cho chung cộng đồng nhân loại.

 

1) Các ngươi hãy ngợi khen danh Chúa, hãy ngợi khen Chúa, hỡi các tôi tớ của Người là những kẻ đứng trong nhà Chúa, trong tiền đường nhà Chúa chúng ta.

2) Các ngươi hãy ngợi khen Chúa, vì Người nhân hậu; hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người rất ngọt ngào. Vì Chúa đã chọn Giacóp cho mình, đã chọn Israel làm sở hữu.

3) Tôi đã nhận biết Chúa cao cả, Thiên Chúa chúng tôi vượt lên trên hết thảy các thần. Mọi sự Chúa muốn Chúa đã làm, trên trời dưới đất, trong biển và nơi các vực thẳm.