SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XVIII Thường Niên

Năm A (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (Ngày trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật 18 Quanh Năm

 

Ngày 6 tháng 8

CHÚA HIỂN DUNG

lễ kính

 

Jesus' Transfiguration Bible Story Study Guide

 

Phụng Vụ Giờ Kinh

 

Bốn mươi ngày trước lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ Hiển Dung nhắc cho các tín hữu nhớ rằng Chúa Ki-tô đã muốn “chuẩn bị tâm hồn các môn đệ khỏi vấp phạm vì khổ hình thập giá”. Nhưng đồng thời lễ này cũng loan báo cho mọi tín hữu biết mình được nhận làm con cái Thiên Chúa, nhờ Con Thiên Chúa là Đức Giê-su, và loan báo ánh sáng diệu kỳ một ngày kia sẽ rạng ngời trên toàn thân thể nhiệm mầu, tức là Hội Thánh.

Muôn lạy Đức Giê-su Cứu Chúa
Là Hào Quang phát tự Hào Quang,
Xin thương ghé mắt dịu dàng,
Nhậm lời cầu khẩn hát mừng thiết tha.

Dung nhan Chúa vượt xa chính ngọ,
Áo trắng như tuyết phủ non ngàn,
Hiển dung trên đỉnh thiên san
Để cho các vị chứng nhân ngắm nhìn.

Này ngôn sứ kề bên môn đệ,
Cựu tân hai thế hệ khác nhau,
Giờ đây ý hợp tâm đầu,
Tin Ngài Con Đấng Tối Cao giáng trần.

Lời Thánh Phụ vang ngân trong gió,
Gọi Ngài là Thánh Tử dấu yêu,
Chúng con xưng tụng hoà theo :
Ngài là Vua Cả thiên triều muôn năm.

Xưa đã mặc xác phàm yếu đuối,
Cứu loài người thoát khỏi hư vong,
Giờ xin biến đổi chúng con
Thành phần thân thể oai phong của Ngài.

Xin dâng Chúa đôi lời tán tụng,
Ôi Giê-su cao cả vinh quang,
Thánh Linh, Thánh Phụ chứng rằng :
Ngài là Thánh Tử Cha hằng yêu thương.


Bài đọc 2

Chúng con ở đây, thật hay quá

Trích bài giảng lễ Chúa Hiển Dung của giám mục A-nát-ta-xi-ô Xi-nai.

Đức Giê-su đã bày tỏ mầu nhiệm này cho các môn đệ trên núi Ta-bo. Đang khi cùng đi đường, Người đã chuyện trò với các ông về Nước Trời và về cuộc quang lâm của Người. Có lẽ các ông chưa xác tín những điều Người tiên báo về Nước Trời, nên Người muốn cho các ông thâm tín tận đáy lòng và từ những việc hiện tại, các ông có thể tin vào những việc tương lai. Vì thế, trên núi Ta-bo, Người đã cho các ông thấy một quang cảnh thần diệu như hình ảnh báo trước về Nước Trời. Dường như Người muốn nói với các ông : “Để anh em khỏi mất lòng tin trong khi còn phải chờ đợi, thì ngay bây giờ, Thầy bảo thật anh em : trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị trong vinh quang của Cha Người.”

Để chứng tỏ Đức Ki-tô muốn thế nào thì có quyền làm như thế, tác giả sách Tin Mừng thêm : Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và kìa các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.

Đó là những điều kỳ diệu của ngày đại lễ hôm nay ; đó là mầu nhiệm đem lại ơn cứu độ cho chúng ta, mầu nhiệm đang được thực hiện trên núi vào chính lúc này. Quả thế, cả sự chết lẫn vinh quang của Đức Ki-tô đang quy tụ chúng ta. Vậy chúng ta sẽ đi sâu vào những mầu nhiệm thánh thiêng khôn tả này cùng với những người Đức Ki-tô đã tuyển chọn trong số môn đệ được Thiên Chúa dẫn lối soi đường. Để được như thế, chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói thánh thiêng của Thiên Chúa. Từ đỉnh núi cao, Người đang khẩn thiết kêu mời chúng ta.

Tôi dám nói là chúng ta phải mau chân tìm đến đó như Đức Giê-su. Giờ đây, trên trời, Người vẫn đưa đường dẫn lối cho chúng ta. Cùng với Người, chúng ta sẽ rực sáng, và chỉ những ai có đức tin mới nhận ra, vì một cách nào đó, khuôn mặt tâm linh của chúng ta được đổi mới, được nên đồng hình đồng dạng với Người, và cũng như chính Người, chúng ta không ngừng được biến đổi hình dạng, được thông phần bản tính thần linh và sẵn sàng để được đưa về trời.

Chúng ta hãy chạy đến đó, phấn khởi hân hoan ; hãy vào sâu trong đám mây, như các ông Mô-sê và Ê-li-a hay các ông Gia-cô-bê và Gio-an. Như ông Phê-rô, hãy say sưa chiêm ngắm cảnh tượng thần thiêng, hãy để cho cuộc biến đổi hình dạng vinh quang của Chúa biến đổi con người bạn, giúp bạn siêu thoát cõi đời và xa rời trần thế. Hãy từ bỏ xác thịt, lìa xa thụ tạo và quay về với Tạo Hoá, với Đấng mà trong phút xuất thần, ông Phê-rô đã thưa lên : Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật hay quá.

Hẳn rồi, lạy thánh Phê-rô, ở đây với Đức Giê-su và ở đây mãi mãi thì thật hay quá. Còn gì hạnh phúc hơn, còn gì cao cả và quý báu hơn là được ở với Thiên Chúa, được nên đồng hình đồng dạng với Người và được chan hoà ánh sáng ? Hẳn rồi, mỗi chúng ta khi có Thiên Chúa ở trong mình và được biến đổi nên hình ảnh thần thiêng của Người, thì phải vui mừng kêu lên : Ở đây thật hay quá, vì ở đây, mọi sự đều sáng ngời rực rỡ ; ở đây, có niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào ; ở đây, lòng ta được hoàn toàn bình an, thanh tĩnh và êm đềm ; ở đây, ta được nhìn thấy Đức Ki-tô ; Người chọn chỗ này làm nơi cư ngụ cùng với Chúa Cha. Vừa bước vào, Người đã nói : Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này ; ở đây, có Đức Ki-tô là có những kho tàng chất chứa phúc lộc đời đời ; ở đây những hoa trái đầu mùa và những hình ảnh tiên báo đời sau được mô tả như đang hiển hiện trong một tấm gương vậy.

Xướng đápMt 17,2.3 ; x. Lc 9,32.34

XDung nhan Đức Giê-su chói lọi như mặt trời.

ĐĐược chiêm ngưỡng vinh quang của Người, các môn đệ vừa ngỡ ngàng vừa sợ hãi.

XVà kìa có ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.

ĐĐược chiêm ngưỡng vinh quang của Người, các môn đệ vừa ngỡ ngàng vừa sợ hãi.

 

Hôm nay Thiên Chúa muốn cho Đức Ki-tô tỏ vinh quang mình cho ba môn đệ được thấy. Ta hãy tôn vinh Người và thiết tha cầu nguyện :

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, Chúa đã cho ba môn đệ được nhìn ngắm vinh quang của Thánh Tử Giê-su, và được nghe tiếng Chúa phán dạy phải vâng nghe lời Người, - xin cho chúng con cũng biết vâng phục Người luôn mãi.

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

Chúa đã ban phúc lộc đầy dư cho những người Chúa chọn, - xin cho chúng con biết tìm đến Đức Ki-tô là mạch suối trường sinh.

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

Trong những giờ đen tối, xin cho chúng con được soi sáng nhờ ánh vinh quang Chúa tỏ hiện nơi dung nhan Đức Ki-tô, - và cho chúng con hằng tha thiết chiêm ngưỡng thánh nhan Người.

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

Nhờ mầu nhiệm Đức Ki-tô hiển dung, Chúa kêu gọi chúng con đổi mới cuộc đời, - xin cho mọi người trên thế giới được nhờ ánh sáng Tin Mừng mà đạt tới phúc trường sinh.

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

Vì yêu thương, Chúa đã cho chúng con được trở thành con cái Chúa, - xin làm cho chúng con thật nên giống Thánh Tử Giê-su khi Người quang lâm.

Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.

 

 

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Con Một Chúa biểu lộ dung nhan vinh hiển Người, Chúa đã dùng hai chứng nhân Cựu Ước là ông Mô-sê và ông Ê-li-a, để củng cố niềm tin của các Tông Đồ vào mầu nhiệm cứu độ, và báo trước hồng ân lạ lùng Chúa sẽ ban là nhận chúng con làm nghĩa tử. Xin cho chúng con nghe lời Con Một Chúa, để mai sau được chung hưởng gia nghiệp với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Ðn 7, 9-10. 13-14

"Áo Người trắng như tuyết".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Tôi ngắm nhìn cho đến khi đặt ngai toà xong, và một vị Bô Lão ngự trên ngai: áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người như những ngọn lửa, các bánh xe như lửa cháy. Một con sông lửa chảy lan tràn trước mặt Người. Hằng ngàn kẻ phụng sự Người, và muôn vàn kẻ chầu chực Người. Người ngự toà xét xử, và các quyển sách đều mở ra.

Trong một thị kiến ban đêm, tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời. Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất: vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 96, 1-2. 5-6. 9

Ðáp: Chúa hiển trị, Chúa là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất (c. 1a và 9a).

Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao toả chung quanh; công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.

2) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi trái đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, vì Ngài là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất, Ngài rất đỗi siêu phàm giữa muôn chúa tể. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Pr 1, 16-19

"Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ trời phán xuống".

Trích thư thứ hai của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, chúng tôi không theo những truyện bày đặt khôn khéo, để tỏ ra cho anh em biết quyền năng và sự hiện diện của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta; nhưng chúng tôi đã được chứng kiến nhãn tiền sự uy nghi của Người. Người đã được Chúa Cha ban cho vinh dự và vinh quang, khi có lời từ sự vinh quang cao cả xuống phán về Người rằng: "Này là Con Ta yêu dấu, Người đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ trời phán xuống, lúc chúng tôi ở với Người trên núi thánh. Và chúng tôi có lời nói chắc chắn hơn nữa là lời nói tiên tri: anh em nên nghe theo lời đó, nó như ngọn đèn sáng soi trong nơi u tối, cho đến khi rạng đông và sao mai mọc lên trong lòng anh em.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Mt 17, 5c

Alleluia, alleluia! - Này là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 1-9

"Ðây là Con Ta yêu dấu".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu.

Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.

Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"

Ðó là lời Chúa.

 

LỄ CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH

VINH QUANG BA NGÔI NƠI VIỆC CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH

 

(ĐTC Gioan Phaolô II: Bài Giáo Lý 8 ngày 26/4/2000 trong loạt 33 bài về Chúa Ba Ngôi cho Đại Năm Thánh 2000)

 

1-         Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, một tuần được coi như là một ngày trọng đại duy nhất, phụng vụ không ngừng lập đi lập lại sứ điệp Phục Sinh: “Chúa Giêsu thực sự đã sống lại rồi!”. Lời loan báo này mở ra cho toàn thể nhân loại một chân trời mới. Tất cả những gì được ám chỉ một cách mầu nhiệm nơi Cuộc Biến Hình trên Núi Tabo đều trở thành hiện thực nơi Cuộc Phục Sinh. Lúc biến hình, Chúa Giêsu tỏ cho các vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy phép lạ hiển vinh cùng với ánh sáng được niêm ấn bằng tiếng của Chúa Cha: “Đây là Người Con yêu dấu của Ta” (Mk 9:7).

 

Vào ngày lễ Phục Sinh, những lời này hiện lên cho chúng ta thấy trọn vẹn thực tại của chúng. Người Con yêu dấu của Chúa Cha, tức Đức Kitô bị đóng đanh và tử nạn, đã sống lại vì chúng ta. Trong sự tỏ rạng của Người, tín hữu chúng ta thấy được ánh sáng, và, như phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương xướng lên, “được Thần Linh phục sinh, chúng ta muôn đời chúc tụng Ba Ngôi Thiên Chúa đồng bản thể” (Kinh Tối Trọng Thể Lễ Chúa Kitô Biến Hình). Với một tấm lòng tràn đầy niềm vui Phục Sinh, hôm nay tinh thần chúng ta hãy leo lên ngọn núi thánh nổi bật trên đồng bằng Galilêa để chiêm ngưỡng ở chóp đỉnh của nó một biến cố xẩy ra hướng vọng tới biến cố Phục Sinh.

 

2-         Chúa Kitô là tâm điểm của Cuộc Biến Hình. Hai chứng nhân của Cựu Ước hiện ra với Người là Moisen, vị trung gian của lề luật, và Elia, vị tiên tri của Thiên Chúa hằng sống. Thần tính của Chúa Kitô, được tiếng của Chúa Cha công bố, cũng tỏ hiện bởi những biểu hiệu bằng hình ảnh theo kiểu diễn tả của thánh ký Marcô. Thật vậy, có ánh sáng và mầu trắng tiêu biểu cho vĩnh cửu và siêu việt tính: “Y phục của Người trở nên sáng láng, trắng tinh đến nỗi không một thợ giặt tẩy nào trên trần gian này có thể làm nổi” (Mk 9:3). Thế rồi có cả mây trời, dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện trong cuộc Xuất Ai Cập của dân Yến Duyên cũng là dấu hiệu Ngài hiện diện nơi lều Giao Ước (x Ex 13:21-22, 14:19, 24, 40: 34, 38).

 

Vào Buổi Sáng ngày lễ Biến Hình, phụng vụ Đông Phương cũng xướng lên rằng: “Ôi Lời Thiên Chúa, sự rạng ngời tinh nguyên của ánh sáng Chúa Cha, trong ánh sáng tỏa chiếu của Chúa trên Núi Tabo, hôm nay chúng con đã được thấy ánh sáng là Chúa Cha và ánh sáng là Thần Linh, một ánh sáng soi chiếu tất cả mọi tạo vật”.

3-         Bản văn phụng vụ này đề cao chiều kích Ba Ngôi nơi Cuộc Biến Hình trên núi của Chúa Kitô. Thật vậy, Chúa Cha hiện diện rõ ràng nơi tiếng nói phát ra. Truyền thống Kitô Giáo có một thoáng nhìn ngấm ngầm về việc Thánh Linh hiện diện nơi biến cố biến hình song song với biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa ở sông Dược Đăng, lúc mà Thần Linh lấy hình bồ câu đậu xuống trên Người (Mk 1:10). Thật vậy, mệnh lệnh “Hãy lắng nghe Người” (Mk 9:7) của Chúa Cha cho thấy Chúa Giêsu đầy Thánh Linh để các lời của Người đều là “thần trí và là sự sống” (Jn 6:63, x. 3:34-35).

Bởi vậy, chúng ta có thể leo lên ngọn núi này để trầm tư, chiêm ngưỡng và dìm mình vào mầu nhiệm ánh sáng của Thiên Chúa. Tabo tiêu biểu cho tất cả mọi ngọn núi dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, như các nhà thần bí vẫn thích dùng hình ảnh so sánh này. Một bản văn khác của Giáo Hội Đông Phương kêu gọi chúng ta thực hiện cuộc tiến lên tới chóp đỉnh và tới ánh sáng như sau: “Hỡi các dân, hãy đến mà theo tôi! Chúng ta hãy leo lên ngọn núi thánh thiên đình; tâm linh của chúng ta hãy dừng lại ở thành đô Thiên Chúa hằng sống và lấy tinh thần mà chiêm ngưỡng thần tính của Chúa Cha và Thánh Thần được rạng ngời nơi Người Con Duy Nhất” (troparion at the conclusion of the Canon of St John Damascene).

4-         Nơi Cuộc Biến Hình, chúng ta chẳng những chiêm ngưỡng mầu nhiệm Thiên Chúa, đi từ ánh sáng tới ánh sáng (x Ps 36:10), chúng ta còn được mời gọi để lắng nghe lời thần linh nói với chúng ta nữa. Vượt trên ngôn từ của Lề Luật hiện thân nơi Moisen cũng như ngôn từ của tiên tri hiện thân nơi Êlia, tiếng nói của Chúa Cha có thể nghe thấy có liên quan đến tiếng nói của Chúa Con, như Tôi vừa đề cập tới (x Mk 9:7). Khi dẫn giải về cảnh Biến Hình, Bức Thư Thứ Hai của Thánh Phêrô nhấn mạnh đến tiếng nói thần linh. Chúa Giêsu Kitô “đã nhận được vinh dự cùng vinh quang từ Thiên Chúa Cha và có một tiếng nói đã phát ra với Người từ vinh quang uy nghi cao cả: ‘Đây là Người Con yêu dấu của Ta, Người mà Ta hài lòng’; chúng tôi đã nghe thấy tiếng nói ấy phát ra từ trời, vì chúng tôi đã ở với Người trên núi thánh. Do đó chúng tôi càng vững vàng hơn nữa về lời ngôn sứ. Anh em tỏ ra vững chắc khi chú ý tới lời như là ngọn đèn sáng soi trong nơi tăm tối cho đến ngày rạng đông và sao mai mọc lên trong tâm trí anh em” (2Pt 1:17-19).

Chúng ta hãy chúc tụng Chúa Cha, Ngôi Lời và Thánh Linh.

5-         Bởi vậy, nhìn và nghe, chiêm ngưỡng và tuân phục là những đường lối dẫn chúng ta lên núi thánh, nơi Ba Ngôi tỏ mình ra trong vinh quang của Chúa Con. “Cuộc Biến Hình làm cho chúng ta nếm trước việc Chúa Kitô đến trong vinh quang, khi Người ‘biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân xác vinh hiển của Người’ (Phil 3:21). Thế nhưng, Cuộc Biến Hình đồng thời cũng nhắc nhớ là ‘chính nhờ trải qua nhiều cuộc bách hại chúng ta mới được vào vương quốc của Thiên Chúa’ (Acts 14:22)” (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 556). 

Như linh đạo của Giáo Hội Đông Phương nêu lên, phụng vụ về Cuộc Biến Hình cho thấy một “bộ ba” nhân loại nơi ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, những vị chiêm ngưỡng Ba Ngôi thần linh. Như ba người trẻ trong lò lửa của Sách Tiên Tri Đaniên (3:51-90), phụng vụ “chúc tụng Thiên Chúa là Cha và là Đấng Hóa Công, ngợi khen Ngôi Lời là Đấng đã xuống giúp họ và biến lửa thành sương sa, cùng tôn vinh Thánh Linh là Đấng ban sự sống cho tất cả mọi người đến muôn đời” (Kinh Ban Mai Lễ Biến Hình).

Giờ đây chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa Kitô biến hình bằng những lời của Kinh Nguyện Thánh Gioan Đamascênô: “Ôi Chúa Kitô, Chúa đã thu hút con bằng lòng khao khát Chúa, và đã biến đổi con bằng tình yêu thần linh. Xin Chúa hãy thiêu đốt tội lỗi của con bằng lửa thiêng của Chúa và xin hãy đoái thương làm cho con tràn đầy nỗi dịu ngọt của Chúa, để vui mừng hớn hở, con sẽ chúc tụng tất cả mọi biểu hiện của Chúa”.

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osseervatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 3/5/2000)

 

 

Một số hình ảnh về Núi Tabor trong chuyến Hành Hương Thánh Địa Tuần Thánh Vượt Qua 2019 của Nhóm TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương)

 

 

 

Ở dưới hầm (tầng dưới) nhà thờ (từ tầng trên có thể nhìn xuống) có một bàn thờ và các mảnh tường của một nhà thờ từ thời Đế Quốc Byzantine,

và nền đá của cái hầm (crypt) này được tin là nơi Chúa Giêsu đứng khi Người biến hình trên núi.

Cuối lòng nhà thờ hay ngay lối vào từ cuối nhà thờ này, một bên (phải) là bàn thờ trên tường có hình tiên tri Elia và một bên (trái) có hình Moisen

 

 


Thứ Hai

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ds 11, 4b-15

"Một mình tôi không mang nổi dân này".

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, con cái Israel nói rằng: "Ai sẽ cho chúng tôi thịt ăn? Chúng tôi nhớ lại hồi còn ở Ai-cập, cá thì được ăn không, rồi có dưa chuột, dưa gang, rau cải, hành tỏi. Giờ thì chúng tôi suy nhược, thiếu hết mọi thứ: quay đi ngó lại chỉ thấy manna".

Manna hình giống hạt ngò, sắc giống hạt châu. Dân chúng đi rảo quanh mà hốt, rồi cho vào cối mà xay hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi nấu thành bánh. Mùi vị nó như bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa xuống trại thì manna cũng rơi xuống.

Môsê nghe dân chúng than khóc, nhà nào cũng đứng ở cửa lều. Chúa bừng bừng nổi giận. Môsê rất đỗi bực mình. Ông thưa cùng Chúa rằng: "Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa? Sao con không được nghĩa với Chúa? Sao Chúa bắt con phải mang cả dân này? Con đâu có cưu mang cả đám dân này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa bảo con: "Hãy ẵm nó vào lòng, như vú nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên nó?" Con biết tìm đâu ra thịt để cho cả đám dân này? Họ kêu khóc với con rằng: "Hãy cho chúng tôi ăn thịt". Một mình con không mang nổi dân này vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với con như thế, thì xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo con phải khốn cực dường này".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 80, 12-13. 14-15. 16-17

Ðáp: Hãy reo mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta (c. 2a).

Xướng: 1) Dân tộc của Ta chẳng có nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích. - Ðáp.

2) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay. - Ðáp.

3) Quân thù của chúng sẽ phải xưng tụng chúng, và vận mạng của chúng sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 14, 13-21

"Mọi người đều ăn no".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ và chữa những người bệnh tật trong họ.

Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn".

Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".

Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 14, 13-21

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

xin Thầy giải tán dân chúng </> các con hãy cho họ ăn


Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XVIII Thường Niên hôm nay của Thánh Ký Mathêu thuật lại về biến cố phép lạ bánh hóa ra nhiều từ 5 ổ bánh và 2 con cá. Cùng biến cố hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất này cũng đã được Phúc Âm của Thánh ký Gioan thuật lại trong Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm B tuần trước, hay Chúa Nhật XVIII Thường Niên Năm A hôm qua. 

 

Trong bài Phúc Âm được Thánh ký Gioan thuật lại về biến cố phép lạ hóa bánh ra nhiều thì Chúa Giêsu đóng vai chủ động. Ở chỗ, chính Người lên tiếng hỏi các ông trước và đích thân Người phân phát bánh cùng cá cho dân chúng. 

 

Chính Người lên tiếng hỏi: "Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: 'Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?' Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm". 

 

Chính Người đích thân phân phát bánh cùng cá cho dân: "Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".

 

Trong khi đó, ở bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, các tông đồ đóng vai chủ động, cả về việc quan tâm đến dân chúng lẫn phân phát cho dân chúng. 

 

Các tông đồ quan tâm đến dân chúng: "Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: 'Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn'".

 

Các tông đồ phân phát cho dân chúng: "Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng".

 

Tuy nhiên, việc các tông đồ quan tâm đến dân chúng đói ăn đây có tích cách tiêu cực hơn là tích cực. Ở chỗ các vị đẩy trách nhiệm cho chính dân chúng hơn là chính các vị tìm cách thỏa đáng nhu cầu đói ăn của họ. Lý do cũng dễ hiểu, là vì việc làm ấy quá sức của các vị. Thế nhưng Thày của các vị đang ở đó: tại sao các vị không đến với Người như Mẹ Maria đã đến với Người trong tiệc cưới Cana mà nhắc khéo Người rằng: "Thày ơi, dân chúng đang đói kìa!"

 

Cho dù các tông đồ không tích cực và chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu đói ăn của dân chúng bấy giờ, nhưng các vị hình như đã sửa soạn sẵn sàng nên đã mau mắn đáp lại khi được Chúa Giêsu hỏi các vị trước khi Người ra tay làm phép lạ hóa bánh ra nhiều:

 

"Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn'. Các ông thưa lại rằng: 'Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá'. Người bảo các ông rằng: 'Hãy đem lại cho Thầy'".

 

Thật sự là các tông đồ đã sửa soạn sẵn sàng, bởi thế, vừa được Chúa Giêsu hỏi là các vị trả lời liền, không cần phải thắc mắc hay do dự gì, sau đó các vị đáp ứng ngay khi được Chúa bảo: "Hãy đem lại cho Thầy".

 

Căn cứ vào chi tiết nho nhỏ này thì có thể các tông đồ đã đi thăm dò dân chúng xem họ có mang theo lương thực phòng thân hay chăng, nhưng chắc các vị thấy hầu hết hay hầu như chẳng mấy ai có gì để ăn uống hết, ngoài trừ có một cậu bé có 5 ổ bánh và 2 con cá. 

 

Thấy tình hình như thế nên các vị mới giục Thày giải tán dân chúng cho họ đi tìm của ăn. Nhưng không ngờ lý lẽ của Chúa Giêsu khác với, đúng ra hơn hẳn lý lẽ của các tông đồ, ở chỗ, không phải là dân chúng tự lo giải quyết tình trạng đói ăn của họ mà ngược lại: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". 


Có những giải thích phép lạ Chúa Giêsu làm theo kiểu khoa học, như thể cố ý hay tìm cách xuyên tạc phép lạ Chúa Giêsu làm, bằng cách gián tiếp hay trực tiếp chối bỏ các phép lạ của Người. Chẳng hạn trong phép lạ bánh hóa ra nhiều này, họ giải thích rằng vì dân chúng nghe lời giảng của Chúa Giêsu xong thì động lòng nên ai có đồ ăn thức uống thì mang ra chia cho nhau cùng ăn cùng uống, nên ai cũng ăn no. 

 

Vậy thì "12 thúng đầy" dư ở đâu mà ra, dư từ 5 chiếc bánh và 2 con cá hóa nhiều hay từ đồ ăn của dân chúng san sẻ cho nhau? Nếu thế thì (theo Phúc Âm Thánh ký Gioan) chính Chúa Giêsu phân phát cho dân chúng bánh trước và cá sau phải hiểu như thế nào, từ 5 ổ bánh và 2 con cá hay từ những gì của chính dân chúng chứ? Và trong Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, lời Chúa Giêsu bảo các tông đồ "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn" phải hiểu ra sao, từ 5 ổ bánh và 2 con cá do Người làm phép lạ hóa ra nhiều hay từ những gì của dân chúng mang theo??

 

Phép lạ hóa bánh ra nhiều của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã được báo trước qua hình ảnh manna được Thiên Chúa hằng ngày ban cho dân Do Thái trong thời gian 40 năm hành trình băng qua sa mạc từ Biển Đỏ về Đất Hứa, một thứ lương thực mà họ được hưởng một cách nhưng không, và vì thế họ cũng tưởng là "bởi trời" như Bánh Sự Sống là chính Chúa Kitô khi Người giảng cho họ nghe về Bánh Sự Sống này ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 6. Sách Dân Số ở Bài Đọc 1 hôm nay đã diễn tả manna như thế này: "Manna hình giống hạt ngò, sắc giống hạt châu. Dân chúng đi rảo quanh mà hốt, rồi cho vào cối mà xay hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi nấu thành bánh. Mùi vị nó như bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa xuống trại thì manna cũng rơi xuống".

 

Nếu các tông đồ ở trong bài Phúc Âm hôm nay không biết giải quyết thế nào khi được Chúa Kitô bảo các vị rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn'", sau khi các vị cảm thấy gánh nặng phải lo cho dân chúng quá ư là đông đảo đã ngỏ ý cùng Người "xin Thầy giải tán dân chúng", thì trong Bài Đọc 1 hôm nay, Moisen cũng cảm thấy gánh nặng đến độ muốn hoàn toàn trút bỏ như sau: "Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa? Sao con không được nghĩa với Chúa? Sao Chúa bắt con phải mang cả dân này? Con đâu có cưu mang cả đám dân này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa bảo con: 'Hãy ẵm nó vào lòng, như vú nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên nó?'".

 

Tâm trạng của Moisen chán nản đến tột cùng, như ông van xin Chúa cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay rằng: "Một mình con không mang nổi dân này vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với con như thế, thì xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo con phải khốn cực dường này", xét về phương diện loài người, như phản ảnh tâm trạng của Thiên Chúa trước dân của Ngài, một tâm trạng được Thánh Vịnh 80 ở bài Đáp Ca hôm nay cho thấy như sau: 
 

1) Dân tộc của Ta chẳng có nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích.

2) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay. 

3) Quân thù của chúng sẽ phải xưng tụng chúng, và vận mạng của chúng sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra.

 

  

 

Thánh Systo II Giáo Hoàng và các bạn tử đạo; Thánh Catejano, linh mục (7/8)

 

 

Thánh Systo II Giáo Hoàng và các bạn tử đạo

 

Thánh XISTÔ II Giáo Hoàng và Các Bạn Tử Đạo

Ngày 30 tháng 8 năm 257, Đức Xystô lên ngôi Giáo hoàng, kế vị Đức Stephanô I giữa lúc Giáo hội đang chìm trong con người bách hại thời Valerianô. Pontiô, một phó tế của Thánh Cyprianô gọi Ngài là "Linh mục nhân hậu hòa nhã". Ngài đã tránh được một cuộc ly khai khi để cho các Giáo hội địa phương tự do theo thói quen rửa tội lại cho các người theo lạc giáo.

Một năm sau thánh Cyprianô loan tin: Đức giáo hoàng Xystô đã bị xử tử đêm 6 tháng 8 cùng với 4 vị trợ tá (phó tế) của Ngài. Các Kitô hữu Roma đã bị binh lính đột kích trong khi đang cử hành thánh lễ tại hang toại đạo Callistô. Để khỏi bị bắt giam tất cả, Đức Xystô đã hiến mình chịu chết. Ngài bị chặt đầu ngay tại ngai tòa giám mục cùng với 4 vị trong số 7 vị trợ tá (phó tế) của Ngài là Gianuariô. Mahnô, Vicentê và Stêphanô. Hai vị khác là Fêlicissimô và Agapitô đã bị bắt và bị chặt đầu cùng ngày tại hang toại đạo Praetextato.

Cái chết vì đoàn chiên trong những cảnh thương tâm như vậy đã khiến cho Đức Xystô được dân chúng tôn kính rộng rãi. Ngài được mai táng trong hầm mộ giáo hoàng tại chính nơi Ngài chịu chết. Tuy nhiên di hài của Ngài có lẽ đã được Đức Lêô IV (847 - 855) dời về thánh đường Xystô vẫn còn được tôn kính cho đến ngày nay.

 

http://conggiao.info/thanh-xisto-ii-giao-hoang-va-cac-ban-tu-dao-d-17667

 

Thánh Sixtô II và các bạn tử đạo

Thánh Sixtô II là công dân thành Athena, theo học và tốt nghiệp trường đại học triết lý tại Hy Lạp, được bầu làm giáo hoàng ngày 31.8.257.

Trở ngại đầu tiên của Giáo Hoàng Sixtô II là phải bảo vệ đức tin Công giáo trước những lầm lạc mà các bè phái lạc giáo, ly giáo gieo rắc trong Giáo hội. Ngoài ra, ngài đã khôn ngoan dàn xếp một cách ổn thỏa các ý kiến về phép Rửa Tội giữa các giám mục và giáo sĩ, nhờ vậy toàn thể giáo sĩ và giáo dân cùng hiệp lực chung xây dựng Giáo hội. Con thuyền Giáo hội còn bị phong ba bão táp trước sức tấn công của vua Valêrianô, một bạo vương luôn muốn tróc nã và hành quyết các tông đồ của Chúa, ngăn cấm không cho những người Kitô hữu tụ họp và ra lệnh sát hại các giám mục, linh mục và phó tế.

Một lần kia, thánh Sixtô II cùng với bốn phó tế bị phát hiện khi đang dâng thánh lễ tại hầm mộ của thánh Calistô. Ngài bị trảm quyết cùng với các phó tế Janvier, Magne, Vicentê và Etienne vào ngày 6.8.258. Ngoài ra, thầy Félicissime và Agapit cũng đã bị bắt và bị xử chém tại nghĩa trang Prétextat, trong khi đó, thầy Laurent bị hành hình và chết vào bốn ngày sau.

Thánh Sixtô II được an táng ngay trong hầm mộ và trở thành vị Giáo hoàng thứ hai được nhiều người sùng kính nhất sau thánh Phêrô. 

 

http://www.cgvdt.vn/lich-cong-giao/thanh-sixto-ii-va-cac-ban-tu-dao_a7694

 

 

 

Thánh Catejano, linh mục

 

HISTORIA

 

Vào năm 1523, Giáo Hội trong tình trạng tiêu điều. Ðời sống tâm linh cần thiết của giáo dân không được chăm sóc bởi rất đông các mục tử thiếu học thức và thiếu đạo đức, họ chỉ biết đồng tiền mà không hoạt động gì cả. Khi các linh mục tốt lành và giáo dân chạy đến các đấng có quyền để xin giúp đỡ, họ cũng chỉ gặp sự thờ ơ lãnh đạm của các vị chủ chiên.

Một người Công Giáo tốt lành phải phản ứng thế nào trước hoàn cảnh này? Tất cả chúng ta đều biết Luther và một số người khác đã phản ứng bằng cách tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo khi thỉnh cầu của họ không được lắng nghe.

Thánh Cajetan lại theo một phương cách khác. Cũng như Luther, khi lưu tâm đến những gì họ được thấy trong đời sống Giáo Hội, ngài đến Rôma năm 1523 — không phải để trình lên đức giáo hoàng hay đấng có quyền nhưng để gia nhập Hội A¨i Hữu Tình Yêu Thiên Chúa, là một tổ chức nhỏ bé, bán chính thức, tận tụy trong công việc bác ái. Họ chăm sóc người nghèo, người đau yếu, trẻ mồ côi và các tù nhân. Dần dà họ gây được ảnh hưởng khắp nước Y¨.

Sau khi chịu chức linh mục, năm 1518 Cajetan trở về quê nhà ở Vicenza khi mẹ ngài sắp từ trần. Ở đây, ngài gia nhập Hội Dòng Thánh Giêrôme. Sau khi mẹ chết, ngài dùng tất cả tài sản để cứu giúp người đau yếu, đồng thời sáng lập một hội dòng tương tự ở Venice, là nơi ngài cổ võ đời sống tâm linh và chăm sóc người nghèo, người đau yếu không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu anh hùng.

Năm 1523, ngài trở về Rôma, với sự tiếp tay của các bạn thân trong hàng giáo phẩm, ngài quyết định thành lập một tu hội dựa trên đời sống của các tông đồ, với hy vọng rằng đời sống của các thánh sẽ khích lệ họ và người khác cố gắng sống một cuộc đời thánh thiện vì Ðức Giêsu Kitô. Ðể hoàn thành mục đích này, họ nhắm đến đời sống luân lý, học hỏi Kinh Thánh, rao giảng và chăm sóc mục vụ, giúp đỡ người bệnh tật, và các nền tảng vững chắc của đời sống mục vụ. Tu hội mới này được gọi là Tu Sĩ Dòng Theatine.

Dĩ nhiên, các linh mục phóng túng và tham lam chẳng bao giờ đặt chân đến tu hội, nhưng Cajetan vẫn kiên trì chịu đựng sự chống đối từ các giáo sĩ và giáo dân không muốn cải tổ. Chính gương mẫu đời sống thánh thiện cũng như lời rao giảng của ngài mà nhiều người đã hoán cải.

Kiệt quệ vì các khó khăn trong Giáo Hội và ở quê nhà, Cajetan lâm trọng bệnh. Khi các y sĩ tìm cách khiêng ngài từ chiếc giường gỗ thô thiển lên chiếc giường nệm êm ấm, Cajetan thều thào, “Chúa Cứu Thế chết trên thập giá. Hãy để tôi được chết trên tấm gỗ này.” Ngài từ trần ngày 7 tháng Tám 1547.

Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê phong thánh năm 1671.

Lời Trích

Có lần Thánh Cajetan nói với các anh em trong dòng, “Chúng ta cố gắng phục vụ Thiên Chúa qua sự thờ phượng trong hội dòng này; nhưng trong bệnh viện, chúng ta mới có thể nói là thực sự tìm thấy Ngài.”

 

https://dongten.net/2019/08/06/hanh-cac-thanh-07-08-thanh-cajetan/

 

https://giaophanvinhlong.net/thanh-cajetan-14801547.html

 

https://www.hddaminhthanhlinh.net/a7332/7-thang-tam-thanh-cajetan-1480-1547-

 

Thánh Cajêtan sinh tại Vicenza, nước Ý, vào năm 1480. Ngài là con trai của một bá tước. Cajêtan tốt nghiệp trường đại học Pađua với văn bằng cử nhân lưỡng luật, đạo và đời. Sau đó, Cajêtan phục vụ tại văn phòng của giáo triều Rôma. Cajêtan thụ phong linh mục năm 1516. Rồi ngài trở về thành phố quê hương Vicenza và làm việc mục vụ tại đây. Dù cho những bạn bè quý tộc của Cajêtan ra sức phản đối và giận dữ, thánh nhân vẫn tham gia với nhóm người khiêm tốn, chuyên phục vụ các bệnh nhân và những người nghèo khổ. Cajêtan đi khắp thành phố tìm kiếm những người bất hạnh và chính ngài đã tự phục vụ họ. Cajêtan vào bệnh viện săn sóc những người mang những chứng bệnh kinh tởm nhất. Tại các thành phố khác, thánh Cajêtan cũng làm các việc từ thiện ấy. Thánh nhân cũng thường khuyến khích mọi người hãy năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Ngài nói: “Tôi sẽ không bao giờ vui sướng cho tới khi nào được thấy các Kitô hữu cùng nhau tiến lên lãnh nhận Bánh Ban Sự Sống với lòng hăm hở vui mừng, chứ không lo buồn tủi hổ.”

Cùng với ba người đạo đức khác, thánh Cajêtan đã thiết lập một tu hội giáo sĩ dòng, gọi là tu hội Các Anh Em Dòng Thêatin, chuyên đi thuyết giảng. Họ khuyến khích việc năng xưng tội, lãnh nhận bí tích Thánh Thể, giúp bệnh nhân và làm những công việc từ thiện khác.

Thánh Cajêtan qua đời lúc được 67 tuổi. Trong cơn bạo bệnh cuối cùng, thánh nhân chỉ nằm trên những tấm ván thô cứng dù các bác sĩ khuyên ngài nên dùng nệm êm. Nhưng Cajêtan nói: “Đấng Cứu Chuộc tôi đã chết trên cây thập giá. Vậy ít ra, hãy để tôi được chết trên tấm gỗ này!” Cajêtan về trời ngày mùng 7 tháng Tám năm 1547 tại thành phố Napôli. Tới năm 1671, đức thánh cha Clêmentê X tôn phong Cajêtan lên bậc hiển thánh.

 Để noi gương vị thánh này, chúng ta hãy đặt Chúa Giêsu Thánh Thể làm trung tâm đời sống của chúng ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh Cajêtan giúp chúng ta biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể như ngài.

Biên dịch: Đa Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC

http://mtgcaimon.net/mtgnews/index.php/suy-niem/hanh-cac-thanh/4555-thanh-cajetan.html

 

 

 

 


Thứ Ba

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ds 12, 1-13

"Môsê không như tiên tri khác; sao các ngươi dám nói xấu ông ta?"

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, Maria và Aaron nói xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ Êthiôpia. Họ nói: "Thiên Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người chẳng phán cùng chúng ta như thế sao?" Chúa nghe biết sự ấy - vì Môsê là người hiền lành nhất trong thiên hạ - Chúa liền phán cùng Môsê, Aaron và Maria rằng: "Cả ba hãy đến nhà xếp giao ước".

Khi cả ba ra đi, thì Chúa ngự xuống trong cột mây, đứng ngay ở cửa nhà xếp, gọi Aaron và Maria. Hai người tiến tới, và Chúa phán rằng: "Hãy nghe lời Ta nói đây: Nếu trong các ngươi có ai là tiên tri của Chúa, thì Ta hiện ra cùng người ấy trong thị kiến; hay Ta nói truyện với người ấy trong giấc mộng. Nhưng Môsê tôi tớ của Ta không phải thế. Ông rất trung thành trong cả nhà Ta. Ta trực tiếp đối diện nói truyện với ông, ông thấy Chúa tỏ tường, không bí ẩn hay là hình bóng. Vậy sao các ngươi dám chê trách Môsê tôi tớ của Ta?" Chúa nổi giận họ mà bỏ đi, và đám mây trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là Maria bị phung cùi, mình trắng như tuyết.

Aaron ngoảnh lại thấy bà ấy đã bị phung cùi, nên nói với Môsê rằng: "Thưa Ngài, xin đừng phạt chúng tôi đã dại phạm tội. Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và như trẻ sinh non? Ðây phân nửa thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát". Môsê kêu van cùng Chúa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 6bc-7. 12-13

Ðáp: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, vì con đã phạm tội (c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Vì sự lỗi con thực là con biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Thiên Chúa. - Ðáp.

3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. - Ðáp.

4) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 14, 22-36

"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.

Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ". Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến". Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con". Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"

{Khi đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành}.

Ðó là lời Chúa. 

 

Related image


Suy Niệm Cảm Nghiệm:


Chúa thích chơi trò ma quái

B
ài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XVIII Thường Niên hôm nay thu
ật lại một biến cố xẩy ra sau phép lạ bánh hóa nhiều. Biến cố này xẩy ra thứ tự 4 phần như sau:

Ph
ần nhất: "Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió".

Ở đ
ây chúng ta thấy ch
ính Chúa Giêsu giải tán dân chúng, chứ Người không bảo các tông đồ làm một việc xứng với thân phận và vai trò là môn đệ của Người. Người đích thân làm việc này có thể là vì "Người lên núi cầu nguyện một mình". Bởi đó Người đã "giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước", con thuyền mà Thày trò đã sử dụng để tránh dân chúng tuốn đến trước đó (xem Marco 6:32). Và có thể là vì một mục đích khác nữa, có lợi cho các tông đồ, nên cho mãi "đến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió".

Phần hai: "Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ'". 

Ph
ải, ở đây chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cố ý để cho thuyền của các tông đồ "ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió" rồi Người mới xuất hiện giữa đêm tối: "Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông", chứ không xuất hiện với các vị khi trời còn sáng và vào lúc không có sóng gió gì, khiến các ông bấy giờ không còn nhận ra Người, càng hoảng sợ hơn nữa: "mà nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng". Thiên Chúa hay chơi trò ma quái này với thành phần thiểu số được Ngài tuyển chọn, và Ngài thích tỏ mình ra trong những cơn gian nan khốn khó của những ai cần tin vào Ngài: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ". 

Ph
ần ba: "Phêrô thưa lại rằng: 'Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy'. Chúa phán: 'Hãy đến'. Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu con'. Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?' Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'".

Được trấn an và nhận ra quả thực là Thày của mình chứ chẳng phải ma quái gì, Tông Đồ Phêrô chẳng những cảm thấy hết sợ mà còn trở nên khoái chí đến độ đã xin với Người rằng
: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúng ta thấy Tông Đồ Phêrô không tự ý nhào ra khỏi thuyền mà đến với Thày mà là xin lệnh của Thày trước. Và khi được Người cho phép "hãy đến" ngài liền "xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu".

Về sự kiện Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến cùng các môn đệ này cũng thế, người ta cũng tìm cách giải thích nghe có lý để gạt bỏ những gì gọi là phép lạ của Chúa Giêsu đi. Chẳng hạn, họ giải thích rằng bấy giờ là mùa đông nên nước bị đông cứng do đó Chúa Giêsu mới có thể bước đi trên tảng băng chứ không phải trên nước. Đúng là một giải thích trẻ con, chỉ đánh lừa được những ai không cẩn thận đọc Thánh Kinh. Vậy thì chỉ có chỗ Tông Đồ Phêrô bị chìm xuống là chỗ duy nhất không bị đông đá hay sao? Hay chỉ có chỗ nào Chúa Giêsu đi thì mới bị đóng băng còn chỗ nào thuyền của các môn đệ chèo thì toàn là nước à? Thật là một hiện tượng có vẻ ảo thuật hơn là thiên nhiên.


Ch
úng ta không biết được từ thuyền đến chỗ Chúa Giêsu đang đi trên biển mà đến với thuyền của các tông đồ bao xa. Nhưng chắc cũng không còn xa cho lắm, bởi trong đêm tối các tông đồ còn có thể nhìn thấy được Người và còn có thể nghe được tiếng của Người giữa sóng gió ào ào. Vậy từ thuyền đến chỗ của Chúa Giêsu rất gần nên có thể suy đoán rằng Tông Đồ Phêrô vừa mới ra khỏi thuyền được một chút thì đã cảm thấy chới với: "Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu con'". 

T
ất nhiên Chúa Giêsu ở ngay đó không thể nào để cho vị tông đồ này chết chìm: "Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?'". Đúng thế, chỉ vì "nghi ngờ" mà Tông Đồ Phêrô mới bị chìm xuống, trái lại, nếu sóng gió càng mạnh, càng cản trở vị tông đồ này đến cùng Chúa Giêsu, mà ngài cứ tiếp tục thắng vượt tất cả, bằng một lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thày, qua cử chỉ cứ nhìn thẳng vào Thày hơn là nhìn chung quanh, Đấng đang ở ngay phía trước mặt ngài và là chính mục tiêu tiến đến của ngài, thì chắc chắn ngài đã gặp được Người trong chính sóng gió và giữa đêm tối. 

Dầu sao Chúa Giêsu cũng đạt được mục đích của Người là tỏ mình ra cho các tông đồ giữa cơn gian nan khốn khó đầy hiểm nguy của các vị để các vị nhờ đó mà tin vào Người: "
Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'". 

"
Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng" có nghĩa là cuộc thử thách đức tin của các tông đồ được Chúa Giêsu sắp xếp xẩy ra chỉ tới đó thôi, nghĩa là cho tới khi Người bước vào trong thuyền của các vị, và cũng chính là lúc và là nơi các vị nhận biết Người đúng như những gì Người mong muốn nơi các vị: "Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'"

Điều tích cực cần phải áp dụng thực hành được bài Phúc Âm gợi lên cho chúng ta hôm nay được rút từ trường hợp của tông đồ Phêrô, vị tông đồ một khi hoảng sợ, ở chỗ bị chi phối bởi cuồng phong nên bị chìm xuống thế nào, thì một khi Kitô hữu chúng ta không gắn mắt đức tin của chúng ta vào Chúa, mà chỉ vào những sự kiện hay con người gây khốn cho mình, chúng ta khó lòng, nếu không muốn nói là không thể nào không tức giận, không trả đũa, bất an ..., nghĩa là chúng ta bị chìm xuống dưới nước là hình ảnh bản tính tự nhiên của chúng ta, chứ không vượt trên (như tông đồ Phêrô đi trên mặt nước) bản tính tự nhiên của mình, cho tới khi chúng ta nhìn lên Chúa, sống đức tin, như tông đồ Phêrô đã tuyên xưng qua lời kêu cứu của ngài: "Thày ơi, cứu con với".

Điều tiêu cực cần phải tránh đó là đừng bao giờ để mắt của mình bị quáng gà đến độ "nhìn cò ra quạ", nhìn Chúa lại tưởng ma. Tại sao? Tại vì hoảng sợ! Tại vì bất an! Chính cái hoảng sợ và bất an làm cho mắt con người bị mờ đi, khiến cho sự thật trước mắt bị nhạt nhòa, bị sóng sánh, bị chao đảo đến độ bị biến dạng trước những con mắt không còn làm chủ được mình. Như thế, chỉ còn một cách duy nhất để khỏi bị tình trạng quáng gà đó là áp dụng đường lối tích cực trên đây, đó là cứ nhìn thẳng vào đối tượng mình tin tưởng ngay từ ban đầu.


Tâm trạng đột nhiên hoảng hốt của tông đồ Phêrô nên vị tông đồ đang tin tưởng đi trên nước đến với Thày mình thì bị chìm ngay xuống nước trong bài Phúc Âm hôm nay, được phản ảnh phần nào nơi trường hợp của Maria và Aaron là anh chị em ruột thịt của Moisen trực tiếp "nói xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ Êthiôpia. Họ nói: 'Thiên Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người chẳng phán cùng chúng ta như thế sao?'", mà chính là gián tiếp trách móc Thiên Chúa như thể cho Ngài là thiên vị, nên đã phạm đến cả Thiên Chúa, đến độ, sau khi Chúa tỏ cho 2 vị này biết về Moisen ở trong "nhà xếp giao ước", thì "Chúa nổi giận họ mà bỏ đi, và đám mây trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là Maria bị phung cùi, mình trắng như tuyết. Maria bị phung cùi, mình trắng như tuyết".

Sau khi "Aaron ngoảnh lại thấy bà ấy đã bị phung cùi, nên nói với Môsê rằng: 'Thưa Ngài, xin đừng phạt chúng tôi đã dại phạm tội. Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và như trẻ sinh non? Ðây phân nửa thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát'. Môsê kêu van cùng Chúa rằng: 'Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà ấy'", một tiếng kêu van thay cho chính phạm nhân Maria, một người chị em của ông chắc chắn đã nhận biết lỗi lầm của mình, khi bị Chúa trừng phạt nhãn tiền như thế, để cảnh tỉnh bà và giúp cho bà nhờ đó sống tốt lành hơn nhờ biết mình và tin vào Ngài hơn, bằng tất cả tâm hồn thống hối ăn năn như tâm tình của Thánh Vịnh 50 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. .

2) Vì sự lỗi con thực là con biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Thiên Chúa.

3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con.

4) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.

 

 

Ngày 8 tháng 8

Thánh Đa-minh, linh mục

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Thánh nhân sinh quãng năm 1170, tại Ca-lê-ru-ê-ga, Tây Ban Nha. Người học thần học tại Pa-len-xi-a rồi làm kinh sĩ giáo phận Ốt-ma. Trước hết, người quy tụ một số phụ nữ về sống tại Pơ-rô-vin-lơ (Pháp), theo một tu luật, rồi sau người lập dòng Anh Em Thuyết Giáo tại Tu-lu-dơ để đối lại lạc giáo Ca-tha. Chính người đã chiến đấu với lạc giáo bằng lời giảng thuyết, bằng gương sáng và đã thu hoạch được kết quả khả quan. Người muốn các anh em trong dòng phải sống khất thực, và lời giảng dạy phải xuất phát và được nuôi dưỡng bằng chiêm niệm. Người đã đặt trung tâm dòng ở Rô-ma trước khi qua đời ở Bô-lô-nha ngày 6 tháng 8 năm 1221.

Thánh Đa Minh (Dominico Guzman) – HUYNH ĐOÀN GIÁO DÂN ĐA MINH

Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách

Thánh Đa-minh nói với Thiên Chúa hay nói về Thiên Chúa

Trích các văn kiện lịch sử dòng Anh Em Thuyết Giáo.

Thánh Đa-minh rất mực đoan chính và nhiệt tình mến Chúa. Không nghi ngờ gì nữa, ai cũng chứng thực là người thật đáng kính và đầy ân sủng. Tâm hồn người hết sức bình thản, chỉ xao động khi đồng cảm nỗi thống khổ của người khác hay khi tỏ lòng thương xót khoan dung. Lòng vui thì nét mặt cũng vui lây, nên người đã giãi toả niềm an vui nội tâm trên khuôn mặt khả ái hân hoan.

Qua lời nói cũng như việc làm, đâu đâu người cũng tỏ ra là một con người phúc âm. Ban ngày, không ai hoà đồng vui vẻ với anh em bằng hữu hơn người. Ban đêm, chẳng ai kiên trì canh thức cầu nguyện đủ cách như người. Người ít nói, ngoại trừ nói với Thiên Chúa -tức là cầu nguyện- hay nói về Thiên Chúa, và người thường khuyên bảo anh em như vậy.

Người thường dâng lên lời cầu khẩn đặc biệt này, là xin Thiên Chúa thương ban cho người lòng bác ái chân thật, lòng bác ái giúp người nỗ lực tìm kiếm và đem lại ơn cứu độ cho con người. Người nghĩ rằng người chỉ thật sự là chi thể của Đức Ki-tô khi đem trọn vẹn con người và sức lực ra cứu các linh hồn như Chúa Giê-su là Đấng cứu độ mọi người đã dâng hiến trọn vẹn con người mình để cứu độ chúng ta. Và để thực hiện công trình này, theo kế hoạch quan phòng sâu thẳm từ ngàn đời của Thiên Chúa, người đã lập dòng Anh Em Thuyết Giáo.

Người hay dùng lời nói và thư từ khuyên bảo anh em dòng thường xuyên học hỏi Tân Ước và Cựu Ước. Lúc nào người cũng mang theo mình sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu cùng với các thư thánh Phao-lô, và học đến hầu như thuộc lòng.

Hai ba lần được chọn làm giám mục, nhưng lần nào người cũng từ chối, vì thích sống nghèo với anh em hơn là ngự trong một toà giám mục. Người bảo toàn đức khiết tịnh cao quý vẹn tuyền cho đến chết. Người những ước ao được chịu đòn, chịu tan xương nát thịt và chịu chết vì tin Đức Ki-tô. Đức giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô IX đã nói về người : “Tôi biết người đã theo lối sống của các Tông Đồ một cách trọn hảo, nên không chút nghi ngờ : người cũng được chia sẻ vinh quang trên trời với các Tông Đồ.”

Xướng đápx. Hc 48,1 ; Ml 2,6

XNgười xuất hiện chẳng khác nào ngọn lửa, người là ngôn sứ mới của ơn cứu độ.

ĐLời người tựa đuốc cháy bừng bừng.

XMôi miệng người không nói điều gian ác, nhưng chỉ nói toàn điều chân thật.

ĐLời người tựa đuốc cháy bừng bừng.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội Thánh một tông đồ nhiệt tâm truyền giảng chân lý là thánh Đa-minh. Xin nhậm lời thánh nhân hằng tha thiết chuyển cầu, mà ban cho Hội Thánh luôn tiến triển nhờ công đức và lời giảng dạy của người. Chúng con cầu xin

 

THÁNH DAMINH (8/8)
LẬP DÒNG ANH EM THUYẾT GIÁO

1. Vài dòng lịch sử

Thánh Đaminh sinh tại Castile nước Tây ban nha, năm 1170.

Ngay từ lúc còn nhỏ, thánh nhân đã mến mộ sự học hành, cầu nguyện, hãm mình, sống khắc khổ và yêu thương người nghèo. Mỗi ngày đều có giờ nhất định để cầu nguyện và ngài ăn chay hãm mình luôn. Ngày kia có người đến xin Ngài giúp đỡ để chuộc lại đứa em bị bắt, ngài không còn tiền cho người ấy, vì đã bố thí hết, nên nói:

- Tôi không còn tiền, nhưng này chị hãy dẫn tôi nộp cho người ta, để chuộc em chị về.

Người này không thể chấp nhận được đề nghị đó, nhưng lòng hết sức cảm phục sự hy sinh cao độ của Ngài.

Vì muốn dâng mình giúp việc Chúa, nên thánh nhân được gọi đến thụ giáo với một Linh Mục ở Gumiel d‘Izan. Năm 14 tuổi, Ngài gia nhập Đại chủng viện tại Palencia. Sau khi hoàn tất việc học, Ngài được Đức Cha Diégo de Azsvedo truyền chức Linh Mục. Và vì thấy ngài thông minh nhân đức, nên Đức Giám Mục Martin de Bazan đặt ngài làm Kinh sĩ ở Osma.

Lúc Đức Cha sang Pháp lo việc mục vụ, thánh nhân được đi theo. Trong thời gian ở đây, ngài thấy tận mắt những khó khăn do bè rối Albigeois gây ra cho Hội Thánh. Họ chủ trương tất cả những gì thuộc về vật chất đều xấu xa: muốn hoàn thiện phải tận diệt vật chất, sống hoàn toàn khắc khổ. Ngài quyết định đem hết khả năng chống lại chủ trương sai lạc của họ. Nhưng nhận thấy một mình không thể đương đầu với sức bành trướng quá mạnh của họ nên ngài kêu gọi nhiều nhà truyền giáo nhiệt thành cộng tác. Đó là những người sau này sẽ trở nên tu sĩ hội dòng Ngài sáng lập, gọi là “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”.

Một cộng tác viên của ngài kể lại:

“Đaminh có một đời sống luân lý, một lòng sốt sắng kính mến Chúa mãnh liệt, đến nỗi hiển nhiên ai cũng thấy ngài là tác phẩm của sự cao trọng và ơn thánh. Ngài có một tâm hồn bình thản đến nỗi chỉ rộn lên khi phải trắc ẩn và thương xót. Và vì tâm hồn hân hoan thì làm cho bộ mặt rạng rỡ, nên ngài cũng để lộ sự bình thản của tâm hồn ngài ra trên nét mặt hiền từ và vui tươi của Ngài.

“Đâu đâu ngài cũng tỏ ra một con người của Tin Mừng, cả trong lời nói lẫn hành động”

“Ngài năng dâng lên Chúa lời cầu xin đặc biệt này là cho ngài được lòng bác ái chân thật, có khả năng săn sóc và đem lại phần rỗi cho người ta. Ngài nghĩ mình sẽ thật là chi thể của Chúa, nên tiên vàn mình đem hết sức lực mình ra cứu rỗi các linh hồn, giống như Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc mọi người, đã tận hiến mình để cứu chuộc chúng ta. Và chính để làm công việc ấy mà theo ý Chúa an bài sâu xa, Ngài đã lập ra “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”

Suốt sáu năm trời, thánh nhân dâng lời cầu nguyện, sự hy sinh kèm theo lời rao giảng kêu gọi mọi người trở về với đức tin chân chính, nhưng kết quả không được bao nhiêu. Ngài buồn sầu than thở với Mẹ Maria và được Mẹ dạy bảo hãy rao giảng và cổ động mọi người lần chuỗi Môi khôi, để nhờ đó Mẹ cầu cùng Chúa cho những người lầm lạc trở về với Hội thánh. Vâng lời Đức Mẹ, ngài đem hết khả năng truyền bá chuỗi Môi khôi, giải thích các mầu nhiệm thánh, kêu gọi mọi người thực hành việc đạo đức này. Kết quả thật là lùng! Không bao lâu, những người tội lỗi và kẻ lầm lạc ăn năn trở về với Chúa. Thánh nhân hết sức vui mừng, tạ ơn Chúa và tri ơn Đức Mẹ.

Năm 1215, thánh nhân đến Roma, xin Đức Honoriô III châu phê luật dòng vào ngày 22/10/1216. Từ đó dòng phát triển mạnh mẽ và có mặt trên khắp thế giới .

Thánh nhân qua đời tại Bologna ngày 6 tháng 8 năm 1221. Năm 1231 Đức Thánh Cha Gregoriô thứ IX đã tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.

2. Lời trăn trối cuối cùng

“Anh em thân mến. Đây là những gì Cha thánh để lại cho anh em để anh em giữ lấy như là con có quyền thừa kế:

Anh em hãy sống bác ái

Hãy giữ lòng khiêm tốn

Hãy tự nguyện giữ đức thanh bần – khó nghèo.”

Đây không phải là những gì rút ra từ sách vở, mà là kết tinh của cả một cuộc sống mà chính Ngài đã nỗ lực thực hiện trong suốt một cuộc đời 51 năm – hơn một nửa thế kỷ.

 

ĐTC Biển Đức XVI nói về Thánh Đaminh trong bài giáo lý ở cái link dưới đây:

3/2/2010 - Bài 104 về Thánh Đaminh



Thứ Tư

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ds 13, 1-3a. 26 -- 14, 1. 26-29. 34-35

"Ðất ngon lành họ đã không thèm" (Tv 77, 24)

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê (ở trong hoang địa Pharan) rằng: "Ngươi hãy sai đàn ông, mỗi chi tộc một người (thuộc hàng vương công trong chúng), đi xem đất Canaan mà Ta sẽ ban cho con cái Israel".

Sau bốn mươi ngày, những người dò thám đất đi khắp miền, đoạn trở về.

{Họ đi gặp Môsê, Aaron và toàn thể cộng đồng con cái Israel ở sa mạc Pharan, tại Cađê. Và họ đã báo cáo với các ông và toàn thể cộng đồng, và cho người ta thấy thổ sản đất ấy. Họ đã tường thuật và nói: "Chúng tôi đã vào đất, nơi các ông sai chúng tôi đến, và thật là đất chảy tràn sữa và mật, và đây là thổ sản đất ấy. Hiềm một nỗi là dân cư trong xứ hùng cường! Thành trì kiên cố (và) lớn lắm, và chúng tôi đã thấy ở đó cả những con cháu Anaq. Có Amalec ở vùng Namsa; có dân Hit-tit, Giơbusi và Amori ở trên núi; còn dân Canaan thì ở gần biển và bờ sông Giođan".

Bấy giờ Caleb truyền cho dân nín bặt trước Môsê. Ông nói: "Ta cứ lên chiếm đất ấy, vì ta sẽ thắng nổi nó!" Những người cùng lên với ông đáp lại: "Ta không thể lên đánh dân ấy, vì nó mạnh hơn ta". Và họ buông lời chê bai giữa con cái Israel về đất họ đã dò thám, họ nói: "Ðất chúng tôi đã băng qua để dò thám là đất làm tiêu diệt cả những người ở trên ấy; dân chúng tôi đã thấy trong xứ toàn là những người vóc dạng. Chúng tôi đã thấy ở đó những người khổng lồ (con cháu của Anaq thuộc hạng người khổng lồ). Quay nhìn lại mình, thật chúng tôi chỉ như những con châu chấu, và trước mắt họ, chúng tôi chỉ như thế đó".

Và toàn thể cộng đồng kêu la; họ lên tiếng},

và đêm ấy toàn dân la lối khóc lóc. (Họ trách móc Môsê và Aaron, và nói rằng: "(...) Phải chi chúng tôi chết quách ở trong sa mạc này!").

Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: "Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng rằng: Chúa phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên Ta sẽ làm cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng vắng này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu trách Ta. Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một năm kể thay cho một ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống lại Ta như vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 6-7a. 13-14. 21-22. 23

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ đến chúng con (c. 4a).

Xướng: 1) Chúng con đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa. - Ðáp.

2) Nhưng họ đã mau quên công việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài, họ không tin cậy vào định kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi hoang địa, và thử thách Thiên Chúa trong cõi cô liêu. - Ðáp.

3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.

4) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là Người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Người, để Người nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 15, 21-28

"Này bà, bà có lòng mạnh tin".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".

Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel".

Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".

Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.

Ðó là lời Chúa. 

 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Ma Nữ Cao Thủ Đức Tin

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư trong Tuần XVIII Thường Niên, Thánh ký Mathêu thuật lại cho chúng ta về việc Chúa Giêsu chữa cho con gái của người đàn bà xứ Canaan được khỏi bị quỉ ám, một người đàn bà dân ngoại nhưng có một đức tin đầy ma lực đến độ "muốn gì đưc nấy". 

 

Thế nhưng, để có một đức tin "muốn gì được nấy" này, người đàn bà ngoại bang Cannan này đã phải trải qua một một cơn thử thách phải nói là khủng khiếp, một trận đấu sinh tử, trận đấu thập tử nhất sinh, liên quan đến sắc tộc của bà cũng như đến chính phẩm giá của bà.

 

Cuộc thử thách đức tin liên quan đến sắc tộc của người đàn bà Canaan: "Các môn đệ đến gần Người mà rằng: 'Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi'. Người trả lời: 'Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel'". Qua câu trả lời cho các môn đệ này, Chúa Giêsu như muốn nói rằng chỉ có dân Do Thái của Người là nhất, còn các dân ngoại chỉ là đồ thứ yếu, không đáng chú trọng cho bằng dân Do Thái. 

 

Cuộc thử thách đức tin liên quan đến phẩm giá làm người của người đàn bà Canaan"Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: 'Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi'. Người đáp: 'Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó'". Đến đây, bị chạm tự ái như thế, bị coi như loài chó như vậy, không biết có ai còn nhẫn nại để tiếp tục với con người khinh bỉ mình và chửi mình như thế nữa hay chăng, hay là điên tiết quại lại bằng câu hùng hổ như: "Này, ông đừng có tưởng rằng ông ngon lắm, không đáp ứng những gì tôi xin thì thôi, chứ đừng có mà khinh bỉ tôi như vậy. Tôi cóc cần ông".  

 

Thế nhưng, cho dù người đàn bà Canaan bị một độc chưởng vô cùng lợi hại chỉ từ chết tới bị thương như vậy mà bà chẳng những vẫn không hề hấn gì, trái lại, bà còn tung lại một tuyệt chiêu vô cùng ngoạn mục: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống", một tuyệt chiêu đã làm cho đối thủ vô địch của bà đành chào thua bà lập tức"Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy"

 

Điều duy nhất người đàn bà ngoại bang Canaan này muốn đó là làm sao để người con gái của bà khỏi "bị quỷ ám khốn cực lắm", đến độ, bà cảm thấy cái khổ của chính con bà như là của bà, nên bà đã xin Chúa Giêsu thương chính bản thân bà chứ không phải là đứa con gái của bà: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi". Để rồi, nhờ đức tin "muốn gì được nấy" của bà mà "ngay lúc đó, con gái bà đã được lành".

 

Nếu so sánh với đức tin của các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm qua thì quả thật nhân vật ma nữ cao thủ đức tin này đã hoàn toàn trổi vượt, ở chỗ, cho dù Chúa có tiếp tục chơi trò ma quái với cả bà là một kẻ thuộc dân ngoại chăng nữa, bà chẳng những đã không cảm thấy bị Người nát đến hoảng sợ thế nào, trái lại, còn nhìn thẳng vào Người, nên đã không bị chìm xuống như tông đồ Phêrô - Như thế phải chăng ma nữ cao thủ đức tin này chẳng những đi trên mặt nước mà còn bay trên mặt nước, bất chấp bão tố còn dữ dội kinh hoàng về tinh thần hơn là thứ phong ba bão tố về thể lý thử thách các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm qua.

 

Nếu đức tin của người đàn bà ngoại bang Canaan trong Bài Phúc Âm hôm nay phi thường như thế nào thì đức tin của dân Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Dân Số, cho thấy quá ư là yếu tin, cho dù đã thấy được biết bao nhiêu là dấu lạ và phép lạ Thiên Chúa tỏ mình ra trong thời gian 40 năm trong sa mạc, đến độ Thiên Chúa, sau lần họ đúc bò vàng để thờ như một vị cứu chúa của họ khi họ mới băng qua Biển Đỏ chẳng được bao lâu, lại muốn hủy diệt họ đi một lần nữa ngay trước khi họ sắp vào được Đất Hứa,

 

"Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: 'Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng rằng: Chúa phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên Ta sẽ làm cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng vắng này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu trách Ta. Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một năm kể thay cho một ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống lại Ta như vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này'".

 

Tuy nhiên, mỗi lần cảm thấy Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ, nhất là khi bị Ngài trừng phạt xứng với tội của mình, thì dân Ngài lại ăn năn thống hối, bởi Chúa là Đấng thấu biết mọi sự, biết  được lý do chính yếu mà dân Ngài cứ tiếp tục cứng lòng tin là bởi khuynh hướng hay quên việc Ngài làm cho họ, như Thánh Vịnh 105 ở bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:
 

1) Chúng con đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa.

2) Nhưng họ đã mau quên công việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài, họ không tin cậy vào định kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi hoang địa, và thử thách Thiên Chúa trong cõi cô liêu.

3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ.

4) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là Người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Người, để Người nguôi giận và đừng tiêu diệt họ.

 


Thánh Têrêsa Benedicta Đồng trinh tử đạo (9/8)



Edith Stein, một nữ tu Cát Minh thánh thiện, một triết gia uyên thâm và một văn sĩ sáng giá, không những ngài có ảnh hưởng lớn ở thời ấy mà ngày nay, ảnh hưởng ấy đang lan tràn trong giới triết gia và trí thức ở Ðức cũng như trên toàn thế giới. Ngài là nguồn cảm hứng cho tất cả những ai coi Thánh Giá là di sản, và cuộc đời ngài được dâng hiến cho sự đau khổ và bách hại của dân tộc Do Thái.
Sinh ngày 12 tháng Mười 1891 trong một gia đình Do Thái ở Breslau, nước Ðức, ngay từ nhỏ Edith Stein đã chứng tỏ năng lực học hỏi lạ thường, và vào lúc bắt đầu Thế Chiến I, ngài đã học xong triết và ngữ văn tại đại học Breslau và Goettingen.

Sau cuộc chiến, ngài tiếp tục cao học tại Ðại Học Freiburg và lấy bằng tiến sĩ ưu hạng về triết. Sau đó ngài là giáo sư phụ tá và là cộng tác viên của Giáo Sư Husserl, cha đẻ của hiện tượng học và cũng là người có ảnh hưởng lớn đến tư duy của thánh nữ.
Trong tất cả các ngành học hỏi, Edith Stein không chỉ tìm kiếm chân lý mà còn đi tìm chính Chân Lý và ngài đã tìm thấy ở Giáo Hội Công Giáo sau khi đọc tự truyện của Thánh Têrêsa Avila. Edith Stein được rửa tội vào ngày đầu năm 1922.
Sau khi trở lại đạo, Edith dùng toàn thời giờ để dạy học, diễn thuyết, viết lách và dịch sách, và không bao lâu ngài trở nên một triết gia và tác giả nổi tiếng, nhưng điều ngài khao khát là cuộc sống cô độc và tịnh niệm của dòng Cát Minh, là nơi ngài tận hiến cho Thiên Chúa và người dân của ngài. Trước khi Ðức Quốc Xã bách hại người Do Thái khiến ngài phải ngưng mọi hoạt động thì cha linh hướng đã đồng ý để ngài gia nhập dòng Cát Minh Hèn Mọn ở Cologne-Lindenthal vào tháng Mười năm 1933. Vào tháng Tư năm kế tiếp, ngài được mặc áo dòng và lấy tên là “Têrêsa Bênêđícta của Thánh Giá.” Vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1935, ngài khấn trọn.
Khi sự bách hại người Do Thái gia tăng mãnh liệt và điên cuồng, Sơ Têrêsa Bênêđícta nhận thấy sự nguy hiểm khi có mặt tại nhà dòng Cát Minh ở Cologne, và ngài đã xin phép bề trên để di chuyển đến một tu viện ở ngoại quốc. Vào đêm 31 tháng Mười Hai 1938, ngài bí mật vượt biên giới đến Hòa Lan là nơi ngài được tiếp đón một cách nồng nhiệt vào dòng Cát Minh ở Echt. Ở đây ngài sáng tác văn bản sau cùng là Thánh Giá Học.
Chính Thánh Giá của ngài thì ngay ở trước mặt, vì lúc ấy Ðức Quốc Xã đã xâm lăng Hòa Lan, và khi các giám mục Hòa Lan công bố lá thư mục vụ phản đối việc trục xuất người Do Thái và đuổi các học sinh Do Thái ra khỏi trường Công Giáo, thì Ðức Quốc Xã ra lệnh bắt giữ mọi người Công Giáo thuộc gốc Do Thái ở Hòa Lan. Sơ Têrêsa Bênêđícta bị bắt vào ngày 2 tháng Tám 1942, và được chở đến trại tử thần Auschwitz. Ngài chết trong phòng hơi ngạt ở Auschwitz ngày 9 tháng Tám 1942.
Vào ngày 1 tháng Năm 1987, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước cho Sơ Têrêsa Bênêđícta, và sau cùng sơ được phong thánh ngày 11 tháng Mười 1998.

Lời Nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, Chúa đã đưa Thánh Têrêsa Benedicta đến sự tròn đầy của khoa học thập giá trong giờ tử đạo của người. Xin lấp đầy chúng con sự hiểu biết ấy; và nhờ lời người chuyển cầu, xin cho chúng con luôn kiếm tìm Chúa là chân lý tối thượng, và trung tín cho đến chết đối với giao ước tình yêu đã được ký kết trong Máu Con Chúa cho ơn cứu độ của tất cả mọi người. Chúng con cầu xin.

Lời Bàn
Các sáng tác của Sơ Têrêsa Bênêđícta có đến 17 tập, phần lớn đã được dịch sang Anh ngữ. Là một phụ nữ chính trực, ngài theo đuổi chân lý mà bất cứ đâu chân lý đưa đẩy đến. Sơ Josephine Koeppel, O.C.D., người đã dịch vài cuốn sách của Sơ Têrêsa Bênêđícta, nhận xét tổng quát về vị thánh này như sau, ngài “học biết cách sống trong bàn tay Thiên Chúa.”
Lời trích
Trong bài giảng lễ phong thánh, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Vì Edith Stein là người Do Thái nên cùng với người chị là Rosa và những người Công Giáo cũng như Do Thái khác bị đưa từ Hòa Lan đến trại tập trung Auschwitz, là nơi ngài chết vì hơi ngạt. Ngày nay, chúng ta tưởng nhớ ngài với lòng tôn trọng sâu xa. Một vài ngày trước khi bị trục xuất, người phụ nữ đạo đức này đã gạt bỏ vấn đề được cứu nguy: ‘Ðừng làm như vậy! Tại sao tôi phải được miễn trừ? Không đúng sao khi tôi chẳng được ích gì từ bí tích Rửa Tội? Nếu tôi không thể chia sẻ số phận với anh chị em của tôi, đời sống của tôi chắc chắn bị tiêu diệt’.”
Với những người trẻ có mặt trong buổi lễ, đức giáo hoàng nói: “Cuộc đời các con không phải là một chuỗi không cùng của những cánh cửa mở! Hãy lắng nghe tâm hồn mình! Ðừng dừng ở ngoài mặt nhưng đi sâu vào tâm điểm của mọi sự! Và khi đến giờ, hãy có can đảm quyết định! Thiên Chúa chờ đợi các con phó thác sự tự do của mình trong bàn tay nhân ái của Người.”

Thánh Teresa Benedicta Thánh Giá Edith Stein (1891-1942)

 


Thứ Năm


Ngày 10 tháng 8

Lễ Thánh Lôrensô, Phó Tế, Tử Ðạo

Lễ Kính

 

Quite Interesting on Twitter: "According to the legend, while ...

 

Bài Ðọc I: 2 Cr 9, 6-10

"Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, ai gieo ít thì gặt ít; ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc vì miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng. Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư tràn mọi ân phúc: để anh em vừa luôn luôn sung túc mọi mặt, vừa còn được dư dật để làm các thứ việc phúc đức, như đã chép rằng: "Người đã rộng tay bố thí cho kẻ nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời". Ðấng đã cung cấp hạt giống cho kẻ gieo và bánh để nuôi mình, thì cũng sẽ cung cấp cho anh em hạt giống dư đầy, và sẽ làm phát triển hoa quả sự công chính của anh em.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 5-6. 7-8. 9

Ðáp: Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay (c. 5a).

Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong đất nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.

2) Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời. - Ðáp.

3) Người không kinh hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng cậy trông vào Chúa. Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, cho tới khi nhìn thấy kẻ thù phải hổ ngươi. - Ðáp.

4) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi; sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 12, 24-26

"Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thật, Ta nói thật với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó".

Ðó là lời Chúa.

Bài đọc 2 Phụng vụ giờ kinh sách

Thừa tác viên phục vụ Máu Thánh Đức Ki-tô

Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.

Hôm nay, Hội Thánh Rô-ma mời gọi chúng ta mừng ngày thánh Lô-ren-xô khải hoàn, ngày người đã chà đạp thế gian hung tợn, đã loại trừ thế gian nịnh hót. Thế là tên quỷ dữ tấn công người chịu hai lần thất bại. Như anh em vẫn biết, trong Hội Thánh Rô-ma, người đã thi hành chức vụ trợ tá, đã phục vụ Máu Thánh Đức Ki-tô, đã chịu đổ máu vì danh Đức Ki-tô. Thánh Gio-an tông đồ đã trình bày rất rõ về mầu nhiệm bữa tối của Chúa khi nói : Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Thưa anh em, thánh Lô-ren-xô hiểu điều ấy, người đã hiểu và thực hành. Người được lãnh nhận Đấng trao ban chính mình làm của ăn tại bàn tiệc thánh thế nào, thì người cũng trao hiến chính mình làm của ăn cho người khác như vậy. Khi sống, người yêu mến Đức Ki-tô, thì lúc chết, người cũng bắt chước Đức Ki-tô.

Còn chúng ta, thưa anh em, nếu chúng ta thật lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa. Chúng ta sẽ không thể sinh được hoa trái mến yêu nào tốt hơn là noi gương bắt chước Đức Ki-tô. Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Khi nói thế, dường như thánh tông đồ Phê-rô hiểu rằng : Đức Ki-tô đã chỉ chịu đau khổ vì những ai dõi bước theo Người, và cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô sẽ chẳng lợi ích gì cho ai ngoài những kẻ dõi bước theo Người. Các thánh tử đạo đã theo Người đến nỗi chịu đổ máu, đến nỗi chịu đau khổ như Người. Các thánh tử đạo đi theo Đức Ki-tô, nhưng không phải chỉ có các ngài thôi. Quả thế, các ngài đi qua, cầu vẫn chưa sập ; các ngài uống nước, suối vẫn chưa khô. Thưa anh em, vườn của Chúa đủ loại hoa : không phải chỉ có hoa hồng tử đạo, mà còn có hoa huệ khiết trinh, có dây trường xuân hôn nhân, có hoa tím goá bụa. Anh em thân mến, đừng bao giờ có ai thất vọng về ơn gọi của mình, dầu thuộc hạng người nào đi nữa : Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì mọi người. Kinh Thánh đã chép rất đúng về Người : Chúa là Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.

Vì thế, người Ki-tô hữu vẫn phải biết cách đi theo Đức Ki-tô, mặc dù họ không phải đổ máu, không có nguy cơ phải chịu thương khó. Thánh Phao-lô tông đồ nói về Chúa Ki-tô : Người vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Chúa uy nghi dường nào ! Nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Chúa khiêm hạ biết bao !

Đức Ki-tô đã hạ mình xuống. Hỡi Ki-tô hữu, đó là tấm gương bạn phải noi theo. Đức Ki-tô đã trở thành vâng phục, sao bạn lại kiêu căng ? Rồi sau khi đã hạ mình đến cùng và tiêu diệt sự chết, Đức Ki-tô đã lên trời : Ta hãy đi theo Người. Hãy nghe thánh Phao-lô tông đồ nói : Anh em đã được cùng trỗi dậy với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Xướng đápx. Tv 17 (18),3

XThánh Lô-ren-xô kêu lên rằng : “Tôi chỉ thờ Thiên Chúa của tôi, tôi chỉ phụng sự một mình Người.

ĐCực hình không làm tôi sợ hãi.

XThiên Chúa tôi thờ là núi đá cho tôi trú ẩn, là Đấng giải thoát tôi.”

ĐCực hình không làm tôi sợ hãi.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, chính vì được tình yêu Chúa nung nấu, mà thánh phó tế Lô-ren-xô đã trung thành phục vụ và đạt tới phúc tử đạo vinh quang. Xin cho dân Chúa biết thực hành những điều người dạy, và noi gương người mà yêu mến Chúa và anh em. Chúng con cầu xin

 

Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức Giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Thời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.

Laurensô là ai mà được tôn kính cách đặc biệt như vậy ?

Thánh Laurensô sinh tại Huescô nước Tây Ban Nha. Cha mẹ Ngài là những người đạo hạnh. Ngài sớm từ biệt quê hương thân yêu để đi du học bên Roma và đã sống trót cuộc đời trần thế tại đây. Ngài được chọn thành một trong bảy phó tế của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và Ngài được giao cho trách nhiệm "quản lý tài sản của Giáo hội". Khi sự cấm đạo dưới thời Hoàng đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế khác. Khi Đức Giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Laurensô đi theo khóc lóc nức nở, Ngài hỏi "Cha ơi, cha đi đâu mà không cho nô bộc này theo?" Ðức Giáo hoàng trả lời, "Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta." Nghe thấy thế, Laurensô thật vui mừng, Ngài về phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.

Khi những điều này tới tai Hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô. Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị điệu tới trước viên tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Được dành cho ba ngày để thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài sản phân phát cho kẻ nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valrianô, như là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh. Từ khước, thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn khôi hài nói với hoàng đế:

- Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.

Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Ngài lãnh nhận triều thiên tử đạo vào năm 158.

Thánh Laurensô đã một lòng vì Chúa, vì Giáo Hội, hết lòng yêu thương người nghèo. Xin cho mỗi chúng ta cũng có được tâm tình và lòng quảng đại như thánh nhân. Trung kiên làm chứng cho Chúa dù phải chịu thiệt thòi về phần xác.

(Nguồn: website TGP Sài Gòn)

 


Nếu Thứ Năm tuần XVIII không bị lễ kính Thánh Phó Tế Laurensô át đi thì PVLC và Suy Niệm Lời Chúa như sau:

Ph
ụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Ds 20, 1-13

"Xin Chúa mở kho tàng châu báu của Chúa là mạch nước hằng sống".

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, vào tháng Giêng, con cái Israel và toàn thể cộng đồng đến rừng Sim. Dân chúng định cư ở Cađê. Tại đây bà Maria đã qua đời và được chôn cất.

Và khi dân chúng thiếu nước, họ toa rập nhau chống đối Môsê và Aaron. Họ công kích Môsê rằng: "Phải chi chúng tôi chết đi như anh em chúng tôi đã chết trước mặt Chúa. Tại sao các ông dẫn cộng đoàn của Chúa vào rừng vắng này, để chúng tôi lẫn súc vật chúng tôi phải chết? Tại sao bắt chúng tôi bỏ Ai-cập mà dẫn lên chỗ rất xấu xa này, chẳng cày cấy được, chẳng sinh quả vả, nho lựu, hơn nữa không có nước mà uống".

Môsê và Aaron lánh mặt khỏi dân chúng và vào nhà xếp giao ước. Hai ông sấp mình xuống đất, kêu van cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin nghe tiếng dân này kêu van, và xin mở cho họ kho tàng châu báu của Chúa là mạch nước hằng sống, để họ uống no đầy mà hết kêu trách".

Sự vinh quang của Chúa hiện ra trên họ. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Hãy cầm lấy gậy và tập họp dân chúng lại, ngươi và Aaron khiến hòn đá, trước mắt họ, và đá liền chảy nước. Khi ngươi làm cho nước từ hòn đá này chảy ra, thì toàn dân và súc vật sẽ được uống".

Môsê cầm lấy cây gậy để trước mặt Thiên Chúa như Chúa đã truyền dạy ông. Khi tập họp cộng đồng đến trước hòn đá, ông bảo họ rằng: "Hỡi bọn người phản loạn và cứng lòng, hãy nghe đây. Chúng tôi có thể làm cho nước từ hòn đá này chảy ra cho các ngươi được không?" Môsê giơ tay cầm gậy đánh vào hòn đá hai lần: nước chảy ra tràn trề. Dân chúng và súc vật được uống.

Bấy giờ Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: "Vì các ngươi không tin Ta mà tuyên xưng thánh danh Ta trước mặt con cái Israel, thì các ngươi không được đem dân này vào Ðất Ta sẽ ban cho chúng nó".

Ðây là nước mâu thuẫn nơi con cái Israel trách Chúa, và Người dùng nước để tỏ ra thánh danh Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9

Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các ngươi đừng cứng lòng (c. 8a).

Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Ðáp.

2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.

3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa, trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử thách Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 13-23

"Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Ðức Kitô.

Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image



Suy Niệm Cảm Nghiệm

Thâm Cung Bí Sử về Nhân Vật Giêsu Nazarét


B
ài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XVIII Thường Niên, được Thánh ký Mathêu thuật lại về sự kiện tông đồ đoàn, qua vị đại diện của mình là Tông Đồ Phêrô, tuyên xưng thực tại thần linh chân thực về Chúa Kitô, một Chúa Kitô sau đó chẳng những thiết lập Giáo Hội của Người trên nền tảng đức tin của vị tông đồ này, mà còn tỏ ra cho các tông đồ biết một thâm cung bí sử tối quan hệ về Người. 

Tông Đồ Phêrô, tuyên xưng thực tại thần linh chân thực về Chúa Kitô: 

"Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: 'Người ta nói Con Người là ai?' Các ông thưa: 'Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ'. Đức Giêsu lại hỏi: 'Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?' Ông Simôn Phêrô thưa: 'Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống'". 

Chúa Kitô 
đã thiết lập Giáo Hội của Người trên nền tảng đức tin của vị tông đồ này:

"Đức Giêsu nói với ông: 'Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy". 


Chúa Kitô tỏ ra cho các tông đồ biết một thâm cung bí sử tối quan hệ về Người:

"Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: 'Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!' Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: 'Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người'".

Qua b
ài Phúc Âm hôm nay, ch
úng ta có thể tự hỏi là tại sao Chúa Giêsu bỗng nhiên lại hỏi các tông đồ về nhận định của dân chúng nói chung và của các tông đồ nói riêng về Người, trong khi Người vẫn cố ý che dấu căn tính của Người, như trong chính bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô"?


Ph
ải chăng Người chỉ có ý muốn trắc nghiệm xem kiến thức thần linh và cảm nghiệm thần linh về Người nơi các vị như thế nào sau thời gian được gần gũi với Người hơn quần chúng? Căn cứ vào nội dung và kết cấu của bài Phúc Âm thì Chúa Kitô không phải chỉ muốn trắc nghiệm mức độ đức tin của các tông đồ, vì tự mình Người đã biết đức tin của các vị ra sao rồi, chẳng cần phải hỏi, mà Người muốn tiết lộ một bí mật hết sức phũ phàng về Người mà Người biết chắc chắn rằng các tông đồ không thể nào chấp nhận được, dù các vị có tuyên xưng hết sức chính xác về Người đi chăng nữa. 

Thật thế, điều tối mật về Người đó là Người chẳng những là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" mà còn là một Đức Kitô tử nạn và phục sinh nữa, để chứng tỏ Người thực sự là "Đ
ức Kitô" (qua mầu nhiệm tử giá) và đồng thời cũng chính là "Con Thiên Chúa hằng sống" (qua mầu nhiệm phục sinh), chứ không phải như lý lẽ tự nhiên của các tông đồ, tiêu biểu qua tông đồ Phêrô, hiểu theo kiểu trần gian, ở chỗ đã là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì Người không thể nào lại chết được. 

Nếu chung các tông đồ và riêng tông đồ Phêrô không chấp nhận sự thật này về "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì các vị sẽ không thể nào theo Người được. Đó là lý do các vị đã phản nộp Người, như một
 tông đồ Giuđa Íchca, hay đã trắng trợn chối bỏ Người, như một tông đồ Phêrô đầu đàn. Đó cũng là lý do các vị ru rú lo âu sợ hãi trong căn thượng lầu khóa kín sau khi Thày của các vị chết đi. 

Đó còn là lý do khi nhận biết tất cả 
sự thật về một Chúa Kitô Phục Sinh, tông đồ Toma đã tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi" (Gioan 20:28), chứ không tuyên xưng "Vâng, con tin Thày đã chết nhưng đã sống lại". Bởi vì, chính vì Thày là Chúa và là Thiên Chúa mà Thày dù có chết cũng sẽ sống lại, để làm Chúa của cả kẻ sống lẫn người chết, để chứng tỏ Người là Vị Thiên Chúa hằng sống bất diệt. Lời tuyên xưng này của tông đồ Tôma như thể lập lại lời tuyên xưng của tông đồ Phêrô: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". 

Sự kiện tông đồ Phêrô tuyên xưng chính xác về căn tính của "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" Thày của mình trong bài Phúc Âm hôm nay, nhưng sau đó, vị tông đồ này đã có một cảm nghiệm đức tin hoàn toàn không thích hợp với sự thật thần linh về mạc khải thần linh vừa được ngài tuyên xưng, nên ngài đã bị Vị Sư Phụ đáng tôn kính quí yêu thậm tệ quở trách.  Sách Dân Số cũng thuật lại nhân vật Moisen hằng tin tưởng vào Thiên Chúa của mình, bằng không ông đã không dấn thân gánh vác sứ vụ giải phóng dân Chúa ra khỏi Ai Cập vô cùng khó khăn và đau khổ, thế mà cũng có lúc không đẹp lòng Chúa, như trường hợp ông theo lệnh Chúa dùng gậy khiến nước chảy ra từ tảng đá, được ghi nhận ở Bài Đọc 1 hôm nay:

 

"Môsê cầm lấy cây gậy để trước mặt Thiên Chúa như Chúa đã truyền dạy ông. Khi tập họp cộng đồng đến trước hòn đá, ông bảo họ rằng: 'Hỡi bọn người phản loạn và cứng lòng, hãy nghe đây. Chúng tôi có thể làm cho nước từ hòn đá này chảy ra cho các ngươi được không?' Môsê giơ tay cầm gậy đánh vào hòn đá hai lần: nước chảy ra tràn trề. Dân chúng và súc vật được uống. Bấy giờ Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: 'Vì các ngươi không tin Ta mà tuyên xưng thánh danh Ta trước mặt con cái Israel, thì các ngươi không được đem dân này vào Ðất Ta sẽ ban cho chúng nó'".

 

Nếu "đó là nước mâu thuẫn nơi con cái Israel trách Chúa, và Người dùng nước để tỏ ra thánh danh Người", như câu kết của Bài Đọc 1 hôm nay cho biết, thì phải chăng ám chỉ đến Chúa Kitô là tảng đá bị bị thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường (xem Thánh Vịnh 118:22; Mathêu 21:42) ban nước hằng sống, nhưng chỉ cho những ai tin vào Người mà thôi. Bởi thế mà bài Đáp Ca hôm nay, trích từ Thánh Vịnh 94, mới có những lời kêu gọi thích đáng như sau:

 

1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.

2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.

3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa, trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử thách Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".

 


Thứ Sáu

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ðnl 4, 32-40

"Người đã yêu thương cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: "Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi Thiên Chúa tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến chân trời nọ, có bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng? Có bao giờ người ta đã nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng? Có bao giờ một dân tộc đã nghe lời Thiên Chúa từ trong lửa phán ra như các ngươi đã nghe mà còn sống chăng? Có bao giờ Chúa đã dùng sự thử thách, dấu chỉ, điềm lạ, chiến tranh, cánh tay quyền năng mạnh mẽ và những thị kiến khủng khiếp, để chọn lấy cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác, như Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã làm tất cả các điều đó trước mặt các ngươi trong đất Ai-cập chăng? Tất cả những điều đó, Người chỉ cho các ngươi xem thấy, để các ngươi biết rằng Chúa là Thiên Chúa thật, và ngoài Người, không có chúa nào khác. Từ trên trời, Người cho các ngươi nghe tiếng Người; ở dưới đất, Người cho các ngươi thấy đám lửa to lớn của Người; và từ giữa đám lửa ấy, các ngươi đã nghe lời Người, vì Người đã yêu thương cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy. Người đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập khi Người dùng quyền năng cao cả mà đi trước mặt các ngươi, để tiêu diệt trước mặt các ngươi những dân tộc lớn mạnh hơn các ngươi, và đem các ngươi vào trong xứ của họ và ban đất của họ cho các ngươi làm gia nghiệp, như các ngươi vẫn thấy hiện nay. Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng: Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính ta truyền dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh phúc, và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 76, 12-13. 14-15. 16 và 21

Ðáp: Tôi hồi tưởng lại những việc làm của Chúa (c. 12a).

Xướng: 1) Tôi hồi tưởng lại những việc làm của Chúa; tôi cũng nhớ những điều kỳ diệu thuở trước của Ngài. Tôi nghiền ngẫm về mọi việc làm của Chúa, và tôi suy tư về những đại sự của Ngài. - Ðáp.

2) Ôi Thiên Chúa, đường lối của Ngài thánh thiện; có thần minh nào vĩ đại như Thiên Chúa chúng tôi? Ngài là Thiên Chúa làm nên những điều kỳ diệu, làm sáng tỏ quyền năng ở giữa chư dân. - Ðáp.

3) Ngài đã ra tay thục mạng dân Ngài, thục mạng con cháu của Giacóp và Giuse. Nhờ tay Môi-sen và Aaron, Chúa chăn dắt dân Ngài như thể đoàn chiên. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 24-28

"Người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?

"Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật, Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Cộng = Trừ và Trừ = Cộng


Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XVIII Thường Niên, để tiếp tục tất cả sự thật về mầu nhiệm Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua, ở chỗ: Nếu Ngưòi là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", thì Người đồng thời cũng phải là một Đức Kitô Vượt Qua, tử giá và phục sinh, nhờ đó Người mới chứng thực Người quả là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", Chúa Kitô, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã thẳng thắn tuyên bố một hệ luận hay một lối sống liên quan trực tiếp đến thân phận của những ai muốn theo Người là một Đức Kitô Vượt Qua từ khổ giá đến phục sinh rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy".

 

Sau đó, Người cho các môn đệ của Người biết về lý do tại sao họ cần phải sống như thế, cần phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Người như vậy, hay đúng hơn cần phải bỏ mình và vác thập giá mới có thể theo Người, bằng không, họ không thể nào theo Người được, thậm chí như Người phán trong Phúc Âm của Thánh ký Luca: "Ai không vác thập giá mình mà theo Thày không xứng đáng làm môn đệ của Thày" (14:27). Lý do được Người nêu lên cho các môn đệ thấy đó là:

 

"Vì chưng, ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?"

Câu tuyên bố này của Chúa Kitô có thể hiểu về trường hợp của các vị tử đạo trong Giáo Hội từ trước tới nay trong lịch sử của Giáo Hội. Nguyên tắc cứu thì mất bỏ thì còn có vẻ mâu thuẫn này cũng đúng trong cả trường hợp bị rắn độc cắn nếu không chặt cánh tay hay chặt bàn chân bị nó cắn chỉ vì tiếc rẻ hay sợ đau cứ muốn giữ lấy chỗ bị cắn đó thì nạn nhân sẽ mất mạng, ngược lại thì còn mạng. 

 

Đó là lý do trong bài giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi của Phúc Âm Thánh ký Mathêu, Chúa Kitô cũng đã khuyên các môn đệ của Người rằng nếu mắt của các con hay tay của các con mà nên cớ vấp phạm cho các con thì hãy móc nó đi, hãy chặt nó đi, thà mất một mắt hay thiếu một tay mà vào Nước Trời còn hơn còn nguyên toàn thân lại bị quẳng vào hỏa ngục (xem 5:29-30).

 

"Sự sống mình" mà Chúa bảo cần phải mất đi để "được sự sốngđây là gì, nếu không phải nếu "sự sống" họ được đây là Chúa Kitô, Đấng đã tuyên bố mình là "sự sống" (Gioan 11:25,14:6), thì "sự sống mình" đây chính là bản thân con người. Đó là lý do Người đã dứt khoát với những ai muốn theo Người "phải bỏ chính bản thân mình đi - must deny his very self". 

 

Việc "phải bỏ chính bản thân mình" của những ai muốn theo Chúa Kitô này không phải là việc họ tự hủy diệt bản thân họ, mà là một tiến trình biến đổi bản thân họ, biến đổi từ bản thân vô cùng thấp hèn xấu xa tội lỗi của họ để trở nên một Chúa Kitô vô cùng cao cả là chính sự sống thần linh của họ, nghĩa là họ đánh đổi bản thân mình để lấy chính Chúa Kitô, như thể họ là người tim thấy kho tàng là Chúa Kitô trong thửa ruộng thế gian thì đã bán hết mọi sự mình có, bán chính bản thân mình đi, để mua lấy thửa ruộng có kho tàng được chôn giấu ấy vậy (xem Mathêu 13:44).

 

Chúa Kitô là "sự sống" của thành phần muốn theo Người và cho những ai từ bỏ chính bản thân mình, đến độ không một sự gì trên thế gian này có thể so sánh được: có Người là có tất cả, mất Người là mất tất cả. Đó là lý do Chúa Kitô đã khẳng định với các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?". 

 

Chưa hết, những ai dám hy sinh tất cả mọi sự chẳng là gì trên trần gian tạm gửi mau qua chóng hết hết sức tầm thường này để theo Người cho tới cùng thì sau này sẽ được phần thưởng xứng đáng bất diệt đời sau nữa, như Người hứa với họ ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tùy theo việc họ làm". 

 

Thế nhưng, để có thể "bỏ chính bản thân mình" mà theo Chúa, con người cần phải có đức tin, phải tin vào Đấng đã kêu gọi họ và chính là Đấng họ theo đuổi cho tới cùng, Đấng luôn tỏ mình ra cho họ, chẳng những bằng điềm thiêng dấu lạ trong cuộc đời họ mà nhất là bằng đau khổ thử thách để họ càng tin vào Người hơn, nhờ đó họ có thể hiệp nhất nên một với Người là "sự sống" của họ mỗi ngày một hơn.

 

Đúng thế, không có đức tin con người không thể nào bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa được. Thế nhưng, con người cũng không thể nào tin vào Thiên Chúa được nếu chính bản thân họ không được Ngài tỏ mình ra cho, để qua đó họ có thể tin vào Ngài mỗi ngày một hơn đúng như mạc khải thần linh của Ngài. Và đó là lý do những gì được nhân vật Moisen nhắc lại cho dân Chúa nghe trong Bài Đọc 1 hôm nay, từ Sách Đệ Nhị Luật, đều là để giúp cho dân Chúa nhớ lại và tái nhận thức về Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình mà tin vào Ngài hơn, qua việc tuân giữ lề luật Ngài ban như dấu hiệu trung thành với Ngài.

 

"Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi Thiên Chúa tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến chân trời nọ, có bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng? Có bao giờ người ta đã nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng? Có bao giờ một dân tộc đã nghe lời Thiên Chúa từ trong lửa phán ra như các ngươi đã nghe mà còn sống chăng? Có bao giờ Chúa đã dùng sự thử thách, dấu chỉ, điềm lạ, chiến tranh, cánh tay quyền năng mạnh mẽ và những thị kiến khủng khiếp, để chọn lấy cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác, như Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã làm tất cả các điều đó trước mặt các ngươi trong đất Ai-cập chăng? Tất cả những điều đó, Người chỉ cho các ngươi xem thấy, để các ngươi biết rằng Chúa là Thiên Chúa thật, và ngoài Người, không có chúa nào khác. Từ trên trời, Người cho các ngươi nghe tiếng Người; ở dưới đất, Người cho các ngươi thấy đám lửa to lớn của Người; và từ giữa đám lửa ấy, các ngươi đã nghe lời Người, vì Người đã yêu thương cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy. Người đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập khi Người dùng quyền năng cao cả mà đi trước mặt các ngươi, để tiêu diệt trước mặt các ngươi những dân tộc lớn mạnh hơn các ngươi, và đem các ngươi vào trong xứ của họ và ban đất của họ cho các ngươi làm gia nghiệp, như các ngươi vẫn thấy hiện nay. Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng: Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính ta truyền dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh phúc, và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi".

 

Thánh Vịnh 76 ở bài Đáp Ca hôm nay đã tỏ ra tích cực đáp ứng lời kêu gọi của ông Moisen trong Bài Đọc 1 hôm nay, với những nhận thức và tâm tình đầy tin tưởng và xác tín như sau:

1) Tôi hồi tưởng lại những việc làm của Chúa; tôi cũng nhớ những điều kỳ diệu thuở trước của Ngài. Tôi nghiền ngẫm về mọi việc làm của Chúa, và tôi suy tư về những đại sự của Ngài.

2) Ôi Thiên Chúa, đường lối của Ngài thánh thiện; có thần minh nào vĩ đại như Thiên Chúa chúng tôi? Ngài là Thiên Chúa làm nên những điều kỳ diệu, làm sáng tỏ quyền năng ở giữa chư dân.

3) Ngài đã ra tay thục mạng dân Ngài, thục mạng con cháu của Giacóp và Giuse. Nhờ tay Môi-sen và Aaron, Chúa chăn dắt dân Ngài như thể đoàn chiên.

 

 

Ngày 11 tháng 8

Cơ-la-ra, trinh nữ

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Thánh nữ sinh năm 1193 tại Át-xi-di. Năm 18 tuổi, chị xin thánh Phan-xi-cô cho được theo nếp sống khó nghèo. Thánh Phan-xi-cô đã cho chị ở trong một căn nhà tồi tàn, gần nhà thờ thánh Đa-mi-a-nô ở cửa ngõ thành Át-xi-di. Em của thánh nữ tên là A-nê và một số thiếu nữ khác gia nhập nếp sống của chị : sống thanh bần triệt để. Đó là những nữ tu Phan-xi-cô tiên khởi. Chị qua đời năm 1253.

(1194-1253)

Ngày 11/08: Thánh Clara, đồng trinh

1. Đôi dòng tiểu sử.

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Clara đồng trinh.

Cũng như thánh Phanxicô Khó Khăn, thánh nữ Clara là một ngọn đèn thật sáng Chúa đã dùng để làm cho nhân loại hiểu rõ hơn về tinh thần khó nghèo tuyệt đối của Phúc Âm là tinh thần như thế nào.

Clara sinh ngày 16/7/1194 tại Assise miền Ombrie nước Ý, trong một gia đình quý phái. Clara được một người mẹ đạo đức đã lưu tâm dạy dỗ cho ngay từ thuở còn thơ ấu, bằng cả lời nói cũng như bằng gương sáng của mình. Bà đã giáo dục, tập cho Clara biết cầu nguyện, biết sống từ bỏ và biết chịu đựng nhẫn nhục thật sớm.

Lên 16 tuổi, Clara đã tránh xa tiếng ồn ào của đô thị đến ẩn mình trong một nhà thờ ở miền quê (1212). Chính nơi đây Clara đã gặp thánh Phanxicô Khó Khăn và được Ngài tận tình giúp đỡ trên con đường tu đức. Khi Clara chọn con đường dâng hiến cho Chúa, gia đình đã ngăn cản quyết liệt. Clara đã can đảm vượt qua. Cuối cùng Clara đã được đưa đến đền thờ thánh Ðamianô và ở đây Clara đã lập Hội Các Chị Tận Hiến cho Thiên Chúa.

Về đời sống thiêng liêng, ngài trực tiếp theo sự hướng dẫn của thánh Phanxicô Khó Khăn. Ngài điều khiển tu hội cách ân cần và khôn ngoan. Ngài qua đời ngày 11/8/1253 trước sự thương tiếc của mọi người.

Ðức Giáo Hoàng Alexandre IV đã đặt ngài lên hàng các thánh đồng trinh năm 1255.

2. Con đường nên thánh.

Nhìn lại cuộc đời của thánh nữ Clara, chúng ta thấy ngài đã có một ý chí thật cao và mạnh mẽ trên con đường dấn thân đi theo Chúa. Truyền thuyết kể lại ngài đã thầm khấn dâng mình cho Chúa ngay từ lúc 16 tuổi, ngay lúc còn ở nhà để giúp đỡ cha mẹ. Ngài đã kiên nhẫn chờ đợi ngày Đấng Quan phòng ấn định. Và ngày tốt đẹp ấy đã đến. Clara đã hết sức vui mừng khi được biết về cuộc đời kỳ diệu của Phanxicô, con trai của một đại thương gia giàu có người thành Assisi. Clara đã hết lòng cảm phục trước việc Phanxicô dứt khoát từ bỏ mọi sự giàu sang và can đảm thoát ly mọi áp lực trần thế kể cả việc phải từ bỏ cả nhà cha mẹ, để lên đường hiến thân phục vụ Vua Trời trong đời sống khó nghèo.

Nghe biết về con đường của thánh Phanxicô, Clara đã kín đáo tìm đến gặp và nói cho ngài biết tất cả chí hướng về đời sống nội tâm của mình. Riêng Phanxicô, vì được ơn Chúa soi sáng, nên thánh nhân đã mau nhận ra con đường Chúa muốn người con thiêng liêng của mình phải đi là con đường nào. Vì thế, Phanxicô đã âm thầm giúp Clara chuẩn bị ngày công khai đoạn tuyệt thế gian, để xe duyên với “đức khó nghèo”. Ngày ấy là ngày Chúa nhật Lễ Lá năm 1212.

Theo lời chỉ dẫn của thánh Phanxicô, sáng hôm ấy Clara ăn mặc thật diễm lệ, xứng đáng con nhà quý phái. Clara tiến lên, quỳ hàng ghế đầu, như để từ giã mọi người lần cuối cùng. Trước cử chỉ lạ thường của Clara, mọi người quen thuộc đều bỡ ngỡ! Và người ta càng bỡ ngỡ hơn nữa khi thấy Clara không đi kiệu lá, cứ quỳ tại chỗ chăm chú nhìn lên bàn thờ, tay nắm chặt cành lá xanh tươi, tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ đang dâng lên trong tâm hồn… Thế rồi đêm hôm ấy, Clara bỏ nhà cha mẹ, tay cầm cành lá chạy thẳng đến nhà nguyện Nữ Vương các thiên thần, nơi Phanxicô đang quỳ chờ đợi. Trong nhà thờ nhỏ bé dâng kính “Bà Chúa nghèo” này, thánh Phanxicô đã giúp người con thiêng liêng của mình hiến tóc và dâng lòng cho Thiên Chúa. Sau khi dâng hiến cho Chúa mớ tóc huyền, Clara đổi bộ áo diễm lệ ban sáng, mặc lấy chiếc áo thô của đức khó nghèo.

Và dòng nhì thánh Phanxicô hay là dòng Các chị em nghèo được thiết lập từ đó.

Sáng hôm sau, Phanxicô dẫn Clara đến gửi tại một nữ tu viện gần làng Baxia. Nhưng vì không chịu được sự phản đối quá gay gắt của gia đình, Clara lại xin thánh Phanxicô đến lẩn tránh ở một tu viện khác. Tại đây, thánh nữ đã khuất phục được một người em gái tên là Annê. Annê mới 15 tuổi, nhưng dáng người đẹp đẽ và tinh thần sắc sảo không kém gì Clara. Sau Clara, Annê là người thứ hai được Phanxicô cắt tóc và dâng lên Thiên Chúa lời khấn vâng lời, trinh khiết và khó nghèo. Người ta kể, khi gia đình Annê đến, nhất quyết lôi nàng về. Thì lạ thay, con người nhỏ bé của nàng bỗng trở nên rắn cứng và nặng trĩu, đến nỗi bốn năm người kéo không nổi. Biết đó là việc lạ Thiên Chúa làm, mọi người đành yên lặng ra về…

Khi công việc đã êm xuôi, thánh Phanxicô đến lĩnh ý Đức Giám mục xây cho chị em một ngôi nhà nhỏ lấy tên là tu viện thánh Đamianô. Đây là tu viện đầu tiên của dòng các chị nghèo. Tuy nhỏ bé, nhưng số chị em lên rất đông. Đầu tiên chị em sống theo qui luật của chính thánh Phanxicô soạn, nhưng đến năm 1215 công đồng Latêranô sửa đổi lại, tham chiếu theo luật dòng thánh Biển Đức. Bốn năm sau, Đức Hồng Y Ugolinô lại duyệt lại và bỏ bớt những điều luật quá nghiêm ngặt về đời sống khổ nghèo của chị em. Riêng thánh nữ Clara, người được đặc ân của Đức Giáo Hoàng, cho tự do sống khó nghèo vượt hẳn qui luật dòng.

Các nữ tu đều đi chân không, ngủ trên nền đất, không ăn thịt và hầu như giữ im lặng hoàn toàn. (Về sau thánh Clara, cũng như thánh Phanxicô, thuyết phục chị em điều chỉnh điều khắt khe này: “Cơ thể chúng ta không được làm bằng đồng”). Dĩ nhiên, điều nhấn mạnh nhất là sự nghèo khó Phúc âm. Họ không sở hữu tài sản, ngay cả giữ chung, chỉ sống nhờ vào những của bố thí hằng ngày.

Bà chăm sóc các bệnh nhân, hầu bàn, rửa chân cho các chị em khi họ đi hành khất về. Ảnh hưởng của bà mạnh đến nỗi các giáo hoàng, hồng y và giám mục thường đến tham vấn bà. Bà rất sùng kính Thánh Thể. Bà luôn nói với các chị em: “Đừng sợ. Hãy tín thác vào Chúa Giêsu”.

Ngày 11-8 năm 1253, thánh nữ gọi các chị em lại để nhắn nhủ mấy lời cuối cùng: “Chị em thân mến! Tôi Clara, nữ tỳ hèn mọn của Chúa Kitô, là thân cây non Thiên Chúa đã ban cho cha thánh Phanxicô, đem trồng trong vườn tu viện như một tiểu muội, một hiền mẫu của chị em. Dù không xứng đáng, tôi cũng nhân danh Thiên Chúa chúc lành cho chị em tất cả”. Sau cùng thánh nữ kêu to tiếng: “Nào chị em không thấy Vua vinh hiển đang đến với tôi kia ư?”. Nói đoạn, ngài nhắm mắt lại, êm ái ra đi như người ngủ! Nhiều chị em dòng làm chứng đã thấy Đức Mẹ và nhiều thánh nữ khác hiện đến đón linh hồn thánh Clara về trời!

Thánh nữ được Đức Giáo Hoàng Alexanđrô IV phong lên bậc hiển thánh. Và sau, Đức Clêmentê X định lễ kính thánh Clara vào ngày 12 tháng 8 hằng năm, ngày thánh nữ được Chúa gọi về trời lãnh triều thiên vĩnh cửu, sáng rực những hạt ngọc trinh khiết và khó nghèo!

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

(nguồn: website TGP Sài Gòn)

Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách

Hãy ngắm nhìn gương nghèo khó,
khiêm nhường và bác ái của Đức Ki-tô

Trích thư của thánh Cơ-la-ra, trinh nữ, gửi chân phước A-nê Pơ-ra-ga.

Hạnh phúc thay người được tham dự bàn tiệc thánh để được hết lòng kết hợp với Đức Ki-tô. Toàn thể đạo binh thiên quốc không ngừng thán phục vẻ đẹp của Người. Yêu mến Người thì sẽ say mê, chiêm ngưỡng thì được thêm sức mạnh. Lòng nhân hậu của Người làm ta no thoả, sự dịu dàng của Người làm ta ngây ngất. Nhớ đến Người tựa như được ánh sáng êm dịu chiếu soi. Hương thơm của Người làm kẻ chết hồi sinh. Nhìn vinh quang Người, mọi công dân thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc được hạnh phúc. Vì Người là phản ánh vinh quang ngàn đời, là vẻ rực rỡ của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương không chút tỳ ố. Thưa hoàng hậu, hiền thê của Đức Giê-su Ki-tô, xin bà hãy soi mình hằng ngày vào tấm gương ấy và cũng hãy nhìn kỹ khuôn mặt của bà trong đó ; nhờ vậy bà trang điểm cả bề trong lẫn bên ngoài bằng trang phục huy hoàng lộng lẫy, bằng vòng hoa và xiêm y nhân đức, xứng đáng là nữ tử và hiền thê rất thanh khiết của Đức Vua cao cả. Nhưng trong tấm gương ấy còn phản ánh đức khó nghèo diễm phúc, đức khiêm nhường thánh thiện và đức bác ái tuyệt vời. Nhờ ơn Thiên Chúa, qua tấm gương trọn vẹn này, bà có thể chiêm ngắm tất cả.

Vậy, xin bà hãy ngắm nhìn từ đầu tấm gương ấy : đó là sự nghèo khó của Chúa, Đấng được bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ. Ôi sự khiêm nhường đáng khâm phục ! Ôi sự nghèo khó gây ngỡ ngàng ! Vua các thiên thần, Chúa Tể trời đất lại nằm trong máng cỏ.

Rồi ở giữa tấm gương, bà hãy chiêm ngắm sự khiêm nhường, ít ra là sự nghèo khó. Hãy ngắm nhìn bao nỗi cực nhọc vất vả Người đã chịu để cứu chuộc loài người.

Còn ở cuối tấm gương, bà hãy chiêm ngưỡng tình yêu khôn tả khiến Người chịu đóng đinh trên cây thập giá, và chịu chết cách tủi nhục nhất.

Chính Chúa là tấm gương đó. Từ trên thập giá, Người mời gọi khách qua đường hãy ngắm nhìn, theo như lời nhắn nhủ : Này tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem : có nỗi khổ nào so sánh được với nỗi khổ tôi phải chịu. Chúng ta hãy hợp một tiếng, chung một lòng đáp lại lời Chúa, Đấng đang kêu than : Nỗi niềm riêng canh cánh bên lòng, khiến hồn con tiêu hao mòn mỏi. Vậy, thưa hoàng hậu của Đức Vua trên trời, xin bà hãy đốt lên ngọn lửa yêu mến mỗi ngày một nồng nàn hơn.

Nhưng xin bà cũng hãy chiêm ngắm những niềm hoan lạc, những giàu sang khôn tả và những vinh dự vĩnh cửu của Người, và vì lòng yêu mến, khát khao mãnh liệt, xin bà hãy mượn lời sách Diễm ca mà kêu lên : “Lạy Đức phu quân trên trời, xin hãy kéo em theo anh, đôi ta cùng sánh bước, theo mùi hương anh thơm ngát. Em sẽ chạy mãi không biết mệt cho đến khi anh đưa em vào phòng tiệc, cho đến khi anh đưa tay trái cho em gối đầu, đưa tay phải âu yếm ghì chặt lấy em, rồi hôn em nồng nàn.”

Khi chiêm niệm điều ấy, xin bà hãy nhớ đến người mẹ bé nhỏ nghèo hèn của bà, nên biết rằng tôi ghi nhớ hình ảnh bà trong trái tim tôi, không bao giờ phai nhạt, vì tôi quý mến bà hơn hết mọi người.

 

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Chúa đã dìu dắt thánh Cơ-la-ra và soi sáng cho thánh nữ biết yêu chuộng đời sống khó nghèo. Xin nhậm lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng con được cùng người sống tinh thần nghèo khó, mà theo chân Đức Ki-tô để được vào quê trời chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa. Chúng con cầu xin

 

 

 

Một số hình ảnh tiêu biểu về Đền Thờ Thánh Clara ở Assissi Ý quốc trong chuyê ếHành Hương Đức Tin Chứng Tích Phục Sinh 2021 của Nhóm TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương)

 

 

Sau cái chết của vị thánh nữ Clara, bên ngoài của ngôi thánh đường cổ kính Thánh George, nơi lưu giữ thân thể của Thánh Phanxicô Assisi cho đến năm 1230,

đã được tái thiết theo kiểu Gothic và mang tên Nhà Thờ Thánh Clara.  

Thánh Clara xuất thân từ một gia đình trưởng giả, nhưng chị đã cương quyết không chịu kết hôn như cha mẹ mong muốn và

sắp xếp để hiến thân cho đời sống chiêm niệm theo gương Thánh Phanxicô Assisi, một thần tượng cùng sinh quán với chị, nhưng hơn chị khoảng 12 tuổi.

Do đó, vào năm 18 tuổi chị đã trốn gia đình để theo gương Thánh Phanxicô như thành phần môn đệ đầu tiên của thánh nhân bấy giờ ở Porziuncola.

Thánh Phanxicô đã cắt mái tóc của chị như dấu hiệu của lòng thống hối và khổ hạnh. 

 

 

Phái đoàn hành hương TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương), trong chuyến Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh (8-19/11/2021) giữa đại dịch covid-19 toàn cầu,

đang chờ đợi một cách thảnh thơi và mau chóng, bởi không phải xếp hàng vừa dài lại vừa lâu như trong mùa hè hay trong thời gian không bị đại dịch,

tới phiên được vào Nhà Thờ trưa ngày 14/11/2021 để viếng xác còn nguyên của Thánh nữ Clara và Cây Thánh Giá của Thánh Phanxicô, cả hai đều ở tầng hầm nhà thờ.

 

 

Đền thờ kính Thánh Clara chỉ có một gian giữa với một chỏm cao vút chính giữa đầy những trang hoàng, trong khi đó lại không có các bức tranh vẽ trên tường như ở đa số các nhà thờ nổi tiếng khác.

Ở đây, trong nguyện đường Chúa Chịu Nạn, còn có cây Thánh Giá nguyên thủy ở nhà thờ Thánh Damiano, cây Thánh Giá đã vang tiếng gọi Thánh Phanxicô "hãy xây nhà lại cho Ta",

mà bấy giờ thánh nhân lại cứ tưởng là đi xây lại các nhà thờ cũ kỹ ở Assisi, mà chính là canh tân lại Nhà Giáo Hội của Chúa đang trở nên bệ rạc, nhất là nơi thành phần giáo sĩ bấy giờ.  

 

 

Chị đã bị gia đình đến áp lực bắt về, nhưng vẫn hoàn toàn bất lực trước con người kiên quyết đến độ không ai có thể lay chuyển được thân xác của chị bấy giờ.


Sau khi được nhập tu như thành phần môn đệ của Thánh Phanxicô, chị được đến ngụ ở nhà thờ Thánh Damiano, nơi từ từ có thêm cả mẹ của chị và người em gái của chị, trong số khoảng 50 người nữ.

Để rồi sau này thánh nữ đã lập dòng nữ theo lý tưởng của Thánh Phanxicô, gọi là Dòng Thánh Clara Nghèo (Poor Clares), chuyên sống nghèo và cầu nguyện.

Vị thánh nữ này chịu một chứng bệnh kinh niên, nhưng, theo truyền thuyết, vào năm 1240, bất chấp bệnh nạn trầm trọng, thánh nữ cũng đã cố gắng cứu tu viện của mình cho khỏi cuộc tấn công của đám dân du mục Ả Rập,

bằng cách cầm lấy mặt nhật có Mình Thánh Chúa xoay qua xoay lại, như vị linh mục ban phép lành Thánh Thể, ở một cửa sổ của tu viện.

Chị qua đời năm 1253, hưởng thọ 60 tuổi và được phong hiển thánh 2 năm sau.  




Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Ðnl 6, 4-13

"Hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng ngươi".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Môsê nói với dân chúng rằng: "Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng. Hãy kể lại những lời ấy cho con cái ngươi, hãy suy ngắm những lời ấy khi ngồi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi chỗi dậy. Ngươi hãy buộc những lời đó vào bàn tay như dấu hiệu, lên trán như một vòng khăn, hãy viết lên cột và cửa nhà ngươi.

"Khi Chúa là Thiên Chúa ngươi dẫn ngươi đến xứ Người đã thề với các tổ phụ ngươi là Abraham, Isaac và Giacóp, và ban cho ngươi những thành phố to lớn và phồn thịnh mà ngươi không xây cất, những ngôi nhà đầy mọi của cải mà ngươi không làm ra, những giếng nước mà ngươi không đào, vườn nho và vườn cây ôliu mà ngươi không trồng, ngươi sẽ được no nê: ngươi hãy nhớ, đừng quên Chúa, Ðấng đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi nhà nô lệ. Ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa ngươi, hãy làm tôi một mình Người và lấy danh Người mà thề".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 47 và 51ab

Ðáp: Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).

Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng, chiến lũy, và cứu tinh. - Ðáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.

3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 17, 14-19

"Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: "Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được". Chúa Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta". Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy. Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: "Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Hôm nay, bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XVIII Thường Niên không phải là bài tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, cuối đoạn 16 theo Phúc Âm Thánh Mathêu, mà là bài Phúc Âm sang đoạn 17, từ câu 14 đến 21, thay vì từ câu 1 đến câu 13. Bởi vì bài Phúc Âm từ câu 1 đến 13 mở đầu đoạn 17 là bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, một biến cố đã được Giáo Hội cử hành hôm Thứ Năm vừa rồi (là ngày 6/8 trong tháng như năm 2015), hay trong Chúa Nhật đầu tuần Tuần XVIII Thường Niên như năm 2023.

 

Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho ngày cuối tuần XVIII Thường Niên hôm nay tường thuật về sự việc Chúa Giêsu trừ quỉ cho đứa con trai của một người đến xin Người, vì môn đệ của Người đã không thể trừ được quỉ cho con của ông ta:

 

"Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: 'Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được'". 

Chính các môn đệ cũng thắc mắc là tại sao các vị không trừ được quỉ, và đã được Chúa Giêsu trả lời cho các vị biết rằng: "Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: 'Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Vì các con yếu lòng tin!'"

 

Đó là lý do sau khi nghe ông bố của đứa con trai bị quỉ ám cho biết các môn đệ của Người không trừ được quỉ ra khỏi con ông ta, Chúa Giêsu đã không than trách chung dân chúng và riêng ông bố đang xin Người trừ quỉ cho con ông ta, cho bằng chính các môn đệ của Người, thành phần đã được Người ban cho quyền trừ quỉ từ khi Người sai các vị đi truyền giáo trước kia (xem Mathêu 10:1), mà quyền trừ quỉ nơi các vị vẫn không có công hiệu gì nơi các vị trong trường hợp này, chỉ vì các vị yếu lòng tin: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa?"

 

Như thế, căn cứ vào trường hợp trừ quỉ được bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại hôm nay thì không phải có quyền trừ quỉ mà trừ được quỉ đâu, nếu chính tác nhân trừ quỉ yếu đức tin. Đúng thế, nếu "ai được sinh bởi Thiên Chúa là kẻ chiến thắng thế gian và quyền năng chiến thắng thế gian là đức tin của chúng ta" (1Gioan 5:4) thì ai không có đức tin hay yếu đức tin không thể nào chiến thắng thế gian vốn thuộc quyền cai trị của ma quỉ sau nguyên tội. 

 

Nếu "Con Thiên Chúa tỏ mình ra là để hủy hoại các việc làm của ma quỉ" (1Gioan 3:8) thì quả thực "Người chiến thắng thế gian là ai? Chính là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa"(1Gioan 5:5). Đó là lý do, như bài Phúc Âm hôm Thứ Năm tuần này cho thấy, ngay sau khi vừa tuyên xưng thật chính xác "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), tông đồ Phêrô đã bị Thày thậm tệ nguyền rủa là "đồ Satan" (Mathêu 16:23), vì ngài phán đoán theo thế gian hơn là theo Thiên Chúa, mà theo thế gian là theo ma quỉ, vậy thì trừ quỉ làm sao được là đúng lắm vậy!?!

 

Trái lại, nếu các tông đồ có đức tin mạnh mẽ thì các vị chẳng những trừ được quỉ mà còn làm gì cũng được nữa, kiểu "muốn gì được nấy", (giống trường hợp của người đàn bà Canaan trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần này), như lời Chúa Giêsu khẳng định kết bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".

 

"Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải" đây nghĩa là gì nếu không phải trong dụ ngôn về Nước Trời giống như hạt cải (xem Mathêu 13:31-32) mà hạt cải nhỏ bé nhất trở thành cây lớn nhất ám chỉ Chúa Kitô nhập thể tử giá (hạt nhỏ nhất) và phục sinh thăng thiên (cây lớn nhất), thì "lòng tin" của các môn đệ cần phải "lớn bằng hạt cải" đây có nghĩa là "lòng tincủa các vị cần phải đạt tới tầm vóc Chúa Kitô, nghĩa là "lòng tincủa các vị cần phải làm sao hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Kitô, đến độ Chúa Kitô sống trong họ, biến họ trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Người, tác nhân để Người tỏ mình ra và làm mọi sự trong họ, nhờ họ và qua họ. 

 

Nếu "đức tin tỏ hiện qua đức mến" (Galata 5:6) thì tình trạng của các tâm hồn tin vào Chúa Kitô cũng được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô trong tình yêu là thế, như trên vừa cảm nhận.

 

Đối với dân Do Thái thì đức tin của họ đưọc tỏ hiện bằng việc họ kính mến Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, được thể hiện cụ thể qua lòng tri ân của họ ở chỗ luôn nhớ đến những gì Ngài làm cho họ chỉ vì thương yêu tuyển chọn họ. Và đó là lý do Moisen, trong Sách Nhị Luật ở Bài Đọc 1 hôm nay, đã căn dặn và huấn dụ thành phần dân được ông theo lệnh Chúa dẫn họ ra khỏi Ai Cập như sau:

 

"Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng. Hãy kể lại những lời ấy cho con cái ngươi, hãy suy ngắm những lời ấy khi ngồi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi chỗi dậy. Ngươi hãy buộc những lời đó vào bàn tay như dấu hiệu, lên trán như một vòng khăn, hãy viết lên cột và cửa nhà ngươi."Khi Chúa là Thiên Chúa ngươi dẫn ngươi đến xứ Người đã thề với các tổ phụ ngươi là Abraham, Isaac và Giacóp, và ban cho ngươi những thành phố to lớn và phồn thịnh mà ngươi không xây cất, những ngôi nhà đầy mọi của cải mà ngươi không làm ra, những giếng nước mà ngươi không đào, vườn nho và vườn cây ôliu mà ngươi không trồng, ngươi sẽ được no nê: ngươi hãy nhớ, đừng quên Chúa, Ðấng đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi nhà nô lệ. Ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa ngươi, hãy làm tôi một mình Người và lấy danh Người mà thề".

 

Và đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay, bài Đáp Ca trích từ Thánh Vịnh 17, đã chất chứa những tâm tình tin tưởng và kính mến Thiên Chúa như sau:

1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng, chiến lũy, và cứu tinh.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù.

3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài.

 

 

 

Ngày 12/08: Thánh Gioanna Phanxica Chantal, nữ tu (1572-1641)

Ngày tháng 12 tháng 8

              THÁNH GIOANNA PHANXICA CHANTAL
 NỮ TU (1572 - 1641)

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

Gioanna Phanxica frémiot de Chantal chào đời tại miền Dijon nước Pháp vào ngày 23/01/1572, Tuổi thơ của thánh nhân được đánh dấu bằng một biến cố hết sức đau thương:mẹ Gioanna Phanxica qua đời lúc thánh nhân chưa tròn hai tuổi. Nỗi đau thương ấy không gì có thể khỏa lấp được đối vì Người lại phải sống cảnh gà trống nuôi con. Nhưng với tình thương, lòng cương nghị, quả cảm của người Cha, Gioanna Phanxica đã được hấp thụ ảnh hưởng của người cha trên cuộc đời của mình rất nhiều. Chính người Cha của thánh nữ đã hun đúc, uốn nắn người nên một nữ thánh kiên trì, quả cảm, dũng mãnh, giàu nghị lực.

Lúc lớn lên, như mọi thiếu nữ khác, thánh nhân đã kết hôn với bá tước Chantal. Cuộc hôn nhân của Người với bá tước Chantal mang lại hạnh phúc lớn lao. Hai ông bà đã sinh hạ được bốn người con. Ðời gia sống đình hạnh phúc của hai ông bà tưởng sẽ kéo dài đến vô hạn. Nhưng chẳng có hạnh phúc nào mà không vương vấn đau khổ. Thánh giá của Chúa đã ập xuống trên gia đình Gioanna Phanxica và bốn người con khi bá tước Chantal bị tử nạn trong một chuyến đi săn bắn vào năm 1600. Với ý chí sẵn có, lòng quả cảm trào dâng, thánh nhân dù đau khổ tột bực, nhưng Người vẫn luôn cảm nghiệm thấy tình thương của Chúa cũng như ý thức giá trị thánh giá Chúa gửi tới cho mình và cho con cái mình. Thánh nữ Gioanna quyết tâm nuôi lý tưởng ở vậy nuôi con và luôn hướng tâm hồn thuộc trọn về Chúa. Con đường của Chúa luôn huyền nhiệm. Thánh nữ đã được Ðức Giám Mục địa phận Genève hướng dẫn, nhờ vậy, Người tiến bộ rất mau trên đường nhân đức, thuộc trọn về Chúa. Năm 1610 với sự đồng ý của con cái, gia đình, thánh nữ đã từ giã mọi người thân yêu để gia nhập dòng Thăm Viếng. Với tư cách là thành viên của Hội dòng, Thánh nữ đã góp công rất nhiều trong việc cải tổ, củng cố tu viện, tổ chức các nhà tập, và lập các chi nhánh nhà mới tại nhiều nơi. Ngài đã cống hiến tài năng sức lực vào việc xây dựng, tổ chức lại nhà dòng và đã thành công.

Thiên Chúa đã yêu thương Người, kêu gọi Người về với Chúa vào ngày 13/12/1641 tại Moulins. Người được an táng tại Annecy trong nguyện đường của tu viện. Vì những công đức Người cống hiến cho nhà dòng, những phép lạ và những nhân đức anh hùng Chúa ban cho Người khi Người còn sống cũng như khi Người qua đời, Chúa đã thưởng công cho Người. Ðức Giáo hoàng Clêmentê XIII đã phong thánh cho Ngài vào năm 1767.

II. BÀI HỌC

Khi đọc lại gương các thánh, mỗi người chúng ta không khỏi suy nghĩ về cuộc đời của các Ngài và rồi nhìn lại đời mình để thấy những gì còn thiếu , những gì mình cần cố gắng, phấn đấu để cũng nên thánh như các thánh. Thánh Augustinô đã nói một câu rất chí lý:” Ông kia bà nọ nên thánh được, tại sao lại không ?”.

Chúng ta tự hỏi: Thánh GIOANNA Phanxica Chantal đã để lại cho chúng ta bài học gì ?

Nếu chỉ nhìn theo cái nhìn sử học, chúng ta thấy Ngài chẳng khác gì những người khác: Được sinh ra làm người, sống cuộc đời làm người qua những chặng đường của cuộc sống và kết thúc cuộc sống làm người với cái chết để trở về với bụi tro.

Cuộc sống làm người ai mà chẳng trải qua khuôn mẫu đó. Thế nhưng giữa cái bắt đầu và kết thúc làm sao để sống cuộc đời của mình một cách ý nghĩa. Đó mới là điều quan trọng.

Thánh GIOANNA Phanxica Chantal đã biết làm cho cuộc đời của mình có ý nghĩa bằng cách sống cuộc đời trong sạch, xa rời cuộc sống xa hoa của giai cấp giàu có, hết lòng với bổn phận và yêu thương mọi người nhất là đối với nhưng người nghèo khổ.

Ngài đã từng tuyên bố: - “Nếu không yêu thương người nghèo, tôi thấy mình như không yêu mến Thiên Chúa”.

Khi xảy ra nội chiến, cảnh khốn cùng lan rộng khắp làng quê. Vị nữ bá tước đón tiếp các người bị bỏ rơi, bệnh tật và các trẻ sơ sinh. Đoàn người thiếu ăn trong vòng bảy dặm tuôn đến. Ngài tự tay múc cháo phục vụ mọi người. Thấy người đã được trợ cấp trở lại, ngài không từ chối giúp đỡ họ và thưa với Chúa:

- Con đến gõ cửa van xin lòng thương xót của Chúa, nào là con có muốn đến lần thứ hai thứ ba mà bị xua đuổi đâu?

GIOANNA tự lo cho mình, phục vụ người nghèo, lau rửa những người khốn khổ đầy chấy rận. Mặc đồ sạch sẽ cho họ rồi nấu giặt và may vá áo quần cho họ.

Tới lúc Chúa muốn, GIOANNA đã anh dũng từ giã gia đình, dẫn người con gái không lập gia đình là Fracoise để giúp mẹ trong việc giáo dục. Người con trai ở lại với ông nội đã chống lại việc ngài ra đi và nằm ngang cửa để ngăn cản. GIOANNA lau nước mắt bước qua mình con mình. Ngài biết rằng: con mình sẽ không bị bỏ rơi, vì ngài đã trao phó cho người cậu là Tổng Giám mục Bourges. Và mỗi khi cần đến, ngài sẽ đi thăm để lo cho lợi ích của các con.

Tháng 6 năm 1610, thánh nữ đã thiết lập tu viện đầu tiên ở Annecy và khẩn nguyện luôn thực hiện điều gì xem ra hoàn hảo nhất. Danh tiếng của các nữ tu dòng Thăm Viếng tận tâm phục vụ người nghèo, bệnh nhân và giáo dục các thiếu nữ lan rộng mau chóng. Suốt 30 năm, mẹ de Chantal đã thiết lập nhiều tu viện, hiến mình làm mọi việc. Vào cuối đời, ngài kể lại:

- “Tôi như những nữ tá thô kệch thời thu hoạch.

Nơi nào thánh nữ đi qua, ngài đều để lại sự êm dịu, sự phấn khởi và niềm tin tưởng. Người ta thấy ngài chống lại sự nhọc mệt bằng niềm vui và can đảm. Linh động trong mọi công việc, ngài nấu ăn và coi bò, giờ giải trí, ngài vui vẻ với các nữ tu... khiến họ nói: “Khi Mẹ chúng ta không giải trí được là thiếu một phần vui tươi êm ái”. Bệnh tật không ngăn cản ngài săn sóc và nghĩ tới mọi sự. Với một trí khôn nhanh nhẹn và chính xác, một lúc, ngài đọc cho 3 nữ tu.

Mười chín năm trước khi qua đời, GIOANNA de Chantal mất người bạn, người cha, người nâng đỡ tinh thần là thánh Phanxicô Salesio. Sự đau đớn của ngài thực sự lớn lao. Rồi đến cái chết của người con trai để lại một cháu gái sẽ là nữ nam tước de Sévigné. Các tang lễ liên tiếp ập đến với các người thân. Nhưng thử thách lớn lao nhất của thánh nữ là những chán nản nội tâm, những cám dỗ kinh khủng nghịch lại đức tin. Ngài không hề để lộ ra những đau đớn của mình và lấy sự bình thản để phủ lấp những lo âu. Mẹ de Claugy đã nói về những khô khan liên tục của ngài:

- Chỉ trong cõi đời đời, người ta mới biết hết được.

Khi ngài qua đời, cha giải tội nói:

- Suốt 23 năm, tôi đã thán phục nơi thánh nữ một lương tâm tinh ròng trong suốt và rõ rệt hơn cả pha lê.

Đó là cuộc đời của một vị thánh. Xin mẹ thánh GIOANNA de Chantal cầu nguyện cho chúng ta. Amen.

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-12-08-thanh-gioanna-phanxica-chantalnu-tu-1572-1641-39036

 

LỜI KHUYÊN CỦA THÁNH GIOANNA PHANXICA CHANTAL DÀNH CHO CÁC BẬC CHA MẸ

Theresa Civantos Barber 

WGPVL (12.8.2022) Người mẹ thánh thiện của bốn người con viết rằng: “Hãy can đảm lên, hỡi con gái yêu dấu...”

Thường thì những lời của các thánh dường như vượt cả thời gian và không gian để nói trực tiếp với tâm hồn của chúng ta. Đó là cảm giác của tôi khi đọc một bức thư mà Thánh Gioanna Phanxica Chantal đã viết cho người con gái của mình.

Thánh Gioanna đã ngoài 50 tuổi và là bề trên của một dòng tu khi viết thư này. Nhưng thánh nữ vẫn chưa quên được cảm giác làm mẹ của những đứa con nhỏ là như thế nào.

Trong bức thư này, Thánh Gioanna đã nói thẳng về tình trạng của con gái mình trong cuộc sống, và thông qua người con gái này là nói với tất cả các bậc cha mẹ đang phải lo toan về con cái mình. (Bạn có thể tìm thấy toàn bộ nội dung của lá thư miễn phí trên mạng: Đó là Thư 60, Gửi Nữ bá tước de Toulonjon.)

1. Hãy vững tâm về sự an toàn và tương lai của con cái bạn

Thánh Gioanna bắt đầu bằng cách giải quyết những lo lắng của người con gái về tương lai của con cái cô:

Con đã quá gắn bó với những điều thuộc về đời này và mang chúng vào lòng quá nhiều. Con phải sợ điều gì đây? Có phải việc có quá nhiều con cái tước đi của con những phương tiện để nuôi nấng và giáo dục chúng nên người  phù hợp với hoài bão của con chăng? Mẹ xin con đừng lo sợ như vậy, vì con đã sai lầm về sự quan phòng của Người, Đấng đã ban chúng cho con, và Đấng có đủ tốt lành và giàu sang để nuôi dưỡng và chăm lo cho chúng, vì điều này đem lại vinh quang cho Người  ơn cứu độ cho chúng. Đó là tất cả những gì chúng ta nên mong ước cho con cái mình...

Khi chúng ta cảm thấy lo lắng cho con cái và tương lai của chúng, thay vào đó Thánh Gioanna nhắc nhở chúng ta hãy hướng lòng tin cậy vào nơi Thiên Chúa. Người yêu thương con cái của chúng ta hơn chính chúng ta và sẽ chăm sóc cho chúng.

2. Hãy toàn tâm toàn lực nuôi dạy con cái thật tốt

Thánh Gioanna nói, thay vì lo lắng không cần thiết về tương lai, hãy đặt tất cả những suy nghĩ đó để trở thành bậc cha mẹ tốt nhất mà bạn có thể trở thành. Hãy dành sức lực của bạn cho con cái của bạn ngay bây giờ thay vì lo lắng về những điều có thể hoặc không thể xảy ra trên đường đời.

Giờ đây, con gái yêu dấu của mẹ, hãy âu yếm nhìn vào tất cả những tạo vật nhỏ bé này, vì chúng đã được trao phó cho con từ Thiên Chúa, Đấng đã ban chúng cho con; hãy chăm sóc chúng, thương yêu chúng cách dịu dàng, và nuôi dạy chúng không phải theo những gì hư ảo, nhưng trung thành với lòng kính sợ Thiên Chúa. Khi làm như vậy và tin tưởng giao phó tất cả những lo lắng của con cho sự quan phòng của Thiên Chúa, thì con sẽ thấy tất cả sẽ được lo liệu cách êm đềm và cẩn thận ra sao, để rồi từ đó con sẽ có lý do chính đáng để cầu xin và hoàn toàn tin cậy vào điều đó.

3. Hãy cùng cộng tác với người bạn đời để xây dựng một gia đình hạnh phúc

Cuối cùng, Thánh Gioanna khuyến khích người con gái của mình sử dụng thời gian và sức lực để cùng với chồng trông nom thật tốt cho gia đình. Thật vậy, thời gian của chúng ta tốt hơn là dành để siêng năng làm những gì chúng ta phải làm hôm nay hơn là lo lắng về tương lai.

Này con gái yêu dấu, hãy nghe lời khuyên của mẹ và đặt mình vào chốn tựa nương an toàn này : hãy phụng sự Thiên Chúa, gạt bỏ sự phù phiếm sang một bên, sống trong sự hòa thuận hoàn toàn với [chồng của con] người  Thiên Chúa đã ban tặng cho con, hãy quan tâm đến việc cai quản thật tốt gia đình của con, hãy tích cực và chuyên cần dấn thân vào công việc đó, và bắt đầu từ lúc này trở đi hãy sống theo thuần phong mỹ tục của một người mẹ đúng nghĩa...

Vì vậy, hãy can đảm lên, hỡi con gái yêu dấu; hãy sử dụng thời gian và tâm trí của con không phải để lo lắng và băn khoăn về tương lai, nhưng để phục vụ Thiên Chúa và gia đình của con, vì đó là ý muốn của Thiên Chúa. Hãy làm như thế, và con sẽ thấy được muôn phúc lành song hành cùng với công việc của con ra sao.

Những lời của Thánh Gioanna, Vậy hãy can đảm lên, hỡi con gái yêu dấu cho thấy thánh nữ hiểu rõ những thực tế khó khăn của thiên chức làm mẹ  như thế nào. Câu lạc bộ sách của tôi gần đây đã đọc một số tác phẩm của Thánh Gioanna, và bức thư này nổi bật với nhiều người trong chúng tôi vì  đặc biệt liên quan đến ơn gọi của chúng tôi.

Elizabeth, một thành viên của câu lạc bộ sách, cho biết: “Việc đọc bức thư của Thánh Gioanna gởi cho người con gái đã kết hôn của thánh nữ đã truyền cảm hứng và làm mới lại nơi tôi trong tư cách là một bà mẹ có 3 đứa con nhỏ. Tôi hiếm khi gặp được một lời khuyên trùng khớp từ của một vị thánh có thể hướng đến việc thúc đẩy tôi cách đặc biệt trong thiên chức làm vợ, làm mẹ và nội trợ.

Đối với cô, bức thư đã trở thành một lời mời gọi chuyên tâm cho công việc của cô trong gia đình. Tôi đọc bức thư của thánh nữ mỗi sáng bởi vì nó nhắc nhở tôi rằng việc chúng ta gọi mình mẹ là do Thiên Chúa ban cho  Người sẽ lo liệu cho chúng ta khi chúng ta làm công việc của Người.” Với tất cả những điều đó, chúng ta chỉ có thể thốt lên: “Amen!”

Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
Chuyển ngữ từ Aleteia (13/01/2022)

Nguồn: giaophanvinhlong.net

Ngày 12 tháng 8
                                                                                Thánh Gioana Phanxica Chantal, nữ tu
(1572 - 1641)

Ngày 12/8: Thánh Gioanna Phanxica Chantal

Gioana Phanxica Fremyet chào đời ngày 23.01.1572 ở Dijon, là con của vị chủ tịch nghị viện. Thuộc một gia đình Công giáo đạo đức, ông đã đào tạo con gái của mình nên một đứa trẻ có đời sống tín hữu mạnh mẽ. Học tập như các trẻ em khác, thánh nữ có một tinh thần sống động và tỏ ra vừa vui tươi vừa đứng đắn. Dầu còn nhỏ, Gioana Phanxica quyết xa rời những người lạc đạo, ngài la hét khi có ai trong số họ chạm tới ngài. Khi đến tuổi hòa mình với đời sống đài các, sự dè giữ của thánh nữ chứng tỏ ngài đã không ao ước một cuộc sống dễ dãi trống rỗng. Một trong những nhiệt huyết nơi ngài là được thực hiện những công trình lớn cho Thiên Chúa: ngài muốn được tử đạo. Ngài đã phát khóc khi thấy những người khốn cực, ngài nói:

- “Nếu không yêu thương người nghèo, tôi thấy mình như không yêu mến Thiên Chúa”.

Vị bá tước de Chantal thấy rằng: Gioana Phanxica sẽ là người vợ quý nhất trên thế gian. Cuộc hôn nhân hoàn tất. Gioana Fremyet lúc ấy 20 tuổi trở thành Gioana de Chantal. Buổi đầu, vị nữ bá tước trẻ lo âu vì những món nợ cũ phải thanh toán. Nhưng Gioana đã vui cười bắt tay vào việc. Ngài chỗi dậy từ 5 giờ sáng, dự thánh lễ, dùng ngựa để đi thăm nông trại và đất đai, kéo sợi và may vá với những người giúp việc, ngài tỏ ra là một người quản lý danh tiếng, đồng thời cũng rất bác ái và dễ yêu đến nỗi người ta gọi ngài là “bà phúc hậu”. Có người còn nói rằng: mình thích mang bệnh để được nữ bá tước viếng thăm, nhưng ngài cũng biết rằng: săn sóc và mỉm cười chưa đủ, phải có Chúa giúp sức. Chẳng hạn đến với một bênh nhân xem như tuyệt vọng, ngài thức đêm cầu nguyện và đến sáng thì bệnh nhân được lành. Vị bá tước nhiều lần thấy người vợ đầy lòng bác ái quỳ cầu nguyện.

Khi xảy ra nội chiến, cảnh khốn cùng lan rộng khắp làng quê. Vị nữ bá tước đón tiếp các người bị bỏ rơi. Bệnh tật và các trẻ sơ sinh. Đoàn người thiếu ăn trong vòng bảy dặm tuôn đến, ngài tự tay múc cháo phục vụ mọi người. Thấy người đã được trợ cấp trở lại, ngài không từ chối giúp đỡ họ và thưa với Chúa:
- “Con đến gõ cửa van xin lòng thương xót của Chúa, nào là con có muốn đến lần thứ hai thứ ba mà bị xua đuổi đâu?”

Bá tước de Chantal là một sỹ quan, thường vắng mặt để phục vụ nhà vua nơi triều đình hay trong quân đội. Khi ấy thánh nữ bỏ đồ trang sức và áo nhung, tự khép mình với sáu người con và các việc nội trợ, dành nhiều thời gian hơn để cầu nguyện. Khi bá tước trở về, ngài tổ chức ăn mừng với nét mặt rạng rỡ vui tươi. Hạnh phúc chiếu sáng tổ ấm gia đình.

Nhưng trong một cuộc đi săn, bá tước bị tử thương. Người vợ trẻ thành góa bụa lúc 28 tuổi, đã đau đớn khóc lóc:

- “Lạy Chúa, xin hãy cất đi mọi của cải và con cái, nhưng xin để lại người chồng yêu quý mà Chúa ban cho con”.

Dầu vậy, trong cơn thất vọng, thánh nữ đã điều khiển được lòng mình và tìm vâng theo thánh ý Chúa. Gioana Phanxica phải từ giã lâu đài để về sống gần cha chồng. Những người nghèo vây quanh xe ngài khóc lóc vì họ đã mất người mẹ hiền. Một cảnh huống nặng nề đang đợi Gioana nơi nhà cha chồng. Người quản gia già nắm mọi quyền bính, bắt ngài nuôi nấng con cái bà với con cái của thánh nữ. Người đàn bà trẻ đã cố gắng để khỏi bị chống đối, ngài luôn hiền hậu và không hề làm cha chồng nổi nóng. Ngài cũng tổ chức một phòng thuốc cấp cứu và săn sóc người nghèo. Bảy năm trôi đi trong nếp sống khó khăn và hãm mình.

Gioana Phanxica gặp thánh Phanxicô Salesiô. Vị thánh quyết định đời ngài. Thánh nhân giảng mùa chay tại Dijon và nhận thấy thánh nữ chăm chú nghe mình. Ngài hỏi thánh nữ có ý định tái giá không? Thánh nữ kêu:

- Không!

Và thánh nhân đã trả lời:

- “Vậy phải kéo bảng hiệu xuống”. Chỉ muốn Chúa thôi, đừng làm dỏm, dẹp bỏ tất cả chi tiết phong lưu lẫn lòng kiêu hãnh.

Gioana tự lo cho mình, phục vụ người nghèo, lau rửa những người khốn khổ đầy chấy rận. Mặc đồ sạch sẽ cho họ rồi nấu giặt và may vá áo quần cho họ. Thánh Phaxicô Salesiô dẫn ngài tới sự thánh thiện bằng đời sống ngày càng kết hiệp sâu xa hơn với Chúa. Thánh nhân cũng quả quyết rằng: thời giờ đã đến để thánh nữ từ bỏ thế gian. Đường chân thực của thánh nữ là trở nên tu sĩ và thiết lập dòng Thăm Viếng.

Gioana đã anh hùng từ giã gia đình, ngài dẫn người con gái không lập gia đình là Fracoise để bổ túc việc giáo dục bên cạnh ngài. Người con trai ở lại với ông nội đã chống lại việc ngài ra đi và nằm ngang cửa ngăn cản. Cử chỉ của thánh nữ không theo tầm mức của chúng ta: Gioana lau nước mắt bước qua mình con. Ngài biết rằng: con mình sẽ không bị bỏ rơi, vì ngài đã trao phó cho người cậu là Tổng Giám mục Bourges. Và mỗi khi cần đến, ngài sẽ đi thăm để lo cho lợi ích của các con.

Tháng 6 năm 1610, thánh nữ đã thiết lập tu viện dầu tiên ở Annecy và khẩn nguyện luôn thực hiện điều gì xem ra hoàn hảo hơn. Danh tiếng của các nữ tu dòng Thăm Viếng tận tâm phục vụ người nghèo, bệnh nhân và giáo dục các thiếu nữ lan rộng mau chóng. Suốt 30 năm, mẹ de Chanltal đã thiết lập nhiều tu viện, hiến mình làm nọi việc. Vào cuối đời, ngài kể lại:

- “Tôi như những nữ tá thô kệch thời thu hoạch. Người cha gia đình nói với họ: hãy đến chỗ này, hãy đi chỗ nọ, hãy trở lại cánh đồng này, hãy đi tới chỗ khác. Chẳng hạn người cha diễm phúc của chúng tôi đã nói: hãy đi thiết lập ở Lyon , ở Grenoble, hãy trở lại để đi Bourges, hãy đi Paris, hãy từ giã Paris và trở lại Dijon. Chẳng hạn nhiều năm tôi chỉ đi và đến, khi thì ở một trong những cánh đồng, khi thì ở một nơi khác của cha thân yêu”.

Nơi nào thánh nữ đi qua, ngài đều để lại sự êm dịu, sự phấn khởi và niềm tin tưởng. Người ta thấy ngài chống lại sự nhọc mệt bằng niềm vui và can đảm. Linh động trong công việc, ngài nấu ăn và coi bò, giờ giải trí, ngài vui vẻ với các nữ tu... khiến họ nói: “Khi Mẹ chúng ta không giải trí được là thiếu một phần vui tươi êm ái”. Bệnh tật không ngăn cản ngài săn sóc và nghĩ tới mọi sự. Với một trí khôn nhanh nhẹn và chính xác, một lúc, ngài đọc cho 3 nữ tu.

Mười chín năm trước khi qua đời, Gioana de Chantal mất người bạn, người cha, người nâng đỡ là thánh Phanxicô Salesio. Sự đau đớn của ngài thực sự lớn lao. Rồi đến cái chết của người con trai để lại một cháu gái sẽ là nữ nam tước de Sévigné. Các tang lễ liên tiếp nơi các người thân. Nhưng thử thách lớn lao nhất của thánh nữ là những chán nản nội tâm, những cám dỗ kinh khủng nghịch lại đức tin. Ngài không hể tỏ lộ những đau đớn của mình và lấy sự bình thản để phủ lấp những lo âu. Mẹ de Claugy đã nói về những khô khan liên tục của ngài:

- “Chỉ trong cõi đời đời, người ta mới biết hết được”.

Khi ngài qua đời, cha giải tội nói:

- “Suốt 23 năm, tôi đã thán phục nơi thánh nữ một lương tâm tinh ròng trong suốt và rõ rệt hơn cả pha lê”.

Trong những hành trình cuối cùng mẹ de Chantal được reo mừng khắp nơi. Khi có dịch hạch ở Annecy, ngài đã không từ chối bỏ nơi này và tăng gấp các việc bố thí và lời cầu nguyện. Ở St.Germain, hoàng hậu đưa hai người con tới gặp và xin ngài chúc lành. Ngài hân hạnh được gặp thánh Vinh Sơn Phaolô, dân Paris chen lấn để mong chạm tới ngài và nghe ngài nói. Trở về, ngài ngã bệnh ở Monlins. Tới phút cuối ngài vẫn còn lo lắng đến mọi việc. Và sau 3 lần kêu danh Chúa Giêsu, ngài tắt thở năm 1641, năm 1767 ngài được Đức Thánh Cha Clêmentê XIII phong thánh.

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-12-thang-8-thanh-gioana-phanxica-chantalnu-tu-42372

 

THÁNH GIOANA PHANXICA CHANTAL

SÁNG LẬP DÒNG THĂM VIẾNG

Gioana chào đời ngày thứ ba, 23.01.1572, trong một lâu đài tráng lệ nguy nga thuộc tỉnh Dijon nước Pháp. Ai cũng tưởng cô bé sẽ được hưởng những năm thơ ấu sung sướng bên một người mẹ đạo đức. Nhưng chào đời vừa được 18 tháng, Gioana đã phải mồ côi mẹ. Tuy nhiên, Gioana vẫn được hưởng thụ một nền giáo dục của nhà quý phái. Gioana lớn lên với tinh thần minh mẫn và linh lợi, tính tình vui vẻ, hoạt bát. Thêm vào đó một tâm hồn quảng đại, nét mặt duyên dáng đượm vẻ thơ ngây như chất chứa nhiều ân sủng.

Năm 20 tuổi, Gioana đẹp duyên với bá tước Chantal. Đây thật là một cuộc hôn nhân xứng đôi vừa lứa. Tuy nhiên, Gioana vẫn cảm thấy lòng còn trống trải và cần phải làm một việc gì đặc biệt hơn. Là bá tước phu nhân, nhưng Gioana không màng gì đến những chức quyền danh vọng ấy, và coi những vẻ hào nhoáng bên ngoài như những chướng ngại của tâm hồn đơn sơ, trong trắng. Bà ăn vận rất đơn sơ nhã nhặn, tự tay đảm đang những công việc vặt vãnh trong nhà như quét nhà, rửa chén, vì bá tước phu nhân nghĩ rằng: làm việc là định luật của Tạo hóa, không ai được phép chước chuẩn. Sự có mặt của Gioana trong gia đình đã gây được một bầu khí phấn khởi, đầm ấm, và vui tươi.

Đời sống an vui và hạnh phúc của gia đình bá tước ngày thêm sắc, thêm hương. Sau tám năm đoàn tụ, nào ai biết có gì thay đổi lớn! Bỗng nhiên một biến cố xảy đến làm đảo lộn tất cả gia đình bá tước và, như muốn biến đổi Gioana thành một con người mới. Số là bá tước Chantal đã qua đời vì một tai nạn trong lúc đi săn. Ý Chúa nhiệm mầu như đã muốn dùng cơ hội đau thương này trao cho Gioana một sứ mệnh đầy cam go nhưng cao quý hơn. Bá tước qua đi để lại cho Gioana bốn người con non dại. Bà có đủ điều kiện để tái lập gia đình thứ hai, nhưng bà đã từ chối và nguyện trung thành với người chồng đã quá cố để nuôi nấng, dạy dỗ con cái và làm một cái gì cho Giáo hội. Gioana cảm thấy như cần phải đứng lên thiết lập một gia đình thiêng liêng, để quy tụ những thiếu nữ muốn tận hiến cho tình yêu Chúa và chuyên cần cầu nguyện cho nhân loại. Càng ngày, Gioana càng cảm thấy như có tiếng thôi thúc từ trời cao, bảo bà phải can đảm hiên ngang để làm của lễ cho tình thương lân tuất vô biên của Chúa. Bá tước ngày đêm những băn khoăn thổn thức, không biết phải làm sao để đáp lại tiếng kêu gọi ấy. Ngài đã mải miết xin Chúa ban cho một vị hướng dẫn tinh thần. Sau nhiều ngày nguyện cầu, Chúa đã cho ngài gặp một vị linh hướng đúng như ý nguyện, thánh Phanxicô Salê. Một hôm, khi nghe thánh Phanxicô giảng, tâm hồn Gioana thấy xúc động lạ thường và nghĩ rằng chỉ có thánh nhân mới có thể giúp mình thi hành ý định cao quý kia. Sau bài giảng, bá tước nóng lòng muốn gặp thánh nhân để giãi bày tâm sự. Gioana mạnh bạo đến xin Đức Tổng Giám mục giới thiệu mình với thánh Phanxicô. Đức Tổng Giám mục là anh của Gioana và là bạn thân của thánh Phanxicô, nên bà Gioana đã được gặp ngài cách dễ dàng. Vừa gặp thánh nhân, bà quá xúc động, chưa kịp nói được lời gì thì thánh nhân đã nhận được bà là một quả phụ qua bộ y phục riêng biệt, ngài liền gợi truyện để xem Gioana muốn ngài giúp gì:

“Này con, con có ý định gì về tương lai không, con còn muốn tái giá không?” Hỏi thế thì hỏi, chứ thánh nhân đoán chắc Gioana không còn nghĩ đến chuyện đó nữa, vì hình như thánh nhân đã linh cảm thấy nơi bà có một ơn kêu gọi đặc biệt khác. Quả thực, như sự ước đoán của thánh nhân, Gioana đã thưa lại:

“Thưa cha, con chả nghĩ gì đến chuyện ấy, con chỉ muốn thi hành trọn ý Chúa”. Thế rồi sau mấy hồi tâm sự, bà đã xin thánh Phanxicô dẫn dắt linh hồn cho. Theo lời khuyên của cha linh hướng, Gioana sống gần như quên mình hoàn toàn để phụng sự tình yêu Chúa, và phát triển đức bác ái đối với hết mọi người. Thánh nữ bán tất cả đồ nữ trang, cũng như những quần áo quý giá để làm phúc cho những người nghèo đói. Ngài ăn mặc đơn giản như thường dân để dễ bề len lỏi vào đám quần chúng làm việc từ thiện. Những người xa gần đều cảm phục đức nhẫn nại, hy sinh của thánh nữ. Ngày ngày thánh nữ xông pha vào những viện tế bần, những nhà dưỡng lão để thu lượm những quần áo rách rưới, hôi thối của những người tàn phế, bệnh tật, đem về giặt giũ sạch sẽ và khâu vá lại cho họ.

Nhận thấy Gioana hầu như đã cởi bỏ được con người trần tục và đã đủ khả năng để làm một việc gì cho Giáo hội, thánh Phanxicô đã vời ngài đến Annecy để tìm hiểu cuộc đời chiêm niệm tu thân khắc khổ. Ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1607, thánh Phanxicô cho Gioana một tia hy vọng: “Này con, điều con phải làm cha đã quyết định rồi”. Thánh nữ trả lời: “Còn con, thưa cha, con cũng đã quyết định vâng lời cha”. Nói xong, thánh nữ quỳ xụp xuống, cha linh hướng đến gần bảo: “Đúng thế, cha thấy con cần phải vào dòng bà thánh Clara”. Ngài tươi cười thưa lại: “Lạy cha, con đã sẵn sàng cả rồi”. Nhưng để thử đức vâng phục của thánh nữ, cha linh hướng đã vịn trăm ngàn lẽ để làm cho tâm hồn Gioana phải rối lên như nắm tơ vò, ngài tiếp: “Nhưng không, con chưa đủ sức đâu con ạ, có lẽ con sẽ phải là một nữ tu giúp việc bệnh viện thì hơn” - “Cha muốn thế nào thì con cũng vâng” - “À nhưng, đấy cũng chưa phải là điều cha mong muốn con ạ, con phải làm một nữ tu dòng kín thì mới phải”- “Con cũng sẵn sàng vâng lời cha”. Thấy tâm hồn thánh nữ mềm như miếng sáp và sẵn sàng để ơn Chúa uốn nắn, thánh Phanxicô đã trao cho ngài sứ mệnh thiết lập dòng THĂM VIẾNG. Sau khi biết rõ ý định của cha linh hướng, ngài thú nhận với những bà con xung quanh: “Nghe lời đề nghị của cha, tôi cảm thấy quyết định ấy thật quá xứng hợp với tâm hồn tôi”.

Nhưng Gioana chưa thể thực hiện ngay được sứ mệnh ấy, vì các con còn dại. Từ đó, ngài đành sống âm thầm trong cầu nguyện để xin Chúa lo liệu. Ngày tháng trôi qua, cô con gái cả đã đi gánh vác gia đình, cô thứ hai đã theo cha về đời sau. Bà trối cậu con trai cho ông nội và dẫn Phanxica, cô bé út đi với mình. Ngày 29.3.1610, thánh nữ từ giã cha già để lên đường theo tiếng gọi của Chúa. Cảnh chia ly cảm động biết bao, đau đớn biết mấy! Cậu con trai buồn rầu khóc lóc, nằm vật vã dưới chân mẹ ngăn không cho mẹ bước đi. Ngày lễ Chúa Ba Ngôi năm ấy, sau khi lĩnh phép lành của cha linh hướng, Gioana cùng với hai thiếu nữ khác đến trú trong một căn nhà nhỏ hẹp ở ngoại ô tỉnh Annecy. Tuy mới có ba người, nhưng cũng đã có hình thức của một nhà dòng có tổ chức. Hai chị kia bầu Gioana làm chị cả. Ba chị em bắt đầu sống những chuỗi ngày đầy hy sinh gian khổ. Dưới sự chỉ dẫn và giáo huấn của thánh Phanxicô, căn nhà nhỏ bé ấy đã nên như một thửa ruộng mầu mỡ Chúa dùng để vun trồng những ơn kêu gọi cho dòng Thăm viếng. Thực thế, như nắm men ủ trong thúng bột, chả mấy chốc đời sống tận hiến hy sinh của thánh nữ Gioana đã lan toả khắp đó đây và dòng Thăm Viếng càng ngày càng vươn lên cao. Thánh nữ đã phải bôn ba nhiều tỉnh để lập những nhà dòng mới như ở Lyon, Moulins, Grenoble. Năm 1621, thánh nữ đến Paris với cha linh hướng và tiếp xúc với các nhà tu đức thời danh bấy giờ. Năm 1622, Chúa đã dồn dập gửi đến cho ngài bao nhiêu thử thách và thánh giá. Nỗi buồn khi nghe tin thân phụ qua đời chưa tan, một mối sầu man mác khác lại xâm chiếm lòng thánh nữ khi hay tin cha linh hướng đã được Chúa cất về. Thánh nữ buồn, vì từ đây không còn người dìu dắt linh hồn trong những lúc gặp sóng gió bão táp. Tuy nhiên, ngài vẫn luôn trung thành với sứ mệnh: hoàn toàn phó thác trong tay Chúa. Thế rồi, nay được tin con gái cả chết, mai được tin con trai mất; nhưng thánh nữ lúc nào cũng chỉ thốt ra một lời: “Con xin vâng thánh ý Chúa”.

Gặp nhiều đau khổ thì thánh nữ lại càng can đảm nhẫn nại, hăm hở sống những năm cuối đời để củng cố tu viện, tổ chức việc coi sóc các nhà dòng mới lập và tô điểm thêm cho bộ luật của dòng. Lúc này sự hiện diện của thánh nữ đã đem lại nhiều yên ủi cho hết thảy mọi chị em trong dòng và gây được nhiều thiện cảm đối với những người sống chung quanh. Quả như lời của một người thời ấy đã nói: “Từ 23 năm nay, tôi hằng cảm phục con người ấy, nơi ngài có một tâm hồn trong sáng, đẹp hơn ánh pha lê”.

Sau khi đã lập các chi nhánh khắp nước Pháp, thánh nữ xin thôi chức bề trên. Nhưng không được bao lâu, chị em lại yêu cầu ngài lên điều khiển nhà dòng ở Moulins. Và ở đây, ngài đã từ biệt cõi trần để về lĩnh phần thưởng Chúa hứa. Thi hài ngài được đưa về Annecy, táng trong nhà nguyện của nhà dòng mẹ. Thánh nữ qua đi, nhưng những công lao vất vả của ngài đã trổ sinh sự ngọt ngào của tình yêu Chúa trong đời sống chiêm niệm mến yêu.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV đã phong chân phước cho Gioana Chantal ngày 21.11.1751, và Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII đã nâng mẹ bề trên sáng lập dòng Thăm Viếng lên bậc hiển thánh năm 1767.

 

http://tinmung.net/CACTHANH/HanhCacThanh/Thang08/Ngay12.htm

 

Thật là một hôn nhân lạ đời! Ngay khi cô Jeanne về nhà chồng thì mới biết căn nhà ấy sắp sửa bị tịch thu. Chồng của cô, ông Christophe, không chỉ thừa hưởng chức nam tước mà còn làm chủ một đống nợ kếch sù.

Nhưng cô Jeanne không bước vào hôn nhân với hai bàn tay trắng. Cô còn đem theo một đức tin sâu đậm được khuôn đúc từ cha cô là người thảo luận đức tin với con cái hàng ngày và cho phép con cái đề cập đến bất cứ điều gì -- kể cả những điều mâu thuẫn. Cô còn có một tâm hồn từ bi mà bạn bè thường nói, "Ngay cả những chuyện khôi hài nhạt nhẽo cũng trở nên thú vị khi được cô kể lại."

Những đức tính này đã giúp cô Jeanne, người phụ nữ Pháp hai mươi tuổi, có đủ khả năng quản lý và trông coi mọi tài sản để thoát cảnh nợ nần và lại được sự quý mến của nhân viên. Bất kể những lo lắng về tài chánh, hai vợ chồng luôn luôn hoà thuận. Họ tận tụy cho nhau và có được bốn người con.

Một phương cách để bà Jeanne chia sẻ những ơn sủng của gia đình là chia sẻ thực phẩm cho những người nghèo đến xin ăn. Các người ăn xin sau khi nhận thực phẩm thường đi vòng sau nhà để xếp hàng xin ăn lần nữa. Khi được hỏi tại sao bà lại để những người này qua mặt như vậy, bà Jeanne trả lời, "Nếu Thiên Chúa cũng từ chối khi tôi trở lại với Ngài với cùng một lời cầu xin ấy thì sao?"

Hạnh phúc gia đình bà vụn vỡ khi ông Christopher bị giết chết trong một tai nạn săn bắn. Trước khi từ trần, ông đã tha thứ cho người giết ông. Tuy nhiên, phải mất một thời gian thì bà Jeanne mới cho thể tha thứ được. Lúc đầu bà cố gắng chào hỏi người này khi gặp ở đường phố. Khi không thể thực hiện được điều đó, bà tìm cách mời họ đến nhà. Sau cùng bà đã có thể hoàn toàn tha thứ cho người này đến độ nhận làm mẹ đỡ đầu cho đứa con của họ.

Tất cả những khó khăn ấy như đã thúc giục bà tìm kiếm Thiên Chúa trong sự cầu nguyện và một đời sống tâm linh sâu đậm hơn. Lòng trông cậy Thiên Chúa của bà khiến Thánh Phanxicô de Sales phải kinh ngạc, ngài là giám mục, là cha linh hướng và cũng là một người bạn tốt của bà.

Với sự hỗ trợ của Ðức Cha Phanxicô, bà Jeanne thành lập tu hội Thăm Viếng dành cho những người vì lý do sức khỏe hay tuổi tác đã bị các dòng khác hắt hủi. Bà tin rằng mọi người đều có cơ hội để sống ơn gọi của mình bất kể tình trạng sức khoẻ.

Thánh Vinhsơn Phaolô viết về bà như sau: "Bất kể những đau khổ của đời sống, khuôn mặt của bà không bao giờ mất vẻ bình an. Và bà luôn luôn trung thành với Thiên Chúa. Tôi coi bà như một trong những linh hồn thánh thiện nhất mà tôi đã từng gặp."

Bà từ trần ngày 13 tháng Mười Hai 1641. Hưởng thọ sáu mươi chín tuổi. Bà được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê XIII phong thánh năm 1767.
 

Trích từ NguoiTinHuu.com