SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa 

Tuần 
XXXIII Thường Niên Năm A (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (Ngày Thường)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Cn 31, 10-13, 19-20. 30-31

"Nàng cần mẫn dùng tay làm việc".

Bài trích sách Châm Ngôn.

Ai tìm được một người vợ tài đức? Nàng đáng giá hơn ngọc ngà. Chồng nàng đặt lòng tin tưởng nơi nàng và chàng không thiếu thốn vật thực. Trọn đời, nàng sẽ mang lại cho chồng sự lành, chứ không phải sự dữ. Nàng tìm lông chiên và sợi gai, rồi nàng cần mẫn dùng tay làm việc. Nàng ra tay đưa thoi dệt vải, và ngón tay nàng cầm xe kéo sợi. Nàng rộng tay bố thí cho người nghèo khó, và giơ tay hướng dẫn kẻ bần cùng.

Duyên dáng thì giả dối và nhan sắc thì hão huyền: Người phụ nữ kính sợ Chúa, sẽ được ca tụng. Hãy tặng cho nàng hoa quả do tay mình làm ra, và sự nghiệp của nàng hãy ca tụng nàng tại các cửa thành.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5

Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa (x. c. 1a).

Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.

3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Thiên Chúa. Nguyện Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống bạn. - Ðáp.

 Bài Ðọc II: 1 Tx 5, 1-6

"Ngày của Chúa bắt chợt anh em như kẻ trộm".

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, về thời nào và lúc nào, anh em không cần chúng tôi viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ ngày Chúa sẽ đến như kẻ trộm trong đêm tối.

Khi người ta nói rằng: "Yên ổn và an toàn", thì chính lúc đó tai hoạ thình lình giáng xuống trên họ, như cơn đau đớn xảy đến cho người mang thai và họ không sao thoát khỏi. Phần anh em, hỡi anh em thân mến, anh em không còn tối tăm, đến nỗi ngày đó bắt chợt anh em như kẻ trộm, vì tất cả anh em là con cái sự sáng, con cái ban ngày; chúng ta không thuộc về ban đêm và tối tăm. Vậy chúng ta đừng mê ngủ như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và điều độ.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 21, 36

Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 25, 14-30

"Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi.

"Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Người lãnh hai nén cũng đi làm lợi được hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình.

"Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc; đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".

"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ (mà) đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Ðây của ông, xin trả lại cho ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, người đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra người phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".

Ðó là lời Chúa.

Hoặc bài vắn này: Mt 25, 14-15. 19-20

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi.

"Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác".

Ðó là lời Chúa. 

Image result for mt 25 14-30



Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

 

Một thứ “yên ổn và an toàn” nguy hiểm như thể con người “mê ngủ”, rất dễ bị chụp bắt bởi “đêm tối”

 

 

Ý  nghĩa của Phụng Vụ Lời Chúa nói chung và Bài Phúc Âm nói riêng cho Chúa Nhật XXXIII Thường Niên hôm nay cũng vẫn tiếp tục chiều hướng tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa, một yếu tố then chốt bất khả thiếu và bất khả phân ly để con người chẳng những được cứu độ, nghĩa là “được sống” mà còn có thể “sống viên mãn hơn” (Gioan 10:10). 

Vì tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa đây là gì, nếu không phải, trước hết, là chấp nhận những gì Chúa ban cho mình, đó chính là mạc khải thần linh của Ngài và về Ngài qua giòng Lịch Sử của Dân Do Thái cho “tới thời điểm viên trọn” (Galata 4:4) là thời điểm mạc khải thần linh của Ngài nên trọn nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô Nhập Thể và Vượt Qua.

Và tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa đây còn ở chỗ để cho Ngài chiếm đoạt mình, nhờ đó Ngài muốn làm gì thì làm theo ý muốn tối hậu và toàn thiện của Ngài, và nhờ đó Kitô hữu như cành nho đã sinh hoa trái lại càng sinh hoa trái dồi dào hơn nữa (xem Gioan 15:2) nhờ quyền lực vô biên của Ngài nơi họ như đã thể hiện nơi Đức Maria đầy ơn phúc.

Nếu Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXXII tuần trước liên quan đến 5 cô trình nữ phù dâu khôn ngoan ở chỗ cầm đèn sáng đi đón chàng rể kèm theo cả dầu là lòng cậy trông, thì Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXXIII tuần này liên quan đến thành phần đầy tớ được chủ đi xa trao cho các nén bạc tùy khả năng và sứ vụ để làm lợi cho chủ, nhưng có kẻ quả thực đã làm lợi có kẻ không.

Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao người đầy tớ không sinh lợi cho chủ, nhưng cũng chẳng làm thiệt hại gì của chủ, đã cẩn thận giữ nguyên tất cả những gì chủ trao cho mình để hoàn lại cho chủ một cách nguyên vẹn, mà vẫn bị đời đời trầm luân: “Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng"? Trong trường hợp này phải chăng vị chủ nhân ông này đã là một con người đúng như người đầy tớ bất hạnh này đã nghĩ: keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát”?

Vấn đề rắc rối ở đây không phải là vị chủ nhân ông mà là người đầy tớ! Tại sao thế? Tại sao hai người đầy tớ kia không có vấn đề gì với vị chủ nhân ông này mà người cuối cùng lại có, nếu không phải vì hai người đầy tớ này biết phận mình trước nhan Thiên Chúa chủ tể bằng niềm tin vào Ngài, trong khi người đầy tớ bất hạnh ấy không tin tưởng vào vị chủ nhân ông ấy, vị chủ nhân ông rất công minh và quảng đại đã tưởng thưởng xứng đáp cho hai người đầy tớ sinh lợi gấp trăm cho nén bạc được trao cho họ, chứ không “keo kiệt” và bóc lột như người đầy tớ thiển cận và lười biếng gán ghép cho chủ như cái cớ chính đáng để hưởng nhàn, khỏi phải vất vả khó nhọc.

Vấn đề không phải chỉ có thế mà người đầy tớ bị phạt quá nặng như vậy, mà là ở chỗ tận thâm tâm người đầy tớ này quá cao ngạo, không muốn làm đầy tớ, làm tôi cho chủ, để chủ hưởng lợi, còn mình phải vất vả khó nhọc, trái lại, người đầy tớ này muốn làm chủ, hơn làm tôi cho chủ, muốn hoàn toàn theo ý riêng mình hơn là ý chủ, khinh khi những gì chủ trao, không muốn chấp nhận chủ nhân ông của mình, nghĩa là không chấp nhận chủ quyền tối thượng của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình, bằng cách không làm theo ý muốn tối cao của Ngài đối với hắn.

Nếu trong cơn cám dỗ bất phục tùng ấy, người đầy tớ này vẫn cố gắng tỏ ra một chút thiện chí nào đó, một chút thiện chí chứng tỏ hắn cũng tin tưởng cậy trông vào vị chủ nhân ông mà hắn tự nhiên có thành kiến xấu theo chủ quan của hắn, thì cuối cùng hắn vẫn được xót thương, căn cứ vào thiện chí của hắn, một thiện chí hắn cố gắng tỏ ra với chủ chẳng khác nào như hắn gửi nén bạc được chủ trao vào ngân hàng để lấy lời, nhờ một chút thiện chí của hắn, một thiện chí đã được chính Lòng Thương Xót Chúa chấp nhận và làm cho sinh hoa kết trái là chính phần rỗi đời đời của hắn.

Nếu Bài Đọc 1 tuần trước nói về sự khôn ngoan giúp cho con người tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa, nhờ đó họ được cứu độ, được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, thì Bài Đọc 1 tuần này lại nói về “một người vợ tài đức”, ám chỉ tấm lòng gắn bó của loài người với Thiên Chúa, hay nói cách khác, ám chỉ lòng “kính sợ Chúa” nơi con người, một lòng kinh sợ bất khả thiếu để có thể dễ dàng phục tùng Thiên Chúa và phụng sự Ngài, một lòng kính sợ cũng đã được Bài Đáp Ca hôm nay dường như sánh ví như “hiền thê bạn” như sau:

 

 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.

3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Thiên Chúa. Nguyện Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống bạn. 

 

Thái độ hưởng nhàn của người đầy tớ bất hạnh trong Bài Phúc Âm hôm nay đã được Thánh Phaolô, trong Thư thứ nhất gửi Giáo Đoàn Thessalonica ở Bài Đọc 2 hôm nay so sánh như là một thứ “yên ổn và an toàn” nguy hiểm như thể con người “mê ngủ”, rất dễ bị chụp bắt bởi “đêm tối”, cần phải “tỉnh thức và điều độ” để khỏi lâm vào số phận vô cùng khốn nạn của người đầy tớ bất hạnh trong Phúc Âm, như sau:

 

Khi người ta nói rằng: ‘Yên ổn và an toàn’, thì chính lúc đó tai hoạ thình lình giáng xuống trên họ, như cơn đau đớn xảy đến cho người mang thai và họ không sao thoát khỏi. Phần anh em, hỡi anh em thân mến, anh em không còn tối tăm, đến nỗi ngày đó bắt chợt anh em như kẻ trộm, vì tất cả anh em là con cái sự sáng, con cái ban ngày; chúng ta không thuộc về ban đêm và tối tăm. Vậy chúng ta đừng mê ngủ như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và điều độ”.




 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 1, 11-16. 43-45. 57-60. 65-67

"Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp".

Trích sách Macabê quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, bởi dòng các vua Hy-lạp sinh ra một mầm mống tội lỗi, là Antiôcô Êpiphan, con vua Antiôcô, trước kia bị bắt làm con tin tại Rôma; năm vương quốc Hy-lạp một trăm ba mươi bảy, ông lên ngôi vua.

Thời đó từ Israel cũng xuất hiện một số người bất lương mê hoặc được nhiều người, chúng nói rằng: "Này, ta hãy giao ước với các dân ở chung quanh chúng ta, vì từ ngày chúng ta đoạn giao với các dân ấy, chúng ta đã gặp nhiều tai hoạ". Họ cho lời nói ấy là đúng. Một số trong dân chúng hối hả đi yết kiến nhà vua và được nhà vua cho phép tuân giữ các luật lệ của dân ngoại. Họ liền xây cất một thao trường ở Giêrusalem theo tập quán của dân ngoại; họ tìm cách huỷ bỏ vết tích của phép cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để rồi giao ước với kẻ ngoại. Họ tự bán mình để làm sự dữ.

Vua Antiôcô ra chiếu chỉ khắp nước truyền cho mọi dân hợp thành một dân và mỗi dân phải bỏ tục lệ riêng mình; tất cả các dân ngoại đều tuân lệnh nhà vua. Nhiều người Israel cũng sẵn sàng theo việc phượng tự của nhà vua, họ liền hiến tế cho ngẫu tượng và phế bỏ ngày sabbat.

Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô đặt một ngẫu tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu. Người ta cũng lập nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của Giuđa: người ta đốt hương cúng tế trước cửa nhà và ở các công trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé nát và đem đốt đi. Nếu người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào hoặc bắt gặp kẻ nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ của nhà vua. Nhưng cũng có nhiều người Israel tỏ ra kiên quyết, và nhất định không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng thà làm cho mình ra ô uế bởi của ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh, và quả thực họ đã chết. Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 53. 61. 134. 150. 155. 158

Ðáp: Lạy Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài (x. c. 88).

Xướng: 1) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi luật pháp của Ngài. - Ðáp.

2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật pháp của Ngài. - Ðáp.

3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của Ngài. - Ðáp.

4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa pháp luật của Chúa. - Ðáp.

5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời sấm của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Lc 16, 31

Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 18, 35-43

"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.



Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

Một vũ điệu thần linh tuyệt vời 


Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên, cũng là bài Phúc Âm theo Thánh Marco (10:46-52) được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B, về phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu "cho một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường".

Tuy nội dung của 2 bài Phúc Âm này được cả hai Thánh Ký Marco và Luca thuật lại giống nhau, nhưng về chi tiết hơi khác nhau một chút. Chẳng hạn ở những chi tiết rõ ràng sau đây:

Trước hết, 
về nơi xẩy ra phép lạ Chúa làm, trong khi Thánh ký Marco thuật lại rằng "Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô", thì Thánh ký Luca trong bài Phúc Âm hôm nay lại viết rằng "Chúa đến gần thành Giêricô".

Sau n
ữa, về bản thân của nạn nhân mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô này, trong khi Thánh ký Marco (một vị thánh ký viết Phúc Âm ngắn nhất trong bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm, nhưng lại khá chi tiết về các biến cố xẩy ra) cho biết rõ lý lịch của nạn nhân là "con ông Timê tên là Bartimê", thì Thánh ký Luca lại chẳng nói gì hết.

Còn nữa, về thái độ của người mù ngồi ăn xin bên vệ đường này, trong khi Thánh ký Marco cho biết rõ chi tiết về phản ứng của nạn nhân khi nghe thấy mình được Chúa Giêsu gọi đến là "a
nh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu", thì Thánh ký Luca lại chỉ vắn tắt viết: "anh đến gần bên Người".

Sau h
ết, về lời truyền chữa lành của Chúa Giêsu phán cùng nạn nhân, trong khi Thánh ký Marco ghi lại rằng: "Ðược, đức tin của anh đã chữa anh", thì Thánh ký Luca ở đây lại chi tiết hơn Thánh ký Marco một chút như thế này: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".

Ngo
ài ra, cả hai vị Thánh ký đều giống nhau ở thái độ của nạn nhân là khi nghe biết có Chúa Giêsu ở đấy thì van xin, và càng bị trấn át thì càng la to hơn, cho đến khi được Người gọi đến, và cũng giống nhau ở câu đối đáp giữa Chúa Giêsu và nạn nhân trước khi phép lạ xẩy ra, đó là Chúa Giêsu hỏi nạn nhân muốn Người làm gì cho nạn nhân và nạn nhân đã xin Người phục quang cho mình. 

Ở đây, để thêm vào các suy niệm và suy diễn đã được chia sẻ cho 
Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXX Thường Niên Chu Kỳ B, có hai chi tiết khiến chúng ta suy nghĩ không ít:


Chi tiết thứ nhất liên quan đến đấng chữa lành, đó là 
"
Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người", và chi tiết thứ hai liên quan đến nạn nhân được chữa lành: "anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa".

Th
ật vậy, đây là quả là một vũ điệu thần linh tuyệt vời. Ở chỗ, tác động thần linh từ Đấng Chữa Lành đã được phản hồi hết sức tương xứng bằng một đáp ứng thần linh từ nạn nhân được chữa lành. 

N
ạn nhân trước khi được chữa lành không hề dám tự động quẳng áo choàng đứng lên tiến đến gần Chúa Giêsu khi thoạt tiên vừa nghe thấy Người đến gần chỗ nạn nhân đang ngồi ăn xin, mà chờ đợi cho tới khi được Người gọi tới. Thái độ cứ ngồi yên một chỗ đợi chờ không phải là thái độ không nhiệt tình, mà là một thái độ tin tưởng hơn hết, ở chỗ, một đàng thì kêu la van xin cho bằng được, trong khi lại ngồi yên tại chỗ như thể nạn nhân cảm thấy mình hoàn toàn bất xứng không đáng đến gần Chúa Giêsu, cũng như bất lực không thể nào làm gì được nếu không có Người. 

Đúng thế, tác động thần linh bao giờ cũng đến trước đáp ứng thần linh của thụ tạo, như yếu tố thiết yếu và điề
u kiện bất khả thiếu để thụ tạo nhờ đó và do đó mới có thể bị động, mới có thể cảm động và mới có thể di động theo tác động thần linh. Bởi thế, chỉ khi nghe thấy Chúa Giêsu truyền gọi, nạn nhân mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô này mới đến được và mới được đến với Người. 

Thực tế sống đạo cũng cho thấy thực tại này
ở chỗ, những ước muốn tốt lành của chúng ta cũng cần phải được Thiên Chúa tác động trước, hơn là tự chúng ta có được, vì chúng ta theo bản tính tự nhiên đã bị hư đi theo nguyên tội, luôn hướng hạ hơn là hướng thượng. Một khi chấp nhận ước muốn tốt lành bởi tác động thần linh khởi động ấy, chúng ta mới bày tỏ lòng khát vọng của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nhờ đó Thiên Chúa được dịp ban cho chúng ta chính những gì Ngài đã muốn ban nên đã soi động chúng ta ước muốn trước khi van xin. 

Cuộc hội ngộ thần linh trong bài Phúc Âm hôm nay 
đã xẩy ra một cách hết sức ngoạn mục. Ở chỗ, nạn nhân khao khát được chữa lành, trong khi Thiên Chúa vô cùng nhân hậu đã sẵn muốn chữa lành cho nạn nhân rồi, và chỉ chờ đến giờ của mình là ra tay lập tức, tức là cho đến khi nghe thấy nạn nhân kêu xin mình thì đáp ứng ngay, như thể Đấng Chữa Lành thụ động còn nạn nhân chủ động, như xẩy ra trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại. 

Nạn nhân mù ngồi ăn xin hằng ngày 
ở thành Giêricô tên Bartimê này, chắc đã lâu lắm rồi, với một thân phận nghèo khổ và tương lai mịt mù như bóng tối hằng che phủ đôi mắt của nạn nhân, có ngờ đâu lại bất ngờ được gặp và gặp được Đấng chữa lành cho mình, và như thế, quả thực cuộc đời của nạn nhân đã được Thiên Chúa sử dụng để tỏ mình Ngài ra, giống hệt như trường hợp của người mù từ lúc mới sinh trong Phúc Âm Thánh ký Gioan (9:3).

Phải chăng cảm nhận được như vậy, nạn nhân diễm phúc này đã không còn thiết gì thế gian này nữa, vì nạn nhân được sáng mắt không phải chỉ thấy được ánh sáng tự nhiên mà nhất là thấy được chính "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), một thứ ánh sáng thần linh ban sự sống đã chữa lành cho nạn nhân, và vì thế nạn nhân đã "
đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa"? 

B
ản thân của nạn nhân đã trở thành một cuộc thần hiển cho Thiên Chúa tỏ mình ra, chẳng những cho chính nạn nhân, mà còn cho cả cộng đồng gần xa của nạn nhân nữa. Mục đích của Thiên Chúa ban ơn cho bất cứ một ai không phải chỉ cho riêng người đó mà còn qua người đó cho các người khác nữa. Bao giờ cũng thế. Đó là nguyên tắc và đường lối tỏ mình ra của Ngài. Bởi thế, bài Phúc Âm hôm nay đã kết luận như sau: "Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa".

Chưa hết, nếu để ý chúng ta còn thấy người mù ăn xin bên vệ đường này phải là một con người có một đời sống nội tâm siêu việt, được bộc lộ ra qua lời van xin của anh ta ngỏ cùng Đấng mà anh ta tin có thể chữa lành cho anh ta: "Lạy ông Giêsu, con Vua Đavít, xin  thương xót tôi" (lần hai cũng thế, tuy không còn lập lại tên Giêsu).

Tại sao anh mù ăn xin này lại kêu lên câu này, một câu nói cho thấy tất cả đức tin chân thực của anh ta vào nhân vật Giêsu Nazarét, một nhân vật lần đầu tiên anh được gặp dù không thấy nhưng vẫn tin, tin hơn cả thành phần lãnh đạo tôn giáo của dân Do Thái và tin hơn cả thành phần thông luật và dạy luật trong dân nữa, nếu không phải là vì anh ta tin rằng nhân vật "Giêsu" ấy chính là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng được sai đến không phải để giải thoát dân Do Thái khỏi quyền lực chính trị như hầu hết dân chúng mong đợi, mà là để giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Và vì sự chết và đau khổ là hậu quả của tội lỗi mà nếu nhân vật "Giêsu" là Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì Người có thể cứu anh ta khỏi mù.

Trong câu trả lời của anh ta cho câu hỏi của Chúa Giêsu "anh muốn tôi làm gì cho anh?" rằng "xin cho tôi được thấy" cũng hàm chứa một ước vọng sâu xa của anh ta trong thời gian anh ta bị mù lòa, một thứ mù lòa về thể lý nhưng không thể bịt bùng tâm hồn chiêm niệm tràn đầy ánh sáng siêu nhiên của anh ta. Ước vọng được anh ta bày tỏ qua lời "xin cho tôi được thấy" đó là được thấy "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) là chính Chúa Giêsu, hơn là chỉ được thấy ánh sáng mặt trời, thấy lại những người thân yêu, thấy lại họ hàng thân hữu v.v. Đó là lý do, vì "xin cho tôi được thấy" "ánh sáng thế gian" mà ngay sau khi được chữa lại, được thấy lại, anh ta đã "đi theo Người và ca tụng Thiên Chúa". 

Về tình trạng mù lòa về thể lý được Chúa Kitô chữa lành trong bài Phúc Âm hôm nay, tiêu biểu cho tình trạng mù lòa thiêng liêng cũng cần được chữa lành bởi Người, một tình trạng mù quáng thiêng liêng vô cùng nguy hiểm và khốn nạn đến chính phần rỗi của con người, chẳng những của chung con người qua hai nguyên tổ ngay từ ban đầu, mà còn qua chính dân Do Thái được Thiên Chúa của tổ phụ họ tuyển chọn để làm dân riêng của Ngài và để Ngài có thể qua họ tỏ mình ra cho dân ngoại. Thế mà, qua giòng lịch sử cứu độ của họ, biết bao nhiêu lần họ đã mù quáng đến phản bội Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, đến độ có 2 lần Ngài tính tiêu diệt họ (xem Xuất Hành 32:10; Đệ Nhị Luật 9:14; Dân Số 14:12). Thế mà họ vẫn chưa chừa, vẫn tiếp tục mù quáng chối bỏ Ngài và truất phế Ngài, nhất là dưới thời đế quốc Hy Lạp, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy:

"Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô đặt một ngẫu tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu. Người ta cũng lập nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của Giuđa: người ta đốt hương cúng tế trước cửa nhà và ở các công trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé nát và đem đốt đi. Nếu người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào hoặc bắt gặp kẻ nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ của nhà vua... Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp".

Tuy nhiên, trong dân Do Thái không phải ai cũng bị mù quáng như vậy, trái lại "cũng có nhiều người Israel tỏ ra kiên quyết, và nhất định không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng thà làm cho mình ra ô uế bởi của ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh, và quả thực họ đã chết". Câu họa của bài Đáp Ca hôm nay phản ảnh tâm nguyện của thành phần sáng mắt tin tưởng này: "Lạy Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài", một bài Đáp Ca (từ Thánh Vịnh 118) đồng thời cũng chất chứa tâm tình trung kiên của họ:

1) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi luật pháp của Ngài.

2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật pháp của Ngài.

3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của Ngài.

4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa pháp luật của Chúa.

5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ của Ngài.

6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời sấm của Ngài.


 

 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Mcb 6, 18-31

"Tôi sẽ để lại một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi".

Trích sách Macabê quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Êlêazarô, một người trong hàng Luật sĩ vị vọng, ông đã có tuổi và diện mạo oai phong, ông bị người ta cạy miệng bắt phải ăn thịt heo. Nhưng ông thà chết vinh còn hơn sống nhục, nên ông tự ý ra pháp trường. Hiểu rằng ông phải xử trí như thế nào, ông nhẫn nại chịu đựng, khẳng khái không ăn đồ cấm vì ham sống. Các bạn cố tri đứng đó cảm thương ông, gọi lén ông ra khuyên ông xin người ta đem cho ông các thứ thịt ông có phép dùng, rồi ông chỉ giả vờ ăn thịt cúng như nhà vua đã truyền; làm như thế ông sẽ thoát chết; và do tình bạn cố tri, họ đã tỏ lòng nhân đạo như vậy đối với ông. Nhưng nghĩ đến địa vị bậc lão thành, mái tóc bạc khả kính, cách ăn ở tốt đẹp từ thời niên thiếu, mà nhất là sống xứng với lề luật thánh mà chính Thiên Chúa đã lập, ông liền trả lời, bảo họ rằng ông sẵn sàng chịu chết. Ông nói:

"Vì ở tuổi chúng tôi không nên giả vờ, kẻo nhiều thanh niên tưởng rằng Êlêazarô đã chín mươi tuổi đầu mà còn theo lối sống của dân ngoại. Rồi vì sự giả vờ của tôi để sống thêm một ít lâu nữa, tôi sẽ làm cho chính họ cũng lầm lạc, và vì thế, tôi sẽ chuốc lấy nhơ nhớp và ố danh cho tuổi già của tôi. Mà dầu tôi có thoát khỏi hình phạt của loài người, thì dầu sống dầu chết, tôi sẽ không thoát khỏi bàn tay của Thiên Chúa toàn năng. Bởi thế, nếu giờ đây tôi can đảm từ giã cuộc đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già của tôi; tôi sẽ để lại cho các thiếu niên một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi".

Nói đoạn ông liền bị điệu đến pháp trường. Các người áp giải ông đổi lòng thiện cảm họ có đối với ông trước kia thành ác cảm, vì các lời ông vừa nói mà họ cho là điên khùng. Khi sắp chết vì đòn vọt, ông thều thào trong hơi thở cuối cùng: "Lạy Chúa là Ðấng thông minh chí thánh, Chúa cũng thấu rõ là con có thể thoát chết, nhưng con xin chịu đòn vọt đau đớn trong thân xác con, với niềm vui trong lòng vì kính sợ Chúa". Và như thế ông từ giã cuộc đời, để lại không những cho các thanh niên mà còn cho toàn dân một tấm gương anh dũng và một lưu niệm đạo đức.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 3, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Chúa đã nâng đỡ tôi (c. 6b).

Xướng: 1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi dậy chống con! Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa Trời cứu độ". - Ðáp.

2) Nhưng lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho con ngẩng đầu lên. - Tôi lên tiếng kêu cầu Chúa, và Chúa đã nghe tôi từ núi thánh của Ngài. - Ðáp.

3) Tôi nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng tôi. Tôi không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại tôi. - Ðáp.

 

Alleluia: Lc 21, 28

Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 19, 1-10

"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điễu gì đã hư mất".

Ðó là lời Chúa. 




 

Suy nghiệm Lời Chúa


 

Chẳng còn gì ngoài ơn cứu độ - nhờ một kẽ hở ...

  

Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên, Bài Phúc Âm ở đầu đoạn 19 của Thánh ký Luca, tiếp ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua ở cuối đoạn 18.

Trong khi ở Bài Phúc Âm hôm qua, cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu mới "
đến gần thành Giêricô", thì trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca ghi nhận tiếp về cuộc hành trình này, ở chỗ: "Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành".

Cuộc hành trình tiến về Giêrusalem của Người đã khiến Người gặp gỡ một số con người đặc biệt được thuật lại trong Phúc Âm, chẳng hạn trường hợp của người mù ngồi ăn xin ở vệ đường trong Bài Phúc Âm hôm qua, hay vị "
thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có" "tên là Giakêu" trong Bài Phúc Âm hôm nay.

V
ề trường hợp của người mù Batimê trong bài Phúc Âm hôm qua được thuật lại bởi Thánh ký Luca và Marco, nhưng câu chuyện về nhân vật thủ lãnh thu thuế này chỉ có trong Phúc Âm Thánh Luca mà thôi, vì Phúc Âm Thánh ký Luca là Phúc Âm về Lòng Thương Xót Chúa, một Phúc Âm chất chứa những dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa rất cảm kích không có ở trong bất cứ Phúc Âm nào. 

Chẳng hạn 3 dụ ngôn tiêu biểu nhất sau đây: 1- 
Dụ Ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu (xem Luca 10:25-37); 2- Dụ Ngôn Người Cha Nhân Hậu Với Hai Đứa Con Đáng Thương (xem Luca 15:11:32); 3- Dụ Ngôn Hai Người Lên Đền Thờ Cầu Nguyện (xem Luca 18:9-14) v.v. Cũng chỉ trong Phúc Âm Thánh ký Luca mới có câu: "Các con hãy thương xót như Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36), một Lòng Thương Xót đã được phản ảnh sống động nhất qua lời đầu tiên của Chúa Kitô khổ giá cũng chỉ ở trong Phúc Âm Thánh Luca: "Lạy Cha, xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34).

Chính trong Bài Phúc Âm hôm nay có một câu nói của Chúa Giêsu về Lòng Thương Xót Chúa 
cũng chỉ có ở trong Phúc Âm Thánh Luca mà thôi, đó là câu: "Con Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư vong", điển hình nhất là viên trưởng ban thu thuế Giakêu được Thánh ký Luca thuật lại.

Nhân vật trưởng ban thu thuế 
Giakêu này thực sự "đã hư vong", tức đã sống một cuộc đời bê bối tội lỗi khi hành nghề thu thuế đầy những mánh khóe gian lận tiền bạc để có thể làm giầu cách bất chính, đã thực sự là thành phần tội nhân, chẳng những trước mặt dân Do Thái mà chính ngay cả bản thân của đương sự cũng phải chân nhận như thế, qua lời hứa hẹn của đương sự sau khi được gặp gỡ Chúa Giêsu: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn".

Nếu Chúa Kitô "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư hoại" thì Người rất nhậy cảm với những tâm hồn đang sống trong giầu sang phú quí với đầy nhưng băn khoăn 
khắc khoải không thỏa mãn làm sao ấy, như trường hợp của viên trưởng ban thu thuế Giakêu trong bài Phúc Âm hôm nay, đến độ nhân vật này đã phải sẵn sàng bỏ trạm thu thuế là nơi làm giầu hằng ngày của mình và lánh xa đám nhân viên thu thuế đồng nghiệp cùng gian lận dưới quyền mình, để quyết tâm đón gặp được Người, cho dù chỉ muốn "tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào" thôi, bằng cách "chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó". 

Đúng vậy, vì cố ý "
tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư hoại" mà Chúa Giêsu đã nhậy cảm đến độ, trong khi hình như không ai trông thấy nhân vật giầu sang phú quí và quyền hành này, đang ẩn nấp ở trên một cái cây bên đường, để một đàng vừa tránh được cái nhìn khinh bỉ của đám đông vẫn giành cho đương sự, đàng khác lại vừa dễ trông thấy Chúa Giêsu đi ngang qua theo lòng ước nguyện. 

Người quả thực đã nhìn thấy đương sự, nhìn thấy tận đáy lòng của đương sự ước muốn gặp Người, cũng như nhìn thấy hành động thiện chí như trẻ con trèo lên cây ẩn nấp trên đó 
của đương sự, nên Người đã tự động lên tiếng gọi đương sự làm cho đương sự giật nẩy mình lên, chẳng những vì đương sự bất ngờ bị lộ tẩy chân tướng trước mặt đám đông đối phương của đương sự, mà còn vì đương sự cảm thấy vô cùng sung sướng được Người gọi đích danh của mình, mà đương sự tưởng rằng Người không hề hay chưa hề biết đến đương sự bao giờ. 

Có một chi tiết liên quan đến việc gọi đích danh tên của viên trưởng ban thu thuế trong bài Phúc Âm này đó là hình như chỉ có những ai bê bối tội lỗi hay khổ đau mới được Người gọi đích danh mà thôi, còn những ai được Người đặc biệt yêu thương lại không được diễm phúc ấy, chẳng như như Tông Đồ Gioan là "người môn đệ được Chúa Giêsu thương" (Gioan 13:23; 19:26; 20:2; 21:7,20).

Thật vậy, những nhân vật đã từng sống cuộc đời bê bối đã được Chúa Giêsu gọi đích danh như đích danh "Giakêu" trong bài Phúc Âm hôm nay, hay như "Maria" Mai Đệ Liên (Gioan 20:16), một con điếm "đã được Người trừ bảy quỉ" (Marco 16:9), hoặc như "Simon" Phêrô (Gioan 21:15-17) đã từng trắng trợn và phũ phàng chối Người 3 lần, hay như "Saule" (Tông Vụ 9:4; 22:7; 26:14) là kẻ bách hại Người nơi thành phần tín hữu trong thời Giáo Hội sơ khai, hoặc như "Lazarô" là một thây ma đã chết 4 ngày trong mồ (Gioan 11:43).

Ôi tuy
ệt vời thay Lòng Thương Xót Chúa: "Tôi là vị mục tử nhân lành. Tôi biết các chiên tôi và chiên tôi biết Tôi" (Gioan 10:14). Trong khi tội nhân không hề biết Người, ở chỗ xúc phạm đến Người, thì Người lại biết họ và kêu gọi đích danh họ, vạch mặt chỉ tên họ, chứng tỏ Người hằng theo dõi cuộc đời của họ, và ngồi chờ họ ở những nơi sinh hoạt quen thuộc của họ, như ngồi chờ người đàn bà tội lỗi bên giếng Giacóp (xem Gioan 4:6-9), hay đi đến tận những nơi thầm kín của họ, như trường hợp của viên trưởng ban thu thuế Giakêu trong Bài Phúc Âm hôm nay, để cố ý cứu đương sự khỏi cuộc đời lén lút mờ mịt của đương sự.

Ch
úa Giêsu đã không nhắc đến tội lỗi của bất cứ tội nhân nào, khi mới gặp họ, dù Người biết rõ tội của họ hơn ai hết, mà chỉ tỏ lòng thương họ để họ nhờ đó có thể ăn năn thống hối thôi. Thậm chí Người không sợ gần gũi với tội nhân xấu xa nhơ nhớp đáng ghê tởm, cho dù có bị chê trách, như Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Vì họ mới là thành phần "bệnh nhân cần đến thày thuốc" như Người là một Vị Lương Y thần linh toàn năng có thể chữa lành cả hồn lẫn xác của họ (xem Mathêu 9:12)

Vi
ệc Người chẳng những tiến vào mà còn ở lại nhà của nhân vật tội lỗi Giakêu: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi", để giao tiếp với thành phần thu thuế tội lỗi như nhân vật này, thật sự là một hiện diện thần linh cứu độ: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điu gì đã hư mất".

T
ác dụng của ơn cứu độ được Chúa Kitô mang đến cho chẳng những riêng nhân vật Giakêu mà còn cho cả "nhà" (gia đình) của đương sự nữa, thậm chí "nhà" đây còn có thể hiểu là bao gồm cả thành phần nhân viên thu thuế thuộc quyền lãnh đạo của đương sự nữa, nhất khi chính họ đích mắt thấy được lòng nhân lành cảm thương tha thứ của Người giành cho vị thủ lãnh của họ. 

Tác dụng xuất phát từ lòng cảm thương ấy của Chúa Giêsu đã biến đổi hẳn bản thân và cuộc đời của một nhân vật tội lỗi, đến độ đương sự chẳng những thật lòng ăn năn thống hối ở chỗ đền bù tội lỗi của mình đối với những ai bị thiệt hại vật chất bởi đương sự gian lận trước đó mà còn giành ra nửa phần gia tài để làm phúc bố thí nữa, nghĩa là kể như trở về tay không để được đổi lấy Nước Trời, lấy ơn cứu độ vô giá, không gì sánh được: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn".

Khi c
òn sống trong tội lỗi thì bất cứ ai, dù chẳng làm nghề buôn bán hay thu thuế như nhân vật Giakêu trong Bài Phúc Âm hôm nay, cũng sống trong tình trạng gian dối, (tự tội lỗi đã là gian dối), không đúng với sự thật về thân phận thụ tạo làm người trước nhan Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân

Bởi đó, hoán cải ch
ính là tác động "đi từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng" (1Phêrô 2:9). Sau cuộc đời sống gian dối bằng hành động gian lận tiền bạc của dân chúng với vai trò thu thuế của mình, nhân vật Giakêu đã bắt đầu sống hoàn lương trong chân lý. Nhưng để được như vậy, Lòng Thương Xót Chúa là chính ơn cứu độ của đương sự tội nhân này chỉ cần lòng của đương sự hé mở dù chỉ một chút xíu chăng nữa, và tính tò mò tự nhiên của đương sự muốn xem nhân vật Giêsu Nazarét là ai chính là kẽ hở cứu độ đó vậy! 

 

Hành động của viên trưởng thu thuế Giakêu, sau khi gặp được Chúa Kitô, đã chẳng những từ bỏ lòng gian tham của mình mà còn cả của cải của mình, đến trở thành như một kẻ homelss chẳng còn gì, cũng tương tự như nhân vật lão thành Eleazaro được Sách Macabê quyển thứ 2 ở Bài Đọc 1 hôm nay, một con người có thể thoát chết nhưng vẫn trung kiên với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình cho dù có phải mất mạng sống của mình: "Dầu tôi có thoát khỏi hình phạt của loài người, thì dầu sống dầu chết, tôi sẽ không thoát khỏi bàn tay của Thiên Chúa toàn năng. Bởi thế, nếu giờ đây tôi can đảm từ giã cuộc đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già của tôi; tôi sẽ để lại cho các thiếu niên một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi..."

 

Thật vậy, "khi sắp chết vì đòn vọt, ông thều thào trong hơi thở cuối cùng: 'Lạy Chúa là Ðấng thông minh chí thánh, Chúa cũng thấu rõ là con có thể thoát chết, nhưng con xin chịu đòn vọt đau đớn trong thân xác con, với niềm vui trong lòng vì kính sợ Chúa'", một lời phó thác tuyệt vời như thể chất chứa tâm tình của Thánh Vịnh 3 ở bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi dậy chống con! Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa Trời cứu độ".

2) Nhưng lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho con ngẩng đầu lên. - Tôi lên tiếng kêu cầu Chúa, và Chúa đã nghe tôi từ núi thánh của Ngài.

3) Tôi nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng tôi. Tôi không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại tôi.

 

 

 

Ngày 21 tháng 11

Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ.

(Lễ nhớ)

 


Image result for maria presentation to the lord feast day

i ấy, Đức Giê-su còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47 Có kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người bảo kẻ ấy rằng : “Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ?” 49 Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói : “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50 Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”

 

Theo truyền thống Do Thái, người ta thường dâng con trẻ vào đền thờ để được thánh hiến và sau đó con trẻ sẽ ở trong đền thờ một thời gian giúp việc các vị chủ tế... Phúc Âm không đề cập đến thời thơ ấu của Ðức Trinh Nữ Maria. Nhưng theo Thánh Truyền thì Ðức Mẹ cũng đã thi hành tập tục nói trên. Tại đền thánh Giêrusalem, ngài đã thực hành biết bao hy sinh với một tâm hồn quảng đại.

Mười hai năm suy gẫm và cầu nguyện, chính là thời gian chuẩn bị cho chức vụ Mẹ Thiên Chúa. Theo thánh Hiêronimô, chương trình ngày sống của Ðức Mẹ trong đền thờ được phác họa như sau: Từ hừng đông đến 9 giờ sáng, Ngài cầu nguyện; từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều, Ngài làm việc chân tay và sau đó ngài lại cầu nguyện, sốt sắng suy gẫm Thánh Kinh và siêng năng đọc Thánh Vịnh.

Ngày lễ Mẹ dâng mình như bước đầu dẫn tới Ðức Khiết Tịnh Kitô giáo. Sau Ngài, biết bao trinh nữ đã tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa. Vì thế Mẹ Maria thực là gương mẫu bất diệt, là Ðấng bảo trợ nhiệt thành và là Ðấng hướng dẫn chắc chắn trên đường nhân đức vậy.

 

Đức Mẹ đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà thụ thai

Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.(sermo 25, 7-8; PL 46, 937-938. Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh cho Giờ Kinh Sách ngày Lễ Mẹ Dâng Mình 21/11)

Tôi xin anh em hãy để ý xem Chúa nói gì khi Người giơ tay chỉ các môn đệ : Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã không thi hành ý muốn của Chúa Cha sao ? Người là đấng đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà thụ thai ; Người được chọn để nhờ Người, Đấng cứu độ chúng ta ra đời ; Người được Đức Ki-tô tạo thành trước khi Đức Ki-tô được tạo thành nơi Người. Đức Ma-ri-a đã thi hành, hoàn toàn thi hành ý Chúa Cha ; vì thế, đối với Người, làm môn đệ của Đức Ki-tô thì quan trọng hơn là làm Mẹ của Đức Ki-tô. Mẹ càng sung sướng vì được làm môn đệ của Đức Ki-tô hơn là vì được làm Mẹ của Đức Ki-tô. Vậy, Đức Ma-ri-a được hạnh phúc vì đã cưu mang Thầy trước khi sinh ra Thầy.

Bạn hãy xem tôi nói có đúng không. Khi Chúa cùng đi đường với đám đông và làm phép lạ thì một bà nói : Sung sướng thay người mẹ đã cưu mang Thầy ! Phúc thay người mẹ đã cưu mang Thầy ! Nhưng, để người ta đừng tìm sung sướng theo lẽ tự nhiên, thì Chúa đã trả lời ra sao ? Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Do đó, Đức Ma-ri-a diễm phúc vì đã nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa ; Người gìn giữ sự thật trong tâm trí hơn là cưu mang xác phàm trong lòng. Đức Ki-tô là sự thật, Đức Ki-tô là xác phàm : là sự thật, Đức Ki-tô ở trong tâm trí Đức Ma-ri-a ; là xác phàm, Đức Ki-tô ở trong lòng Đức Ma-ri-a. Việc Đức Ki-tô ở trong tâm trí Mẹ thì quan trọng hơn việc Người ở trong lòng Mẹ.

Đức Ma-ri-a thánh thiện, Đức Ma-ri-a diễm phúc, nhưng Hội Thánh còn hơn Đức Ma-ri-a. Vì sao ? Thưa vì Đức Ma-ri-a là một thành phần của Hội Thánh, là một chi thể thánh, chi thể cao trọng, chi thể tuyệt vời, nhưng vẫn là một chi thể của toàn thân. Nếu Người thuộc về toàn thân, thì chắc chắn thân mình phải hơn một chi thể. Đầu của thân thể là Chúa nhưng Đức Ki-tô toàn thể gồm đầu và thân mình. Tôi phải nói gì đây ? Chúng ta có vị thần linh là đầu, chúng ta có Thiên Chúa là đầu.

Vậy, anh em thân mến, xin anh em để ý : anh em vừa là chi thể của Đức Ki-tô, vừa là thân mình Đức Ki-tô. Hãy để ý xem anh em là thế nào mà Chúa lại nói : Đây là mẹ tôi, là anh em tôi. Anh em là mẹ Đức Ki-tô thế nào ? Thưa : Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi. Tin tôi đi, tôi hiểu thế nào là anh em, là chị em của Đức Ki-tô : bởi vì chỉ có một gia sản, do đó, vì lòng thương xót, Đức Ki-tô, tuy là Con Một, đã không muốn chỉ mình được hưởng, nhưng muốn chúng ta được làm kẻ thừa tự của Chúa Cha và đồng thừa tự với Đức Ki-tô.

 

Bài 29– 7/8/1996: Việc chọn lựa của Mẹ Maria tác động đức đồng trinh dâng hiến 

(Bài Giáo Lý Thánh Mẫu của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II)

 

1- Ý muốn giữ sống đời của một trinh nữ, được hiển nhiên nơi những lời của Mẹ Maria trong giây phút Truyền Tin, theo truyền thống đã được coi là khởi điểm và là khởi động cho đức đồng trinh Kitô giáo trong Giáo Hội.

 

Thánh Âu Quốc Tinh không thấy nơi quyết định này việc hoàn tất của một chỉ thị thần linh mà là một lời khấn tự do chọn lựa. Như thế việc chọn lựa này mới có thể cho thấy Mẹ Maria là một mẫu gương cho “các kẻ đồng trinh” suốt giòng lịch sử của Giáo Hội. Mẹ Maria “đã hiến dâng đức đồng trinh của mình cho Thiên Chúa khi Mẹ chưa biết Đấng Mẹ sẽ thụ thai, nhờ đó hình ảnh của đời sống thiên đình trong một thân xác trần gian chết chóc được thực hiện bằng một lời khấn chứ không phải bằng một chỉ thị, nhờ việc chọn lựa yêu thương chứ không phải bởi nhu cầu phục vụ” (De Sancta Virg., IV, PL 40:398).

 

Vị Thiên Thần không yêu cầu Mẹ Maria sống đời trinh nữ; chính Mẹ Maria tự ý tỏ ra ý hướng muốn giữ mình đồng trinh của Mẹ. Việc chọn lựa yêu thương dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn hiến mình cho Chúa bằng một cuộc sống đồng trinh được tỏ hiện nơi sự dấn thân này.

 

Khi nhấn mạnh đến tính chất tự động nơi quyết định của Mẹ Maria, chúng ta không được quên rằng nguồn mạch của hết mọi ơn gọi đều do Thiên Chúa khởi động. Bằng việc chọn sống đời đồng trinh, người thiếu nữ thành Nazarét đáp ứng một tiếng gọi nội tâm, tức là đáp ứng tác động của Thánh Linh đã soi sáng cho Mẹ biết về ý nghĩa và giá trị của tặng ân đồng trinh nơi bản thân của Mẹ. Không ai có thể chấp nhận tặng ân này mà lại không cảm thấy được kêu gọi hay không lãnh nhận từ Thánh Linh ánh sáng và sức mạnh cần thiết.

 

Mẹ Maria đã mạnh mẽ quyết định sống đồng trinh

 

2- Mặc dù Thánh Âu Quốc Tinh sử dụng chữ “khấn hứa” để tỏ cho những ai ngài gọi là “các trinh nữ thánh” mẫu gương đầu tiên cho bậc sống của họ, Phúc Âm không chứng thực rằng Mẹ Maria đã minh nhiên thực hiện lời khấn này, một hình thức tận hiến và dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa là hình thức đã từng được thực hiện từ các thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội.

 

Theo Phúc Âm chúng ta thấy rằng Mẹ Maria đã thực hiện một quyết định cá nhân muốn sống đời trinh nữ, dâng hiến tấm lòng của Mẹ cho Chúa. Mẹ muốn trở thành một hôn thê trung thành của Ngài, hoàn trọn ơn gọi của Mẹ như một “nữ tử Sion”. Tuy nhiên, bởi quyết định của mình, Mẹ trở nên mẫu thức cho tâá cả những ai trong Giáo Hội muốn chọn việc dấn thân phục vụ Chúa bằng một tấm lòng không chia sẻ nơi đức đồng trinh.

 

Không có một cuốn Phúc Âm nào hay bất cứ một bản văn Tân Ước nào nói với chúng ta về thời điểm Mẹ Maria đã quyết định sống đời trinh nữ. Tuy nhiên, câu Mẹ hỏi vị thiên thần vào lúc Truyền Tin đã thật hiển nhiên cho thấy rằng Mẹ đã thực hiện một quyết định rất mạnh mẽ. Mẹ Maria không ngần ngại bày tỏ lòng ước mong của Mẹ muốn giữ đức đồng trinh này của mình ngay cả trước vai trò làm mẹ được bày tỏ với Mẹ, cho thấy rằng ý nguyện của Mẹ đã chín mùi từ lâu.

 

Thật vậy, việc Mẹ Maria chọn sống trinh nguyên không được thực hiện trước một viễn ảnh không thể biết được về việc trở nên Mẹ của Thiên Chúa, thế nhưng đã được phát triển trong ý thức của Mẹ trước biến cố Truyền Tin. Chúng ta có thể cho rằng khuynh hướng này bao giờ cũng hiện hữu trong long của Mẹ: ân sủng đã sửa soạn cho Mẹ trở thành một trinh mẫu chắc chắn đã tác dụng đến toàn thể cuộc phát triển về con người của Mẹ, trong khi đó Thánh Linh không thôi tác động nơi Mẹ, từ những năm ấu thơ nhất của Mẹ, ước muốn được hoàn toàn nên một với Thiên Chúa.

 

3- Những việc kỳ diệu ngày nay vẫn được Thiên Chúa thực hiện trong tâm hồn và đời sống của rất nhiều giới trẻ trước hết đã được hiện thực nơi linh hồn của Mẹ Maria. Ngay cả trong thế giới của chúng ta đây, một thế giới bị phân tâm rất nhiều bởi những thứ thu hút của một nền văn hóa thường nông nổi hời hợt và hưởng thụ, vẫn có nhiều thanh thiếu niên chấp nhận lời mời gọi xuất phát từ gương của Mẹ Maria để tận hiến tuổi trẻ của mình cho Chúa cũng như cho việc phục vụ anh chị em của mình.

 

Quyết định này là sự chọn lựa những giá trị cao cả hơn, hơn là việc từ bỏ những giá trị về nhân bản. Về vấn đề này, trong Tông Huấn Marialis Cultus của mình, vị tiền nhiệm khả kính Phaolô VI nhấn mạnh là bất cứ ai nhìn vào chứng từ của Phúc Âm với một tâm trí cởi mở “sẽ cảm nhận rằng việc chọn lựa của Mẹ Maria về tình trạng đồng trinh… không phải là một thứ loại trừ bất cứ những giá trị của bậc sống hôn nhân mà là một chọn lựa can đảm được Mẹ thực hiện để tận hiến bản thân mình trọn vẹn cho tình yêu của Thiên Chúa” (số 37) ra sao.

 

Tóm lại, việc chọn sống đời đồng trinh được tác động bởi lòng gắn bó trọn vẹn với Chúa Kitô. Điều này đặc biệt hiển nhiên nơi Mẹ Maria. Mạc dù trước biến cố Truyền Tin, Mẹ không nhận thức về nó, nhưng Thánh Linh đã tác động Mẹ việc tận hiến trinh nguyên liên quan đến Chúa Kitô: Mẹ vẫn là một trinh nữ để tiếp nhận Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Thế bằng tất cả con người của Mẹ. Đức đồng trinh đã bắt đầu nơi Mẹ Maria như thế cho thấy chiều kích tập trung vào Chúa Kitô của nó, thiết yếu cho cả đức đồng trinh được thực hành trong Giáo Hội, một đức đồng trinh mô phỏng theo gương mẫu cao cả nơi Người Mẹ của Chúa Kitô. Nếu đức đồng trinh nơi bản thân của Mẹ, được liên kết với vai trò làm mẹ thần linh, vẫn là một sự kiện phi thường, thì nó cống hiến ánh sáng và ý nghĩa cho hết mọi tặng ân trinh nguyên.

 

Đức đồng trinh tận hiến là nguồn mạch của việc sinh hoa kết trái thiêng liêng

 

4-  Biết bao nhiêu là nữ nhân trẻ trung trong lịch sử Giáo Hội, khi chiêm ngưỡng thấy tính chất cao cả và mỹ lệ nơi tâm hồn trinh nguyên của Mẹ Chúa Kitô, đã cảm thấy phấn khởi trong việc quảng đại đáp ứng tiếng gọi của Thiên Chúa bằng cách theo đuổi lý tưởng sống đồng trinh! “Như tôi đã nhắc đến trong Thông Điệp Redemptoris Mater – Mẹ Đấng Cứu Chuộc, “Chính đức đồng trinh này, theo gương của Vị Trinh Nữ Nazarét, là nguồn mạch của sự phong phú thiêng liêng đặc biệt: nó là nguồn mạch của vai trò làm mẹ trong Thánh Linh” (số 43).

 

Đời sống trinh nguyên của Mẹ Maria đã tác động nơi toàn thể dân Kitô hữu niềm trân trọng tặng ân đồng trinh và niềm ước muốn là nó cần phải gia tăng trong Giáo Hội như là một dấu hiệu thượng quyền của Thiên Chúa trên tất cả mọi thực tại và như là một thứ ngưỡng vọng tiên báo về một đời sống mai hậu. Cùng nhau, chúng ta hãy cảm tạ Chúa cho những ai ngày nay vẫn còn quảng đại hiến đời mình sống đồng trinh để phụng sự vương quốc của Thiên Chúa.

 

Đồng thời, trong khi ở các miền khác nhau được phúc âm hóa lâu đời chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa hưởng thụ dường như trở thành những rào cản cho nhiều giới trẻ trong việc theo đuổi đời sống tận hiến, chúng ta cần phải gia tăng nguyện xin Thiên Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, cho một cuộc triển nở mới về ơn gọi tu trì. Nhờ đó, dung nhan của Người Mẹ Chúa Kitô, được phản ảnh nơi nhiều trinh nữ đang nỗ lực theo Vị Thày thần linh, sẽ tiếp tục trở thành dấu hiệu cho tình thương và lòng âu yếm của Thiên Chúa đối với nhân loại. 

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Chuyển dịch từ L'Osservatore Romano Weekly Edition in English 21/8/1996, trang 7.

 

 

 

Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Mcb 7, 1. 20-31

"Ðấng Sáng Tạo vũ trụ sẽ trả lại cho các con tinh thần và sự sống".

Trích sách Macabê quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, bảy anh em bị bắt cùng với thân mẫu, và thừa lệnh nhà vua, người ta dùng gậy và roi gân bò đánh đập họ, bắt buộc họ ăn thịt heo mà luật đã cấm.

Ðặc biệt là bà mẹ đáng ca tụng và ghi nhớ: chỉ trong một ngày, bà chứng kiến bảy con mình chết, bà vui lòng chịu đựng và trông cậy vào Thiên Chúa. Bà đầy khôn ngoan, dùng tiếng của cha ông, can đảm khuyên bảo từng đứa con; bà dùng sự hăng say nam nhân mà nâng đỡ tâm hồn phụ nữ của bà. Bà nói với các con: "Mẹ không biết các con đã thành hình trong lòng mẹ ra sao, vì không phải mẹ ban cho các con tinh thần, linh hồn và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt các chi thể của mỗi con, nhưng là Ðấng Sáng Tạo vũ trụ, Người đã dựng nên loài người, và sáng tạo mọi sự với lòng nhân hậu. Người sẽ trả lại cho các con tinh thần và sự sống, vì giờ đây các con coi rẻ mạng sống các con để bảo vệ luật pháp của Người".

Vua Antiôcô tưởng rằng lời lẽ ấy khinh thị và lăng nhục ông. Bởi thế, đối với đứa con út của bà còn sống, không những ông dùng lời dụ dỗ cậu, ông còn thề hứa với cậu sẽ làm cho cậu được sung sướng giàu có, nếu cậu chối bỏ lề luật của cha ông, sẽ coi cậu như bạn hữu của ông và ban cho cậu nhiều tước lộc. Nhưng cậu không quan tâm đến những lời dụ dỗ ấy, nhà vua liền cho gọi mẹ cậu đến và khuyên bà nhủ bảo con, để cứu lấy mạng sống con mình. Khi nhà vua đã dài lời khuyến khích bà, bà nhận lời thuyết phục con. Vậy bà cúi sát vào con bà, đánh lừa nhà vua độc ác ấy; bà còn dùng tiếng của cha ông mà nói rằng: "Hỡi con, hãy thương mẹ đã cưu mang con chín tháng trong dạ, đã cho con bú sữa trong ba năm, đã nuôi dưỡng và dẫn dắt con cho tới tuổi này. Con ơi, mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất, và tất cả mọi sự trong đó; con biết rằng Thiên Chúa đã tác tạo những vật đó và loài người từ hư vô, nên con đừng sợ tên lý hình này, một hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con và hãy nhận lãnh cái chết, để nhờ lòng lân tuất của Chúa, mẹ sẽ gặp con cùng với các anh con".

Bà mẹ vừa dứt lời thì cậu con út lên tiếng rằng: "Các ông còn chờ gì nữa? Tôi không tuân lệnh nhà vua đâu, nhưng tôi tuân theo lề luật mà Môsê đã ban cho cha ông chúng tôi. Còn nhà vua, là kẻ đã bày ra đủ thứ để bách hại dân Do-thái, nhà vua sẽ không thoát khỏi tay Thiên Chúa đâu".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 16, 1. 5-6. 8b và 15

Ðáp: Lạy Chúa, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa (c. 15b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra tự cặp môi chân thành! - Ðáp.

2) Bước con đi bám chặt đường lối của Ngài, chân con đã không hề xiêu té. Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. - Ðáp.

3) Xin che chở con trong bóng cánh của Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan; khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 110, 8ab

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi gới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 19 11-28

"Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người đã đến gần Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây lát. Vậy Người phán rằng:

"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về". Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi". Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu.

"Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được mười nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ tốt lành, ngươi đã trung tín trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười thành". Người thứ hai đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được năm nén". Nhà vua đáp: "Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm thành".

"Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua, tôi còn giữ trong khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt cái ngài không gieo". Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời ngươi mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt cái ta không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời".

"Vua liền bảo những người đứng đó rằng: "Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho người đã có mười nén". Họ tâu rằng: "Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi". Vua đáp: "Ta nói cùng các ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ nghịch cùng ta, không muốn ta làm vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng trước mặt ta". Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem.

Ðó là lời Chúa.

 



Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

Đã có được cho thêm là để dự trữ mà bù đắp...  

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên, tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Một chi tiết cho thấy điều đó, chẳng cần theo dõi kỹ về đoạn và câu của 2 bài Phúc Âm, đó là chi tiết liên quan đến địa điểm của cuộc hành trình Giêrusalem của Chúa Giêsu.

Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm qua, nếu "Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành" thì trong Bài Phúc Âm hôm nay, "Người đã đến gần Giêrusalem", và chính "" thế, Phúc Âm hôm nay cho biết tiếp, "mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây lát". 

B
ởi thế, Thánh ký Luca ghi nhận rằng: "Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa", một dụ ngôn chẳng những trực tiếp liên quan đến cuộc hành trình Giêurusalem của Người bấy giờ, mà còn liên quan đến "Nước Thiên Chúa", một thực tại thần linh đã từng được Người sử dụng nhiều hình ảnh khác nhau để sánh ví trước đó nay Người muốn nói "thêm... nữa" vào lúc Người gần tới Thành Giêrusalem: "Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem". Và dụ ngôn ấy được Phúc Âm hôm nay cho biết đã bắt đầu như thế này:

"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: 'Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về'. 
Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: 'Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi'. Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu".

Tr
ước hết, "người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về" đây phải chăng ám chỉ chính Chúa Kitô, Con Thiên Chúa ("quí tộc"), từ trời xuống trần gian ("đi phương xa") để hoàn tất công cuộc cứu chuộc trần gian của mình, ở chỗ được "treo lên" (Gioan 8:28) trên ngai tòa Thánh Giá (như "được phong vương", nhưng sau đó người đã tự mình sống lại ("rồi trở về").

Ý nghĩa "đi phương xa" cũng có thể hiểu có liên hệ mật thiết với lời tiên báo của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người trong Bữa Tiệc Ly về việc Người ra đi đến một nơi mà các môn đệ của Người không thể tới được và chẳng biết là ở chỗ nào để theo như tông đồ Toma cảm nhận (xem Gioan 14:5): "Thày chẳng còn ở với các con bao lâu nữa. Các con sẽ tìm kiếm Thày... Nơi Thày đi các con không thể nào tới được" (Gioan 13:33).

Trước khi lên đường "
đi phương xa để được phong vương rồi trở về" như thế, "ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: 'Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về'", phải chăng ở đây Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến Bữa Tiệc Ly là lúc Chúa Giêsu đã trao cho các vị, một điều bao gồm cả 10 điều răn Cựu Ước (ám chỉ "10 nén bạc") đó là "giới răn mới" (Gioan 13:34), ở chỗ các vị phải "yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con. Tất cả mọi người sẽ dấu ấy mà nhận biết các con là môn đệ của Thày" (Gioan 13:34-35).

Thế nhưng
, việc Chúa Kitô hành trình lên Giêrusalem để hoàn tất sứ vụ cứu độ trần gian của Người như một ông vua như thế không được lòng "dân của" Người là dân Do Thái vốn "ghét" Người nên họ đã ra mặt công khai chống đối: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi", bằng cách sát hại Người. Không ngờ, việc họ tự do sát hại Người một cách độc dữ tàn bạo chưa từng thấy lại giúp cho Người "được phong vương" - "Giêsu Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38), Đấng "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18).

"Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu". Đúng thế, khi "trở về" vào lúc quang lâm tái giáng của mình trong ngày sau hết, Chúa Kitô sẽ tính sổ sách về nén bạc được Người trao phó cho thành phần đầy tớ của Người thuộc hàng ngũ lãnh đạo đàn chiên của Người, từ các vị tông đồ đến thành phần thừa kế các vị trong hàng giáo phẩm (bao gồm cả giáo sĩ) dọc suốt giòng lịch sử của Giáo Hội Người thiết lập.

Nén bạc đó đối với thành phần đầy tớ của Chúa Kitô (nếu hiểu về các vị chủ chiên trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ) quả thực là đức bác ái, như chính Người đã hỏi tông đồ Phêrô 3 lần có yêu mến Người hay chăng để Người trao phó các chiên của Người cho ngài, cũng như cho các vị thừa kế ngài cùng tông đồ đoàn là các vị giáo hoàng và giám mục sau này trong Giáo Hội. Và quả thực, chính vì nén bạc đó là đức bác ái yêu thương phục vụ mà Người đã căn cứ vào đức bác ái này mà phán xét cùng thưởng phạt vậy (xem Mathêu 25:31-46).

V
ấn đề ở đây là "người quí tộc" trong dụ ngôn đã trao cho 10 người đầy tớ của mình 10 nén bạc, nghĩa là mỗi người một nén bạc chứ không phải mỗi người 10 nén bạc, ám chỉ 10 điều răn, nhưng được tóm lại thành "một nén bạc" là "giới răn mới" được Chúa Kitô truyền lại cho các tông đồ. Vậy "10 người đầy tớ" đây là ai, nếu không phải ở trong Bữa Tiệc Ly bấy giờ là lúc các môn đệ được Chúa Kitô trao cho nén bạc "giới răn mới" có thể hiểu là ám chỉ 10 vị trong số 12, vì tông đồ Giuđa bấy giờ đã bỏ đi bàn việc nộp Người (xem Gioan 13:30), và Tông Đồ Gioan không kể vì vị tông đồ này tự bản chất và sứ vụ vốn gắn liền với "giới răn mới" qua cử chỉ dựa vào ngực Chúa Kitô (xem Gioan 13:23).

Tuy nhiên việc sinh lợi nén bạc lại tùy theo trình độ khả năng và mức độ nỗ lực 
của mỗi người đầy tớ nữa. Bởi thế, trong 3 loại người đầy tớ tiêu biểu được chủ gọi đến trình bày trách nhiệm nén bạc của mình, có người sinh lợi được gấp 10 lần, nhưng cũng có người chỉ sinh lợi được gấp 5 thôi, như dụ ngôn của Bài Phúc Âm cho thấy. 

Ở đây có thể hiểu nén bạc "giới răn mới" là "yêu nhau như Thày" nơi từng người 
đầy tớ sinh lợi nhiều như gấp 10, hay sinh lợi vừa như gấp 5, chẳng những tùy ở ơn gọi hay bậc sống của Kitô hữu, giáo dân hay giáo sĩ, mà còn tùy ở mức độ nên một với Chúa Kitô nữa, ở chỗ, càng hiệp nhất với Người thì Người càng yêu thương tha nhân như chính Người đã yêu họ, nghĩa là họ càng phản ảnh Chúa Kitô một cách trung thực nhất và sống động nhất, gấp 10 lần, hơn gấp 5 lần

Trong số thành phần đầy tớ cũng không thể thoát được có một 
thiểu số nào đó không đáp ứng trách nhiệm nén bạc được trao phó, ở chỗ sống vị kỷ, hưởng thụ hơn phục vụ, không phản ảnh bản chất đức ái trọn hảo của mình như "ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14) chiếu tỏa Chúa Kitô " ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12). 

N
ếu họ cảm thấy "giới răn mới" là "yêu nhau như Thày yêu" là một lý tưởng quá siêu việt họ không thể nào với tới như lòng mong ước của chủ mình, nhất là như gương của chủ mình trong việc "được phong vương" trên Thánh Giá của chủ: "hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người" (Mathêu 20:28), thì ít nhất họ vẫn có thể sinh lợi nén bạc bác ái được trao cho họ, bằng cách gửi vào "nhà băng" thần linh, ở chỗ tin tưởng (trust) ký thác (deposit) vào Lòng Thương Xót Chúa, để chính Người bù đắp những yếu hèn bất lực thiếu sót của họ, nhờ đó Người "có thể lấy cả vốn lẫn lời" từ họ, như từ tên tử tội bị đóng đanh bên phải Người trên Đồi Canvê xưa (xem Luca 23:40-43)

Ở cuối dụ ngôn trong 
bài Phúc Âm hôm nay còn một chi tiết rất hay nữa, đó là "Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có", điển hình là người đầy tớ sinh lợi 10 nén nhiều nhất lại được thêm nén bạc của "người đầy tớ bất lương". 

Đúng thế, trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, những tâm hồn thánh thiện (chứ không phải chỉ ở tầm mức đạo đức thôi) thường được thêm nhiều ơn Chúa ban, những ơn mà tội nhân vì yếu đuối và mù quáng 
đánh mất, nhưng không phải để người đã có hoan hưởng một mình, trái lại, là để bù đắp cho chính tội nhân đã đánh mất đi ân sủng của họ được Chúa ban, nhờ đó chính tội nhân cũng được cứu độ. Ôi Lòng Thương Xót Chúa vô cùng khôn ngoan và tìm hết cách để cứu độ con người, cứu độ từng người. 

Những nén bạc được sinh lợi gấp đôi hay gấp trăm trong bài Phúc Âm hôm nay có thể là sự sống của những ai tin tưởng vào Chúa, dám hy sinh nó đi để nó trở thành bất tử và bất diệt trong cõi sống vĩnh cửu, như trường hợp của 7 người con trai của người mẹ góa sẵn sàng và hiên ngang tử đạo, nhất là trường hợp của chính người mẹ đã đầu tư 7 nén bạc là 7 người con trai của mình vào cõi trường sinh, những trường hợp sinh lợi thiêng liêng này đã được Sách Macabê quyển thứ 2 thuật lại ở Bài Đọc 1 hôm nay:

"Ðặc biệt là bà mẹ đáng ca tụng và ghi nhớ: chỉ trong một ngày, bà chứng kiến bảy con mình chết, bà vui lòng chịu đựng và trông cậy vào Thiên Chúa. Bà đầy khôn ngoan, dùng tiếng của cha ông, can đảm khuyên bảo từng đứa con; bà dùng sự hăng say nam nhân mà nâng đỡ tâm hồn phụ nữ của bà. Bà nói với các con: 'Mẹ không biết các con đã thành hình trong lòng mẹ ra sao, vì không phải mẹ ban cho các con tinh thần, linh hồn và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt các chi thể của mỗi con, nhưng là Ðấng Sáng Tạo vũ trụ, Người đã dựng nên loài người, và sáng tạo mọi sự với lòng nhân hậu. Người sẽ trả lại cho các con tinh thần và sự sống, vì giờ đây các con coi rẻ mạng sống các con để bảo vệ luật pháp của Người'".

Đúng thế, "Lạy Chúa, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa" là một câu trong Thánh Vịnh 16 ở bài Đáp Ca hôm nay đã phản ảnh lòng tin tưởng vào sự phục sinh và phúc trường sinh của cậu con út sau khi nghe mẹ mình phấn khích tử đạo đã khẳng khái nói lên lời cuối cùng với những kẻ bách hại và sát hại mình rằng: "Các ông còn chờ gì nữa? Tôi không tuân lệnh nhà vua đâu, nhưng tôi tuân theo lề luật mà Môsê đã ban cho cha ông chúng tôi. Còn nhà vua, là kẻ đã bày ra đủ thứ để bách hại dân Do-thái, nhà vua sẽ không thoát khỏi tay Thiên Chúa đâu".

 

Ngày 22 tháng 11

Thánh Xê-xi-li-a, trinh nữ, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

 

St. Cecilia and the History of the Roman Catacombs| National Catholic  Register


Tiểu sử 
Cuối thế kỷ V, câu chuyện về cuộc thương khó của các chứng nhân tử đạo Xê-xi-li-a, Va-lê-ri-a-nô và Ti-buốc đã ca ngợi đức đồng trinh của Ki-tô giáo, khiến cho tên tuổi của một thiếu nữ người Rô-ma tên là Xê-xi-li-a trở thành lừng lẫy. Chị đã chịu tử đạo và được mai táng ở nghĩa trang Ca-lít-tô. Một thánh đường đã được xây dựng để kính thánh nữ và một đoản văn trong câu chuyện trên đã khiến cho các nhạc sĩ chọn chị làm bổn mạng.

Bài đọc 2

Hãy hát cho hay bằng tiếng reo vui để mừng Chúa

Trích bài diễn giải thánh vịnh của thánh Âu-tinh, giám mục.

Hãy tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm ; kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt. Nào dâng Chúa một bài ca mới. Hãy cởi bỏ cái cũ kỹ ; anh em đã biết bài ca mới. Con người mới, giao ước mới, bài ca mới. Bài ca mới không thích hợp với những con người cũ. Bài ca đó, chỉ những con người mới mới học được, vì nhờ ân sủng họ đã được đổi mới từ tình trạng cũ kỹ và từ nay thuộc về giao ước mới, tức là Nước Trời. Tất cả tình yêu của chúng ta tha thiết hướng về Nước ấy và hát bài ca mới ; hãy hát bài ca mới, không phải bằng môi miệng nhưng bằng đời sống.

Hãy dâng Chúa một bài ca mới, hãy hát cho hay để mừng Người. Mỗi người tự hỏi phải hát mừng Thiên Chúa thế nào. Hãy hát mừng Người, nhưng đừng hát sai. Người không muốn bị chói tai. Hãy hát cho hay, hỡi anh em. Trước mặt một người sành âm nhạc, nếu người ta bảo bạn : “Hãy hát cho ông ấy thưởng thức”, mà bạn không được huấn luyện về âm nhạc, thì bạn sợ không dám hát kẻo làm mất lòng người nghệ sĩ. Thật thế, những lỗi người không thạo nhạc chẳng nhận ra, thì người nghệ sĩ sẽ thấy rõ. Vậy ai dám cho mình là hát hay để hát mừng Thiên Chúa, Đấng đánh giá người hát, Đấng xem xét mọi sự, Đấng nghe thấy tất cả ? Bao giờ bạn mới có thể hát cách điêu luyện đến mức không làm chói đôi tai thành thạo ấy chút nào ?

Đây chính Người chỉ cho bạn cách hát : đừng tìm lời, như thể bạn có khả năng diễn tả bằng lời điều làm cho Thiên Chúa ưa thích. Hãy hát mừng Người bằng tiếng reo vui. Hát bằng tiếng reo vui, đó là hát cho hay để dâng Chúa. Hát bằng tiếng reo vui là gì ? Phải hiểu rằng tiếng hát của tâm hồn không thể diễn tả bằng lời. Cũng như những người hát trong khi gặt lúa hoặc hái nho hay khi làm một công việc gì phấn khởi : thoạt đầu họ vui mừng hân hoan nhờ những lời của bài ca, sau đó họ như đầy tràn một niềm vui lớn lao đến nỗi không thể diễn tả bằng lời, nên họ không dùng lời nữa mà chuyển sang tiếng reo vui.

Reo vui là một tiếng phát ra để diễn tả rằng : tâm hồn đang trào dâng một điều gì đó không thể nói lên được. Tiếng reo vui ấy thích hợp với ai hơn là với Thiên Chúa, Đấng không gì diễn tả được ? Đấng không gì diễn tả được là Đấng bạn không thể nói lên được bằng lời. Nếu bạn không thể nói lên bằng lời, mà cũng không được phép thinh lặng, thì bạn còn cách nào hơn là reo vui ? Tâm hồn cứ hân hoan mà không cần lời để niềm vui vô biên không bị ngôn từ giới hạn. Hãy hát cho hay bằng tiếng reo vui để mừng Chúa.

Xướng đápTv 70 (71),8.23 ; 9,3

XMiệng con chứa chan lời tán tụng Chúa, suốt ngày con chẳng ngớt tôn vinh.

ĐTheo nhịp đàn mừng Chúa, miệng con sẽ reo hò.

XMừng Ngài, con hân hoan nhảy múa, đàn hát kính danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao.

ĐTheo nhịp đàn mừng Chúa, miệng con sẽ reo hò.

Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính thánh Xê-xi-li-a, chúng con đến dâng lời khẩn nguyện : Vì lời thánh nữ chuyển cầu, xin cho chúng con được xứng đáng hát mừng danh thánh Chúa. Chúng con cầu xin

 

 

 

Thứ Năm

 


Phụng Vụ Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 2, 15-29

"Chúng tôi tuân theo lề luật cha ông chúng tôi".

Trích sách Macabê quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, vua Antiôcô sai người đến cưỡng bách các người trốn ẩn tại thành Môđin cúng tế dâng hương và chối bỏ lề luật Thiên Chúa. Có nhiều người trong dân Israel tuân lệnh đến với họ, nhưng ông Mathathia và các con ông cương quyết không chịu theo. Các người vua Antiôcô sai đến, lên tiếng nói với Mathathia rằng: "Ông là thủ lãnh có tiếng tăm và có uy tín trong thành này và có nhiều con cái và anh em. Vậy ông hãy tiến lên trước tiên và thi hành lệnh nhà vua, như hết thảy mọi dân tộc, như các người chi tộc Giuđa và những người còn ở lại Giêru-salem đã thi hành rồi, ông và các con ông sẽ là bạn hữu của nhà vua, sẽ được nhà vua ban cho vàng bạc và ân huệ khác". Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: "Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua, phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác".

Ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy, Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ. Lòng nhiệt thành của ông đối với lề luật cũng giống như lòng nhiệt thành của Phinê đã đối xử với Zimri con ông Salomi.

Ðoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: "Ai nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo tôi!" Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn vào hoang địa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 49, 1-2. 5-6. 14-15

Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).

Xướng: 1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy hoàng. - Ðáp.

2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên Chúa Người là thẩm phán. - Ðáp.

3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta. - Ðáp.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 19, 41-44

"Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".

Ðó là lời Chúa.

 

 



Suy nghiệm Lời Chúa


 

 

Những giọt châu lệ của một Tình Yêu Thương Xót quá thống khổ



Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên, bài Phúc Âm tiếp tục thuật lại hành trình lên Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau khi "Người đã gần đến Giêrusalem - he was near Jerusalemđược Thánh ký Luca ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm qua, thì bài Phúc Âm hôm nay cho biết "Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem - coming within in sight of the city".

Th
ật ra giữa bài Phúc Âm hôm qua và bài Phúc Âm hôm nay cách nhau một khúc phúc âm không thích hợp vào thời điểm của Mùa Thường Niên Tuần XXXIII này, đó là khúc phúc âm về biến cố Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào Thành Thánh Giêrusalem, một khúc phúc âm đã được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật Lễ Lá, ở phần nghi thức rước lá trước lễ. 

V
à tầm mức gần Thành Giêrusalem của Chúa Giêsu đến độ mắt của Người có thể trông thấy được toàn cảnh của thành này, và vì trông thấy thành Giêrusalem như thế mà Người đã thổn thức khóc, như Phúc Âm thuật lại như sau:

"Trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: 'Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp l
ũy bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".

Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu khóc được Phúc Âm thuật lại; lần thứ nhất xẩy ra vào lúc trước khi Người hồi sinh Lazarô (xem Gioan 11:35). Vậy tại sao Người lại khóc khi thấy thành thánh Giêrusalem này, nếu không phải lý do ở ngay những lời Người nói với thành thánh ấy: phải chăng chính là vì thành thánh có đền thánh là nơi Thiên Chúa Cha của Người ngự này sẽ bị quân thù phá tan tành 
thành bình địa "không hòn đá nào trên hòn đá nào", hay là vì "ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng" nên sẽ bị nông nỗi kinh hoàng khủng khiếp chưa từng thấy ấy?

Chúa Kitô khóc lần thứ nhất trước ngôi mộ của Lazarô đã chết đến
 xông mùi sau 4 ngày (xem Gioan 11:39) không phải vì Lazarô là người bạn thân của Người đã chết sắp được Người hồi sinh, cho bằng vì Người thấy trước có một số môn đệ của Người sẽ bị vĩnh viễn hư đi trong mộ tử thần không bao giờ chỗi dậy được nữa, cho dù có nghe được tiếng Người gọi, hay hoàn toàn không còn nghe được tiếng Người nữa. 

Bởi vậy, lần khóc thứ hai này của Người trước hình ảnh của một thành thánh Giêrusalem nguy nga đồ sộ sẽ bị tàn phá liên quan đến hình ảnh về một Giáo Hội của Người cũng sẽ có ngày bị "các đạo quân Gog và Magog" đông vô kể công hãm, như Sách Khải Huyền đã tiên báo (20:9), khiến cho một số chi thể của Người bị tử thương muôn đời về phần rỗi vô cùng tiếc xót của họ!
 

Nếu biết được Thiên Chúa yêu thương loài người đến đâu thì mới cảm được sự kiện khóc thương này của Chúa Giêsu, như thể Người tiếc thương chẳng những cho các linh hồn bất tử vô cùng quí giá bị hư đi mà còn khóc thương cho chính Tình Yêu Vô Cùng Nhân Hậu đầy Khôn Ngoan và Toàn Năng của Thiên Chúa, một tình yêu đã yêu thương loài người "đến cùng" (Gioan 13:1), không còn thể nào yêu hơn được nữa, không còn cách nào để yêu họ hơn được nữa, đã chẳng những trở nên vô ích và thành đồ bỏ đối với những linh hồn hư đi ấy, mà còn trở thành án phạt đời đời cho họ nữa.

Phải chăng những giọt nước mắt không thể cầm được nơi Chúa Kitô phần nào diễn tả tất cả nỗi xót xa đớn đau của một Vị Thiên Chúa Toàn Thiện và Toàn Ái trước thân phận hư đi của một số linh hồn bất hạnh được Ngài yêu thương dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Ngài để nhờ đó họ có thể hiệp thông thần linh với Ngài?

Phải chăng những giọt nước mắt ngọc ngà chảy ra từ đôi mắt vô cùng từ bi nhân hậu của Vị Thiên Chúa hóa thân làm người Giêsu Nazarét ấy mới là một chút dạo khúc mở đầu cho nỗi thống khổ sẽ lên tới tột cùng ở Vườn Cây Dầu khi Vị Thiên Chúa làm người này toát mồ hôi máu ra nhỏ xuống đất (xem Luca 22:44), hình ảnh báo trước cuộc tử nạn vô cùng đau thương của Đấng cho dù đã chết vẫn chưa được dung tha, vẫn còn bị một lưỡi đòng phũ phàng oan nghiệt đâm thâu qua làm cho "máu và nước chảy ra" (Gioan 19:34)? Ôi LTXC!

Tuy nhiên, tình trạng Thành Thánh Giêrusalem bị tàn phá được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay không phải chỉ là một tai họa, một hậu quả gây ra do tội lỗi của dân Chúa "đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng", mà còn là một thách thức đối với những tâm hồn nào còn trung thành với Ngài, để Ngài tiếp tục tỏ mình ra cho cả thành phần vô đạo bách hại họ và sát hại họ nữa, như trường hợp của Matthias cùng với gia đình của ông và những người bất khuất đáp lại lời kêu gọi hào hùng của ông, như được Sách Macabê quyển thứ 1 thuật lại trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: 'Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua, phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác'"

 

Thế rồi, "ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy, Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ.... Đoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: 'Ai nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo tôi!' Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn vào hoang địa".

 

Thật vậy, lời kêu gọi của Matha-thia trong Bài Đọc 1 hôm nay có thể nói âm vang lời Thiên Chúa kêu gọi "ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ" trong Thánh Vịnh 49 ở bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy hoàng.

2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên Chúa Người là thẩm phán.

3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta.



Thánh Clêmentê ở Rôma

 Giáo Hoàng Tử Đạo

Pope St. Clement I - Saints & Angels - Catholic Online

 

 

Người ta biết được về thánh Clêmentê, vị giáo hoàng trị vì trong 10 năm chỉ nhờ bức "thư gởi giáo hữu Côrintô" thôi. Vào thế kỷ thứ IV có lưu hành những chứng thư đầy huyền thoại. Theo đó, cha Ngài là Phaustin thuộc dòng dõi Giacop. Sinh tại Roma, được nuôi dưỡng trong Do thái giáo.

 

Thánh Clêmentê đã nghe theo những diễn từ của các thánh tông đồ và trở thành môn đệ các Ngài. Ngài đã theo thánh Phaolô trong các hành trình đi truyền giáo và đã trở thành đấng kế vị thứ ba của thánh Phêrô. Vua Trajanô đang bách hại các Kitô hữu biết được rằng: vị giáo hoàng đã đem được nhiều người trở lại đạo. Ông kết án Ngài phải làm việc khổ sai tại các hầm mỏ bên kia Bắc Hải, trong các miền hoang vắng. Hai ngàn Kitô hữu đẽo đá tại đây chịu cảnh khát nước thảm khốc.

 

Tương truyền rằng thánh Clêmentê cầu nguyện rồi lên một ngọn đồi và thấy một con chiên ghi dấu chân đúng vào chỗ có dòng nước tươi mát vọt lên làm giảm khát cho người mang án. Các bức tranh cẩn đâu tiền còn diễn lại biểu tượng một con chiên đứng trên ngọn núi xanh. Nhà vua khi biết được rằng thánh Clêmentê đã dùng lời nói và phép lạ để an ủi các Kitô hữu, liền sai các sứ giả tới cột cổ Ngài vào một cái neo rồi ném xuống biển. Lệnh đường thi hành. Nhưng trong khi các tín hữu cầu nguyện trên bờ, họ thấy dòng nước rút đi một cách lạ lùng và có thể đưa xác vị tử đạo lên đất liền.

 

Điều chắc chắn chính là bức thư của thánh Clêmentê đã thành một trong các tài liệu quí giá của Kitô giáo thời Chúa xưa. Các Kitô hữu Côrintô chạy đến Đức giáo hoàng để tìm hoà giải những cuộc tranh chấp, đã kính cẩn đón tiếp thư của Ngài. Những thư này được đọc cho các cộng đoàn tín hữu. Thư của thánh Clêmentê chứng thực việc thánh Phêrô đến và chịu chết ở Roma, việc Nêrô bắt các Kitô hữu làm trò mua vui. Thư cũng gợi ý cho chúng ta việc tổ chức Giáo hội. Giữa các sự việc lớn lao khác, thánh Clêmentê đã nói:

 

- "Ai mạnh hãy lo cho người yếu. Người giầu hãy giúp đỡ người nghèo và người nghèo hãy chúc tụng Chúa và điều Ngài muốn cung ứng cho các nhu cầu của họ. Người khôn ngoan hãy tỏ ra khôn ngoan không phải chỉ trong lời nói mà còn trong các việc lành. Người khiêm tốn đùng nói gì về mình và đừng tìm phô diễn hành động của mình. Người lớn không thể tồn tại mà không có người nhỏ và người nhỏ cũng không thể tồn tại mà không có người lớn... Thân thể không thể bỏ qua sự phục vụ của những chi thể nhỏ bé hơn.

 

Các tín hữu còn học biết bằng qua những âu lo vô ích và sống đời sám hối, mỗi người phải biết vâng phục để trở nên tôi tớ hoàn tất vinh quang Thiên Chúa. Đức Kitô đã không đến trong kiêu sa, nhưng đã tự hạ, đã chịu khổ cực. Vậy phải nên thánh và tín thác cho Chúa.

 

Chỉ một bức thư này còn quan trọng trong sự thật vượt xa mọi truyện thần thoại.

 

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 28/2/2007 –

Bài Giáo Lý 32 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong mấy tháng qua, chún g ta đã suy niệm về những hình ảnh của từng vị tông đồ và là những vị chứng nhân tiên khởi của đức tin Kitô Giáo, những vị được đề cập tới trong các bản văn Tân Ước. Giờ đây, chúng ta quay sang các vị Tông Giáo Phụ , tức đến thế hệ thứ nhất và thứ hai của Giáo Hội sau các tông đồ. Nhờ đó chún g ta có thể thấy được cách thức Giáo Hội bắt đầu tiến bước trong lịch sử.

 

Thánh Clêmentê, Giám Mục Rôma trong những năm cuối cùng của thế kỷ thứ nhất, là vị thừa kế thứ ba của Thánh Phêrô, sau Đức Linus và Đức Anacletus. Chứng từ quan trọng nhất về đời sống của ngài được Thánh Irênê là giám mục Lyon viết mãi vào năm 202. Vị giám mục này cho rằng Thánh Clêmentê ‘đã từng thấy các vị tông đồ… đã được gặp gỡ các vị ấy’, và ‘vẫn còn văng vẳng bên tai giáo huấn của các vị, và vẫn còn thấy trước mắt truyền thống của các vị’ (Adv. Haer. 3,3,3). Những chứng từ sau này, giữa thế kỷ thứ bốn và thứ sáu, thì qui tước hiệu tử đạo cho Thánh Clêmentê.

 

Thẩm quyền và thế giá của vị Giám Mục Rôma này như vậy nên có một số bản văn được qui về cho ngài, thế nhưng chỉ có một bản văn chắc chắn là Bức Thư gửi cho Giáo Đoàn Côrintô.

 

Giáo phụ Eusebius thành Caesarea, một đại ‘lưu trữ viên’ của những gốc tích Kitô Giáo, đã trình bày về bức thư này bằng những lời lẽ như sau: ‘Một bức thư duy nhất của Đức Clêmentê đã được gửi xuống cho chúng ta được công nhận  là chân thực, trọng đại và tuyệt vời. Bức  thư này được ngài viết nhân  danh Giáo Hội Rôma gửi cho Giáo Hội ở Côrintô… Chúng ta biết rằng qua một thời gian dài, và cho tới cả ngày nay nữa, bức thư n ày được công khai đọc trong những cuộc tái hợp của tín hữu’ (Hist. Eccl. 3,16).

 

Một đặc tính hầu như có tính cách giáo luật được qui cho bức thư này. Ở đầu bản văn ấy, được viết bằng tiếng Hy Lạp, Đức Clêmentê xin lỗi nếu ‘những biến cố phức tạp và tai hại’ (1:1) đã xẩy ra vì một cuộc can thiệp chậm chạp. Những ‘biến cố’ ấy có thể được đồng hóa với cuộc bách hại của Domitian; bởi thế, ngày tháng của bức thư này được viết vào thời điểm ngay sau cái chết của vị hoàng đế ấy và trước khi chấm dứt cuộc bách hại, tức là ngay sau năm 96.

 

Việc can thiệp của Đức Clêmentê – chúng ta vẫn còn ở thế kỷ thứ nhất – được kêu gọi thực hiện vì những vấn đề trầm trọng Giáo Hội Côrintô đang trải qua; thật vậy, các vị linh mục của cộng đồng này đã bị loại trừ bởi một số thành phần trẻ trung mới tạo được uy thế. Biến cố đau thương này một lần nữa được ghi nhớ bởi Thánh Irênê, vị đã viết rằng: ‘Dưới thời Đức Clêmentê, xẩy ra một cuộc xung khắc trầm trọng giữa các người anh  em ở Corintô, Giáo Hội Rôma đã gửi cho giáo đoàn Côrintô một bức thư rất quan trọng để hòa giải họ trong an bình, để canh tân đức tin của họ và để loan báo một truyền thống họ đã lãnh nhận còn rất mới mẻ từ các vị tông đồ’ (Adv. Haer. 3,3,3).

 

Bởi thế, chúng ta có thể nói rằng bức thư này là việc hành sử lần đầu tiên của một Vị Giáo Chủ ở Rôma sau cái chết của Thánh Phêrô. Bức thư của Thánh Clêmentê đã đụng chạm tới những đề tài thân thương với Thánh Phaolô, vị đã viết hai bức thư quan trọng cho giáo đoàn Côrintô, nhất là về vấn đề biện chứng thần học, bao giờ cũng thích hợp, giữa biểu thị của việc cứu độ và trách nhiệm dấn thân về luân lý.

 

Trước hết là việc công bố ơn cứu độ. Chúa thấy được là chúng ta cần gì và ban ơn tha thứ cho chúng ta, ban cho chúng ta tình yêu của Người, ban cho chúng ta ơn được làm người Kitô hữu, làm anh chị em của Người. Đó là điều rao giảng làm cho cuộc đời chúng ta hân hoan và giúp cho các hoạt động của chúng ta được vững chắc. Chúa Kitô luôn thấy được là các hành động của chúng ta cần đến sự thiện hảo của Người và sự thiện hảo của Chúa bao giờ cũng lớn hơn tất cả mọi tội lỗi của chúng ta.

 

Tuy nhiên, chúng ta cần phải quyết tâm một cách gắn bó với tặng ân chúng ta được lãnh nhận ấy và đáp lại việc loan truyền ơn cứu độ bằng một đường lối quảng đại và can trường hướng tới việc hoán cải. So sánh với mô thức của Thánh Phaolô, thì cái mới mẻ là ở chỗ, tiếp theo sau phần tín lý và phần thực hành Thánh Clêmentê, có ‘một lời nguyện cầu long trọng’ để kết thúc bức thư một cách cụ thể.

 

Dịp trực tiếp của bức thư này đã tạo cơ hội cho vị Giám Mục Rôma để can thiệp một cách sâu rộng vào vấn đề căn tính của Giáo Hội và sứ vụ của Giáo Hội. Thánh Clêmen tê ghi nhận là nếu có những c huyện lạm dụng xẩy ra ở Côrintô thì lý do cần phải lưu ý tới đó là ở tình trạng yếu kém về đức ái và những nhân đức cần thiết của Kitô Giáo. Đó là lý do tại sao ngài đã kêu gọi tất cả mọi tín hữu hãy sống khiêm nhượng và yêu thương huynh đệ, hai nhân đức thật sự là căn bản để làm phần tử của Giáo Hội. Ngài nói: ‘Chúng ta là phần thể của Đấng Thánh, nên chúng ta hãy làm tất cả những gì liên quan tới thánh thiện’ (30:1).

 

Đặc biệt vị Giám Mục Rôma này còn nhắc lại rằng chính Chúa Kitô, ‘Người muốn những điều ấy được thực hiện ở đâu và bởi ai, thì chính Người đã ấn định theo ý muốn tối cao của Người, để tất cả mọi sự, được thực hiện một cách đạo hạnh theo sở thích tốt lành của Người, đáng được Người chấp nhận…. Vì những việc phục vụ đặc biệt của Người là những gì được bổ nhiệm cho vị thượng tế, và nơi chốn thích hợp của những việc phục vụ ấy được qui định cho các vị linh mục, và những thừa tác vụ đặc biệt của những việc ấy được trao cho thành phần Lêvi. Thành phần giáo dân, theo luật, có trách nhiệm đối với những gì thuộc giáo dân’ (40:1-5: xin lưu ý là ở đây, trong bức thư từ cuối thế kỷ thứ nhất này, lần đầu tiên văn chương Kitô Giáo có chữ Hy Lạp ‘laikós’, mang ý nghĩa là ‘phần tử của vương quốc’, tức là thành phần ‘dân Chúa’).

 

Như thế, khi qui chiếu về phụng vụ của dân  Yến Duyên, Thánh Clêmentê cho thấy lý tưởng của ngài về Giáo Hội. Đó là một cuộc qui tụ bởi ‘một thần linh ân sủng được đổ xuống trên chúng ta’, cho thấy, qua các phần tử khác nhau của Thân Mình Chúa Kitô, tất cả được liên kết bất phân đều là ‘phần tử của nhau’ (46:6-7).

 

Việc phân biệt rõ ràng giữa thành phần ‘giáo dân’ và phẩm trật dù sao cũng không có nghĩa là một cái gì đó tương phản mà chỉ là một liên hệ theo cơ cấu của một thân thể, của một tổ chức có những phần hành khác nhau. Thật vậy, Giáo Hội không phải là một nơi hỗn độn và vô chủ, nơi mà ai muốn  làm gì thì làm vào bất cứ lúc nào, mỗi người trong cơ cấu có lớp lang này thực hành thừa tác vụ của mình theo ơn  gọi được  nhận lãnh.

 

Liên quan tới thành phần  lãnh đạo của các cộng đồng, Thánh Clêmentê xác định rõ về tín lý của việc kế thừa tông đồ. Những luật lệ chi phối điều này đều xuất phát từ chính Thiên Chúa một cách tối hậu. Chúa C ha sai Chúa Giêsu Kitô, Đấng đến phiên mình thì sai các vị tông đồ. Rồi những vị này sai thành phần thủ lãnh đầu tiên  của các cộng đồng, và đã ấn định rằng họ cần phải được những con người xứng đáng tuân  theo. Bởi thế, tất cả mọi sự được tiến triển ‘một cách lớp lang, theo ý muốn của lời Chúa’ (42).

 

Với những lời này, với những câu ấy, Thánh Clêmentê muốn nhấn mạnh rằng Giáo Hội có một cấu trúc bí tích, chứ không phải là một cấu trúc chính trị. Các tác động của Thiên Chúa vươn tới chúng ta trong phụng vụ là những gì đi trước các quyết định và các ý nghĩ của chúng ta. Giáo Hội trước hết là một tặng ân của Thiên Chúa chứ không phải là một sản phẩm của chúng ta, bởi thế cấu trúc bí tích này chẳng những bảo đảm được trật tự chung mà còn là những gì tiền dẫn đến tặng ân của Thiên Chúa tất cả chúng ta cần đến.

 

Sau hết, ‘lời nguyện long trọng’ cống hiến một thứ hít thở vũ trụ cho việc bàn luận trước đó. Thánh Clêmentê ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa về sự quan phòng yêu thương cao cả của Ngài, Đấng đã tạo dựng nên  thế giới và tiếp tục cứu thế giới và chúc lành cho thế giới. Lời kêu cầu cho cơ cấu cai quản cũng được đặc biệt chú trọng. Sau các bản văn Tân Ước thì đây là lời cầu nguyện cổ kính nhất cho các tổ chức chính trị. Bởi thế, khi mới có việc bách hại, Kitô hữu, quá rõ là các cuộc bắt bớ sẽ tiếp tục xẩy ra, đã không thôi nguyện cầu cho chính những vị thẩm quyền đã lên án họ một cách bất chính.

 

Động lực ấy trước hết có tính cách Kitô học, đó là con người cần phải nguyện cầu cho thành phần bách hại mình, như Chúa Giêsu đã làm trên cây thập giá. Thế nhưng, lời cầu nguyện ấy cũng chất chứa một giáo huấn, qua giòng lịch sử, hướng dẫn thái độ của Kitô hữu trước các hoạt động chính trị và quốc gia.

 

Trong việc nguyện cầu cho các vị thẩm quyền, Thánh Clêmentê nhìn nhận tín h cách hợp lý của các cơ cấu chính trị theo trật tự được Thiên Chúa ấn định. Đồng thời ngài cũng bày tỏ mối quan tâm của ngài về việc những thẩm quyền này phải làm sao để dễ dạy đối với Thiên Chúa và ‘hành sử quyền hành được Chúa ban trong an bình và nhân ái xót thương’ (61:2).

 

Cêsa không phải là tất cả. Còn có một chủ quyền khác, mà nguồn gốc và yếu tính của nó không thuộc về thế giới này, mà là ‘từ trên cao’: đó là thẩm quyền của Sự Thật, một sự thật có quyền được lắng nghe cũng như có quyền đối chất với quốc gia.

 

Như thế, bức thư của Thánh Clêmentê nêu lên nhiều đề tài vẫn còn thực hữu. Điều này càng có ý nghĩa hơn, vì nó tiêu biểu, từ thế kỷ thứ nhất, mối quan tâm của Giáo Hội Rôma, một Giáo Hội chủ sự trong đức ái đối với tất cả mọi giáo hội khác.

 

Theo cùng tinh thần ấy, chúng ta thực hiện những lời cầu khẩn của chúng ta như ‘lời nguyện trọng đại’ này, nơi vị Giám Mục Rôma trở thành tiếng nói cho toàn thế giới, ‘vâng, lạy Chúa, xin chiếu tỏa dung nhan Chúa trên chúng con cho thiện  ích trong an bình, để chúng con được bàn tay quyền năng của Chúa bao che… chúng con ca ngợi Chúa qua vị thượng tế và là vị bảo hộ linh hồn của chúng con là Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà vinh quang và uy nghi được qui về Chúa bay giờ và qua mọi thế hệ cho tới muôn đời. Amen’ (60-61).



Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 7/3/2007

 

 


Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 4, 36-37, 52-59

"Họ làm lễ cung hiến bàn thờ và hân hoan dâng lễ toàn thiêu".

Trích sách Macabê quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Giuđa và anh em ông nói rằng: "Quân thù chúng ta đã bị tiêu diệt, nay chúng ta hãy đi thanh tẩy và cung hiến Ðền thánh lại".

Toàn thể quân đội được triệu tập, rồi cùng lên núi Sion.

Ngày hai mươi lăm tháng chín (tức là tháng Kislêu) năm một trăm bốn mươi tám, họ dậy sớm, dâng lễ tế như Luật dạy trên bàn thờ dùng để dâng lễ toàn thiêu mà họ vừa mới thiết lập. Bàn thờ đã được cung hiến lại giữa những tiếng ca, tiếng đàn lục huyền cầm, phong cầm cùng tiếng não bạt, đúng mùa, đúng ngày trước kia dân ngoại đã xúc phạm đến bàn thờ. Toàn dân sấp mình thờ lạy và ca tụng Ðấng ngự trên trời đã ban chiến thắng cho họ.

Họ làm lễ cung hiến bàn thờ suốt tám ngày, hân hoan dâng lễ toàn thiêu, lễ đền tội và lễ tạ ơn. Họ trang hoàng mặt tiền Ðền thờ với những triều thiên vàng và bảng chương, sửa lại các cửa ra vào và các phòng, đặt cánh cửa lại. Dân chúng nô nức vui mừng vì đã rửa sạch được nỗi tủi nhục do dân ngoại gây nên. Giuđa cùng với anh em ông và cộng đoàn Israel quyết định rằng: Hằng năm, từ ngày hai mươi lăm tháng Kislêu, lễ cung hiến bàn thờ sẽ được cử hành trong vui mừng hân hoan suốt tám ngày.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: 1 Sb 29, 10. 11abc. 11d-12a. 12bcd

Ðáp: Lạy Chúa, chúng con chúc tụng thánh danh vinh hiển của Chúa (c. 13b).

Xướng: 1) Ðavít đã chúc tụng Chúa trước mặt toàn thể cộng đồng, Người thưa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng từ đời đời tới muôn muôn thuở". - Ðáp.

2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa. - Ðáp.

3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang là của Chúa. - Ðáp.

4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay của Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 34

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 19, 45-48

"Các ngươi đã biến đền thờ Thiên Chúa thành sào huyệt trộm cướp".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu vào đền thờ, Người liền xua đuổi các người buôn bán tại đó và phán bảo họ rằng: "Có lời chép rằng: Nhà Ta là nhà cầu nguyện, các ngươi đã biến thành sào huyệt trộm cướp". Và hằng ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ. Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe Người.

Ðó là lời Chúa.



Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

Quá yêu thương đến bất khả chấp


Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên, tiếp tục với cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau khi "Người đã gần đến Giêrusalemtrong Bài Phúc Âm hôm kia, sau đó "Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem" trong bài Phúc Âm hôm qua, và hôm nay "Chúa Giêsu vào đền thờ".

Ph
ải, nếu đền thờ Giêrusalem là nơi Thiên Chúa ngự, là biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa, thì sự kiện Chúa Giêsu có mặt ở đền thờ này cho thấy Người đã đến được đích điểm cuộc hành trình Giêrusalem của Người. 

B
ởi Người đến "là để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18), tức để làm cho dân của Người biết Cha của Người thực sự là Đấng nào, Vị Thiên Chúa đã từng tỏ mình ra cho họ trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ như là một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài Ngài ra không còn một vị Thiên Chúa nào khác, và vì thế họ phải hết mình kính mến Ngài, chỉ một mình Ngài thôi, "hết lòng, hết linh hồn và hết sức" của họ (xem Đệ Nhị Luật 6:4-5), nghĩa là trên hết mọi sự.

Bởi thế, không lạ gì, khi thấy cảnh tượng dân chúng buôn bán trong đền thờ "
là nhà cầu nguyện", như chính Người nói trong Bài Phúc Âm hôm nay, đã bị "biến thành sào huyệt trộm cướp", thì làm sao Người là Đấng kính mến Cha Người hết mình và trên hết mọi sự, khi thấy nơi biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Cha bị chính dân của Ngài tục hóa, có thể nào chịu đựng được, đến độ dù Người vốn "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29) cũng không thể nào không ra tay "xua đuổi các người buôn bán tại đó". 

Ph
ải chăng đó là một trong những lý do chính yếu khiến Người vừa thấy thành thánh Giêrusalem, Người đã thổn thức khóc, như bài Phúc Âm hôm qua thuật lại? Người đã không khóc khi thấy Cha của Người bị xúc phạm cho bằng khóc thương dân của Người, vì họ không ngừng liên tục xúc phạm đến Cha của Người mà nguy hiểm đến phần rỗi đời đời của chính họ. Bởi thế mà trên đường vác thập giá lên Núi Sọ, Người đã khuyên đám phụ nữ thương khóc Người bấy giờ rằng: "Chớ khóc thương Tôi, một khóc thương các ngươi cùng con cháu của các ngươi" (Luca 23:27-28). 

Đúng vậy, 
nếu con người ta nói chung và những ai tin vào Người nói riêng thật sự biết khóc thương bản thân mình, ở chỗ tỏ ra ăn năn thồng hối tội lỗi của mình, thì đó là tác động họ khóc thương Người rồi vậy, vì họ sẽ không dám xúc phạm đến Người nữa, họ sẽ không làm cho Người phải khổ sở vác thập giá của họ và cho họ nữa, thập giá do chính họ chất lên vai của Người. Tội lỗi của họ chính là thập giá mà Người phải vác vậy. Và thập giá cũng là biểu hiệu cho từng con chiên lạc Người cần phải tìm kiếm và vác trên vai mang về nhà Cha của Người vậy (xem Luca 15:5). 

Đó là lý do Người quả thật không hề ghét bỏ dân của Người qua hành động đánh đuổi họ như thế, trái lại, chỉ vì Người thương họ hơn bao giờ hết, khi thấy họ lầm lạc đến độ chính họ là dân được Thiên Chúa là Cha của Người tuyển chọn đã tục hóa một nơi thánh nhất của họ, chứ không phải bị tục hóa bởi dân ngoại không biết gì đến Vị Thiên Chúa của họ, như đã phũ phàng và trắng trợn xẩy ra vào thời kỳ hậu lưu đầy của họ, khi họ bị ngoại bang xâm chiếm và đô hộ, đến độ quyền lực ngoại bang bấy giờ đã
 ra tay tàn phá và tục hóa đền thờ ấy, một biến cố lịch sử đầy nhơ nhớp được Sách Macabê quyển thứ nhất diễn thuật trong Bài Đọc 1 Thứ Hai đầu tuần này.

Vi
ệc Chúa Giêsu "xua đuổi các người buôn bán tại đó" còn mang một ngậm ý trách móc cả thành phần lãnh đạo dân Chúa bấy giờ nữa, thành phần có thẩm quyền để hướng dẫn dân Chúa theo đường lối của Thiên Chúa, theo lề luật thánh lại để xẩy ra tình trạng tục hóa công khai này, một là vì chính họ cho phép hai là vì họ cứ để cho dân chúng tha hồ tục hóa đền thờ linh thánh này, không hề ngăn cản tí nào, như thể vừa tán thành vừa đồng lõa với tội lỗi của dân.

Người biết rằng việc Người tự động "
xua đuổi các người buôn bán tại đó" chắc chắn sẽ đụng chạm đến quyền bính của thành phần lãnh đạo này. Thế nhưng, vì Người đến cứu cả thành phần lãnh đạo mù quáng ấy nữa, nên Người vẫn bất chấp, họ có tỏ ra hận thù Người hơn bao giờ hết, như được Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe Người".

H
ọ càng hận thù và tìm cách hại Người bao nhiêu thì chính họ là thành phần "không muốn" xẩy ra chuyện "phong vương" của Người càng được thành tựu, như ý nghĩa trọng dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm kia cho biết vào thời điểm Người "gần đến Giêrusalem" là nơi Người sẽ bị rơi vào tay họ như Người đã báo trước cho các môn đệ của Người về biến cố bất khả tránh này 3 lần, đúng như ý định vô cùng nhiệm mầu của Cha Người về cuộc hành trình Giêrusalem của Người là để Người được "phong vương" trên ngai tòa thập tự giá một cách danh chính ngôn thuận: "Giêsu Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38).

Tuy nhi
ên, ngay lúc bấy giờ, lúc Người "xua đuổi các người buôn bán tại đó" thì họ còn sợ dân chúng, tức chưa đến giờ của người, nhờ đó, như Phúc Âm cho biết: "hằng ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ". Và vì thế, từ ngày mai Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên cho tới hết tuần 34 Thường Niên là tuần cuối cùng của phụng niên hằng năm, chúng ta sẽ đọc thấy các bài Phúc Âm cho ngày thường trong tuần liên quan đến giáo huấn Giêrusalem của Người, những giáo huấn cuối cùng của hành trình Giêrusalem được Người công khai truyền dạy ở chính thành thánh Giêrusalem, giáo đô của Do Thái giáo, cũng là khởi điểm truyền giáo (xem Tông Vụ 1:8) ngay sau biến cố Thánh Linh Hiện Xuống của Giáo Hội được Người thiết lập.

Đúng thế, đối với những con người không tin tưởng Thiên Chúa, hay tin tưởng một cách nửa vời, hoặc tin tưởng một cách giả hình như thành phần trí thức Do Thái giáo là luật sĩ và biệt phái nói chung, thì Đền Thờ là nơi Thiên Chúa ngự giữa họ sẽ bị họ tục hóa và biến thành một phương tiện lạm dụng của họ cho lợi lộc trần gian. Thế nhưng, đối với những tâm hồn nào thực sự tin tưởng Ngài mới tỏ ra tôn kính Đền Thờ của Ngài, nhất là khi thấy Đền Thờ của Ngài bị tục hóa chẳng những bởi dân ngoại mà còn bởi cả chính dân của Ngài nữa, và họ không thể nào không tái thiết đền thờ xứng với Vị Thiên Chúa tối cao chí thánh của họ, như trường hợp của nhân vật Giuđa cùng với anh em mình, những người con của người bố anh hùng đức tin Matha-thia, đã làm trong Bài Đọc 1 theo sách Macabê quyển thứ 1 như sau:

"Trong những ngày ấy, Giuđa và anh em ông nói rằng: 'Quân thù chúng ta đã bị tiêu diệt, nay chúng ta hãy đi thanh tẩy và cung hiến Ðền thánh lại'. Toàn thể quân đội được triệu tập, rồi cùng lên núi Sion. Ngày hai mươi lăm tháng chín (tức là tháng Kislêu) năm một trăm bốn mươi tám, họ dậy sớm, dâng lễ tế như Luật dạy trên bàn thờ dùng để dâng lễ toàn thiêu mà họ vừa mới thiết lập. Bàn thờ đã được cung hiến lại giữa những tiếng ca, tiếng đàn lục huyền cầm, phong cầm cùng tiếng não bạt, đúng mùa, đúng ngày trước kia dân ngoại đã xúc phạm đến bàn thờ".

 

Chưa hết, sau đó "toàn dân sấp mình thờ lạy và ca tụng Ðấng ngự trên trời đã ban chiến thắng cho họ. Họ làm lễ cung hiến bàn thờ suốt tám ngày, hân hoan dâng lễ toàn thiêu, lễ đền tội và lễ tạ ơn. Họ trang hoàng mặt tiền Ðền thờ với những triều thiên vàng và bảng chương, sửa lại các cửa ra vào và các phòng, đặt cánh cửa lại. Dân chúng nô nức vui mừng vì đã rửa sạch được nỗi tủi nhục do dân ngoại gây nên". Hành động của dân Chúa được thuật lại trên đây chính là âm vang của những tâm tình tôn thờ chân thực được chất chứa trong bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng từ đời đời tới muôn muôn thuở".

2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa.

3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang là của Chúa.

4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay của Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền.

 

 

Ngày 24 tháng 11

Lễ Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc,

và các bạn Tử Ðạo

(Lễ Các Thánh Tử Ðạo Việt Nam)

 

Bài Ðọc I: Kn 3, 1-9

"Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu".

Trích sách Khôn Ngoan.

Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt của người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng trông cậy của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao; vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.

Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu toả ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).

Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như Người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: "Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng". Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.

 

(Khi mừng theo bậc Lễ Trọng thì có Bài Ðọc II này):

Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 17-25

"Vì tiếng nói của Thập Giá là sức mạnh của Thiên Chúa ban cho chúng ta".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, Ðức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo Thập giá của Ðức Kitô ra hư không.

Vì chưng lời rao giảng về Thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ hư mất; nhưng đối với những người được cứu độ là chúng ta, thì điều đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì như đã chép rằng: "Ta sẽ phá huỷ sự khôn ngoan của những kẻ khôn ngoan, sẽ chê bỏ sự thông thái của những người thông sáng. Người khôn ngoan ở đâu? Người trí thức ở đâu? Người lý sự đời này ở đâu?" Nào Thiên Chúa chẳng làm cho sự khôn ngoan của đời này hoá ra điên rồ đó sao? Vì thế gian tự phụ là khôn, không theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những kẻ tin. Vì chưng, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo. Nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sức mạnh của loài người.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: 1 Pr 4, 14

Alleluia, alleluia! - Nếu anh em bị sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, vì Thánh Thần Chúa sẽ ngự trên anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 10, 17-22

"Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ngày 24 tháng 11

THÁNH AN-RÊ TRẦN AN DŨNG LẠC VÀ CÁC BẠN, TỬ ĐẠO

lễ trọng

(ở Việt Nam)

 

Image result for các thánh tử đạo việt nam

 

 

Hôm nay, phụng vụ kính nhớ 117 chứng nhân tử đạo Việt Nam. Các vị đã được tôn phong chân phước trong bốn đợt : Năm 1900, đức giáo hoàng Lê-ô XIII tôn phong 64 vị ; đức giáo hoàng Pi-ô X tôn phong 8 vị năm 1906 và 20 vị năm 1909. Năm 1951, đức giáo hoàng Pi-ô XII tôn phong 25 vị. Tất cả 117 vị đều được đức giáo hoàng Gio-an Phao-lô II tôn phong hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.

Trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, kể từ lúc Tin Mừng bắt đầu được loan báo tại Việt Nam, thế kỷ XVI, cho đến cuộc bách hại khốc liệt thế kỷ XIX, đã có nhiều chứng nhân anh dũng cả người Âu lẫn người Việt hy sinh thân mình vì Chúa Ki-tô.

Hồ sơ phong thánh và Các Giờ Kinh Phụng Vụ đặc biệt chú ý đến các tên tuổi sau : Người Việt Nam : thánh An-rê Dũng Lạc, linh mục (+ 1839), thánh Tô-ma Trần Văn Thiện, chủng sinh (+ 1838), thánh Phao-lô Lê Bảo Tịnh, linh mục (+ 1857), thánh Em-ma-nu-en Lê Văn Phụng, giáo lý viên và người cha trong gia đình (+ 1859). Các tu sĩ Đa-minh người Tây Ban Nha, thuộc Tỉnh Dòng Mân Côi : thánh Giê-rô-ni-mô Héc-mô-xi-la Liêm, giám quản tông toà địa phận Đông đàng ngoài (+ 1861), thánh Va-len-ti-nô Be-ri-ô Ô-choa, giám mục (+ 1861) và một vị người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Pa-ri, thánh Tê-ô-phan Vê-na (+ 1861).

Đoàn người đông vô kể
Vừa đi vừa hát ca,
Tay cầm cành thiên tuế,
Áo trắng như tuyết pha,
Từ khắp miền huyết lệ,
Từ đau khổ bao la,
Tôn vinh Con Thiên Chúa
Tề tựu trước ngai toà.

Chúng con nơi trần thế
Xin hợp tiếng hoan ca,
Kính mừng chư quý vị
Tử đạo Việt Nam nhà.
Suốt gần ba thế kỷ
Gian khổ dám xông pha,
Nay triều thiên diễm lệ
Rực chiếu khắp sơn hà.

Xin cầu cho hậu duệ
Noi gương sáng ông cha,
Đức tin quyết bảo vệ,
Đức ái toả sáng ra,
Xây dựng nước trần thế,
Mở rộng nước Chúa Cha.

Nguyện cùng chư quý vị
Mai sau trước thiên toà
Tung hô vinh quang Chúa,
Muôn thuở vang lời ca.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhậm lời các ngài chuyển cầu mà cho chúng con biết noi gương các ngài để lại : luôn can đảm làm chứng cho Chúa và trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin

 

Phụ đề:

 

Các thánh tử đạo Việt Nam là danh sách những tín hữu Công giáo người Việt hoặc thừa sai ngoại quốc được Giáo hội Công giáo Rôma tuyên thánh với lý do tử đạo. Trong lịch sử Công giáo tại Việt Nam, ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã tử vì đạo để làm chứng cho đức tin Kitô giáo. Trong số đó có 117 vị đã được Giáo hoàng Gioan Phaolô II tuyên Thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988, và Anrê Phú Yên được tuyên Chân phước ngày 5 tháng 3 năm 2000.

Ngày lễ kính chung cho các thánh tử đạo Việt Nam là ngày 24 tháng 11 và ngày Chúa nhật thứ 33 Mùa Thường niên.

Theo quốc tịch, 117 Thánh Tử đạo Việt Nam được chia ra như sau:

Theo Việt sử, các vị này đã bị giết trong những đời vua chúa sau đây:

Trong thế kỷ 18  19, có khoảng từ 130 ngàn đến 300 ngàn người Công giáo đã chết vì đạo; riêng trong thời gian từ 1857 đến 1862, có khoảng 5 ngàn tín hữu bị giết, khoảng 40 ngàn tín hữu cùng 215 giáo sĩ, tu sĩ nam nữ đã bị bắt, bỏ tù hay lưu đày vì đạo[cần dẫn nguồn]. Trong số đó có 117 vị, tử đạo từ 1745 đến 1862, được Giáo hội Công giáo Rôma tôn vinh Chân phước qua bốn đợt:

Và được tuyên Thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988.

Khi được tin về việc tuyên thánh, chính phủ Việt Nam lên tiếng phản đối và cho rằng, trong số những người sẽ được tuyên thánh, có nhiều người là tay sai của đế quốc, lót đường cho Pháp đô hộ Việt Nam từ năm 1884. Tuy nhiên, theo quan điểm của phía Công giáo thì họ là những tín hữu đã chết vì lý do tín ngưỡng, họ bị hành quyết bởi bản án do chính tay vua, hay đại diện triều đình thời đó ký nhận. Không có bằng chứng nào cho thấy bản án này có liên quan đến chính trị, ngược lại, chỉ trưng ra lý do duy nhất: các giám mục, linh mục trong số bị kết án vì họ là đạo trưởng (giáo sĩ), các giáo dân bị kết án vì họ không chịu bỏ đạo Công giáo, không chịu bước qua cây thập giá. Nói cách khác, lý do được công khai tuyên bố có tính cách hoàn toàn tôn giáo.[1] Hà Nội nhận định, việc tuyên thánh này sẽ làm cho mối liên lạc giữa chính quyền và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa Việt Nam và Vatican thêm căng thẳng. Đài tiếng nói Việt Nam đọc lệnh của chính phủ, cấm người Công giáo cử hành lễ tuyên thánh này. Các Giám mục lẫn giáo dân Việt Nam cũng không được chính quyền cho phép sang Vatican dự lễ. Trong khi đó, khoảng hơn 10 ngàn người Công giáo Việt Nam ở hải ngoại (chủ yếu sau sự kiện thuyền nhân), nhiều người từ Pháp, Tây Ban Nha đã đến Vatican để dự lễ vì trong số người được tuyên thánh có đồng hương và đồng bào của họ[2].

Theo lời Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ - cáo thỉnh viên án tuyên thánh thì: theo thông lệ, khi xin nhật kì tuyên thánh, bao giờ cũng phải dự tính sẵn 3 ngày, để đề phòng trường hợp Tòa Thánh đã có chương trình xếp đặt nào khác thì phải thay đổi theo. Lễ tuyên thánh Việt Nam đã xin vào ngày 29 tháng 6 năm 1988 - trùng lễ kính hai Thánh Phêrô và Phaolô, nhưng người ta khuyến cáo không nên chọn vào ngày đó vì sẽ bị lễ hai Thánh quá lừng danh này lấn át mất. Sau đó có dự tính chuyển sang ngày Chủ nhật 26 tháng 6 nhưng cũng không ổn, vì hôm đó Giáo hoàng phải đi công du bên nước Áo. Chỉ còn ngày Chủ nhật 19 tháng 6, nghĩa là xếp trước cuộc công du của Giáo hoàng một tuần lễ, vì trước và sau ngày đó không còn cách nào khác. Đây là lý do duy nhất và dễ hiểu cho việc chọn ngày lễ tuyên thánh tử đạo Việt Nam là ngày 19 tháng 6, chứ không hề có chuyện nghĩ tới, hay là mảy may muốn kỉ niệm Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa.[3]

 

https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c_th%C3%A1nh_t%E1%BB%AD_%C4%91%E1%BA%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam

 

 

Ngày 24 Tháng 11
Thánh Phêrô BORIE CAO
Giám mục Thừa sai Paris
(1808 - 1838)

(cùng với 2 vị Lm Việt Nam là Cha Phêrô Vũ Đăng Khoa và Cha Vinhsơn Nguyễn Thế Điềm,

 Vị thánh thừa sai Phêrô Borie Cao là vị tử đạo vào chính ngày 24/11 là ngày được chọn kính chung 117 vị anh hùng tử đạo trên đất Việt)

Giáo Phận Vinh Online | Thánh Phêrô Borie Cao

Người Thợ Xay Lúa

Giám mục Borie Cao chưa làm giám mục đến một ngày, nhưng ngài xứng đáng với tước hiệu đó. Căn cứ vào khả năng và nhiệt tình, Đức cha Havard Du đã chọn ngài làm giám mục phó có quyền kế vị. Cha Cao nhận được giấy quyết định của Tòa Thánh đang khi ở trong tù, và vì thế chưa kịp thụ phong. Tên thường gọi của ngài là Dumoulin (tiếng Pháp là máy xay lúa) do bạn bè đặt. Thế nhưng danh xưng Dumoulin đã đi vào lịch sử với hai tước hiệu vinh quang: Giám mục và tử đạo. Quả thật đối với Chúa, giá trị con người là nhân đức và thiện chí, dù thuộc giai cấp nào, mọi người đều được kêu gọi nên thánh.

Khi Thiên Chúa Can Thiệp

Phêrô Borie Cao sinh ngày 20.2.1808, tại Beynat miền Corrèze, thân phụ tên là Guillaume Berie, thân mẫu là Rose Borie. Thế nhưng vì song thân làm nghề xay lúa, bạn bè hàng xóm quen gọi cậu là Dumoulin. Sinh trưởng trong một gia đình tầm thường như vậy, nên thuở bé Dumoulin có tính cẩu thả. Cha mẹ ép cậu vào chủng viện, cậu nghe theo nhưng chẳng hứng thú gì, và vi phạm kỷ luật liên tục. Cha giám đốc phải sử dụng nhiều hình thức xử phạt, cũng chẳng làm cậu khá hơn được. Tuy vậy, Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời con người Ngài tuyển chọn.

Bất ngờ Borie bị một cơn sốt trầm trọng. Trên giường bệnh, cậu có cơ hội suy tư về đời mình. Một hôm đang khi đọc cuốn niên giám của trường Thừa sai ghi lại cuộc đời các vị truyền giáo, cậu thấy một tia sáng chói lóa trong tâm hồn. Thế là như thánh Phaolô trên đường Đamas xưa, cuộc đời cậu Borie từ nay chỉ lấy Đức Giêsu làm lẽ sống, từ đó cậu siêng năng đến gặp Chúa trong Thánh Thể. Và trong những giờ gặp gỡ ấy, cậu nghe như Ngài kêu gọi cậu lãnh nhận một sứ mạng cao quý hơn: Sứ mạng truyền giáo.

Trong những giây phút nguyện cầu linh thiêng ấy, Borie như thấy Chúa nói với mình về vùng Viễn Đông xa xăm, về những người ở đây còn chưa biết Chúa, về những Thừa sai đã đến đó rao giảng Tin mừng và hỏi cậu có yêu Ngài đủ để ra đi như thế không. Câu trả lời của Borie đã được chính cậu ghi lại trong một buổi tận hiến cho Đức Maria:

“Lạy Mẹ của con, xin hãy tin nơi con, khi con trưởng thành, con sẽ hiến toàn thân cho việc cảm hóa những người chưa tin. Xin Mẹ giúp con đi theo con đường và tinh thần của ơn kêu gọi đó. Xin cho con được đau khổ vì danh Đức Kitô, được đón nhận ngành lá tử đạo và về đến bến vinh quang”.

Đức Mẹ như đã nhận lời cậu. Càng ngày Borie càng cương quyết hơn với giấc mơ truyền giáo. Để giấc mơ có thể thành hiện thực, cậu xin chuyển qua chủng viện hội Thừa sai Paris. Tại đây cậu kiên trì học tập, lãnh chức phó tế năm 1829, vị tân linh mục bắt đầu xuống tàu khởi hành đến Viễn Đông. Thế nhưng vì bão tố phải dừng lại ở Macao khá lâu, ngày 15.5.1832 cha Borie mới tới được Việt Nam.

Vị Tông Đồ Di Trú

Nửa năm sau, ngày 6.1.1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo trên toàn quốc. Các thừa sai bị lùng bắt gắt gao, nên phải di chuyển liên tục, nay nhà này, mai nhà khác. Ngày 24.3, cha Borie kể trong thư là “Tôi đã phải đổi chỗ ở đến mười bảy lần". Những năm sau, mỗi cha đổi chỗ khoảng hai đến sáu lần nữa. Nét đặc biệt của cha Borie: là hòa mình rất nhanh với phong tục địa phương. Ngay ngày đầu tiên, cha đã có thể ăn nước mắm cách ngon lành (điều này thật khó đối với người Âu châu), cha học tiếng Việt cách dễ dàng và phát âm khá chính xác. Nhờ bản tính bình dân, vui tươi và hoạt bát, cha nhanh chóng lấy được cảm tình của các tín hữu và với cả lương dân nữa.

Năm 1836, khi đọc những điều vu cáo trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng, cha Borie Cao định viết một lá thư điều trần, nhưng các thừa sai cản lại, vì nói là vô ích thôi. Năm 1838, sau khi giết thừa sai Jaccard Phan, vua Minh Mạng vẫn chưa thỏa mãn. Ông cho lệnh tiếp tục truy tìm cha Candalh Kim, giám đốc chủng viện Di Loan. Ngày 2.7 khi quan quân bắt linh mục Khoa, thì bắt được hai thầy giảng Đức và Khang. Thầy Khang lúc bị tra tấn quá đau, đã khai rằng có một thừa sai Âu châu ở Bố Chính, thủ phủ của Nghệ An. Người bị tiết lộ tung tích đó là cha Cao, không phải là cha Candalh. Dựa vào lời thầy Khang, quân lính bủa vây khắp vùng Bố Chính, bắt bớ nhiều tín hữu rồi đe dọa, tra tấn và dụ dỗ, để tìm cho ra chỗ ẩn của vị linh mục.

Giai đoạn này cha Cao không thể ở nhà nào được vài giờ, luôn luôn ngài phải di động. Các tín hữu có người muốn cho trú, nhưng lại sợ người khác khi bị đánh đập, sẽ tố cáo họ. Cuối cùng ngày 31.7, cha Cao đành xuống một thuyền nhỏ chèo ra khơi, chờ mong cuộc lùng bắt lắng dịu. Nhưng trời bỗng nổi cơn giông bão, dồn nghe của cha tắp vào bờ. Cha nghĩ rằng đây là dấu Chúa muốn mình ở lại, cha bỏ ghe trở lên đất liền, và ẩn núp dưới một hố sâu có cây cối che phía trên.

Các Anh Chị Đi Tìm Ai?

Một thiễu nữ mười sáu tuổi bị bắt và bị tra khảo. Dù biết chỗ cha ẩn trốn, cô cắn răng chịu đựng, không tiết lộ điều mình biết. Nhưng bố cô không dằn lòng được khi thấy con mình bị đánh đập, đã chỉ chỗ cho lính đến nơi trốn của ngài. Dầu đang giữa đêm, quân lính cũng kéo nhau rất đông đi bắt vị thừa sai. Cha Cao nghe rõ tiếng chân của đám lính, biết rằng không thể thoát được nữa, cha liền leo lên và hỏi: “Các anh đi tìm ai?”. Tất cả đám lính đều ngỡ ngàng trông thấy một bóng đen to lớn từ đưới đất chui lên, họ cứ tưởng là ma, nên hoảng sợ không dám hé môi. Lát sau, khi lấy lại bình tĩnh, biết là linh mục, họ yêu cầu cha ngồi xuống, và cha Cao nhẹ nhàng ngồi xuống. Ngài muốn bước vào cuộc hiến tế bằng một thái độ vâng phục hoàn toàn.

Thầy Tự thấy cha bị bắt cũng vội chạy đến xưng là đệ tử của cha. Cha chối không biết, nhưng thầy khẩn khoản: “Xin cha cho con theo cha đến cùng”. Cha Cao nghe thầy xin thế thì xúc động, ngài tháo chiếc khăn quàng, xé một mảnh trao cho người môn sinh và nói: “Cầm lấy, con hãy giữ nó làm bằng chứng cho lời con đã hứa”. Thầy Tự đã giữ mãi miếng vải đó trong những ngày tháng cùng bị giam với cha. Sau này thầy đã viết lại cuộc tử đạo đau thương của tôn sư mình, và cuối cùng với mảnh vải như kỷ vật giao ước, thầy Tự đã theo gót người cha kính yêu: hy sinh mạng sống vì Đức Kitô ngày 10.7.1840.

Tại Đồng Hới, cha Cao phải ra tòa chung với cha Điểm và cha Khoa. Quan hỏi:

“Đạo trưởng Cao, vua đã cấm đạo Gia-tô. Nếu ông bước qua thập giá, ta sẽ thả ông về ngay”.

“Thà tôi chết ngàn lần còn hơn”.

“Tại sao ông không về nước mà giảng, ở đây làm gì để phải trốn tránh hết chỗ này đến chỗ khác?”

“Vua cấm đạo sau khi tôi đã đến nước này, từ đó vua cấm tàu Âu châu cập bến Việt Nam, thì làm sao tôi có thể về được”.

“Ông đã ở nhà những ai?”

“Tôi đã bị quan bắt, tôi xin chịu cực hình một mình tôi thôi”.

Quan liền ra lệnh đánh cha ba mươi roi, lính nọc cha ra, đánh cho đủ số. Tuy rất đau đớn, cha Cao vẫn không kêu than một lời, quan hỏi ngài có đau không, cha đáp:

“Tôi cũng bằng xương bằng thịt như ai khác, lẽ nào không đau. Nhưng mặc kệ, trước và sau trận đánh tôi vẫn thấy thoải mái”.

Quan đành giải cha về ngục, hôm khác, quan bắt cha chứng kiến cảnh tra tấn thầy Tự và bảo: “Nếu ông không khai chỗ ở, tôi cứ cho lệnh đánh hoài”. Cha đành khai vài gia đình, nhưng chọn lựa những người đã chết. Quan tưởng thật vui vẻ tha cho thầy Tự, nhưng đến khi thẩm tra lại, ông gọi cha Cao ra đối chất:

Tại sao ông cứng đầu thế?

Thưa, câu hỏi của ngài tôi không trả lời khác hơn được.

Đã vậy ngày mai ông sẽ chịu một trăm roi.

Thưa dù đánh ba trăm roi tôi cũng chịu, chỉ xin một điều là đừng hỏi tôi về dân chúng.

Thế nếu ông phải ra mắt vua, đứng bên lò lửa cháy bùng, với những chiếc kìm nung đỏ sắp lóc thịt ông ra, liệu ông còn im lặng được không?

Thưa chừng đó sẽ biết, tôi không dám quá tự phụ về mình.

Biết không thể làm cha đổi ý, quan liền nghị án gởi về kinh đô. Cha Cao bị giam chung với hai cha Điểm và Khoa, ba vị linh mục hằng ngày cùng nhau đọc kinh Mân Côi và hát vang bài Ave Maria Stella: Kính chào Mẹ Maria là sao mai rực rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con. Mấy ngày đầu, vì chưa tìm ra tràng hạt, ba vị nhổ lông quạt để đếm kinh. Ba cha phó thác đời mình cho Nữ Vương các linh mục: “Như xưa Mẹ đã dâng Con yêu quý trong đền thờ, nay xin cung hiến dâng chúng con trong cuộc tử đạo đầy hồng phúc”.

Trong những ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư Tòa Thánh gởi tới, đặt ngài làm giám mục hiệu tòa Acanthe và làm đại diện tông tòa coi sóc địa phận Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Havard Du. Thế nhưng vì đang bị cầm tù, ngài không thể tiến hành nghi lễ thụ phong. Chức vụ đó sau này được trao cho cha Retord Liêu.

Đường Về Thiên Quốc

Ngày 24.11.1838, quan vào ngục tuyên đọc bản án xử trảm, Đức cha Cao yên lặng lắng nghe sắc chỉ của nhà vua, rồi nói với quan rằng:

“Thưa quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, vì bên Âu châu chúng tôi đó là hành vi kính trọng chỉ dành cho Đấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe làm tôi vui mừng, xin được bày tỏ lòng tri ân của tôi theo kiểu Đông phương”.

Nói xong, ngài quỳ xuống định lạy, nhưng viên quan quá xúc động, không thốt nên lời, vội cản ngăn ngài lại.

Lúc dẫn đi xử, Đức cha Cao đi đầu, cổ mang gông, tay cầm tràng hạt, vừa đi vừa đọc kinh. Một viên quan khác, ít thiện cảm với người Công giáo đi lại gần, hỏi Đức cha có sợ chết không. Ngài trả lời:

“Tôi đâu phải là quân phiến loạn hay quân trộm cướp mà sợ chết. Tôi chỉ sợ một mình Thiên Chúa. Hôm nay tôi chết, mai sẽ đến phiên ông”.

Nghe thế, viên quan thét lên: “Láo quá, tát cho nó vài cái”. Nhưng không người lính nào tuân lệnh ông. Đức cha nói với quan: “Nếu lời đó làm phiền ông, thì xin ông tha lỗi”.

Tại pháp trường Đồng Hới, hai cha Khoa và Điểm bị xử giảo trước. Đến lượt xử chém Đức cha Cao, người lý hình rất kính phục ngài, phải uống rượu để lấy bình tĩnh, không ngờ vì quá chén, anh đã chém trật vào tai, hàm và vai Đức cha. Mãi đến nhát thứ bảy, đầu vị thừa sai mới lìa khỏi cổ. Thân xác ngài được chôn cất ngay tại chỗ, năm sau mới được các tín hữu cải táng về họ Hướng Phương.

Năm 1843 hài cốt Đức cha Cao được đưa về chủng viện hội Thừa sai Paris, đặt cạnh hài cốt thừa sai Kính và Phan.

Đức Lêo XIII suy tôn Giám mục Borie Cao lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.

ĐTCGPII phong thánh ngày 19/6/1988.
 

Hiếu Trung, OP

 

Ngày 21 Tháng 12
Thánh Anrê TRẦN AN DŨNG LẠC
Linh mục
(1795 - 1839)

(Có 2 vị linh mục Việt Nam tử đạo cùng ngày 21/12, ngày cuối cùng của năm kính các vị tử đạo, đó là Cha Phêrô Trương Văn Thi và Cha Anrê Trần Dũng Lạc.

Nhưng Giáo Hội lại chọn danh xưng của Cha Anrê Trần Dũng Lạc làm tiêu biểu cho chung đoàn tử đạo 117 giọt máu trổ bông trên đất nước Việt Nam)

St. Andrew Dung-Lac and the martyrs under a Vietnamese Nero | Faith Magazine
 

Theo Gương Thánh Phêrô

Quo vadis, Domine? — Lạy Thầy, Thầy đi đâu?

Trên đường chạy trốn cơn bách hại khủng khiếp của bạo chúa Nêrô đang giáng xuống kinh thành Rôma, vị tông đồ trưởng Phêrô đã bàng hoàng thốt lên câu hỏi trên khi bất ngờ gặp Chúa Giêsu vác thập giá đi ngược chiều với mình.

Sau đó là khoảng khắc im lặng... Sự im lặng tưởng chừng như đến muôn đời sẽ không bao giờ có giây phút nào im lặng như thế! Phêrô như đọc thấy câu trả lời trong ánh mắt của Đức Kitô, có một chút giống ánh mắt Ngài đã nhìn mình sau ba lần chối Chúa. Và trong bầu khí thinh lặng đó, chợt vọng tới tai ông giọng nói buồn bã nhưng ngọt nào:

“Khi anh rời bỏ dân Ta. Ta phải đến Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa”.

Phêrô lặng người đi và chợt hiểu...

Vị sứ đồ đã ra đi để xa lánh cơn điên cuồng của một bạo chúa, vì những lời nài nỉ chí tình chí thiết của đoàn tín hữu. Họ coi ngài là sức mạnh, là hơi thở, là chỗ dựa. Cần phải sống để tiếp tục mưu ích cho đoàn chiên. Giờ đây, Phêrô được ôn lại bài học vĩ đại nhất của vị Tôn Sư Giêsu, người thợ mộc làng Na-gia-rét đã chết gục vào tuổi ba mươi ba trên thập tự để cứu chuộc nhân loại.

Thế là trong cái khoảnh khắc kỳ diệu đó, Thánh Phêrô chợt nhớ ra. Để rồi thay vì những bước chân rời rã, do dự chạy trốn, thì giờ đây ngài bước một cách mạnh mẽ, dứt khoát quay lại... để có thể trở nên giống Thầy mình. Từ đó, trên đá tảng Phêrô, Rôma trở nên kinh thành muôn thuở. Đâu có ai thời đó đã nghĩ ra như thế. Vâng, đâu có ai thời đó đã hiểu được điều ấy.

Sau lần bị bắt thứ ba, cha Anrê Dũng Lạc như cảm nhận được bài học của Thánh Phêrô xưa. Ý nghĩ con người không hẳn đã phù hợp với ý Chúa. Ngài xin tín hữu đừng chuộc nữa, ngài đã chấp nhận hy sinh chính bản thân để trở nên một ngọn đèn, góp lửa với nhiều ngọn đèn khác làm chứng cho Chúa trên quê hương yêu dấu nầy.

Ba Lần Bị Bắt

Sinh ra trong một gia đình ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần an Dũng theo cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay là Hà Nội. Tại đây vì nhà nghèo, cậu được gán cho một thầy giảng nuôi nấng dạy dỗ và rửa tội với tên thánh là Anrê. Ít lâu sau cậu Dũng xin vào chủng viện Vĩnh Trị, ở với cha chính Lan. Ngay từ đó, cậu Dũng đã tỏ ra tư chất thông minh đặc biệt với trí nhớ lạ lùng, lại siêng năng cần mẫn, có khiếu về thơ phú và giao tiếp với mọi người cách lịch thiệp hòa nhã. Có người nói rằng cậu chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là đã thuộc lòng.

Sau mười năm làm thầy giảng và ba năm thần học, ngày 15.3.1823, thầy Dũng được lãnh chức linh mục (cùng với lớp thánh Ngân và Nghi), rồi được bổ nhiệm làm phó xứ Đoài, rồi lại giúp cha Thuyết ở Sơn Miêng. Cuối cùng, khi cha làm chánh xứ Kẻ Đầm thì bị bắt. Suốt cuộc đời linh mục, cha Dũng sống nhiệm nhặt. Ngoài những ngày ăn chay theo luật của Giáo hội, cha còn giữ chay suốt mùa chay, và nhiều khi cả các ngày thứ Sáu, thứ Bảy quanh năm. Thường xuyên cha chỉ dùng những thức ăn đơn giản. Cha Dũng hết mình với nhiệm vụ chủ chăn, chẳng khi nào thấy cha ngại ngùng việc gì. Cha có lòng ưu ái đặc biệt với người nghèo. Có được của cải gì, cha chia sẽ cho họ hầu hết.

Khi lệnh bách hại của vua Minh Mạng trở nên gay gắt qua chiếu chỉ toàn quốc ngày 6.1.1833, cha phải ẩn náu tại nhà các bổn đạo, sau trốn lên Kẻ Roi và lập nhà xứ ở đó. Một hôm, cha dâng lễ vừa xong, thì quân lính ập tới, cha liền cởi áo lễ và ngồi lẩn trong tín hữu. Lính bắt cha như một trong ba mươi giáo hữu hôm đó, vì quan quân không biết cha là linh mục. Ông tổng Thìn bỏ ra sáu nén bạc, nhận cha là thân nhân đi dự lễ để chuộc về. Từ đây cha đổi tên là Lạc.

Lần thứ hai cha bị bắt khi đến Kẻ Sông xưng tội với cha Thi theo thói quen hằng tháng. Lý trưởng Pháp bắt được hai linh mục và mặc cả với giáo hữu phải chuộc với giá hai trăm quan. Các tín hữu gom góp được một trăm quan, nên viên lý trưởng chỉ thả cha Lạc. Thế nhưng ngay trên đường về, vì gặp mưa gió, thuyền cha phải ghé vào bờ. Căn nhà cha định trú lại đang bị quân lính khám xét. Thế là cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện Bình Lục cùng với cha Thi.

Một lần nữa, giáo hữu cùng Đức cha Retord Liêu tìm cách chuộc hai cha về, nhưng lần này cha Lạc thấy ý Chúa đã định cho mình. Ngài nhắn về với Đức cha câu chuyện Thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba, Chúa Giêsu đã yêu cầu ở lại tử đạo tại Rôma, và cha xin các tín hữu đừng lo liệu tiền chuộc làm chi nữa.

Được Cảm Tình Mọi Giới

Quan huyện Bình Lục đối xử với hai vị linh mục một cách tử tế. Ông truyền dọn cho hai cha bằng mâm bát của mình, bắt lý trưởng trả lại quần áo đã tịch thu và thanh minh rằng: “Phép triều đình cấm đạo và giết các cụ, chứ không phải tôi. Tôi không có tội gì trong việc này”. Ba ngày sau, quan huyện đưa hai cha xuống thuyền chuyển về Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi theo rất đông, hoặc bằng thuyền, hoặc đi bộ trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: “Đạo trưởng có cái gì mà dân chúng thương tiếc quá vậy?”. Một phụ nữ đứng gần đó đáp lại: “Thưa quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải, dạy chồng hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận thảo với chồng theo như giáo lý trong đạo”. Hai vị linh mục khi thấy nhiều người khóc lóc tiễn đưa mình, đã dừng lại an ủi và khích lệ họ sống đạo cho tốt đẹp.

Tại Hà Nội, sau mấy lần tra hỏi, và dọa nạt hai vị chứng nhân Đức Kitô không thành công, các quan làm án xin vua xử trảm.

Thời gian trong tù, hai cha chiếm được tình cảm của lính gác, được tôn trọng và đối xử tử tế. Khi nhận được quà tiếp tế, hai cha chia cho lính canh, chỉ giữ lại những thứ tối thiểu. Mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối, hai cha quỳ bên nhau cầu nguyện lâu giờ. Tuy các tín hữu xin được phép đưa cơm vào tù mỗi ngày, hai cha vẫn tìm cách hãm mình dặn họ đừng mang thịt hay cá làm chi, các ngài vẫn tiếp tục giữ chay ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy. Những ngày đó, hai cha ăn thật ít vừa đủ.

Lễ các Thánh (1.11.1839), linh mục Trân đưa Mình Thánh vào ngục. Vừa thấy ngài, cha Lạc đã ra chào đón: “Xin chào bác, tôi đợi bác đã lâu vì hết lương thực rồi”. Sau đó, cha cung kính rước lễ, và trao Mình Thánh cho cha già Thi.

Cuối năm 1839, khi quân lính đến công bố lệnh xử án, hai cha vui vẻ đón nhận bản án như một phần thưởng trọng hậu. Trên đường đến pháp trường, hai cha yên lặng cầu nguyện. Lúc ra khỏi cổng thành, cha Lạc chắp tay lại, hát lớn tiếng mấy câu Latinh chúc tụng Chúa. Trước phút hành quyết, người lý hình đến nói với hai cha:

“Chúng tôi không biết các thầy tội gì, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên, xin các thầy đừng chấp”.

Cha Lạc tươi cười trả lời: “Quan đã truyền lệnh anh cứ thi hành”. Sau đó, hai cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi nghiêng đầu cho lý hình chém.

Hai vị đã lãnh phúc tử đạo ngày 21.12.1839 tại bãi ngoài cửa Ô Cầu Giấy (Hà Nội), giáp đường lên tỉnh Sơn Tây. Thi hài của cha Lạc được đưa về an táng tại nhà bà Lý Quý gần đó.

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho linh mục Anrê Trần an Dũng Lạc ngày 27.5.1900.

Nhớ đến Thánh Dũng Lạc, phải nhớ đến những vần thơ ngài tâm sự trong thư viết trong ngục cho cha Thực rằng:


“Lạc rầy đã rõ chốn quân quan
Bút chép thơ này gửi thở than
Lòng nhớ bạn, nỗi còn vất vả
Dạ thương khách, chạy chữa yên hàn.
Đông qua tiết lại thì xuân tới
Khổ trảm mai sau hưởng phúc an
Làm kẻ anh hùng chi quản khó
Nguyện xin cùng gặp chốn thiên đàng”. (1)

(1): Thơ trích trong Nguyễn văn Tư, Bốn mươi hai Á Thánh Tử Đạo, tr. 76.

 

Hiếu Trung, OP

 


Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa


 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 6, 1-13

"Vì các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêrusalem mà trẫm phải buồn bực mà chết".

Trích sách Macabê quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, vua Antiôcô rảo khắp các tỉnh miền bắc. Vua nghe nói tại Ba-tư có thành Êlymai nổi tiếng là giàu có và lắm vàng bạc; trong thành lại có một ngôi đền thờ lắm bảo vật, đầy những binh giáp bằng vàng, chiến bào, khiên mộc di sản của Alexanđrô, con Philipphê, vua xứ Macêđônia, là vua tiên khởi cai trị dân Hy-lạp. Vậy ông đến tìm cách chiếm lấy thành để cướp của. Nhưng ông không thành công, vì dân thành đã biết trước ý định của ông, nên đã vùng lên chống lại. Ông bỏ chạy và buồn bực lui quân trở về Babylon.

Lúc vua còn ở Ba-tư, có người đến đem tin cho vua hay toán quân của ông ở Giuđa đã bị đánh bại chạy tán loạn, và Lysia, vị tướng chỉ huy một đoàn quân hùng hậu, cũng đã phải tháo lui chạy trốn quân Do-thái; quân Do-thái lại càng mạnh thêm nhờ ở khí giới, lương thực và chiến lợi phẩm rất nhiều đã lấy được của các đoàn quân họ đánh bại. Họ đã hạ tượng thần vua đã đặt trên bàn thờ ở Giêrusalem; họ cũng đã xây thành đắp luỹ cao như trước chung quanh Ðền thờ và chung quanh thành Bethsura.

Nghe tin ấy, nhà vua khiếp đảm và rất xúc động. Vua vật mình xuống giường và buồn đến lâm bệnh, (bởi vì) sự việc đã không xảy ra như vua ước muốn. Vua liệt giường nhiều ngày, càng ngày càng buồn. Và tưởng mình sắp chết, vua liền triệu tập tất cả bạn hữu lại mà nói với họ rằng: "Trẫm không còn chớp mắt được nữa và lòng trẫm tan nát vì ưu tư. Trẫm tự nghĩ: trước kia khi trẫm còn quyền thế, trẫm vui sướng và được người ta quý mến, mà giờ đây trẫm lâm cảnh buồn sầu và đau khổ biết bao! Bây giờ trẫm hồi tưởng lại các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêru-salem: trẫm đã chiếm đoạt các chén bằng vàng bạc tại đó, và đã ra lệnh tiêu diệt dân Giuđêa cách vô cớ. Trẫm nhìn nhận là vì các việc ấy mà phải khốn khổ như thế này, mà giờ đây trẫm phải buồn bực mà chết nơi đất khách quê người".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 9, 2-3. 4 và 6. 16b và 19

Ðáp: Lạy Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ (x. c. 16a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao. - Ðáp.

2) Vì quân thù của con đã tháo lui, chúng chạy trốn và vong mạng trước thiên nhan Chúa. Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời. - Ðáp.

3) Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cạm bẫy mà họ đã che. Vì kẻ cơ bần không bị đời đời quên bỏ, hy vọng người đau khổ không mãi mãi tiêu tan. - Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 20, 27-40

"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?"

Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".

Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm". Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.

Ðó là lời Chúa. 


 



Suy nghiệm Lời Chúa


 

Một cánh chung biến đổi canh tân  



H
ôm nay, Thứ Bảy, cuối Tuần XXXIII Thường Niên, Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc vẫn tiếp tục bài Phúc Âm hôm qua là bài Phúc Âm cho biết cuộc hành trình Giêrusalem của Người đã tới đích điểm của nó là chung thành thánh Giêrusalem và riêng đền thánh Giêrusalem, nơi Người sau khi thẳng tay thanh tẩy thì Người tiếp tục giảng dạy cho dân chúng.

V
à giáo huấn cuối cùng trong cuộc hành trình Giêrusalem của Người ở chính giáo đô Giêrusalem là đích điểm tỏ mình ra của Người này, đặc biệt liên quan đến mầu nhiệm cánh chung và lai thời hậu thế, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, qua lời vấn đáp của Chúa Giêsu với "mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại", nên đã "đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng:

"Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ g
óa đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?"

Quả th
ực đây là một câu hỏi của những người không tin có vấn đề sống lại, nghĩa là không tin có đời sau, hay có đời sau thì cũng không thể nào xẩy ra chuyện bao gồm cả thân xác hữu hình và hữu hạn này, nghĩa là thân xác con người không thể nào trở thành vô hình và vô hạn bất biến với thời gian sau thời gian ở đời này được. 

Theo lý lẽ tự nhiên thì không phải là h
ọ không có lý. Và chính vì thế, họ mới phủ nhận sự kiện thân xác phục sinh, hay ngược lại, vì có ý nghĩ không thể nào có vấn đề phục sinh của thân xác mà họ mới đặt ra một trường hợp không bao giờ có thể xẩy ra, hoàn toàn không thực tế, hợp với tầm mức hiểu biết thiển cận theo tự nhiên của họ trên đây.

Tuy nhiên, họ đã lầm. Nhưng cũng may, họ vẫn còn thiện chí để nói ra, để hỏi han, lại hỏi ngay chính vị mà họ tin rằng, (hơn là cố ý thử Người như thường thấy nơi thành phần luật sĩ và biệt phái tin có sự sống lại), có thể giải đáp vấn đề then chốt nhất của họ, nhưng cũng là vấn đề 
hóc búa đến độ như thể bất khả nan giải của họ. 

C
âu trả lời của Chúa Giêsu là Đấng tự thân sẽ sống lại đầu tiên từ trong kẻ chết như thế này, một câu trả lời đã được chính thành phần luật sĩ cũng có mặt ở đó bấy giờ hết sức khâm phục: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm", đến độ "họ không dám hỏi Người điều gì nữa". Và câu trả lời của Chúa Giêsu về chuyện xác loài người ta sẽ sống lại như sau:

"Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".

Trong c
âu trả lời này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Đấng "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25) bao gồm cả sự sống lại của thân xác và sự sống bất diệt đời sau của cả toàn thân con người cả hồn lẫn xác

Trước hết, về sự sống lại, lần đầu tiên Ch
úa Giêsu được dịp chính thức mạc khải cho biết rằng con người ta sẽ sống lại, mà sống lại là sự kiện trước hết liên quan đến thân xác đã chết đi của họ, nên vấn đề sống lại là vấn đề của thân xác, và một khi thân xác sống lại thì "sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa". 

Ngh
ĩa là thân xác hữu hình và hữu hạn của con người khi còn tại thế, còn sống trong không gian và thời gian, khi sống lại sẽ trở thành thiêng liêng vô hình, trở thành bất tử và bất diệt, như thân xác phục sinh của Ngưòi sau này, có thể xuyên qua cả căn phòng khóa kín của các tông đồ đang sợ sệt trốn lánh bấy giờ.

Th
ế nhưng, tự mình thân xác hữu hình và hữu hạn của con người không thể nào sống nếu thiếu linh hồn vẫn được gọi là hồn sống của nó, thì cũng thế nó sẽ không tự mình sống lại và sống đời sau vô cùng nếu không có hồn thiêng bất tử của nó. 

Nhưng linh hồn của con người chỉ thực sự sống, sống sự sống thần linh, sống sự sống siêu nhiên, sống sự sống đời đời, sống sự sống trường sinh bất tử, dù ở đời này hay ở đời sau, ở chỗ nhận biết "Thiên Chúa chân thật duy nhất" được tỏ hiện nơi Chúa Giêsu Kitô (xem Gioan 17:3), tức là nhận biết vị Thiên Chúa bất biến trước sau như một: "
Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Giacóp", vị Thiên Chúa hằng hữu và tồn tại dù con người có qua đi ba đời Abraham, Isaac và Giacóp, một khoảng thời gian không ai còn tồn tại trên trần gian thế mà Thiên Chúa hằng sống vẫn hiện hữu

"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống" 
l
à như thế, "vì mọi người đều sống cho Chúa", ở chỗ nhận biết Ngài như Ngài là, như Ngài đã tỏ ra nơi Chúa Giêsu Kitô là Người Con nhập thể và vượt qua của Ngài, nhờ đó "họ sẽ không thể chết nữa" cùng với thân xác của họ, với tư cách "là con cái Thiên Chúa" như Chúa Kitô, nhờ Thánh Linh là Đấng chứng tỏ họ là con cái Thiên Chúa (xem Roma 8:16; 1Gioan 4:13): "Nếu Thần Linh của Đấng đã làm cho Chúa Kitô từ trong kẻ chết sống lại thì cũng sẽ mang lại sự sống cho thân xác chết chóc của anh em, nhờ Thần Linh của Người ở trong anh em" (Rôma 8:11).

Vậy vấn đề được đặt ra ở đây là nếu thân xác con người sống lại là nhờ linh hồn nhận biết Thiên Chúa hằng sống thì những linh hồn nào không nhận biết Thiên Chúa hằng sống có sống lại nơi thân xác của họ và với thân xác của họ 
hay chăng? 

Theo t
ín lý dạy thì tất cả mọi người đều sống lại, dù là "kẻ sống" hay "kẻ chết", kẻ lành hay kẻ dữ, kẻ được rỗi hay kẻ bị hư đi. Bởi vì, dù là thành phần kẻ dữ bị hư đi vì khi còn sống trên thế gian này họ không nhận biết Thiên Chúa chân thật duy nhất để hội đủ điều kiện được cứu rỗi chăng nữa, khi qua khỏi trần gian này, khi không còn thời gian nữa thì trong cõi đời đời họ lại càng không thể chối cãi sự thật mà họ chối bỏ chính Vị Thiên Chúa hằng sống của họ

Và vì các linh hồn hư đi sau khi qua khỏi đời này không thể không
 nhận biết Thiên Chúa hằng sống như Ngài đã tỏ tất cả bản thân mình ra là nơi Chúa Giêsu Kitô, một cách bất đắc dĩ không chân nhận không được, mà linh hồn hư đi ấy vẫn tồn tại với cả thân xác của họ, vô cùng ở đời sau, trong cõi đời đời. Nhưng tình trạng hư đi của họ hoàn toàn khác với tình trạng của các linh hồn được cứu rỗi là thành phần, nhận biết Thiên Chúa chân thật duy nhất nhờ Thánh Thần, như lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, "xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết", một cách rạng ngời "giống như thân xác vinh hiển của Người (Chúa Kitô)" (Philiphê 3:21).

Sách Tiên Tri Daniên trong Bài Đọc 1 Chúa Nhật XXXII Chu Kỳ Năm B cũng chứng thực như vậy, chứng thực rằng cả kẻ dữ người lành đều sống lại, nhưng kẻ lành thì hiển vinh sáng láng: "Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời. Những người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại muôn ngàn đời".


Kinh nghi
ệm nhân sinh cho thấy con người ta khi còn sống trên đời này, vì bản tính đã bị nhiễm lây nguyên tội, nên luôn hướng hạ theo trần tục hơn là hướng thượng sống siêu nhiên, cho dù linh hồn họ được Thiên Chúa dựng nên để được hạnh phúc trường sinh ở đời sau. Và chính vì linh hồn con người vô hình thiêng liêng tự bản chất bất tử "như các thiên thần" mà họ rất sợ chết, và cho dù cả đời có tìm kiếm đủ mọi thứ thỏa mãn trên trần gian này họ vẫn không no thỏa, vẫn không thể nào thỏa đáng được ước vọng bất tử của chính cõi lòng luôn hướng về vô biên viên mãn của con người. 

Nếu "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống", ở chỗ "vì mọi người đều sống cho Chúa", nghĩa là nhận biết và tin tưởng Thiên Chúa, Đấng luôn tỏ mình ra cho từng người, tùy hoàn cảnh của họ, để họ có thể nhận biết Ngài là "Thiên Chúa của kẻ sống" khi họ nhận biết Ngài và "sống cho Ngài", thì trường hợp của Vua Antiôcô của đế quốc Ba Tư trong Sách Macabê quyển thứ 1 ở Bài Đọc 1 hôm nay là một trường hợp điển hình, ở chỗ, sau khi bị thất bại ở khắp nơi, thì vua đã tỏ ra thống hối ăn năn trước khi chết:

"Nghe tin ấy, nhà vua khiếp đảm và rất xúc động. Vua vật mình xuống giường và buồn đến lâm bệnh, (bởi vì) sự việc đã không xảy ra như vua ước muốn. Vua liệt giường nhiều ngày, càng ngày càng buồn. Và tưởng mình sắp chết, vua liền triệu tập tất cả bạn hữu lại mà nói với họ rằng: 'Trẫm không còn chớp mắt được nữa và lòng trẫm tan nát vì ưu tư. Trẫm tự nghĩ: trước kia khi trẫm còn quyền thế, trẫm vui sướng và được người ta quý mến, mà giờ đây trẫm lâm cảnh buồn sầu và đau khổ biết bao! Bây giờ trẫm hồi tưởng lại các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêru-salem: trẫm đã chiếm đoạt các chén bằng vàng bạc tại đó, và đã ra lệnh tiêu diệt dân Giuđêa cách vô cớ. Trẫm nhìn nhận là vì các việc ấy mà phải khốn khổ như thế này, mà giờ đây trẫm phải buồn bực mà chết nơi đất khách quê người'".

 

Đối với Thiên Chúa, cũng như đối với từng con người, thì ơn cứu độ là quan trọng nhất của cuộc sống tạm bợ mau qua ngắn ngủi của họ trên trần gian này. Nếu cuối cùng, cho dù cả cuộc đời có hư thân mất nết, có tội lỗi xấu xa đến mấy, nếu trước khi chết mà nhận ra chân lý thì thật là có phúc là dường nào, như Vua Antiôcô trong Bài Đọc 1 hôm nay, một vị vua có thể xứng hợp với câu họa của bài Đáp Ca hôm nay: "Lạy Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ", bài Đáp Ca theo Thánh Vịnh 9 cũng chất chứa những tâm tình của dân Chúa sau khi được Ngài giải phóng khỏi kẻ thù bởi chính cạm bẫy của kẻ thù, một Vị Thiên Chúa tỏ mình ra một lúc cho cả hai, chính họ và kẻ thù của họ:

 

1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao.

2) Vì quân thù của con đã tháo lui, chúng chạy trốn và vong mạng trước thiên nhan Chúa. Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời.

3) Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cạm bẫy mà họ đã che. Vì kẻ cơ bần không bị đời đời quên bỏ, hy vọng người đau khổ không mãi mãi tiêu tan.


 

Thánh Catarina Alêxanđria

25/11

 

Santa Catarina de Alexandria

 

Thánh nữ Catarina sống vào thời Giáo hội sơ khai. Ngài là con gái của một gia đình dân ngoại giàu có ở thành Alêxanđria, nước Ai Cập. Thánh nữ là một cô gái rất đẹp và rất ham thích việc học hành. Catarina Alêxanđria say mê nghiên cứu những vấn nạn sâu xa của triết học và tôn giáo. Một ngày kia, thánh nữ Catarina Alêxanđria bắt đầu đọc các sách viết về Kitô giáo. Và chẳng bao lâu, Catarina Alêxanđria trở thành Kitô hữu.

 

Thánh nữ Catarina Alêxanđria được 18 tuổi khi hoàng đế Maxentiô bắt đầu bách hại các Kitô hữu. Rất mực can đảm, Thánh nữ đáng yêu này đã đến nói cho nhà vua biết về sự độc ác của ông. Khi ông vua này bàn về các tà thần, Catarina đã minh nhiên chỉ cho ông thấy các thần ấy là giả tạo. Maxentiô không thể lý giải được các vấn nạn của Catarina; và vì thế, ông đã triệu vời 50 triết gia ngoại giáo hảo hạng nhất đến để đối phó với Catarina. Một lần nữa, Catarina lại làm sáng tỏ chân lý của đạo Công giáo. Tất cả 50 triết gia này đều phải công nhận rằng Catarina có lý.

Hết sức tức giận, Maxentiô đã cho lính giết chết từng người trong họ. Sau đó, ông cố gắng chinh phục Catarina bằng cách tặng cho Thánh nữ chiếc vương miện hoàng hậu. Khi biết Catarina Alêxanđria nhất mực từ chối, vì ngài tuyên bố chỉ có một phu quân duy nhất là Chúa Giêsu Kitô là Đấng ngài đã dâng trọn vẹn sự đồng trinh cho Người, ông liền sai quân lính đánh đòn và tống giam Catarina vào ngục.

 

Đang lúc Maxentiô cắm trại ở nơi xa, vợ ông và một viên sĩ quan đã tò mò đến nghe cô bé Kitô hữu lạ lùng này thuyết giảng. Họ đã tới bên phòng giam của Catarina Alêxanđria. Kết quả là họ cùng 200 lính canh khác đã được ơn trở lại. Vì chuyện này, hết thảy cả bọn đã bị Maxentiô lên án tử.

 

Bản thân Catarina thì bị hành hình hung dữ tàn bạo đến độ toàn thân của chị toàn là thương tích, khiến máu chảy ra như suối nước. Những ai chứng kiến thấy đều nức nở khóc, nhưng ngài vẫn đứng ngước mắt lên trời, không có dấu hiệu nào là sợ hãi hay đớn đau. Ngài lại bị hoàng đế ra lệnh tống ngục bỏ đói cho chết. Nhưng các thiên thần đã đến băng bó các thương tích cho ngài, và ngài được một chim câu từ trời xuống mang lương thực cho, và Chúa Kitô cũng đến thăm ngài, phấn khích ngài can trường để Người ban cho triều thiên vinh thắng.

Cuối cùng, ngài bị đặt trên một bánh xe đầy đinh nhọn để chịu hành hình. Thế nhưng khi bánh xe bắt đầu quay, thì lạ lùng thay, nó cứ bị bật ra. Sau cùng, Catarina Alêxanđria bị trảm quyết. Chính ngài đã bảo những kẻ hành quyết ngài bắt đầu ra tay, nhưng bấy giờ có một chất tuôn ra từ cổ của ngài không phải là máu mà là như sữa vậy. 12 ngày sau, khi ngục tù được mở ra thì một luồng ánh sáng rạng ngời phát tỏa ra, cùng với mùi thơm ngát, trước một nàng Catarina rạng rỡ và diễm lễ hơn nữa.

 

Trong nhiều thế kỷ, thánh Catarina thành Alexandria được tôn kính như là bổn mạng của những triết gia và những nhà thuyết giáo Công giáo. Thánh nhân còn được xem là biểu tượng như là sự khôn ngoan của các phụ nữ trong công việc đòi hỏi công bình và tự do cho nữ giới. Vào thế kỷ thứ 6, Hoàng Đế Roma Bên Đông Phương là Justinianô đaả thiết lập một cơ sở nay được gọi là Đan Viện Thánh Catarina ở Ai Cập, nơi được rất nhiều khách hành hương tuôn đến để xin ơn chữa lành. Vào thời trung cổ, ngài là một trong những vị thánh được coi là quan trọng nhất, và được coi là vị thánh nữ đồng trinh tử đạo quan trọng nhất, trong số các vị khác như Thánh Agnes Roma, Margarita Antiokia, Barbara, Lucia Syracuse, Valarie Limoges v.v. Thi thể của chị được cho là khám phá thấy ở Núi Sinai vào khoảng năm 800, tức khoảng 500 năm sau khi ngài tử đạo, và được nói rằng tóc của ngài vẫn mọc và từ thi thể của ngài tuôn ra liên tục dầu chữa lành.

 

Chính Thống giáo đã tôn kính vị thánh nữ đồng trinh tử đạo này là một vị đại tử đạo và cử hành phụng vụ vào ngày 24 hay 25/11 hằng năm tùy theo truyền thống địa phương. Bên Giáo Hội Công giáo Tây phương thì tôn kính ngài vào ngày 25/11, nhưng lễ của ngài đã không còn từ năm 1969, cho mãi đến năm 2002 mới được phục hồi, ở bậc lễ nhớ không buộc.

 

Thánh nữ Catarina Alêxanđria đã trân quý vẻ đẹp của niềm tin Kitô giáo. Đó là lý do thánh nữ có thể thuyết phục cách hiệu quả những người khác tôn giáo cùng tin theo đạo. Việc theo đuổi sự khôn ngoan của Thiên Chúa có thể không dẫn chúng ta tới sự giàu có cùng vinh dự trần thế. Trong trường hợp của Catarina, nó dẫn ngài đến chịu tử vì đạo. Tuy nhiên thánh nữ không điên rồ khi ngài chọn thà chết cho Đức Giêsu còn hơn là sống mà chối bỏ Ngài. Tất cả những phần thưởng mà những kẻ hành hạ ngài có thể cống hiến cho ngài, như danh vọng, giàu có, quyền lực đều mai một như gỉ sắt, tàn úa chẳng còn gì là vẻ đẹp, hay đúng ra chỉ là những sự đổi chác nghèo nàn so với giá trị của sự liêm khiết, ngay thẳng của ngài khi đi theo Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Catarina Alêxanđria giúp chúng ta tăng triển lòng yêu mến đối với các chân lý đức tin như ngài.

Lời Sách Khôn Ngoan: "Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và Thần khí Đức Khôn ngoan đã đến với tôi. Đức Khôn ngoan, tôi đã quý trọng còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn ngoan. Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn ngoan, cũng kể như bùn đất. Tôi đã ham chuộng Đức Khôn ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn ngoan chẳng bao giờ tàn lụi. Nhưng cùng với Đức Khôn ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể. Tôi vui hưởng mọi sự tốt lành ấy, vì chính Đức Khôn ngoan đem chúng đến với tôi; thế mà tôi lại không biết rằng Đức Khôn ngoan là mẹ sinh ra chúng". (Kn 7, 7-12)

Thánh nữ Catarina Alêxanđria đã trân quý vẻ đẹp của niềm tin Kitô giáo. Đó là lý do thánh nữ có thể thuyết phục cách hiệu quả những người khác tôn giáo cùng tin theo đạo. Chúng ta hãy nài xin Thánh nữ Catarina Alêxanđria giúp chúng ta tăng triển lòng yêu mến đối với các chân lý đức tin như ngài.

Vào ngày lễ của Thánh Catherine thành Alexandria Tử Đạo (25/11 theo lịch phụng vụ cũ), khi Thánh Nữ Margaret đang ở bàn thờ để rước lễ thì nghe thấy Chúa Giêsu nói cùng mình rằng: “Con Cha ơi, chỗ của con sẽ ở giữa thần Seraphim cùng với các trinh nữ bừng cháy tình yêu thần linh”. Nghe thấy thế Thánh nữ sửng sốt đáp lại rằng: “Lạy Chúa, làm sao điều ấy có thể xẩy ra được với một con người nhớp nhúa tội lỗi chứ?” Chị đã nghe thấy câu giải đáp của Chúa như sau: “Những đau khổ vô vàn của con sẽ thanh tẩy tâm hồn con khỏi tất cả mọi thứ thu hút phạm tội, và trong nỗi đớn đau và ăn năn thống hối của mình, con sẽ phục hồi sự tinh tuyền đồng trinh của con”. Thánh nữ lại càng cảm thấy sợ hãi trước câu trả lời của Chúa và đã than lên rằng: “Ôi Chúa Kitô là Sư Phụ của con, phải chăng Thánh Mai Đệ Liên thuộc về thành phần các trinh nữ trong vinh quang thiên đình?” Chúa liền tiết lộ cho chị biết rằng: “Ngoại trừ Mẹ Maria và Catherine Tử Đạo, không ai hơn Mai Đệ Liên ở hàng ngũ trinh nữ”.

Thánh Margarita Cortona

Vâng, vị thánh được nói đến đây có liên quan đến ngày lễ Thánh Catarina Alexander hôm nay, qua biến cố chị được Chúa Giêsu cho biết về vị thánh nữ này cũng như về bản thân chị, khiến chị cảm thấy bàng hoàng ngỡ ngàng không thể nào hiểu được theo quan niệm trần gian. Về cuộc sống thì chị Margarita Cortona và Thánh Catarina Alexander hoàn toàn trái ngược nhau: trong khi nàng Margarita Cortona hoang dâm thì nàng Catarina Alaxander tử đạo, nhưng cuối cùng, trước Thánh Nhan Thiên Chúa thì cả hai lại đồng qui: đều đồng trinh và đều còn nguyên xác sau khi chết.

Thật vậy, nàng Margarita Cortona đã từng sống một cuộc đời hôn nhân và đã có con, nhưng lại là một cuộc hôn nhân bất chính. Chính vì con điếm có tiếng trong thành kia, dù thân xác nhớp nhúa dâm ô và đời sống ghê tởm trước mặt dân chúng, nhất là thành phần luật sĩ và Pharisêu, nhưng vẫn không vì thế mà không dám tới gần Đấng Thánh là Chúa Giêsu Kitô bấy giờ đang ở trong nhà một người Pharisiêu tên Simon, thậm chí còn dám chạm tới Ngài, bằng cách lấy nước mắt mà rửa chân cho Ngài, lấy tóc mình mà lau khô và lấy thuốc thơm mà xức chân Ngài, mà con điếm này ngay bấy giờ đã được Đấng chị tin tưởng bênh vực và khẳng định rằng: “Đó là lý do tại sao tội lỗi của cô ta dù nhiều cũng đều được thứ tha vì cô ta đã yêu mến nhiều” (Lk 7:47). Con điếm “yêu nhiều” này chính là đệ nhất Mai Đệ Liên (xem Lk 8:2; Jn 11:2, 12:3; Mk 16:9).

“Đệ nhị Mai Đệ Liên” là một trong những vị thánh nữ ở thế kỷ 13 đó là Thánh Margaret thành Cortona Ý quốc, sau cuộc đời chín năm phóng đãng dâm ô theo nhan sắc và tình cảm tự nhiên của mình với một chàng thanh niên giầu sang phú quí trong vùng và có một đứa con trai với anh ta, nhưng không bao giờ trở thành vợ của anh ta như anh ta hứa hẹn. Tuy nhiên, sau khi nhờ con chó thân thương và tinh khôn dẫn đường thấy được thi thể của người tình này bất ngờ bị sát hại trong rừng vắng, nàng đã bắt đầu ăn năn hoán cải và chịu đựng tất cả những hậu quả hết sức đắng cay gây ra bởi gương mù tội lỗi của mình ở địa phương quê quán của nàng, nhất là thái độ hất hủi của người cha ruột và bà mẹ ghẻ của nàng.

Sau đó, nàng đã sống một cuộc đời thống hối ăn năn, đã gia nhập Dòng Ba Phanxicô, con trai nàng đã trở thành tu sĩ Dòng Phanxicô cùng được phúc tử đạo, và nàng đã lập Hiệp Hội Đức Mẹ Tình Thương để phục vụ thành phần bệnh nhân và nghèo khổ. Người thiếu phụ hoang đường tội lỗi này đã sống một cuộc đời hối nhân đầy nguyện cầu và khổ chế, nằm đất, ăn uống khem khổ, ngủ ít, mặc áo nhặm, đánh tội, và trải qua những giây phút ngất ngây chiêm niệm.

Nàng đã dứt khoát với thân xác một thời lăng loàn của mình đang bị nàng hành khổ để đền tội rằng: “Ôi thân xác của ta, tại sao ngươi không giúp ta phụng sự Đấng Hóa Công và Đấng Cứu Chuộc của ngươi chứ? Tại sao giờ đây ngươi không mạnh mẽ trong việc phụng sự Ngài như trước đây ngươi đã đưa ta đến chỗ xúc phạm đến Ngài chứ? Vô ích thôi cho dù ngươi có than van và chống cự về tình trạng ngươi đang bị quằn quại, vì giờ đây ngươi cần phải chịu đựng cho đến cùng cái ách ta đặt lên ngươi, như trong quá khứ ta đã mang lấy cái ách của ngươi để gây tổn thương cho Đấng đã dựng nên ngươi”.

Thậm chí nàng còn bị một số người trong dân chúng hiểu lầm về chính những nỗ lực thật tình thống hối ăn năn của nàng và tìm cách gây trở ngại cho việc chị được dẫn dắt trong đàng thiêng liêng bởi vị linh hướng Dòng Phanxicô. Thêm vào đó, chính các tu sĩ Dòng Phanxicô cũng hiểu lầm chị trước khi chị qua đời ít lâu. Về cuối đời, Chúa Giêsu đã cho chị biết về mục đích và ý nghĩa của việc Chúa hoán cải chị có liên quan tới các người khác nữa chứ không phải chỉ vì cá nhân chị và cho riêng chị. Chúa nói với chị như sau: “Giờ đây con hãy chứng tỏ là con đã hoán cải; con hãy kêu gọi những người khác thống hối nữa… Các ân sủng Cha đã ban cho con không phải chỉ giành riêng cho một mình con”.

Thế rồi, nhờ nỗ lực đáp ứng của chị trước lời Chúa kêu gọi, chị đã làm cho các tội nhân chẳng những ở Ý mà còn ở Pháp và Tây Ban Nha bỏ đàng tội lỗi mà quay về với Lòng Thương Xót Chúa như chị. Thậm chí thành phần dân chúng ở thành Cortona của chị không còn ngờ vực chị nữa, nhưng đã chạy đến với chị trong những lúc khó khăn khốn khó. Chị đã qua đời vào ngày 22/2/1297, hưởng dương 50 tuổi, sau 23 năm ăn năn thống hối. Ngay ngày chị qua đời chị đã được dân chúng địa phương tuyên xưng là một vị thánh và cùng năm ấy dân thành Cortona cũng đã xây một thánh đường kính chị. Chị quả thực đã trở thành một vị thánh lớn của chung hội dòng Phanxicô Khó Khăn, đến nỗi, như Chúa Giêsu cho chị biết khi chị còn sống rằng: “Con là ánh sáng thứ ba được ban cho hội dòng của Phanxicô yêu dấu của Cha. Phanxicô là thứ nhất trong số những người Anh Em Dòng Hèn Mọn; Clara là thứ hai trong số các nữ tu, con sẽ là thứ ba của Hội Dòng Ba Thống Hối”.

Hiện nay thi hài của chị, một thân thể dù đã trải qua một thời gian chín năm dài dâm ô lăng loàn đàng điếm vẫn được ơn còn nguyên vẹn sau khi chết, vì chị quả thực đã có lòng thống hối ăn năn, hãm mình phạt xác và làm việc bác ái của chị, những việc yêu nhiều thì được tha nhiều, nhờ đó chị có thể đền bù tội lỗi của chị với tất cả tấm lòng “tan nát khiêm cung” trước Thánh Nhan của Thiên Chúa vô cùng nhân hậu.

Đúng thế, nếu có những cái bẩn không thể dùng nước mà rửa được, tuy nước vẫn có tác dụng tẩy rửa, thậm chí đã trở thành chất thể bất khả thiếu trong Bí Tích Thánh Tẩy Tái Sinh của Kitô Giáo do Chúa Kitô thiết lập (Marco 16:16; Mathêu 28:19), và thực tế cho thấy chỉ có lửa mới có thể thanh tẩy được những thứ bẩn ấy thôi, chẳng hạn một thanh sắt bị rỉ sét. Đúng thế, chỉ có lửa mới làm cho thánh sắt bị rỉ sét chẳng những hết rỉ sát mà còn trở thành một thanh lửa hay một cục lửa nữa, khi thanh sắt hay cục sắt rỉ sét ấy bị nung bằng lửa, nhất là lửa yêu mến. Đó là lý do Chúa Kitô đã được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả loan báo là Đấng rửa trong Thánh Thần nữa (xem Gioan 1:33), một phép rửa trong Thánh Thần mà ngài báo trước cho các tông đồ trước khi về trời: "ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần" (Tông Vụ 1:5). Mà Thánh Thần là tình yêu hiệp thông, nên "ai yêu nhiều sẽ được tha nhiều" (Luca 7:47), như một con điếm Mai Đệ Liên, hay một Magarita Cortona, được Chúa Giêsu nói tới trong truyện vừa kể.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp cả Việt lẫn Anh cũng như liên kết và diễn giải