w

Sứ Điệp Fatima

- Linh Đạo  Thánh Mẫu

 

 

Đời Sống Tu Đức

 

M

ục đích của đời sống con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài đó là được vĩnh viễn hiệp thông với Thiên Chúa. Bởi thế, tột đỉnh của đời sống Kitô hữu trên đời này là được nên một với Chúa Kitô, Đấng đã tái sinh con người bởi nước và Thần Linh nơi Bí Tích Rửa Tội (xem John 3:5).

 

Thật ra, khi lãnh nhận Phép Rửa là người Kitô hữu đã được nên một với Chúa Kitô rồi. Vì họ được sống sự sống thần linh của Người, được thông phần bản tính thần linh với Người, được trở nên con cái Thiên Chúa như Người, (tất nhiên thân phận làm con cái Thiên Chúa của chúng ta là “thân phận dưỡng tử” - Gal 4:5 - chứ không như Người “là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa”, “ngang hàng với Thiên Chúa” – Phil 2:6), nên chính chi thể của Chúa Kitô và nên đền thờ của Chúa Thánh Thần.

 

Tuy được thánh hóa, được ơn nghĩa với Chúa, nhờ Phép Rửa như thế, con người vẫn sống với bản tính đầy yếu đuối đã bị hư hoại bởi nguyên tội của mình. Do đó, Kitô hữu vẫn có thể làm mất đi hay giảm bớt mối hiệp thông thần linh này, bằng tội trọng, tội nhẹ hay lầm lỗi, dù là vô tình. Đó là lý do đời sống Kitô hữu là một hành trình tu đức liên lỉ của việc hoán cải nội tâm, tức là một cuộc hành trình hướng về chính Thiên Chúa, cho đến khi được hoàn toàn kết hiệp với Ngài trong Chúa Giêsu Kitô, hay cho đến độ đạt đến tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô là Đầu (x Eph 4:13,15), Đấng  sống trong họ (xem Jn 17:23; Gal 2:20), chứ không phải chỉ thụ động trong họ. Nhờ đó, nhờ được hiệp thông sâu xa với Người họ có thể yêu nhau như Thày yêu (xem Jn 13:34, 15:12), bằng chính nhựa thần linh của Cây Nho (x Jn 15:5). Và bởi đó, bởi được Chúa Kitô làm chủ, họ mới xứng đáng trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Người và cho Người, theo đúng ơn gọi và sứ vụ của người Kitô hữu, thành phần môn đệ đích thực được Người tuyển chọn để ở với Người và ra đi sinh hoa kết trái thần linh (x Mk 3:14-15; Jn 15:16).

 

Việc kết hiệp với Chúa Kitô được thực hiện chẳng những bởi yếu tố chính yếu là Thánh Sủng, tức bởi tình yêu của Thiên Chúa, bởi Thánh Linh ngự trong linh hồn, mà còn bởi cả một yếu tố bất khả thiếu nữa là chính ý muốn đầy tin cậy mến của con người, chứ không phải bởi cảm giác cảm tình, hay thậm chí bởi cả lý trí đầy khôn ngoan sáng suốt của họ theo kiểu khôn như rắn mà không chân thật như bồ câu (x Lk 10:21; Mt 10:16).

 

Đúng thế, “Thiên Chúa là Thần Linh, những ai tôn thờ Ngài đều phải tôn thờ trong Thần Linh và chân lý” (Jn 4:24), tức phải sống chẳng những theo Thần Linh là “Thần Chân Lý” (x Jn 16:13), “Đấng thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu nhiệm nơi Thiên Chúa” (1Cor 2:10), mà còn phải sống bằng ý muốn cởi mở trước và đáp ứng lại tất cả mọi tác động thần linh ở mọi nơi và trong mọi lúc. Bằng không, linh hồn, dù tốt lành mấy đi nữa, ngay lành mấy chăng nữa, cũng liều mình sống theo xác thịt, không thể đẹp lòng Ngài (x Rm 8:4-9). Điển hình là trường hợp của vị trưởng tông đồ đoàn Phêrô, vị vừa được Thày hứa sẽ sử dụng như Đá để xây Giáo Hội của Người và trao chìa khóa Nước Trời cho, lại bị Người nguyền rủa thậm tệ, chỉ vì yêu mến quan tâm cho Thày theo kiểu thế gian chứ không theo chiều hướng của Thiên Chúa (x Mt 16:21-23).

 

Đó là lý do, Chúa Kitô, sau khi đã nặng lời khiển trách Thánh Phêrô là người môn đệ hết sức chân thành tỏ ra quan tâm đến tình trạng sinh tồn của Người, đã khẳng định và dứt khoát với thành phần muốn theo Người rằng: “Ai muốn theo Thày thì họ phải từ bỏ chính bản thân mình và vác thập giá của mình mà bắt đầu theo Thày” (Mt 16:24).

 

Thực tế quả cho thấy, ý muốn của con người tự nhiên luôn có những khuynh hướng, thái độ, hành động và phản ứng chẳng những sợ sệt và tránh né ý muốn của Thiên Chúa, (điển hình là trường hợp nhất định không dám hay không chịu nhận lỗi bởi sợ phải sửa lỗi, phải bỏ cái mình yêu thích như sự sống của mình), mà thậm chí còn phản nghịch và chống cự lại với ý muốn của Thiên Chúa nữa, (mỗi khi thấy bất lợi cho mình).

 

Cái mâu thuẫn ở đây là, để an tâm, chúng ta luôn tìm hiểu xem đâu là Thánh Ý Chúa, thế nhưng, khi biết được ý của Ngài rồi, chúng ta lại không dám làm, lại phũ phàng chối bỏ, cho rằng không phải là ý Chúa, chỉ vì không hợp với ý của mình, bất lợi cho mình. Đó là trường hợp của dân Do Thái xưa, những người rất muốn biết Chúa Giêsu là ai, từ đâu đến, có phải thực sự là Đấng Thiên Sai họ trông chờ hay chăng (x Jn 10:24; Mk 11:28-33), song họ đã chẳng những phủ nhận Người mà còn sát hại Người nữa, ngay khi Người chính thức tỏ tất cả sự thật về Người ra cho họ, đến nỗi, Người đã báo trước cho họ biết rằng: “Các người sẽ tìm Tôi, song các người sẽ chết trong tội lỗi của mình” (Jn 8:21, 24). Họ đã không “chết trong tội lỗi của mình” là gì, khi Chúa Giêsu vừa tỏ mình ra cho họ trước Hội Đồng Đầu Mục Do Thái trong cuộc Khổ Nạn của Người, thì họ đã xé áo mình ra đòi giết chết Người (x Mt 26:63-66; Lk 66:71).

 

Cho dù con người có sợ Chúa, sợ làm theo ý Chúa, vì không biết ý của Ngài, hay sợ không muốn biết, hoặc tìm biết mà không muốn làm theo, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho họ. Thậm chí, chính vì họ còn “ngồi trong tối tăm và bóng tử thần” (x Lk 2:79) như thế mà họ mới cần đến Ngài, mới cần đến “ánh sáng thế gian… ánh sáng sự sống” (Jn 8:12). Điển hình nhất là trường hợp của người phụ nữ Samaritano ngoại lai, đã từng sống với 6 đời chồng, đến kín nước ở giếng Giacóp vào giờ trưa nắng vắng người như để lánh mặt mọi người ấy, vẫn được Chúa quan tâm như con chiên thứ 100, và Người đã chủ ý đón gặp chị một cách riêng tư, để tỏ mình ra cho riêng chị, để rồi, nhờ cuộc hội ngộ thần linh bất ngờ này, cho dù còn đang sống trong tội lỗi, chị cũng đã trở thành thừa sai của Người và cho Người, khi chị loan truyền về Người và mang dân làng của chị ra gặp gỡ Đấng mà nhờ Người một mạch nước Thần Linh đã thực sự vọt lên từ lòng chị (x Jn 4:6-7, 14-20, 28-30).

 

Phải, kinh nghiệm tu đức cũng cho thấy rõ đường lối tỏ mình này, đường lối mạc khải và chiếu soi này của Thiên Chúa nơi Con Ngài là “ánh sáng đã chiếu trong tăm tối” (Jn 1:5), Chúa phải kêu gọi Kitô hữu chúng ta trước, bằng những ơn đánh động hay ơn an ủi, nhờ đó chúng ta có thể dễ dàng từ bỏ mình mà theo Chúa. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người trong Bữa Tiệc Ly rằng: “Không phải các con đã chọn Thày, song Thày đã chọn các con” (Jn 15:16), và đó còn là cảm nghiệm thần linh được vị Tông Đồ được Chúa Giêsu thương chia sẻ: “Tình yêu là như thế này, không phải là chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa mà là Ngài đã yêu thương chúng ta” (1Jn 4:10), bởi thế, “về phần mình, chúng ta mến yêu vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước” (1Jn 4:19).

 

Thật thế, Thiên Chúa đã không “chọn” chúng ta hay sao, đã không “yêu chúng ta trước” hay sao, trong khi chúng ta chưa biết Ngài, thậm chí còn là kẻ thù của Ngài, còn là thành phần tội nhân đáng bị muôn đời trừng phạt, thì Ngài đã yêu thương chúng ta rồi: “Thiên Chúa đã chứng tỏ tình Ngài yêu thương chúng ta ở chỗ đang khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta” (Rm 5:8), đến nỗi, “Ngài đã không dung tha cho Con mình, song phú nạp Người vì tất cả chúng ta” (Rm 8:32).

 

Trong trường hợp của Kitô hữu, thành phần đã được Chúa ở cùng, khi lãnh nhận Phép Rửa, thì Thiên Chúa tỏ mình ra cho họ từ bên trong. Thánh Sủng được ban cho họ qua Bí Tích Rửa Tội, ở nơi họ, như một hạt cải nhỏ bé nhất trong các thứ hạt (x Mt 13:31-32), nhỏ nhất vì nó chính là hạt giống mạc khải thần linh, cần phải có đức tin mới thấy được, một hạt giống mạc khải thần linh sẽ từ từ nẩy mầm và lớn lên trong họ bằng chính quyền lực của mình, chứ không phải của chủ thể Kitô hữu. Tuy nhiên, hạt giống mạc khải thần linh này cần một mảnh đất tốt để triển nở là tâm hồn “như trẻ nhỏ“ (x Mt 18:3) của Kitô hữu, cho đến khi nó đạt đến tầm vóc trọn vẹn của mình là Chúa Giêsu Kitô. Tức cho tới khi Chúa Kitô hoàn toàn làm chủ và sống động nơi Kitô hữu, nhờ đó và cho tới khi đó, tất cả mọi lời Kitô hữu nói và việc họ làm mới tạo nên được một tác dụng thần linh và có một giá trị cứu độ hiệu nghiệm hơn bao giờ hết.

 

Về cách thức Chúa bắt đầu “tỏ tình” với linh hồn, bắt đầu thỏ thẻ hết sức êm ái trong tâm hồn của người Kitô hữu, theo kinh nghiệm tu đức, Chúa thường ban ơn an ủi cho họ, như thể Người muốn thu hút họ và lôi kéo họ đến cùng Người. Những ơn an ủi này thường xẩy ra vào những cuộc tĩnh tâm, hay những thuở ban đầu mới theo Chúa trong cuộc sống tu trì, hoặc khi mới lãnh chức thánh v.v. Tuy nhiên, để linh hồn có thể tiến tới chỗ được Chúa bắt đầu cho cảm thấy “ham” Chúa, “phải lòng” Chúa, có trường hợp Người đã phải giang thẳng cánh tay uy quyền của Người ra, như đã thực hiện trong cuộc Xuất Hành của Dân Yến Duyên ra khỏi tình trạng làm tôi Ai Cập, hay với chàng thanh niên Pharisiêu tên Saulê, một con người hết sức nhiệt thành với Lề Luật Moisen, đang hung hăng trên đoạn đường Đamascô để bắt bớ thành phần môn đệ tiên khởi của Chúa Kitô (x Acts 9:1-9). Đó là lý do, có những tâm hồn bắt đầu dứt khoát theo Chúa chỉ sau khi bị thất tình, sau khi vĩnh viễn mất đi những gì thân yêu nhất trên đời của mình v.v.

 

Về phần mình, sau khi cảm thấy Chúa quá ư dịu ngọt và dễ thương, linh hồn bắt đầu tìm Chúa qua việc sốt sắng kinh nguyện và chịu khó hy sinh hãm mình, thậm chí bấy giờ họ còn dám tử đạo nếu cần, chứng tỏ linh hồn họ hết sức khao khát thần linh. Ngoài ơn an ủi dồi dào chất ngất liên quan tới cảm tình của con người, họ còn được nhiều ơn soi sáng đặc biệt, liên quan tới trí khôn của họ nữa, để nhờ đó họ có thể hiểu được những gì họ chưa từng biết, những gì “mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe” (1Cor 2:9) như thể họ được mang lên tới tầng trời thứ ba của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô  (2Cor 12:2).

 

Trong giai đoạn tu đức thứ hai hướng về nội tâm này, linh hồn xem ra ít phạm tội hơn trước. Thế nhưng, tình trạng dường như “công chính” này có được là do ơn an ủi của Chúa. Nếu mất đi ơn an ủi, linh hồn sẽ trở về với nguyên thực trạng của mình, vẫn có thể dễ dàng phạm tội mất lòng Chúa như thường, thậm chí hơn thường. Vì các mầm mống tội lỗi là đam mê nhục dục cùng với đủ mọi tính hư nết xấu vẫn còn đó, vẫn chờ dịp là vùng dậy, nhiều khi còn dữ dội hơn trước nữa. Chúa Giêsu đã chẳng nói tới tình trạng này hay sao (?), nơi dụ ngôn (x. Mt 12:43-45) về một căn nhà đã được dọn dẹp sạch sẽ (có  thể  hiểu là tâm trạng sốt sắng một thời), nhưng sau đó lại bị thần ô uế (có thể hiểu là tính mê nết xấu và đam mê nhục dục) trở về với 7 tên quỉ khác (có thể hiểu là bảy mối tội đầu) còn dữ hơn nó nữa tàn phá, để rồi trở nên khốn nạn hơn trước, sau khi thần ô uế xuất ra khỏi căn nhà ấy, đi lang thang trong hoang địa, không tìm thấy nơi cư trú (có thể hiểu là tâm trạng khô khan). 

 

Tuy nhiên, ngay trong khi sốt sắng, trong khi làm được những việc có thể được xếp vào hạng nhân đức anh hùng, linh hồn dù ít phạm tội hơn trước đó song lại mắc phải một tâm trạng lưỡng diện rất nguy hiểm, phản với yếu tính của sự thánh thiện. Tâm trạng nguy hiểm lưỡng diện này đó là tâm trạng ảo tưởng về mình và về Chúa.

 

Tâm trạng ảo tưởng về mình là tâm trạng tự cao tự đại, khi thấy mình sốt sắng và đạo đức tốt lành, đến độ khinh khi người khác, nhất là những người tội lỗi, như trường hợp của người Pharisiêu lên đền thờ cầu nguyện đã tự cho mình là công chính trước mặt Chúa rồi tỏ ra khinh bỉ người thuê thuế tội lỗi vậy (Lk 18:9-14). Chưa hết, cũng chính tâm trạng ảo tưởng về mình này, ngược lại, còn làm cho họ khinh thường cả những ai có vẻ đạo đức thánh thiện hơn họ nữa, như thành phần kinh sư Pharisiêu đối với vị Sư Phụ Giêsu được dân chúng cảm phục và mến  chuộng hơn họ.

 

Tâm trạng ảo tưởng về Chúa là tâm trạng có mầu sắc ngẫu tượng của linh hồn và nơi linh hồn, cho Chúa là những gì họ cảm thấy được và nghĩ ra được, một tâm trạng làm như họ thực sự nắm bắt được Chúa trong tay, thế mà vẫn chưa thấu triệt được Người, giống như một tông đồ Phêrô ở trên Núi Biến Hình Tabor với Chúa, nói mà không biết rằng mình nói gì (x Mk 9:6). Ở giai đoạn này, họ thích đọc kinh nguyện đấy, nhưng việc cầu nguyện của họ có tính cách lải nhải nhiều lời (x Mt 6:7) hơn là lắng nghe, hơn là đối thoại theo đúng bản chất của việc nguyện cầu. Họ cần phải đọc đủ kinh này kinh kia, thầm thĩ và than thở đủ những câu này câu nọ mới yên trí. Đối với Chúa của họ bấy giờ, họ là một Matta chủ nhà lo lắng nhiều chuyện để tiếp khách, hơn là một Maria để Chúa chủ sự và coi Người như bạn chứ không phải khách khứa, ở chỗ thảnh thơi ngồi im lắng nghe Lời Chúa và thân tình trao đổi tâm sự với Người (x Lk 10:39,41-42).

 

Chính vì “thành phần tôn thờ đích thực là thành phần tôn thờ Cha trong Thần Linh và chân lý” (Jn 4:23) mà linh hồn đang ở trong giai đoạn tu đức thứ hai, giai đoạn đi sâu vào nội tâm với đầy những ảo tưởng như thế, mà họ cần phải được “Thần Chân Lý … vào tất cả sự thật” (Jn 16:13). Bằng không, họ sẽ không bao giờ có được một cảm nghiệm thần linh và đạt tới cuộc hiệp thông thần linh là giai đoạn tu đức thứ ba, giai đoạn tu đức cao nhất, giai đoạn tu đức được gọi là thần hiệp, hiệp nhất giữa Thiên Chúa và linh hồn, đến độ “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Nghĩa là tới độ con người không sống cho mình nữa mà là cho Thiên Chúa (x Gal 2:20), được thể hiện qua ý muốn của họ hoàn toàn thuận phục ý muốn của Chúa, vì họ chẳng muốn gì hơn Người, Đấng duy nhất và trên hết được họ yêu mến hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực (x Mk 12:30). Kết quả đó là mọi việc họ làm đều có tính cách và tác dụng thần linh, vì Thiên Chúa thực hiện ý muốn của Ngài nơi họ và qua họ. Đến độ họ có thể làm được của Chúa, như Chúa, thậm chí “còn hơn thế nữa” (xem John 12:12).

 

Và chính vì lòng muốn của con người là yếu tố chủ chốt cho cuộc hiệp thông thần linh ở giai đoạn tu đức thần hiệp mà Thần Chân Lý sẽ thanh tẩy nó cho khỏi mọi dính bén và tì vết trần tục, dù là nhỏ mọn mấy đi nữa, nếu không hoàn toàn phản ảnh thần linh, để nó được hoàn toàn siêu thoát và xứng đáng hiệp thông thần linh, hiệp thông với vị Thiên Chúa chân thật duy nhất vô cùng toàn thiện và khả ái.

 

Đó là lý do, theo tiến trình tu đức, để tiến từ giai đoạn tu đức thứ nhất là từ bỏ tội lỗi cùng với những tính hư nết xấu có tính cách tiêu cực không thể quyến luyến hay luyến tiếc ấy, ngoài vị  Thiên Chúa chân thật duy nhất tối cao, và giai đoạn tu đức thứ hai là giai đoạn đi vào nội tâm, giai đoạn linh hồn cảm thấy khao khát thần linh, đến giai đoạn kết hiệp với Chúa, linh hồn thường phải trải qua một cuộc thử thách đức tin gọi là đêm tối tăm, để họ hoàn toàn thoát ly tất cả những gì không phải là Chúa, nhờ đó họ mới được Chúa chiếm đoạt, biến họ thành chứng nhân cho tình yêu toàn hảo của Người, vì Người sống trong họ. Ở vào bậc tu đức thứ ba thần hiệp, linh hồn sẽ nói năng và hành động như Chúa Kitô, với tinh thần “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11:29),     “đến không phải để phục vụ mà là phục vụ, để hiến mạng sống mình cho nhiều người” (Mt 20:28).

 

Ở vào giai đoạn tu đức thứ ba thần hiệp này, linh hồn cảm thấy khao khát Thiên Chúa thực sự, một khát khao không phải vì được hoan hưởng dồi dào ơn an ủi, đến nỗi linh hồn khao khát ơn an ủi hơn là chính Đấng ban ơn an ủi (nên nhiều trường hợp linh hồn đã bỏ Chúa khi hết ơn an ủi). Nỗi khát khao thần linh chân thực và sâu xa này được chứng tỏ ở chỗ linh hồn lúc nào cũng hướng về Chúa bằng việc liên lỉ lắng nghe Chúa và cởi mở trước mọi tác động thần linh để có thể mau mắn đáp ứng một cách trọn vẹn hết mọi ý định thần linh. Chính vì lòng của linh hồn bấy giờ đã được Thiên Chúa chẳng những thanh tẩy cho khỏi mọi tì vết phạm tục trần gian, mà còn được Ngài hoàn toàn chiếm đoạt và làm chủ, linh hồn được liên lỉ kết hiệp với Chúa, đến độ, như Thánh Phaolô cảm nhận: không một sự gì trên trời dưới đất hay hiện tại và tương lai “có thể làm họ tách ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8:35).

 

Đó là lý do, cuộc đời của họ là một cuộc sống thiết tha nguyện cầu và liên lỉ hiệp thông thần linh, bằng một tấm lòng khao khát thần linh khôn tả, và họ dễ dàng nhận ra hết mọi dấu chỉ thời đại trong cuộc đời được Đấng Quan Phòng Thần Linh tỏ hiện cho họ, nhờ đó, họ có thể “đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới” (Rev 14:4), để “Thày ở đâu các con cũng được ở đó với Thày” (Jn 14:3). Đức Thánh Cha Biển Đức XVI thường kêu gọi Kitô hữu nói chung và thành phần linh mục cũng như tận hiến tu trì nói riêng hãy sống bậc tu đức thần hiệp để có thể làm chứng cho Chúa Kitô như sau:

 

       Tình thân hữu là để chia sẻ tâm tư và ước muốn. Trong mối hiệp thông này, Thánh Phaolô nói với chúng ta ở Thư gửi giáo đoàn Philiphê (x 2:2-5), chúng ta cần phải làm cho mình tưởng nghĩ như Chúa Giêsu. Và mối hiệp thông về tâm tưởng này không phải chỉ là những gì về tri thức, mà là một thứ chia sẻ về những cảm thức cùng ý muốn nên cũng chia sẻ về cả hành động nữa”. (Bài giảng trong Thánh Lễ Truyền Dầu Sáng Thứ Năm Tuần Thánh 13/4/2006 tại Đền Thờ Thánh Phêrô)

 

Chúa Kitô nói: ‘Nếu các con yêu mến Thày…’. Đức tin không phải chỉ là việc chấp nhận một số các chân lý trừu tượng liên quan tới những mầu nhiệm về Thiên Chúa, về con người, về sự sống và về sự chết, về các thực tại tương lai. Đức tin là ở chỗ sống liên hệ thân mật với Chúa Kitô, một liên hệ được xuất phát từ lòng mến yêu Đấng đã yêu thương chúng ta trước (x 1Jn 4:11), thậm chí cho đến chỗ hoàn toàn hiến trọn bản thân mình. ‘Thiên Chúa chứng tỏ tình Ngài yêu thương chúng ta ở chỗ trong khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết vì chúng ta’ (Rm 5:8). Còn đáp ứng nào chúng ta có thể tỏ ra cho một tình yêu thật cao cả như thế nếu không phải là đáp ứng của một con tim cởi mở và tỏ ra sẵn sàng yêu thương hay sao? Thế nhưng, việc yêu mến Chúa Kitô đây nghĩa là gì? Nghĩa là tỏ ra tin tưởng nơi Người cho dù trong những con thử thách, trung thành theo Người cho dù trên Đường Thập Giá Via Crucis, hy vọng rằng chẳng bao lâu sẽ xuất hiện bình minh Phục Sinh. Khi ký thác bản thân mình cho Chúa Kitô, chúng ta chẳng mất mất một sự gì hết, trái lại, chúng ta còn chiếm được mọi sự. Nơi bàn tay của Người cuộc sống của chúng ta đạt được ý nghĩa thực sự của nó. Tình yêu giành cho Chúa Kitô là ở chỗ tỏ ra hòa hợp đời sống của mình với những tư tưởng và cảm thức của Trái Tim Người. Điều này được đạt tới bằng mối hiệp nhất nội tâm nhờ ân sủng của các Bí Tích, được củng cố bằng việc liên lỉ nguyện cầu, chúc tụng, tạ ơn và thống hối. Chúng ta cần phải chuyên chú lắng nghe những tác động Người gợi lên qua Lời của Người, qua thành phần chúng ta gặp gỡ, qua những hoàn cảnh của cuộc sống thường nhật của mình. Yêu mến Người là tiếp tục đối thoại trao đổi với Người, để biết được ý Người muốn và thực hiện ý muốn ấy một cách mau chóng hiệu nghiệm”. (ĐTCBĐXVI: Bài Giảng cho Thánh Lễ ở Quảng Trường Pilsudzki tại Warsaw Sáng Thứ Sáu 26/5/2006)

 

Linh Đạo Fatima

 

B

a Mệnh Lệnh Fatima làm nên Sứ Điệp Fatima là những gì rõ ràng cho thấy 3 giai đoạn tu đức Kitô giáo: giai đoạn tu đức thứ nhất với mệnh lệnh Cải Thiện Đời Sống, liên quan tới việc từ bỏ tội lỗi; giai đoạn tu đức thứ hai với mệnh lệnh Cầu Kinh Mân Côi, liên quan tới tình trạng hướng về nội tâm của Kitô hữu; và giai đoạn tu đức thứ ba là mệnh lệnh Tôn Sùng Mẫu Tâm, liên quan tới việc kết hợp với Chúa như Mẹ.

 

Về vấn đề “Linh Đạo Fatima với Sứ Điệp Fatima” này, đã được người viết bàn đến trong cuốn “Sống Thánh Chứng Nhân” cũng là cuốn “Fatima: Đạo Binh Dàn Trận”, được Phong Trào Tông Đồ Fatima Thế Giới Việt Nam Hoa Kỳ xuất bản năm 2006, trang (181-206). Ở đây, trong cuốn “Fatima: Định Mệnh Nhân Loại” này, người viết chỉ nói tới mối liên hệ của cả 3 mệnh lệnh này với nhau cũng như  với tu đức Kitô Giáo, nhất là mệnh lệnh Tôn Sùng Mẫu Tâm, để cho thấy Sứ Điệp Fatima quả thực là một Linh Đạo Thánh Mẫu.

 

Trước hết, về mối liên hệ giữa các mệnh lệnh với nhau, chúng ta có thể đặt vấn đề như sau: Trong ba mệnh lệnh Fatima, mệnh lệnh nào quan trọng nhất? Phải chăng là mệnh lệnh Lần Hạt Mân Côi, vì lần nào hiện ra, tức trong cả 6 lần, Mẹ Maria cũng đều kêu gọi “hãy cầu kinh Mân Côi hằng ngày”? Hay phải chăng mệnh lệnh Tôn Sùng Mẫu Tâm, vì đây là mệnh lệnh được chính Mẹ cho biết đó là do chính ý “Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới”? Hoặc phải chăng là mệnh lệnh cải thiện đời sống, vì mệnh lệnh cải thiện đời sống chẳng những liên quan tới phần rỗi đời đời của các linh hồn, nhất là thành phần bị đời đời trầm luân, như ba em Thiếu Nhi Fatima được thị kiến thấy vào ngày 13/7/1917?

 

Thật ra, cả ba mệnh lệnh này đều liên kết với nhau và đồng qui ở một điểm đó là Dự Án Cứu Độ là những gì được Mẹ Maria cho biết trong phần thứ hai của Bí Mật Fatima, liên quan tới “nhiều linh hồn được cứu độ và thế giới sẽ có hòa bình”. Đúng thế, muốn cho “nhiều linh hồn được cứu độ và thế giới sẽ có hòa bình”, điều kiện tối yếu là phải thực hiện mệnh lệnh cải thiện đời sống, tức là “đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”.

 

Mà vấn đề cải thiện đời sống trước hết và trên hết là việc tỏ ra nhận biết “Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc tôi” (Lk 1:47), một việc nhận biết theo tâm tình Magnificat cảm tạ ngợi khen Chúa của Mẹ Maria đối với “Lòng Thương Xót Chúa” (Lk 1:50,54). Và việc nhận biết Thiên Chúa Cứu Chuộc giầu lòng xót thương này theo gương Mẹ Maria đây được thể hiện tuyệt vời nhất nơi việc cầu kinh mân côi hằng ngày. Bởi vì, khi sâu xa tha thiết cầu kinh mân côi hằng ngày là linh hồn liên lỉ chẳng những tỏ lòng biết ơn “Đấng Cứu Chuộc tôi”, khi (tâm nguyện) suy niệm các Mầu Nhiệm Mân Côi làm nên linh hồn của kinh nguyện này, mà (khẩu nguyện) còn tỏ ra muốn đáp ứng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa bằng tinh thần đức tin tuân phục “đầy ơn phúc” như Mẹ Maria nữa.

 

Và tinh thần đức tin tuân phục “đầy ơn phúc” của Mẹ Maria chính là bản chất của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria được Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới, tức Thiên Chúa muốn chung loài người (ý nghĩa của chữ “thế giới”) nhận biết và yêu mến Mẹ (ý nghĩa đích thực của việc “tôn sùng”), bằng cách noi gương bắt chước Mẹ, một đệ nhất tạo vật về ân sủng, một tạo vật đẹp lòng Chúa nhất.

Bởi vậy, chính việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên  Tội Mẹ Maria là tất cả Bí Mật Fatima, là then chốt của Dự Án Fatima: “Nếu điều Mẹ nói với các con (về lòng tôn sùng như Chúa muốn ấy) được thực hiện thì nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình”. Và chính vì Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria là tất cả Bí Mật Fatima, là then chốt của Dự Án Fatima liên quan mật thiết đến phần rỗi tội nhân và hòa bình thế giới như thế mà Mẹ đã tự xưng mình ở Fatima “Mẹ là Đức Bà Mân Côi” vào lần hiện ra cuối cùng 13/10, và kêu gọi “hãy cầu kinh mân côi hằng ngày”. “Mẹ là Đức Bà Mân Côi” là một tước hiệu, theo lịch sử, liên quan tới quyền vạn năng của Mẹ, về cả phương diện sự sống tự nhiên (hòa bình thế giới – như quyền năng của Mẹ qua kinh Mân Côi đã tỏ hiện ở trận hải chiến Lepanto năm 1571 với Hồi Giáo) lẫn sự sống siêu nhiên (phần rỗi tội nhân – như quyền năng của Mẹ qua kinh Mân Côi đã tỏ hiện ở việc hoán cải thành phần lạc giáo Albigensê ở miền Nam Pháp quốc cuối thế kỷ 12).

 

Có thể nói, trong 3 Mệnh Lệnh Fatima, mệnh lệnh chính yếu là mệnh lệnh Cải Thiện Đời Sống, vì mệnh lệnh này chẳng những liên quan trực tiếp tới Dự Án Fatima về phần rỗi tội nhân và hòa bình thế giới, mà còn tới chính cốt lõi của Sứ Điệp Phúc Âm nữa, một sứ điệp được Chúa Giêsu kêu gọi khi Người bắt đầu cuộc đời mạc khải công khai của Người: “Nước Thiên Chúa đã đến, hãy ăn năn hoán cải và tin vào Phúc Âm” (Mk 1:15).

 

Thế nhưng, vì Ơn Cứu Độ được hiện thực bởi Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô nhưng với sự hợp tác bằng đức tin tuân phục đầy ơn phúc của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà con người, về nội tâm, phải liên lỉ tỏ lòng cảm tạ ngợi khen Chúa bằng việc “cầu kinh Mân Côi hằng ngày”, và về tác hành, phải thực hiện việc noi gương bắt chước “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ”, ở chỗ, như Mẹ, sẵn sàng và mau mắn đáp ứng tất cả mọi tác động thần linh và mỗi tác động thần linh một cách trọn hảo trong cuộc đời của mình.

 

Sở dĩ cả hai mệnh lệnh Lần Hạt Mân Côi và Tôn Sùng Mẫu Tâm cần phải đi đôi với nhau, bất khả phân ly, để  có thể hiện thực mệnh lệnh Cải Thiện Đời Sống, là vì, theo Thánh Phaolô “tin trong lòng (như vừa được trình bày qua việc “cầu kinh Mân Côi hằng ngày”) thì được công chính hóa, tuyên xưng ngoài miệng (như  vừa được trình bày qua việc “tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ”) thì được cứu độ” (Rm 10:10).

 

Sau nữa, về vấn đề ba Mệnh Lệnh Fatima liên quan tới tu đức Kitô giáo, chúng ta đã thấy được tính cách hết sức khít khao, tương đương và tương hợp giữa 3 Mệnh Lệnh Fatima với 3 giai đoạn tu đức, như được đề cập đến ngay đầu phần “Linh Đạo Fatima” đây.

 

Mệnh lệnh Cải Thiện Đời Sống tương hợp với giai đoạn tu đức thứ nhất là giai đoạn thanh tẩy. Nếu “đời sống Kitô hữu là một hành trình tu đức liên lỉ của việc hoán cải nội tâm, tức là một cuộc hành trình hướng về chính Thiên Chúa, cho đến khi được hoàn toàn kết hiệp với Ngài trong Chúa Giêsu Kitô, hay cho đến độ đạt đến tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô là Đầu (x Eph 4:13,15), Đấng  sống trong họ (xem Jn 17:23; Gal 2:20), chứ không phải chỉ thụ động ở trong họ” (nhận định ở đoạn về “Đời Sống Tu Đức” trang 168), thì mệnh lệnh Cải Thiện Đời Sống là khởi điểm của hành trình tu đức hoán cải nội tâm hướng về Thiên Chúa, một hành trình tiến đến tột đỉnh của mình là được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, được hoàn toàn nên giống Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã Nhập Thể và Vượt Qua, một cuộc hiệp thông thần linh trong Chúa Kitô đã được hiện thực hết sức trọn vẹn nơi Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria đầy ơn phúc. Đó là lý do, 3 Mệnh Lệnh Fatima rất ăn khớp với 3 giai đoạn tu đức Kitô Giáo này, dù có bản chất hướng thiên, nhưng lại có tính chất Thánh Mẫu, đến nỗi, có thể nói Sứ Điệp Fatima là Linh Đạo Thánh Mẫu.

 

Mệnh lệnh Lần Hạt Mân Côi tương hợp với giai đoạn tu đức thứ hai là giai đoạn sáng soi. “Ở giai đoạn này, họ thích đọc kinh nguyện đấy, nhưng việc cầu nguyện của họ có tính cách lải nhải nhiều lời (x Mt 6:7) hơn là lắng nghe, hơn là đối thoại theo đúng bản chất của việc nguyện cầu. Họ cần phải đọc đủ kinh này kinh kia, thầm thĩ và than thở đủ những câu này câu nọ mới yên trí. Đối với Chúa của họ bấy giờ, họ là một Matta chủ nhà lo lắng nhiều chuyện để tiếp khách, hơn là một Maria để Chúa chủ sự và coi Người như bạn chứ không phải khách khứa, ở chỗ thảnh thơi ngồi im lắng nghe Lời Chúa và thân tình trao đổi tâm sự với Người (x Lk 10:39,41-42)” (nhận định ở đoạn về “Đời Sống Tu Đức” trang 176).

 

Lần Hạt Mân Côi, bề ngoài có vẻ là một thứ kinh kệ dài dòng, lảm nhảm của đàn bà con nít, nhưng thật ra là “những lời than khôn tả” (Rm 8:26) của Thánh Linh (vì Kinh Kính Mừng được kết cấu bởi lời Thiên Sứ, lời của Bà Isave đầy Thánh Thần và lời của Giáo Hội qua Công Đồng Chung Êphêsô năm 431), bởi thế cần phải lập đi lập lại trước một thần tượng đầy ơn phúc là Mẹ Maria.  

 

Việc “cầu kinh Mân Côi hằng ngày” thật sự là việc con người tỏ ra nhận biết “Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”, là việc con người cảm tạ ngợi khen Chúa bằng tâm tình Magnificat của Mẹ Maria. Mà “cầu kinh Mân Côi hằng ngày” bằng tâm tình Magnificat của Mẹ Maria không phải là việc linh hồn đạt đến chỗ tôn vinh Chúa làm chủ tể của mình hay sao!? Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, trong bài giảng cho Lễ Mẹ Mông Triệu 15/8/2005, đã diễn tả tất cả Linh Đạo Thánh Mẫu nơi Ca Vịnh Ngợi Khen như sau: 

 

       Trong Phúc Âm, chúng ta đã nghe bài ca vịnh Ngợi Khen Magnificat, một bài thơ cao cả được Thánh Thần linh ứng phát xuất từ môi miệng của Mẹ Maria, thật sự là từ tâm can của Mẹ Maria. Bài ca vịnh tuyệt vời này phản ảnh toàn thể linh hồn, toàn thể con người của Mẹ Maria. Chúng ta có thể nói rằng bài thánh ca này của Mẹ là chân dung của Đức Maria, là hình ảnh thực sự nhờ đó chúng ta có thể thấy Mẹ một cách xác đáng. Tôi xin nhấn mạnh đến hai điểm trong bài đại ca vịnh này.

 

Bài ca vịnh này được bắt đầu bằng chữ ‘Magnificat – Ngợi Khen’: Linh hồn tôi ‘magnifies – ngợi khen’ Chúa, tức là ‘tuyên xưng sự cao cả’ của Chúa. Mẹ Maria muốn Thiên Chúa cao cả trên thế giới này, cao cả trong đời sống của Mẹ và hiện diện giữa tất cả chúng ta. Mẹ không sợ rằng Thiên Chúa có thể trở thành ‘một đối thủ’ trong đời sống của chúng ta, không sợ rằng với sự cao cả của mình Ngài xâm lấn tự do của chúng ta, xâm lấn cái khoảng đời để sống động của chúng ta. Mẹ biết Thiên Chúa cao cả, chúng ta cũng cao cả nữa…..

 

“Đời sống của chúng ta không bị đàn áp mà được nâng cao và vươn rộng: Chính vì thế mà nó trở thành cao cả trước ánh vinh quang của Thiên Chúa.

 

“Sự kiện những vị cha mẹ đầu tiên của chúng ta đã có những ý nghĩ phản nghịch lại như thế là cốt lõi của nguyên tội. Họ sợ rằng nếu Thiên Chúa quá ư là cao cả thì họ sẽ bị lấy đi một cái gì đó nơi đời sống của họ. Họ nghĩ rằng họ có thể gạt Thiên Chúa ra ngoài để lấy chỗ cho họ.

 

“Đây cũng là một chước cám dỗ cả thể của thời tân tiến, của ba hay bốn thế kỷ qua. Càng ngày càng nhiều người nghĩ và nói rằng: ‘Thế nhưng vị Thiên Chúa này không ban cho chúng ta được tự do; bằng tất cả những mệnh lệnh của mình, Ngài đã hạn chế cái khoảng đời để sống của chúng ta. Bởi thế mà Thiên Chúa cần phải biến khuất đi; chúng tôi muốn tự động và tự lập. Không có vị Thiên Chúa này, chính chúng tôi mới là các vị thần linh và làm những gì chúng tôi muốn’.

 

“Đó cũng là quan điểm của Người Con Hoang Đàng, người con không nhận ra rằng hắn được ‘tự do’ chính là vì hắn được ở trong nhà cha của hắn. Hắn ra đi đến những miền đất xa xôi để phung phí gia tài của mình. Cuối cùng, hắn nhận ra rằng chính vì hắn ra đi quá xa với nhà cha của hắn mà thay vì được tự do hắn lại trở thành nô lệ; hắn đã hiểu rằng chỉ nhờ trở về nhà cha của mình hắn mới thực sự có tự do, sống một cuộc đời hoàn toàn tốt đẹp thôi.

 

“Đó là những gì đang xẩy ra cho thời đại tân tiến của chúng ta này. Trước đây, nó nghĩ và tin rằng, bằng việc loại trừ Thiên Chúa ra rìa và trở nên tự động, chỉ sống theo những ý nghĩ riêng tư và bản năng của chúng ta, chúng ta mới thực sự được tự do làm những gì chúng ta muốn mà không ai có thể truyền khiến chúng ta cả.

 

“Thế nhưng, khi Thiên Chúa biến khuất, con người nam nữ không trở nên cao cả hơn; thật vậy, họ đã mất đi phẩm vị thần linh của mình; khuôn mặt của họ đã mất đi vinh quang của Thiên Chúa. Cuối cùng họ trở thành những sản vật thuần túy của một cuộc cách mạng mù quáng, và như thế, họ có thể bị sử dụng và bị lạm dụng. Đó chính là những gì kinh nghiệm của thời đại chúng ta đã cho chúng ta thấy rõ như vậy. 

“Nếu chỉ có Thiên Chúa là cao cả thì nhân loại cũng cao cả nữa. Với Mẹ Maria, chúng ta phải bắt đầu hiểu rằng vấn đề là như thế. Chúng ta không được lìa xa Thiên Chúa nhưng hãy làm cho Thiên Chúa hiện diện; chúng ta phải bảo đảm là Ngài là Đấng cao cả trong đời sống của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta mới có thể trở thành thần linh; tất cả mọi vinh hiển của phẩm vị thần linh bấy giờ mới là của chúng ta. Chúng ta hãy áp dụng điều này vào đời sống riêng của chúng ta.

 

“Vấn đề cần thiết là Thiên Chúa phải là Đấng cao cả giữa chúng ta, trong đời sống chung riêng.

 

“Trong đời sống công cộng, Thiên Chúa cần phải hiện diện, chẳng hạn, ở các dinh thự công, và Ngài cần phải hiện diện trong đời sống cộng đồng, vì nếu có Thiên Chúa hiện diện, chúng ta mới có đường hướng, một đường hướng chung; bằng không, không thể nào ổn định những cuộc tranh chấp, vì phẩm vị chung của chúng ta không còn được nhìn nhận nữa.

 

“Chúng ta hãy làm cho Thiên Chúa cao cả trong đời sống chung riêng. Có nghĩa là giành chỗ cho Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta hằng ngày, bắt đầu bằng việc nguyện cầu ban sáng, rồi dâng lên Thiên Chúa thời gian, dâng lên cho Chúa các Ngày Chúa Nhật. Chúng ta không phí phạm thời giờ tự do của mình nếu chúng ta dâng nó cho Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa đi vào thời gian của chúng ta thì mọi lúc đều trở thành cao cả, rộng chỗ hơn, dồi dào hơn”.

Mệnh lệnh Tôn Sùng Mẫu Tâm tương hợp với giai đoạn tu đức thứ ba là giai đoạn hiệp nhất, như được cảm nhận:

 

Cuộc hiệp thông thần linh là giai đoạn tu đức thứ ba, giai đoạn tu đức cao nhất, giai đoạn tu đức được gọi là thần hiệp, hiệp nhất giữa Thiên Chúa và linh hồn, đến độ ‘ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời’. Nghĩa là tới độ con người không sống cho mình nữa mà là cho Thiên Chúa (x Gal 2:20), được thể hiện qua ý muốn của họ hoàn toàn thuận phục ý muốn của Chúa, vì họ chẳng muốn gì hơn Người, Đấng duy nhất và trên hết được họ yêu mến hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực (x Mk 12:30)… Ở vào giai đoạn tu đức thứ ba thần hiệp này, linh hồn cảm thấy khao khát Thiên Chúa thực sự, một khát khao không phải vì được hoan hưởng dồi dào ơn an ủi, đến nỗi linh hồn khao khát ơn an ủi hơn là chính Đấng ban ơn an ủi (nên nhiều trường hợp linh hồn đã bỏ Chúa khi hết ơn an ủi). Nỗi khát khao thần linh chân thực và sâu xa này được chứng tỏ ở chỗ linh hồn lúc nào cũng hướng về Chúa bằng việc liên lỉ lắng nghe Chúa và cởi mở trước mọi tác động thần linh để có thể mau mắn đáp ứng một cách trọn vẹn hết mọi ý định thần linh” (trang 176-178).  

 

Còn ai nên một với Thiên Chúa bằng Mẹ Maria, vì Mẹ Maria được gọi là “đầy ơn phúc” (Lk 1:28), tức được nên một với Chúa nhất, nên giống Chúa nhất, thân mật với Chúa nhất: Mẹ chẳng những được “Thiên Chúa ở cùng” (Lk 1:28) ngay từ giây phút hoài thai trong lòng thai mẫu với đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà còn “được ơn nghĩa với Chúa” (Lk 1:30), tức không bao giờ làm mất lòng Chúa, trái lại, tất cả những gì Chúa muốn đều được nên trọn nơi Mẹ, nhất là khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Con Mẹ (x Jn 19:25) như một vị Công Công Cứu Chuộc.

 

Mức độ đầy ơn phúc của Mẹ Maria và nơi Mẹ Maria, được bắt đầu từ giây phút hoài thai trong lòng thai mẫu, và càng lúc càng gia tăng cho đến hết cỡ chứa đựng của loài người. Mức độ “đầy ơn phúc” này nơi Mẹ không phải chỉ ở chỗ Mẹ không bao giờ bị vơi đi mức độ này, vì tội lỗi hay lầm lỗi, trái lại, mức độ “đầy ơn phúc“ này chẳng những còn nguyên mà còn gia tăng hơn thế nữa, nhờ lòng khao khát thần linh của Mẹ mỗi ngày một hơn, nghĩa là lòng Mẹ càng ngày càng nở rộng để đón nhận ơn Chúa, và ơn Chúa càng đổ vào lòng Mẹ thì lại càng làm cho lòng Mẹ hay Trái Tim Mẹ phình rộng thêm để chứa đựng nhiều hơn nữa. Bởi thế mà danh xưng của Mẹ Maria hay căn tính của Mẹ Maria mới là “đầy ơn phúc” (Lk 1:28), như danh xưng của Thiên Chúa là hiện hữu vậy (x Ex 3:14). Qua hai danh xưng này, có thể nói, nếu Thiên Chúa là chính Sự Có, là Toàn Hữu, thì Mẹ Maria là tất cả những gì được ban phát, là Toàn Ân.

 

Thật vậy, nếu mặt trăng là hành tinh được khoa học cho biết hấp thụ và phản chiếu ánh sáng mặt trời thế nào, thì Mẹ Maria cũng trọn vẹn lãnh nhận và phản chiếu “Thiên Chúa là ánh sáng” (1Jn 1:5) như vậy, bằng đức tin tuân phục của Mẹ, từ biến cố Truyền Tin Lời Nhập Thể cho tới biến cố Chúa Kitô Tử Giá. Nếu Chúa Kitô là tất cả mạc khải thần linh, thì Mẹ Maria “đầy ơn phúc” là tất cả đáp ứng thần linh. Nếu Vô Nhiễm Nguyên Tội là ơn cứu độ của Chúa Kitô ban cho Mẹ từ khi Mẹ hoài thai thế nào, thì Trái Tim Mẹ chính là mảnh đất tốt cho mầm mống ơn cứu độ mọc lên và là mầm mống trổ sinh gấp trăm nơi duy một mình Mẹ, đệ nhất tạo vật về ân sủng.

 

Tóm lại, nếu mệnh lệnh Tôn Sùng Mẫu Tâm là mệnh lệnh cao cả nhất về khía cạnh tu đức, thì Sứ Điệp Fatima quả thực là Linh Đạo Thánh Mẫu và cho thấy Điềm Lạ Maria “chân đạp mặt trăng” vậy. Chưa hết, nếu ánh trăng chẳng những hấp thụ ánh sáng mặt trời mà còn soi sáng cho trái đất về đêm thế nào, thì ý nghĩa về hình ảnh “chân đạp mặt trăng” đây của Mẹ còn bao hàm cả việc Mẹ là mô phạm cho chung nhân loại nữa. Đúng vậy, Lòng tin yêu “đầy ơn phúc” nơi Mẹ Maria, được biểu hiệu nơi Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria quả thực Mẹ là mô phạm tuyệt vời cho chung nhân loại và cho riêng Kitô hữu, trong việc họ chẳng những sống Ơn Gọi Làm Người căn bản của họ, mà còn sống Ơn Gọi Làm Thánh trọn lành của thành phần được lãnh nhận Phép Rửa và được trở nên “những đứa con thừa nhận” của Thiên Chúa nữa (xem Galata 4:5). Đó là lý do, vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta, khi còn là Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, trong tác phẩm “The Ratzinger Report” (ấn bản Anh ngữ, Ignatius Press, 1985, trang 105-106), vừa thú nhận vừa kêu gọi về lòng sùng kính Mẹ Maria như sau:

 

       Là một thần học gia trẻ ở vào thời điểm trước (cũng như trong) Công Đồng, tôi đã đặt vấn đề về một số những công thức cổ xưa, chẳng hạn như câu nổi tiếng De Maria nunquam satis, ‘nói về Mẹ Maria không bao giờ cùng’. Câu này có vẻ quá đáng đối với tôi. Bởi thế sau này tôi khó lòng mà hiểu được ý nghĩa thực sự của lời diễn tả danh tiếng khác (đang lưu hành trong Giáo Hội từ các thế kỷ đầu tiên, thời mà sau cuộc tranh cãi đáng ghi nhớ, Công Đồng Êphêsô năm 431 đã công bố Maria là Theotokos, Mẹ Thiên Chúa). Việc công bố này tức là việc nhìn nhận Đức Trinh Nữ là ‘Vị Chiến Thắng tất cả mọi lạc thuyết’. Bởi vậy, trong giai đoạn lẫn lộn này, khi mà hết mọi thứ sai lạc thực sự dường như đang áp đảo ngưỡng cửa đức tin chân thực, thì tôi mới hiểu được rằng nó không phải là vấn đề quá trớn của lòng đạo đức, mà là vấn đề của những chân lý ngày nay có hiệu lực hơn bao giờ hết…

 

“Phải, cần phải trở về với Mẹ Maria nếu chúng ta muốn trở lại với ‘sự thật về Chúa Giêsu Kitô’, ‘sự thật về Giáo Hội’, và ‘sự thật về con người’ là những gì được Đức Gioan Phaolô II đề ra như một chương trình thực hiện cho toàn thể Kitô Giáo vào năm 1979, thời điểm ngài khai mạc hội đồng giám mục Mỹ Châu Latinh ở Puebla. Các vị giám mục đã đáp lại dự án này của vị Giáo Hoàng ấy bằng việc bao gồm trong các bản văn kiện đầu tiên (những văn kiện đã được một số người đọc một cách thiếu sót) ước muốn và mối quan tâm nhất trí của các vị, đó là: ‘Hơn bao giờ hết Mẹ Maria cần phải trở thành một khoa sư phạm để loan báo Phúc Âm cho con người ngày nay’. Thật vậy, chính ở châu lục này là nơi lòng tôn sùng Thánh Mẫu theo truyền thống nơi dân chúng đã bị sa sút, một tình trạng trống rỗng xẩy ra được thay thế bằng những ý hệ chính trị. Nó là một hiện tượng có thể nhận thấy hầu như ở khắp nơi với một mức độ nào đó, cho thấy tầm quan trọng của một thứ lòng tôn sùng không chỉ thuần túy tôn sùng mà thôi”.

 

Cũng trong cuốn The Ratzinger’s Report, ở chương 7, về “Thành Phần Nữ Giới, Một Người Nữ”, trang 106-109, Vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta đã nêu lên 6 lý do cho thấy tại sao vai trò quan trọng của Mẹ Maria trong việc làm quân bình Đức Tin Công Giáo hay để cứu vãn cuộc khủng hoảng đức tin như sau:

 

1.      “Khi người ta nhìn nhận vị thế được tín điều và truyền thống qui định cho Mẹ Maria là họ đâm rễ một cách vững chắc vào khoa Kitô học đích thực. (Theo Công Đồng Chung Vaticanô II thì ‘mộ mến suy niệm về Mẹ và chiêm ngưỡng Mẹ theo chiều hướng Lời nhập thể là Giáo Hội cung kính đi sâu hơn nữa vào mầu nhiệm Nhập Thể trọng đại và càng trở nên giống như vị hôn phu của mình hơn nữa’ [Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, khoản 65). Ngoài ra, chính vì việc trực tiếp phục vụ niềm tin tưởng vào Chúa Kitô, chứ không phải hoàn toàn chỉ vì lòng tôn sùng Người Mẹ này, mà Giáo Hội đã tuyên bố các tín điều Thánh Mẫu: trước hết là tín điều Mẹ trọn đời đồng trinh và vai trò Thiên Mẫu, rồi sau đó, qua một thời gian dài chín mùi và suy tư, đến những tín điều Mẹ Hoài Thai Vô Nhiễm và Mông Triệu hiển vinh thiên đình. Những tín điều này là những gì bảo vệ niềm tin nguyên tuyền nơi Đứca Kitô, Đấng là Thiên Chúa thật và là người thật, Đấng có hai bản tính trong một Ngôi Vị duy nhất. Những tín điều Thánh Mẫu ấy cũng bảo đảm chiều kích cánh chung bất khả thiếu, khi cho thấy việc Mông Triệu của Mẹ Maria như là một định mệnh bất tử đang đợi chờ tất cả chúng ta. Những tín điều này cũng bảo vệ niềm tin – bị đe dọa ngày nay – nơi Thiên Chúa Hóa Công, Đấng có thể tự do nhúng tay can thiệp vào cả vấn đề thể chất (và đây là một trong những vấn đề liên quan tới ý nghĩa về sự thật trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria, một vấn đề mà hơn bao giờ hết ngày nay không hiểu được). Sau hết, Mẹ Maria, như Công Đồng nhắc nhở: ‘đã tiến sâu vào lịch sử cứu độ,… ở chỗ các mầu nhiệm Đức Tin quan trọng nhất được liên kết và âm vang nơi bản thân Mẹ’ (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, đoạn 65)”.

2.     
“Khoa thánh mẫu học của Giáo Hội bao gồm mối liên hệ chân thực, việc hội nhập cần thiết giữa Thánh Kinh và truyền thống. Bốn tín điều Thánh Mẫu có nền tảng rõ ràng trong Thánh Kinh. Thế nhưng nền tảng này trong Thánh Kinh giống như một mầm mống mọc lên và sinh hoa kết trái trong đời sống của truyền thống, cũng như được bày tỏ thể hiện nơi phụng vụ, nơi nhận thức của thành phần tín hữu và nơi suy tư thần học theo chiều hướng của Huấn Quyền”.

3.     
“Mẹ Maria liên kết với nhau, nơi chính bản thân của mình là một thiếu nữ Do Thái được trở nên Mẹ của Đấng Thiên Sai, một cách sống động và bất khả phân ly, thành phần Dân Chúa cả cựu lẫn tân, Dân Do Thái và Dân Kitô Giáo, hội đường và thánh đường. Mẹ thực sự là cái móc nối liên kết mà nếu thiếu vắng thì Đức Tin (như đang xẩy ra ngày nay) có nguy cơ bị mất quân bình, hoặc bằng việc bỏ Tân Ước đi lấy Cựu Ước hay bằng việc không cần đến Cựu Ước nữa. Trái lại, nơi Mẹ, chúng ta có thể sống mối hiệp nhất hoàn toàn này của Thánh Kinh”.

4.     
“Việc tôn sùng Thánh Mẫu đúng đắn bảo đảm cho đức tin về việc đồng hiện hữu giữa ‘lý trí’ bất khả thiếu với ‘những lý lẽ của con tim’ cũng bất khả châm chước, như Pascal nói. Đối với Giáo Hội, con người không thuần lý trí cũng chẳng thuần cảm tình, họ là khối hiệp nhất của cả hai chiều kích này. Cái đầu cần phải tỏ ra sáng suốt, nhưng con tim cần phải cảm thấy nồng nàn: như thế, việc tôn sùng Mẹ Maria mới bảo đảm được chiều kích hoàn toàn nhân bản của đức tin (như Công Đồng Chung Vaticanô II thúc giục ‘một mặt tránh đi hết mọi thứ thái quá sai lầm, mặt khác tránh đi tính cách quá thiển can trong việc chiêm ngắm phẩm vị trổi vượt của Mẹ Thiên Chúa’)”.

5.     
“Nếu sử dụng chính các mẫu thức của Công Đồng Chung Vaticanô II thì Mẹ Maria là ‘hình dạng’, ‘hình ảnh’ và ‘mẫu thức’ của Giáo Hội. Nhìn ngắm Mẹ, Giáo Hội được bảo vệ cho khỏi kiểu mẫu nam tính hóa là kiểu mẫu coi Mẹ như là một dụng cụ cho một chương trình hoạt động chính trị xã hội. Nơi Mẹ Maria, như hình dạng và nguyên mẫu của mình, Giáo Hội thấy lại được bộ mặt của mình là một Người Mẹ, và không thể thoái hóa thành tính cách phức tạp của một đảng phái, của một tổ chức hay của một nhóm áp đặt phục vụ các lợi ích của nhân loại cho dù là những lợi ích cao quí nhất. Nếu Mẹ Maria không còn chỗ đứng nơi nhiều thứ thần học và giáo hội học nữa thì lý do cũng hiển nhiên thôi, đó là vì những thứ khoa học này biến đức tin trở thành một cái gì đó trừu tượng. Và đã trừu tượng thì không cần gì đến một Người Mẹ nữa”.

6.     
“Với thân phận của mình, một lúc vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ, Mẹ Maria tiếp tục chiếu tỏa trên những gì được Đấng Hóa Công ấn định cho nữ giới ở mọi thời đại, kể cả thời đại của chúng ta đây, hay nói đúng hơn, có lẽ cho chính thời đại của chúng ta, một thời đại mà, như chúng ta biết, chính bản chất của nữ tính đang bị đe dọa. Nơi tính cách trinh nguyên và vai trò làm mẹ của Người, mầu nhiệm của nữ giới có được một định mệnh rất cao cả khiến họ không thể bị phân mảnh. Mẹ Maria hiên ngang xướng lên bài ca vịnh Magnificat – Ngợi Khen, thế nhưng Mẹ cũng là một con người làm cho việc thinh lặng và ẩn dật sinh hoa kết trái. Mẹ là một con người không sợ đứng dưới Cây Thập Tự Giá cũng là vị hiện diện ở cuộc Giáo Hội được hạ sinh. Thế nhưng, Mẹ cũng là vị, như thánh ký nhấn mạnh mấy lần là ‘lưu giữ và suy niệm trong lòng’ những gì được tỏ ra cho Mẹ. Là một tạo vật can trường và tuân phục, Mẹ đã và vẫn còn là một mẫu gương cho hết mọi Kitô hữu nam nữ có thể và cần phải bắt chước noi theo”.

 

 

 

“Bốn mươi năm về trước, rồi 10 năm sau đó, tôi tớ của Mẹ là Đức Giáo Hoàng Piô XII, chứng kiến cảnh khổ đau của gia đình nhân loại, đã phó thác và hiến dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, đặc biệt là nhân dân mà Mẹ yêu thương và quan tâm cách riêng. Cũng thế giới của mọi người và mọi dân tộc này trước mắt của con hôm nay đây, con xin lập lại việc phó thác và hiến dâng mà vị tiền nhiệm của con đã thực hiện ở Tòa Thánh Phêrô: thế giới của kỷ nguyên thứ hai đang kết thúc, thế giới tân tiến, thế giới của chúng con hôm nay!

 

“Ôi Mẹ của mọi người và mọi dân tộc, Mẹ biết rõ tất cả khổ đau và hy vọng của họ, với ý thức làm mẹ, Mẹ biết tất cả những giằng co giữa sự thiện và sự dữ, giữa ánh sáng và bóng tối, đang hành hạ thế giới tân tiến hôm nay, xin nhận lời kêu than mà chúng con được Thánh Linh khơi động trực tiếp dâng lên Trái Tim Mẹ. Với tình yêu của một Từ Mẫu và Tôi Tớ, xin hãy ôm lấy thế giới nhân loại của chúng con mà chúng con phú thác và hiến dâng cho Mẹ, vì chúng con đầy âu lo cho vận mệnh hiện tại và đời đời của mọi người và mọi dân tộc.

 

“Một cách đặc biệt, chúng con xin phú thác và hiến dâng cho Mẹ tất cả những người và những dân nước cần được phú thác và dâng hiến. Chúng con chạy đến với sự bảo hộ của Mẹ, Thiên Chúa Thánh Mẫu: xin đừng chê chối lời cầu xin chúng con dâng lên Mẹ trong cơn khẩn trương của chúng con”.

 

(ĐTC GPII: Lời Nguyện Hiến Dâng Nước Nga 25/3/1984)