-3- 

Điềm Trời 2 về Ngày Tận Thế:

Hiện Tượng Rạng Đông Cứu Rỗi 

 

            Hiện tượng thế giới hấp hối là "điềm trời" thứ nhất báo hiệu thời điểm tận thế đang xẩy ra trên đây không phải đột nhiên mà phát xuất.

 

Theo lịch sử, nó là hậu quả của một cơn bệnh tâm linh của con người đă được kéo dài từ thế kỷ 18 ở Âu Châu, một thời điểm được mệnh danh là thời Minh Tri (Enlightenment), thời chủ trương lư trí thay cho mạc khải thần linh, như ở Anh có Nhóm Thần Gia (Deists) và nhóm duy nghiệm (Empiricism) môn đệ của Locke, cũng là thời chủ trương kiến thức có thể giải quyết các vấn đề xấu xa trong xă hội, như ở Pháp có Nhóm Bách Khoa Gia (Encyclopedists).

 

Trào lưu tư tưởng Minh Tri không phải là không ảnh hưởng đến một số con cái của Giáo Hội Công Giáo. Chẳng hạn như Georg Hermes (1775-1831), giáo sư thần học ở Bonn chủ trương duy lư, cho Tín Điều có thể chứng minh bằng luận lư triết học, và linh mục Gunther (chết năm 1861) ở Áo, cũng chủ trương duy lư, cho lư trí có thể hiểu được mầu nhiệm Đức Tin' hay triết gia Baader (chết năm 1841), giáo sư đại học ở Munich, chủ trương thông thần học, cho những ǵ liên quan đến Đức Tin và tín điều chỉ có một giá trị chủ quan.

 

Bước sang thế kỷ 19, cơn bệnh có tính cách khủng hoảng về tâm linh này đă biến chứng hết sức trầm trọng, khi con người, qua những nhân vật triết gia tiêu biểu của ḿnh, như Mainlander (1841-1876) ở Đức, Nietzsche (1844-1900) người Prussian, Sartre (1905-1980) ở Pháp, bắt đầu chính thức tuyên bố "Thiên Chúa đă chết" (God is dead).

 

Ngọn gió nồng nặc mùi vô thần này đă thổi lên, làm phát sinh trong thành phần con cái của Giáo Hội Trào Lưu Tân Tiến (modernism), một Trào Lưu, chẳng những hùa theo Phong Trào Giải Phóng (liberalism) từ thế kỷ 18 và Duy Lư (rationalism) từ thế kỷ 19, trong việc bung ḿnh ra khỏi mọi ràng buộc g̣ bó tự do của con người, và xét lại tất cả những ǵ liên quan đến Đức Tin, mà c̣n, theo Đức Piô X trong thông điệp "Pascendi Dominici Gregis", "là một tổng hợp của  tất cả mọi lạc thuyết" (PDG số 39), "gây nguy hiểm hầu như đến tận các đường mạch cũng như con tim của Giáo Hội" (PDG số 3). Để rồi, cuối cùng tại Mỹ đă xuất hiện phong trào Thần Học Cấp Tiến (Radical Theology) vào thập niên 1960, với Altizer và Hamilton, chủ trương loan báo tin mừng về "cái chết của Thiên Chúa" (death of God).

 

Tâm linh của con người từ thời Minh Tri này đă được Mẹ Giáo Hội phản ứng qua các văn kiện hợp thời của ḿnh. Đức Gregory XVI (1831-1846) đă ban hành vào ngày 15-8-1832 thông điệp "Mirari Vos" nói về Phong Trào Giải Phóng (Liberalism) và Khuynh Hường Buông Lỏng (Indifferentism). Đức Piô IX (1846-1878), vị giáo hoàng dẫn dắt Giáo Hội lâu nhất trong các giáo triều kể từ sau thánh Phêrô, vào ngày 9-11-1946, đă ban hành bức thông điệp đầu tiên của ngài là "Qui Pluribus" nói đến vấn đề Đức Tin và Đạo Giáo, và ngày 8-12-1864, ngài c̣n ban hành thông điệp "Quanta Cura" để lên án 80 lập luận sai lạc của thời đại.

 

T́nh h́nh lúc ấy khẩn trương đến nỗi, Công Đồng Chung Vaticanô I đă phải được gấp rút triệu tập trong ṿng hơn một năm, từ khi Đức Piô IX ra tông chiếu "Aeterni Patris Unigenitus" là ngày 29-6-1868, và chưa đầy một năm, từ ngày khai mạc 8-12-1869, đă bị hoăn vô thời hạn sau phiên họp 89 ngày 1-9-1870. Tuy nhiên, Công Đồng Chung Vatican I cũng đă kịp thời phản ứng trước những tấn công hỏa mù của kẻ gieo cỏ lùng vực vào ruộng của ḿnh. Qua hiến chế "Dei Filius" thuộc lược đồ "De Fide Catholica" được chấp thuận ngày 24-4-1870, Công Đồng đă lên án các chủ thuyết sai lạc, như duy lư, duy nghiệm, duy vật, phiếm thần v.v. Đặc biệt là qua hiến chế "Pastor Aeternus" thuộc lược đồ "De Ecclesia Christi" được chấp thuận ngày 13-7-1870, Công Đồng đă tuyên nhận quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng và công bố Đặc Ân Vô Ngộ của ngài. Sau khi tín điều vô cùng quan trọng và khẩn thiết này được công bố được một ngày, có 57 nghị phụ (trong số 774 vị từ đầu) đă xin rút lui khỏi Công Đồng!

 

Chưa hết, đến thời Đức Lêô XIII (1878-1903), vị giáo hoàng ban hành nhiều thông điệp nhất (86 bức), mà thông điệp đầu tiên của ngài được ban hành vào ngày 21-4-1878 mang tựa đề "Inscrutabili Dei Consilio" nói về những sự dữ của xă hội, bức thứ hai cùng năm, vào ngày 28-12-1878, là "Quod Apostolici Muneris" nói đến xă hội chủ nghĩa, và vào ngày 20-4-1884, ngài c̣n ban hành hẳn một thông điệp "Humanum Genus" nói đến hội kín Tam Điểm.

 

Tiếp theo là Thánh Giáo Hoàng Piô X (1903-1914), vào ngày 3-7-1907, ngài đă phê chuẩn cho ban hành sắc lệnh "Lamentabili" của Bộ Thánh Vụ để bác bỏ 65 luận đề sai lầm của Tân Tiến Thuyết, ngày 8-9-1907, ch́nh ngài c̣n ban hành bức thông điệp "Pascendi Domini Gregis" nói đến những giáo điều của Tân Tiến Thuyết, và ngày 1-9-1910, ngài lại ra tự sắc "Sacrorum Antistitum" truyền cho các đại chủng sinh trước khi lănh chức phụ phó tế, cũng như các vị linh mục trước khi giảng dạy trong đại chủng viện hay coi xứ, phải tuyên thệ chống lại Tân Tiến Thuyết.

 

Nếu "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gn 1:5) và "Lời đă hoá thành nhục thể" (Gn 1:14) là "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Gn 1:5), "là ánh sáng thế gian (mà) ai theo Ta sẽ không đi trong tăm tối" (Gn 8:12), th́ không phải hay sao, con người, trước khi lâm vào t́nh trạng hấp hối như ở vào t́nh trạng cuối thế kỷ 20 này, đă bị bao trùm bởi một "bóng tối tử thần" (Lc 1:79), khi họ bắt đầu nẩy ra tư tưởng "Thiên Chúa đă chết" và ngang nhiên loan tin mừng về "cái chết của Thiên Chúa"?!?

 

Thế mà, Ánh Sáng Rạng Đông hy vọng của một Ngày Cứu Rỗi đă loé lên ngay trong lúc bóng tối diệt vong chập chùng này đang ám ảnh thế giới. Ánh Sáng Rạng Đông này là ǵ? Nếu không phải là Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria, Đấng mà, trong đoạn kết của bức thông điệp nói đến các giáo điều của Tân Tiến Thuyết, Thánh Giáo Hoàng Piô X đă tuyên xưng "Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đấng phá hủy tất cả mọi lạc thuyết" (PDG số 57)

 

Thật vậy, theo lịch sử Giáo Hội, măi đến thế kỷ 19 sau Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, kỷ nguyên Maria mới thật sự chính thức đươc mở màn, qua những lần hiện ra từ trời của chính Thiên Chúa Thánh Mẫu. Tại sao vậy, tại sao sau cả 19 thế kỷ mới đến Kỷ Nguyên Maria? Phải chăng v́ đă đến thời điểm chính Mẹ phải đến để dọn đường cho Con Mẹ tái giáng lần thứ hai, như Người cũng đă nhờ Mẹ và qua Mẹ mà đến thế gian lần thứ nhất. Thánh Louis Monfort (1673-1716), trong cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của ngài, đă quả quyết như thế:

"Nhờ Mẹ Maria mà công cuộc cứu chuộc thế gian được bắt đầu th́ cũng nhờ Mẹ Maria mà được hoàn thành" (TDTM số 49).

"Mẹ Maria là đường nhờ đó Chúa Giêsu đến với chúng ta lần thứ nhất, Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó, cho dù không cùng một cách thức, Người đến lần thứ hai" (TDTM số 50.4)

 

Như thế, việc Mẹ Maria xuất hiện, theo ư nghĩa thần linh là dọn đường cho Con Mẹ tái giáng, và trong thời điểm lịch sử đang ở trong cơn hôn mê tăm tối diệt vong, th́ chẳng khác ǵ như "Rạng Đông hy vọng và cứu rỗi cho thế giới" (VDM trang 1759), để chiếu toả ánh sáng của "Mặt Trời Công Chính" (Mal 3:20' CP trang 130) là Chúa Kitô sẽ đến ngay sau đó. Chính v́ thế, Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria, đặc điểm nổi bật nhất của Mẹ, đặc điểm làm Mẹ khác biệt và trổi vượt trên cả loài người tội lỗi (x. Rm 5:12) và tạo vật hư vong (x. Rm 8:20), cũng là Ánh Sáng toả ra từ Mặt Trời Công Chính Giêsu, đă mở màn cho Kỷ Nguyên Maria.

 

Sở dĩ gọi Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria là Ánh Sáng của Rạng Đông Maria cũng là Ánh Sáng tỏa ra từ Mặt Trời Công Chính Giêsu là v́, theo giáo lư của Giáo Hội Công Giáo, Mẹ Maria nhờ Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội mà được hưởng trước Ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa nơi Con của Mẹ. Nói cách khác, Ơn Cứu Độ hay Ngày Cứu Độ của Thiên Chúa, như "sự sống sáng soi con người" (Gn 1:4) đây, được tỏa ra qua Mẹ Maria trước hết, rồi nhờ Mẹ và qua Mẹ mới "chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối" (Lc 1:79).

 

Mẹ đă bắt đầu hé mở cho con người biết Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ từ đầu thế kỷ 19, khi Mẹ hiện ra ở Paris nước Pháp với chị thánh Catarina Labuarê năm 1830, truyền cho chị phổ biến một mẫu ảnh có đính kèm lời cầu: "Ôi Maria đầu thai vô nhiễm nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi chạy đến cùng Mẹ" (TWSC trang 19). Chi tiết về lời cầu trên đây của biến cố Mẹ Maria hiện ra ở Paris, theo lịch sử ghi nhận (x. Th. trang 182), đă ảnh hưởng không ít đến tiến tŕnh h́nh thành giáo lư Vô Nhiễm Nguyên Tội, để sau cùng giáo lư này đă được Đức Piô IX tuyên bố thành tín điều ngày 8-12-1854 qua trọng sắc "Ineffabilis Deus", c̣n được chính Mẹ Maria xác nhận vào lần Mẹ hiện ra với chị thánh Bernadette ở Lộ-Đức nước Pháp ngày 25-3-1858 khi Mẹ tự xưng ḿnh: "Ta là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm" (THAL trang 88).

 

Ánh Sáng Rạng Đông Cứu Độ là Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria này đă chiếu vào thế giới hôn mê tăm tối như thế, song vẫn không làm cho con người "vốn yêu tối tăm hơn ánh sáng" (Gn 3:19) tỉnh dậy. Để rồi, bước sang thế kỷ 20, con người trở thành "kẻ mù dắt kẻ mù sẽ đâm đầu xuống hố" (Mt 15:14), đó là thảm trạng diệt vong.

Thật vậy, thảm trạng diệt vong phát sinh từ t́nh trạng mù loà của con người này đă không xẩy ra là ǵ, qua việc con người cứ tàn sát lẫn nhau, thảm thương và khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử loài người kể từ khi tạo thành vũ trụ? Không phải hay sao, thế kỷ 20 là một thế kỷ của hận thù và tàn sát lẫn nhau, bằng các cuộc đánh nhau và diệt chủng.

 

Về các cuộc đánh nhau, có hai cuộc Đại Chiến và có các cuộc Chiến Tranh như sau. Đại Chiến I (1914-1918) sát hại gần 9 triệu mạng sống con người. Đại Chiến II (1939-1945) sát hại 36 triệu mạng sống con người. Sau hai Thế Chiến như hai trận động đất lớn này, cho tới cuối năm 1992, c̣n có ít nhất 149 cuộc chiến tranh như những cơn hậu chấn động xẩy ra ở nhiều nơi trên thế giới, làm thiệt hại trên 23 triệu sinh mạng. Trong sứ điệp phát biểu vào ngày 8-5-1995, ngày kỷ niệm đúng 50 năm kết thúc Thế Chiến II, Đức Gioan-Phaolô II đă nêu lên những nhận định như sau:

"Là những Kitô hữu, chúng ta cảm thấy đau ḷng khi nghĩ rằng 'những cảnh rùng rợn của cuộc chiến này (Thế Chiến II) đă xẩy ra ở một lục địa có thể nói là đă góp công vào việc làm nẩy nở văn hoá và văn minh - lục địa đă tồn tại rất lâu dài trong ánh sáng của Phúc Âm và của Giáo Hội'" (TPS 11-12/1995 trang 386).

"Sau năm 1945, bất hạnh thay chiến tranh vẫn chưa chấm dứt. Bạo lực, khủng bố và những cuộc tấn công được vơ trang vẫn tiếp tục làm đen tối những thập niên cuối này" (TPS 11-12/1995 trang 388)

Chiến Tranh Trung Đông giữa khối Ả Rập và dân Do Thái vào những năm 1948-1949, 10/1956, 5/6-10/6/1967 (75 ngàn tuyệt mạng), và 6/10/1973 kéo dài dai dẳng đến 1975, thậm chí t́nh h́nh vẫn c̣n căng thẳng tới nay. Chiến Tranh Chủ Nghĩa có thể kể đến hai cuộc chiến đáng tiêu biểu, đó là Chiến Tranh Đại Hàn sát hại cả triệu sinh mạng, trong đó có 33.729 mạng người Mỹ' và Chiến Tranh Việt Nam (1960-1975) cũng giữa hai miền Nam và miền Bắc, sát hại trên 1 triệu mạng lính, 2 triệu mạng dân và 58.132 mạng người Mỹ. Chiến Tranh Chia Đất giữa Nigeria và Biafra (6/1967-1/1970) sát hại 2 triệu sinh mạng' Chiến Tranh Lănh Địa (9-1980) giữa Iraq và Iran sát hại 500 ngàn sinh mạng' Chiến Tranh Vùng Vịnh (2/8/1990-27/2/1991) giữa Iraq là nước ngang nhiên xâm lăng Kuwatt đă bị lực lượng đồng minh Liên Hiệp Quốc can thiệp, với 32 nước góp quân và 12 nước góp phần, kết quả đă gây thiệt mạng từ 25 ngàn đến 100 ngàn người Iraq và 200 lính đồng minh tham chiến. Chiến Tranh Chủng Tộc ở Bosnia từ 22/3/1992, nguyên năm 1992 có 145 ngàn người thiệt mạng' để bảo đảm cho ḥa ước Dayton ở Ohio được ba phe kư kết vào ngày 21-11-1995, 60 ngàn quân NATO (20 ngàn của Mỹ) vẫn phải trực tiếp can thiệp vào cuộc nội chiến này từ ngày 4/12/1995. Chiến Tranh Chính Thể ở khắp lục địa Phi Châu, từ đầu thập niên 1990, đă làm cho hội đồng 220 nghị phụ của 53 nước Phi Châu họp tại Rôma ngày 10/4 đến 5/8/1994 phải lên tiếng trong một văn kiện dài 15 trang như sau:

"Tiếng kêu của dân Rwanda, Sudan, Angola, Liberia, Sierra Leone, Somalia và những phần đất Trung Phi đă xâu xé tâm can chúng tôi. Lục địa đang bùng nổ và loang máu ở nhiều nơi" (CWR 6/1994, trang 6)

 

Về diệt chủng, năm 1915, có 1 triệu rưỡi người Armenian bị thảm sát ở Thổ Nhĩ Kỳ' năm 1933, có 6 triệu người Ukrainian bị thảm sát v́ đói ở Liên bang Sô Viết dưới thời Stalin' năm 1945, có 6 triệu người Do Thái bị thảm sát trong các trại tập trung của Đức dưới thời Hitler, cũng trong cùng năm 1945, có 2 triệu người Việt Nam bị chết thảm v́ đói trong giai đoạn quân phiệt của Nhật, và có trên 150 ngàn mạng người Nhật bị thảm sát v́ hai quả bom nguyên tử của Mỹ' giai đoạn từ 1945-1961 có 30 triệu người Trung Hoa bị thảm sát vào thời và dưới thời Mao Trạch Đông, riêng cuộc Cách Mạng Văn Hoá (1967) cũng trong thời họ Mao đă có 500 ngàn sinh mạng hy sinh' giai đoạn từ năm 1975 đến 1979, có trên 1 triệu người Cambốt bị Khờ-Me đỏ thảm sát dưới thời Polpot' hiện nay, trên toàn thế giới, hằng năm có hơn 60 triệu mạng thai nhi vô tội không thể tự vệ bị chính thai mẫu thảm sát v́ quyền "pro-choice" hợp pháp của họ v.v.

 

Chứng kiến một thế giới đang "ngồi trong tối tăm" (Lc 1:79) đầy những hận thù và tàn sát nhau như thế, vào ngày 9-1-1995, trong bài ngỏ lời với các phái đoàn ngoại giao của Toà Thánh, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă phải kêu lên:

"Than ôi, vẫn c̣n quá nhiều tiếng kêu tuyệt vọng và khổ đau vọng lên từ thế giới hôm nay, những tiếng kêu của những người anh chị em của chúng ta trong nhân loại, bị nghiền nát bởi chiến tranh, bất công, thất nghiệp, bần cùng và cô đơn" (TSP 5-6/95, tr 154)

 

Thế giới càng lâm vào t́nh trạng nguy tử như thế, Mẹ Maria càng phải có biện pháp cứu rỗi hữu hiệu và cấp thời hơn. Vào đầu thế kỷ 20, Mẹ lại đích thân hiện ra, lần này tại Fatima nước Bồ Đào Nha năm 1917, thời điểm mà thế giới đang điên cuồng chém giết lẫn nhau trong trận Đại Chiến thứ nhất. Nếu mở màn cho Kỷ Nguyên Maria từ đầu thế kỷ 19, Mẹ Maria đă chiếu Ánh Sáng Cứu Độ phát xuất từ Mặt Trời Công Chính Giêsu, đó là Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ vào thế giới đang "ở trong bóng tối sự chết" thế nào, th́ lần này, Mẹ đă dứt khoát vạch cho con người thấy Dự Án Fatima có tính cách cứu độ cấp thời, khi trực tiếp và tích cực nhúng tay vào lịch sử thế giới, qua trung gian của Giáo Hội Công Giáo.

 

Thật vậy, Dự Án Fatima có tính cách cứu độ cấp thời này, theo như Mẹ cho chung 3 Thiếu Nhi Fatima biết vào ngày 13-7-1917 và cho riêng chị Lucia biết vào ngày 13-6-1929, đó là:

"Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới ḷng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ" "Đă đến lúc Thiên Chúa xin Đức Thánh Cha hiệp với tất cả các giám mục trên thế giới để hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, th́ Ngài hứa sẽ cứu Nước Nga bằng cách này" (FILOW trang 162 và 200)

Phải, trong thời điểm khẩn trương này, Dự Án Fatima có tính cách cứu rỗi cấp thời, về phía Thiên Chúa, chính là Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, và về phía con người, đó là tôn sùng Trái Tim Mẹ, một Trái Tim mà lần đầu tiên Mẹ đă tỏ cho 3 Thiếu Nhi Fatima thấy vào ngày 13-6-1917 và nói với riêng Lucia rằng:

"Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa" (FILOW trang 161).

 

Thế nhưng, nếu con người chấp nhận Dự Án Fatima có tính cách cứu rỗi cấp thời này của Thiên Chúa là tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, th́ những ǵ sẽ xẩy ra cho riêng mỗi người cũng như cho chung thế giới? Cũng trong phần 2 của Bí Mật Fatima được Mẹ Maria tỏ cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết vào ngày 13-7-1917 trên đây, Người đă khẳng định mục tiêu của Dự Án Fatima có tính cách cứu rỗi này là:

"Nếu điều Mẹ nói với các con được thực hiện  (về ư của Thiên Chúa muốn thiết lập ḷng tôn sùng Trái Tim Mẹ), nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và sẽ có hoà b́nh" (FILOW trang 162).

 

Qua Bí Mật Fatima phần thứ hai này, theo tiến tŕnh của Kỷ Nguyên Maria, th́ Ngày Cứu Độ đă gần đến. Bởi v́, Ánh Sáng Cứu Độ là Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria phát xuất từ Mặt Trời Công Chính Giêsu đă lên cao, khi Đặc Ân này, sau khi được loé lên trên bầu trời thế giới tối tăm từ thế kỷ 19, sang thế kỷ 20 lại được gắn liền với Trái Tim Mẹ.

 

Thật vậy, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria mà Thiên Chúa ngỏ ư muốn thiết lập trên thế giới đây là ǵ, nếu không phải là một Trái Tim Đầy Ơn Phúc của Đấng đă tự xưng ḿnh vào ngày 13-10-1917 tại Fatima:

            "Ta là Đức Mẹ Mân Côi" (FILOW trang 168).

 

Mẹ là Đức Mẹ Mân Côi tức Mẹ là Mẹ của Mầu Nhiệm Cứu Chuộc hay là Mẹ của Ơn Cứu Độ trần gian cũng thế. Do đó, vào ngày 13-7-1917, chính Mẹ đă kêu gọi loài người là:

"Hăy tiếp tục lần hạt Mân Côi để tôn kính Đức Mẹ Mân Côi... v́ chỉ một ḿnh Người mới có thể cứu giúp các con" (FILOW trang 161)

 

Như thế, nếu Rạng Đông Maria đă hiện nguyên h́nh dạng là Đấng Trung Gian Đồng Công Đầy Ơn Phúc đích thực của ḿnh trong thế kỷ 20 này th́ thời điểm tận thế cho cuộc giáng lâm vinh hiển của Chúa Kitô phải chăng thật sự đă đến? Tại Đền Thánh Đức Mẹ Alborada ở Guayaquil ngày 31-1-1985, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă nói về Mẹ như sau: 

"Mẹ Maria là ánh sáng loan báo việc gần đến của Mặt Trời sắp lên là Chúa Kitô. Ở đâu có Mẹ Maria sẽ sớm xuất hiện Chúa Giêsu" (Soul Mar-Apr 1994, trang 6)

 

Nhận biết về Mẹ Maria như thế, qua thông điệp "Redemptoris Mater" (Mẹ Đấng Cứu Thế) được viết trong Năm Thánh Mẫu 1986-1987 và được ban hành ngày 25-3-1987, Đức Gioan-Phaolô II lại càng tiến sâu vào Điềm Lạ Maria với những nhận thức như sau:

"Thật vậy, cho dù không thể thiết định thời điểm chính xác về ngày sinh nhật của Mẹ Maria, Giáo Hội cũng luôn luôn nhận thức rằng Mẹ Maria đă xuất hiện trước Chúa Kitô nơi chân trời lịch sử cứu độ. Đó là sự kiện mà khi 'thời gian viên trọn' thực sự gần đến, tức mùa vọng cứu rỗi của Thiên Chúa Ờ Cùng Chúng Ta, th́ Mẹ là Đấng từ đời đời được tiền định làm Mẹ của Người đă hiện hữu trên trái đất này rồi. Sự kiện mà Mẹ 'tới trước' khi Chúa Kitô đến hằng năm được phản ảnh nơi phụng vụ của Mùa Vọng. Bởi vậy, nếu so sánh ḷng trông đợi Đấng Cứu Thế theo lịch sử quá khứ với những năm đưa chúng ta tới gần cuối thiên niên thứ hai sau Chúa Kitô hơn và tới đầu thiên niên thứ ba, th́ nó có thể hoàn toàn hiểu được rằng, ở vào giai đoạn hiện nay, chúng ta muốn đặc biệt quay về với Mẹ là Đấng, trong 'đêm tối' của Mùa Vọng đợi trông, bắt đầu chiếu sáng như một 'Sao Mai' (Stella Matutina). Bởi v́, giống như ngôi sao này, cùng với 'rạng đông' xuất hiện trước mặt trời mọc, cũng thế, Mẹ Maria, từ thời điểm Mẹ Đầu Thai Vô Nhiễm Tội, đă xuất hiện trước khi Chúa Kitô đến, trước khi 'Mặt Trời Công Chính' mọc lên trên lịch sử của loài người... Thế nên, có đủ lư do cho Kitô hữu chúng ta, ở vào cuối thiên niên này, khi nhận biết rằng dự án quan pḥng của Ba Ngôi Chí Thánh là thực tại trọng yếu của Mạc Khải và của đức tin, cảm thấy cần phải nhấn mạnh đến sự hiện diện chuyên nhất của Mẹ Chúa Kitô trong lịch sử, nhất là trong những năm cuối cùng đang dẫn đến năm 2000 này" (số 3)

 

Những lời rơ ràng (xin chú ư đến những chữ được cố ư in đậm lên ở đây) của vị lănh đạo Giáo Hội Công Giáo này, vô t́nh hay hữu ư, một lần nữa, có nghĩa là ǵ: "ở vào giai đoạn hiện nay, chúng ta muốn đặc biệt quay về với Mẹ là Đấng, trong 'đêm tối' của Mùa Vọng đợi trông, bắt đầu chiếu sáng như một 'Sao Mai' (Stella Matutina)"?

 

Phải chăng ư huớng những lời của vị lănh đạo tối cao này cũng trùng hợp với những lời tiết lộ của chị Lucia về t́nh h́nh cùng tận của thế giới? Lucia là một trong 3 Thiếu Nhi Fatima c̣n sống sót đến ngày nay, vị nữ tu mà vào ngày 2-1-1944 đă được Mẹ Maria cho biết đă đến lúc viết nốt phần chót của Bí Mật Fatima. Phần bí mật này đă đến tay Ṭa Thánh ngày 16-4-1957, và là phần bí mật, theo chị Lucia cho biết, chỉ được công bố vào năm 1960, v́ đến lúc đó nó mới có thể được sáng tỏ hơn?

 

Theo lịch sử thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng th́ kể từ thập niên 1960, loài người tiến một bước văn minh lạ lùng hầu như không thể kiểm soát và kiềm chế được, trong khi đó, về mặt luân thường đạo lư, xă hội trần gian đồng loạt trở nên băng hoại hơn bao giờ hết, càng ngày càng đắm ch́m vào vực thẳm diệt vong không thể nào tự nhiên cứu văn được nữa. Vào tháng 10 năm 1962, cả thế giới đă không nín thở  là ǵ kinh hoàng hoảng hốt trước hiểm họa Thế Chiến III sắp sửa xẩy ra là ǵ, khi thấy siêu cường Nga đă dàn trận nguyên tử ở vịnh Cuba nhắm vào siêu cường Mỹ quốc. Trong khi đó, Giáo Hội Công Giáo là "ánh sáng muôn dân", bấy giờ, chính ḿnh lại đang ở trong một t́nh trạng vừa bị nội công (cấp tiến) ào ạt xô lấn lại bị ngoại kích (tục hoá) loạn cuồng lôi đi, đến nỗi, nếu không có ngọn gió Thánh Linh thổi qua Công Đồng Chung Vaticanô II (1962-1965) th́ không biết số phận của riêng Giáo Hội và của chung thế giới có c̣n đến ngày hôm nay hay không!?!

 

Trong "Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ", Chúa Giêsu đă bóng bẩy diễn tả t́nh h́nh Giáo Hội lúc ấy cũng như đă đề cập đến biến cố Công Đồng này cho nữ sứ giả giáo dân Maguerite của Người thấy như sau:

"Con thấy ngọn lửa nhỏ đó chứ? (Ngọn lửa của cây đèn mà nữ sứ giả đang nh́n sắp sửa tất lịm). Đó là Giáo Hội. Có phải nó đang lim tắt chăng? Nó vật vờ, tiến đến cực độ của sự sống. Thế nhưng, con có thấy không, hiện nay hơi thở Thần Linh làm cho ngọn lửa nhỏ đó hồi sinh. Nó sẽ không bị tắt ngúm. Nó sẽ bùng lên và sáng soi mọi dân tộc. Đừng sợ đứa con nhỏ của Cha à: Cha vẫn c̣n ở đó mà, và Giáo Hội của Cha sẽ không bị nguy tử đâu... Dần dần nó đang phục hồi sức mạnh và nghị lực' nó đang được che khuất cho khỏi gió" (MML:11-5-1972)

 

Qua một cuộc nói chuyện với linh mục Fuentes, chị Lucia, một trong 3 Thiếu Nhi Fatima c̣n sống sót, người được Mẹ Maria tỏ cho biết là "Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến. Người muốn thiết lập ḷng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới" (FILOW trang 161),  đă thật thà tâm sự với ngài như sau:

"Rất Thánh Trinh Nữ đă cho con hiểu rằng chúng ta đang sống trong những lúc cuối cùng của thế giới. Người bảo con rằng ma qủi đang tổ chức tiến hành một trận chiến quyết liệt với Thánh Trinh Nữ, và cũng là một trận chiến dứt khoát cuối cùng để phân chia thắng bại cho cả đôi bên. Bởi thế, từ giờ trở đi, chúng ta phải chọn lựa theo bên nào. Hoặc chúng ta về bên Thiên Chúa hay chúng ta về phiá qủi ma. Ngoài ra không c̣n cách nào khác nữa" (WTAF cuốn 3, trang 746)

 

Tuy nhiên, vào ngày 22-3-1967, tại trung tâm hành hương Bannuex nước Bỉ, Mẹ Maria lại trấn an và cam đoan với nữ giáo dân Maguerite, vị sứ giả của "Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ" của Con Mẹ trong "Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu  gửi Các Hồn Nhỏ" như sau:

"Mẹ sẽ thiết lập Triều Đại của Con Mẹ khắp thế giới. Mẹ sẽ cứu các dân tộc. Mẹ sẽ cải hối các tội nhân" (MML:22-3-1967)

 

Sự kiện Mẹ Maria hiện ra trong thế kỷ 19, ở Balê năm 1830, ở La Salette năm 1846 và ở Lộ Đức năm 1858, nhất là ở Fatima năm 1917 thế kỷ 20 đă là tiến tŕnh để Mẹ có thể "thiết lập Triều Đại Con Mẹ khắp thế giới". Giáo Hội tỏ ra hưởng ứng việc Mẹ thiết lập này. Trước hết qua việc Đức Lêô XIII hiến dâng toàn thể thế giới lần đầu tiên cho Thánh Tâm Chúa Giêsu ngay đầu thế kỷ 20, "vào Năm Thánh 1900" (x. QP trang 19). Sau nữa, qua việc Đức Piô XI ban hành thông điệp "Quas Primas" ngày 11-12-1925 để thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối Tháng Mân Côi hằng năm và buộc hằng năm phải lập lại việc hiến dâng tất cả loài người cho Thánh Tâm Chúa vào ngày lễ này. "Triều Đại của Con Mẹ" cũng c̣n được nhận biết qua những lần Giáo Hội hiến dâng loài người cho chính Trái Tim Mẹ, vào ngày 31-10-1942 và 7-7-1952 (do Đức Piô XII), 13-5-1982 và 25-3-1984 (do Đức Gioan-Phaolô II).

 

Chính v́ thế, trong "Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ", Chúa Giêsu Vua đă trấn an toàn thể triều thần của Người như sau:

"Hăy lắng nghe tiếng rống của con mănh thú, và hơi thở tàn phá của nó thổi trên thế giới đang bị lụy phục nanh vuốt của nó. Thế nhưng, qua cơn băo tố đe dọa này, con không cảm thấy có một cuộc canh tân đang phát hiện hay sao?" (MML:22-7-1968)