-5-

Điềm Trời 4 Về Ngày Tận Thế:

Sự Việc Mừng Đón Năm 2000

 

            Thế nhưng, "Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và muôn đời vẫn là một" (DT 13:8), một Chúa Kitô được sai đến  không phải "để luận phạt thế gian song để thế gian có thể nhờ Người mà được cứu rỗi" (Gn 3:17). Cho dù trong lần đến sau hết Chúa Kitô có "ngồi trên ngai vương của ḿnh và tất cả mọi dân nước sẽ tụ tập trước nhan Người" (Mt 25:31-32) để thực hiện việc phán xét tối chung đi nữa, th́ việc xét xử tối chung này cũng không phải là việc Người tự muốn lên án: "Hỡi phường bị luận phạt, hăy đi cho khuất mắt Ta mà vào  lửa đời đời dành cho ma qủi và các thần của hắn" (Mt 25:41). Bởi v́, "ai không tin th́ đă bị luận phạt rồi" (Gn 3:18), do đó mà không lạ ǵ, chưa bị phán xét tối chung, tự bản thân, "khi thấy Con Người uy quyền đầy vinh hiển đến trên mây trời, tất cả mọi chủng tộc trên trái đất sẽ đấm ngực ḿnh " (Mt 24:30).

 

Đến thế gian lần thứ hai, cũng là lần sau hết, để cứu vớt chứ không phải tự ư để luận phạt như thế, mà "Đấng Cứu Tinh Nhân Thế" đă tỏ cho thế giới biết những "điềm trời", như những dấu báo hiệu Người sắp tới để mà kịp sửa soạn, nhờ đó, "ai kiên tâm đến cùng sẽ được an toàn/khỏi chết/cứu rỗi" (Mc 13:13' Mt 10:22, 24:13). Bởi v́, Người sẽ đến "giống như kẻ trộm trong đêm tối" (1Thes 5:2' 2Ph 3:10), đến trong nháy mắt, chẳng khác ǵ "như chớp sáng từ đông sang tây" (Mt 24:27), đến một cách chớp nhoáng nhất là đối với thành phần "nhậu nhoẹt say sưa" (Mt 24:49) "như thời Noe" (Mt 24:37' Lc 17:26) trước khi vào tầu.

 

Hiện tượng Mẹ Maria Rạng Đông Cứu Rỗi và sự kiện Giáo Hội Canh Tân, không phải hay sao, đă là những "điềm trời" sáng tỏ nhất, vẫn c̣n đang nổi bật trên bầu trời thế giới tối tăm co quắp trong một cơn hấp hối hầu như gần tới giờ mệnh chung của ḿnh trước ngưỡng cửa tận cùng của thiên niên thứ hai vào năm 2000?!? Ngoài ra, ngay trước khi Thế Chiến II chính thức bùng nổ có tính cách toàn cầu, tức vào năm 1938, Chúa Giêsu đă bóng bẩy nói cho chân phước Faustina, một nữ tu  Balan những lời tiên báo sau đây:

"Cha dành cho Balan một t́nh yêu đặc biệt, mà nếu nó tuân phục ư muốn của Cha, Cha sẽ nâng nó lên trong thế lực và thánh thiện. Từ nó sẽ phát hiện một tia sáng để sửa soạn thế giới cho lần đến sau hết của Cha" (DM số 1732)

           

Thật vậy, "tia sáng" từ một vùng trời cộng sản Đông Âu này bất ngờ phát xuất trên ngai toà tối cao của Giáo Hội Công Giáo Rôma đă càng ngày càng trở nên hết sức chói lói trên bầu trời thế giới hôm nay. Theo mạc khải tư trên đây, sứ mệnh của "tia sáng" này là "để sửa soạn thế giới cho lần đến sau hết của Cha". Phải chăng điều này đă được phát hiện trong tông thư "Tertio Milennio Adveniente" (Tiến Đến Thiên Niên Thứ Ba), qua những lời của vị giáo hoàng đương kim:

"Từ khi phát hành văn kiện đầu tiên ("Đấng Cứu Tinh Nhân Thế") của giáo triều Ta, Ta đă minh nhiên nói đến Cuộc Mừng Đại Thể (năm 2000) này, khi đề nghị một thời gian dẫn đến cuộc mừng này như là 'một Mùa Vọng mới'. Đề tài này đă từng lập đi lập lại nhiều lần, và đă được bàn đến dài ḍng trong thông điệp 'Dominum et Vivificantem' (phụ chú: thông điệp về Chúa Thánh Linh trong Đời Sống của Giáo Hội và của Thế Giới, ban hành ngày 18-5-1986, lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống). Thật vậy, việc sửa soạn cho năm 2000 quả nhiên là một việc then chốt chi phối cả giáo triều của Ta" (TMA số 23)

 

Thế nhưng, không biết Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, vị đă vận động phong thánh cho nữ tu Faustina ngày 20-9-1967, khi ngài c̣n là hồng y tổng giám mục ở Cracow, và đă chính thức phong chân phước cho chị ngày 18-4-1993, có ư thức được thân mệnh của ḿnh theo như mạc khải tư của Chúa Giêsu cho chị ở đây ám chỉ hay chăng? Thế mà, có những việc Ngài làm, từ khi lên ngôi Giáo Hoàng đến nay, (thời điểm cuốn sách này được khởi viết khi ngài đang thăm Liên Hiệp Quốc ở Hoa Kỳ 5 ngày đầu của Tháng Mân Côi, 4-8/10/1995), kể cả 68 cuộc tông du, đi qua 620 ngàn dặm hay 1 triệu cây số, để thực hiện hơn 100 tông vụ trên khắp hoàn cầu, đều mang tính cách "sửa soạn" trùng hợp lạ lùng cho Chúa Cứu Thế đến. Chẳng hạn 4 việc điển h́nh hết sức tiêu biểu sau đây.

 

Việc thứ nhất của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II mang tính cách "sửa soạn thế giới cho lần đến sau hết của (Chúa Kitô)" là việc ban hành thông điệp "Redemptor Hominis" (Đấng Cứu Tinh Nhân Thế) ngày 4-3-1979, bức thông điệp đầu tiên đă thực sự mở màn và phác họa cho cả giáo triều của Ngài.

 

Bức thông điệp đầu tiên của một vị giáo hoàng thường phản ảnh mối ưu tư chính yếu của ngài và phác họa  hướng đi cho cả giáo triều của ngài. Điển h́nh là trường hợp bức thông điệp "Ecclesiam Suam" (về Giáo Hội Chúa Kitô) của Đức Phaolô VI, ban hành ngày 6-8-1964, mà Đức Gioan-Phaolô II cho là "văn kiện này đă đề ra một chương tŕnh cho giáo triều Đức Phaolô VI" (RH số 4), một chương tŕnh về Giáo Hội, trong Giáo Hội và của Giáo Hội (x. OSV trang 3-4). Trong khi đó, triều đại của Đức Gioan XXIII có thể nói là một giáo triều hoàn toàn huớng về thế giới, được biểu hiện chẳng những qua bức thông điệp mở đầu là "Ad Petri Cathedram" (về Chân Lư, Hiệp Nhất, B́nh An trong Tinh Thần Bác Ái) ban hành ngày 29-6-1959, mà c̣n sau đó qua thông điệp "Mater et Magistra" (về Kitô Giáo và Phát Triển Xă Hội) ban hành ngày 15-5-1961, và thông điệp "Pacem in Terris" (về B́nh An Hoàn Vũ trong Chân Lư, Chính Trực, Bác Ái và Tự Do) ban hành ngày 11-4-1963.

 

Tại sao các vị tiền nhiệm của Đức Gioan-Phaolô II không mở đầu cho giáo triều của ḿnh một thông điệp về Chúa Cứu Thế, mà phải đợi cho măi đến một giáo triều, như Ngài đă nhận định ở đoạn mở đầu bức thông điệp, "đă gần kề năm 2000"? Phải chăng v́ mỗi vị, theo nhiệm ư của Đấng đă hứa "ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28:20), đều được chọn cho một sứ mệnh riêng hợp với thời điểm của ḿnh, đúng như Đức Gioan-Phaolô II nhận định và đề cập đến trong tông thư "Tiến Đến Thiên Niên Thứ Ba":

"Những việc làm và trách nhiệm đặc biệt liên quan đến Cuộc Mừng Đại Thể năm 2000 này thuộc về sứ vụ của vị giám mục Rôma. Theo một ư nghĩa nào đó, tất cả các vị giáo hoàng của thế kỷ qua đă sửa soạn cho cuộc mừng này. Với chương tŕnh của ḿnh là canh tân lại mọi sự trong Chúa Kitô (phụ chú: qua thông điệp đầu tiên "E Supremi" ban hành ngày 4-10-1903), Thánh Giáo Hoàng Piô X đă cố gắng chặn đứng những phát triển tai hại nổi dậy từ t́nh h́nh quốc tế vào đầu thế kỷ này... Đức Bênêdictô XV... Đức Piô XI... Đức Piô XII... Xa hơn nữa, xuôi gịng thế kỷ này, các vị giáo hoàng, theo bước chân của Đức Lêô XIII (phụ chú: từ cuối thế kỷ 19, khi ngài bắt đầu ban hành thông điệp "Rerum Novarum" bàn về vấn đề quyền tư hữu và việc lao công vào ngày 15-5-1991), đă khai triển giáo thuyết Công Giáo về xă hội cho có hệ thống... Đức Piô XI... Đức Piô XII... Đức Gioan XXIII... Đức Phaolô VI..." (số 22)

 

Riêng mối liên hệ thật là trùng hợp đặc biệt giữa các thông điệp hướng về thế giới (kể trên) của Đức Gioan XXIII, với thông điệp đầu tiên của giáo triều Đức Phaolô VI "về Giáo Hội Chúa Kitô" và với thông điệp đầu tiên của giáo triều Đức Gioan-Phaolô II về "Đấng Cứu Tinh Nhân Thế", đă không nói lên hay sao, "điềm trời" ám chỉ hiện tượng Giáo Hội canh tân là để sửa soạn thế giới nghênh đón phu quân Giêsu của ḿnh cũng là "Vua các vua, Chúa các Chúa" (1Tim 6:15' KH 17:14, 19:16) của thế giới?

 

Thật vậy, "Đấng Cứu Tinh nhân thế" này, như Đức Gioan-Phaolô II đă tuyên xưng ngay trong câu mở đầu của bức thông điệp tiên khởi của ngài: "là tâm điểm của vũ trụ và của lịch sử", tức là một "Đấng Cứu Tinh nhân thế" đến thế gian lần thứ hai không phải để chuộc tội mà là để cứu rỗi (x. DT 9:28), Đấng có liên quan đặc biệt đến vận mệnh thế giới trong thời điểm giáo triều của ngài, một thời điểm mà ngài cảm nhận là "đă gần kề năm 2000" (RH số 1)??

 

Việc thứ hai của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II mang tính cách "sửa soạn thế giới cho lần đến sau hết của (Chúa Kitô)" là việc "đáp ứng yêu cầu" của Mẹ Maria ở Fatima.

 

Thật vậy, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă nhận ra ư nghĩa của lần ngài bị ám sát mà không chết vào chính ngày kỷ niệm Mẹ Maria hiện ra ở Fatima. Trong cuộc đại nghị lần thứ năm của các đức hồng y tại Rôma ngày 13-6-1994, Đức Thánh Cha đă thẳng thắn đề cập đến sự lạ Fatima này như sau:

"Ta đă được dịp tự ḿnh hiểu được sứ điệp của Đức Mẹ Fatima một cách đặc biệt: lần đầu tiên vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, khi mà mạng sống của vị giáo hoàng bị thử thách, và sau đó, một lần nữa vào cuối thập niên 1980, khi mà cộng sản sụp đổ ở những xứ sở thuộc khối Liên Bang Sô Viết. Ta nghĩ rằng nó là một cảm nghiệm đủ minh nhiên đối với mọi người. Chúng ta tin tưởng Đức Trinh Nữ, Đấng đă đi trước đoàn dân lữ hành của Thiên Chúa qua gịng lịch sử, sẽ giúp chúng ta vượt qua được những khó khăn mà từ năm 1989 vẫn c̣n tồn tại nơi các dân tộc Âu Châu cũng như ở các lục địa khác" (TPS 11-12/1994, trang 376).

 

Từ cảm nghiệm Fatima mạnh mẽ bên trong này, Đức Thánh Cha đă hiệp cùng với các giám mục trên thế giới để hiến dâng chung thế giới và riêng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ vào ngày 25-3-1984, nhờ đó, "Nước Nga đă trở lại" khi thực sự từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản, qua việc từ chức của vị lănh tụ cộng sản Liên Bang Sô Viết cuối cùng vào chính ngày lễ Giáng Sinh 25-12-1991. Trong tông thư "Tiến Đến Thiên Niên Thứ Ba", Đức Gioan-Phaolô II đă gợi lại biến cố lạ lùng này như sau:

"Khó ḷng mà không nhớ lại là Năm Thánh Mẫu (1986-1987) diễn tiến trước biến cố 1989 (phụ chú: tức trước biến cố Cộng Sản Đông Âu đột nhiên bắt đầu sụp đổ). Những biến cố này lạ lùng v́ tính cách vĩ đại của nó, nhất là v́ tốc độ xẩy ra của nó" (số 27)

 

Qua việc hiến dâng có tính cách Giáo Hội hoàn vũ này, vị thủ lănh nói riêng và Giáo Hội nói chung đă thực hiện một cách cụ thể việc "tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội" của "Đức Mẹ Mân Côi" là Rạng Đông báo hiệu Mặt Trời Công Chính là Chúa Kitô sắp tới. Trong văn kiện gửi cho các giám mục trên thế giới để kêu gọi hiệp dâng thế giới và Nước Nga cho Mẹ Maria, Đức Gioan-Phaolô II đă viết:

"Trong Năm Thánh Cứu Rỗi này (25/3/1983-1984), Ta muốn tuyên xưng quyền năng cứu độ nhờ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Thiên Chúa, Đấng đă cảm nghiệm được quyền năng cứu độ này ở một mức độ đặc biệt nhất... Ta tin chắc chắn là việc lập lại nghi thức 'hiến dâng' này trong Năm Mừng Kỷ Niệm Ơn Cứu Rỗi sẽ đáp ứng với ḷng mong ước của nhiều con tim muốn tái diễn chứng cố về ḷng sùng kính của họ đối với Trinh Nữ Maria, và muốn phó thác cho Người những sầu thương của họ nơi những tệ hại hiện nay, những lo âu trước những tai biến đang chực chờ ở tương lai, những dự liệu cho hoà b́nh và công lư ở riêng từng nước cũng như của cả nhân loại.."

(Sau đây là một số lời tiêu biểu trong chính bản kinh dâng hiến của toàn Giáo Hội ngày 25-3-1984:)

"Chúng con xin hợp với tất cả mọi chủ chăn trong Giáo Hội làm thành một thân thể và một tập đoàn, đúng như ư của Chúa Kitô muốn các tông đồ hiệp nhất với thánh Phêrô. Trong mối hiệp nhất này, chúng con đọc những lời hiến dâng mà chúng con muốn bao gồm một lần nữa niềm hy vọng của Giáo Hội cũng như lo âu đối với thế giới hôm nay... Ôi Mẹ của mọi người và mọi dân tộc, Mẹ biết rơ tất cả và ước vọng của họ, với ư thức làm mẹ, Mẹ biết tất cả những giằng co giữa sự thiện và sự dữ, giữa ánh sáng và bóng tối, đang hành hạ thế giới tân tiến hôm nay, xin nhận lời kêu than mà chúng con được Thánh Linh khơi động trực tiếp dâng lên Trái Tim Mẹ...Lạy Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội! Xin giúp chúng con chiến thắng hiểm nguy của sự dữ vốn dễ dàng đâm rễ sâu vào ḷng dạ của con người hôm nay, mà tác hại của nó đă đè nặng trên thế giới hiện đại, và dường như cản trở thế giới tiến bước trong tương lai... Một lần nữa, nơi lịch sử thế giới, xin quyền năng cứu độ vô biên, quyền năng của t́nh yêu thương xót hăy chiếu giăi! Xin ngăn chặn sự dữ! Xin biến đổi lương tri! Xin Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ tỏa ra cho tất cả mọi người ánh sáng hy vọng" (TYF trang 127-128)  

 

Việc thứ ba của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II mang tính cách "sửa soạn thế giới cho lần đến sau hết của (Chúa Kitô)" là việc ban hành hai thông điệp "Veritatis Splendor" (Ánh Quang Chân Lư) ngày 6-8-1993, và "Evangelium Vitae" (Phúc Âm Sự Sống) ngày 25-3-1995.

 

Thông điệp "Ánh Quang Chân Lư" có tác dụng soi sáng con người đang "ngồi trong tối tăm" (Lc 1:79), mà theo nhận định của Ngài, "rơ ràng không nhiều th́ ít bị ảnh hưởng bởi những gịng tư tưởng đưa đến việc tách biệt tự do con người khỏi bị ràng buộc thiết yếu và căn bản với chân lư" (số 4). Bởi thế, Ngài kêu gọi:

"Câu trả lời dứt khoát cho những vấn nạn của mỗi một con người, nhất là những vấn nạn về đạo lư và lương tri, được giải đáp bởi Chúa Giêsu Kitô, hay đúng hơn, bởi chính Chúa Giêsu Kitô ("Đấng Cứu Tinh nhân thế"), như Công Đồng Vatican đă nhắc nhở: 'Thật vậy, chỉ ở nơi mầu nhiệm Lời nhập thể mà mầu nhiệm về con người được sáng tỏ'" (số 2)

"Ngày nay, một lần nữa, người ta cần phải quay về với Chúa Kitô ("Đấng Cứu Tinh nhân thế") để nhận được từ Người câu giải đáp cho những vấn nạn của ḿnh về đâu là sự lành và đâu là sự dữ" (số 8).

"Phúc Âm Sự Sống là ánh quang chân lư soi sáng cho các lương tri, là ánh sáng tỏ tường sửa chữa cái nh́n mù mịt" (số 6). Cho dù con người ngày nay có bị "nhật thực về giá trị sự sống" (số 10) đi nữa, th́ cũng "chỉ duy có Con Chiên bị sát tế ("Đấng Cứu Tinh nhân thế") mang những dấu tích vượt qua của ḿnh trong ánh quang phục sinh mới là chủ tể của tất cả mọi diễn biến lịch sử, qua việc mở 'các ấn', và tuyên bố  quyền lực của sự sống trên sự chết, cho dù trong thời gian hay vượt thời gian" (số 105).

 

Việc thứ bốn của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II mang tính cách "sửa soạn thế giới cho lần đến sau hết của (Chúa Kitô)" là việc ban bố tông thư "Tiến Đến Thiên Niên Thứ Ba" vào ngày 10-11-1994, với tâm tưởng và chiều hướng sau đây:

"Kitô giáo có khởi điểm bắt nguồn từ cuộc nhập thể của Ngôi Lời. Ở đây, không phải chỉ là việc con người t́m kiếm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa đích thân đến nói về ḿnh cho con người biết và chỉ cho họ con đường có thể dẫn đến Ngài... Như thế, Lời nhập thể là sự viên trọn cho nỗi khát vọng hiện hữu nơi tất cả mọi tôn giáo của loài người" (số 6).

"Con người viên măn chính ḿnh nơi Thiên Chúa, Đấng đến gặp gỡ họ qua Người Con hằng hữu của ḿnh. Nhờ việc Thiên Chúa đến trong thế gian mà thời gian của con người được bắt đầu từ khi tạo thành nên viên trọn. Thật vậy, mức viên trọn của thời gian này là cơi đời đời, thực ra là Đấng đời đời, tức là chính Thiên Chúa. Như thế, để tiến đến mức viên trọn của thời gian tức là tiến đến cùng tận của thời gian và biến đổi những giới hạn của thời gian để t́m thấy sự viên trọn trong cơi đời đời của Thiên Chúa" (số 9)

"Theo Kitô giáo, thời gian có một tầm quan trọng sâu xa. Trong tầm kích của thời gian mà thế giới đă được tạo dựng nên' trong nó, lịch sử cứu độ được tỏ hiện, khi t́m thấy cao điểm của ḿnh ở vào lúc thời gian viên trọn của Mầu Nhiệm Nhập Thể, cũng như t́m thấy đích điểm của ḿnh ở vào cuộc trở lại hiển vinh của Con Thiên Chúa vào lúc tận cùng thời gian. Nơi Chúa Giêsu Kitô, Lời hoá thành nhục thể, thời gian trở nên một tầm kích của Thiên Chúa, Đấng tự ḿnh hằng hữu. Việc Chúa Kitô đến thế gian đă khởi đầu cho "những ngày sau hết" (DT 1:2), "giờ tận cùng" (1Gn 2:18), cũng như cho thời gian của Giáo Hội là thời gian sẽ kéo dài cho đến lúc Chúa Kitô đến thế gian lần sau hết" (số 10)