3. Cải Thiện: Những Ǵ? 

 

Nếu chúng ta đă biết được bản chất của việc cải thiện là ǵ và ở chỗ nào, th́ chúng ta cũng sẽ biết được những ǵ chúng ta cần phải cải thiện.

 

Nếu bản chất của việc cải thiện là canh tân nội tâm và ở chỗ sợ tội, th́ điều phải cải thiện chính là tội lỗi được biểu lộ qua ư riêng của con người.

 

Nếu bản chất của việc cải thiện là canh tân nội tâm để t́m Chúa và ở tại việc làm theo ư Chúa, th́ điều phải cải thiện là tự ái của con người.

 

Nếu bản chất của việc cải thiện là trở về với t́nh yêu Thiên Chúa và ở tại nhận biết Thiên Chúa, th́ điều phải cải thiện là sự vô ơn của con người.

 

 

Cải Thiện Ư Riêng

 

Tội lỗi là ǵ, nếu không phải là những điều làm mất ḷng Chúa. Những điều làm mất ḷng Chúa là ǵ, nếu không phải là những điều làm trái với ư của Ngài. Những điều làm trái với ư của Thiên Chúa là ǵ, nếu không phải là những điều tạo vật nói chung và con người nói riêng không được phép làm. Những điều con người không được phép làm là ǵ, nếu không phải là những điều con người đă làm theo ư riêng của ḿnh. Con người làm theo ư riêng của ḿnh trong những điều không được phép làm, những điều phản lại với ư muốn của Thiên Chúa là ǵ, nếu không phải là con người phạm tội làm mất ḷng Chúa. Việc ăn trái cấm của hai nguyên tổ không phải là việc hai ông bà làm theo ư riêng của ḿnh, những việc hai ông bà không được phép làm, v́ là việc làm trái với ư muốn của Thiên Chúa hay sao?

 

Một trong những lư do cần phải cải thiện đời sống là v́ chúng ta là kẻ có tội. Là kẻ có tội tức là chúng ta là kẻ đă coi ư riêng của ḿnh hơn ư Chúa và đă theo ư riêng của ḿnh hơn ư của Chúa trong những điều không được phép làm, trong những điều mất ḷng Chúa. Do đó, cải thiện tội lỗi của ḿnh chính là từ bỏ ư riêng của ḿnh cho ư muốn của Thiên Chúa.

 

Chúa Giêsu, trong Phúc Âm thánh Mathêu, đoạn 16, câu 24, đă chẳng kêu gọi những ai muốn theo Ngài phải bỏ ḿnh đi là ǵ. Đúng thế, muốn theo Chúa, con người phải bỏ ḿnh đi thế nào, th́ muốn làm theo ư Chúa, con người cũng phải từ bỏ ư riêng của ḿnh đi như vậy.

Thật ra, tự bản chất, ư riêng của con người không có ǵ là xấu, v́ ư riêng của con người nói lên con người là loài có tự do và v́ nó là khả năng hướng con người về sự thiện là đối tượng tối cao của nó, để nhờ sự thiện, con người được nên trọn hảo hơn.

 

Tuy nhiên, trên thực tế, ư riêng của con người có thể chia ra làm 3 loại: xấu xa, tốt lành và thiện hảo. Ư riêng xấu xa là những ư muốn làm điều lợi cho ḿnh nhưng hại cho tha nhân, chẳng hạn, ư của Cain muốn sát hại Abel em ḿnh. Ư riêng tốt lành là những ư muốn lợi cho ḿnh nhưng không bất lợi cho bất cứ một ai, chẳng hạn, ư của Abraham muốn người con duy nhất của ḿnh là Isaac nối gịng cho ḿnh. Ư riêng thiện hảo là ư muốn sống làm sao cho đẹp ḷng Chúa nhất, chẳng hạn, ư của Mẹ Maria muốn giữ ḿnh đồng trinh.

 

Trong ba loại ư riêng này, ư riêng xấu xa, tự bản chất là tội lỗi, tất nhiên là điều phải từ bỏ đầu tiên và phải cải thiện lại trước nhất. Đối với hai loại ư riêng sau, dù có tốt lành và thiện hảo mấy đi nữa, nếu không hợp với ư Chúa hay không đúng như ư Chúa muốn, con người cũng phải từ bỏ. Abraham đă không từ bỏ ư riêng tốt lành của ḿnh trong việc vâng theo ư Chúa đem Isaac là đứa con duy nhất để làm giống cho ḿnh đi tế lễ Chúa hay sao (xem Sáng Thế Kư 22:1-14)? Mẹ Maria cũng đă không từ bỏ ư riêng thiện hảo của ḿnh trong việc giữ ḿnh đồng trinh tận hiến cho Thiên Chúa để xin vâng làm Mẹ Chúa Cứu Thế, sống đời sống gia đ́nh với thánh Giuse hay sao (xem Mathêu 1:18-25 và Luca 1:26-38).

 

Do đó, cái đầu tiên phải cải thiện, đó là ư riêng của con người, nếu ư riêng của con người không hợp với ư Chúa, không đúng với ư Chúa, nhất là khi nó nghịch lại với ư Chúa. Ngày nay, hơn bao giờ hết, nhờ văn minh, con người nhận ra quyền lực và quyền lợi làm nên giá trị bất khả xâm phạm của con người ḿnh, do đó, con người càng đề cao ư riêng và đ̣i hỏi thỏa măn ư riêng, kể cả những cái không được phép, chẳng hạn ly dị hay phá thai. Tệ hơn nữa, những ư riêng hoàn toàn phản lại với ư muốn của Thiên Chúa qua những nguyên tắc luân lư phổ quát này lại được chính con người lạm dụng quyền bính của ḿnh hợp thức hoá bằng những khoản luật cho phép phá thai và ly dị. Có thể nói, đây là những trái cấm thời đại mà con người đang nuốt vào để chuốc lấy án phát của Thiên Chúa, Đấng đă ban cho con người quyền tự do làm mọi sự trừ những những cái phạm đến lương tâm là cây biết lành biết dữ được Ngài trồng ngay giữa bản tính của con người.

 

Nhưng, làm thế nào để biết được ư riêng của ḿnh không hợp với ư Chúa, không đúng với ư Chúa hay nghịch lại với ư Chúa để mà từ bỏ, mà cải thiện, nếu không phải căn cứ vào lề luật của Chúa cũng như của Giáo Hội, vào Lời của Chúa và vào lương tâm của ḿnh.

 

Nếu căn cứ vào lề luật của Chúa cũng như của Giáo Hội th́ những điều ǵ, theo ư riêng của chúng ta, muốn làm trái với mười điều răn Chúa và sáu luật điều của Hội Thánh đều là tội và phải cải thiện lại. Nếu căn cứ vào Lời của Chúa th́ tất cả những điều ǵ, theo ư riêng của chúng ta, không hợp với nguyên tắc trọn lành, như chấp nhất nhau, không chịu tha thứ cho nhau, đều là những điều bất hảo, cũng cần phải cải thiện lại. Nếu căn cứ vào lương tâm của chúng ta th́ tất cả những điều ǵ, theo ư riêng của chúng ta, không đúng với hiện sủng mà Chúa muốn đánh động chúng ta từng lúc, như dâng hy sinh cho Chúa, đều là những điều không trọn lành, cũng cần phải cải thiện lại.

 

 

Cải Thiện Tự Ái

 

Điều thứ nhất phải cải thiện, đó là ư riêng, và điều thứ hai phải cải thiện, đó là tự ái. Tự ái mới là điều đáng chú ư để mà cải thiện hơn là ư riêng. Tại sao thế? Bởi v́, nếu không có tự ái, con người cũng không có ư riêng. Thật vậy, nếu con người biết ghét sự sống ḿnh đúng như Lời Chúa dạy trong Phúc Âm thánh Gioan, đoạn 12, câu 25, th́ con người cũng không c̣n theo ư riêng của ḿnh nữa.

 

Luxiphe sở dĩ kiêu ngạo dám đứng lên chống lại ư định nhập thể của Thiên Chúa để trở thành Satan không phải là v́ đă tự ái, không muốn Thiên Chúa nhập thể, mặc lấy bản tính loài người là loài vốn thấp hèn hơn ḿnh một trời một vực hay sao?

 

Loài người ngay từ ban đầu cũng thế, dù có bị rắn qủi cám dỗ đi nữa, nếu không tự ái, không yêu ḿnh hơn Thiên Chúa, như Chúa đă minh định trước khi tuyên phạt con người, v́ ngươi đă nghe vợ mà ăn trái Ta cấm ngươi ăn (Sáng Thế Kư 3:17), con người cũng đă không sa ngă phạm tội mất ḷng Chúa.

 

Bởi thế, trong việc cải thiện, chỉ cần để ư dẹp tự ái hay diệt tự ái là chúng ta có thể kiếm chế được ư riêng, cái làm nên tội lỗi. Nếu không để ư diệt tự ái hay chịu khó dẹp tự ái, th́ đừng nói đến việc cải thiện đời sống mà làm ǵ.

 

Nếu ư riêng của con người làm nên hỏa ngục, th́ tự ái của con người là lửa hỏa ngục. Chính tự ái là ng̣i chiến tranh, là mầm chia rẽ, là giông tố tàn phá tất cả mọi sự tốt lành nhất, thánh thiện nhất, từ cá nhân đến gia đ́nh, xă hội và thế giới. Phải nói rằng, đâu có tự ái, đấy có tử thần. Ngày nay, quá say sưa với văn minh tột đỉnh của ḿnh, con người h́nh như đang mất đi ư thức tội lỗi, trong việc quay ra sát hại chính ḿnh, khi trắng trợn nhúng tay vào việc phá thai là những mầm sống của ḿnh, và khi phũ phàng ly dị nhau là xương thịt của ḿnh, chỉ v́ chủ nghĩa cá nhân quá khích, hiện thân tự ái tột đỉnh của con người.

 

Về phương diện siêu nhiên, tự ái là kẻ thù không đội trời chung của Đức Ái, của Thánh Sủng mà Chúa ban cho chúng ta khi chúng ta lănh nhận Bí Tích Thánh Tẩy Tái Sinh. Nếu chúng ta càng yêu ḿnh, Thánh Sủng hay Ơn Thánh cũng vậy, là T́nh Yêu của Thiên Chúa, mà chúng ta gọi tắt là Đức Ái, ở trong chúng ta sẽ bị chết nghẹt, sẽ không thể nào, như thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô, đoạn 3, câu 17, viết: đâm rễ sâu trong đời sống của chúng ta được. Chính v́ thế, Chúa Giêsu đă xác quyết trong Phúc Âm thánh Gioan, đoạn 12, câu 25: Ai yêu sự sống ḿnh sẽ mất sống, c̣n ai ghét sự sống ḿnh trên đời này sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời.

 

Đừng căn cứ vào việc làm tốt lành của một người, chẳng hạn, họ đọc kinh, dự lễ và rước lễ hằng ngày, ăn chay hăm ḿnh hằng tuần, tham gia đủ mọi hội đoàn, hết ḿnh hy sinh công của cho việc nhà Chúa v.v. mà vội cho họ là người nhân đức, là thánh sống. Cũng có thể họ thật sự là một thánh sống, nếu đời sống đạo hạnh của họ ấy trổ sinh những nhân đức anh hùng. Chẳng hạn, như khi bị người ta cho ḿnh là giả h́nh hay sống như thế là để lấy ḷng cha v.v. người ấy vẫn không tỏ ra bực tức, trái lại, vẫn đối xử rất tốt lành với những người dèm pha ḿnh như thường. Chẳng hạn, như thấy ai tài giỏi, thánh đức hơn ḿnh, người ấy chẳng những không ghen tương, tranh chấp, trái lại, c̣n mừng rỡ cho họ, lại c̣n để ư bắt chước và học hỏi họ nữa. Chẳng hạn, như người ấy có công, tài giỏi lại nhân đức như vậy mà cha lại không dùng hay đang được dùng th́ bị mất tín nhiệm và cuối cùng bị băi nhiệm, người ấy chẳng những không buồn bực, bất măn, trả đũa, chọc gậy bánh xe, trái lại, sẵn sàng rút lui ngay và nếu cha cần lại nhào ra giúp cha như trước v.v.

 

Nhưng, làm sao biết được đâu là tự ái để mà dẹp nó đi và diệt nó đi. Tự ái thường được bộc lộ qua ba h́nh thức là tự kiêu, tự măn và bất măn. Tự ái được bộc lộ qua h́nh thức tự kiêu ở chỗ đề cao ḿnh và coi thường người không bằng ḿnh hoặc không được như ḿnh, luôn chủ quan cho ḿnh là đúng và cố chấp không nghe lời ai bao giờ, có thất bại v́ chủ quan cũng cố chấp không chịu nhận lỗi để sửa sai v.v. Tự ái được bộc lộ qua h́nh thức thỏa măn ở chỗ thích được khen tặng, danh tiếng, chức quyền, ghen với những người hơn ḿnh, sợ bị chê bai, chỉ trích v.v. Tự ái được bộc lộ qua h́nh thức bất măn ở chỗ khó chịu bực tức khi làm ǵ không được như ư hay gặp bất cứ sự ǵ trái ư.

 

Sự Sống Thần Linh trong người Kitô hữu là sự sống mà Chúa Kitô hiền lành và khiêm nhượng trong ḷng (Mathêu 11:29) đă tự hiến cho họ, chỉ có thể tồn tại và phát triển cho đến khi đạt đến tầm vóc toàn vẹn của Chúa Kitô là Đầu (Êphêsô 4:15), với điều kiện là tự ái của họ phải mục nát đi để làm phân bón cho hạt giống Ơn Thánh đă được gieo vào trong con người họ qua Bí Tích Rửa Tội mà thôi.

 

 

Cải Thiện Sự Vô Ơn

 

Điều thứ ba phải cải thiện, đó là sự vô ơn của con người. Thật vậy, dù con người tự ái đến đâu đi nữa, nếu c̣n nhận biết ơn Chúa ban cho ḿnh và t́nh Chúa yêu thương ḿnh, họ chắc chắn sẽ cải thiện và cải thiện một cách dễ dàng và mau chóng. V́ tự ái mà con người đă theo ư riêng phạm tội mất ḷng Chúa. Và, cũng v́ con người tự ái theo ư riêng phạm tội mất ḷng Chúa mà Chúa vô cùng nhân lành mới cứu chuộc con người. Phần con người, chỉ cần nhận biết t́nh yêu Chúa là con người được cứu độ.

 

Người Kitô hữu thực sự đă được cứu độ khi họ tin và chịu phép Rửa Tội (Marcô 16:16). Thế nhưng, người Kitô hữu chỉ hoàn toàn hưởng được trọn vẹn ơn cứu độ này khi họ không c̣n sống cho con người của ḿnh nữa, một con người đă chết trong tử giá của Chúa Kitô, mà sống con người mới trong Chúa Kitô phục sinh. Tuy nhiên, người Kitô hữu làm sao có thể thông hưởng trọn vẹn ơn cứu độ nơi họ khi họ sống như một kẻ không biết ǵ hay không để ư ǵ đến kho tàng Ơn Thánh vô cùng qúi giá ở trong họ là T́nh Yêu Thiên Chúa ở với họ.

 

Chính v́ người Kitô hữu không nhớ đến Ơn Thánh và sống gắn bó với Ơn Thánh là T́nh Yêu Thiên Chúa ở với họ, làm cho họ sống Sự Sống Thần Linh, Sự Sống Thiên Chúa, mà họ đă bị tự ái chi phối, ư riêng điều khiển, đến nỗi, nhiều khi chẳng những đă phạm tội thông thường mất ḷng Chúa, đôi khi c̣n phạm cả những tội bất thường làm đau ḷng Chúa hơn nữa, như tội lộng ngôn.

 

Ngày 10/12/1925, Mẹ Maria đă hiện ra với chị Lucia ở Pontevedra, Tây Ban Nha, tay bồng Chúa Hài Nhi, tay cầm Trái Tim bị gai nhọn quấn quanh. Cả Chúa hài Nhi và Đức Mẹ đều kêu gọi chị Lucia đền tạ Trái Tim Mẹ là Trái Tim bị gai nhọn quấn quanh bởi những kẻ vô ơn hằng liên lỉ đâm vào. Những gai mà những kẻ vô ơn hằng liên lỉ đâm vào Trái Tim Mẹ đây là ǵ, Mẹ Maria đă nói cho chị Lucia biết rằng, đó là: những lộng ngôn và bội bạc của họ.

 

Vậy, cải thiện đời sống đối với Chúa và Đức Mẹ và tinh thần Sứ Điệp Fatima đúng là ở tại nhận biết ḷng yêu thương vô cùng bao la và cao cả của các Ngài mà trở về với các Ngài. Chính T́nh Yêu Chúa trong người Kitô hữu sẽ thắng tội lỗi là ư riêng của họ và tử thần là tự ái trong họ, làm cho họ nên Thánh v́ Ngài là Đấng Thánh.

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL,

"Sứ Điệp Fatima - Màng Lưới Cứu Rỗi trong Mùa Biển Động Cuối Thời" xuất bản 11/1993

Tác phẩm về Thánh Mẫu Fatima thứ 2/20 tác phẩm