v

 Âu Châu: Ư Hệ Nhân Bản

 

  

C

ách mạng về văn hóa liên quan tới nhân bản và nhân quyền đă xẩy ra ở Âu Châu được diễn tiến như sau.

 

Triết Tây thường được chia ra làm ba giai đoạn, cổ thời (ancient), trung thời (medieval) và tân thời (modern). Giai đoạn cổ thời của Triết Tây, từ trong thời khoảng bách niên 600 BC (giai đoạn đồng thời với Triết Đông ở Trung Hoa và Phật Giáo ở Ấn Độ), cho tới thời khoảng bách niên 400 AD, một giai đoạn hoàn toàn diễn tiến ở Hy Lạp v́ được bắt nguồn từ đây. Giai đoạn trung thời của Triết Tây kéo dài hơn 1 ngàn năm, từ thế kỷ thứ 5 tới thế kỷ 17.  Và giai đoạn tân thời từ thế kỷ 17 tới hiện đại.

Giai đoạn Triết Tây cổ thời bao gồm ba đại triết gia Hy Lạp là Socrates, Plato và Aristote. Đến nỗi, những tư tưởng triết lư của họ về siêu h́nh, khoa học, luận lư và luân lư chẳng những chi phối tư tưởng của Âu Châu mà c̣n ảnh hưởng cho tới con người ngày nay.

 

Socrates không để lại một văn tự nào. Tuy nhiên, qua môn sinh Plato của ông, chúng ta biết được tư tưởng và phương pháp suy tư của ông. Ông sống ở Nhă Điển và dạy học ở phố chợ hay ở vận trường. Ông dạy bằng phương pháp vấn đáp. Ông cố gắng nêu lên một định nghĩa chính xác về một vấn đề trừu tượng nào đó, như về kiến thức, nhân đức, công lư hay khôn ngoan. Phương Pháp Socrates bao gồm những câu vấn gợi ư hay vặn ư như “quí vị có ư nói ǵ?”, “làm sao quí vị biết được?” v.v.

 

Plato cho rằng con người không thể hiểu biết sự vật qua các giác quan, v́ đối tượng của các giác quan luôn thay đổi và nông nổi, mà chỉ có được một kiến thức thực sự qua những ǵ bất biến, như chân, thiện, mỹ, những ǵ được nhận thức bởi trí khôn, những thứ bất biến được ông gọi là những lư tưởng (ideas) hay những mô thức (forms). Theo ông, chỉ có những lư tưởng mới là những ǵ thật, mới là những ǵ có thật, c̣n những thứ khác chỉ phản ảnh những lư tưởng này mà thôi. Bởi thế triết thuyết của ông được gọi là lư tưởng thuyết (idealism). Đối với ông, ư tưởng quan trọng nhất là ư tưởng về sự thiện, và kiến thức về sự thiện là là đối tượng của tất cả mọi thứ t́m cầu, là mục đích các thứ phụ thuộc cần phải nhắm đến. Ông cho rằng đời sống tuyệt vời nhất là đời sống chiêm ngưỡng những chân lư vĩnh hằng. Tuy nhiên, ông cho rằng những ai đạt tới mức độ này cần phải trở về với cuộc sống thường nhật và đem kiến thức ra phục vụ xă hội. Ông chủ trương linh hồn con người bất tử, chỉ có thân xác mới chết mà thôi, một chủ trương rất hợp với Kitô giáo.

 

Aristote là đệ nhất đại môn sinh của Plato và là người đă viết hầu như về hết mọi vấn đề trong thời của ông, nhất là vấn đề được ông nghiên cứu  và gọi là “đệ nhất triết học” (first phylosophy), môn sau này được gọi là siêu h́nh học. Ông đă thiết lập một hệ thống triết học sơ khởi. Ông tin rằng tất cả mọi sự theo bản chất đều có mục đích nào đó. Theo triết lư của ông th́ bản chất của mỗi vật được ấn định bởi mục đích của nó, và tất cả mọi sự t́m cách hoàn trọn bản chất của ḿnh bằng việc thi hành mục đích của ḿnh. Phương pháp t́m cầu kiến thức của ông là ở chỗ bắt đầu từ những ǵ đă biết hay nghĩ rằng ḿnh biết được với những câu hỏi được đặt ra như làm sao lại như thế, cái đó nghĩa là ǵ và tại sao lại như vậy v.v. Về siêu h́nh học của ḿnh, ông đă nghĩ ra được “nguyên lư đệ nhất” (first cause), tức một thực tại không do bất cứ một sự ǵ tạo nên và là nguồn gốc tối hậu cho vấn đề hiện hữu. Về luân lư ông cho rằng hạnh phúc không phải là được thỏa măn mà là ở tại hành động nhân đức, một hành động chiết trung chứ không thái quá. Hạnh phúc trên hết đối với ông là việc chiêm ngưỡng của trí khôn.

 

Các trường phái triết lư hậu Aristote. Trường phái Stoic và Epicureanism xuất hiện sau khi Aristote qua đời năm 322 BC. Cả hai trường phải này chủ trương rằng mục đích của kiến thức là để con người có thể tiến đến một đời sống tốt đẹp nhất (về đức hạnh theo trường phái Stoic do Zeno ở Citium khởi xướng), và thoải mái nhất (về lạc thú theo trường phái Epicureamism do Epicurus khởi xướng). Trường phái Skepticism, đồng thời với hai trường phái trên, do Pyrrho ở Elis khởi xướng, chủ trương rằng con người không thể biết được ǵ cả, cảm quan chỉ đánh lừa con người mà thôi, bởi thế tất cả những ǵ con người cho rằng ḿnh biết đều là những ǵ sai lầm, do đó, cần phải khách quan đối với tất cả mọi sự, đừng phán đoán ǵ hết. Trường phái Neoplatonism, do Plotinus khởi xướng, chủ trương rằng linh hồn con người mong được tái hiệp với Thiên Chúa, tức được ở trong t́nh trạng hưởng phúc kiến là t́nh trạng chỉ có thể đạt được bằng cảm nghiệm thần bí. Trường phái cuối cùng này chẳng những đă liên kết triết lư Hy Lạp với linh đạo Kitô giáo, mà c̣n gợi lên cho thấy những chân lư quan trọng chỉ có thể nhận thức bởi đức tin và do Thiên Chúa tác động chứ không bởi lư trí.

 

Trong giai đoạn trung cổ này, Triết Tây được khải triển như là một phần của khoa thần học Kitô giáo, hơn là một ngành triết học độc lập. Hai đại triết gia Kitô giáo nổi bật nhất và tiêu biểu nhất trong giai đoạn trung cổ này là Âu Quốc Tinh (Augustino) và Thomas Aquinas. Triết gia trước thiên về triết lư nhân sinh và triết gia sau chuyên về triết lư kinh viện (scholasticism).

Thánh Âu Quốc Tinh (354-430). Hai tác phẩm lừng danh nhất trong vô số các tác phẩm về triết lư của đại triết gia Âu Quốc Tinh là Tự Thú (Confession) và Thiên Đô (The City of God). Với cuốn Tự Thú, vị triết gia này xác tín và tuyên nhận cảm nghiệm của ḿnh là ḷng trí con người được Thiên Chúa dựng nên cho Ngài nên con người chỉ thôi khắc khoải cho tới khi được nghỉ yên trong Ngài mà thôi, một xác tín tóm tắt tất cả cuộc đổi đời hoàn toàn trở về nguồn chân thiện mỹ, sau thời gian mấy chục năm hoang đường theo sắc dục và mộng tưởng của bản thân ḿnh. Với cuốn Thiên Đô, vị triết gia này đă giải thích về cuộc xung khắc giữa thành phần Kitô hữu trung nghĩa sống trong thành đô của Thiên Chúa với thành phần dân ngoại và lạc giáo sống trong thành đô của thế gian. Theo vị triết gia Kitô giáo này th́ những ai sống trong thành đô của Thiên Chúa sẽ được cứu độ c̣n những ai sống trong thành đô của thế gian sẽ bị trầm luân muôn đời. Tác phẩm Thiên Đô đă chẳng những làm suy yếu niềm tin vào tôn giáo dân ngoại của Rôma mà c̣n giúp vào việc truyền bá Kitô giáo nữa.

 

Thánh Thomas Aquinas (1225-1274). Vị đại triết gia kiêm thần học gia Kitô giáo này là một trong những triết gia kinh viện nổi tiếng nhất thời trung cổ. Triết học kinh viện là loại triết học sử dụng phương pháp nghiên cứu triết học được các giáo sư áp dụng tại các đại học đường mới thành lập ở Tây Âu.  Phương pháp triết học kinh viện này bao gồm việc phân tích chính xác, thường theo kiểu lập luận diễn dịch (deductive reasoning, từ nguyên tắc đến kết luận), những ư niệm bằng việc phân biệt cẩn thận các ư nghĩa khác nhau của những ư niệm ấy. Triết học kinh viện này phát xuất từ việc chuyển dịch các tác phẩm của Aristote sang tiếng Latinh, ngôn ngữ của Giáo Hội Chúa Kitô thời đó. Những việc chuyển dịch này đă giúp cho các tư tưởng gia tiến đến chỗ giải quyết vấn đề ḥa hợp giữa hệ thống tư tưởng triết học của Aristote với Thánh Kinh và giáo huấn Giáo Hội. Bộ Tổng Luận Thần Học (the Summa Theologica) đại tác phẩm của vị triết gia kiêm thần học gia Kitô giáo Thomas Aquinas là tất cả những ǵ tiêu biểu cho chủ trương, nội dung và phương pháp về triết học kinh viện thuộc thời trung cổ của Triết Tây vậy. 

 

Chuyển tiếp từ  giai đoạn trung thời sang giai đoạn tân thời của Triết Tây là Thời Phục Hưng (Renaissance) ở Âu Châu, kéo dài từ khoảng 1300 đến 1600. Gọi là thời phục hưng v́ trong giai đoạn này xẩy ra một cuộc tái thức tỉnh về tri thức phát xuất từ văn hóa Hy Lạp và Rôma cổ thời. Trong giai đoạn phục hưng này, đă xẩy ra những tiến bộ nơi những khoa học như thiên văn, vật lư và toán. Trong khi đó các học giả mang danh xưng nhân bản nhấn mạnh đến vấn đề học biết về con người và học hỏi văn chương cổ như những ǵ chỉ đạo cho cuộc sống. Thế là phong trào kinh viện xuống dốc và triết lư bắt đầu thoát ly thần học thời trung cổ.

 

Một trong những triết gia ủng hộ phương pháp khoa học và được coi là sáng lập viên Tây Triết Tân Thời là Francis Bacon (1561-1626) ở Anh quốc, người đă viết hai tác phẩm gây nhiều ảnh hưởng là The Advancement of Learning (1605) và Novum Organum (1620). Ông chủ trương rằng kiến thức là một quyền năng và kiến thức chỉ có thể chiếm được bằng phương pháp truy tầm suy diễn (inductive method) mà thôi.

 

Trong giai đoạn tân thời của Tây Triết, ngoài Thời Phục Hưng chuyển tiếp c̣n có cả Thời Minh Tri (the Age of Reason hay the Enlightenment, kéo dài từ thời khoảng bách niên 1600 cho đến cuối thời khoảng bách niên 1700. Các triết gia trong thời này chú trọng tới khả năng của lư trí, hầu như có khuynh hướng chống lại việc cậy dựa vào thần quyền Giáo Hội hay Mạc Khải thánh kinh. Đối với họ, lư trí có thể đạt tới chân lư về thế giới này và biết cách tổ chức xă hội loài người hầu mang lại phúc hạnh cho con người. Những triết gia dẫn đầu trong Thời Minh Tri này phải kể đến John Locke (Anh quốc), Descartes (Pháp), Berkeley (Aùi Nhĩ Lan), Hume (Tô Cách Lan), nhóm triết gia Pháp mang danh xưng Philosophes, nhất là Jean Jacques Rousseau, Voltaire, Denis Diderot.

 

Tư tưởng triết lư của John Locke (1632-1704) đă cho thấy tất cả đặc tính của Thời Minh Tri này. Ông đă t́m cách chứng tỏ cái giới hạn của kiến thức con người và khám phá ra cái kiến thức giới hạn của con người có thể giúp vào việc hướng dẫn đời sống và tác hành của họ. Theo ông, con người phải sống theo nguyên tắc khoan ḥa, tự do và các thứ quyền lợi tự nhiên. Hai Luận Đề Về Chính Quyền của ông (1690) đă trở thành cơ sở lư lẽ cho hai cuộc cách mạng lớn trên thế giới, hai cuộc cách mạng quyết liệt đă làm thay đổi hẳn bộ mặt chính trị thế giới từ đó đến nay, đó là cuộc Cách Mạng Độc Lập ở Hoa Kỳ năm 1775 và cuộc Cách Mạng Dân Chủ ở Pháp năm 1789.

 

Tây Triết giai đoạn tân thời bao gồm những trường phái chính yếu như duy lư thuyết (rationalism), tiêu biểu với René Descarte, Baruch Spinoza và Gottfried Leibniz; duy nghiệm thuyết (empiricism), với John Lock, George Berkeley và David Hume; siêu việt thuyết (transcendentism) do Immanuel Kant khởi xướng ở Đức; duy vật thuyết (materialism), với Friedrich Hegel và Karl Marx ở Đức; thực lợi thuyết (utilitarianism), với Jeremy Bentham và John Stuart Mill ở Anh; hiện tượng thuyết (phenomenology) với Edmund Husserl ở Đức; và hiện sinh thuyết (existentialism) với Jean Paul Sartre ở Pháp.

 

Duy lư thuyết (rationalism): chủ trương lư trí quan trọng hơn kinh nghiệm v́ nó là nguồn mạch của kiến thức, cũng như chủ trương tính cách vững chắc của nhận thức cảm giác cần phải được chứng thực bằng một số nguyên tắc. Theo duy lư thuyết, bản chất của thế giới và của thực tại được xác định bằng chính những tiền nghiệm thức (a priori).

 

René Descarte (1596-1650) là một nhà toán học và là một triết gia, rất quan tâm đến nền tảng của chung các khoa học và của riêng toán học. Bởi thế ông chú trọng đến nền tảng của kiến thức và đă đặt ra một công thức chỉ đạo hết sức nguy hiểm như: “cogito, ergo sum” (tôi suy nghĩ vậy là tôi hiện hữu).

 

Baruch Spinoza (1632-1677) kiến tạo một hệ thống triết lư theo khuôn thức h́nh học. Ông cố gắng rút ra những kết luận triết học từ một số định luật và định đề chính. Ông đồng hóa Thiên Chúa với vũ trụ. Ông coi mọi sự trong vũ trụ này như những ǵ đă được ấn định. Nhưng ông mong muốn mọi người được tự do và sống một đời thoải mái trong một thế giới đă được ấn định.

 

Gottfried Leibniz (1646-1716) coi thế giới thực sự này chỉ là một trong nhiều thế giới khả thể khác. Ông cố gắng chứng tỏ thế giới thực sự này là thế giới tốt đẹp nhất trong những thế giới khả thể, bằng việc biện minh cho đường lối của Thiên Chúa đối với loài người. Bởi thế ông cố gắng giải quyết vấn đề Thiên Chúa tốt lành và toàn năng lại tạo dựng nên một thế giới tràn đầy khổ đau và sự dữ.

 

Duy nghiệm thuyết (empiricism) chủ trương kinh nghiệm và nhận thức cảm quan là nguồn mạch và là nền tảng cuea kiến thức.

 

John Lock (1632-1704) cố gắng xác định nguồn gốc, phạm vi và tính cách vững chắc của kiến thức con người trong tác phẩm An Essay Concerning Human Understanding (1690). Ông cho rằng không có vấn đề tư tưởng bẩm sinh. Ông tin rằng khi con người sinh ra th́ trí khôn của họ như một tờ giấy trắng. Do đó, kinh nghiệm là nguồn mạch của tất cả mọi ư nghĩ và kiến thức.

 

George Berkeley (1685-1753) đặt vấn đề: “Nếu bất cứ những ǵ con người biết được chỉ là một tư tưởng th́ làm sao họ có thể bảo đảm là có một cái ǵ đó trên thế giới này tương hợp với tư tưởng đó?”, rồi giải quyết: “cái có là cái được nhận thấy”. Theo ông, không vật nào hiện hữu trừ phi nó được nhận thấy bởi một trí khôn nào đó. Các vật thể đều là những ư tưởng trong trí khôn và không hiện hữu biệt lập.

 

David Hume (1711-1776) khai triển triết thuyết của Locke và Berkeley đến độ liên tục ngờ vực về hết mọi sự. Ông chủ trương rằng mọi sự trong trí khôn bao gồm những thứ ấn tượng và ư tưởng, những ư tưởng phát xuất từ những ấn tượng. Bởi thế, một tư tưởng rơ ràng nếu không có vết tích ấn tượng đều vô nghĩa.

 

Siêu việt thuyết (transcendentism) do Immanuel Kant (1724-1804) khởi xướng ở Đức, người đă bị kích thích bởi ngờ vực thuyết (skepticism) của Hume và cố gắng hóa giải giữa duy lư thuyết và duy nghiệm thuyết.

 

Trong cuốn Critique of Pure Reason (1781) của ḿnh, ông đă bàn đến vấn đề quyền hạn và giới hạn của lư trí con người, xác định những ǵ con người hữu tri và những ǵ bất khả tri. Ông đă kết luận là trí khôn chỉ có thể hiểu biết những ǵ thấy được chứ không thể hiểu được những ǵ nội tại nơi chúng.

 

Ông cho rằng trí khôn đóng vai tṛ chủ động trong việc hiểu biết chứ không phải chỉ thụ động ghi nhận những dữ kiện của giác quan mà thôi. Trí khôn chủ động hiểu biết nhờ những loại hay thể thức căn bản của hiểu biết hoàn toàn biệt lập với kinh nghiệm và là những ǵ cần thiết làm cho kinh nghiệm có ư nghĩa.

 

Chúng ta có được kiến thức về những ǵ cảm nghiệm thấy, nhờ những thể thức và tác động của trí khôn, dựa vào cảm nghiệm của giác quan. Ông phủ nhận lập luận chứng minh Thiên Chúa hiện hữu theo kiểu cổ, v́ ông cho rằng những chứng minh ấy vượt ra ngoài khả năng của kinh nghiệm, do đó cũng vượt ra ngoài khả năng của trí khôn con người.

 

Duy vật thuyết (materialism): Đề cao yếu tố vật chất trên yếu tố tâm linh nơi siêu h́nh học, nơi sinh thể học, nơi giá trị thuyết, nơi lịch sử diễn nghĩa v.v.

 

Friedrich Hegel (1770-1831) phát triển một lư thuyết về sự biến đổi của lịch sử được gọi là biện chứng thuyết (dialetic), trong đó, cuộc xung khắc giữa những ǵ đối địch nhau đưa đến việc kiến tạo nên một thứ hiệp nhất mới để rồi sau đó tiến với chỗ nghịch chống nhau.

 

Karl Marx (1818-1883) đă biến biện chứng thuyết của Hegel thành duy vật biện chứng thuyết (dialectical materialism). Ông chủ trương rằng chỉ có vật chất mới là những ǵ có thực. Tất cả mọi ư tưởng đều được xây dựng trên nền móng kinh tế. Ông tin rằng biện chứng thuyết về cuộc xung khắc giữa những nhà tư bản và những kỹ nghệ viên lao động sẽ dẫn tới chỗ thiết lập cộng sản thuyết được gọi là chủ nghĩa xă hội để làm thể chế kinh tế và chính trị.

 

Thực lợi thuyết (utilitarianism): Jeremy Bentham (1748-1832) và John Stuart Mill (1806-1873) chủ trương rằng hạnh phúc nhất đối với nhiều người nhất là việc thử nghiệm đúng hay sai. Bởi thế, họ lập luận rằng tất cả mọi cơ cấu đang hiện hữu, nhất là luật lệ và chính quyền, cần phải được biến đổi để làm thỏa đáng việc thử nghiệm cái hạnh phúc nhất này.