y

 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

với Ư Hệ Âu Châu

 

  

T

ại sao Âu Châu hay văn minh Tây phương lại bị khủng hoảng đến băng hoạt và trở thành nguy hiểm như vị Giáo Hoàng Thần Học Gia Biển Đức XVI nhận định như thế, đă được vị Giáo Hoàng Triết Gia nhân bản Gioan Phaolô II đă phân tích trong tác phẩm cuối đời của ḿnh, “Hồi Niệm và Căn Tính” (phổ biến ngày 22/2/2005), một tác phẩm, qua nhan đề cho thấy rơ ư định nơi tác giả của nó muốn nhắn nhủ Âu Châu và văn minh Tây phương hăy thành thực phản tỉnh để lấy lại căn tính của ḿnh.

Theo Đức Gioan Phaolô II, sở dĩ Âu Châu (và từ Âu Châu lan đến toàn thế giới) đă đi đến thảm trạng này là v́ châu lục ấy đă phủ nhận căn tính Kitô giáo của ḿnh, phủ nhận Ơn Cứu Chuộc, bằng việc chấp nhận và sống theo ư hệ duy nhân bản sai lầm về con người, một ư hệ phát xuất từ Thời Minh Tri hay Chủ Nghĩa Minh Tri (Enlightenment) chủ trương duy lư, một thời đă bị ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng triết học trước đó của một triết gia người Pháp là Descartes.

 

Đúng thế, trong tác phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” 2005, (Chương 2 về “Những Ư Hệ của Sự Dữ”, ấn bản Anh ngữ, trang 7-12), vị giáo hoàng từng dạy triết lư ở Balan đă viết :

 

“Qua năm tháng, tôi càng ngày càng thâm tín rằng các thứ ư hệ sự dữ được cắm rễ sâu trong lịch sử tư tưởng triết học Âu Châu. Ở đây tôi cần phải đề cập tới một số khía cạnh của lịch sử Âu Châu, nhất là các xu hướng văn hóa chủ chốt của nó. Khi bức thông điệp về Chúa Thánh Thần được ban hành (biệt chú của người dịch: bức thông điệp được ngài kư ngày 18/5/1986), đă xẩy ra một số phản ứng tiêu cực từ một số thành phần ở Tây Phương. Cái ǵ đă thúc động những phản ứng ấy? Chúng xuất phát từ cùng nguồn mạch được gọi là chủ nghĩa Minh Tri Âu Châu trên hai thế kỷ trước đó, nhất là Minh Tri Pháp quốc, mặc dù không nói đến các kiểu Minh Tri khác như Anh, Đức, Tây Ban Nha và Ư. Chủ nghĩa Minh Tri ở Balan theo đường lối riêng của ḿnh. Tuy nhiên, Nga hoàn toàn thoát khỏi cuộc đột biến Minh Tri này. Ở Nga, cuộc khủng hoảng của truyền thống Kitô giáo xuất phát từ một hướng khác, được bùng lên vào đầu thế kỷ 20 một cách mănh liệt hơn nữa nơi h́nh thức của cuộc cách mạng Mat-xít vô thần cực đoan.

 

Để hiểu rơ hơn về hiện tượng này, chúng ta cần phải trở về với giai đoạn trước Thời Minh Tri, nhất là với cuộc cách mạng gây ra bởi tư tưởng triết lư của Descartes. Câu cogito, ergo sum (tôi nghĩ nên tôi là) là những ǵ đă làm biến đổi tận gốc rễ đường lối thể hiện triết học. Vào giai đoạn trước Descartes th́ triết lư, vấn đề phải nói là cogito (nghĩ tưởng) hay nói cách khác là cognosco (ư nghĩ), yếu tố thấp hơn esse (yếu tính) là yếu tố được coi là phải có trước. Thế nhưng, đối với Descartes, yếu tính lại là những ǵ thứ yếu, và ông cho cogito (nghĩ tưởng) là tiền hữu. Điều này chẳng những làm thay đổi chiều hướng triết lư hóa mà c̣n đánh dấu một cuộc dứt khoát loại trừ những ǵ triết lư vẫn có cho tới bấy giờ, nhất là triết lư của Thánh Tôma Aquinas được gọi là triết lư về esse (yếu tính). Trước đó, mọi sự đều được giải thích theo quan điểm yếu tính và việc giải thích mọi sự đều được căn cứ vào quan điểm này. Thiên Chúa, một Hữu Thể Toàn Măn (Ens subsistens) được tin là căn nguyên thiết yếu của hết mọi ens non subsistens, ens participatum, tức là của tất cả mọi vật được tạo thành, bao gồm cả con người. Câu cogito, ergo sum đă đánh dấu một cuộc thoát ly từ chính giới tuyến suy nghĩ ấy. Giờ đây ens cogitans (vật nghĩ tưởng) đă chiếm phần ưu thế. Sau Descartes, triết lư trở thành một khoa học thuần nghĩ tưởng: tất cả esse (yếu tính) – nơi cả thế giới tạo sinh lẫn Hóa Công – đều ở trong phạm vi của cogito (nghĩ tưởng), như những ǵ được chất chứa nơi tâm thức con người. Triết học bấy giờ tự cho ḿnh là các hữu thể như là nội dung của tâm thức, chứ không phải các hữu thể như là những ǵ hiện hữu tách biệt khỏi nó.

 

 “… Những diễn tiến về triết lư xẩy ra ở Tây Âu sau Thời Minh Tri. Trong các điều được nói tới, người ta nói về vấn đề ‘suy thoái của chủ nghĩa thực thể Tôma’, và vấn đề này được hiểu là bao gồm cả việc loại bỏ đi Kitô giáo là một thứ nguồn mạch cho việc triết lư hóa. Đặc biệt là ngay cả vấn đề có thể đạt tới Thiên Chúa cũng được xét lại. Theo lư lẽ của cogito, ergo sum th́ Thiên Chúa trở thành một yếu tố trong tâm thức của con người; Ngài không c̣n được coi là ư nghĩa tối hậu cho cái sum (là) của con người nữa. Ngài cũng chẳng c̣n là Ens subsistens hay ‘Hữu Thể Toàn Măn’ nữa, không c̣n là Đấng Hóa Công, là Đấng làm cho mọi sự hiện hữu, tệ nhất là Ngài không c̣n là Đấng ban ḿnh nơi mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Cứu Chuộc và mầu nhiệm ân sủng nữa. Vị Thiên Chúa của Mạc Khải không c̣n hiện hữu như  ‘Thiên Chúa của các triết gia’ nữa. Tất cả những ǵ c̣n lại chỉ là ư tưởng về Thiên Chúa mà thôi, một đề tài tùy tâm tưởng con người khám phá.

 

“Như thế, các nền tảng về ‘triết lư sự dữ’ cũng bị sụp đổ theo. Sự dữ, theo ư nghĩa thực thể th́ nó chỉ hiện hữu trong tương quan với sự thiện, nhất là với Thiên Chúa, Sự Thiện tối cao. Đó là sự dữ được Sách Khởi Nguyên nói tới. Chính từ quan điểm này mới có thể hiểu được nguyên tội, cũng thế, mới có thể hiểu được tất cả mọi cá tội. Sự dữ này đă được Chúa Kitô cứu chuộc trên Thập Tự Giá. Nói một cách chính xác th́ con người được cứu chuộc và thông phần vào sự sống của Thiên Chúa nhờ việc cứu độ của Chúa Kitô. Tất cả những điều ấy, toàn thể thảm kịch của lịch sử cứu độ ấy đă biến mất đối với chủ nghĩa Minh Tri. Chỉ c̣n lại một ḿnh con người mà thôi: một ḿnh con người đóng vai như là một tay làm nên lịch sử của họ cùng với văn minh của họ; một ḿnh con người đóng vai như là một kẻ quyết định điều thiện sự ác, như là một kẻ muốn hiện hữu và tác hành như thể không có Thiên Chúa etsi Deus non daretur.

 

Nếu con người có thể tự ḿnh quyết định, không cần Thiên Chúa, những ǵ là thiện và những ǵ là ác, th́ họ cũng có thể quyết định hủy diệt cả một nhóm người. Những quyết định kiểu ấy đă được thực hiện, chẳng hạn, bởi những kẻ cầm quyền Third Reich (biệt chú của người dịch: tức Chế Độ Nazi ở Đức 1933-1945, sau hai đế quốc trước đó là Đế Quốc Đức 1871-1918 và Đế Quốc Rôma Thánh 962-1806) bằng đường lối dân chủ, trong việc chỉ lạm dụng quyền bính của ḿnh để thực hiện những dự án gian ác của ư hệ Xă Hội Quốc Gia theo các nguyên tắc duy chủng tộc. Những quyết định tương tự cũng được thực hiện bởi đảng Cộng sản ở Nga Sô cũng như ở các xứ sở khác theo ư hệ Mát Xít. Đó là cái lư lẽ giành để diệt chủng người Do Thái, cùng các nhóm khác như nhân dân Romania, thành phần dân quê xứ Ukraine, và hàng giáo sĩ Chính Thống lẫn Công Giáo ở Nga, ở Belarus và cả ở bên ngoài rặng núi Urals (biệt chú của người dịch: một rặng núi ở Nga thường được coi là lằn biên phân chia ranh giới giữa Âu Châu và Á Châu). Cũng thế, tất cả những ai ‘không thuận lợi’ cho chế độ đều bị bách hại; chẳng hạn, thành phần không c̣n là chiến binh Tháng Chín 1939, những người lính thuộc Quân Đội Quốc Gia ở Balan sau Thế Chiến Thứ Hai, và những người thuộc thành phần trí thức không chấp nhận ư hệ Mát Xít hay Nazi. B́nh thường cuộc bách hại này là việc bị loại trừ về thể lư, nhưng đôi khi bị loại trừ về luân lư nữa, ở chỗ, con người không nhiều th́ ít bị cấm đoán hành sử các quyền lợi của ḿnh…”

 

Chưa hết, những ǵ Đức Gioan Phaolô II đă nhận định về hậu quả vô cùng thê thảm của chủ nghĩa Minh Tri liên quan đến hai chế độ độc tài trong thế kỷ 20 kèm theo những cuộc diệt chủng cũng trong thế kỷ này, vào cuối thế kỷ đă biến thành như cuộc biển động sóng thần Nam Á xẩy ra vào ngày 26/12/2004, một thiên tai đă kinh hoàng tàn sát trên 200 ngàn người cách đột ngột trong một thời gian rất ngắn. Ngài viết trong tác phẩm cuối cùng của ḿnh, “Hồi Niệm và Căn Tính”, ở Chương 2 về “Những Ư Hệ của Sự Dữ”, ấn bản Anh ngữ, trang 11, những ǵ liên quan tới một cuộc diệt chủng chung loài người (chứ không riêng một chủng tộc nào) như sau:

 

“Đến đây, chúng ta không thể câm lặng trước vấn đề ngày nay trở nên thảm khốc hơn bao giờ hết. Cuộc sụp đổ của các chế độ được xây dựng trên các ư hệ sự dữ (biệt chú của người dịch: theo tác giả nhận định ở phần trước đó là ‘ư hệ Xă Hội Quốc Gia’ ở Đức theo nguyên lư duy chủng tộc, và ‘ư hệ Mát Xít’ Cộng sản đặc biệt ở Nga) đă đi đến chỗ chấm dứt những h́nh thức diệt chủng vừa được đề cập tới ở những xứ sở liên hệ (biệt chú của người dịch: được tác giả liệt kê là ‘diệt chủng Do Thái, cùng các nhóm khác như nhân dân Romania, thành phần dân quê xứ Ukraine, và hàng giáo sĩ Chính Thống lẫn Công Giáo ở Nga, ở Belarus và ở bên ngoài rặng núi Urals’). 

 

“Tuy nhiên, vẫn c̣n có một cuộc diệt chủng về pháp lư đối với những con người đang được cưu mang nhưng chưa vào đời. Trong trường hợp này, cuộc diệt chủng ấy được ban bố bởi những thứ quốc hội được chọn bầu theo dân chủ (biệt chú của người dịch: ở đây vị tác giả muốn nhấn mạnh đến tính cách khác biệt giữa những chế độ chuyên chế độc tài sắt máu trong thế kỷ 20 với thể chế được gọi là tự do dân chủ nhân quyền), những thứ quốc hội nhân danh quan niệm tiến bộ về dân sự cho xă hội và cho toàn thể nhân loại.

 

Chúng ta cũng không thể thinh lặng trước những vi phạm trầm trọng khác đến việc làm hụt hẫng đi lề luật của Thiên Chúa. Tôi đang nghĩ tới, chẳng hạn, áp lực mănh liệt của Quốc Hội Âu Châu trong việc nh́n nhận các cuộc hợp hôn đồng tính như là một loại gia đ́nh khác, có quyền nhận con nuôi. Thật là hợp lư, thậm chí cần phải đặt vấn đề phải chăng đó không phải là công cuộc của một thứ ư hệ sự dữ khác hay sao, có lẽ c̣n tinh xảo và kín đáo hơn, có ư muốn khai thác chính nhân quyền để chống lại con người và đời sống gia đ́nh”.

 

Trước đó, trong tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của ḿnh được xuất bản vào năm 1994 (ở chương ‘What Has Become of The ‘History of Salvation’, ấn bản Anh ngữ, trang 50-53), vị giáo hoàng triết gia nhân bản Kitô giáo Gioan Phaolô II c̣n cho thấy căn nguyên của cuộc khủng hoảng văn hóa, của t́nh trạng phá sản đạo nghĩa ở riêng Tây Phương và chung thế giới hiện đại, để rồi từ đó, ngài đă mở đường máu cho con người như sau:

 

Tại sao tất những điều ấy xẩy ra? Căn nguyên của những ư hệ hậu Chủ Nghĩa Minh Tri này là ǵ? Câu trả lời dễ thôi, ở chỗ: nó xẩy ra là v́ việc phủ nhận Thiên Chúa như là Vị Hóa Công, từ đó phủ nhận Ngài như là nguồn mạch quyết định lành dữ. Nó xẩy ra là v́ việc phủ nhận những ǵ tối hậu tạo nên chúng ta là con người, tức là loại trừ quan niệm bản tính con người là một ‘thực tại được ban tặng’; vị trí của quan niệm này đă bị thay thế bằng một ‘sản phẩm tư tưởng’ được tư do h́nh thành và tự do khả hoán theo hoàn cảnh. Tôi tin rằng nếu t́m hiểu kỹ lưỡng hơn nữa về vấn đề này chúng ta có thể vượt ra ngoài biên giới Descartes nữa. Nếu chúng ta muốn nói một cách hợp t́nh hợp lư về thiện ác, chúng ta cần phải trở về với Thánh Tôma Aquinas, tức là trở về với loại triết lư hiện thể. Chẳng hạn, với phương pháp hiện tượng học, chúng ta có thể học hỏi những kinh nghiệm về luân lư, tôn giáo, hay đơn giản như việc làm người ra sao, để nhờ những kinh nghiệm ấy kiến thức của chúng ta càng thêm phong phú. Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng, tất cả những phân tích này đă mặc nhiên nhận thức thực tại về Hữu Thể Tối Cao cũng như thực tại về con người là một tạo sinh. Nếu chúng ta không bắt đầu từ những nhận thức theo ‘chủ nghĩa thực thể’ ấy chúng ta sẽ đi đến chỗ trống rỗng mà thôi”.

 

Căn cứ vào phân tích và nhận định của vị Giáo Hoàng triết gia nhân bản Gioan Phaolô II th́ cuộc khủng hoảng về văn hóa ở Âu Châu và t́nh trạng phá sản đức tin ở Tây phương càng ngày càng dữ dội và khủng khiếp là do cái ư hệ xuất phát từ cuộc cách mạng triết học vào thời Descartes ở Pháp quốc. Ư hệ cách mạng triết học của Descartes đầy t́nh cách Minh Tri tới độ như được “giác ngộ” này đă phát triển mạnh mẽ nhất ở Pháp, với nhóm triết gia nổi tiếng nhờ những tên tuổi lừng danh đă ảnh hưởng đến cuộc Cách Mạng Pháp 1789 là Rousseau (1712-1778) và Voltaire (1694-1778). Lịch sử chứng thực là Cuộc Cách Mạng Pháp này chẳng những từ đó đă hoàn toàn biến đổi bộ mặt chính trị và tôn giáo tại Pháp quốc (như được thấy nơi các cuộc cách mạng hậu chấn 1830, 1848 và 1870 tại nước này trong thế kỷ 19), mà c̣n ở chung cả Âu Châu, nơi mà, vào thế kỷ 20, đă phát xuất hai chế độ độc tài sắt máu và hai thế chiến I và II.

 

Thế nhưng, chính lúc con người “giác ngộ” bừng tỉnh cơn mê ấy, ở chỗ nhận thức được bản thân ḿnh, thấy được  phẩm vị cao quí của ḿnh và quyền lợi bất khả vi phạm của ḿnh, họ lại tiến đến chỗ bắt đầu đối chọi nhau, càng ngày càng tàn sát nhau hết sức dă man kinh hoàng, càng muốn trở thành bá chủ toàn cầu, chẳng những về phương diện kinh tế và chính trị, theo kiểu thực dân tân đế quốc, mà c̣n muốn làm chúa tể toàn quyền định đoạt mọi sự lành dữ… về phương diện luân lư và pháp lư nữa.