w

Biến Cố Thánh Mẫu Vô Nhiễm

Lộ Đức 1858

 

 

C

uộc Mẹ Maria hiện ra ở Lourdes miền tây nam Nước Pháp, vào năm 1858, với một em gái 14 tuổi, Bernadette Soubirous (được Đức Piô XI phong hiển thánh năm 1933, lễ kính ngày 16/4) 18 lần, thứ tự vào những ngày như sau: 11/2, 14/2, 18-19/2, 20-28/2, 1-2/3, 4-3, 25-3, 7-4, và 16-7, Lễ Đức Mẹ Xuống Tuyết hay Lễ Đức Mẹ Carmêlô.

           

- Lần nhất (11/2), Mẹ chỉ làm hiệu cho Bernadette đến lần hạt với Mẹ, nhưng Mẹ chỉ đọc chung kinh sáng danh thôi;

- Lần ba (18/2), Mẹ báo cho Bernadette biết: “Mẹ không hứa làm cho con hạnh phúc ở đời này mà là ở đời sau”;

           

- Lần sáu (21/2), Mẹ xin Bernadette “hăy cầu nguyện cho các tội nhân”;

           

- Lần tám (24/2), dân chúng thấy Bernadette qú lê gối đến bụi hồng, chỗ Mẹ đứng, mỗi bước mỗi sấp ḿnh xuống đất và quay lại phía họ mà kêu lên “Hăy thống hối! Hăy thống hối!”;

           

- Lần chín (25/2), Mẹ chỉ cho Bernadette suối nước và khuyên: “Hăy uống và tắm nước suối này”;

           

- Lần mười (26/2), Mẹ xin Bernadette “Hăy hôn đất thay cho các tội nhân”;

 

- Lần mười bốn (2/3), Mẹ yêu cầu xây lên một nguyện đường ở ngay nơi Mẹ hiện ra;

 

- Lần mười sáu (25/3), theo Bernadette cho biết, “Đức Mẹ đứng trên bụi hồng theo cách thế rất giống như trong Mẫu Ảnh Làm Phép Lạ” (như Mẹ đă xin chị Catherine Laboure làm năm 1830), và sau ba lần Bernadette ngỏ ư muốn biết tên của Mẹ là ǵ, Mẹ đă trả lời cho Bernadette: “Ta là Đấng đầu thai vô nhiễm nguyên tội”.   

 

Ở đây, chúng ta thấy các Biến Cố Thánh Mẫu có một sự liên hệ chặt chẽ với nhau. Nơi Biến Cố Thánh Mẫu Ban Ơn 1830, Mẹ chưa tự xưng ḿnh như ở Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức “Mẹ là Đấng hoài thai vô nhiễm tội”, nhưng Mẹ đă báo trước cái tác dụng và ảnh hưởng của đặc ân này, đó là phần rỗi của chung nhân loại và của chung loài người. Và chính v́ tác dụng của Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội này là cứu độ mà ở địa điểm của Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức mới có hiện tượng Mẹ chữa lành phần xác, chữa lành những dấu vết của nguyên tội nơi thân xác tro bụi và bệnh tật bất trị của con người.

 

Đó là lư do, như Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 1917 sau này liên quan tới ánh sáng nói chung (nhất là với phép lạ mặt trời quay trên không trung) và tước hiệu Mẹ Mân Côi, những yếu tố tự nhiên và siêu nhiên cho thấy uy quyền cứu độ vô địch của Mẹ thế nào, th́ Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức cũng thế, với tước hiệu Hoài Thai Vô Nhiễm và phép lạ gịng nước chữa lành vọt lên từ đất ở trong một hang động, đă cho thấy Mẹ là Mẹ của sự sống, của niềm hy vọng.

 

Trong 4 Linh Địa Thánh Mẫu nổi tiếng của Thời Điểm Maria là Ba Lê, La Salette, Lộ Đức và Fatima, chỉ ở Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức Mẹ Maria mới thực sự tỏ ra bản chất đầy ơn phúc của Mẹ nơi Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội qua việc Mẹ chữa lành về phần xác bị bệnh tật bất trị của con người. Việc Mẹ chữa trị này, cho đến nay trong cả hằng ngàn vụ được tường tŕnh, Giáo Hội mới chính thức công nhận 67 vụ được cho là phép lạ thực sự, chẳng những cho thấy con người dù văn minh tân tiến đến đâu chăng nữa, cũng không thể cứu được phần xác của con người, mà c̣n cho thấy quả thực có Trời Cao, có sự hiện diện thần linh trong lịch sử loài người, có Ơn Cứu Độ từ trên cao, một thực tại mà nếu con người chối bỏ bằng thái độ duy nhân bản, duy ngă độc tôn tôn thờ thần tôi của ḿnh, phụng sự “nữ thần tự do” của ḿnh, họ chắc chắn và vĩnh viễn sẽ không thể nào t́m được b́nh an chân  thực, trái lại, họ c̣n tán sát lẫn nhau, như những ǵ sẽ xẩy ra vào thế kỷ 20, và đă được báo động nơi các cuộc cách mạng ở Pháp vào những năm 1830, 1848 và 1870.

 

Trong cuốn St. Marie Bernadette Soubirous, Ep. Ad P. Gondrand, a 1861: cf. A. Ravier, Les Eùcrits de Sainte Bernadette, Paris 1961, trang 53-59, chúng ta đọc thấy những ǵ được chính Chị Thánh Bernadette thuật lại về Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức nguyên văn như sau:

 

Ngày kia tôi cùng với hai đứa con gái khác đi xuống bờ sông Gave, th́ th́nh ĺnh tôi nghe thấy một cái ǵ đó như tiếng gió vi vu. Tôi ngoảnh đầu lại hướng về phía đồng cỏ gần bờ sông, song cây cối vẫn lặng lẽ, rơ ràng là tiếng động không xuất phát từ chúng. Đoạn tôi nh́n lên và thấy ngay trong động đá một vị nữ lưu mặc chiếc áo trắng dễ thương với chiếc giây thắt óng ánh. Trên chân của bà mỗi bên đều có một bông hồng mầu vàng nhạt, cùng mầu với những hột ở tràng chuỗi mân côi của bà.

 

Thấy thế tôi giụi hai mắt, nghĩ rằng tôi đang thấy một cái ǵ đó, và tôi xỏ tay vào viền quần đựng cỗ tràng hạt. Tôi muốn làm dấu thánh giá, nhưng tôi không thể làm được, và tay tôi trở nên rụng rời. Bấy giờ vị nữ lưu này làm dấu thánh giá và tôi cố làm dấu như bà, mặc dù tay tôi run lẩy bẩy. Thế là tôi bắt đầu lần hạt mân côi, trong khi đó vị nữ lưu này lấy ngón tay đưa hạt chuỗi mà không nhép miệng ǵ cả. Khi tôi hết đọc Kinh Kính Mừng th́ bà liền biến đi.

 

“Tôi hỏi hai cô bạn của ḿnh xem họ có thấy được điều ǵ chăng, họ nói không. Dĩ nhiên họ muốn biết tôi đă làm ǵ, và tôi cho họ biết rằng tôi đă thấy một vị nữ lưu mặc bộ áo trắng đẹp, mặc dù tôi không biết bà ấy là ai. Tôi dặn họ đừng nói điều ǵ về câu chuyện này, và họ cho tôi rằng tôi ngớ ngẫn với những thứ ấy. Tôi nói là họ sai rồi, và tôi đă cảm thấy bị thúc đẩy trở lại nơi này vào hôm Chúa Nhật sau đó…

 

“Lần thứ ba tôi đến đó th́ vị nữ lưu này đă mở miệng nói với tôi và xin tôi hăy trở lại hằng ngày trong ṿng 15 ngày. Tôi nói tôi sẽ làm như thế, đoạn bà bảo tôi rằng bà muốn tôi nói với các vị linh mục hăy xây cất lên một nguyện đường ở đó. Bà cũng bảo tôi hăy uống nước ở rạch nước. Tôi đă đến con sông Gave là gịng nước duy nhất tôi thấy. Thế rồi bà làm tôi nhận ra rằng bà không nói về con sông Gave, mà là một tia nước nhỏ gần chỗ tôi đứng. Tới nơi, tôi chỉ thấy có một vài giọt nước, c̣n toàn là bùn. Tôi chụm tay lại để hớt lấy một chút nhưng không được, tôi liền cào đất lên. Tôi cố t́m lấy một ít giọt nước, nhưng măi vào lần thứ bốn tôi mới có đủ lượng nước để uống. Đoạn người nữ biến đi và tôi trở về nhà.

 

“Tôi đă trở lại đấy 15 ngày, trừ một ngày Thứ Hai và một ngày Thứ Sáu, và lần nào bà cũng hiện ra và bảo tôi t́m một rạch nước mà tắm cũng như để xem chuyện các vị linh mục xây nguyện đường ở đó thế nào. Bà nói tôi cũng phải cầu nguyện nữa để cầu cho tội nhân ăn năn cải thiện đời sống. Tôi đă hỏi bà nhiều lần về ư định của bà, song bà chỉ mỉm cười. Sau cùng, với cánh tay giang ra và đôi mắt ngước lên trời, bà bảo tôi rằng bà là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội.

 

“Trong 15 ngày đó, bà đă nói với tôi ba điều bí mật, nhưng tôi không được phép nói với ai cả, và tôi vẫn giữ cho tới nay”.

 

Trong chuyến Tông Du cuối cùng của ḿnh, chuyến  tông du 104, chuyến tông du đến Lộ Đức 15/8/2004 – ĐTCGPII đă ban Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật ở Prairie de la Ribère như sau:

 

Từ tảng đá ở động Massabielle, Vị Trinh Nữ này đă hiện ra với Bernadette. Tỏ ḿnh ra như Đấng đầy ơn phúc của Thiên Chúa, Mẹ đă kêu gọi thống hối và nguyện cầu. Mẹ đă chỉ cho Bernadette một mạch nước, và xin em uống mạch nước này. Mạch nước mới mẻ ấy đă trở thành một trong những biểu hiệu của Lộ Đức: một biểu hiệu của sự sống mới được Chúa Kitô ban cho tất cả những ai hướng về Người. Kitô Giáo thực sự là một suối nước sự sống, và Mẹ Maria là bảo quản viên đầu tiên của suối nước này. Mẹ chỉ nó cho tất cả mọi người thấy, bằng cách kêu mời họ từ bỏ cái kiêu hănh của ḿnh mà học sống khiêm hạ, nhờ đó họ mới có thể kín múc được t́nh thương của Con Mẹ và từ đó mới cùng nhau hoạt động cho bừng lên một nền văn minh yêu thương”.