y

Biến Cố Thánh Mẫu Tôn Vinh trong Giáo Hội

 

T

 

hời Điểm Maria chẳng những được nhận ra bằng điềm trời là các cuộc Mẹ Maria hiện ra liên tục ở Âu Châu và liên hệ với nhau như vừa được tŕnh bày, mà c̣n qua cả ở trong ḷng Giáo Hội và từ Giáo Hội nữa, qua việc Giáo Hội, cũng trong chính Thời Điểm Maria, đă tự động tuyên bố những tín điều về Mẹ, hay thiết lập các Lễ về Mẹ, hoặc phong thánh cho các vị Tông Đồ Thánh Mẫu.

 

Những tín điều về Mẹ Maria gồm có: tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa, tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh, tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, tín điều Mẹ Maria Mông Triệu Cả Hồn Lẫn Xác, và tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội.

 

Để có một cái nh́n tổng quát và đầy đủ các tín điều hay tước hiệu về Mẹ Maria, xin trưng dẫn toàn bộ giáo huấn  về Thánh Mẫu của Giáo Hội theo thứ tự dưới đây.

 

Tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa

 

Tín điều Thánh Mẫu đầu tiên làm nền tảng cho toàn bộ Thánh Mẫu học này đă được Công Đồng Chung Eâphêsô tuyên tín năm 431 là:

 

“Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (theotokos) (v́ Mẹ đă hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt)”. (DS 252 hay “The Christian Faith”,  edited by J. Neuner, SJ, và J. Dupuis, SJ,  revised edition, first published by Theological Publications, trang 149)

 

Tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh

 

Tín điều Thánh Mẫu thứ hai này, một tín điều, cho đến nay, vẫn c̣n bị anh em Kitô hữu Tin Lành kịch liệt tấn công, đă được Công Đồng Latêran (do Đức Thánh Cha Martin I triệu tập với sự tham dự của 105 vị giám mục ở Ư và Phi Châu) tuyên tín năm 649, như sau:

“Khốn cho những ai không theo các vị Nghị Phụ thánh đức tuyên xưng một cách chân thực và xác đáng rằng Đức Maria, trinh nguyên và vô nhiễm, là Mẹ Thiên Chúa, v́ Mẹ đă thực sự thụ thai chính Thiên Chúa Ngôi Lời, Đấng được Thiên Chúa Ngôi Cha hạ sinh trước các kỳ thời, bởi Chúa Thánh Thần mà không cần đến hạt giống loài người, và đă sinh ra Người hoàn toàn không bị hư hại ǵ, t́nh trạng đồng trinh của Mẹ sau khi sinh con cũng không hề bị sứt mẻ”. (DS 503 hay “The Christian Faith”, như trên, trang 166)

 

Tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội

 

Tín điều Thánh Mẫu thứ ba gây sôi nổi trong giới thần học gia nổi tiếng thánh đức của Giáo Hội này, trong đó có cả vị Tiến Sĩ Thiên Thần Tôma Aquinas, được Đức Piô IX long trọng tuyên bố bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus” vào ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm, 8/12/1854, rằng:

 

“Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin Công Giáo và phát triển Kitô Giáo; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của ḿnh, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lư cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu thai của ḿnh, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đă được ǵn giữ vô nhiễm khỏi mọi t́ vết của nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, v́ thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”. (DS 2803 hay “The Christian Faith”, như trên, trang 204)

 

Tín điều Mẹ Maria Mông Triệu Cả Hồn Lẫn Xác

 

Tín điều Thánh Mẫu thứ 4 này đă được Đức Piô XII long trọng tuyên bố bằng tông hiến “Munificentissimus Deus” ngày Lễ Kính Các Thánh, 1/11/1950, như sau:

 

“Để tôn vinh Thiên Chúa toàn năng là Đấng đă ban muôn vàn ơn lành đặc biệt của Ngài trên Trinh Nữ Maria, để tôn kính Con Ngài là Vua muôn đời, Đấng đă chiến thắng tội lỗi và sự chết, để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh hơn, và để toàn thể Giáo Hội hân hoan phấn khởi; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của ḿnh, Tôi công bố, tuyên xưng và xác nhận như là một tín điều được Thiên Chúa mạc khải: Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Thiên Chúa, Đức Maria Trinh Nguyên, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của ḿnh, đă được mang lên hưởng vinh quang trên trời cả thân xác lẫn linh hồn”. (DS 3903 hay “The Christian Faith”, như trên, trang 207)

 

Tóm lại, 4 Tín Điều Thánh Mẫu đă cho thấy toàn diện Vị Thánh Mẫu của chúng ta trong Dự Aùn Cứu Độ và Công Cuộc Cứu Độ của Thiên Chúa. Trước hết, Mê đă được Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa, và chính vị được làm Mẹ Thiên Chúa mà cả con người Mẹ muôn đời đă được Thiên Chúa chiếm ngự, với linh hồn Mẹ được Vô Nhiễm Nguyên Tội từ lúc vừa được hoài thai trên đời này, với thân xác của Mẹ trọn đời Trinh Nguyên, và với cả hồn lẫn xác được Mông Triệu về trời hiệp thông thần linh với Thiên Chúa là Đấng đă làm cho Mẹ những sự trọng đại.

 

Tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội

 

Tước hiệu Thánh Mẫu này được Đức Phaolô VI long trọng tuyên bố ngay trong buổi họp Công Đồng Chung Vaticanô II để ban hành Hiến Chế Tín Lư về Bản Chất Giáo Hội Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân) vào ngày 21/11/1964, như sau:

 

“Khi chúng ta xét đến những liên hệ chặt chẽ gắn bó Đức Maria và Giáo Hội, như những mối liên hệ này đă được diễn đạt hết sức rơ ràng trong Hiến Chế Công Đồng này, những mối liên hệ khiến chúng ta phán quyết, trong giây phút rất long trọng này đây, đặc biệt rất thích đáng để làm măn nguyện một ước vọng, một ước vọng chúng tôi bộc lộ ở vào lúc kết thúc buổi họp cuối này, và cũng là ước vọng của rất nhiều vị Nghị Phụ, khẩn khoản yêu cầu là trong Công Đồng đây, vai tṛ từ mẫu mà Đức Thánh Trinh Nữ Maria thực hiện đối với dân Kitô Giáo cần phải được công bố bằng những từ ngữ rơ ràng. V́ lư do này, chúng tôi thấy rằng, trong cuộc họp công khai này, chúng tôi phải chính thức công bố tước hiệu mà Đức Trinh Nữ Maria cần được tôn kính, tước hiệu đă được đệ xin từ nhiều nơi trong Giáo Hội hoàn vũ, và cũng là một tước hiệu đối với chúng tôi đáng chấp nhận và thỏa ḷng cách đặc biệt; v́ tước hiệu này mang lại một cách xác thực tuyệt vời vị trí hiển nhiên xứng hợp với Mẹ Thiên Chúa trong Giáo Hội được Công Đồng này đă công nhận. Bởi thế, để vinh danh Đức Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội, tức là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân lẫn mục tử, thành phần gọi Người là một Người Mẹ rất yêu dấu; và v́ thế chúng tôi truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo hăy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm kính tôn hơn nữa và hăy nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi rất ngọt ngào này”. (“Theotokos”, Michael O’Carroll, C.S.Sp, Michael Glazier, Inc., third revised edition, 1988, trang 251)

 

Nếu căn cứ vào kiểu cách Đức Phaolô VI công bố tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội này th́ có khác ǵ với lần Đức Piô IX công bố tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội và lần Đức Piô XII công bố tín điều Mẹ Maria Lên Trời Cả Hồn Lẫn Xác. V́ Đức Phaolô VI cũng dùng đến quyền bính tối cao của ḿnh, chẳng những “công bố Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội” mà c̣n “truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo” phải “kính tôn” Mẹ và “cầu nguyện” với Mẹ “bằng tên gọi rất ngọt ngào này” nữa. Và việc Đức Phaolô VI đă “công bố” và “truyền” làm như thế không phải chỉ bằng một văn kiện, mà là bằng lời nói sống động ngay trước mặt toàn thể hàng giáo phẩm thế giới đang tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành phần đại diện cho toàn thể Dân Chúa. Nếu “Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội” được thẩm quyền tối cao của Giáo Hội công bố một cách long trọng chưa từng có như thế, th́ điều công bố này lại có thể sai lầm được chăng, và có thể phủ nhận và không đáng tin chăng? Do đó, “Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội”, theo cách thức và ngôn từ công bố của Đức Phaolô VI, cũng có thể mang một tính chất quan trọng và thiết yếu như các Tín Điều Thánh Mẫu chính thức khác.

 

Bản Tuyên Xưng Đức Tin do Thánh Bộ Phụ Trách Tín Lư Đức Tin phác họa và phổ biến ngày 9/1/1989 cho các vị có trách nhiệm liên quan đến các chân lư đức tin và luân lư, có đoạn thứ hai về việc:

 

“Tôi phải lấy cả ư muốn lẫn trí khôn thuận phục các giáo huấn do Giáo Hoàng hay Giám Mục Đoàn công bố khi các ngài thực hành Huấn Quyền chính thức của ḿnh, cho dù các ngài không có ư công bố những giáo huấn này bằng một hành động dứt khoát” (đoạn 2, Tông Thư Motu Proprio: “Ad Tuendam Fidem” của ĐTC Gioan Phaolô II, L’Osservatore Romano, bản Anh Ngữ, số 28/1550, 15/7/1998).

 

Nếu căn cứ vào đoạn thứ hai của Bản Tuyên Xưng trên đây, th́ việc Đức Thánh Cha Phaolô VI công bố tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội, một tước hiệu nói lên chính thực tại của vai tṛ Mẹ Maria thực sự là Mẹ của Giáo Hội, cũng là một đối tượng của Đức Tin, như các Tín Điều Thánh Mẫu khác.

 

Giáo lư Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc

 

Giáo lư Thánh Mẫu này tuy chưa được Giáo Hội chính thức long trọng tuyên bố thành tín điều như 4 tín điều Thánh Mẫu trên đây. Tuy nhiên, Đức Gioan Phaolô II cũng đă công nhận và tŕnh bày vai tṛ cộng tác của Mẹ trong dự án cứu độ của Thiên Chúa cũng như trong công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô, qua bài giáo lư (trong loạt 70 bài vào thời khoảng 6/9/1995-12/11/1997) về Mẹ, hôm Thứ Tư ngày 9/4/1997, như sau:

 

“Từ ngữ ‘cộng tác viên’ áp dụng cho Mẹ Maria đ̣i có một ư nghĩa đặc biệt. Việc các tín hữu cộng tác trong ơn cứu chuộc xẩy ra sau biến cố Canvê, một biến cố sinh hoa kết trái do nỗ lực nguyện cầu và hy sinh của họ. C̣n Mẹ Maria đă cộng tác trong chính biến cố này và với vai tṛ làm mẹ; bởi thế, việc cộng tác của Mẹ bao hàm toàn thể công cuộc cứu độ của Chúa Kitô. Chỉ có một ḿnh Mẹ đă được liên kết vào hiến tế cứu chuộc bằng cách này, một hiến tế mang ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Hiệp nhất với Chúa Kitô và tùy thuộc vào Người, Mẹ đă hợp tác để chiếm lấy ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Vai tṛ làm cộng sự viên của Đức Trinh Nữ bắt nguồn từ thiên mẫu chức của Mẹ… Việc cộng tác đặc thù của Mẹ Maria vào dự án cứu độ có một ư nghĩa như thế nào? Điều này cần phải t́m thấy nơi ư định đặc biệt của Thiên Chúa đối với Mẹ Chúa Cứu Thế, nhân vật mà vào hai trường hợp, một ở tiệc cưới Cana và một ở chân Thập Giá, Chúa Giêsu đă ngỏ lời như với một ‘Bà’ (x.Jn.2:4;19:26). Mẹ Maria đă liên kết trong công cuộc cứu chuộc như một người đàn bà. Tạo dựng nên con người ‘có nam có nữ’ (x.Gn.1:27), Chúa cũng muốn đặt một Tân Evà bên cạnh một Tân Adong trong việc cứu độ. Cha mẹ đầu tiên của chúng ta đă chọn con đường tội lỗi như là một cặp vợ chồng; Con Thiên Chúa và việc cộng tác của Mẹ Người cũng có nhau để tái thiết lập gịng giống loài người theo phẩm giá nguyên thủy của nó… Công Đồng đă nghĩ đến vấn đề tín lư này và nhận làm của ḿnh khi nhấn mạnh đến việc đóng góp của Đức Trinh Nữ chẳng những vào việc hạ sinh Đấng Cứu Thế, mà c̣n vào sự sống của Nhiệm Thể Người nữa qua các thế hệ cho đến lúc ‘cánh chung’: nơi Giáo Hội Mẹ Maria ‘đă cộng tác’ (x.Lumen Gentium, đoạn 63) và Mẹ đă ‘cộng tác’ trong công cuộc cứu độ (cùng nguồn, đoạn 53)… Hơn nữa, Công Đồng Chung Vaticanô II tŕnh bày Mẹ Maria chẳng những như ‘Mẹ của Đấng Cứu Chuộc thần linh’, mà c̣n là ‘cộng tác viên quảng đại một cách đặc biệt’, Mẹ ‘đă cộng tác bằng đức tuân phục của Mẹ, bằng đức tin, đức cậy và đức mến bừng cháy của Mẹ trong công cuộc của Chúa Cứu Thế’. Công Đồng c̣n nhắc lại rằng hoa trái cao qúi của việc cộng tác này là thiên chức làm mẹ phổ quát của Mẹ: ‘V́ lư do này, Mẹ là mẹ của chúng ta theo trật tự ân sủng’” (L’Osservatore Romano, bản Anh Ngữ, số 16/1487, 16-4-1997, trang 7).

 

Đă có 500 vị giám mục, 40 vị hồng y và mấy triệu tín hữu, trong đó có Mẹ Têrêsa Calcutta, đồng kư tên đệ tŕnh Đức Thánh Cha để xin ngài công bố tín điều Mẹ Maria Là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, Là Đấng Trung Gian Aân Sủng và Là Đấng Biện Hộ Cho Dân Chúa. Nếu Biến Cố Paris và Lộ Đức liên quan đến tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội th́ tước hiệu và tác dụng thần năng vô địch của tước hiệu “Ta là Đức Mẹ Mân Côi” trong Biến Cố Fatima cũng rất có thể sẽ liên quan đến tín điều Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc. Biết đâu việc công bố Tín Điều Thánh Mẫu cuối cùng này nằm ở trong Bí Mật Fatima phần thứ ba, phần chỉ có Đức Thánh Cha được đọc, tức phần thuộc về phần nhiệm của riêng ngài, nên không một vị giáo hoàng nào (Gioan XXIII, Phaolô VI và Gioan Phaolô II) sau khi xem xong đă cảm thấy cần phải công bố nội dung của nó.

 

Hai Tín Điều Thánh Mẫu trong Thời Điểm Maria

 

Trong 4 tín điều này, hai tín điều đầu được Giáo Hội tuyên tín cách nhau 118 năm trong Thời Giáo Phụ thuộc 7 thế kỷ đầu của Kitô Giáo, c̣n 2 tín điều tiếp theo lại được thẩm quyền Giáo Hoàng, chỉ trong thời khoảng 96 năm, trong thế kỷ 20 và 21, (cách 2 tín điều trước trên 1000 năm). Sở dĩ 2 tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời, chưa kể tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội cũng có tính cách không thua ǵ một tín điều, là “dấu chỉ thời đại” rơ ràng và mạnh mẽ hơn nữa cho thấy Thời Điểm Maria, bởi v́, so với hai tín điều đầu, Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh, Giáo Hội chỉ tuyên tín khi có lạc giáo mà thôi, trong khi 2 tín điều sau và tước hiệu Mẹ Giáo Hội là do Giáo Hội tự động “nhận biết và yêu mến Mẹ”.

 

Chẳng hạn như tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa được tuyên tín là v́ lạc thuyết Lưỡng Ngôi, một lạc thuyết được khai triển thêm bởi vị thượng phụ giáo chủ (từ năm 428) ở Antiôkia là Nestôriô (?-450), thành lạc thuyết Nestorianism, chủ trương Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Đức Kitô (khristotokos) mà thôi, chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa (theotokos), v́ theo Nestoriô, Đức Kitô là một con người được kết hợp với thần tính của Ngôi Lời Thiên Chúa, và Ngôi Lời Thiên Chúa ở nơi Đức Kitô “như ở trong một đền thờ”.

 

Trường hợp tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh cũng thế, Giáo Hội tuyên tín vào dịp phi bác lạc thuyết Nhất Ư (Monothelitism), một lạc thuyết biến thiên từ lạc thuyết Nhất Tính (Monophysitism) nơi Chúa Giêsu Kitô. Theo lạc thuyết Nhất Tính, như Eutyches (378-454), một đan sĩ ở Contantinôpôli đă chấp nhận và hết ḿnh ủng hộ, chủ trương rằng nhân tính của Chúa Giêsu Kitô bị tiêu biến trong thần tính của Người khi hiệp nhất với thần tính, do đó, nơi Người chỉ c̣n lại một bản tính duy nhất. C̣n theo lạc thuyết Nhất Ư, do vị thượng phụ giáo chủ Contantinôpôli (610-638 AD) là Sergius chủ trương, với mục đích nhằm tái hợp các giáo hội đang bị phân rẽ v́ lạc thuyết Nhất Tính, th́ ông công nhận Chúa Giêsu Kitô có cả hai bản tính, thần tính và nhân tính, tuy nhiên, ông lại cho rằng, nơi Người chỉ có một hành động duy nhất (mono-energism) và chỉ có một ư muốn duy nhất (monothelitism). Nếu nơi Chúa Giêsu Kitô chỉ có một hành động và một ư muốn duy nhất như Sergius quan niệm như thế, th́ ông vẫn mặc nhiên cho rằng Người chỉ có duy một bản tính chứ không phải có hai bản tính. Trong bản phi bác lạc thuyết Nhất Ư của Sergius này, Công Đồng Lateranô năm 649 đă dành riêng khoản thứ 3 (trong 16 khoản), một khoản liên quan trực tiếp đến tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh như đă được trích dẫn trên đây.

 

Trong khi hai Tín Điều Thánh Mẫu đầu tiên là tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa và tín điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh được Giáo Hội tuyên tín chỉ v́ có trường hợp lạc thuyết để bảo vệ Đức Tin Tông Truyền của Giáo Hội, bằng những thành ngữ nghiêm trọng “tuyệt thông cho những ai” hay “khốn cho những ai”, th́ 2 Tín Điều Thánh Mẫu c̣n lại là tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời và Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội, và tước hiệu Mẹ Giáo Hội, lại được Giáo Hội tự động công bố như chỉ để tỏ ra “nhận biết và yêu mến Mẹ”, được diễn tả qua các thành ngữ “để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa”, hay “để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh hơn” hoặc “để vinh danh Đức Trinh Nữ”, đúng như lời tiên đoán của thánh Louis Grignion de Montfort đă được nhắc đến từ đầu:

 

“Vào lần đến lần thứ hai của Chúa Giêsu Kitô, Mẹ Maria phải được Thánh Linh làm cho nhận biết và tỏ hiện, để qua Mẹ, Chúa Giêsu Kitô cũng được nhận biết, mến yêu và phục vụï”.

 

Ngoài ra, trong Thời Đại Maria này, Giáo Hội, qua Đức Thánh Cha Piô XII, cũng đă thực hiện hai việc liên quan trực tiếp đến Đức Mẹ nữa, đó là việc ngài cho mừng lễ Trái Tim Đức Mẹ trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ cũng như lập lễ Đức Mẹ Nữ Vương, và việc ngài phong hiển thánh cho hai vị Thánh của Mẹ, thánh Louis Marie Grignion De Montfort ngày 20/7/1947, và thánh Catherine Labuare ngày 27/7/1947.

 

Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria:

 

Thật ra, theo văn thư Acta Apostolicae Sedis của thánh bộ Lễ Nghi ban hành ngày 4/5/1944, lễ Trái Tim Đức Mẹ đă được bắt đầu mừng từ thời Trung Cổ và được Giáo Hội chấp nhận vào đầu thế kỷ thứ 19. Đức Thánh Cha Piô VII (1800-1823) đă cho phép các giáo phận hay ḍng tu nào xin mừng lễ Khiết Tâm Mẹ sẽ được cử hành vào ngày Chúa Nhật sau tuần bát nhật Lễ Đức Mẹ Mông Triệu. Sau đó, Lễ Trái Tim Mẹ được lan rộng khắp nơi, và Đức Thánh Cha Piô IX (1848-1878) đă chính thức cho vào niên lịch phụng vụ hằng năm của Giáo Hội.

 

Cho đến ngày 24/10/1940, chị Lucia đă viết thơ tŕnh lên Đức Thánh Cha Piô XII điều “yêu cầu” của Mẹ liên quan đến việc Mẹ sẽ làm cho nước Nga trở lại, và cuối thơ chị có xin Đức Thánh Cha cho mừng chung trong Giáo Hội hoàn vũ lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ như là một trong những lễ chính.

 

Phần Đức Thánh Cha Piô XII, cũng trong văn thư của thánh bộ Lễ Nghi trên đây, “để ghi nhớ cuộc hiến dâng này, (cuộc hiến dâng Giáo Hội hoàn vũ và cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ mà Đức Thánh Cha đă thực hiện ngày 31/10/1942), Ngài đă quyết định cho Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Lễ này sẽ được cử hành mỗi năm vào ngày 22 tháng 8, thay ngày bát nhật lễ Đức Mẹ Mông Triệu, với bậc lễ hạng nh́…”.

 

Lễ Mẹ Nữ Vương:

 

Lễ Mẹ Nữ Vương được Đức Thánh Cha Piô XII lập trong Năm Thánh Mẫu, vào ngày lễ Đức Mẹ Thiên Chúa 11/10/1954. Qua bức thông điệp Ad Coeli Reginam, Đức Thánh Cha nhắc lại việc đội triều thiên cho Mẹ năm 1946 và quyết định:

 

“Ta ban hành và thiết lập Lễ Maria Nữ Vương, được mừng chung Giáo Hội hằng năm vào ngày 31/5”.

 

Cũng trong thông điệp này, Đức Thánh Cha c̣n đề cập đến:

 

“Việc hiến dâng loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ phải được lập lại trong ngày này… Với niềm tin tưởng hơn trước, mọi người hăy đến với ngai ṭa t́nh thương và ân sủng của Nữ Vương và Từ Mẫu để xin trợ giúp trong cơn quẫn bách, ánh sáng trong lúc tối đen, và sức mạnh trong lúc đau thương khóc lóc…” (TWTAF3:395).

 

Sau Công Đồng Chung Vaticanô II, theo tinh thần canh tân phụng vụ, một số Lễ kính Đức Mẹ cũng được thay đổi, trong đó có lễ Trái Tim Mẹ và lễ Mẹ Nữ Vương. Lễ Mẹ Nữ Vương được dời xuống ngày 22/8 thay v́ 31/5 hằng năm, và lễ Trái Tim Mẹ được dời lên ngày Thứ Bảy ngay sát Thứ Sáu lễ Thánh Tâm Chúa trong tuần lễ Kính Ḿnh Máu Thánh Chúa.

 

Thánh Louis Marie Grignion De Montfort (1673-1716)

 

Thánh nhân là vị thánh lập hai ḍng tu cho Giáo Hội, một nữ và một nam. Ḍng nữ là ḍng Nữ Tử Đấng Khôn Ngoan, được lập năm “3, và ḍng nam là ḍng Thừa Sai Mẹ Maria (cũng gọi là ḍng các Linh Mục Và Huynh Đệ Thánh Monfort). Ngài cũng là tác giả của tác phẩm thời danh Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria, một tác phẩm mà chính ngài đă tiên đoán về số phận của nó: “Tôi thấy trước một cách rơ ràng là những con mănh thú sẽ dùng nanh vuốt qủi quyệt của chúng để sâu xé bản văn nhỏ bé này… hay, ít là dấu nó đi trong bóng tối vắng lặng nào đó không lộ ra được” (sách số 114). Quả nhiên, măi đến năm 1842, cuốn sách này mới được một linh mục ḍng của ngài t́nh cờ t́m thấy trong một thùng sách cũ ở tu viện Laurent- sur-Sèvre.

 

Đức Thánh Cha Piô XII đă nói về ngài khi phong thánh cho ngài vào năm 1947 như sau: “Sùng Kính Mẹ Maria là sức mạnh mănh liệt trong công cuộc tông đồ của ngài và bí mật tuyệt diệu nhất của ngài trong việc lôi kéo các linh hồn và ban Chúa Giêsu cho họ”.

 

Thánh Catherine Labuaré (1806-1876)

 

Nữ Thánh Nhân là chị nữ tu ḍng Nữ Tử Bác Ái thánh Vinh-Sơn Phao-Lô, được Đức Mẹ hiện ra vào năm 1830 và trao cho 3 sứ mệnh, như Đức Thánh Cha Piô XII đă nói về chị trong dịp phong thánh cho chị ngày 27/7/1947, đó là: “Phục hồi ḷng sốt sắng đă bị nguội lạnh trong hai hội ḍng bác ái của chị; nhận ch́m toàn thể thế giới vào trận lụt đầy những mẫu ảnh kim loại nho nhỏ là những ǵ chứa đựng các ơn xót thương của Đấng Vô Nhiễm Tội ban cho cả hồn lẫn xác; lập một hội đạo đức ‘Con Cái Mẹ Maria’ để bảo toàn và thánh hóa giới phụ nữ trẻ”.

 

Thiếu Nhi Fatima Phanxicô (1908-1919) và Giaxinta (1910-1920) đă được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong Chân Phước ngày 13/5/2000, và biết đâu vào dịp kỷ niệm 100 Năm Biến Cố Fatima 2017, Giáo Hội tôn phong hai vị Chân Phước trẻ nhất Giáo Hội này lên bậc Hiển Thánh!