Mănh Thú Duy Nhân

   Đoạn tôi thấy có một con mănh thú khác từ đất tiến lên; nó có hai sừng như con chiên đực chưa thiến và nói năng như con rồng. Nó đă dùng quyền bính của con mănh thú thứ nhất để khơi dậy những lợi lộc cho ḿnh, bằng cách làm cho thế giới và mọi dân cư trên thế giới sùng bái con mănh thú thứ nhất, con mănh thú mang vết trọng thương đă được chữa lành. Nó đă thực hiện những điều kỳ diệu; đến nỗi nó có thể làm cho lửa từ trời xuống trái đất trước mặt người ta. Bởi những điều kỳ diệu nó đă thực hiện bằng quyền bính của con mănh thú thứ nhất, mà nó đă lôi kéo được các dân cư trên mặt đất, bảo họ làm một ngẫu tượng để tôn kính con mănh thú đă bị thương tích v́ lưỡi gươm song vẫn c̣n sống. Thế rồi con mănh thú thứ hai được phép ban sự sống cho h́nh ảnh của con mănh thú thứ nhất, để h́nh ảnh này có quyền năng phát ngôn và hạ thủ bất cứ ai từ chối không chịu tôn thờ h́nh ảnh ấy. Nó buộc tất cả mọi người, nhỏ cũng như lớn, giầu cũng như nghèo, nô lệ cũng như tự do, phải chấp nhận để bàn tay phải của họ hay trán của họ mang một ấn ảnh. Hơn nữa, nó cũng không để cho một người nào mua bán bất cứ một sự ǵ, trừ phi họ trước hết được đóng dấu danh xưng của con mănh thú hay con số biểu hiệu cho danh xưng của con mănh thú”. (Rev.13:11-17).

 

Nếu “con mănh thú xuất thân từ biển”, như phân tách và nhận định ở chương 7, trang 80-81, là hiện thân của khổng long Satan thế nào, th́ “con mănh thú từ đất tiến lên” cũng là tác nhân của “con mănh thú xuất thân từ biển” như vậy. Ở chỗ, “nó đă dùng quyền bính của con mănh thú thứ nhất để khơi dậy những lợi lộc cho ḿnh, bằng cách làm cho thế giới và mọi dân cư trên thế giới sùng bái con mănh thú thứ nhất” (Rev.13:12). Tuy nhiên, “con mănh thú từ đất tiến lên” này, v́ mật hệ với “con mănh thú xuất thân từ biển” như thế, nên nó cũng có liên hệ với chính khổng long Satan, ở chỗ nó cũng biết “nói năng như con rồng” (Rev.13:11), tức cũng “nói năng gian dối” (Jn.8:44) như con rồng, qua bản chất là “mănh thú” mà lại mặc h́nh thù “như con chiên”, dù “như một con chiên đực chưa thiến”.

 

Phải, lư do hiện hữu duy nhất và sứ mệnh chính yếu của “con mănh thú tứ đất tiến lên” này là “làm cho thế giới và mọi dân cư trên thế giới sùng bái con mănh thú thứ nhất”. Chính v́ vậy mà nó mới “nói năng như con rồng”, ở chỗ: lừa “bảo họ làm một ngẫu tượng để tôn kính con mănh thú đă bị thương tích v́ lưỡi gươm song vẫn c̣n sống” (Rev.13:14); “ban sự sống cho h́nh ảnh của con mănh thú thứ nhất, để h́nh ảnh này có quyền năng phát ngôn và hạ thủ bất cứ ai từ chối không chịu tôn thờ h́nh ảnh ấy” (Rev.13:15); và “không để cho một người nào mua bán bất cứ một sự ǵ, trừ phi họ trước hết được đóng dấu danh xưng của con mănh thú hay con số biểu hiệu cho danh xưng của con mănh thú” (Rev.13:16,17).

 

Ở đây, h́nh như có một sự trùng hợp tương phản hết sức diệu kỳ và khít khao giữa khổng long Satan và con mănh thú thứ nhất, so sánh với Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô, cũng như giữa con mănh thú thứ nhất và con mănh thú thứ hai, sánh với trường hợp của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Thật vậy, nếu khổng long Satan đă thiết lập vương quốc của ḿnh nhờ “con mănh thú xuất thân từ biển” và nơi “con mănh thú thứ nhất” này, th́ Thiên Chúa cũng đă thiết lập vương quốc của Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô và nơi Đức Giêsu Kitô như vậy, (xin xem lại chi tiết phân tách và nhận định ở chương 7, trang 84); và nếu “con mănh thú từ đất tiến lên” để “làm cho thế giới và mọi dân cư trên thế giới sùng bái con mănh thú thứ nhất” thế nào, th́ Mẹ Maria cũng phải đến trong thời điểm của Mẹ để làm cho Chúa Giêsu được nhận biết và yêu mến như vậy (xin xem lại phần nhất, chương 5).

 

Thế nhưng, về phần ḿnh, để “làm cho thế giới và mọi dân cư trên thế giới sùng bái con mănh thú thứ nhất” theo như sứ mệnh của ḿnh, “con mănh thú từ đất tiến lên”, một con mănh thú “có hai sừng như con chiên đực chưa thiến” (Rev.13:11)  đă tấn công cả hai (biểu hiệu nơi h́nh ảnh cặp xừng) lănh vực nơi con người, lănh vực tâm linh cũng như lănh vực đời sống của con người như sau. Nơi lănh vực tâm linh của con người mà “con mănh thú từ đất tiến lên” tấn công là “bảo họ làm một ngẫu tượng để tôn kính con mănh thú” (Rev.13:14); và nơi lănh vực đời sống của con người mà nó tấn công  là “ban sự sống cho h́nh ảnh của con mănh thú thứ nhất” (Rev.13:15).

 

Về việc “bảo họ làm một ngẫu tượng để tôn kính con mănh thú (thứ nhất)” là con mănh thú “phản kitô”, con mănh thú “chối bỏ cả Cha lẫn Con” (xem lại trang 84-86), th́ “con mănh thú từ đất tiến lên” thực hiện thế này.  Nó xui khiến cả loài người, tức “thế giới và mọi dân cư trên thế giới”, như dân Do Thái ở trong sa mạc xưa, đúc ḅ vàng và tôn thờ con ḅ vàng đúc này thay v́ Thiên Chúa, Đấng thực sự đă cứu dân Do Thái ra khỏi Ai Cập (x.Ex.32:8). Nghĩa là “con mănh thú tiến lên từ đất” làm cho con người, tự trong thâm tâm của họ, luôn luôn tưởng rằng tất cả những ǵ họ nghĩ ra là đúng, đều là Sự Thật, chứ không phải Mạc Khải Thần Linh của Thiên Chúa; tất cả những ǵ họ muốn là tốt, đều là Sự Thiện, chứ không phải Ư Muốn tối cao và vô cùng trọn lành của Thiên Chúa, được tỏ hiện nơi lề luật của Ngài; và tất cả những ǵ họ làm là hay, đều là Sự Mỹ, chứ không phải  Tinh Thần Phúc Aâm, nhân đức trọn lành hay hoa trái của Thánh Linh v.v. “Con mănh thú từ đất tiến lên” “bảo họ làm một ngẫu tượng để tôn kính con mănh thú (thứ nhất)” như thế tức là xúi giục loài người cũng trở nên thành phần “phản kitô”, cũng “chối bỏ cả Cha lẫn Con”, như “con mănh thú xuất thân từ biển” vậy.

 

Về việc “ban sự sống cho h́nh ảnh của con mănh thú thứ nhất”, tức cũng là việc ban sự sống cho “ngẫu tượng” nơi con người, một “ngẫu tượng” hoàn toàn phản ảnh tinh thần “phản kitô”, tinh thần “chối bỏ cả Cha lẫn Con” giống như “con mănh thú thứ nhất” nơi con người, th́ “con mănh thú từ đất tiến lên” làm cho con người, từ việc phủ nhận Thiên Chúa và “tất cả sự thật” (Jn.16:13) Ngài mạc khải nơi Đức Giêsu Kitô từ trong thâm tâm của ḿnh, đi đến chỗ sống một đời sống hoàn toàn bất tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, hoàn toàn sống phản lại với Phúc Aâm của Con Ngài, trở thành “những kẻ thù của Thập Giá Chúa Kitô” (Phil.3:18), sống buông thả theo bảy mối tội đầu, theo Tự Nhiên Chủ Nghĩa. Trong việc làm cho loài người, về phương diện tâm linh, “chối bỏ cả Cha lẫn Con”, và về phương diện đời sống, trở thành thuần túy tự nhiên, duy vật và duy lợi như thế, là “con mănh thú tiến lên từ đất” đă “không để cho một người nào mua bán bất cứ một sự ǵ, trừ phi họ trước hết được đóng dấu danh xưng của con mănh thú hay con số biểu hiệu cho danh xưng của con mănh thú” (Rev.13:16,17).

 

Sở dĩ loài người lại nghe theo “con mănh thú từ đất tiến lên” này, chính là v́ “nó như con chiên đực chưa thiến” (Rev.13:11), tức có vẻ hiền lành và dễ thương, (như con “chiên” song lại là một con chiên “chưa thiến”, h́nh ảnh biểu hiệu cho một nhân tính đầy những đam mê nhục dục), rất am hợp với đời sống tự nhiên của con người, một đời sống làm cho con người được thỏa măn, dễ sống, chứ không khó khăn và cần phải ép ḿnh đến nỗi phải “bỏ ḿnh đi và vác thập giá” (Mtù:24) mới có thể “vào qua cửa hẹp” (Mt.7:13) mà theo Chúa Kitô. Với h́nh thù “như con chiên đực chưa thiến”, đến để làm cho loài người sống buông tuồng như vô thần theo nhân tính tự nhiên của họ, “con mănh thú từ đất tiến lên” này thực là một con mănh thú duy nhân, “một quyền lực vô loài bí mật” (2Thes.2:7), một “tên vô loài” (2Thes.2:8), là tác nhân gây ra tất cả “những ǵ ô uế và hủy hoại ở trong nơi thánh” (Mt.24:15).

 

Nếu “nơi thánh” đây là lương tâm con người và cũng là chính lề luật Thiên Chúa, th́ quả thật, trong Thời Điểm Maria từ đầu thế kỷ 19 tới nay, (như Mẹ đă tỏ cho biết trong Bí Mật La Salette từ năm 1846), nhất là vào cuối thế kỷ 20 cũng là thời điểm kết thúc ngàn năm thứ hai lúc này đây, đă thực sự hầu như hoàn toàn bị “ô uế và hủy hoại” mất rồi. Ở chỗ, con người văn minh tuyệt đỉnh ngày nay, về cả phương diện kiến thức khoa học và khả năng kỹ thuật tối tân, lẫn ư thức nhân bản và nhân quyền của ḿnh, đă ngông cuồng mù tối lật đổ Thiên Chúa là “Đấng thiện hảo duy nhất” (Mt.19:17) xuống khỏi ngai ṭa của Ngài nơi ḷng trí của ḿnh, để thay thế vào đó chính nhân tính của ḿnh, ư riêng của ḿnh, tự do của ḿnh, lợi lộc của ḿnh, nhục dục của ḿnh, theo Duy Nhân Chủ Nghĩa tức Chủ Nghĩa Nhân Bản hoàn toàn trần tục (secular humanism) nói chung và Cá Nhân Chủ Nghĩa (individualism) nói riêng. Những khoản dân luật cho phép ly dị (divorce) “những ǵ Thiên Chúa đă nối kết loài người không được phép phân ly” (Mt.19:6), từ thập niên 1960, những khoản dân luật cho phép phá thai (abortion) để hủy hoại đi sự sống trực tiếp đến từ Thiên Chúa, từ thập niên 1970, những khoản dân luật cho phép hôn nhân đồng tính luyến ái (homosexual: gay/lesbian), thương t́nh trợ tử  (euthanasia, mercy killing), và cho phép tạo sinh ngoại nhiên (như kiểu cấy thai ống nghiệm: test tube baby/ in vitro fertilization, hay như kiểu surrogate mother mang thai mướn; thậm chí như kiểu ghép sinh cloning đang c̣n thử nghiệm theo khoa học và bàn căi về luân lư), trong thập niên 1990 này, không phải là tất cả những bằng chứng hết sức hiển nhiên và hùng hồn nhất nói lên sự kiện hay hiện tượng “nơi thánh” là lương tâm con người và/hay lề luật Thiên Chúa  thực sự đă hoàn toàn bị “ô uế và hủy hoại” trong luồng “văn hóa tử vong” hiện nay rồi hay sao?!?

 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tác giả của thành ngữ “văn hóa tử vong”, đă phác tả bản chất của chiều hướng “văn hóa tử vong” này trong Thông Điệp “Rạng Ngời Chân Lư” (Veritatis Splendor), ban hành ngày 6-8-1993, và cũng đă vạch trần chân tướng của chiều hướng “văn hóa tử vong” này trong Thông Điệp “Phúc Aâm Sự Sống” (Evangelium Vitae), ban hành ngày 25-3-1995.

 

Bản chất của chiều hướng “văn hóa tử vong” trong Thông Điệp “Rạng Ngời Chân Lư” (Veritatis Splendor):

 

Ngày nay, dường như cần phải suy nghĩ lại toàn bộ giáo huấn về luân lư của Giáo Hội, nhắm đến mục tiêu chính là để nhắc lại một số sự thật nồng cốt trong giáo lư Công Giáo, những ǵ mà, trong hoàn cảnh hiện tại, đang có cơ bị lạc hướng và chối bỏ. Thật thế, một t́nh trạng mới đă xẩy ra trong chính cộng đồng Kitô giáo, một cộng đồng đă cảm nghiệm thấy việc lan truyền nhiều ngờ vực và chống đối của bản chất con người và tâm lư, của bản chất xă hội và văn hóa, của bản chất tôn giáo và ngay cả thần học, liên quan đến các giáo huấn về luân lư của Giáo Hội. Nó không c̣n là vấn đề bất đồng có tính hạn hẹp và tùy dịp nữa, mà là việc đặt lại vấn đề với toàn bộ giáo huấn luân lư truyền thống, dựa trên một số những giả thiết nhân loại học và đạo đức nào đó. Căn nguyên của những giả thiết này, không nhiều th́ ít, rơ ràng là bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tư tưởng nhắm đến việc tách biệt tự do của con người ra khỏi mối liên hệ chính yếu và gắn liền với chân lư. Bởi thế mà giáo huấn truyền thống về luật tự nhiên cùng với tính cách phổ quát và vĩnh chắc của các luật điều mới bị chối bỏ; một số những giáo huấn về luân lư của Giáo Hội cũng bị cho là không thể chấp nhận được; và chính Huấn Quyền của Giáo Hội (Magisterium) cũng được coi như có khả năng can thiệp vào những vấn đề luân lư, song chỉ để ‘huấn dụ lương tâm’ và ‘đề ra những giá trị’ mà thôi, nhờ đó giúp từng cá nhân biết tự lập trong việc quyết định lấy các lựa chọn cho cuộc sống của ḿnh. Cần chú ư đặc biệt đến t́nh trạng thiếu ḥa hợp giữa đáp ứng theo truyền thống của Giáo Hội với một số vị thế thuộc thần học, xẩy ra ngay trong các chủng viện và giữa ban giảng huấn thần học, liên quan đến những vấn đề quan trọng nhất đối với Giáo Hội và đối với cuộc sống đức tin của Kitô hữu, cũng như đối với chính cuộc sống của xă hội. Vấn đề được đặt ra nhất là: Các giới răn của Thiên Chúa, những giới răn được ghi khắc nơi cơi ḷng con người và là thành phần của Giao Ước, thực sự có khả năng để làm sáng tỏ những quyết định thường nhật của cá nhân cũng như của toàn thể xă hội hay không? Có thể nào vâng phục Thiên Chúa, và v́ thế  cũng mến yêu Thiên Chúa và tha nhân, mà không cần tôn trọng những giới răn này trong tất cả mọi trường hợp chăng? Cũng có ư nghĩ thường được nghe thấy, ư nghĩ đặt vấn đề là, trong khi mối liên kết nội tại và bất phân ly giữa đức tin và luân lư, như thể mối liên hệ làm phần tử trong Giáo Hội và sự hiệp nhất nội tại của Giáo Hội phải được giải quyết trên căn bản đức tin mà thôi, th́ ở lănh vực luân lư lại chấp nhận theo đa số ư kiến và đa số các loại tác hành, những ǵ dành cho phán đoán của lương tâm chủ quan của cá nhân hay cho t́nh trạng đa diện của các tương quan xă hội và văn hóa” (đoạn 4).

 

Chân tướng của nền “văn hóa tử vong” trong Thông Điệp “Phúc Aâm Sự Sống” (Evangelium Vitae):

 

“Tiếc thay, t́nh trạng sinh hoạt lộn xộn này thay v́ giảm bớt th́ lại đang gia tăng: cùng với những lănh vực mới theo chiều hướng của tiến bộ khoa học và kỹ thuật cũng có những h́nh thức mới để tấn công phẩm giá con người. Đồng thời cũng có một bầu khí văn hóa mới đang phát triển và làm chủ t́nh h́nh, một bầu khí đă cống hiến cho tội ác một đặc tính mới - nếu không muốn nói là - qủi quyệt hơn để tấn công sự sống, càng làm cho vấn đề trầm trọng hơn nữa: phần đông ư kiến chung đă nhân danh quyền tự do cá nhân để biện minh cho một số tội ác phạm đến sự sống, và dựa trên căn bản này, họ chẳng những tranh đấu để  khỏi bị trừng phạt mà c̣n được chính quyền ban phép để các điều ấy có thể được hoàn toàn tự do thi hành cùng với sự hỗ trợ thoải mái của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Tất cả t́nh trạng sinh hoạt lộn xộn này đang gây ra một sự thay đổi sâu sa trong đường lối liên hệ giữa sự sống và các mối liên hệ giữa con người. Sự kiện ngành lập pháp ở trong nhiều xứ sở, có thể đă xa ĺa với cả những nguyên tắc căn bản ghi trong bản Hiến Pháp của ḿnh, chẳng những đă quyết định không trừng phạt những việc phạm đến sự sống ấy, lại c̣n hợp pháp hóa chung những việc này nữa, th́ sự kiện này vừa là một triệu chứng lộn xộn vừa là một căn nguyên hệ trọng góp phần vào t́nh trạng  sa sút về luân lư. Những chọn lựa đă hơn một lần đồng loạt bị cảm thức luân lư chung coi như tội ác th́ dần dần lại được chung xă hội chấp nhận. Ngay cả một số ngành hành nghề y khoa, theo ơn gọi của ḿnh, hướng đến việc bảo vệ và chăm sóc cho sự sống con người, cũng đang tăng thêm việc t́nh nguyện thi hành những việc phạm đến con người này. Như thế, chính bản tính của việc hành nghề y khoa đă bị méo mó và mâu thuẫn, và phẩm vị của thành phần hành nghề này cũng bị hạ giá. Trong một t́nh h́nh văn hóa và lập pháp như vậy, các vấn đề dân số, xă hội và gia đ́nh, những vấn đề đè nặng trên vai nhiều người trên thế giới, cũng là những vấn đề cần các tổ chức quốc tế cũng như quốc gia chú trọng một cách có trách nhiệm và hiệu qủa, lại để tùy theo những giải quyết sai lầm và lừa dối, phản lại sự thật và sự thiện của con người cũng như của quốc gia. Hậu qủa thê thảm sau cùng của t́nh trạng sinh hoạt lộn xộn này là: chẳng những ở sự kiện hết sức trầm trọng và lộn xộn trong việc hủy hoại đi rất nhiều sự sống c̣n có thể được sinh ra hay ở vào giai đoạn cuối cùng của chúng, mà cũng không kém trầm trọng và lộn xộn nơi chính lương tâm con người, bị thực sự mù tối bởi điều kiện hóa tràn lan như thế, đang gặp phải khó khăn hơn nữa trong việc phân biệt lành dữ ở những ǵ liên quan đến giá trị căn bản của sự sống con người” (điều 4).