Chương Sáu


CÁC TÍN ĐIỀU VỀ MẸ
 


"Những lần Mẹ hiện ra" từ thế kỷ 19 là dấu hiệu thứ nhất chứng tỏ đây là thời của Mẹ Maria. Dấu hiệu thứ hai chứng tỏ đây là thời của Mẹ Maria, đó là, cũng từ thế kỷ 19 trở đi, ba tín điều về Mẹ Maria đă được Giáo Hôi chính thức tuyên tín. Trong khi đó, 18 thế kỷ trước, chỉ có một tín điều duy nhất về Mẹ là tín điều Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội tuyên tín vào năm 431 ở công đồng chung Êphêsô mà thôi.

Vào thời kỳ ấy, thời công đồng Êphêsô, có một vị linh mục tên Anastasiô công khai chối bỏ thiên chức Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) của Mẹ, và chỉ công nhận Mẹ là Mẹ của Chúa Kitô (Khristotokos).Chính Nestôriô là thượng phụ Constantinôpôli năm 428 cũng chấp nhận như vậy, tức công nhận Chúa Kitô có hai Ngôi Vị, một thần linh và một nhân loại. Dựa vào bức thư thứ hai trong ba bức thư của thánh Giáo Phụ Cyrilô Alexandria gửi cho Nestôriô, các nghị phụ tham dự công đồng chung này, vào ngày 22-6-431, đă tuyên tín như sau:

“Không phải Ngôi Lời đă từ trời xuống ở với một phàm nhân được Trinh Nữ Thánh sinh ra đầu tiên; mà là, v́ nên một với xác thể trong ḷng (của Trinh Nữ Thánh), Ngôi Lời đă được sinh ra theo xác thể, như là việc sinh ra theo xác thể của ḿnh... Bởi thế, (các giáo phụ) đă không ngại gọi Trinh Nữ Thánh là 'Mẹ Thiên Chúa' (Theotokos). Điều này không có nghĩa là bản tính của Ngôi Lời hay Thiên Tính của Ngài đă được bắt đầu hiện hữu từ Trinh Nữ Thánh, mà là, v́ Thánh Thể được sinh động bởi hồn thiêng, mà Ngôi Lời đă ngôi hiệp (kath'hupostasin) với chính ḿnh, được sinh ra bởi Người, nên Ngôi Lời đă được sinh ra theo xác thể” (TCF:148-149).

Và, cũng bắt đầu từ đó, Giáo Hội đă dạy cho con cái ḿnh cầu nguyện cùng Mẹ:

“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.

Tuy nhiên, việc Giáo Hội tuyên tín Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, một tín điều duy nhất trong suốt 18 thế kỷ đầu của Giáo Hội, là một việc không thể nào không làm để chống lại những sai lầm của lạc thuyết Nestôriô, một lạc thuyết đă tác hại ghê gớm đến đức tin và phần rỗi đời đời của các tín hữu. Trong khi đó, từ bán thế kỷ thứ 19, trong ṿng có 110 năm (1954-1964), Giáo Hội đă tự cảm thấy, (chứ không phải v́ ngoại cảnh bắt buộc), đến lúc cần phải công bố thêm 3 tín điều về Mẹ nữa, đó là tín điều Mẹ Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Lên Trời Cả Hồn Lẫn Xác và Mẹ Là Mẹ Của Giáo Hội.

TÍN ĐIỀU MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI.

Đức Thánh Cha Piô IX, bằng trọng sắc Ineffabilis Deus, đă long trọng tuyên bố tín điều này vào ngày 8/12/1854, (sau đó hơn 3 năm, ngày 25-3-1858 chính Đức Mẹ đă công nhận tín điều này khi hiện ra với chị thánh Bernadette tự xưng ḿnh là “Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội").

Với uy quyền của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, cũng như của riêng Ta, Ta công bố, tuyên ngôn và xác nhận tín điều được mạc khải bởi Thiên Chúa buộc mọi tín hữu phải tin vững vàng và trung kiên là “Rất Thánh Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút đầu thai, nhờ đặc ân của Thiên Chúa toàn năng và công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, đă được ǵn giữ vô nhiễm khỏi mọi t́
vết của nguyên tội” (TCF:204).

TÍN ĐIỀU MẸ LÊN TRỜI CẢ HỒN LẪN XÁC.


Qua tông hiến Munificentissimus Deus, Đức Thánh Cha Piô XII đă long trọng tuyên bố tín điều này vào ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, 1-11-1950.Phải chăng, như ở Lộ Đức, Đức Mẹ đă hiện ra để xác nhận tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Thánh Cha Piô IX công bố thế nào, Mẹ cũng tỏ ra xác nhận tín điều Hồn Xác Lên Trời về Mẹ do Đức Thánh Cha Piô XII công bố như vậy, khi cho ngài thấy bốn lần, vào những ngày 30 và 31 tháng 10 và ngày 1 và 8 tháng 11 năm 1950 (TWTAF3:284-287), hiện tượng mặt trời nhẩy múa như ở Fatima ngày 13-10-1917 trước kia?

Đức Thánh Cha Piô XII đă ban bố tín điều này như sau:

“Ta tuyên xưng, công bố và xác nhận tín điều được Thiên Chúa mạc khải là Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria trinh nguyên, khi thời gian sống tại thế hoàn tất, cả hồn lẫn xác của Người đă được đưa về trời trong vinh quang thiên quốc” (TCF:207).

TUYÊN XƯNG MẸ LÀ MẸ CỦA GIÁO HỘI.

Đức Thánh Cha Phaolô VI, trong dịp kết thúc kỳ họp ba của công đồng chung Vaticanô II, cũng là dịp hiến chế về Giáo Hội Lumen Gentium được công bố, trước mặt toàn thể các nghị phụ của công đồng, đă chính thức tuyên bố:

“Ta mong muốn Mẹ Thiên Chúa phải được cả thế giới Kitô hữu tôn vinh và khẩn cầu hơn nữa bằng tước hiệu (Mẹ Giáo Hội) tuyệt dịu ngọt này” (CTFY:88).

Trong dịp chính thức tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ của Giáo Hội này, Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng lập lại việc hiến dâng toàn thể thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, việc hiến dâng đă được Đức Thánh Cha Piô XII thực hiện hai lần, một vào ngày 31-10-1942 và một vào ngày 7-7-1952.

Đức Thánh Cha Phaolô VI đă lập lại việc hiến dâng này như sau:

“Ta đă quyết định gửi một đại diện đến Fatima vào một ngày gần đây để mang Bông Hồng Bằng Vàng đến Đền Thánh Fatima, nơi yêu qúi hơn bao giờ hết, chẳng những đối với nhân dân của nước Bồ Đào Nha diễm phúc... mà c̣n được tín hữu trên khắp thế giới Công Giáo nhận biết và tôn kính. Bằng việc làm này, Ta có ư muốn phú thác cả gia đ́nh nhân loại, với những hoạn nạn và âu lo của họ, với những ước vọng thâm sâu và hy vọng tha thiết của họ, cho sự chăm sóc của Mẹ thiên đ́nh” (CTFY:88).

Ngoài ra, trong Thời Đại Maria này, Giáo Hội, qua Đức Thánh Cha Piô XII, cũng đă thực hiện hai việc liên quan trực tiếp đến Đức Mẹ nữa, đó là việc ngài cho mừng lễ Trái Tim Đức Mẹ trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ cũng như lập lễ Đức Mẹ Nữ Vương, và việc ngài phong hiển thánh cho hai vị Thánh của Mẹ, thánh Louis Marie Grignion De Monfort ngày 20/7/1947, và thánh Catarina Labuarê ngày 27/7/1947.

Lễ Trái Tim Đức Mẹ:

Thật ra, theo văn thư Acta Apostolicae Sedis của thánh bộ Lễ Nghi ban hành ngày 4/5/1944, lễ Trái Tim Đức Mẹ đă được bắt đầu mừng từ thời Trung Cổ và được Giáo Hội chấp nhận vào đầu thế kỷ thứ 19. Đức Thánh Cha Piô VII (1800-1823) đă cho phép các giáo phận hay ḍng tu nào xin mừng lễ Khiết Tâm Mẹ sẽ được cử hành vào ngày Chúa Nhật sau tuần bát nhật Lễ Đức Mẹ Mông Triệu. Sau đó, Lễ Trái Tim Mẹ được lan rộng khắp nơi, và Đức Thánh Cha Piô IX (1848-1878) đă chính thức cho vào niên lịch phụng vụ hằng năm của Giáo Hội.

Cho đến ngày 24/10/1940, chị Lucia đă viết thơ tŕnh lên Đức Thánh Cha Piô XII điều “yêu cầu” của Mẹ liên quan đến việc Mẹ sẽ làm cho nước Nga trở lại, và cuối thơ chị có xin Đức Thánh Cha cho mừng chung trong Giáo Hội hoàn vũ lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ như là một trong những lễ chính.

Phần Đức Thánh Cha Piô XII, cũng trong văn thư của thánh bộ Lễ Nghi trên đây, “để ghi nhớ cuộc hiến dâng này, (cuộc hiến dâng Giáo Hội hoàn vũ và cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ mà Đức Thánh Cha đă thực hiện ngày 31/10/1942), Ngài đă quyết định cho Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Lễ này sẽ được cử hành mỗi năm vào ngày 22 tháng 8, thay ngày bát nhật lễ Đức Mẹ Mông Triệu, với bậc lễ hạng nh́...” (TWTAF3:82-83).

Lễ Mẹ Nữ Vương:

Lễ Mẹ Nữ Vương được Đức Thánh Cha Piô XII lập trong Năm Thánh Mẫu, vào ngày lễ Đức Mẹ Thiên Chúa 11/10/1954. Qua bức thông điệp Ad Coeli Reginam, Đức Thánh Cha nhắc lại việc đội triều thiên cho Mẹ năm 1946 và quyết định:

“Ta ban hành và thiết lập Lễ Maria Nữ Vương, được mừng chung Giáo Hội hằng năm vào ngày 31/5”.

Cũng trong thông điệp này, Đức Thánh Cha c̣n đề cập đến:

“Việc hiến dâng loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ phải được lập lại trong ngày này... Với niềm tin tưởng hơn trước, mọi người hăy đến với ngai ṭa t́nh thương và ân sủng của Nữ Vương và Từ Mẫu để xin trợ giúp trong cơn quẫn bách, ánh sáng trong lúc tối đen, và sức mạnh trong lúc đau thương khóc lóc..." (TWTAF3:395).

Sau Công Đồng Chung Vaticanô II, theo tinh thần canh tân phụng vụ, một số Lễ kính Đức Mẹ cũng được thay đổi, trong đó có lễ Trái Tim Mẹ và lễ Mẹ Nữ Vương. Lễ Mẹ Nữ Vương được dời xuống ngày 22/8 thay v́ 31/5 hằng năm, và lễ Trái Tim Mẹ được dời lên ngày Thứ Bảy ngay sát Thứ Sáu lễ Thánh Tâm Chúa trong tuần lễ Kính Ḿnh Máu Thánh Chúa.

Thánh Louis Marie Grignion De Monfort (1673-1716)

Thánh nhân là vị thánh lập hai ḍng tu cho Giáo Hội, một nữ và một nam. Ḍng nữ là ḍng Nữ Tử Đấng Khôn Ngoan, được lập năm “3, và ḍng nam là ḍng Thừa Sai Mẹ Maria (cũng gọi là ḍng các Linh Mục Và Huynh Đệ Thánh Monfort). Ngài cũng là tác giả của tác phẩm thời danh Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria, một tác phẩm mà chính ngài đă tiên đoán về số phận của nó: “Tôi thấy trước một cách r ràng là những con mănh thú sẽ dùng nanh vuốt qủi quyệt của chúng để sâu xé bản văn nhỏ bé này... hay, ít là dấu nó đi trong bóng tối vắng lặng nào đó không lộ ra được” (TDTM,114). Quả nhiên, măi đến năm 1842, cuốn sách này mới được một linh mục ḍng của ngài t́nh cờ t́m thấy trong một thùng sách cũ ở tu viện Laurent- sur-Sèvre.

Đức Thánh Cha Piô XII đă nói về ngài khi phong thánh cho ngài như sau: “Sùng Kính Mẹ Maria là sức mạnh mănh liệt trong công cuộc tông đồ của ngài và bí mật tuyệt diệu nhất của ngài trong việc lôi kéo các linh hồn và ban Chúa Giêsu cho họ” (TDTM:v).

Thánh Catarina Labuarê (1806-1876)

Nữ Thánh Nhân là chị nữ tu ḍng Nữ Tử Bác Ái thánh Vinh-Sơn Phao-Lô, được Đức Mẹ hiện ra vào năm 1830 và trao cho 3 sứ mệnh, như Đức Thánh Cha Piô XII đă nói về chị trong dịp phong thánh cho chị ngày 27/7/1947, đó là: “Phục hồi ḷng sốt sắng đă bị nguội lạnh trong hai hội ḍng bác ái của chị; nhận ch́m toàn thể thế giới vào trận lụt đầy những mẫu ảnh kim loại nho nhỏ là những ǵ chứa đựng các ơn xót thương của Đấng Vô Nhiễm Tội ban cho cả hồn lẫn xác; lập một hội đạo đức 'Con Cái Mẹ Maria' để bảo toàn và thánh hóa giới phụ nữ trẻ” (TWTAF3:108).

Hai Á Thánh Thiếu Nhi Fatima Phanxicô và Giaxinta Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă phong Chân Phước cho Hai Thiếu Nhi Fatima là Phanxicô và Giaxinta ngày 13/5/2000.(chi tiết cuối cùng này được thêm vào khi cho file sách này lên Màn Điện Toán Toàn Cầu ThoiDiemMaria.Net)

 

Nếu cần, xin xem lại các phần trước:

Nội dung

chương 1 hiện tượng Nước Nga,

chương 2 Biến cố Fatima,

chương 3 đáp ứng yêu cầu

chương 4 thực hiện lời hứa

chương 5 những lần Mẹ hiện ra