Bản Hướng Dẫn “‘Redemptionis Sacramentum’

Về Một Số Vấn Đề Cần Phải Tuân Giữ Hay Tránh Lánh

Liên Quan Đến Thánh Thể Cực Linh”

 

 

Ngày Thứ Sáu 23/4/2004, tại pḥng báo chí của Ṭa Thánh, ĐHY Francis Arinze, chủ tịch Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích, cùng với ĐTGM Domenico Sorrentino, Thư Kư của Thánh Bộ này, và ĐTGM Angelo Amoto, SDB, thư kư Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin, những vị đă hợp tác soạn dọn văn kiện, và đă ra mắt văn kiện quan trọng hợp thời ấy.

Trong lời mở đầu, ĐHY chủ tịch đă nói về cả hai phương diện tích cực và tiêu cực diễn tiến về phụng vụ xẩy ra từ Công Đồng Chung Vaticanô II, nhưng theo thời gian đă xẩy ra những lạm dụng “làm phiền muộn cho hết mọi người”. Ngài cho biết rằng “đă có khuynh hướng cho rằng việc chú trọng đến những vấn đề lạm dụng là những ǵ mất giờ, chúng dầu sao cũng đă xẩy ra và sẽ măi măi là như thế… Điều này dẫn chúng ta đến chỗ sai lầm. Những thứ lạm dụng liên quan đến Thánh Thể không phải tất cả đều ở một mức độ như nhau. Một số lạm dụng có nguy cơ làm cho bí tích trở thành vô hiệu. Các lạm dụng khác cho thấy t́nh trạng thiếu ḷng tin tưởng vào Thánh Thể. Có những lạm dụng góp phần vào việc làm cho dân Chúa lẫn lộn không biết đâu mà ṃ và làm cho việc cử hành Thánh Thể mất đi tính cách linh thánh. Không được coi thường những vấn đề lạm dụng”.

ĐTGM thư kư thánh bộ phượng tự và bí tích nhấn mạnh là “Bản Hướng Dẫn này làm ǵ hơn là tái xác định những qui tắc hiện hành”. ĐTGM làm sáng tỏ vấn đề là “việc yêu cầu tuân giữ (những qui tắc này) không có nghĩa là cấm đoán việc nghiên cứu sâu xa thêm và cấm đề nghị, như đă từng xẩy ra trong lịch sử của ‘phong trào phụng vụ’ và ngày nay vẫn thường xẩy ra nơi lănh vực nghiên cứu học hỏi về thần học, phụng vụ và mục vụ. Điều hoàn toàn bị loại trừ đó là việc biến phụng vụ thành một lănh giới tự do thí nghiệm và tùy nghi thi hành, không do một ư hướng tốt lành nào”.

ĐTGM thánh bộ tín lư đức tin nói đến ư nghĩa tín lư của bản hướng dẫn này: “Các qui tắc phụng vụ là những ǵ thể hiện rơ ràng tính cách giáo hội học của Thánh Thể. Tính cách duy nhất và bất khả phân ly của Ḿnh Thánh Chúa bao gồm tính cách duy nhất của Thân Ḿnh Mầu Nhiệm của Người là Giáo Hội duy nhất bất khả phân ly. Bản Hướng Dẫn này phải làm dậy lên trong Giáo Hội một thứ hiểu biết lành mạnh cũng như việc nồng hậu đón nhận, việc say mê chiêm ngưỡng mầu nhiệm cao cả của đức tin chúng ta đây và việc khuyến khích tác hành cùng với những thái độ sống hợp với Thánh Thể”.

Trong buổi họp báo ra mắt này có một kư giả đặt vấn đề liên quan đến việc cho các chính trị gia pḥ phá thai hiệp lễ, ĐHY chủ tịch trả lời:

“Nếu người nào không được rước lễ th́ không được cho họ chịu lễ. Khách quan mà nói th́ câu trả lời là như thế”.
ĐHY giải thích rằng vị linh mục không được cho Rước Lễ trừ trường hợp bất ngờ và “vị ấy không đủ thời gian suy nghĩ”.

Một kư giả khác đă áp dụng việc cho rước lễ này vào trường hợp thực tế của nhân vật ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ hiện nay thuộc đảng dân chủ là ông John Kerry, người tuyên bố ḿnh là Công Giáo nhưng lại pḥ phá thai, ĐHY cho biết:

“Qui tắc của Giáo Hội đă rơ. Giáo Hội Công Giáo hiện diện ở Hoa Kỳ và có các vị giám mục ở đó. Hăy để các vị ấy áp dụng vấn đề này”.

Văn kiện được ra mắt hôm nay dài 70 trang được biên soạn theo ư của ĐTC GPII. Trong Thông Điệp “Eucharistiia de Ecclesia” được ban hành vào Thứ Năm Tuần Thánh năm ngoái 2003, ĐTC GPII đă loan báo văn kiện này ở đoạn 52.

V́ tầm quan trọng của nội dung của ḿnh, bản văn kiện này đă phải biên soạn cả hơn một chục bản thảo. ĐHY chủ tịch cho biết trong cuộc họp báo ra mắt là công việc sửa soạn cho văn kiện này đă bắt đầu ngay cả trước khi ĐTC chính thức loan báo trong tông thư kỷ niệm 40 năm Hiến Chế Về Phụng Thánh của Công Đồng Chung Vaticanô II.

Trước khi ban hành bức thông điệp của ĐTC năm ngoái, “chúng tôi đă xin các vị giám mục, hồng y và những vị khác thuộc thánh bộ của chúng tôi là hăy gửi về cho chúng tôi những điều than phiền và mập mờ cần phải được bày tỏ để biết được” những vấn đề cần phải giải quyết. “Thế rồi hai thánh bộ chúng tôi đă thiết lập một ủy ban hỗn hợp vào đầu năm ngoái. Hai vị chủ tịch và thư kư là những người có trách nhiệm kiểm lại công việc làm này”.

Bản thảo đầu tiên được tŕnh bày vào Tháng 5/2003 cho tất cả mọi phần tử của hai thánh bộ, khoảng 70 vị hồng y, TGM và giám mục. Thế rồi bản thảo được bàn luận vào Tháng 6/2003. ĐHY tiết lộ cho biết thêm rằng:

“Sau đó rất nhiều việc phải làm, v́ bản thảo đầu tiên bao giờ cũng cần có nhiều thay đổi. Thế rồi chúng tôi bắt đầu thực hiện những cuộc tham vấn và đóng góp. Chúng tôi đă viết khoảng 12 bản thảo từ giữa tháng 5/2003 tới cách đây 2 tháng”.

Vị HY chủ tịch mỉm cười: “Điều này là b́nh thường” đối với các văn kiện của Ṭa Thánh Vatican.

Nội dung của bản văn kiện này gồm có phần mở đầu, phần thân với 8 chương, và phần kết luận, tất cả được chia ra thành 186 đoạn, cùng với bản liệt kê rất dài về 295 nguồn trích dẫn cho toàn bản văn.

 

Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích

BẢN HƯỚNG DẪN

Redemptionis Sacramentum

Về Một Số Vấn Đề Cần Phải Tuân Giữ Hay Tránh Lánh
Liên Quan Đến Thánh Thể Chí Thánh
 


Nội Dung
Lời mở đầu (1-3)
Chương I: Qui lệ về Phụng Vụ Thánh (14-18)
1. Giám Mục Địa Phận, Vị Thượng Tế của Đàn Chiên (19-25)
2. Hội Đồng Giám Mục (26-28)
3. Các Vị Linh Mục (29-33)
4. Các Vị Phó Tế (34-35)

Chương II: Việc Kitô Hữu Giáo Dân Tham Dự Vào Việc Cử Hành Thánh Thể
1. Việc Tham Dự Chủ Động Và Ư Thức (36-42)
2. Các Thừa Tác Vụ Của Kitô Hữu Giáo Dân Trong Việc Cử Hành Thánh Lễ (43-47)

Chương III: Việc Cử Hành Thánh Lễ Cách Xứng Hợp
1. Vấn Đề Về Thánh Thể Cực Linh (48-50)
2. Kinh Nguyện Thánh Thể (51-56)
3. Những Phần Khác Của Thánh Lễ (57-74)
4. Việc Liên Kết Những Lễ Nghi Khác Nhau Trong Việc Cử Hành Thánh Lễ (75-79)

Chương IV: Việc Hiệp Lễ
1. Những Điều Kiện Để Hiệp Lễ (80-86)
2. Việc Cho Rước Lễ (87-96)
3. Việc Hiệp Lễ Của Các Linh Mục (97-99)
4. Việc Hiệp Lễ Dưới Hai H́nh (100-107)

Chương V: Một Số Vấn Đề Khác Liên Quan Đến Thánh Thể
1. Địa Điểm Cử Hành Thánh Lễ (108-109)
2. Những Hoàn Cảnh Khác Liên Quan Đến Thánh Lễ (110-116)
3. Các Đồ Thánh (117-120)
4. Áo Lễ (121-128)

Chương VI: Việc Lưu Giữ Thánh Thể và Việc Tôn Thờ Thánh Thể Ngoài Thánh Lễ
1. Việc Lưu Giữ Thánh Thể (129-133)
2. Một Số H́nh Thứ Tôn Thờ Thánh Thể Ngoài Thánh Lễ (134-141)
3. Những Cuộc Rước Kiệu và Những Cuộc Hội Nghị Thánh Thể (142-145)

Chương VII: Những Phận Vụ Đặc Biệt Của Thành Phần Tín Hữu Giáo Dân (146-153)
1. Thừa Tác Viên Thánh Thể Ngoại Lệ (154-160)
2. Giảng Trong Thánh Lễ (161)
3. Những Việc Cử Hành Đặc Biệt Được Thực Hiện Khi Thiếu Linh Mục (162-167)
4. Những Người Đă Bỏ Hàng Ngũ Giáo Sĩ (168)

Chương VIII: Những Phương Trị (169-171)
1. Graviora Delicta (172)
2. Những Vấn Đề Trầm Trọng (173)
3. Những Vấn Đề Lạm Dụng Khác (174-175)
4. Vị Giám Mục Giáo Phận (176-180)
5. Ṭa Thánh (181-182)
6. Những Phàn Nàn Về Các Sự Lạm Dụng Trong Những Vấn Đề Phụng Vụ (183-184)
 

Kết Luận (185-186)

 

Lời Mở Đầu


1.     Trong Bí Tích Thánh Thể Cực Linh, Mẹ Giáo Hội vững tin nh́n nhận Bí Tích cứu chuộc này (1), hân hoan ôm ấp lấy bí tích ấy, cử hành bí tích ấy và tôn thờ lưu giữ bí tích ấy, khi loan truyền việc Chúa Giêsu Kitô chịu chết và tuyên xưng việc Người Sống Lại cho đến khi Người đến trong vinh quang (2) để, với tư cách là Chúa Tể và Chủ Trị, là Vị Tư Tế vĩnh cửu và là Vua Vũ Trụ, trao vương quốc sự thật và sự sống cho Cha Toàn Năng uy nghi cao cả (3).


2.     Tín lư của Giáo Hội về Thánh Thể Cực Linh, một Thánh Thể chất chứa tất cả kho tàng linh thiêng của Giáo Hội là Chúa Kitô, Con Chiên Vượt Qua của chúng ta (4) – Thánh Thể, nguồn mạch và là tột đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo (5), là nguyên động lực cho chính nguồn gốc của Giáo Hội (6), đă được dẫn giải một cách thận trọng và đầy thẩm quyền qua các thế kỷ nơi các bản văn của các Công Đồng cũng như của các Vị Giáo Hoàng. Thật vậy, gần đây nhất, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia, đă một lần nữa nêu lên một số yếu tố rất quan trọng về vấn đề này liên quan tới những t́nh trạng của giáo hội ở thời đại chúng ta đây (7).


Để đặc biệt bảo toàn một cách xứng hợp việc Giáo Hội cử hành Phụng Vụ Thánh là một mầu nhiệm rất cao cả trong thời đại của chúng ta nữa, Vị Giáo Hoàng này đă truyền lệnh cho Thánh Bộ Thờ Phượng và Bí Tích (8), liên hợp với Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin, phải soạn dọn Bản Hướng Dẫn này để giải quyết một số vấn đề liên quan đến qui lệ của Bí Tích Thánh Thể. Những điều trong Bản Hướng Dẫn này, bởi thế, cần phải được đọc theo chiều hướng của bức Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia được đề cập đến trên đây.


Chủ ư chính yếu ở đây không phải là soạn dọn một bản tóm lược về các thứ qui tắc liên quan đến Thánh Thể Cực Linh, mà là để tiếp tục nhắc lại trong Bản Hướng Dẫn này một số yếu tố về các qui tắc phụng vụ đă được dẫn giải hay qui định trước đây song cho đến nay vẫn c̣n hiệu lực để bảo đảm được việc thấu hiểu hơn nữa các qui tắc về phụng vụ này (9); để thiết lập một số qui tắc giúp thực hiện những qui tắc trước đây đă được giải thích và bổ khuyết; cũng như để phác họa cho các Vị Giám Mục, cũng như Linh Mục, Phó Tế và Kitô hữu giáo dân biết phần vụ của ḿnh trong việc thi hành những qui tắc ấy, theo trách nhiệm của ḿnh và trong tầm tay của ḿnh.


3.     Những qui tắc trong Bản Hướng Dẫn này cần phải được hiểu là những ǵ liên quan đến các vấn đề về phụng vụ theo Lễ Nghi Rôma, và các vấn đề mutatis mutandis theo các Lễ Nghi khác của Giáo Hội Latinh đă đáng được giáo luật nh́n nhận.


4.     “Việc canh tân phụng vụ được Công Đồng Chung Vaticanô II ban hành thực sự đă góp phần rất nhiều vào việc ư thức, chủ động và hiệu nghiệm tham dự vào Hy Tế Thánh trên Bàn Thờ về phía tín hữu” (10). Thậm chí là như thế “vẫn không thiếu những bóng tối” (11). Về vấn đề này không thể không nói lên những sự lạm dụng, thậm chí những lạm dụng rất trầm trọng, phản lại với bản chất của Phụng Vụ, của các Bí Tích cũng như của truyền thống và thẩm quyền Giáo Hội, những lạm dụng trong thời đại của chúng ta đây vẫn thường gây phiền toái cho những việc cử hành phụng vụ ở các trường hợp khác nhau trong giáo hội. Ở một số nơi diễn biến của những lạm dụng về phụng vụ này đă hầu như trở thành thói lệ, một sự kiện thực sự không thể nào để xẩy ra và cần phải ngưng lại.


5.     Việc tuân giữ những qui tắc được thẩm quyền Giáo Hội ban hành đ̣i phải có thái độ tuân hợp cả về tư tưởng lẫn ngôn từ, cả về hành động về ngoài lẫn việc chấp thuận của con tim. Việc chỉ thuần túy tuân giữ các qui tắc về bề ngoài hoàn toàn ngược lại với bản chất của Phụng Vụ Thánh là phụng vụ chính Chúa Kitô muốn qui tụ Giáo Hội của Người lại với nhau để cùng với Người Giáo Hội trở thành “một thân thể và một tinh thần” (12). Đó là lư do hành động bề ngoài cần phải được soi động bởi đức tin và đức ái là những ǵ liên kết chúng ta với Chúa Kitô cũng như với nhau và làm nẩy sinh ra t́nh yêu thương thành phần nghèo khổ và bị bỏ rơi. Ngoài ra, những ngôn từ và tác động phụng vụ là một biểu hiện trung thực, đă được h́nh thành qua các thế kỷ, cho thấy việc hiểu biết về Chúa Kitô, và chúng dạy cho chúng ta nghĩ tưởng như chính Người đă nghĩ tưởng (13); bằng việc tâm trí chúng ta tuân hợp với những ngôn từ phụng vụ ấy, chúng ta nâng ḷng chúng ta lên với Chúa. Tất cả những ǵ được đề cập đến trong Bản Hướng Dẫn này đều được nhắm đến liên kết kiến thức riêng của chúng ta với kiến thức của Chúa Kitô, như được thể hiện nơi những ngôn từ và lễ nghi Phụng Vụ.


6.     Có những thứ lạm dụng “làm lu mờ đức tin và tín điều Công Giáo liên quan đến bí tích tuyệt diệu này” (14). Bởi thế, những thứ lạm dụng ấy cũng làm ngăn trở tín hữu “tái cảm nghiệm thấy một cách nào đó của hai môn đệ đi về làng Emmau: ở chỗ ‘mắt của họ mở ra và họ nhận ra Người’” (15). Bởi v́, trước sự hiện diện quyền năng và thần tính của Thiên Chúa (16) cũng như trước ánh rạng ngời đầy ḷng thiện hảo của Ngài, những ǵ được biểu lộ đặc biệt nơi Bí Tích Thánh Thể, th́ tất cả mọi tín hữu cần phải có và thực hiện khả năng nhận biết sự uy nghi cao cả của Thiên Chúa, một khả năng họ đă nhận được nhờ Cuộc Khổ Nạn cứu độ của Người Con Duy Nhất (17).


7.     Những lạm dụng thường được bắt nguồn từ một thứ hiểu biết sai lạc về tự do. Thế nhưng, Thiên Chúa đă không ban cho chúng ta nơi Chúa Kitô một thứ tự do hăo huyền để chúng ta muốn làm ǵ th́ làm, mà là một thứ tự do chúng ta nhờ đó làm những ǵ xứng hợp và đúng đắn (18). Điều này đúng chẳng những đối với các chỉ thị do Thiên Chúa trực tiếp ban bố, mà c̣n với cả các luật lệ do Giáo Hội ban hành nữa, những luật lệ hợp với bản chất của mỗi qui tắc. V́ lư do này mà tất cả mọi người cần phải tuân hợp với những qui định được thẩm quyền hợp pháp của giáo hội phác họa.


8.     Bởi thế, cần phải nhận định với tất cả tiếc xót là “có những khởi xướng chung mang ư hướng tốt lành song đă có những lúc buông lỏng nơi những việc thực hành về Thánh Thể ngược lại với luật phép nói lên đức tin của Giáo Hội”. Tuy nhiên, Thánh Thể “là một tặng ân quá cao cả không thể chấp nhận tính cách mập mờ hay lệch lạc”. Do đó một số điều cần phải được sửa chữa hay được tŕnh bày lại cho rơ ràng hơn để cả về khía cạnh này nữa “Thánh Thể tiếp tục chiếu tỏa tất cả mầu nhiệm của ḿnh” (19).


9.     Sau hết, những thứ lạm dụng thường phát xuất từ sự vô thức, những thứ lạm dụng có khuynh hướng phủ nhận những yếu tố mang một ư nghĩa sâu xa không được thấu hiểu và là những yếu tố có tính cách cổ kính không được công nhận. V́ “những kinh nguyện phụng vụ, những bài đọc cũng như những bài hát tràn đầy hứng khởi và sinh động” từ chính các Sách Thánh, “và chính từ những Sách Thánh này đă phát xuất ra ư nghĩa của các tác động và dấu hiệu bề ngoài” (20). Những dấu hiệu hữu h́nh là “những ǵ Phụng Vụ Thánh sử dụng để nói lên những thực tại thần linh vô h́nh, là những ǵ được Chúa Kitô hay Giáo Hội chọn dùng” (21). Sau hết, những cấu trúc và h́nh thức của các việc cử hành thánh theo cả Lễ Nghi Đông lẫn Tây đều hợp với việc thực hành của Giáo Hội hoàn vũ cũng như với những thực hành được phổ cập lănh nhận theo truyền thống tông truyền liên tục (22), một truyền thống Giáo Hội có nhiệm vụ phải trung thực và trân trọng truyền đạt cho các thế hệ hậu lai. Tất cả những cấu trúc và h́nh thức của các việc cử hành thánh ấy đều được các qui tắc về phụng vụ khôn ngoan bảo toàn và bảo vệ.


10.     Chính Giáo Hội cũng không có quyền trên những điều được chính Chúa Kitô thiết lập và là những ǵ cấu tạo nên phần bất khả đổi thay của Phụng Vụ (23). Thật vậy, nếu mối liên hệ này bị đứt đoạn, mối liên hệ các Bí Tích cần phải có với chính Chúa Kitô là Đấng thiết lập những bí tích ấy cũng như với những biến cố thành lập Giáo Hội (24), th́ chẳng mang lại lợi ích ǵ cho tín hữu mà chỉ trầm trọng tác hại họ thôi. V́ Phụng Vụ Thánh liên kết hết sức mật thiết với những nguyên tắc tín lư (25) mà việc sử dụng những bản văn và những nghi thức không được chuẩn nhận cần có sẽ dẫn đến chỗ, một là làm suy giảm hoặc là làm mất đi mối liên hệ cần thiết giữa qui tắc ngôn từ và tin tưởng lex orandi và lex credendi (26).


11.     Mầu Nhiệm Thánh Thể là những ǵ “quá cao cả khiến ai cũng nghĩ ḿnh được tùy nghi hành sử tùy theo ư thích riêng tư của ḿnh, làm cho tính cách linh thánh của mầu nhiệm này cũng như giá trị phổ quát của mầu nhiệm ấy bị lu mờ đi” (27). Trái lại, ai hành động như vậy, theo những khuynh hướng tự do của ḿnh, cho dù là Linh Mục, cũng làm tổn hại đến sự hiệp nhất chính yếu của Lễ Nghi Rôma là những ǵ cần phải cương quyết bảo tŕ (28), và phải chịu trách nhiệm về những hành động không hợp với nỗi đói khát Thiên Chúa hằng sống, những nỗi đói khát con người ngày nay đang cảm thấy. Chẳng có hành động nào như vậy giúp vào việc chăm sóc về mục vụ chân thực hay vào việc canh tân phụng vụ xứng hợp cả; ngược lại, những hành động ấy c̣n làm cho thành phần tín hữu của Chúa Kitô bị hụt hẫng mất cái gia sản và di sản của họ. V́ những hành động chủ quan độc đoán chẳng mang lại ích lợi ǵ cho việc canh tân đích thực (29), mà chỉ gây thiệt hại đến quyền lợi của thành phần tín hữu Chúa Kitô đối với việc cử hành phụng vụ là việc biểu hiện đời sống của Giáo Hội hợp với truyền thống và qui luật của Giáo Hội. Sau hết, những hành động ấy gieo những yếu tố lệch lạc và bất ḥa vào chính việc cử hành Thánh Thể, một việc cử hành theo cung cách cao quí riêng của ḿnh, và tự bản chất biểu hiệu cho cũng như tuyệt vời mang lại mối hiệp thông sự sống thần linh và mối hiệp nhất Dân Chúa (30). Hậu quả gây ra đó là t́nh trạng bất định về các vấn đề tín lư, t́nh trạng bối rối và gương mù về phía Dân Chúa, và t́nh trạng chống đối mănh liệt hầu như là một hậu quả thiết yếu, tất cả những hậu quả này đều gây ra đầy những lầm lẫn và xót xa nơi nhiều người tín hữu trong thời đại của chúng ta đây, thời đại mà đời sống Kitô hữu đặc biệt thường gặp khó khăn trước những thứ xâm nhập của “vấn đề tục hóa” nữa (31).


12.     Trái lại, chính v́ quyền lợi của tất cả mọi người tín hữu của Chúa Kitô mà Phụng Vụ, nhất là việc cử hành Thánh Lễ, cần phải được thực sự theo như Giáo Hội muốn, theo những qui định được phác họa trong các sách về phụng vụ cũng như trong các luật lệ và qui tắc khác. Cũng thế, dân Công Giáo có quyền đ̣i hỏi Hy Tế Thánh Lễ phải được cử hành một cách toàn vẹn, theo tín lư nguyên trọn của Huấn Quyền Giáo Hội. Sau hết chính v́ quyền lợi của cộng đồng Công Giáo mà việc cử hành Thánh Thể Cực Linh cần phải được thi hành một cách thực sự cho thấy Thánh Thể Cực Linh này là một bí tích của mối hiệp nhất, loại trừ tất cả những nhược điểm và những hành động có thể làm phát sinh chia rẽ và phân mảnh trong Giáo Hội (32).


13.     Tất cả mọi qui tắc và khuyến dụ được phác họa tronmg Bản Hướng Dẫn này đều liên kết, mặc dù bằng những đường lối khác nhau, với sứ vụ của Giáo Hội, một Giáo Hội có nhiệm vụ khôn ngoan chú ư tới việc cử hành xác đáng và xứng đáng một mầu nhiệm cao cả như thế. Chương cuối cùng của Bản Hướng Dẫn này sẽ bàn đến những cấp độ khác nhau liên quan đến mối liên hệ giữa các qui tắc riêng với qui tắc tối hậu của tất cả luật lệ giáo hội, tức là liên quan đến phần rỗi của các linh hồn (33).

 

Chương I


Qui Luật về Phụng Vụ Thánh
(14-18)


14.     “Việc qui định Phụng Vụ Thánh hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Giáo Hội, đặc biệt thuộc thẩm quyền Ṭa Thánh, và theo các qui tắc về luật lệ, thuộc thẩm quyền của Vị Gám Mục (34).


15.     Đức Giáo Hoàng Rôma, “Vị Đại Diện Chúa Kitô và là Vị Chủ Chiên của Giáo Hội hoàn vũ trên trần gian có toàn quyền trực tiếp và phổ quát, một quyền bính bao giờ cũng được Ngài tự do hành sử” (35), theo sứ vụ tối cao của ḿnh, cũng như với các vị mục tử và với các phần tử của đàn chiên bằng cách truyền đạt.


16.     “Ṭa Thánh cần phải qui định Phụng Vụ Thánh cho Giáo Hội hoàn vũ, phải ban hành các sách về phụng vụ và phê chuẩn các bản dịch sang tiếng bản xứ, cũng như phải bảo đảm rằng những qui định về phụng vụ, nhất là những qui định điều hành một việc cử hành hết sức cao trọng Hy Tế Thánh Lễ, cần phải được các nơi trung thành tuân giữ” (36).


17.     “Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích chú ư tới những vấn đề liên quan đến Ṭa Thánh về việc qui định và cổ vơ Phụng Vụ Thánh, nhất là các Phép Bí Tích, những vấn đề cũng xứng hợp với thẩm quyền của Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin. Thánh Bộ Phương Tự và Bí Tích nuôi dưỡng và áp dụng qui luật bí tích, nhất là liên quan đến tính cách thành hiệu của các phép bí tích cũng như đến việc cử hành hợp lệ của các phép bí tích này”. Sau hết, Thánh Bộ này cũng “cẩn thận tím cách để bảo đảm là các qui định về phụng vụ cần phải được tuân giữ chính xác, và cần phải ngăn ngừa hay loại trừ những thứ lạm dụng bất cứ thấy chúng ló hiện ở đâu” (37). Về vấn đề này, theo truyền thống của Giáo Hội hoàn vũ, mối quan tâm tối yếu là việc cử hành Thánh Lễ cũng như tới việc tôn thờ đối với Thánh Thể ngay cả ở ngoài Thánh Lễ.


18.     Thành phần tín hữu của Chúa Kitô có quyền đ̣i hỏi thẩm quyền giáo hội phải qui định một cách đầy đủ và hiệu nghiệm Phụng Vụ Thánh kẻo Phụng Vụ Thánh trở thành “sở hữu riêng của bất cứ ai, dù của thừa tác viên hay của cộng đồng cử hành các mầu nhiệm này” (38).


1. Giám Mục Địa Phận, Vị Thượng Tế của Đàn Chiên (19-25)


19.     Vị Giám Mục giáo phận, vị đệ nhất thủ quản các mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Giáo Hội riêng được trao phó cho ngài, là người điều hành, cổ động và coi sóc toàn thể sinh hoạt phụng vụ của giáo hội địa phương này (39). V́ “vị Giám Mục, được lănh nhận trọn vẹn Bí Tích Truyền Chức Thánh, là ‘người quản lư ân sủng của thiên chức Linh Mục cao cả’ (40), nhất là nơi Thánh Thể được chính ngài dâng lễ hay ban quyền dâng lễ để nhờ đó Giáo Hội tiếp tục sống động và phát triển” (42).


20.     Thật vậy, việc biểu lộ cao cả nhất của Giáo Hội được thể hiện khi cử hành các nghi thức Thánh Lễ, nhất là ở Vương Cung Thánh Đường, “với sự tham dự trọn vẹn và chủ động của toàn thể Dân thánh Chúa, cùng hiệp nhau trong một tác động nguyện cầu, nơi bàn thờ có vị Giám Mục chủ sự”, chung quanh ngài là hàng giáo sĩ, bao gồm cả những vị Phó Tế và các thừa tác viên (43). Ngoài ra, “hết mọi cuộc cử hành Thánh Thể hợp pháp đều được điều khiến bởi vị Giám Mục là người được trao phó cho sứ vụ hướng dẫn việc tôn thờ Kitô giáo đối với Đấng Thần Linh Cao Cả, cũng như sắp xếp việc cử hành này theo những chỉ thị của Chúa và luật lệ của Giáo Hội, những ǵ được chi tiết hóa theo phán đoán riêng của ngài để áp dụng cho Giáo Phận ḿnh” (44)


21.     Bởi thế, vị Giám Mục giáo phận cần phải, “trong quyền hạn của ḿnh, phác họa những qui tắc phụng vụ ở Giáo Phận của ḿnh cho hết mọi người buộc phải tuân giữ” (45). Chưa hết, vị Giám Mục c̣n phải chú ư đừng loại bỏ đi cái tự do đă được các sách về phụng vụ thấy trước và cho phép hầu việc cử hành được thích ứng một cách khôn ngoan với cơ sở của Giáo Hội, hay với nhóm tín hữu hiện diện, hoặc với những trường hợp mục vụ đặc biệt, để làm sao lễ nghi linh thánh phổ cập được thực sự ḥa hợp với tầm kiến thức của con người (46).


22.     Vị Giám Mục cai quản Giáo Hội riêng được trao phó cho ngài (47), nên ngài có nhiệm vụ qui định, điều khiển, khuyến khích và đôi khi khiển trách (48); đó là một nhiệm vụ thánh ngài đă lănh nhận qua việc Truyền Chức giáo phẩm (49), một nhiệm vụ ngài cần phải chu toàn để xây dựng đàn chiên của ngài trong chân lư và thánh thiện (50). Ngài phải làm sáng tỏ ư nghĩa sâu xa của các lễ nghi cũng như của các bản văn về phụng vụ, phải nuôi dưỡng tinh thần Phụng Vụ nơi các Linh Mục, Phó Tế và giáo dân (51), để mọi người trong họ tiến đến chỗ chủ động và hiệu nghiệm cử hành Thánh Thể (52), và ngài cũng phải làm sao để có thể bảo đảm được rằng toàn thể thân ḿnh Giáo Hội có thể tăng triển việc hiểu biết giống nhau, trong mối hiệp nhất bác ái, nơi giáo phận, ở quốc gia và trên thế giới (53).


23.     Tín hữu “phải gắn bó với vị Giám Mục như Giáo Hội với Chúa Giêsu Kitô, và như Chúa Giêsu Kitô với Chúa Cha, để tất cả được ḥa hợp hiệp nhất, và để họ được tràn đầy vinh quang của Thiên Chúa” (54). Tất cả mọi người, bao gồm các phần tử thuộc những Tổ Chức sống đời tận hiến và các Hội sống đời tông đồ cũng như những phần tử thuộc bât cứ hội đoàn và phong trào nào của giáo hội, đều phải phục quyền của vị Giám Mục địa phận trong tất cả mọi vấn đề về phụng vụ (55), ngoại trừ những quyền được hợp lệ thừa nhận. Bởi thế, vị Giám Mục giáo phận có quyền hạn và nhiệm vụ phải coi sóc cũng như phải chú ư tới các Thánh Đường và các nhà thờ trong giáo phận của ḿnh liên quan tới những vấn đề về phụng vụ, điều này cũng được áp dụng cho những nguyện đường được phần tử thuộc các tổ chức được đề cập đến trên đây thiết lập hay coi sóc, nếu tín hữu thường đến tham dự (56).


24.     Dân Kitô hữu có quyền đ̣i hỏi vị Giám Mục giáo phận của ḿnh phải chú ư làm sao để ngăn ngừa không cho xẩy ra những thứ lạm dụng về qui luật của giáo hội, nhất là những lạm dụng liên quan đến thừa tác vụ lời Chúa, đến việc cử hành các phép bí tích và các á bí tích, đến việc tôn thờ Thiên Chúa cũng như đến việc tôn sùng Chư Thánh (57).


25.     Những ủy ban cũng như nhưng hội đồng hay tiểu ban do vị Giám Mục thiết lập để thực hiện “việc cổ vơ Phụng Vụ, thánh nhạc và nghệ thuật thánh trong giáo phận của ngài” phải hành động theo ư hướng và qui tắc của vị Giám Mục; họ phải tùy thuộc vào quyền bính của ngài và việc chuẩn nhận của ngài để có thể thi hành sứ vụ của ḿnh một cách xứng hợp (58), cũng như để bảo tŕ việc quản trị hiệu nghiệm của vị Giám Mục nơi giáo phận của ngài. Đối với tất cả mọi thứ cơ cấu này hay những thực thể khác cũng như tất cả mọi trách nhiệm nơi các vấn đề về phụng vụ, các vị Giám Mục vốn cần phải coi xem công việc họ làm đạt được thành quả tới đâu (59), và cẩn thận để ư tới những thứ thay đổi hay những cải tiến cần phải được thực hiện nơi những phác họa và hoạt động của họ (60), nhờ đó họ được củng cố hơn. Cần nhớ rằng các chuyên viên phải được tuyển chọn trong số những người hiển nhiên có tính cách lành mạnh về đức tin Công Giáo cũng như về kiến thức thần học cùng các vấn đề về văn hóa.


2. Hội Đồng Giám Mục (26-28)


26.     Những điều trên đây cũng được áp dụng cho cả các ủy ban kiểu này do Hội Đồng Giám Mục thiết lập theo ư muốn của Công Đồng Vaticanô II (61), những ủy ban có phần tử là các vị Giám Mục, hoàn toàn khác hẳn với những chuyên viên trợ tá của các vị. Trường hợp không đủ số phần tử thuộc nội bộ của Hội Đồng Giám Mục cho việc thiết lập một cách hiệu năng ủy ban phụng vụ này, bấy giờ mới đi đến chỗ bổ nhiệm một hội đồng hay một nhóm chuyên viên, nhưng bao giờ cũng thuộc quyền chủ tịch của vị Giám Mục, vị hoàn tất vai tṛ chủ tịch này bao nhiêu có thể, cho dù không mang danh xưng thuộc “ủy ban phụng vụ”.


27.     Ngay từ năm 1970, Ṭa Thánh đă thông báo việc ngưng thực hiện tất cả mọi thứ thử nghiệm liên quan đến việc cử hành Thánh Lễ (62), và thông báo này cũng đă được lập lại vào năm 1988 (63). Bởi thế, các vị Giám Mục và Hội Đồng của các vị không có năng quyền để cho phép thử nghiệm những bản văn phụng vụ hay những vấn đề khác được qui định trong các sách phụng vụ. Để thực hiện việc thử nghiệm theo kiểu này trong tương lai, cần phải có phép của Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích. Phép này phải có giấy tờ và phải được Hội Đồng Giám Mục thỉnh nguyện. Thật vậy, phép này không được chấp nhận nếu không có lư do quan trọng. Đối với những dự án hội nhập văn hóa về các vấn đề phụng vụ, những qui tắc đă được ấn định phải được triệt để và trọn vẹn tuân giữ (64).


28.     Tất cả mọi qui tắc về phụng vụ được Hội Đồng Giám Mục thiết lập cho các giáo phận thuộc quyền ḿnh theo luật lệ đều phải tŕnh cho Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích để được phê chuẩn, bằng không những qui tắc ấy không có hiệu lực ǵ hết (65).

 

3. Các Vị Linh Mục (29-33)


29. Các vị Linh Mục, với tư cách là những công sự viên có khả năng, khôn ngoan và bất khả thiếu của hàng Giám Mục (66), được kêu gọi để phục vụ Dân Chúa, mặc dù mang những trách vụ khác nhau, làm nên một hàng giáo sĩ duy nhất với vị Giám Mục của ḿnh (67). “Ở mỗi một cộng đồng tín hữu địa phương, một cách nào đó, các vị hiện diện hóa vị Giám Mục là đấng các vị liên kết bằng niềm tin tưởng và ḷng quảng đại; theo hàng ngũ của ḿnh, các vị chia sẻ các nhiệm vụ cùng với những mối quan tâm của ngài, và thực hiện những điều này nơi hoạt động hằng ngày của các vị”. “V́ được tham dự vào Thiên Chức Linh Mục và sứ vụ ấy, các vị Lnh Mục phải nh́n nhận Giám Mục thực sự như là người cha của ḿnh và kính cẩn vâng lời ngài” (68). Ngoài ra, “hằng quan tâm tới thiện ích của con cái Thiên Chúa, các vị cần phải t́m cách góp phần vào việc mục vụ của toàn giáo phận, thực sự là vào việc mục vụ của toàn thể Giáo Hội” (69).


30.     Phận sự “đặc biệt thuộc các vị Linh Mục trong việc cử hành Thánh Thể” là một phận sự cao cả, “v́ các vị có trách nhiệm nhân danh Chúa Kitô đóng vai tṛ chủ tế Thánh Thể và tỏ ra những chứng từ cùng những việc phục vụ mối hiệp thông, chẳng những cho cộng đồng dân Chúa trực tiếp tham phần vào việc cử hành, mà c̣n cho Giáo Hội hoàn vũ, một mối hiệp thông bao giờ cũng được thể hiện nơi việc cử hành Thánh Thể. Ở đây cần phải than tiếc, nhất là những năm sau cuộc canh tân phụng vụ hậu Công Đồng Vaticanô II, v́ hậu quả của một cảm quan sáng tạo và thích ứng lầm lẫn, đă xẩy ra một số những thứ lạm dụng từng trở thành nguyên cớ gây khổ tâm cho nhiều người” (70).


31.     Để giữ những lời hứa long trọng được tuyên thệ trong nghi thức Chịu Chức Thánh và được lập lại mỗi năm trong Thánh Lễ Truyền Dầu, các vị Linh Mục hăy cử hành “các mầu nhiệm của Chúa Kitô một cách sốt sắng và trung thực để chúc tụng Thiên Chúa và thánh hóa dân Kitô hữu, theo truyền thống của Giáo Hội, nhất là về Hiến Tế Thánh Thể và Bí Tích Ḥa Giải” (71). Các vị không được lệch lạc khỏi ư nghĩa sâu xa nơi thừa tác vụ của các vị bằng cách làm hư hoại việc cử hành phụng vụ, ở chỗ thay đổi hay bỏ đi hoặc chủ quan thêm thắt (72). V́ như Thánh Ambrôsiô nói: “Không phải là ở nơi chính ḿnh…. mà là nơi chúng ta Giáo Hội đă bị tổn thương. Chúng ta hăy coi chừng đừng để cho việc bại hoại của chúng ta gây tổn thương Giáo Hội” (73). Vậy đừng để cho Giáo Hội Chúa bị tổn thương bởi các vị Linh Mục đă trân trọng dấn thân sống thừa tác vụ của các vị. Thật vậy, dựa vào thẩm quyền của vị Giám Mục, chớ ǵ các vị luôn t́m cách ngăn ngừa những người khác nữa khỏi gây ra những thứ lệch lạc này.


32.     “Chớ ǵ vị Linh Mục Giáo Xứ cố gắng để làm sao cho Thánh Thể Cực Linh trở thành tâm điểm của cộng đồng tín hữu giáo xứ; chớ ǵ ngài hoạt động để làm sao bảo đảm được rằng tín hữu Chúa Kitô được nuôi dưỡng bằng việc sốt sắng cử hành các Bí Tích, nhất là được thường xuyên lănh nhận Thánh Thể Cực Linh và Bí Tích Ḥa Giải; thêm vào đó, chớ ǵ ngài bảo đảm được rằng người tín hữu biết hăng hái cầu nguyện trong gia đ́nh của họ nữa, và tham dự một cách ư thức và chủ động vào Phụng Vụ Thánh là vấn đề mà vị Linh Mục Giáo Xứ, theo thẩm quyền của vị Giám Mục giáo phận, buộc phải điều hành và coi chừng trong giáo xứ của ḿnh hầu ngăn ngừa không để xẩy ra những thứ lạm dụng” (74). Mặc dù ngài cần phải được các phần tử khác nhau thuộc thành phần tín hữu Chúa Kitô giúp đỡ một cách thích hợp vào việc sửa soạn cho tốt đẹp những việc cử hành phụng vụ, ngài vẫn không được nhường cho họ một cách nào đó nơi những điều chỉ xứng hợp cho phần vụ của riêng ngài.


33.     Sau hết, tất cả mọi “vị Linh Mục đều phải đi đến chỗ hăng say gieo văi một cách thích hợp những kiến thức và khả năng phụng vụ của các vị, để qua thừa tác vụ về phụng vụ của các vị, Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần được chúc tụng một cách tuyệt diệu hơn bao giờ hết bởi cộng đồng Kitô hữu được trao phó cho các vị” (75). Nhất là chớ ǵ các vị được đầy những cảm thức ngất ngây là những ǵ Mầu Nhiệm Vượt Qua, khi được cử hành, thấm nhập vào tâm can tín hữu (76).


4. Các Vị Phó Tế (34-35)


34.     Các Vị Phó Tế, “được đặt tay không phải để lănh chức Linh Mục mà là để phục vụ” (77), với tư cách là những con người có danh thơm tiếng tốt (78), cần phải tác hành một cách, nhờ ơn Chúa giúp, họ được công nhận là những người môn đệ thực sự (79) của Đấng “đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” (80), và là Đấng ở giữa các môn đệ “như một người phục dịch” (81). Được củng cố bằng tặng ân Thánh Thần qua việc đặt tay, họ thực hiện việc phục vụ Dân Chúa trong mối hiệp thông với vị Giám Mục và hàng giáo sĩ của ngài (82). Bởi thế, họ phải coi Đức Giám Mục như cha, và giúp đỡ ngài cũng như các vị Linh Mục “trong thừa tác vụ lời Chúa, bàn thờ và bác ái” (83).


35.     Chớ ǵ họ đừng bao giờ thôi, “như Thánh Tông Đồ nói, nắm vững mầu nhiệm đức tin với một lương tâm minh bạch (84), và rao giảng đức tin này bằng lời nói cũng như bằng việc làm theo Phúc Âm cũng như theo truyền thống của Giáo Hội” (85), trong việc nhiệt tâm, trung thành và khiêm tốn phục vụ Phụng Vụ Thánh là nguồn mạch và là tột đỉnh của đời sống giáo hội, “nhờ đó, tất cả mọi người, được trở thành con cái Thiên Chúa bởi đức tin và Phép Rửa, có thể hiệp nhất qui tụ lại với nhau, bằng việc chúc tụng Thiên Chúa giữa ḷng Giáo Hội, để tham dự vào Hy Tế và Bữa của Chúa” (86). Bởi thế, chớ ǵ tất cả mọi Phó Tế hăy thực hiện phần vụ của ḿnh hầu Phụng Vụ Thánh được cử hành theo các qui tắc của các sách phụng vụ được chuẩn nhận thích đáng.

Chương II

Việc Kitô Hữu Giáo Dân Tham Dự Vào Việc Cử Hành Thánh Thể

 

1. Việc Tham Dự Chủ Động Và Ư Thức (36-42)


36. Việc cử hành Thánh Lễ, một tác động của cả Chúa Kitô lẫn Giáo Hội, là tâm điểm của toàn thể đời sống Kitô giáo đối với Giáo Hội hoàn vũ cũng như đối với Giáo Hội riêng, và đối với cả mỗi tín hữu (87), những liên hệ được tham dự “một cách khác nhau theo tính cách đa dạng của cấp trật, thừa tác vụ và chủ động tham phần” (88). Nhờ đó, dân Kitô giáo, “một gịng dơi được tuyển chọn, một hàng tư tế vương giả, một dân tộc thánh thiện, một dân riêng của Chúa” (89), bộc lộ cho thấy cái cấp độ có tính cách liên kết và theo phẩm trật của ḿnh” (90). “V́ chức linh mục chung của tín hữu và Chức Linh Mục thừa tác hay phẩm trật, mặc dù khác nhau theo yếu tính, chứ không phải chỉ ở cấp độ, đều hướng về nhau, bởi cả hai, theo cách thức riêng của ḿnh, đều tham dự vào Thiên Chức Linh Mục duy nhất của Chúa Kitô” (91).


37.     Tất cả mọi tín hữu của Chúa Kitô, được giả thoát khỏi tội lỗi và được tháp nhập vào Giáo Hội nhờ Phép Rửa, đều được, qua tính chất bí tích, thừa ủy nhiệm cho việc thực hiện vấn đề tôn thờ của Kitô giáo (92), để nhờ chức tư tế vương giả của họ, khi họ kiên tŕ nguyện cầu và chúc tụng Thiên Chúa (94), họ có thể hiến dâng chính bản thân họ như là một của lễ hy sinh sống động thánh hảo đáng được Thiên Chúa chấp nhận và chứng thực cho những người khác thấy bằng các việc làm của họ (95), khi làm chứng cho Chúa Kitô trên khắp thế giới và trả lời cho những ai thắc mắc về niềm hy vọng nơi họ liên quan đến sự sống đời đời (96). Bởi thế mà cả việc tham dự của thành phần tín hữu giáo dân vào Thánh Thể cũng như vào các việc cử hành khác nơi các lễ nghi của Giáo Hội không thể nào chỉ ở chỗ hiện diện, lại càng không thể ở chỗ thụ động, mà phải được coi như việc thực hành đức tin và phẩm vị phép rửa.


38.     Giáo huấn liên tục của Giáo Hội về bản tính của Thánh Thể không phải chỉ là một bữa ăn mà c̣n là và nhất là một Hy Tế cần phải được hiểu cho xác đáng là một trong những yếu tố chính yếu đối với việc tham dự trọn vẹn của tất cả mọi tín hữu vào một Bí Tích hết sức cao cả như vậy (97). V́ nếu “tước lột đi ư nghĩa hy tế của ḿnh, th́ ư nghĩa và giá trị của mầu nhiệm này chỉ được hiểu theo ư nghĩa và giá trị của một thứ tiệc tùng huynh đệ vậy thôi” (98)


39.     Để cổ vơ và làm sáng tỏ việc chủ động tham dự, việc canh tân trước đây của các sách phụng vụ theo chiều hướng của Công Đồng Chung Vaticanô II đă đề ra những câu hô của cộng đồng, những lời đối đáp, bài thánh vịnh, những câu đáp ca, và những bài ca vịnh, cũng như những tác động hay chuyển động và cử chỉ, cùng kêu gọi giữ thinh lặng thánh vào những lúc thích hợp, đồng thời cũng có những mục cho cả phần vụ của giáo dân nữa (99). Ngoài ra cũng có cả tính cách linh động giành cho việc sáng tạo thích hợp, theo các qui tắc phụng vụ qui định, nhắm đến chỗ giúp cho mỗi một việc cử hành được ứng thuận với các nhu cầu của thành phần tham dự, với việc ư thức của họ, với t́nh trạng cởi mở nội tâm của họ và với các tặng ân của họ. Nơi những bài hát, những điệu nhạc, việc chọn lựa những kinh nguyện và bài đọc, việc giảng giải, việc soạn dọn lời nguyện giáo dân, những lời nhắn nhủ ngoại lệ tùy dịp, và việc trang hoàng Thánh Đường theo các mùa phụng vụ khác nhau, là những cơ hội tốt để giúp cho mỗi một việc cử hành những ǵ khác biệt thật sự làm phong phú cho truyền thống phụng vụ, nhờ đó, hợp với những đ̣i hỏi của mục vụ, việc cử hành sẽ được từ từ thấm đẫm những tính chất đặc biệt giúp cho tham dự viên dễ cầm trí. Chưa hết, cần phải nhớ rằng năng lực của những việc cử hành phụng vụ không phải là ở tại chỗ thường xuyên thay đổi các thứ lễ nghi, mà là ở chỗ đào sâu lời Chúa cũng như vào mầu nhiệm đang được cử hành (100).


40.     Tuy nhiên, cho dù có sự kiện là việc cử hành phụng vụ quả thực có bao hàm vấn đề hoạt động, nhưng không phải v́ thế mà hết mọi người cần phải làm một điều ǵ đó cụ thể ngoài những hành động và cử chỉ phụng vụ, như thể việc thừa tác phụng vụ riêng biệt nào đó cần phải được trao cho cá nhân để họ thi hành. Trái lại, việc hướng dẫn về giáo lư cần phải cố gắng khôn khéo sửa chữa lại những quan niệm và thực hành nông nỗi đang lan tràn thường thấy xẩy ra trong những năm gần đây liên quan đến vấn đề này, và làm thấm nhiễm một cách mới mẻ vào tất cả mọi tín hữu Chúa Kitô cái cảm quan sâu xa ngây ngất trước tính cách cao cả của mầu nhiệm đức tin là Thánh Thể, một Thánh Thể mà việc cử hành của Giáo Hội đă vĩnh viễn vượt từ những ǵ lỗi thời đến sự sống mới: “in novitatem a vetustate” (101). V́ nơi việc cử hành Thánh Thể, cũng như nơi tất cả đời sống Kitô giáo được bắt nguồn từ năng lực của việc cử hành Thánh Thể cũng như dẫn đến việc cử hành Thánh Thể, mà Giáo Hội, theo cung cách của Thánh Tôma Tông Đồ, qú xuống tôn thờ trước Vị Chúa bị đóng đanh, khổ nạn và tử nạn, được an táng và sống lại, rồi măi măi than lên với Đấng tràn đầy ánh quang thần linh rằng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi!” (102).


41.     Để khuyến khích, cổ vơ và nuôi dưỡng ư thức sâu xa này về việc tham dự vào phụng vụ, rất cần phải thực hiện việc cử hành Giờ Kinh Phụng Vụ một cách liên tục và rộng răi, việc sử dụng các á bí tích và những việc thực hành ḷng đạo đức thông dụng của Kitô giáo. Những việc thực hành ḷng đạo đức thông dụng này, những việc “tuy không thuộc về Phụng Vụ theo nghĩa ngặt, cũng đóng một vai tṛ đặc biệt quan trọng và sáng giá”, được coi như có một liên hệ nào đó với tương quan phụng vụ, nhất là khi chúng được khen ngợi và chứng thực bởi chính Huấn Quyền (103), như trường hợp Kinh Mân Côi Thánh Mẫu (104). Ngoài ra, v́ những việc thực hành ḷng đạo đức phổ thông này dẫn dân Kitô giáo đến chỗ chẳng những lănh nhận các phép bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, c̣n đến cả “việc suy niệm các mầu nhiệm Cứu Chuộc của chúng ta và đến chỗ bắt chước những gương tuyệt hảo của Chư Thánh trên trời, mà chúng không phải là không có những tác dụng hữu ích cho việc chúng ta tham dự việc tôn thờ phụng vụ” (105).


42.     Cần phải nh́n nhận rằng Giáo Hội đă không được qui tụ lại bởi ư muốn của con người; trái lại, Giáo Hội được kêu gọi qui tụ lại bởi Thiên Chúa trong Thánh Thần, và Giáo Hội đă tin tưởng đáp lại lời mời gọi tự động của Ngài (bởi thế chữ ekklesia mới liên hệ tới chữ klesis hay với chữ “mời gọi”) (106). Hiến Tế Thánh Thể cũng không được coi như là một “cuộc đồng tế”, theo nghĩa độc thoại, của vị Linh Mục cùng với thành phần giáo dân hiện diện (107). Trái lại, Thánh Thể được các vị Linh Mục cử hành “là một tặng ân thực sự vượt trên năng quyền của cộng đồng…. Cộng đồng qui tụ lại để cử hành Thánh Thể nhất định cần phải có một vị Linh Mục được thụ phong, tức vị chủ tế để cộng đồng này thực sự trở thành một cộng đồng thánh thể. Mặt khác, tự ḿnh cộng đồng không có khả năng để cung cấp một vị thừa tác viên thánh chức” (108). Rất cần phải hợp ư với nhau để tránh đi tất cả mọi thứ mập mờ về vấn đề này cũng như để chữa trị những khó khăn xẩy ra trong những năm vừa rồi. Đó là lư do những từ ngữ như “cộng đồng cử hành” hay “hội đồng cử hành” (các thứ ngôn ngữ khác là “asamblea celebrante”, “assemblée célébrante”, “assemblea celebrante”) và những từ ngữ tương tự như vậy không được phép sử dụng một cách bừa băi.

 

2. Các Thừa Tác Vụ Của Kitô Hữu Giáo Dân Trong Việc Cử Hành Thánh Lễ (43-47)


43.     V́ thiện ích của cộng đồng cũng như của toàn Giáo Hội Chúa, một số tín hữu giáo dân, theo truyền thống, được làm những thừa tác vụ trong việc cử hành Phụng Vụ Thánh một cách xứng hợp và xứng đáng (109). Thật là thích hợp có một số người thay nhau thực hiện những thừa tác vụ khác nhau hay những phần việc khác nhau của cùng một thừa tác vụ (110).


44.     Có nhiều thừa tác vụ thừa tác được thiết lập hợp lệ ngoài thừa tác vụ giúp lễ và đọc sách (111), th́ phần vụ quan trọng nhất của những thừa tác vụ này là thừa tác vụ giúp lễ (112) và đọc sách (113) được tạm ủy nhiệm. Ngoài hai thừa tác vụ này c̣n có các thừa tác vụ khác được đề cập đến trong Sách Lễ Rôma (114), cũng như những phần vụ làm bánh lễ, giặt các khăn phụng vụ và những việc giống như vậy. Tất cả mọi người, “dù là các vị thừa tác viên có thánh chức hay tín hữu giáo dân, khi thực hiện phần nhiệm hay thừa tác vụ của ḿnh, đều phải làm một cách chuyên chú và trọn vẹn những ǵ liên quan đến phần nhiệm hay thừa tác vụ của ḿnh” (115). Trong việc cử hành phụng vụ cũng như trong việc sửa soạn cử hành này, họ phải làm những ǵ cần thiết để Phụng Vụ của Giáo Hội được thi hành một cách xứng đáng và xứng hợp.


45.     Cần phải làm sao tránh được mối nguy hiểm có thể làm lu mờ đi mối liên hệ bổ khuyết cho nhau giữa tác động của hàng giáo sĩ với tác động của giáo dân, ở chỗ, thừa tác vụ của giáo dân đóng vai tṛ thực hiện những ǵ được gọi là “giáo sĩ hóa”, trong khi đó các vị thừa tác viên có thánh chức lại ở trong vị thế bất tương xứng làm những ǵ chỉ am hợp cho đời sống và hoạt động của thành phần giáo dân (116).


46.     Người Kitô hữu giáo dân được mời gọi để giúp vào việc cử hành phụng vụ cần phải được hướng dẫn cẩn thận và phải là những người đáng khen về đời sống Kitô hữu, luân lư và ḷng trung thành với Huấn Quyền. Một con người như thế cần phải được đào luyện về phụng vụ tùy theo tuổi tác, hoàn cảnh, bậc sống và văn hóa về tôn giáo của họ (117). Không được chọn bất cứ ai có thể làm cho tín hữu lấy làm kinh ngạc (118).


47.     Cần phải duy tŕ tục lệ cao đẹp vốn giành cho các em trai hay các em thiếu nam, thường được gọi là các em giúp lễ, trong việc phục vụ bàn thờ theo cung cách của các thừa tác viên giúp lễ, và hướng dẫn giáo lư cho các em biết phần việc của các em theo khả năng hiểu biết của các em (119). Không được quên rằng một số lớn các vị thừa tác viên có chức thánh qua các thế kỷ đă từng là những em trai giúp lễ như thế (120). Cần phải thiết lập hay cổ vơ những hiệp hội cho các em này, bao gồm cả việc tham phần và hỗ trợ của cha mẹ các em, nhờ đó các vị thừa tác viên sẽ được hỗ trợ hơn nữa trong việc thi hành thừa tác mục vụ. Khi các hiệp hội này trở thành có tính cách quốc tế th́ Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích có nhiệm vụ phải thiết lập hay chuẩn nhận và sửa chữa những qui chế của các hiệp hội ấy (121). Các em gái hay phụ nữ cũng được tham gia vào việc phục vụ bàn thờ, tùy theo phán quyết khôn ngoan của vị Giám Mục giáo phận cũng như phải hợp với những qui tắc được qui định (122).


 

Chương III

Việc Cử Hành Thánh Lễ Cách Xứng Hợp



 

1. Vấn Đề Về Thánh Thể Cực Linh (48-50)


48.     Bánh được dùng để cử hành Hiến Tế Thánh Thể Cực Linh phải là thứ bánh không men, thuần túy lúa miến, và mới được làm để tránh bị hư hoại (123). Bởi thế, thứ bánh được làm bởi chất khác, cho dù là bằng hạt giống, hay bị pha trộn với thứ chất khác với lúa miến cho đến độ vốn không được coi là bánh lúa miến, th́ không làm nên chất thể hiệu thành cho Hy Tế và Bí Tích Thánh Thể (124). Thật là một lạm dụng trầm trọng trong việc trộn những chất khác, như trái cây, đường hoặc mật ong với bánh để làm thành Thánh Thể. Bánh Thánh cần phải được tỏ tường làm bởi những người chẳng những nổi bật về tính chất liêm chính của họ mà c̣n tài khéo làm việc này với những dụng cụ thích hợp nữa (125).


49.     V́ là dấu hiệu, nên tối thiểu một số phần của Bánh Thánh Thể được làm thành bởi những mảnh nhỏ cần phải phân phát ít là cho một số tín hữu khi Hiệp Lễ. “Tuy nhiên, số bánh lễ nhỏ luôn phải đáp ứng số những người Hiệp Lễ hay những nhu cầu mục vụ khác cần” (126), và thực sự theo thông lệ hầu hết chỉ cho rước những bánh lễ nhỏ không bị bẻ nhỏ ra.


50.     Rượu được sử dụng trong việc cử hành cực linh Hiến Tế Thánh Thể phải là chất tự nhiên, từ trái nho, tinh khiết và nguyên tuyền, không bị pha trộn với các chất khác (127). Trong khi cử hành cần pha một chút nước lă. Hết sức cẩn thận bảo tŕ rượu được dùng cho việc cử hành Thánh Thể, đừng để bị chua (128). Cấm không được sử dụng loại rượu không rơ về tính chất trung thực hay nguyên tuyền của nó, v́ Giáo Hội cần bảo đảm những điều kiện cần thiết đối với tính cách hiệu thành của các bí tích. Bất cứ v́ lư do nào cũng không được sử dụng những thức uống nào khác, v́ chúng không phải là chất thể hiệu thành.


2. Kinh Nguyện Thánh Thể (51-56)


51.     Chỉ được sử dụng những Kinh Nguyện Thánh Thể trong Sách Lễ Rôma hay được Ṭa Thánh có thẩm quyền chuẩn nhận, theo cách thức và từ ngữ đă được dọn sẵn. “Không thể chấp nhận việc có một số Linh Mục cho rằng ḿnh có quyền sáng chế ra những Kinh Nguyện Thaánh Thể riêng” (129), hay thay đổi bản văn đă được Giáo Hội công nhận, hoặc xen vào những bản văn khác được những cá nhân riêng tư nào đó sáng tác (130).


52.     Việc công bố Kinh Nguyện Thánh Thể, tự bản chất là tột đỉnh của tất cả cuộc cử hành Thánh Thể, xứng hợp cho Linh Mục theo Chức Thánh của ngài. Bởi thế việc lạm dụng xẩy ra khi để cho một Phó Tế, một thừa tác viên giáo dân, hay bởi một phần tử cá nhân tín hữu, hoặc bởi chung tất cả mọi thành phần tín hữu đọc một số phần của Kinh Nguyện Thánh Thể. Vậy chỉ có Linh Mục mới được toàn quyền đọc Kinh Nguyện Thánh Thể mà thôi (131).


53.     Trong khi vị Linh Mục công bố Kinh Nguyện Thánh Thể th́ “không đọc một kinh nguyện nào khác hay ca hát, và dương cầm hoặc các nhạc cụ khác đều phải lặng yên” (132), trừ những lời than của cộng đồng đă được xứng hợp cho phép, như đề cập dưới đây.


54.     Tuy nhiên, cộng đồng luôn phải tham dự một cách chủ động, chứ không phải chỉ hoàn toàn thụ động: khi họ “trong đức tin âm thầm liên kết ḿnh với vị Linh Mục cũng như qua những ứng đáp của họ trong phần Kinh Nguyện Thánh Thể đă được đề cập đến trên đây, tức là qua những lời đối đáp ở lúc trao đổi Tiền Xướng, ở lời Thánh Thánh Thánh, ở lời than sau truyền phép và lời “Amen” sau bài chúc tụng kết, cùng với những lời than khác được Hội Đồng Giám Mục chấp thuận với phép của Ṭa Thánh (133).


55.     Ở một số nơi xẩy ra việc lạm dụng là vị Linh Mục bẻ bánh thánh vào lúc truyền phép trong Thánh Lễ. Việc lạm dụng này phản với truyền thống của Giáo Hội. Nó cần phải bị bác bỏ và sữa lại liền.


56.     Không được bỏ qua việc đề cập đến tên của vị Giáo Hoàng và Giám Mục giáo phận trong Kinh Nguyện Thánh Thể, v́ đây là truyền thống cổ kính nhất caần phải được bảo tŕ, và là một biểu lộ cho thấy việc hiệp thông của giáo hội. V́ “việc qui tụ lại của cộng đồng thánh thể cũng là việc liên kết nên một với vị Giám Mục của ḿnh và với Đức Giáo Hoàng” (134).


3. Những Phần Khác Của Thánh Lễ (57-74)

57.     Cộng động tín hữu Chúa Kitô có quyền nhất là trong việc cử hành Ngày Chúa Nhật, theo thông lệ, với những bản nhạc thánh ca đích thực và xứng hợp, cũng như với bàn thờ, đồ lễ và các khăn thánh xứng đáng, thích hợp và sạch sẽ theo các qui tắc ấn định.


58.     Tất cả mọi tín hữu của Chúa Kitô cũng có quyền tham dự vào một cuộc cử hành Thánh Thể được cẩn thận sửa soạn cho tất cả mọi phần của nó, trong đó, phần lời Chúa được công bố một cách rơ ràng, xứng hợp và tác động; năng quyền chọn lựa các bài đọc và lễ nghi phụng vụ được thận trọng thực hiện theo các qui tắc ấn định; và đức tin của họ cần được bảo tŕ và nuôi dưỡng bởi những lời được xướng hát trong khi cử hành Phụng Vụ.

59. Cần phải chấm dứt những việc thực hiện bị bác bỏ mà vị Linh Mục, Phó Tế hay tín hữu đó đây tự ư thay đổi các bài đọc Phụng Vụ Thánh họ có trách nhiệm phải loan báo. V́ làm như thế là họ khiến cho việc cử hành Phụng Vụ Thánh bị sai lệch, và thường làm hư hoại ư nghĩa chân thực của Phụng Vụ.

60. Trong việc cử hành Thánh Lễ, Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể được liên kết mật thiết với nhau, và làm thành một tác động thờ phượng duy nhất. Đó là lư do không được phép tách biệt những phần này ra khỏi nhau và cử hành những phần ấy vào những lúc hay những nơi khác nhau (135). Cũng không được phép thực hiện các phần riêng biệt của Thánh Lễ ở những lúc khác nhau trong cùng một ngày.

61. Trong việc chọn những bài đọc thánh kinh cho việc loan báo khi cử hành Thánh Lễ, cần phải theo các qui tắc nơi các sách phụng vụ (136), nhờ đó mới có được “một bàn tiệc lời Chúa dồi dào cùng với kho tàng thánh kinh cống hiến cho tín hữu” (137).

62. Cũng không được phép bỏ qua hay thay thế những bài đọc thánh kinh được qui định theo sáng kiến riêng của ai, nhất là “thay thế các bài đọc và bài Đáp Ca là những ǵ chứa đựng lời Chúa bằng những bài đọc khác không phải là thánh kinh” (138).

63. “Trong khi cử hành Phụng Vụ Thánh, việc đọc Phúc Âm là “cao điểm của phần Phụng Vụ Lời Chúa” (139) được Giáo Hội giành cho thừa tác viên có chức thánh (140). Thế nên giáo dân, ngay cả tu sĩ, cũng không được phép công bố bài Phúc Âm khi cử hành Thánh Lễ, hay ở cả những trường hợp khác không được rơ ràng qui định (141).

64. Bài giảng được chia sẻ trong khi cử hành Thánh Lễ và là một phần của chính Phụng Vụ (142) “b́nh thường thuộc về trách nhiệm của chính vị Linh Mục chủ tế. Ngaài có thể ủy thác việc ấy cho vị Linh Mục đồng tế, và tùy hoàn cảnh cho một vị Phó Tế, nhưng không bào giờ cho một giáo dân (143). Trong những trường hợp đặc biệt và có lư do chính đáng, bài giảng có thể được trao cho một vị Giám Mục hay Linh Mục hiện diện trong việc cử hành song không đồng tế” (144).

65. Cần phải nhớ rằng bất cứ qui tắc nào trước đây cho phép thành phần tín hữu không có chức thánh giảng trong khi cử hành thánh thể đều bị qui tắc khoản giáo luật 767.1 coi như băi bỏ (145). Việc thực hành này bị bác bỏ để không c̣n hiệu lực theo tục lệ nữa.

66. Việc cấm không cho thành phần giáo dân giảng trong Thánh Lễ cũng áp dụng vào trường hợp chủng sinh, các sinh viên theo phân khoa thần học, và những ai đóng vai tṛ như là “những phụ tá viên mục vụ”; cũng không có luật trừ cho bất cứ hạng giáo dân, phái nhóm hay cộng đồng hoặc hiệp hội nào (146).

67. Phải đặc biệt chú ư để làm sao bài giảng được đặt nặng vào các mầu nhiệm cứu độ, diễn giải các mầu nhiệm Đức Tin và các qui tắc sống đời Kitô hữu theo các bài đọc thánh kinh cũng như các bản văn phụng vụ trong suốt cả phụng niên, và dẫn giải về các bài đọc của Mùa Thường Niên hay Mùa Thích Hợp của Thánh Lễ, hoặc dẫn giải về một số lễ nghi khác của Giáo Hội (147). Cần phải ư thức rằng tất cả mọi điều giải thích về Sách Thánh đều phải được qui về chính Chúa Kitô như Đấng là mấu chốt của toàn thể công cuộc cứu độ, mặc dù điều này cần phải thực hiện theo ư nghĩa của trường hợp đặc biệt cho việc cử hành phụng vụ. Cần phải chú trọng trong việc giảng giải để ánh sáng của Chúa Kitô chiếu giăi chiếu tỏ vào những biến cố của cuộc sống. Để được như thế, cần phải làm sao để không làm lu mờ lời chân thực và nguyên tuyền của Chúa: chẳng hạn chỉ nói đến vấn đề chính trị hay những vấn đề tục hóa, hoặc trích dẫn những quan niệm phát xuất từ các trào lưu ngụy giáo hiện thời (148).

68. Vị Giám Mục giáo phận phải thận trọng để ư tới việc thuyết giảng (149), cũng như phổ biến các qui tắc và cung cấp những bản hướng dẫn cũng như các dụng cụ hỗ trợ cho các vị thừa tác viên thánh chức, và phát động các cuộc họp hội cùng nhưng dự án khác nhắm đến mục đích này, nhờ đó họ có cơ hội hiểu chính xác hơn về bản chất của bài giảng và dễ dàng dọn bài giảng.

69. Trong Thánh Lễ cũng như trong các cuộc cử hành Phụng Vụ Thánh khác, không được sử dụng một Kinh Tin Kính hay Bản Tuyên Xưng Đức Tin nào khác ngoài những sách phụng vụ đă được chuẩn nhận xứng hợp.

70. Các lễ vật tín hữu Chúa Kitô thường dâng cho Phụng Vụ Thánh Thể trong Thánh Lễ không nhất thiết phải là bánh và rượu cần cho việc cử hành thánh thể, mà c̣n có thể bao gồm cả những tặng vật của tín hữu dưới h́nh thức tiền bạc hay các thứ khác theo ḷng bác ái đối với người nghèo. Chưa hết, những tặng vật bề ngoài bao giờ cũng phải trở thành một biểu hiện tỏ tường cho thấy tặng ân thực sự Thiên Chúa mong mỏi nơi chúng ta, đó là tấm ḷng thống hối, là t́nh yêu Chúa và tha nhân, điều làm cho chúng ta được liên kết với hy tế của Chúa Kitô, Đấng đă hiến ḿnh cho chúng ta. V́ từ nơi Thánh Thể chiếu tỏa ra một ánh sáng chói lọi nhất cho thấy mầu nhiệm bác ái được Chúa Giêsu thực hiện ở Bữa Tiệc Ly bằng việc rửa chân cho các môn đệ của Người. Để bảo tŕ phẩm vị của Phụng Vụ Thánh, trong bất cứ trường hợp nào, những hiến vật bề ngoài cần phải được tiến dâng một cách xứng hợp. Đó là lư do tiền bạc, cũng như các thứ đóng góp khác cho người nghèo, cần phải được đặt ở một nơi thích hợp ở ngoài bàn thánh thể (150). Ngoại trừ tiền bạc và một phần tiêu biểu nhỏ thỉnh thoảng được sử dụng thay cho các tặng vật khác, th́ hay nhất những hiến vật như vậy nên được thực hiện ở ngoài việc cử hành Thánh Lễ.

71. Cần phải bào tŕ việc thực hành Lễ Nghi Rôma bao gồm cả tác động chúc b́nh an trước phần Hiệp Lễ một chút. V́ theo truyền thống Lễ Nghi Rôma th́ việc thực hành này không bao gồm việc ḥa giải hay việc xá tội, mà chỉ tiêu biểu cho sự b́nh an, mối hiệp thông và t́nh bác ái trước khi lănh nhận Thánh Thể Cực Linh (151). Chính Việc Thống Hối ở đầu Lễ (nhất là nơi h́nh thức đầu tiên của nó) mới có tính chất ḥa giải giữa anh chị em với nhau.

72. Thích hợp nhất đó là “mỗi người chúc b́nh an một cách nghiêm chỉnh chỉ cho những ai gần ḿnh nhất mà thôi”. “Vị Linh Mục có thể chúc b́nh an cho các thừa taác viên nhưng luôn ở trên cung thánh, nhờ đó mới không gây trở ngại cho việc cử hành thánh lễ. Nếu có lư do chính đáng ngài cũng được tùy nghi chúc b́nh an cho một số ít tín hữu”. “Đối với vấn đề dấu hiệu trao chúc b́nh an, cách thức của nó cần phải được Hội Đồng Giám Mục ấn định theo những cung cách và thói tục của dân chúng”, và những tác động được các vị ấn định phải được Ṭa Thánh châu phê (152).

73. Trong việc cử hành Thánh Lễ, việc bẻ Bánh Thánh Thể, một việc chỉ được thực hiện bởi vị Linh Mục chủ tế, nếu cần cũng được làm thay bởi vị Phó Tế hay một vị đồng tế, được bắt đầu sau khi trao chúc b́nh an, trong khi đọc Kinh Lạy Chiên Thiên Chúa. V́ cử chỉ bẻ bánh “được Chúa Kitô thực hiện trong Bữa Tiệc Ly, tức trong thời các thánh tông đồ, đă cống hiến cho toàn thể tác động thánh thể một danh xưng nói lên cho thấy rằng mặc dù họ tuy nhiều song cũng được làm nên một Thân Thể duy nhất trong mối hiệp thông với Tấm Bánh Sự Sống duy nhất là Chúa Kitô, Đấng đă chết và sống lại v́ phần rỗi của thế giới [x. 1Cor 10:17]” (153). Đó là lư do nghi thức này cần phải được thực thi một cách cung kính (154). Dầu sao nó cũng ngắn gọn. Cần phải sửa lại ngay lập tức vấn đề lạm dụng xẩy ra ở một số nơi trong việc thi hành nghi thức này một cách dài ḍng không cần thiết và nhấn mạnh một cách quá đáng, có cả việc nhúng tay của thành phần giáo dân trái với qui định (155).

74. Nếu v́ nhu cầu của thành phần tín hữu qui tụ cần phải hướng dẫn hay chia sẻ chứng từ bởi một giáo dân trong Nhà Thờ liên quan đến cuộc sống Kitô hữu, th́ thích hợp nhất là thực hiện ở ngoài Thánh Lễ. Tuy nhiên, v́ những lư do hệ trọng, kiểu hướng dẫn hay chia sẻ chứng từ này được phép làm sau khi vị Linh Mục đọc Lời Nguyện sau Hiệp Lễ. Tuy nhiên, điều này không được trở thành một thực hành thường xuyên. Ngoài ra, những lời hướng dẫn và chứng từ ấy không được mang bản chất có thể bị lẫn lộn với bài giảng (156), hay được phép chia sẻ cùng với bài giảng.

4. Việc Liên Kết Những Lễ Nghi Khác Nhau Trong Việc Cử Hành Thánh Lễ (75-79)


75.     Theo ư nghĩa thần học hàm chứa nơi một lễ nghi và việc Cử Hành Thánh Thể đặc biệt nào đó mà các sách phụng vụ đôi khi qui định hay cho phép việc cử hành Thánh Lễ được liên hợp với lễ nghi khác, nhất là một trong những lễ nghi liên quan tới các Phép Bí Tích (157). Tuy nhiên, Giáo Hội không cho phép thực hiện việc liên hợp này trong những trường hợp khác, đặc biệt khi nó là những ǵ tầm thường không đáng giá.


76.     Ngoài ra, theo truyền thống cổ kính nhất của Giáo Hội Rôma, không được phép ghép Bí Tích Thống Hối vào Thánh Lễ ở chỗ cả hai trở thành một việc cử hành phụng vụ duy nhất. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là những vị Linh Mục không phải là những vị cử hành hay đồng tế Thánh Lễ không được giải tội cho tín hữu cần, cho dù ngay cùng một nơi đang cử hành Thánh Lễ, hầu đáp ứng nhu cầu của tín hữu (158). Dầu vậy việc này cũng cần phải được thực hiện một cách thích hợp.


77.     Không được ghép việc cử hành Thánh Lễ một cách nào đó vào khung cảnh của một bữa ăn chung hay với một thứ tiệc tùng kiểu này. Không được cử hành Thánh Lễ, nếu không có lư do thật cần thiết, trên bàn ăn (159) hay ở trong pḥng ăn hoặc pḥng tiệc, hay ở một pḥng có sẵn đồ ăn thức uống, hoặc ở một nơi có thành phần tham dự ngồi ở các bàn khi cử hành. Nếu v́ lư do quan trọng cần phải cử hành Thánh Lễ ở cùng nơi sau đó được dùng để ăn uống, cần phải có một khoảng cách thời gian giữa lúc Thánh Lễ kết thúc và khi bắt đầu bữa ăn, và đồ ăn thức uống b́nh thường không được bày ra trước mặt tín hữu trong khi cử hành Thánh Lễ.


78.     Không được phép ghép việc cử hành Thánh lễ vào những biến cố về chính trị hay trần tục, hoặc vào những trường hợp không hoàn toàn hợp với Huấn Quyền của Giáo Hội Công Giáo. Ngoài ra, phải hết sức tránh cử hành Thánh Lễ chỉ v́ muốn phô trương hay theo cung cách của các nghi thức khác bao gồm cả những nghi thức trần tục, kẻo Thánh Thể mất hết ư nghĩa đích thực của ḿnh.


79.     Sau hết, phải triệt để chú ư tới việc lạm dụng đưa vào việc cử hành Thánh Lễ những yếu tố phản nghịch với những qui định của các sách phụng vụ và là những yếu tố lấy từ các lễ nghi của các tôn giáo khác.



Chương IV

Việc Hiệp Lễ

 


1. Những Điều Kiện Để Hiệp Lễ (80-86)

80.     Một trong những lư do Thánh Thể được cống hiến cho tín hữu đó là để “làm như một chất giải độc giúp chúng ta thoát khỏi lầm lỗi hằng ngày và ǵn giữ chúng ta khỏi vấp phạm những trọng tội” (160), như được sáng tỏ nơi một số phần khác nhau trong Thánh Lễ. Như ở phần Thống Hối đầu Lễ là phần có mục đích sửa soạn cho tất cả mọi người dọn ḷng cử hành các mầu nhiệm thánh (161); dầu sao “phần này vẫn thiết hiệu năng của Bí Tích Thống Hối” (162), và không thể coi như thay thế cho Bí Tích Thống Hối trong việc xá giải các trọng tội. Các vị Chủ Chiên chăn dắt linh hồn tín hữu phải lưu tâm siêng năng hướng dẫn giáo lư để dạy tín lư Kitô Giáo về vấn đề này cho tín hữu Chúa Kitô.

81.     Theo thông lệ của Giáo Hội th́ mỗi người cần phải xét ḿnh kỹ lưỡng và ai ư thức được trọng tội của ḿnh th́ không được cử hành hay lănh nhận Ḿnh Thánh Chúa Kitô trước khi lănh nhận bí tích giải tội, trừ khi có lư do quan trọng như trường hợp không có cha giải tội; trong trường hợp ấy họ phải nhớ rằng họ buộc phải ăn năn tội cách trọn, và phải có ư hướng đi xưng tội sớm bao nhiêu có thể.

82.     Ngoài ra, “Giáo Hội đă phác họa những qui tắc nhắm đến việc giúp cho tín hữu thường xuyên và hiệu lực đến với bàn tiệc Thánh Thể, cũng như xác định những điều kiện khách quan không thể cho Hiệp Lễ” (165).

83.     Tốt nhất là tất cả những ai tham dự vào việc cử hành Thánh Lễ hội đủ điều kiện cần thiết đều nên Hiệp Lễ. Tuy nhiên, đôi khi lại xẩy ra trường hợp là tín hữu Chúa Kitô tiến lên bàn thờ như là một nhóm người ô hợp. Các vị Chủ Chăn cần phải khôn ngoan và mạnh mẽ sửa lại việc lạm dụng này.

84.     Chưa hết, khi cử hành Thánh Lễ cho một số rất đông người, chẳng hạn ở những thành phố lớn, cần phải cẩn thận kẻo những người không phải Công Giáo hay cả những người ngoài Kitô Giáo lên Rước Lễ, không để ư ǵ tới Huấn Quyền của Giáo Hội về những vấn đề liên quan tới tín lư và qui luật. Các vị Chủ Chiên có nhiệm vụ ở vào lúc thuận tiện thông báo cho những người tham dự biết rằng họ cần phải triệt để tuân giữ những thực chất và qui luật.

85.     Các vị thừa tác viên Công Giáo chỉ được ban các Phép Bí Tích cho tín hữu Công Giáo mà thôi, thành phần cũng chỉ được phép lănh nhận các phép bí tích này từ các vị thừa tác viên Công Giáo, trừ những trường hợp được đề cập đến ở khoản Giáo Luật 844.2-4 và 861.2 (166). Ngoài ra, không được tách biệt những điều kiện bao hàm khoản Giáo Luật 844.4, những điều kiện không thể miễn trừ (167); bởi thế mà cần phải hội đủ tất cả mọi điều kiện này.

86.     Cần phải đặc biệt hướng dẫn tín hữu thực hành việc đến với Bí Tích Thống Hối ngoài Thánh Lễ, nhất là vào những thời gian được ấn định, để họ lănh nhận Bí Tích này một cách b́nh lặng và thực sự có lợi ích cho họ, nhờ đó họ không bị ngăn trở trong việc chủ động tham dự Thánh Lễ. Cũng phải hướng dẫn cho những ai có thói quen thường xuyên hay hằng ngày Hiệp Lễ để họ tiến đến với Bí Tích Thống Hối vào những khoảng thời gian thích hợp, tùy theo hoàn cảnh của từng người (168).

87.     Việc Rước Lễ Lần Đầu của trẻ em bao giờ cũng phải được được dọn ḿnh bằng việc xưng tội và giải tội (169). Ngoài ra, Việc Rước Lễ Lần Đầu bao giờ cũng phải được cử hành bởi một vị Linh Mục và không bao giờ được cử hành ngoài Thánh Lễ. Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, hoàn toàn không thích hợp cho việc cử hành Việc Rước Lễ Lần Đầu vào Thứ Năm Tuần Thánh. Trái lại, phải chọn một ngày khác, như một Chúa Nhật nào đó từ Chúa Nhật Thứ Hai đến Thứ Sáu Mùa Phục Sinh, hay vào Lễ Trọng Kính Ḿnh Máu Thánh Chúa Kitô, hoặc vào những Chúa Nhật trong Mùa Thường Niên, v́ Chúa Nhật thực sự được coi như là ngày của Thánh Thể (170). “Trẻ em chưa đến tuổi khôn, hay những ai” vị Linh Mục Coi Xứ “cho rằng chưa dọn ḿnh đủ” th́ không được lănh nhận Bí Tích Thánh Thể (171). Tuy nhiên, nếu em nhỏ nào khôn trước tuổi được cho rằng có thể lănh nhận Bí Tích này th́ không được cản trở Việc Rước Lễ Lần Đầu của em, miễn là em được hướng dẫn đầy đủ.

 

2. Việc Cho Rước Lễ (87-96)

88.     Tín hữu phải thường xuyên lành nhận Bí Tích Thánh Thể trong chính Thánh Lễ, vào lúc được lễ nghi ấn định, tức là ngay sau khi vị Linh Mục chủ tế Hiệp Lễ (172). Chính Vị Linh Mục chủ tế có nhiệm vụ phải cho Hiệp Lễ, có thể được hỗ trợ bởi các vị Linh Mục hay Phó tế khác; và ngài không được tiếp tục Thánh Lễ cho đến khi kết thúc việc cho tín hữu Hiệp Lễ. Chỉ khi nào cần thiết mới có những thừa tác viên ngoại lệ giúp vị Linh Mục chủ tế cho Hiệp Lễ theo qui tắc ấn định mà thôi (173).

89.     “Để cho dấu hiệu Hiệp Lễ được nổi bật tỏ tường hơn nữa như là một việc tham dự vào Hiến Tế đang được cử hành” (174), tín hữu tốt nhất lănh nhận bánh thánh được truyền phép ngay trong cùng Thánh Lễ được cử hành (175).

 

90.     “Tín hữu phải qú hay đứng khi Rước Lễ, tùy theo Hội Đồng Giám Mục ấn định”, những ấn định như được Ṭa Thánh chuẩn nhận. “Tuy nhiên, nếu đứng mà Rước Lễ th́ cần phải tỏ ra cung kính trước khi lănh nhận Bí Tích này, theo các qui tắc tương tự qui định”.

91.     Trong việc cho Rước Lễ cần phải nhớ rằng “các thừa tác viên thánh chức không được từ chối các phép bí tích cho những ai t́m cách lănh nhận một cách hợp lư, dọn ḷng xứng đáng và không bị luật cấm không cho lănh nhận” (177). Bởi thế người Công Giáo nào đă lănh nhận phép rửa không bị ngăn trở bởi luật đều được Hiệp Lễ. Bởi thế, không được từ chối việc Hiệp Lễ cho bất cứ tín hữu nào của Chúa Kitô chỉ v́ lư do, chẳng hạn, người ấy muốn qú hay đứng để lănh nhận Thánh Thể.

92.     Mặc dù mỗi người tín hữu bao giờ cũng có quyền lănh nhận Thánh Thể bằng lưỡi tùy ư (178), song nếu có người nào muốn lănh nhận Bí Tích này bằng tay, ở những miền Hội Đồng Giám Mục được phép Ṭa Thánh cho thực hiện cử chỉ ấy, th́ họ có thể lănh nhận bánh thánh như thế. Tuy nhiên, phải cẩn thận bảo đảm là bánh thánh được người lănh nhận rước chịu trước mặt vị thừa tác viên, không để một ai cầm h́nh bánh mà đi. Nếu thấy có nguy cơ bị tục hóa th́ không được cho tín hữu Rước Lễ bằng tay (179).

93.     Cần phải bảo tŕ vấn đề cầm đĩa hứng khi cho tín hữu Rước Lễ hầu tránh t́nh trạng bánh thánh hay vụn bánh thánh có thể bị rơi xuống (180).

94.     Không được phép cho tín hữu “tự ḿnh… cầm…, tệ hơn nữa, trao… cho nhau” bánh thánh hay chén thánh (181). Ngoài ra, về vấn đề này, cần phải loại trừ việc lạm dụng cho nhau Rước Lễ giữa đôi tân hôn trong Lễ Hôn Phối.

95.     Một tín hữu giáo dân “đă lănh nhận Thánh Thể Cực Linh cũng được phép chịu một lần nữa cùng ngày khi tham dự Cử Hành Thánh Thể, như được qui định ở khoản Giáo Luật 921.2” (182)

96.     Cấm không được phân phát những tấm bánh không được truyền phép hoặc các thứ ăn được cũng như không ăn được trong khi cử hành Thánh Lễ hay trước đó theo cách thức Hiệp Lễ, trái với những qui định của các sách phụng vụ. Việc làm này không thích hợp với truyền thống của Lễ Nghi Rôma và gây ra lộn xộn nơi thành phần tín hữu Chúa Kitô liên quan tới tín điều về Thánh Thể của Giáo Hội. Ở một số nơi nào được phép thực hiện việc ban phép lành cho bánh sau Thánh Lễ để phân phát th́ ở đó cần phải cẩn thận hướng dẫn giáo lư đàng hoàng về việc làm ấy. Thật vậy, không được tạo ra những việc làm tương tự khác giống như vậy hay không được sử dụng những bánh bất thánh hiến vào mục đích này.

3.     Việc Hiệp Lễ Của Các Linh Mục (97-99)

97.     Mỗi lần cử hành Thánh Lễ, vị Linh Mục phải rước lễ ở bàn thờ vào lúc được Sách Lễ qui định, và những vị đồng tế phải rước lễ trước khi cho rước lễ. Vị Linh Mục chủ tế hay đồng tế không bao giờ được đợi cho đến khi cộng đồng dân Chúa rước lễ xong mới rước lễ (183).

98.     Việc Rước Lễ của các vị Linh Mục đồng tế cần phải được thi hành theo những qui tắc ấn định trong các sách phụng vụ, bao giờ cũng phải chịu bánh thánh được truyền phép trong Thánh Lễ (184) và tất cả mọi vị đồng tế bao giờ cũng phải rước cả hai h́nh. Cần phải lưu ư là khi một Linh Mục hay Phó Tế trao bánh thánh hay chén thánh cho các vị đồng tế th́ không nói lời nào cả; tức là không tuyên bố “Ḿnh Thánh Chúa Kitô” hay “Máu Thánh Chúa Kitô”.

99.     “Các Vị Linh Mục không thể cử hành hay đồng tế Thánh Lễ” bao giờ cũng được phép hiệp lễ dưới hai h́nh (185).

4. Việc Hiệp Lễ Dưới Hai H́nh (100-107)

100.     Để thể hiện trước tín hữu một cách rơ ràng hơn nữa dấu hiệu trọn vẹn về việc tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể, th́ kể cả các phần tử giáo dân thuộc thành phần tín hữu của Chúa Kitô cũng được Rước Lễ dưới hai h́nh, ở những trường hợp được qui định trong các sách phụng vụ, một việc rước lễ hai h́nh được dẫn tiến và tiếp tục hỗ trợ bằng việc dạy giáo lư xứng hợp liên quan tới những nguyên tắc tín lư về vấn đề này là những ǵ được Công Đồng Chung Triđentinô phác định (186).

101.     Các vị Giám Mục giáo phận cần phải phán quyết về những trường hợp cho giáo dân rước lễ hai h́nh. Không được thực hiện việc này ở những nơi nào hơi có nguy hiểm liên quan đến vấn đề tục hóa hai h́nh này (187). Theo chiều hướng điều hợp rộng răi, các Hội Đồng Giám Mục cần phải ban hành những qui tắc, sau khi những quyết định của các hội đồng này được Ṭa Thánh phê chuẩn qua Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích, nhất là những ǵ liên quan tới “cách thức cho tín hữu Hiệp Lễ dưới hai h́nh, cũng như tới năng quyền của việc nới rộng này” (188).

102.     Tín hữu giáo dân không được thực hiện việc cho chịu Máu Thánh khi có đông người rước đến nỗi khó lường được lượng rượu Thánh Thể và có thể đi tới chỗ “c̣n nhiều Máu Thánh cần phải chịu cho hết khi kết thúc việc cử hành Thánh Lễ” (190). Cũng thế đối với những nơi khó sắp xếp được chỗ cho rước Máu Thánh, hoặc ở những chỗ cần phải có một số lượng nhiều rượu đến nỗi khó có thể biết được tính cách nguyên tuyền và phẩm chất của rượu, hoặc ở nơi nào không có đủ số thừa tác viên thánh chức hay thừa tác viên ngoại lệ được huấn luyện đàng hoàng trong việc cho Rước Lễ, hoặc ở nơi nào có một số đáng kể tín hữu vẫn không hợp với việc rước Máu Thánh bởi những lư do khác nhau (th́ cũng không nên cho rước Máu Thánh) để tránh tiêu cực hóa ư nghĩa của dấu hiệu hiệp nhất này.

103.     Những qui tắc trong Sách Lễ Rôma ấn định nguyên tắc cho thấy ở những trường hợp nào cho Rước Lễ hai h́nh, “Máu Chúa cần phải được rước chịu bằng cách uống trực tiếp tự chén thánh, hay bằng cách nhúng bánh thánh vào rượu thánh, hoặc bằng ống bơm hút hay bằng muỗm múc” (191). Đối với việc cho giáo dân Rước Lễ, các vị Giám Mục được bỏ việc cho Rước Máu Thánh bằng ống bơm hút hay bằng muỗm múc ở những địa phương nào không có thói tục ấy, mà vẫn giữ cách cho Rước Lễ hai h́nh bằng cách nhúng bánh thánh vào rượu thánh. Tuy nhiên, nếu việc cho Rước Lễ bằng cách nhúng như thế, mà các bánh thánh lại quá mỏng hay quá nhỏ th́ người chịu lễ phải rước Bí Tích này từ vị Linh Mục bằng miệng mà thôi (192).

104.     Người rước lễ không được phép tự ḿnh nhúng bánh thánh vào rượu thánh, hay không được rước bằng tay bánh thánh được nhúng rượu thánh. Bánh thánh được dùng để nhúng vào rượu thánh cần phải được làm bằng chất thể cứng chắc cũng như phải được truyền phép; triệt để cấm sử dụng bánh bất thánh hiến hay các chất thể khác.

105.     Nếu việc cho các vị Linh Mục đồng tế lẫn giáo dân Rước Lễ không đủ trong một chén thánh th́ vị Linh Mục chủ tế phải sử dụng đến một số chén thánh nữa (193). V́ cần phải nhớ rằng tất cả mọi vị Linh Mục cử hành Thánh Lễ buộc phải Rước Lễ cả hai h́nh. V́ lư do ư nghĩa của dấu hiệu, rất nên sử dụng một chén thánh chính cỡ lớn cùng với các chén thánh cỡ nhỏ.


106.     Tuy nhiên, hoàn toàn tránh việc đổ Máu Chúa Kitô sau khi truyền phép từ chén này sang chén khác để tránh bất cứ điều ǵ xẩy ra gây thiệt hại đến mầu nhiệm cao cả này. Không bao giờ được đựng Máu Chúa trong các b́nh có quai, những tô chén hay những chén không hoàn toàn hợp với các qui tắc được ấn định.

107.     Căn cứ vào những ǵ được qui định bởi giáo luật, “ai ném bỏ những h́nh Thánh Thể hay lấy đi hoặc giữ để phạm thánh th́ vạ tuyệt thông tiền kết latae sententiae chỉ có Ṭa Thánh mới giải được; ngoài ra, nếu là một giáo sĩ th́ chịu h́nh phạt khác nữa, kể cả việc bị loại khỏi hàng ngũ giáo sĩ” (194). Bất cứ hành động nào tự ư và trầm trọng bất kính phạm đến các h́nh Thánh Thể đều được coi là thuộc về trường hợp này. Bởi thế, bất cứ ai tác hành ngược lại những qui tắc ấy, chẳng hạn như vứt bỏ những h́nh Thánh Thể vào cống máng đổ đồ thánh, hay vào một nơi bất xứng, hoặc trên đất, đều phải bị trừng phạt được qui định (195). Ngoài ra, tất cả đều phải nhớ rằng một khi đă hoàn tất việc cho Rước Lễ trong Thánh Lễ, cần phải giữ những qui định của Sách Lễ Rôma, nhất là những ǵ thuộc Máu Chúa c̣n sót lại, theo qui tắc, phải lập tức được vị Linh Mục hay thừa tác viên khác uống hết, c̣n các bánh thánh dư cũng phải được vị Linh Mục rước ở bàn thờ hay được mang đến chỗ cất giữ Thánh Thể (196).

 

Chương V

Một Số Vấn Đề Khác Liên Quan Đến Thánh Thể


 

1. Địa Điểm Cử Hành Thánh Lễ (108-109)

108.     “Việc cử hành Thánh Thể cần phải được thực hiện ở một nơi thánh, trừ trường hợp đặc biệt cần thiết. Trong trường hợp cần thiết ấy, việc cử hành phải được thực hiện ở một nơi đứng đắn xứng hợp” (197). Vị Giám Mục giáo phận sẽ là vị phán quyết về tính cách cần thiết này, tùy theo từng trường hợp một.

109.     Vị Linh Mục không được phép cử hành Thánh Thể ở một đền thờ hay một nơi thánh thuộc bất cứ tôn giáo nào không phải Kitô giáo.

2. Những Hoàn Cảnh Khác Liên Quan Đến Thánh Lễ (110-116)

110.     “Các vị Linh Mục phải thường xuyên cử hành Thánh Thể, luôn nhớ rằng công cuộc cứu chuộc nơi mầu nhiệm Hiến Tế Thánh Thể được liên lỉ thể hiện. Thật vậy, việc cử hành Thánh Thể hằng ngày là những ǵ hết sức đáng làm, v́, cho dù không có sự hiện diện của thành phần tín hữu, th́ việc cử hành này cũng là một tác động của Chúa Kitô và của Giáo Hội, và khi thực hiện việc cử hành này là vị Linh Mục làm trọn vai tṛ chính yếu của các vị” (198).

111.     Vị Linh Mục được phép cử hành hay đồng tế Thánh Thể “cho dù giáo quyền địa phương không biết, miễn là ngài có chứng thư” (celebret) của Ṭa Thánh hay Đấng Bản Quyền hoặc Bề Trên của ngài không quá một năm, “hoặc theo phán đoán khôn ngoan cho thấy ngài không bị ngăn trở ǵ trong việc cử hành này” (199). Các vị Giám Mục hăy thực hiện những biện pháp để ngăn chặn bất cứ việc thi hành phản trái nào.

112.     Được cử hành Thánh Lễ bằng tiếng Latinh hay ngôn ngữ khác, miễn là các bản văn phụng vụ sử dụng đă được chuẩn nhận theo qui tắc pháp lư. Các vị Linh Mục ở mọi lúc và mọi nơi đều được phép cử hành Thánh Lễ bằng tiếng Latinh, trừ trường hợp việc cử hành Thánh Lễ được các vị thẩm quyền giáo hội sắp xếp thực hiện bằng ngôn ngữ của dân chúng địa phương (200).

113.     Khi có một số Linh Mục đồng tế Thánh Lễ th́ phải đọc Kinh Nguyện Thánh Thể theo ngôn ngữ phổ thông cho cả các vị Linh Mục đồng tế lẫn cộng đồng tham dự. Nếu trường hợp có một số vị Linh Mục hiện diện trong Thánh Lễ không biết ǵ về ngôn ngữ được sử dụng cử hành nên không thể đọc các phần của Kinh Nguyện Thánh Thể hợp với các vị th́ các vị, theo qui tắc, không nên đồng tế mà chỉ tham dự vào việc cử hành này trong bộ y phục cộng đồng (201).

114.     “V́ giáo xứ là ‘cộng đồng Thánh Thể’, trong các Thánh Lễ Chúa Nhật ở giáo xứ, thường phải có các nhóm, các phong trào, các hội đoàn, thậm chí có cả các cộng đồng tu tŕ nhỏ trong giáo xứ” (202). Cho dù Thánh Lễ được phép cử hành cho những nhóm hội đặc biệt theo qui tắc pháp lư (203), những nhóm hội này vẫn không được miễn trừ việc trung thành tuân giữ các qui tắc phụng vụ.

115.     Không thể chấp nhận vấn đề lạm dụng khiến việc cử hành Thánh Lễ cho dân chúng bị đ́nh chỉ một cách độc đoán trái với các qui tắc của Sách Lễ Rôma cũng như với truyền thống lành mạnh của Lễ Nghi Rôma, v́ lư do phát động “một thứ kiêng không rước Thánh Thể”.

116.     Không được nhân Thánh Lễ lên ngược với qui tắc pháp lư, và về vấn đề bổng Lễ cần phải tuân giữ tất cả những điều đă từng được luật phép qui định (204).

3. Các Chén Thánh (117-120)

117.     Các chén thánh chứa đựng Ḿnh và Máu Chúa phải được làm theo đúng các qui tắc truyền thống và của các sách phụng vụ (205). Các Hội Đồng Giám Mục có năng quyền quyết định như thế nào là xứng hợp, miễn là các quyết định của chư hội đồng này được Ṭa Thánh phê chuẩn, đối với những chén thánh được làm bằng những chất cứng khác nữa. Tuy nhiên, các chất liệu đó hoàn toàn phải hết sức quí giá theo thẩm định của từng miền (206), để tỏ ḷng tôn kính Chúa trong việc sử dụng này, cũng như để tránh tất cả mọi thứ nguy hại làm suy yếu tín điều về Việc Hiện Diện Thực Sự của Chúa Kitô nơi các h́nh Thánh Thể trước mắt tín hữu. Bởi thế, không thể chấp nhận cho sử dụng trong việc cử hành Thánh Lễ các thứ chén thông dụng, các thứ chén thiếu phẩm chất, hay không có tính cách nghệ thuật tí nào hoặc chỉ là những thứ để đựng, như những thứ chén được làm bằng thủy tinh, bằng sành, bằng đất sét hay bằng các thứ chất liệu dễ vỡ khác. Cần phải áp dụng qui tắc này với cả những thứ kim loại hay các thứ chất liệu sẽ bị xét dỉ hay hư hỏng (207).

118.     Trước khi được sử dụng, các chén thánh này phải được Linh Mục làm phép bởi một Linh Mục theo lễ nghi được qui định trong các sách phụng vụ (208). Hay nhất nên thực hiện việc làm phép này bởi Vị Giám Mục giáo phận, vị xét xem những chén lễ đó có đáng sử dụng đúng mục đích của ḿnh hay chăng.

119. Linh Mục, một khi đă trở lại bàn thờ sau phần cho Rước Lễ, th́ đứng tại bàn thờ hay tại một bàn cân xứng, để lau đĩa thánh và tráng chén thánh theo các qui định của Sách Lễ rồi lau chén bằng khăn sạch. Nếu có Phó Tế bấy giờ th́ vị này trở lại bàn thờ với Linh Mục để tráng chén. Tuy nhiên, đặc biệt trong trường hợp có một số chén thánh cần phải được tráng lau, th́ được phép cứ để đó, đậy lại đàng hoàng, ở trên bàn thờ hay bàn phụ lễ, để vị Linh Mục hay Phó Tế tráng lau ngay sau khi tan Lễ. Ngoài ra, người được chính thức ủy nhiệm vai tṛ phụ tế cũng có thể giúp vị Linh Mục hay Phó Tế tráng lau và sắp xếp các chén thánh ở bàn thờ hay bàn phụ lễ. Nếu không có vị Phó Tế th́ người được chính thức ủy nhiệm vai tṛ phụ tế này mang các chén thánh sang bàn phụ lễ rồi tráng chén, lau khô và sắp xếp các chén thánh ấy theo kiểu cách b́nh thường (209).

120.     Các vị Mục Tử phải chú trọng đến những khăn được sử dụng cho bàn thánh, nhất là những khăn đụng chạm tới các h́nh Thánh Thể, cần phải luôn sạch sẽ cũng như cần phải được giặt sạch theo đường lối truyền thống. Để làm điều này, rất nên đổ nước sau lần giặt bằng tay đầu tiên vào cống máng đổ đồ thánh của nhà thờ hay đổ xuống đất ở một nơi xứng đáng. Sau đó, lần giặt thứ hai có thể được làm theo kiểu cách thông thường.

4. Áo Lễ (121-128)

121.     “Mục đích của mầu sắc khác nhau của các áo lễ là để thực sự diễn tả, mặc dù chỉ là bề ngoài, cho thấy tính chất đặc biệt của các mầu nhiệm đức tin được cử hành cũng như cho thấy ư nghĩa của cuộc đời Kitô hữu trong cả một năm phụng vụ” (210). Ngoài ra, tính cách khác nhau “của các vai tṛ trong việc cử hành Thánh Thể cũng được tỏ ra bề ngoài bằng tính cách đa dạng của các áo lễ”. Thật vậy, những “áo lễ này cũng cần phải góp phần vào vẻ đẹp của chính tác động thánh” (211).

122.     “Chiếc áo thụng dài trắng mặc ở bên trong áo lễ cần phải được cột lại bằng một giây thắt lưng, trừ khi chiếc áo này được làm theo kiểu thắt bụng không cần giây cột. Cần phải đeo chiếc khăn quàng vai trắng trước khi mặc chiếc áo dài trắng này, nếu chiếc áo thụng dài trắng không hoàn toàn che hết bộ y phục thường dân ở cổ (212).


123.     “Áo lễ xứng hợp với vị Linh Mục cho việc cử hành Thánh Lễ hay cho các tác động linh thánh khác trực tiếp liên quan đến Thánh Lễ, trừ khi có những qui định khác, là một chiếc áo lễ mặc ở bên ngoài chiếc áo thụng dài trắng và giây choàng ở bên trong” (213). Cũng thế, vị Linh Mục, khi mặc áo lễ theo qui định chữ đỏ th́ không được bỏ đeo giây choàng ở bên trong. Tất cả mọi vị Bản Quyền Địa Phương phải để ư coi chừng hầu loại trừ tận gốc rễ tất cả mọi thứ áp dụng nghịch thường.

124.     Sách Lễ Rôma cũng cho các vị Linh Mục đồng tế, chứ không phải vị chủ tế (vị bao giờ cũng phải mặc áo lễ theo mầu sắc qui định), v́ lư do chính đáng như trường hợp thiếu áo lễ cho một số đông các vị đồng tế, năng quyền được mặc “áo lễ, bằng việc đeo chiếc giây choàng trước chiếc áo thụng dài trắng” (214). Tuy nhiên, khi thấy trước được nhu cầu này, cần phải sửa soạn đầy đủ bao nhiêu có thể. V́ cần thiết, các vị đồng tế, chứ không phải chủ tế, thậm chí c̣n được mặc cả những chiếc áo lễ trắng. Ngoài ra, cần phải tuân giữ những qui tắc của các sách phụng vụ.

125.     Áo lễ xứng hợp cho vị Phó Tế là một chiếc áo dài tới đầu gối và hở hai bên, được mặc bên ngoài áo dài trắng và giây choàng. Để bảo tŕ truyền thống tốt đẹp của Giáo Hội, cần phải hết sức tránh thực hiện việc chọn lựa bỏ không mặc áo lễ phó tế (215).

126.     Không thể chấp nhận việc lạm dụng là các thừa tác viên thánh chức cử hành Thánh Lễ hay các lễ nghi khác mà không mặc áo lễ hay chỉ đeo có chiếc giây choàng ở ngoài chiếc áo ḍng có mũ hay chiếc áo ḍng thông thường của tu sĩ hoặc những áo b́nh thường, ngược với những qui định của các sách phụng vụ, ngay cả khi chỉ có một vị thừa tác viên duy nhất cử hành (216). Để các thứ lạm dụng ấy được sửa chữa sớm bao nhiêu có thể, những vị Bản Quyền Địa Phương cần phải làm sao để ở tất cả mọi nhà thờ và nguyện đường thuộc thẩm quyền của các vị có đủ số áo lễ theo phụng vụ đúng với các qui tắc.

127.     Các sách phụng vụ có đề cập tới một năng quyền đặc biệt cho việc sử dụng các áo lễ mừng hay quí giá hơn vào các dịp trọng thể, cho dù những chiếc áo lễ này không có mầu sắc của ngày hôm đó (217). Tuy nhiên, năng quyền này, một năng quyền đặc biệt giành cho các thứ áo lễ được làm nhiều năm trước đây, có mục đích để bảo tŕ gia sản của Giáo Hội, không được đem áp dụng cho những thứ mới mẻ theo khuynh hướng cá nhân về h́nh thức và mầu sắc, chẳng để ư ǵ đến việc thực hành theo truyền thống, đến nỗi ư nghĩa thực sự của qui tắc này bị mất đi làm thiệt hại đến truyền thống. Vào dịp lễ nào đó, các áo lễ có mầu vàng hay bạc có thể được thay thế một cách thích hợp bằng những mầu khác, nhưng không được thay thế bằng mầu tím hay đen.

128.     Thánh Lễ và các việc cử hành phụng vụ khác, những cử hành phụng vụ là tác động của Chúa Kitô và của dân Chúa được cấu tạo theo phẩm trật, là những cử hành được thiết định ở chỗ các vị thừa tác viên thánh chức và thành phần tín hữu giáo dân tham dự một cách hiển nhiên vào những việc cử hành này theo thân phận của ḿnh. Bởi thế, hay nhất “các vị Linh Mục hiện diện trong việc Cử Hành Thánh Thể, trừ khi có lư do chính đáng, theo nguyên tắc, phải thực thi phần vụ xứng hợp với Thánh Chức của ḿnh, bởi đó các vị nên tham dự vào việc cử hành này như những vị đồng tế, mặc áo lễ. Bằng không, các vị mặc chiếc áo thụng trắng ngắn xứng hợp của ḿnh ngoài chiếc áo chùng thâm” (218). Trừ những trường hợp họa hiếm ngoại lệ và có nguyên do hợp lư, về bề ngoài, các vị không nên tham dự Thánh Lễ theo cung cách của thành phần giáo dân.

 

Chương VI

Việc Lưu Giữ Thánh Thể và Việc Tôn Thờ Thánh Thể Ngoài Thánh Lễ


 

1. Việc Lưu Giữ Thánh Thể (129-133)

129.     “Việc cử hành Thánh Thể nơi Hiến Tế Thánh Lễ thực sự là nguồn mạch và là cùng đích của việc tôn thờ Thánh Thể ngoài Thánh Lễ. Hơn nữa, các h́nh thánh được lưu giữ sau Thánh Lễ chính yếu là để cho thành phần tín hữu không thể dự Lễ, nhất là tất cả những người bệnh và lớn tuổi, nhờ mối Hiệp Thông bí tích, được liên kết với Chúa Kitô và với Hy Tế của Người được dâng lên trong Thánh Lễ” (219). Ngoài ra, việc lưu giữ ấy cũng giúp thực hiện việc tôn thờ đại Bí Tích này và tôn thờ Thiên Chúa nơi bí tích này. Bởi thế cần phải hết sức cổ vơ những h́nh thức tôn thờ chẳng những riêng tư mà c̣n có tính cách công khai và cộng đồng, như được chính Giáo Hội thiết lập hay chuẩn nhận (220).

130.     “Tùy theo cấu trúc của mỗi nhà thờ cũng như theo những tập tục địa phương hợp lư, Bí Tích Cực Linh này cần phải được lưu giữ trong nhà tạm ở một chỗ cao trọng, nổi nang, dễ thấy và được trang trí một cách xứng đáng”, ngoài ra c̣n “tiện cho việc cầu nguyện” nữa nhờ địa điểm tĩnh lặng, có khoảng trống trước nhà tạm cũng như có các chỗ ngồi và bàn qú (221). Ngoài ra, cần phải lưu ư tới tất cả mọi qui định của các sách phụng vụ cũng như đến qui luật (222), nhất là về vấn đề tránh nguy cơ bị tục hóa (223).

131.     Ngoài những qui định theo giáo luật ở khoản 934.1, cấm không được lưu giữ Bí Tích Thánh Thể ở một nơi không bảo đảm thuộc thẩm quyền của vị Giám Mục giáo phận, hay ở một nơi có nguy cơ bị tục hóa. Nếu xẩy ra trường hợp này, vị Giám Mục giáo phận phải lập tức thâu hồi bất cứ phép ban nào về việc lưu giữ Thánh Thể (224).

132.     Không ai được phép mang Thánh Thể Cực Linh về nhà của ḿnh, hay đến nơi nào nghịch lại với qui luật. Cũng phải nhớ rằng việc lấy đi hay giữ lấy các h́nh thánh với mục đích để phạm thánh hay quẳng đi là một xúc phạm trầm trọng graviora delicta, một xúc phạm chỉ được giải bởi Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin (225).

133.     Vị Linh Mục hay Phó Tế, hoặc một thừa tác viên ngoại lệ nào lấy Thánh Thể Cực Linh khi vị thừa tác viên thánh chức vắng mặt hoặc bị ngăn trở không thể mang đến cho kẻ liệt Rước Lễ, phải làm sao để có thể đi thẳng từ nơi lưu giữ Bí Tích này đến nhà kẻ liệt, không dính dáng đến bất cứ một việc phạm tục nào, hầu tránh gây ra t́nh trạng tục hóa mà lại bảo đảm được việc hết sức cung kính đối với Ḿnh Thánh Chúa Kitô. Ngoài ra, bao giờ cũng phải theo Lễ Nghi trong việc cho kẻ liệt Rước Lễ (226).

2. Một Số H́nh Thứ Tôn Thờ Thánh Thể Ngoài Thánh Lễ (134-141)

134.     “Việc tôn thờ Thánh Thể ngoài Hiến Tế Thánh Lễ là một việc tôn kính vô giá trong đời sống của Giáo Hội. Việc tôn thờ này liên kết chặt chẽ với việc cử hành Hiến Tế Thánh Thể” (227). Bởi thế, cần phải hăng say cổ vơ cả việc tôn sùng công khai lẫn tư riêng Thánh Thể Cực Linh ngoài Thánh Lễ, v́ nhờ việc tôn sùng này, tín hữu tỏ ra tôn thờ Chúa Kitô, hiện diện một cách đích thực và thực sự, Vị “Thượng Tế của những ǵ thiện hảo sau này” (229) và là Đấng Cứu Chuộc của thế giới. “Các vị Mục Tử có trách nhiệm, kể cả bằng chứng từ đời sống của ḿnh, tỏ ra ủng hộ việc tôn thờ Thánh Thể, nhất là việc chầu Bí Tích Cực Linh này, cũng như việc nguyện cầu tôn thờ trước Chúa Kitô hiện diện dưới các h́nh thánh thể” (230).

135.     Tín hữu “không nên bỏ qua việc kính viếng Bí Tích Cực Linh này trong ngày sống, như là một dấu chứng tỏ ḷng biết ơn, một bảo chứng của ḷng yêu mến, và là một việc tôn thờ đáp lại Chúa Kitô hiện diện nơi bí tích này” (231). V́ việc chiêm ngưỡng Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Cực Linh, như là một thứ hiệp thông bằng ḷng muốn, liên kết chặt chẽ tín hữu với Chúa Kitô, như hiển nhiên thấy nơi gương của rất nhiều Thánh Nhân (232). “Trừ khi có lư do quan trọng trái nghịch, một nhà thờ lưu giữ Bí Tích Cực Linh này phải mở cửa cho tín hữu ít là mấy tiếng mỗi ngày, để họ có thể bỏ giờ ra cầu nguyện trước Bí Tích Cực Linh ấy” (223).

136.     Đấng Bản Quyền phải tận t́nh nuôi dưỡng việc tôn thờ Thánh Thể, dù dài ngắn hay hầu như liên tục, với sự tham dự của cộng đồng dân Chúa. Trong những năm gần đây, ở rất nhiều nơi, “việc tôn thờ Bí Tích Cực Linh này c̣n là một việc làm quan trọng hằng ngày và trở thành một mạch nguồn thánh thiện khôn lường”, cho dù cũng có những nơi “rơ ràng hầu như thiếu hẳn việc thờ phượng theo h́nh thức tôn thờ thánh thể” (234).

137.     Phải luôn luôn thực hiện việc chầu Bí Tích Thánh Thể Cực Linh theo những qui định của các sách phụng vụ (235). Trước Bí Tích Cực Linh này, ở trong nhà tạm hay được đặt ra ngoài, không được loại trừ việc cầu kinh Mân Côi là một kinh nguyện đáng ca ngợi “nơi tính cách đơn sơ mà lại sâu xa của kinh này” (236). Thậm chí cả vào trường hợp Thánh Thể được đặt ra ngoài cũng phải nhấn mạnh đến tính cách của kinh nguyện này như là một việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm về đời sống của Chúa Kitô Cứu Thế cũng như về dự án cứu độ của Chúa Cha, nhất là khi thực hiện bằng các bài đọc lấy từ Thánh Kinh (237).

138.     Ngoài ra, trường hợp nếu đặt Bí Tích Thánh Thể Cực Linh ra ngoài th́ không được để vắng người chầu, cho dù chỉ trong chốc lát. Bởi thế, cần phải sắp xếp làm sao để ít là một số tín hữu bao giờ cũng có mặt vào những lúc ấn định, cho dù họ thay phiên nhau.

139.     Nơi nào vị Giám Mục giáo phận có những thừa tác viên thánh chức hay những người ngài có thể chỉ định thực hiện mục đích này, tín hữu vẫn có quyền thường xuyên kính viếng tôn thờ Bí Tích Thánh Thể Cực Linh, cũng như được tham dự vào việc tôn thờ trước Thánh Thể Cực Linh lộ thiên ít là một số lần trong năm.

140.     Rất nên thực hiện việc, ít là ở những thành phố hay những tỉnh rộng lớn, vị Giám Mục giáo phận chỉ định một nhà thờ để thường trực tôn thờ Thánh Thể; tuy nhiên, nơi nhà thờ này phải thường xuyên cử hành Thánh Lễ, thậm chí nếu được th́ cử hành hằng ngày, song đang khi cử hành Thánh Lễ th́ phải ngưng việc để Thánh Thể lộ thiên (238). Bánh thánh được đặt lộ thiên cho giáo dân tôn thờ hay nhất là bánh thánh được truyền phép trong Thánh Lễ ngay trước giờ tôn thờ này, và bánh thánh ấy phải được đặt trong chén thánh trên bàn thờ sau khi Hiệp Lễ (239).

141.     Vị Giám Mục giáo phận nên công nhận và nâng đỡ bao nhiêu có thể quyền hạn của những nhóm hội tín hữu khác nhau trong việc h́nh thành những hội đoàn hay những hiệp hội để thực hiện việc tôn thờ Thánh Thể, thậm chí là một việc tôn thờ hầu như liên tục. Khi nào các hiệp hội này có tính cách quốc tế, th́ Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích có trách nhiệm thiết lập chúng và phê chuẩn nội qui của chúng (240).

3. Những Cuộc Rước Kiệu và Những Cuộc Hội Nghị Thánh Thể (142-145)

142.     “Vị Giám Mục giáo phận cần phải phác họa các qui định về những cuộc rước kiệu liên quan đến việc tham dự cũng như đến việc thực hiện điều này một cách xứng đáng” (241), và cần phải cổ vơ tín hữu thực hiện việc tôn thờ Thánh Thể.

143.     “Theo phán đoán của vị Giám Mục giáo phận, ở đâu có thể th́ nên thực hiện việc rước kiệu qua các đường phố công cộng, nhất là vào dịp Lễ Trọng Kính Ḿnh Máu Thánh Chúa Kitô như là một chứng từ công khai đối với việc tôn kính Bí Tích Cực Linh này” (242), v́ “việc tín hữu sốt sắng tham dự vào cuộc rước kiệu Thánh Thể vào dịp Lễ Trọng Kính Ḿnh Máu Thánh Chúa Kitô là một ân huệ Chúa ban hằng năm làm cho những ai tham dự được tràn đầy niềm vui mừng hoan hỉ” (243).

144.     Mặc dù việc này ở một số nơi không thể thực hiện được, cũng không thể để mất đi truyền thống tổ chức những cuộc rước kiệu thánh thể này. Trái lại, phải t́m những cách mới mẻ để thực hiện việc rước kiệu này theo các hoàn cảnh ngày nay: chẳng hạn, ở các đền thánh, hay ở các công viên với phép của chính quyền.

145.     Cần phải hết sức chú trọng tới giá trị mục vụ của các Hội Nghị Thánh Thể, và những cuộc hội nghị này “phải là một dấu chỉ đích thực của đức tin và đức mến” (244). Cần phải cẩn thận sửa soạn và thực hiện những cuộc hội nghị này theo những ǵ đă được qui định (245), nhờ đó tín hữu Chúa Kitô được dịp tôn thờ các mầu nhiệm Ḿnh Máu Thánh Con Thiên Chúa một cách xứng hợp, cũng nhờ đó họ tiếp tục cảm nghiệm được nơi bản thân họ các hoa trái của Ơn Cứu Chuộc (246).
 


Chương VII

Những Phận Vụ Đặc Biệt Của Thành Phần Tín Hữu Giáo Dân
(146-153)


146.     Không có vấn đề thay thế ǵ hết cho Thiên Chức Tư Tế thừa tác. Nếu cộng đồng nào không có Linh Mục th́ cộng đồng ấy thiếu việc hành sự cũng như thiếu mất việc ban phát các phép bí tích của Chúa Kitô là Đầu và là Mục Tử, những việc thuộc về yếu tính của chính đời sống cộng đồng ấy (247). V́ “vị thừa tác viên duy nhất có thể thực hiện bí tích Thánh Thể với tư cách Chúa Kitô là vị Linh Mục đă được chịu chức thành hiệu mà thôi” (248).

147.     Tuy nhiên, khi nhu cầu Giáo Hội đ̣i hỏi trong trường hợp thiếu các vị thừa tác viên thánh chức, các phần tử giáo dân thuộc thành phần tín hữu của Chúa Kitô cũng có thể bổ túc ở một số việc phụng vụ theo qui luật (249). Một người tín hữu như thế là người được kêu gọi và được chỉ định để thi hành một số phần vụ, có tầm mức quan trọng nhiều hay ít, theo ơn Chúa giúp. Nhiều người Kitô hữu giáo dân đă nhiệt t́nh góp phần vào công việc này và vẫn c̣n đang làm điều ấy, nhất là ở những miền truyền giáo là nơi Giáo Hội vẫn c̣n nhỏ và đang trải qua t́nh trạng bị bách hại (250), mà c̣n ở cả những chỗ đang bị thiếu hụt Linh Mục và Phó Tế nữa.

148.     Việc huấn luyện các giáo lư viên cũng có một tầm vóc quan trọng đặc biệt, thành phần, qua những nỗ lực lớn lao, đă và đang đóng góp một cách ngoại lệ và hết sức cần thiết cho việc truyền bá đức tin và Giáo Hội (251).

149.     Gần đây, ở một số giáo phận đă được truyền bá phúc âm hóa lâu năm, các phần tử thuộc thành phần tín hữu giáo dân của Chúa Kitô đă được chỉ định làm “những phụ tá viên mục vụ”, và nhiều người trong họ thật sự đă phục vụ cho thiện ích của Giáo Hội bằng việc hỗ trợ cho vị Giám Mục, cho các vị Linh Mục và các vị Phó Tế trong vấn đề thi hành hoạt động mục vụ của các vị. Tuy nhiên, hăy cẩn thận kẻo việc phác họa cho phần vụ này được đồng hóa quá khít khao với h́nh thức thừa tác vụ mục vụ thuộc về hàng giáo sĩ. Tức là cần phải lưu ư đến việc làm sao bảo đảm được rằng “các phụ tá viên mục vụ” không thi hành những ǵ xứng hợp với thừa tác vụ của các vị thừa tác viên thánh chức.

150.     Hoạt động của một phụ tá viên mục vụ cần phải nhắm đến việc để làm sao giúp cho thừa tác vụ của các vị Linh Mục và Phó Tế được dễ dàng, làm sao để bảo đảm rằng ơn gọi Linh Mục cũng như Phó Tế được khơi động và các phần tử giáo dân thuộc thành phần tín hữu Chúa Kitô ở mỗi cộng đồng dân Chúa được cẩn thận huấn luyện về những phần vụ phụng vụ khác nhau, hợp với các đặc sủng khác nhau cũng như hợp với qui luật.

151.     Chỉ khi nào thực sự quan thiết mới cần đến việc giúp đỡ của các thừa tác viên ngoại lệ trong việc cử hành Phụng Vụ. Việc cần giúp này không có mục đích cho thành phần giáo dân tham dự đầy đủ hơn mà chỉ là, tự bản chất của nó, việc bổ khuyết và dự khuyết (252). Ngoài ra, khi v́ nhu cầu cần phải có những phận vụ của các vị thừa tác viên ngoại lệ th́ lại càng phải tăng gia lời nguyện cầu thiết tha để xin Chúa sớm sai Linh Mục đến phục vụ cộng đoàn dân Chúa và gieo rắc dồi dào ơn gọi thánh Chức (253).

152.     Những phận vụ có tính cách thuần túy bổ khuyết này không được trở thành một dịp để làm biến dạng đi chính thừa tác vụ của Linh Mục, ở chỗ khiến cho các vị linh mục lơ là bỏ bê việc cử hành Thánh Lễ cho thành phần dân Chúa thuộc quyền quản nhiệm của các vị, việc đích thân chăm sóc cho bệnh nhân, việc rửa tội cho các trẻ em, việc giúp cho các đám cưới hay cử hành các lễ an táng Kitô giáo, những việc trước hết liên quan trực tiếp đến các vị Linh Mục với sự hỗ trợ của các vị Phó Tế. Bởi thế không bao giờ có vấn đề là ở các giáo xứ các vị Linh Mục lại đồng đều thay phiên làm công tác mục vụ chung với các Phó Tế hay giáo dân, gây lẫn lộn những ǵ chuyện biệt cho từng giới.

153.     Ngoài ra giáo dân không bao giờ được phép đóng vai tṛ hay mặc áo của vị Linh Mục hay Phó Tế hoặc loại áo giống như thứ áo này.

1. Thừa Tác Viên Ngoại Lệ Cho Rước Lễ (154-160)

154.     Như đă nhắc nhở, “vị thừa tác viên duy nhất có thể thực hiện Bí Tích Thánh Thể với tư cách Chúa Kitô là vị Linh Mục thánh chức thành hiệu” (254). Bởi thế, danh xưng “thừa tác viên Thánh Thể” chỉ xứng hợp áp dụng cho vị Linh Mục mà thôi. Ngoài ra, v́ Chức thánh của ḿnh, các thừa tác viên thông thường của Thánh Thể là vị Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế (255), thành phần có nhiệm vụ ban phát Thánh Thể khi cử hành Thánh Lễ cho giáo dân thuộc thành phần tín hữu của Chúa Kitô. Có thế phận vụ thừa tác của các vị trong Giáo Hội mới được sáng tỏ một cách hoàn toàn và xác đáng, cũng như ư nghĩa về dấu hiệu của Bí Tích này mới được trọn vẹn.

155.     Ngoài các vị thừa tác viên b́nh thường c̣n có vai tṛ phụ tế được chính thức thiết lập, thành phần theo cơ cấu của ḿnh là một thừa tác viên Thánh Thể ngoại lệ ngay cả ở ngoài việc cử hành Thánh Lễ. Ngoài ra, nếu có lư do thật quan trọng, phần tử giáo dân khác thuộc thành phần tín hữu Chúa Kitô cũng có thể được vị Giám Mục giáo phận ủy nhiệm theo qui luật (256), vào một dịp nào đó hay một lúc đặc biệt nào đó, với một nghi thức chúc lành thích hợp cho dịp ấy. Tuy nhiên, tác động chỉ định này không cần phải theo h́nh thức phụng vụ, mà nếu theo h́nh thức phụng vụ, cũng không cần phải giống như việc Truyền Chức Thánh một cách nào đó. Sau hết, vào những trường hợp bất ngờ, vị Linh Mục chủ sự việc cử hành Thánh Thể cũng được ban phép cho một dịp nào đó (257).

156.     Phần vụ này cần phải được hiểu đúng y như danh xưng của nó, tức là, phần vụ của thừa tác viên ngoại lệ cho Rước Lễ, chứ không phải là “thừa tác viên đặc biệt cho Rước Lễ”, hoặc “thừa tác viên Thánh Thể ngoại lệ” hay “thừa tác viên Thánh Thể đặc biệt”, những danh xưng có ư nghĩa không được áp dụng một cách không cần thiết và không thích hợp cho phần vụ ấy.

157.     Nếu thường có đủ số thừa tác viên thánh chức cho Rước Lễ th́ không cần chỉ định thêm những thừa tác viên ngoại lệ cho Rước Lễ. Thật vậy, trong những trường hợp như thế, những ai đă được chỉ định thực hiện thừa tác vụ này không cần phải thi hành thừa tác vụ ấy. Không thể chấp nhận được việc những vị Linh Mục hiện diện trong việc cử hành Thánh Thể mà lại không cho Rước Lễ song trao phận vụ này cho giáo dân (258).

158.     Thật vậy, thừa tác viên ngoại lệ cho Rước Lễ có thể cho Rước Lễ chỉ khi nào thiếu Linh Mục và Phó Tế, chỉ khi nào vị Linh Mục bị ngăn trở v́ yếu sức hay tuổi già hoặc một lư do nào chính đáng khác, hay chỉ khi nào con số tín hữu lên Rước Lễ đông đến nỗi chính việc cử hành Thánh Lễ sẽ bị kéo dài một cách không nhất thiết (259). Tuy nhiên, điều này phải được hiểu là việc kéo dài chút xíu, đối với hoàn cảnh và văn hóa địa phương, vẫn không phải là trường hợp có đủ lư do.

159.     Thừa tác viên ngoại lệ cho Rước Lễ không bao giờ được được phép trao quyền đại diện cho bất cứ một ai khác trong việc trao Thánh Thể, chẳng hạn như cho cha mẹ hay người phối ngẫu hoặc cho con cái của người bệnh nhân muốn rước lễ.

160.     Vị Giám Mục giáo phận hăy để ư lại việc thực hành này trong những năm gần đây liên quan tới vấn đề ấy, và nếu xẩy ra những trường hợp cần thiết, ngài cần phải sửa sai hay xác định cho rơ ràng hơn. Ở đâu những thừa tác viên ngoại lệ cho Rước Lễ này được chỉ định một cách rộng răi ngoài nhu cầu cần thiết thực sự th́ vị Giám Mục giáo phận phải ban hành những qui tắc đặc biệt hầu xác định cách thức giúp thực hiện phần vụ này được đúng theo qui luật, căn cứ vào truyền thống của Giáo Hội.

2. Giảng Trong Thánh Lễ (161)

161. Như đă nhận định trên đây, v́ tính cách quan trọng của nó cũng như v́ bản chất của ḿnh, bài giảng được giành cho vị Linh Mục hay Phó Tế trong Thánh Lễ (260). Về vấn đề các h́nh thức giảng, nếu nhu cầu đ̣i hỏi ở những trường hợp đặc biệt, hay nếu thấy có lợi ích ở những trường hợp đặc biệt, giáo dân cũng được phép giảng ở trong nhà thờ hay ở một nguyện đường ngoài Thánh Lễ theo qui luật (261). Điều này được thực hiện chỉ v́ hiếm các vị thừa tác viên thánh chức ở một số nơi, hầu đáp ứng nhu cầu, nhưng nó không được biến từ cách thức thực hành ngoại lệ thành việc thực hành thông thường, hay nó không được hiểu là một h́nh thức tiến bộ thực sự của giáo dân (262). Ngoài ra, tất cả đều phải nhớ rằng Đấng Bản Quyền địa phương là vị có năng quyền để ban những phép này, những phép chỉ ban cho từng trường hợp; phép này không phải là một cái ǵ đó cạnh tranh với bất cứ ai khác, thậm chí cho dù họ là các vị Linh Mục hay Phó Tế.

3. Những Việc Cử Hành Đặc Biệt Được Thực Hiện Khi Thiếu Linh Mục (162-167)

162.     Vào ngày được gọi là Ngày Của Chúa, tín hữu của Giáo Hội qui tụ lại với nhau để tưởng niệm Cuộc Phục Sinh của Chúa và tất cả mầu Nhiệm Vượt Qua, nhất là bằng việc cử hành Thánh Lễ (263). V́ “không một cộng đồng Kitô giáo nào được thiết dựng nếu không liên kết với và phụ thuộc vào việc cử hành Thánh Thể Cực Linh” (264). Bởi thế, v́ quyền lợi của cộng đồng Kitô hữu, cần phải cử hành Thánh Thể vào Chúa Nhật cho họ, kể cả vào những ngày lễ buộc hay các lễ chính, thậm chí kể cả hằng ngày nếu có thể. Do đó, khi gặp trở ngại cho việc cử hành Thánh Lễ vào một ngày Chúa Nhật nào đó ở một nhà thờ giáo xứ, hay ở một cộng đồng tín hữu Chúa Kitô, th́ vị Giám Mục giáo phận cùng với các vị Linh Mục của ngài phải t́m cách giải quyết một cách thích hợp (265). Những giải pháp có thể thực hiện là kêu gọi các vị Linh Mục đến cử hành Thánh Thể Chúa Nhật tại đó, hay tín hữu đến một nhà thờ lân cận để tham dự mầu nhiệm Thánh Thể ở đó (266).

163.     Tất cả mọi vị Linh Mục là những người lănh nhận thiên chức Linh Mục và bí tích Thánh Thể cho người khác (267) cần phải nhớ rằng họ buộc phải giúp cho tín hữu cơ hội để đáp ứng việc đ̣i buộc tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật (268). Về phần ḿnh, tín hữu giáo dân có quyền tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, trừ trường hợp thật sự bất khả, đến nỗi không một vị Linh Mục nào được từ chối cử hành Lễ cho cộng đồng dân Chúa, hoặc phải nhờ một vị Linh Mục khác cử hành thay, bằng không họ khổng thể chu toàn luật buộc tham dự Lễ Chúa Nhật hay những ngày lễ buộc.

164.     “Nếu không thể tham dự vào việc cử hành Thánh Thể v́ thiếu vắng thứa tác viên thánh chức hay v́ một lư do hệ trọng nào khác” (269), th́ cộng đồng Kitô hữu có quyền được vị Giám Mục cung ứng trong tầm tay của ngài một cử hành nào đó theo qui tắc của Giáo Hội vào các ngày Chúa Nhật cho cộng đồng thuộc quyền của ngài. Tuy nhiên, những việc cử hành Ngày Chúa Nhật kiểu đặc biệt này nói chung được coi là ngoại lệ. Tất cả mọi vị Phó Tế hay các phần tử giáo dân thuộc thành phần tín hữu Chúa Kitô được vị Giám Mục giáo phận chỉ định góp phần vào những việc cử hành như thế đều phải cố gắng “làm cho cộng đồng này bảo tồn được ‘nỗi đói khát’ Thánh Thể, đến nỗi sẽ không bỏ qua một dịp cử hành Thánh Lễ nào, mỗi khi có được một vị Linh Mục không bị ngăn trở dâng Lễ theo luật Giáo Hội” (270).

165.     Cần phải tránh gây ra bất cứ một loại lầm lẫn nào giữa kiểu tập trung này với việc cử hành Thánh Thể (271). Bởi thế, vị Giám Mục giáo phận cần phải khôn ngoan xét xem có nên cho Rước Lễ vào những dịp tập trung như vậy hay chăng. Vấn đề này nên được quyết định theo chiều hướng phối hợp rộng răi hơn nữa bởi Hội Đồng Giám Mục, một vấn đề được mang ra thực hiện sau khi được phê chuẩn bởi Ṭa Thánh qua Thánh Bộ Thờ Phượng và Bí Tích. Ngoài ra, khi thiếu vắng cả Linh Mục lẫn Phó Tế, việc cử hành này cần phải được chia cho một số tín hữu khác nhau hơn là chỉ có một người giáo dân duy nhất chủ sự từ đầu đến cuối. Cũng không thích hợp cho bất cứ một giáo dân nào đóng vai ‘chủ sự’ trong việc cử hành ấy.

166.     Cũng thế, nhất là trường hợp việc cử hành này có cho Rước Lễ, th́ vị Giám Mục giáo phận là vị có toàn quyền về vấn đề này, không được dễ dăi cho phép những việc cử hành như vậy được thực hiện vào ngày trong tuần, nhất là ở những nơi đă có thể hay có thể cử hành Thánh Lễ vào Chúa Nhật tuần trước đó hay sau đó. Bởi thế, các vị Linh Mục cần phải thiết tha cử hành Thánh Lễ hằng ngày cho giáo dân ở một trong những nhà thờ thuộc thẩm quyền mục vụ của ḿnh.

167.     “Tương tự như thế, không thể chấp nhận được, vào Ngày của Chúa, đi thay thế cho Thánh Lễ bằng những việc cử hành đại kết liên quan đến lời Chúa hay việc cầu nguyện chung với những Kitô hữu thuộc các Cộng Đồng Giáo Hội, thậm chí bằng việc tham dự vào các việc phụng vụ của những Cộng Đồng này” (272). Nếu v́ lư do cần thiết, vị Giám Mục giáo phận ban quyền cho những người Công Giáo thực hiện việc tham dự này vào một dịp đặc biệt nào đó, th́ các vị cũng phải ư tứ đừng gây hiểu lầm nơi tín hữu Công Giáo liên quan đến việc họ cần phải dự Lễ theo luật buộc vào một lúc khác trong cùng ngày, dù họ đă thực hiện việc tham dự kia” (273).


4. Những Người Đă Bỏ Hàng Ngũ Giáo Sĩ (168)


168.     “Cấm giáo sĩ không thuộc hàng giáo sĩ nữa, theo qui luật… thi hành năng quyền của bậc này” (274). Bởi thế, họ không được phép cử hành các bí tích với bất cứ lư do nào, trừ trường hợp ngoại lệ theo qui luật (275), cả tín hữu cũng không được phép xin họ thực hiện việc cử hành này, v́ không có lư do nào cho phép làm như thế theo giáo luật khoản 1335 (276). Ngoài ra, họ cũng không được giảng (277) hay thi hành bất cứ một vai tṛ nào trong việc cử hành Phụng Vụ thánh, kẻo gây thắc mắc cho tín hữu và làm cho sự thật bị lu mờ đi.

 

Chương VIII

Những Phương Trị
(169-171)
 


169.     Khi nào xẩy ra một sự lạm dụng trong việc cử hành Phụng Vụ thánh th́ cần phải coi đó như là một việc làm sai lệch thực sự Phụng Vụ Công Giáo. Thánh Tôma viết, “cái xấu xa của việc sai lầm gây ra bởi những ai thực hiện việc tôn thờ Thiên Chúa nhân danh Giáo Hội một cách phản ngược lại với những ǵ được Giáo Hội lấy thẩm quyền thần linh thiết định và là những ǵ Giáo Hội vốn thực hiện” (278).

170.     Để áp dụng việc chữa trị cho những thứ lạm dụng như thế, “cần phải hết sức huấn luyện cho cộng đồng Dân Chúa, cả các vị chủ chăn lẫn tín hữu, về thánh kinh và phụng vụ” (279), nhờ đó đức tin và kỷ luật của Giáo Hội liên quan đến Phụng Vụ thánh được tŕnh bày và hiểu biết một cách chính xác. Tuy nhiên, ở đâu cứ xẩy ra những thứ lạm dụng th́ cần phải thực hiện những đường lối để bảo toàn gia sản thiêng liêng cùng quyền lợi của Giáo Hội theo qui luật, bằng tất cả mọi phương tiện hợp pháp.

171.     Trong những vấn đề lạm dụng khác nhau, có một số điều, theo khách quan, vi phạm trầm trọng graviora delicta hay cũng tạo ra những vấn đề trầm trọng, hoặc những vấn đề khác là những ǵ cần phải cẩn thận tránh lánh và sửa sai. Hăy nhớ rằng, tất cả những ǵ được đặc biệt đề cập đến ở chương I trong bản Hướng Dẫn này th́ cần phải lưu ư cả đến những ǵ theo đó nữa.


1. Những Vi Phạm Trầm Trọng Graviora Delicta (172)


172.     Những vi phạm trầm trọng graviora delicta đến tính cách thánh thiện của Hiến Tế và Bí Tích Thánh Thể Cực Linh này cần phải được giải quyết theo ‘những Qui Tắc liên quan đến những vi phạm trầm trọng thuộc thẩm quyền Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin’ (280), tức là những vi phạm sau đây:


a) việc lấy đi hay lưu giữ các h́nh thể được truyền phép để phạm thánh, hay để quẳng đi (281).


b) việc cử hành nhái lại tác động phụng vụ Hy Tế Thánh Thể hay mô phỏng làm theo tương tự như thế (282).


c) việc không được phép cử hành Hy Tế Thánh Thể với các vị thừa tác viên thuộc các Cộng Đồng Giáo Hội không có quyền thừa kế tông đồ hay không nh́n nhận giá trị bí tích của Bí Tích Truyền Chức linh mục (283);


d) việc truyền phép, với mục đích để phạm thánh, một chất thể duy nhất mà không có chất thể c̣n lại trong việc cử hành Thánh Thể, hay thậm chí truyền phép cả hai chất thể này ở ngoài việc cử hành Thánh Thể (284).


2. Những Vấn Đề Trầm Trọng (173)

173.     Mặc dù tính cách trầm trọng của một vấn đề được thẩm phán theo giáo huấn chung của Giáo Hội cũng như theo các qui tắc được Giáo Hội thiết định, tuy nhiên, theo khách quan, những vấn đề trầm trọng có thể được kể đến là bất cứ những ǵ gây nguy hiểm đến tính cách hiệu thành và đến giá trị của Thánh Thể Cực Linh, tức là bất cứ sự ǵ phản nghịch với những điều đă được đề cập đến ở những số 48-52, 56, 76-77, 79, 91-92, 94, 96, 101-102, 104, 106, 109, 111, 115, 117, 126, 131-133, 138, 153 và 168. Ngoài ra, cũng phải chú ư tới các qui định khác của Giáo Luật, nhất là những ǵ được ấn định ở các khoản 1364, 1369, 1373, 1376, 1380, 1384, 1385, 1386 và 1398.

3. Những Vấn Đề Lạm Dụng Khác (174-175)

174.     Hơn thế nữa, những hành động xẩy ra ấy, những hành động trái với những vấn đề khác được đề cập đến ở chỗ khác trong Bản Hướng Dẫn này hay theo những qui tắc luật định cũng không được coi nhẹ, mà phải được kể vào số những thứ lạm dụng cần phải cẩn thận tránh lánh và sửa sai.

175.     Những điều được nói đến trong bản Hướng Dẫn này hiển nhiên không bao gồm tất cả mọi thứ vi phạm đến Giáo Hội cũng như đến kỷ luật của Giáo Hội là những ǵ được qui định nơi các khoản giáo luật, nơi qui luật phụng vụ cũng như nơi các qui tắc của Giáo Hội theo giáo Huấn Quyền hay truyền thống lành mạnh. Ở đâu xẩy ra sai lầm th́ ở đó cần phải sửa chữa theo qui luật.

4. Vị Giám Mục Giáo Phận (176-180)

176.     Vị Giám Mục giáo phận, “v́ là ban phát viên chính yếu các mầu nhiệm của Thiên Chúa, phải liên lỉ cố gắng để làm sao cho thành phần tín hữu của Chúa Kitô được trao phó cho việc chăm sóc của ngài được lớn lên trong ân sủng nhờ việc cử hành các phép bí tích, cũng như để ho ỉ ư thức và sống Mầu Nhiệm Vượt Qua” (285). Ngài có trách nhiệm “ban hành theo thẩm quyền của ḿnh những qui tắc về các vấn đề phụng vụ buộc tất cả phải tuân giữ” (286).

177.     “V́ phải bảo toàn mối hiệp nhất của Giáo Hội hoàn vũ, vị Giám Mục buộc phải cổ vơ kỷ luật chung áp dụng cho toàn Giáo Hội, mà bởi thế cần phải nhấn mạnh đến việc tuân giữ tất cả mọi luật lệ của Giáo Hội. Ngài cần phải coi chừng đừng để những thứ lạm dụng vi phạm đến kỷ luật của giáo hội, nhất là liên quan đến thừa tác vụ Lời Chúa, đến việc cử hành các Bí Tích và á bí tích, đến việc tôn thờ Thiên Chúa và tôn kính Chư Thánh” (287).

178.     Bởi thế, khi nào vị Bản Quyền địa phương hay Bản Quyền của một Ḍng Tu hoặc Hội tông đồ nhận được ít là một báo cáo hợp lư về việc vi phạm hay lạm dụng liên quan đến Thánh Thể Cực Linh th́ ngài phải, bởi đích thân ḿnh hay nhờ một giáo sĩ xứng hợp khác, cẩn thận điều tra về các dữ kiện cùng các hoàn cảnh và vấn đề qui trách.

179.     Những vi phạm đến đức tin cũng như những xúc phạm trầm trọng graviora delicta trong việc cử hành Thánh Thể cũng như các Bí Tích khác cần phải được cấp báo ngay cho Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin để thánh bộ này “xem xét những sự ấy, để nếu cần, tiến hành việc công bố hay áp dụng các biện pháp chế tài về giáo luật theo qui tắc của luật chung hay của luật thích đáng” (288).

180.     Bằng không vị Bản Quyền phải thi hành theo các qui tắc của các khoản lề luật thánh, áp dụng trừng phạt theo giáo luật nếu cần, và đặc biệt chú ư tới những ǵ đă được nói đến ở khoản 1326. Nếu là vấn đề trầm trọng, ngài nên báo cho Thánh Bộ Thờ Phượng và Bí Tích.


5. Ṭa Thánh (181-182)


181.     Bất cứ khi nào Thánh Bộ Thờ Phượng và Bí Tích nhận được một báo cáo hợp lư về một sự vi phạm hay một sự lạm dụng liên quan đến Thánh Thể Cực Linh, thánh bộ này liên lạc với Đấng bản Quyền để vị này điều tra vấn đề. Khi vấn đề thực sự là trầm trọng, vị Bản Quyền liền gửi sớm bao nhiêu có thể cho cùng Phân Bộ này một bản thực hiện việc truy t́m, và nếu cần, bao cả h́nh phạt kèm theo.


182.     Trong những trường hợp khó khăn, vị Bản Quyền, v́ thiện ích của Giáo Hội hoàn vũ trong việc chăm sóc mà ngài được tham phần bởi Bí Tích Truyền Chức, không được bỏ việc giải quyết vấn đề, bằng cách tham khảo trước đó với Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích. Về phần ḿnh, Thánh Bộ này, bằng thế lực của năng quyền được Đức Giáo Hoàng ủy thác, theo bản chất của trường hợp xẩy ra, sẽ hỗ trợ vị Bản Quyền, bằng cách ban cho ngài những ơn chuẩn cần thiết (289), hay đưa ra những điều hướng dẫn hoặc qui định để ngài thận trọng thi hành.


6. Những Phàn Nàn Về Các Sự Lạm Dụng Trong Những Vấn Đề Phụng Vụ (183-184)


183.     Đặc biệt nói chung, hết mọi người hăy làm hết sức ḿnh có thể để bảo đảm rằng Bí Tích Thánh Thể Cực Linh tránh được bất cứ và tất cả mọi điều bất kính hay lệch lạc, và tất cả những sự lạm dụng phải được hoàn toàn sữa chữa. Đó là một nhiệm vụ hệ trọng nhất đối với từng người cũng như mọi người, và tất cả đều buộc phải thi hành nhiệm vụ này không vị nể.


184.     Bất cứ người Công Giáo nào, dù là Linh Mục hay Phó Tế hoặc giáo dân thuộc thành phần tín hữu của Chúa Kitô, đều có quyền tŕnh báo nhận định của ḿnh về việc lạm dụng phụng vụ cho vị Giám Mục giáo phận hay cho vị Bản Quyền xứng hợp tương đương với ngài theo luật, hoặc cho Ṭa Thánh thi hành quyền hạn của Đức Giáo Hoàng Rôma (290). Tuy nhiên, nếu có thể, hay nhất là thực hiện việc tŕnh báo trước hết cho vị Giám Mục giáo phận. B́nh thường việc này phải được thực hiện theo sự thật và trong đức bác ái.



Kết Luận
(185-186)

 


185.     “Có một quyền năng tác tạo nơi mối hiệp nhất của thân ḿnh Chúa Kitô ngược lại với những mầm mống bất ḥa là những ǵ kinh nghiệm hằng ngày cho thấy do bởi tội lỗi mà ra đă cắm rễ sâu xa nơi bản tính của con người. Ví chính việc xây dựng Giáo Hội mà Thánh Thể đă thiết lập mối hiệp thông nơi con người” (291). Thế nên, Thánh Bộ Thờ Phượng và Bí Tích này cũng hy vọng rằng, bằng việc thận trọng áp dụng những điều đă được nhắc nhở trong Bản Hướng Dẫn này, tính cách yếu kém của con người ít gây trở ngại cho tác động của Bí Tích Thánh Thể Cực Linh, tất cả mọi thứ lệch lạc đều bị loại trừ và tất cả mọi việc thực hành không thể chấp nhận đều bị bỏ đi (292), nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, “Người Nữ Thánh Thể”, sự hiện diện cứu độ của Chúa Kitô nơi Bí Tích Ḿnh Máu của Người được chiếu tỏa rạng ngời trên tất cả mọi người.

186.     Chớ ǵ tất cả mọi tín hữu của Chúa Kitô tham dự vào Thánh Thể Cực Linh một cách trọn vẹn, ư thức và chủ động bao nhiêu có thể (293), thiết tha tôn kính Thánh Thể bằng việc sùng bái và cung cách sống của họ. Chớ ǵ các vị Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, khi thi hành thừa tác vụ thánh, hăy xét lương tâm ḿnh về tính cách chân thực và trung thực của những tác động các vị thi hành nhân danh Chúa Kitô và Giáo Hội trong việc cử hành Phụng Vụ Thánh. Chớ ǵ mỗi một vị thừa tác viên thánh chức hăy tự hỏi ḿnh, một cách trịnh trọng, xem các vị đă tôn trọng quyền lợi của phần tử giáo dân thuộc thành phần tín hữu của Chúa Kitô hay chăng, thành phần tin tưởng kư thác bản thân của họ cũng như của con cái họ cho các vị, tin cậy việc các vị hoàn trọn cho thành phần tín hữu những nhiệm vụ thánh Giáo Hội muốn thi hành khi cử hành Phụng Vụ thánh theo lệnh của Chúa Kitô (294). V́ mỗi một người cần phải luôn nhớ rằng họ là người tôi tớ của Phụng Vụ Thánh (295).

Chứ không phải tất cả những ǵ ngược lại.


Bản Hướng Dẫn này, do Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích soạn dọn theo lệnh của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, với sự hợp tác của Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin, đă được Đức Thánh Cha chuẩn nhận vào Lễ Trọng Kính Thánh Giuse 19/3/2004, và Ngài truyền phải ban hành và tuân giữ ngay bởi tất cả những ai liên hệ.


Tại văn pḥng Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích, Rôma, Lễ Trọng Truyền Tin 25/3/2004.


Hồng Y Francis Arinze,
Bộ Trưởng


Tổng Giám Mục Somenico Sorrentino
Bí Thư



GHI CHÚ


[1] Cf. Missale Romanum, ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum, auctoritate Pauli Pp. VI promulgatum, Ioannis Pauli Pp. II cura recognitum, editio typica tertia, diei 20 aprilis 2000, Typis Vaticanis, 2002, Missa votiva de Dei misericordia, oratio super oblata, p. 1159.
[2] Cf. 1 Cor 11, 26; Missale Romanum, Prex Eucharistica, acclamatio post consecrationem, p. 576; Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, 17 April 2003, nn. 5, 11, 14, 18: AAS 95 (2003) pp. 436, 440-441, 442, 445.
[3] Cf. Is 10: 33; 51, 22; Missale Romanum, In sollemnitate Domini nostri Iesu Christi, universorum Regis, Praefatio, p. 499.
[4] Cf.1 Cor 5: 7; Second Vatican Ecumenical Council, Decree on the Ministry and Life of Priests, Presbyterorum ordinis, 7 December 1965, n. 5; John Paul II, Apostolic Exhortation., Ecclesia in Europa, n. 75: AAS 95 (2003) pp. 649-719, here p. 693.
[5] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, 21 November 1964, n. 11.
[6] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, 17 April 2003, n. 21: AAS 95 (2003) p. 447.
[7] Ibidem: AAS 95 (2003) pp. 433-475.
[8] Ibidem, n. 52: AAS 95 (2003) p. 468.
[9] Ibidem.
[10] Ibidem, n. 10: AAS 95 (2003) p. 439.
[11] Ibidem; cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter, Vicesimus quintus annus, 4 December 1988, nn. 12-13: AAS 81 (1989)pp. 909-910; cf. also Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, 4 December 1963 n. 48.
[12] Missale Romanum, Prex Eucharistica III, p. 588; cf. 1 Cor 12: 12-13; Eph 4: 4.
[13] Cf. Phil 2,5.
[14] Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, n. 10: AAS 95 (2003), p. 439.
[15] Ibidem, n. 6: AAS 95 (2003) p. 437; cf. Lk 24: 31.
[16] Cf. Rom 1: 20.
[17] Cf. Missale Romanum, Praefatio I de Passione Domini, p. 528.
[18] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter Veritatis splendor, 6 August 1993, n. 35: AAS 85 (1993) pp. 1161-1162; Homily given at Camden Yards, 9 October 1995, n. 7: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XVII, 2 (1995), Libreria Editrice Vaticana, 1998, p. 788.
[19] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, n. 10: AAS 95 (2003) p. 439.
[20] Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 24; cf. Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Instruction Varietates legitimae, 25 January 1994, nn. 19 and 23: AAS 87 (1995) pp. 295-296, 297.
[21] Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 33.
[22] Cf. St Irenaeus, Adversus Haereses, III, 2: SCh.., 211, 24-31; St Augustine, Epistula ad Ianuarium: 54,I: PL 33,200: ềIlla autem quae non scripta, sed tradita custodimus, quae quidem toto terrarum orbe servantur, datur intellegi vel ab ipsis Apostolis, vel plenariis conciliis, quorum est Ecclesia saluberrima auctoritas, commendata atque statuta retineri.Ừ; Pope John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris missio, 7 December 1990, nn. 53-54: AAS 83 (1991) pp. 300-302; Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter to the Bishops of the Catholic Church on Certain Aspects of the Church as Communion, Communionis notio, 28 May 1992, nn. 7-10: AAS 85 (1993) pp. 842-844; Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Instruction Varietates legitimae, n. 26: AAS 87 (1995) pp. 298-299.
[23] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 21.
[24] Cf. Pope Pius XII, Apostolic Constitution Sacramentum Ordinis, 30 November 1947: AAS 40 (1948) p. 5; Congregation for the Doctrine of the Faith, Declaration Inter insigniores, 15 October 1976, part IV: AAS 69 (1977) pp. 107-108; Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Instruction Varietates legitimae, n. 25: AAS 87 (1995) p. 298.
[25] Cf. Pope Pius XII, Encyclical Letter Mediator Dei, 20 November 1947: AAS 39 (1947) p. 540.
[26] Cf. S. Congregation for the Sacraments and Divine Worship, Instruction Inaestimabile donum, 3 April 1980: AAS 72 (1980) p. 333.
[27] Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, n. 52: AAS 95 (2003), p. 468.
[28] Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, nn. 4,38; Decree on the Catholic Eastern Churches, Orientalium Ecclesiarum, 21 November 1964, nn. 1,2,6; Pope Paul VI, Apostolic Constitution Missale Romanum: AAS 61 (1969) pp. 217-222; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 399; Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Instruction Liturgiam authenticam, 28 March 2001, n. 4: AAS 93 (2001) pp. 685-726, here p. 686.
[29] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Exhortation Ecclesia in Europa, n. 72: AAS 95 (2003) p. 000.
[30] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, n. 23: AAS 95 (2003) pp. 448-449; S. Congregation of Rites, Instruction Eucharisticum mysterium, 25 May 1967, n. 6: AAS 59 (1967) p. 545.
[31] S. Congregation for the Sacraments and Divine Worship, Instruction Inaestimabile donum: AAS 72 (1980) pp. 332-333.
[32] Cf. 1 Cor 11,17-34; Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 52: AAS 95 (2003) pp. 467-468.
[33] Cf. Code of C anon Law, 25 January 1983, can. 1752.
[34] Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 22 ậ1; cf. Code of Canon Law, can. 838 ậ1.
[35] Code of Canon Law, can. 331; cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 22.
[36] Code of Canon Law, can. 838 ậ2.
[37] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Constitution, Pastor bonus, 28 June 1988: AAS 80 (1988) pp. 841-924, here artt. 62, 63, and 66, pp. 876-877.
[38] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 52: AAS 95 (2003) p. 468.
[39] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Decree on the Pastoral Office of Bishops, Christus Dominus, 28 October 1965, n. 15; cf. also the Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 41; Code of Canon Law, can. 387.
[40] Prayer for the Consecration of a Bishop in the Byzantine Rite: Euchologion to mega, Rome, 1873, p. 139.
[41] Cf. St. Ignatius of Antioch, Ad Smyrn. 8,1: ed. F.X. Funk, I, p. 282.
[42] Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 26; cf. S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 7: AAS 59 (1967) p. 545; cf. also Pope John Paul II, Apostolic Exhortation, Pastores gregis, 16 October 2003, nn. 32-41: L’Osservatore Romano, 17 October 2003, pp. 6-8.
[43] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 41; cf. St. Ignatius of Antioch, Ad Magn. 7, Ad Philad. 4, Ad Smyrn. 8: ed. F.X. Funk, I, pp. 236, 266, 281; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 22; cf. also Code of Canon Law, can. 389.
[44] Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Lumen gentium, n. 26.
[45] Code of Canon Law, can. 838 ậ4.
[46] Cf. Consilium for Implementing the Constitution on the Liturgy, Dubium: Notitiae 1 (1965) p. 254.
[47] Cf. Acts 20,28; Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, nn. 21 and 27; Decree on the Pastoral Office of Bishops in the Church, Christus Dominus, n. 3.
[48] Cf. S. Congregation for Divine Worship, Instruction, Liturgicae instaurationes, 5 September 1970: AAS 62 (1970) p. 694.
[49] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 21; Decree on the Pastoral Office of Bishops in the Church, Christus Dominus, n. 3.
[50] Cf. Caeremoniale Episcoporum ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum, auctoritate Ioannis Pauli Pp. II promulgatum, editio typica, 14 September 1984, Vatican Polyglot Press, 1985, n. 10
[51] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 387.
[52] Cf. ibidem, n. 22.
[53] Cf. S. Congregation for Divine Worship, Instruction, Liturgicae instaurationes: AAS 62 (1970) p. 694.
[54] Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 27; cf. 2 Cor 4,15.
[55] Cf. Code of Canon Law, canons 397 ậ1; 678 ậ1.
[56] Cf. ibidem, canon 683 ậ1.
[57]Ibidem, canon 392.
[58] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter Vicesimus quintus annus, n. 21: AAS 81 (1989) p. 917; Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, nn. 45-46; Pope Pius XII, Encyclical Letter Mediator Dei: AAS 39 (1947) p. 562.
[59] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter Vicesimus quintus annus, n. 20: AAS 81 (1989) p. 916.
[60] Cf. ibidem.
[61] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 44; Congregation for Bishops, Letter sent to the Presidents of the Conferences of Bishops together with the Congregation for the Evangelization of Peoples, 21 June 1999, n. 9: AAS 91 (1999) p. 999.
[62] Cf. Congregation for Divine Worship, Instruction Liturgicae instaurationis, n. 12: AAS 62 (1970) pp. 692-704; cf., here p. 703.
[63] Cf. Congregation For Divine Worship, Declaration on Eucharistic Prayers and liturgical experimentation, 21 March 1988: Notitiae 24 (1988) pp. 234-236.
[64] Cf. Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Instruction Varietates legitimae: AAS 87 (1995) pp. 288-314.
[65] Cf. Code of Canon Law, can. 838 ậ 3; S. Congregation of Rites, Instruction Inter Oecumenici, 26 September 1964, n. 31: AAS 56 (1964) p. 883; Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Instruction Liturgiam authenticam, nn. 79-80: AAS 93 (2001) pp. 711-713.
[66] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Decree on the Ministry and Life of Priests, Presbyterorum ordinis, 7 December 1965, n. 7; Pontificale Romanum, ed. 1962: Ordo consecrationis sacerdotalis, in Praefatione; Pontificale Romanum ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II renovatum, auctoritate Pauli Pp. VI editum, Ioannis Pauli Pp. II cura recognitum: De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, editio typica altera, 29 June 1989, Typis Polyglottis Vaticanis, 1990, cap. II: De Ordin. presbyterorum, Praenotanda, n. 101.
[67] St. Ignatius of Antioch, Ad Philad., 4: ed. F.X. Funk, I, p. 266; Pope St. Cornelius I, cited by St. Cyprian, Letter 48,2: ed. G. Hartel, III,2, p. 610.
[68] Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 28.
[69] Cf. ibidem.
[70] John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, n. 52; cf. n. 29: AAS 95 (2003) pp. 467-468; 452-435.
[71] Pontificale Romanum, De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, editio typica altera: De Ordinatione Presbyterorum, n. 124; cf. Missale Romanum, Feria V in Hebdomada Sancta: Ad Missam chrismatis, Renovatio promissionum sacerdotalium, p. 292.
[72] Cf. Ecumenical Council of Trent, Session VII, 3 March 1547, Decree on the Sacraments, canon 13, DS 1613; Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 22; Pope Pius XII, Encyclical Letter Mediator Dei: AAS 39 (1947) pp. 544, 546-547, 562; Codex Iuris Canonici, can 846, ậ 1; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 24.
[73] St. Ambrose, De Virginitate, n. 48: PL 16, 278.
[74] Code of Canon Law, can. 528 ậ 2.
[75] Second Vatican Ecumenical Council, Decree on the Ministry and Life of Priests, Presbyterorum Ordinis, n. 5.
[76] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, n. 5: AAS 95 (2003) p. 436.
[77] Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 29; cf. Constitutiones Ecclesiae Aegypticae, III, 2: ed. F.X. Funk, Didascalia, II, p. 103; Statuta Ecclesiae Ant., 37-41: ed. D. Mansi 3, 954.
[78] Cf. Acts 6,3.
[79] Jn 13,35.
[80] Matt 20,28.
[81] Cf. Luke 22,27.
[82] Cf. Caeremoniale Episcoporum, nn. 9, 23. Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 29.
[83] Cf. Pontificale Romanum, De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, editio typica altera, cap. III, De Ordin. diaconorum, n. 199.
[84] Cf. 1 Tim 3,9.
[85] Cf. Pontificale Romanum, De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, editio typica altera, cap. III, De Ordin. diaconorum, n. 200.
[86] Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 10.
[87] Cf. ibidem, n. 41; Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 11; Decree on the Ministry and Life of Priests, Presbyterorum ordinis, nn. 2,5,6; Decree on the Pastoral Office of Bishops, Christus Dominus, n. 30, Decree on Ecumenism, Unitatis redintegratio, 21 November 1964, n. 15; S. Congregation of Rites, Instruction Eucharisticum mysterium, nn. 3e, 6: AAS 59 (1967) pp. 542, 544-545; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 16.
[88] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 26; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 91.
[89] 1 Pet 2,9; cf. 2,4-5.
[90] Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 91; cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 41.
[91] Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 10.
[92] Cf. St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, III, q. 63, a. 2.
[93] Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 10; cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, n. 28: AAS 95 (2003) p. 452.
[94] Cf. Acts 2,42-47.
[95] Cf. Rom 12,1.
[96] Cf. 1 Pet 3,15; 2,4-10.
[97] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, nn. 12-18: AAS 95 (2003) p. 441-445; Letter Dominicae Cenae, 24 February 1980, n. 9: AAS 72 (1980) pp. 129-133.
[98] Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, n. 10: AAS 95 (2003) p. 439.
[99] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, nn. 30-31.
[100] Cf. S. Congregation for Divine Worship, Instruction Liturgicae instaurationes, n. 1: AAS 62 (1970) p. 695.
[101] Cf. Missale Romanum, Feria secunda post Dominica V in Quadragesima, Collecta, p. 258.
[102] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter Novo Millennio ineunte, 6 January 2001, n. 21: AAS 93 (2001) p. 280; cf. Jn 20,28.
[103] Cf. Pope Pius XII, Encyclical Letter Mediator Dei: AAS 39 (1947) p. 586; cf. also Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 67; Pope Paul VI, Apostolic Exhortation Marialis cultus, 11 February 1974, n. 24: AAS 66 (1974) pp. 113-168, here p. 134; Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Direttorio su pietà popolare e Liturgia, 17 December 2001.
[104] Pope John Paul II, Apostolic Letter, Rosarium Virginis Mariae, 16 October 2002: AAS 95 (2003) pp. 5-36.
[105] Cf. Pope Pius XII, Encyclical Letter Mediator Dei: AAS 39 (1947) p. 586-587.
[106] Cf. Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Instruction, Varietates legitimae, n. 22: AAS 87 (1995) p. 297.
[107] Cf. Pope Pius XII, Encyclical Letter, Mediator Dei: AAS 39 (1947) p. 553.
[108] Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 29: AAS 95 (2003) p. 453; cf. Fourth Lateran Ecumenical Council, 11-30 November 1215, Chapter I: DS 802; Ecumenical Council of Trent, Session XXIII, 15 July 1563, Doctrine and Canons on Sacred Order, Chapter 4: DS 1767-1770; Pope Pius XII, Encyclical Letter, Mediator Dei: AAS 39 (1947) p. 553.
[109] Cf. Code of Canon Law, can. 230 ậ 2; cf. also the Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 97.
[110] Cf. Missale Romanum, General Instruction, n. 109.
[111] Cf. Pope Paul VI, Apostolic Letter (Motu Proprio) Ministeria quaedam, 15 August 1972, nn. VI-XII; Pontificale Romanum ex decreto sacrosancti oecumenici Concilii Vaticani II instauratum, auctoritate Pauli Pp. VI promulgatum, De institutione lectorum et acolythorum, de admissione inter candidatos ad diaconatum et presbyteratum, de sacro caelibatu amplectendo, editio typica, 3 December 1972, Typis Polyglottis Vaticanis, 1973, p. 10: AAS 64 (1972) pp. 529-534, here pp. 532-533; Code of Canon Law, can. 230 ậ1; Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 98-99, 187-193.
[112] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 187-190, 193; Code of Canon Law, can. 230 ậ2-3.
[113] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 24; S. Congregation for the Sacraments and Divine Worship, Instruction, Inaestimabile donum, nn. 2 and 18: AAS 72 (1980) pp. 334, 338; Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 101, 194-198; Code of Canon Law, can 230 ậ2-3.
[114] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 100-107.
[115] Ibidem, n. 91; cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 28.
[116] Cf. Pope John Paul II, Allocution to the Conference of Bishops of the Antilles, 7 May 2002, n. 2: AAS 94 (2002) pp. 575-577; Post-Synodal Apostolic Exhortation, Christifideles laici, 30 December 1988, n. 23: AAS 81 (1989) pp. 393-521, here pp. 429-431; Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, 15 August 1997, Theological Principles, n. 4: AAS 89 (1997) pp. 860-861.
[117] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 19.
[118] S. Congregation for Divine Worship, Instruction, Immensae caritatis, 29 January 1973: AAS 65 (1973) p. 266.
[119] Cf. S. Congregation of Rites, Instruction, De Musica sacra, 3 September 1958, n. 93c: AAS 50 (1958) p. 656.
[120] Cf. Pontifical Council for the Interpretation of Legislative Texts, Response to dubium, 11 July 1992: AAS 86 (1994) pp. 541-542; Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Letter to the Presidents of Conferences of Bishops on the liturgical service of laypersons, 15 March 1994: Notitiae 30 (1994) pp. 333-335, 347-348.
[121] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Constitution, Pastor Bonus, art. 65: AAS 80 (1988) p. 877.
[122] Cf. Pontifical Council for the Interpretation of Legislative Texts, Response to dubium, 11 July 1992: AAS 86 (1994) pp. 541-542; Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Letter to the Presidents of the Conferences of Bishops concerning the liturgical service of laypersons, 15 March 1994: Notitiae 30 (1994) pp. 333-335, 347-348; Letter to a Bishop, 27 July 2001: Notitiae 38 (2002) 46-54.
[123] Cf. Code of Canon Law, can. 924 ậ2; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 320.
[124] Cf. S. Congregation for the Discipline of the Sacraments, Instruction, Dominus Salvator noster, 26 March 1929, n. 1: AAS 21 (1929) pp. 631-642, here p. 632.
[125] Cf. ibidem, n. II: AAS 21 (1929) p. 635.
[126] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 321.
[127] Cf. Lk 22,18; Code of Canon Law, can. 924 ậậ 1, 3; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 322.
[128] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 323.
[129] Pope John Paul II, Apostolic Letter, Vicesimus quintus annus, n. 13, AAS 81 (1989)
[130] S. Congregation for the Sacraments and Divine Worship, Instruction, Inaestimabile donum, n. 5: AAS 72 (1980) pp. 335.
[131] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 28: AAS 95 (2003) p. 452; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 147; S. Congregation for Divine Worship, Instruction, Liturgicae instaurationes, n. 4: AAS 62 (1970) p. 698; S. Congregation for the Sacraments and Divine Worship, Instruction, Inaestimabile donum, n. 4: AAS 72 (1980) p. 334.
[132]Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 32.
[133] Ibidem, n. 147; cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 28: AAS 95 (2003) p. 452; cf. also Congregation for the Sacraments and Divine Worship, Instruction, Inaestimabile donum, n. 4: AAS 72 (1980) pp. 334-335.
[134] Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 39: AAS 95 (2003) p. 459.
[135] Cf. S. Congregation for Divine Worship, Instruction, Liturgicae instaurationes, n. 2b: AAS 62 (1970) p. 696.
[136] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 356-362.
[137] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 51.
[138] Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 57; cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter, Vicesimus quintus annus, n. 13: AAS 81 (1989) p. 910; Congregation for the Doctrine of the Faith, Declaration, Dominus Iesus, on the unicity and salvific universality of Jesus Christ and the Church, 6 August 2000: AAS 92 (2000) pp. 742-765.
[139] Missale Romanum, General Instruction, n. 60.
[140] Cf. ibidem, nn. 59-60.
[141] Cf., e.g., Rituale Romanum, ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II renovatum, auctoritate Pauli Pp. VI editum Ioannis Pauli Pp. II cura recognitum: Ordo celebrandi Matrimonium, editio typica altera, 19 March 1990, Typis Polyglottis Vaticanis 1991, n. 125; Roman Ritual, renewed by decree of the Second Vatican Ecumenical Council and promulgated by authority of Pope Paul VI: Order for Anointing of the Sick and for their Pastoral Care, editio typica, 7 December 1972, Vatican Polyglot Press, 1972, n. 72.
[142] Cf. Code of Canon Law, can 767 ậ1.
[143] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 66; cf. also the Code of Canon Law, can. 6, ậ1, 2; also can. 767 ậ1, regarding which other noteworthy prescriptions may be found in Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Practical Provisions, art. 3 ậ 1: AAS 89 (1997) p. 865.
[144] Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 66; cf. also the Code of Canon Law, can 767 ậ1.
[145] Cf. Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Practical Provisions, art. 3 ậ1: AAS 89 (1997) p. 865; cf. also the Code of Canon Law, can. 6 ậ1, 2; Pontifical Commission for the Authentic Interpretation of the Code of Canon Law, Response to dubium, 20 June 1987: AAS 79 (1987) p. 1249.
[146] Cf. Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Practical Provisions, art. 3 ậ 1: AAS 89 (1997) pp. 864-865.
[147] Cf. Ecumenical Council of Trent, Session XXII, 17 September 1562, on the Most Holy Sacrifice of the Mass, Chapter 8: DS 1749; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 65.
[148] Cf. Pope John Paul II, Allocution to a number of Bishops from the United States of America who had come to Rome for a visit “ad Limina Apostolorum”, 28 May 1993, n. 2: AAS 86 (1994) p. 330.
[149] Cf. Code of Canon Law, can. 386 ậ1.
[150] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 73.
[151] Cf. ibidem, n. 154.
[152] Cf. ibidem, nn. 82, 154.
[153] Cf. ibidem, n. 83.
[154] Cf. S. Congregation for Divine Worship, Instruction, Liturgicae instaurationes, n. 5: AAS 62 (1970) p. 699.
[155] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 83, 240, 321.
[156] Cf. Congregation For the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Practical Provisions, art. 3 ậ2: AAS 89 (1997) p. 865.
[157] Cf. especially the General Instruction of the Liturgy of the Hours, nn. 93-98; Roman Ritual, revised by decree of the Second Vatican Ecumenical Council and published by authority of Pope John Paul II: Book of Blessings, editio typica, 31 May 1984, General Introduction, n. 28; Order of Crowning an Image of the Blessed Virgin Mary, editio typica, 25 March 1981, nn. 10 and 14; S. Congregation for Divine Worship, Instruction, on Masses with Particular Groups, Actio pastoralis, 15 May 1969: AAS 61 (1969) pp. 806-811; Directory for Masses with Children, Pueros baptizatos, 1 November 1973:AAS 66 (1974) pp. 30-46; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 21.
[158] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter (Motu Proprio), Misericordia Dei, 7 April 2002, n. 2: AAS 94 (2002) p. 455; Cf. Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Response to Dubium: Notitiae 37 (2001) pp. 259-260.
[159] Cf. S. Congregation for Divine Worship, Instruction, Liturgicae instaurationes, n. 9: AAS 62 (1970) p. 702.
[160] Ecumenical Council of Trent, Session XIII, 11 October 1551, Decree on the Most Holy Eucharist, Chapter 2: DS 1638; cf. Session XXII, 17 September 1562, On the Most Holy Sacrifice of the Mass, Chapters 1-2: DS 1740, 1743; S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 35: AAS 59 (1967) p. 560.
[161] Cf. Missale Romanum, Ordo Missae, n. 4, p. 505.
[162]Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 51.
[163] Cf. 1 Cor 11: 28.
[164]Cf. Code of Canon Law, can. 916; cf. Ecumenical Council of Trent, Session XIII, 11 October 1551, Decree on the Most Holy Eucharist, Chapter 7: DS 1646-1647; Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 36: AAS 95 (2003) pp. 457-458; S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 35: AAS 59 (1967) p. 561.
[165] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 42: AAS 95 (2003) p. 461.
[166] Cf. Code of Canon Law, n. 844 ậ 1; Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, nn. 45-46: AAS 95 (2003) pp. 463-464; cf. also Pontifical Council for the Promotion of Christian Unity, Directory for the application of the principles and norms on ecumenism, La recherche de l’unité, nn. 130-131: AAS 85 (1993) 1039-1119, here p. 1089.
[167] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, n. 46: AAS 95 (2003) pp. 463-464.
[168] Cf. S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 35: AAS 59 (1967) p. 561.
[169] Cf. Code of Canon Law, can. 914; S. Congregation for the Discipline of the Sacraments, Declaration, Sanctus Pontifex, diei 24 maii 1973: AAS 65 (1973) p. 410; S. Congregation for the Sacraments and Divine Worship and S. Congregation for the Clergy, Letter to the Presidents of the Bishops’ Conferences. Episcoporum, In quibusdam, 31 March 1977: Enchiridion Documentorum Instaurationis Liturgicae, II, pp. 142-144; S. Congregation for the Sacraments and Divine Worship and S. Congregation for the Clergy, Response to dubium, 20 May 1977: AAS 69 (1977) p. 427.
[170] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter, Dies Domini, 31 May 1998, nn. 31-34: AAS 90 (1998) pp. 713-766, here pp. 731-734.
[171] Cf. Code of Canon Law,can. 914.
[172] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 55.
[173] Cf. S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 31: AAS 59 (1967) p. 558; Pontifical Commission for the Authentic Interpretation of the Code of Canon Law, Response to dubium, 1 June 1988: AAS 80 (1988) p. 1373.
[174]Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 85.
[175] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 55; S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 31: AAS 59 (1967) p. 558; Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 85, 157, 243.
[176] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 160.
[177]Code of Canon Law, can. 843 ậ 1; cf. can. 915.
[178] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 161.
[179]Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Dubium: Notitiae 35 (1999) pp. 160-161.
[180]Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 118.
[181]Ibidem, n. 160.
[182] Cf. Code of Canon Law, can. 917; Pontifical Commission for the Authentic Interpretation of the Code of Canon Law, Response to Dubium, 11 July 1984: AAS 76 (1984) p. 746.
[183] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 55; Missale Romanum, General Instruction, nn. 158-160, 243-244, 246.
[184] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 237-249; cf. also nn. 85, 157.
[185] Cf. ibidem, n. 283a.
[186] Cf. Ecumenical Council of Trent, Session XXI, 16 July 1562, Decree on Eucharistic Communion, Chapters 1-3: DS 1725-1729; Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 55; Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 282-283.
[187] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 283.
[188] Cf. ibidem.
[189] Cf. S. Congregation for Divine Worship,Instruction, Sacramentali Communione, 29 June 1970: AAS 62 (1970) p. 665;Instruction, Liturgicae instaurationes, n. 6a: AAS 62 (1970) p. 699.
[190]Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 285a.
[191]Ibidem, n. 245.
[192] Cf. ibidem, nn. 285b and 287.
[193]Cf. ibidem, nn. 207 and 285a.
[194] Cf. Code of Canon Law, can. 1367.
[195] Cf. Pontifical Council for the Interpretation of Legislative Texts, Response to dubium, 3 July 1999: AAS 91 (1999) p. 918.
[196]Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 163, 284.
[197]Code of Canon Law, can. 932 ậ 1; S. Congregation for Divine Worship, Instruction, Liturgicae instaurationes, n. 9: AAS 62 (1970) p. 701.
[198] Code of Canon Law, can. 904; cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 3; Decree on the Ministry and Life of Priests, Presbyterorum ordinis, n. 13; cf. also Ecumenical Council of Trent, Session XXII, 17 September 1562, On the Most Holy Sacrifice of the Mass, Chapter6: DS 1747; Pope Paul Pp. VI, Encyclical Letter Mysterium fidei, 3 September 1965: AAS 57 (1965) pp. 753-774, here pp. 761-762; cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 11: AAS 95 (2003) pp. 440-441; S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 44: AAS 59 (1967) p. 564; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 19.
[199] Cf. Code of Canon Law, can. 903; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 200.
[200] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 36 ậ 1; Code of Canon Law, can. 928.
[201] Cf.Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 114.
[202] Pope John Paul II, Apostolic Letter Dies Domini, n. 36: AAS 90 (1998) p. 735; cf. also S. Congregation of Rites, Instruction Eucharisticum mysterium, n. 27: AAS 59 (1967) p. 556.
[203] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter Dies Domini, esp. n. 36: AAS 90 (1998) pp. 713-766, here pp. 735-736; S. Congregation for Divine Worship, Instruction Actio pastoralis: AAS 61 (1969) pp. 806-811.
[204]Cf. Code of Canon Law, cann. 905, 945-958; cf. Congregation for the Clergy, Decree, Mos iugiter, 22 February 1991: AAS 83 (1991), pp. 443-446.
[205] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 327-333.
[206] Cf. ibidem, n. 332.
[207] Cf. ibidem, n. 332; Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments,, Instruction, Inaestimabile donum, n. 16: AAS 72 (1980) p. 338.
[208] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 333; Appendix IV. Ordo benedictionis calicis et patenae intra Missam adhibendus, pp. 1255-1257; Pontificale Romanum ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum, auctoritate Pauli Pp. VI promulgatum, Ordo Dedicationis ecclesiae et altaris, editio typica, diei 29 maii 1977, Typis Polyglottis Vaticanis, 1977, cap. VII, pp. 125-132.
[209] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 163, 183, 192.
[210] Ibidem, n. 345.
[211] Ibidem, n. 335.
[212] Cf. ibidem, n. 336.
[213] Cf. ibidem, n. 337.
[214] Cf. ibidem, n. 209.
[215] Cf. ibidem, n. 338.
[216] Cf. S. Congregation for Divine Worship, Instruction, Liturgicae Instaurationes, n. 8c: AAS 62 (1970) p. 701.
[217] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 346g.
[218] Ibidem, n. 114 cf. nn. 16-17.
[219] S. Congregation for Divine Worship, Decree, Eucharistiae sacramentum, 21 June 1973: AAS 65 (1973) 610.
[220] Cf. ibidem.
[221] Cf. S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 54: AAS 59 (1967) p. 568; Instruction, Inter Oecumenici, 26 September 1964, n. 95: AAS 56 (1964) pp. 877-900, here p. 898; Missale Romanum, Institutio Generalis,n. 314.
[222] Cf. Pope John Paul II, Letter, Dominicae Cenae, n. 3: AAS 72 (1980) pp. 117-119; S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 53: AAS 59 (1967) p. 568; Code of Canon Law, can. 938 ậ 2; Roman Ritual, Holy Communion and Worship of the Eucharist Outside Mass, Introduction, n. 9; Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 314-317.
[223] Cf. Code of Canon Law, can. 938 ậậ 3-5.
[224] S. Congregation for the Discipline of the Sacraments, Instruction, Nullo unquam, diei 26 maii 1938, n. 10d: AAS 30 (1938), pp. 198-207, here p. 206.
[225] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter (Motu Proprio), Sacramentorum sanctitatis tutela, 30 April 2001: AAS 93 (2001) pp. 737-739; Congregation for the Doctrine of the Faith, Ep. ad totius Catholicae Ecclesiae Episcopos aliosque Ordinarios et Hierarchas quorum interest: de delictis gravioribus eidem Congregationi pro Doctrina Fidei reservatis: AAS 93 (2001) p. 786.
[226] Cf. Roman Ritual, Holy Communion and Worship of the Eucharist Outside Mass, nn. 26-78.
[227] Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 25: AAS 95 (2003) pp. 449-450.
[228] Cf. Ecumenical Council of Trent,, Sessio XIII, 11 October 1551, Decree on the Most Holy Eucharist, Chapter 5: DS 1643; Pius Pp. XII, Encyclical Letter Mediator Dei: AAS 39 (1947) p. 569; Pope Paul Pp. VI, Encyclical Letter Mysterium Fidei, 3 September 1965: AAS 57 (1965) pp. 751-774, here 769-770; S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 3f: AAS 59 (1967) p. 543; S. Congregation for the Sacraments and Divine Worship, Instruction, Inaestimabile donum, n. 20: AAS 72 (1980) p. 339; Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 25: AAS 95 (2003) pp. 449-450.
[229] Cf. Heb 9,:11; Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 3: AAS 95 (2003) p. 435.
[230] Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 25: AAS 95 (2003) p. 450.
[231] Pope Paul. VI, Encyclical Letter Mysterium fidei: AAS 57 (1965) p. 771.
[232] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 25: AAS 95 (2003) pp. 449-450.
[233] Code of Canon Law, can. 937.
[234] Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 10: AAS 95 (2003) p. 439.
[235] Cf. Roman Ritual, Holy Communion and Worship of the Eucharist Outside Mass, nn. 82-100; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 317; Code of Canon Law, can. 941 ậ 2.
[236] Pope John Paul II, Apostolic Letter, Rosarium Virginis Mariae, diei 16 octobris 2002: AAS 95 (2003) pp. 5-36; here n. 2, p. 6.
[237] Cf. Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Letter of the Congregation, 15 January 1997: Notitiae 34 (1998) pp. 506-510; Apostolic Penitentiary, Letter to a Priest, 8 March 1996: Notitiae 34 (1998) p. 511.
[238] Cf. S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 61: AAS 59 (1967) p. 571; Roman Ritual, Holy Communion and Worship of the Eucharist Outside Mass, n. 83; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 317; Code of Canon Law, can. 941 ậ 2.
[239] Cf. Roman Ritual, Holy Communion and Worship of the Eucharist Outside Mass, n. 94.
[240] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Constitution, Pastor bonus, art. 65: AAS 80 (1988) p. 877.
[241] Code of Canon Law, can. 944 ậ 2; cf. Roman Ritual, Holy Communion and Worship of the Eucharist Outside Mass, Introduction, n. 102; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 317.
[242] Code of Canon Law, can. 944 ậ 1; cf. Roman Ritual, Holy Communion and Worship of the Eucharist Outside Mass, Introduction, nn. 101-102; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 317.
[243] Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 10: AAS 95 (2003) p. 439
[244] Cf. Roman Ritual, Holy Communion and Worship of the Eucharist Outside Mass, Introduction, n. 109.
[245] Cf. ibidem, nn. 109-112.
[246] Cf. Missale Romanum, In sollemnitate sanctissimi Corporis et Sanguinis Christi, Collecta, p. 489.
[247] Cf. Congregation for the Clergy, and others, Instruction, Ecclesiae de mysterio, Theological Principles, n. 3: AAS 89 (1997) p. 859.
[248] Cf. Code of Canon Law, can. 900 ậ 1; cf. Fourth Lateran Ecumenical Council, 11-30 November 1215, Chapter 1: DS802; Pope Clement VI, Letter to Mekhitar, Catholicos of the Armenians, Super quibusdam, 29 September 1351: DS 1084; Ecumenical Council of Trent, Sessio XXIII, 15 July 1563, Doctrine and Canons on Sacred Orders., Chapter 4: DS 1767-1770; Pope Pius XII, Encyclical Letter, Mediator Dei: AAS 39 (1947) p. 553.
[249] Cf. Code of Canon Law, can. 230 ậ 3; Pope John Paul II, Allocution during a Symposium concerning the collaboration of laypersons in the pastoral ministry of Priests, 22 April 1994, n. 2: L’Osservatore Romano, 23 April 1994; Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Prooemium: AAS 89 (1997) pp. 852-856.
[250] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter, Redemptoris missio, nn. 53-54: AAS 83 (1991) pp. 300-302; Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Prooemium: AAS 89 (1997) pp. 852-856.
[251] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Decree on the Missionary Activity of the Church, Ad gentes, 7 December 1965, n. 17; Pope John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris missio, n. 73: AAS 83 (1991) p. 321.
[252] Cf. Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Practical Provisions, art. 8 ậ 2: AAS 89 (1997) p. 872.
[253] Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 32: AAS 95 (2003) p. 455.
[254] Cf. Code of Canon Law, can. 900 ậ 1.
[255] Cf. ibidem, can. 910 ậ 1; cf. also Pope John Paul II, Letter, Dominicae Cenae, n. 11: AAS 72 (1980) p. 142; Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Practical Provisions, art. 8 ậ 1: AAS 89 (1997) pp. 870-871.
[256] Cf. Code of Canon Law, can. 230 ậ 3.
[257] Cf. S. Congregation for the Discipline of the Sacraments, Instruction, Immensae caritatis, prooemium: AAS 65 (1973) p. 264; Pope Paul VI, Apostolic Letter (Motu Proprio), Ministeria quaedam, 15 August 1972: AAS 64 (1972) p. 532; Missale Romanum, Appendix III: Ritus ad deputandum ministrum sacrae Communionis ad actum distribuendae, p. 1253; Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Practical Provisions, art. 8 ậ 1: AAS 89 (1997) p. 871.
[258] S. Congregation for the Sacraments and Divine Worship, Instruction, Inaestimabile donum, n. 10: AAS 72 (1980) p. 336; Pontifical Commission for the Authentic Interpretation of the Code of Canon Law, Response to dubium, 11 July 1984: AAS 76 (1984) p. 746.
[259] Cf. S. Congregation for the Discipline of the Sacraments, Instruction, Immensae caritatis, n. 1: AAS 65 (1973) pp. 264-271, here pp. 265-266; Pontifical Commission for the Authentic Interpretation of the Code of Canon Law, Responsio ad propositum dubium, 1 June 1988: AAS 80 (1988) p. 1373; Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Practical Provisions, art. 8 ậ 2: AAS 89 (1997) p. 871.
[260] Cf. Code of Canon Law, can. 767 ậ 1.
[261] Cf. ibidem, can. 766.
[262] Cf. Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Practical Provisions, art. 2 ậậ 3-4: AAS 89 (1997) p. 865.
[263] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter, Dies Domini, esp. nn. 31-51: AAS 90 (1998) pp. 713-766, here pp. 731-746; Pope John Paul II, Apostolic Letter, Novo Millennio ineunte, diei 6 ianuarii 2001, nn. 35-36: AAS 93 (2001) pp. 290-292; Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 41: AAS 95 (2003) pp. 460-461.
[264] Second Vatican Ecumenical Council, Decree on the Ministry and Life of Priests, Presbyterorum ordinis, n. 6; cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, nn. 22, 33: AAS 95 (2003) pp. 448, 455-456.
[265] Cf. S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 26: AAS 59 (1967) pp. 555-556; Congregation for Divine Worship, Directory for Sunday Celebrations in the Absence of a Priest, Christi Ecclesia, 2 June 1988, nn. 5 and 25: Notitiae 24 (1988) pp. 366-378, here pp. 367, 372.
[266] Cf. Congregation for Divine Worship, Directory for Sunday Celebrations in the Absence of a Priest, Christi Ecclesia, n. 18: Notitiae 24 (1988) p. 370.
[267] Cf. Pope John Paul II, Letter, Dominicae Cenae, n. 2: AAS 72 (1980) p. 116.
[268] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter, Dies Domini, n. 49: AAS 90 (1998) p. 744; Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 41: AAS 95 (2003) pp. 460-461; Code of Canon Law, cann. 1246-1247.
[269] Cf. Code of Canon Law, can. 1248 ậ 2; Congregation for Divine Worship, Directory for Sunday Celebrations in the Absence of a Priest, Christi Ecclesia, nn. 1-2: Notitiae 24 (1988) p. 366.
[270] Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 33: AAS 95 (2003) pp. 455-456.
[271] Cf. Congregation for Divine Worship, Directory for Sunday Celebrations in the Absence of a Priest, Christi Ecclesia, n. 22: Notitiae 24 (1988) p. 371.
[272] Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 30: AAS 95 (2003) pp. 453-454; cf. also Pontifical Council for the Promotion of Christian Unity, Directory for the application of the principles and norms on ecumenism, La recherche de l’unité, 25 March 1993, n. 115: AAS 85 (1993) pp. 1039-1119, here p. 1085.
[273] Cf. Pontifical Council for the Promotion of Christian Unity, Directory for the application of the principles and norms on ecumenism, La recherche de l’unité, n. 115: AAS 85 (1993) p. 1085.
[274] Cf. Code of Canon Law, can. 292; Pontifical Council for the Interpretation of Legislative Texts, Declaration de recta interpretatione can. 1335, secundae partis, C.I.C., 15 May 1997, n. 3: AAS 90 (1998) p. 64.
[275] Cf. Code of Canon Law, cann. 976; 986 ậ 2.
[276] Cf. Pontifical Council for the Interpretation of Legislative Texts, Declaratio de recta interpretatione can. 1335, secundae partis, C.I.C., 15 May 1997, nn. 1-2: AAS 90 (1998) pp. 63-64.
[277] As regards Priests who have obtained the dispensation from celibacy, cf. S. Congregation for the Doctrine of the Faith, Normae de dispensatione a sacerdotali caelibatu ad instantiam partis, Normae substantiales, 14 October 1980, art. 5; cf. also Congregation for the Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Practical Provisions, art. 3 ậ 5: AAS 89 (1997) p. 865.
[278] St Thomas Aquinas, Summa Theol., II, 2, q. 93, a. 1.
[279] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter, Vicesimus quintus annus, n. 15: AAS 81 (1989) p. 911; cf. also Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, nn. 15-19.
[280] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter (Motu Proprio), Sacramentorum sanctitatis tutela: AAS 93 (2001) pp. 737-739; Congregation for the Doctrine of the Faith, Ep. ad totius Catholicae Ecclesiae Episcopos aliosque Ordinarios et Hierarchas quorum interest: de delictis gravioribus eidem Congregationi pro Doctrina Fidei reservatis: AAS 93 (2001) p. 786.
[281] Cf. Code of Canon Law, can. 1367; Pontifical Council for the Interpretation of Legislative Texts, Responsio ad propositum dubium, 3 July 1999: AAS 91 (1999) p. 918; Congregation for the Doctrine of the Faith, Ep. ad totius Catholicae Ecclesiae Episcopos aliosque Ordinarios et Hierarchas quorum interest: de delictis gravioribus eidem Congregationi pro Doctrina Fidei reservatis: AAS 93 (2001) p. 786.
[282] Cf. Code of Canon Law, can. 1378 ậ 2 n. 1 et 1379; Congregation for the Doctrine of the Faith, Ep. ad totius Catholicae Ecclesiae Episcopos aliosque Ordinarios et Hierarchas quorum interest: de delictis gravioribus eidem Congregationi pro Doctrina Fidei reservatis: AAS 93 (2001) p. 786.
[283] Cf. Code of Canon Law, can. 908 et 1365; Congregation for the Doctrine of the Faith, Ep. ad totius Catholicae Ecclesiae Episcopos aliosque Ordinarios et Hierarchas quorum interest: de delictis gravioribus eidem Congregationi pro Doctrina Fidei reservatis: AAS 93 (2001) p. 786.
[284] Cf. Code of Canon Law, can. 927; Congregation for the Doctrine of the Faith, Ep. ad totius Catholicae Ecclesiae Episcopos aliosque Ordinarios et Hierarchas quorum interest: de delictis gravioribus eidem Congregationi pro Doctrina Fidei reservatis: AAS 93 (2001) p. 786.
[285] Code of Canon Law, can. 387.
[286] Ibidem, can. 838 ậ 4.
[287] Ibidem,can. 392.
[288] Cf. Pope John Paul II, Apostolic Constitution, Pastor bonus, art. 52: AAS 80 (1988) p. 874.
[289] Cf. ibidem, n. 63: AAS 80 (1988) p. 876.
[290] Cf. ibidem, can. 1417 ậ 1.
[291] Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 24: AAS 95 (2003) p. 449.
[292] Cf. ibidem, nn. 53-58: AAS 95 (2003) pp. 469-472.
[293] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 14; cf. also nn. 11, 41, et 48.
[294] Cf. S. Thomas Aquinas, Summa Theol., III, q. 64, a. 9 ad 1.
[295] Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 24.

 

Những Lư Do Ban Hành Bản Hướng Dẫn Việc Cử Hành Phụng Vụ Cực Linh

ĐHY Francis Arinze, Bộ Trưởng Thánh Bộ Phượng Tự Và Bí Tích, qua cuộc phỏng vấn với Zenit, đă cho biết những lư do Ṭa Thánh ban hành Bản Hướng Dẫn Việc Cử Hành Phụng Vụ Cực Linh

Vấn     Theo bản văn kiện th́ rơ ràng là trong mấy thập niên gần đây việc tôn sùng Thánh Thể đă bị coi thường ở những h́nh thức về phụng vụ cũng như bị suy kém về ư nghĩa sâu xa của bí tích này. Vậy mục đích muốn nhắm đến của Bản Hướng Dẫn này là ǵ?

Đáp     Mục đích của Bản Hướng Dẫn “redemptionis Sacramentum” là để thúc đẩy việc tuân giữ các qui tắc liên quan đến việc cử hành Thánh Thể thiện hảo cũng như để thúc giục việc tôn thờ Thánh Thể thiện hảo ngoài Thánh Lễ, như trong việc viếng Thánh Thể và trong việc làm giờ Thánh, trong việc Chầu Thánh Thể, kiệu Thánh Thể và Đại Hội Thánh Thể.

Theo chỉ thị của ĐTC ở Đoạn 52 trong bức thông điệp “Ecclesia de Eucharistia” của Ngài, th́ bản hướng dẫn này cần phải minh nhiên đề cập tới một số lạm dụng và yêu cầu phải tránh những thứ lạm dụng ấy.

Vấn     ĐHY đă nói trên Đài Phát Thanh Vatican rằng việc cử hành Thánh Thể không phải là một tác động đại kết và càng không phải là một tác động liên tôn. Xin ĐHY có thể nói rơ hơn về những ǵ ngài muốn nói chăng?

Đáp     Việc cử hành Thánh Thể không phải là một tác động đại kết là bởi v́ đây là việc cử hành nội bộ của Giáo Hội Công Giáo.

Đó là một việc cử hành cao cả nhất của Giáo Hội được thực hiện bởi những người Công Giáo hoàn toàn hiệp thông đức tin và luân lư với Đức Giáo Hoàng cũng như với các vị giám mục hiệp thông với Ngài.

Việc cử hành đại kết là điều tốt khi được chấp thuận hợp lệ bởi các vị lănh đạo các cộng đồng Kitô giáo dự phần. Điển h́nh là một buổi cầu nguyện hay việc cử hành Thánh Kinh được thực hiện bởi những người Công Giáo, Chính Thống Giáo, Anh Giáo, Lutheran và Presbyterian. Việc cử hành đại kết khác hẳn với Thánh Lễ.

Vấn đề càng rơ hơn nữa là việc cử hành Thánh Thể không phải là việc cử hành cho những người Do Thái, Hồi Giáo, Ấn Giáo cũng như những tín đồ thuộc các đạo giáo khác. Những ǵ chúng ta tin tưởng hướng dẫn cách thức chúng ta nguyện cầu.

Vấn     Ở Hiệp Chủng Quốc, cả ở Âu Châu nữa, bùng nổ một cuộc đại tranh luận về tính cách nhất trí của các chính trị gia Công Giáo. Có những trường hợp chính trị gia xưng ḿnh là Công Giáo nhưng lại bỏ phiếu cho những khoản luật và phát biểu hoàn toàn trái với giáo huấn của Giáo Hội, điển h́nh như trong trường hợp ủng hộ các khoản luật cho phá thai, triệt sinh an tử, hôn nhân đồng tính cũng như ủng hộ việc phổ biến những chương tŕnh ngừa thai chống sự sống. Việc những nhân vật chính trị này lên rước lễ gây ra gương mù nơi tín hữu. Bản hướng dẫn có đề cập đến vấn đề này hay chăng? Phân bộ do ĐHY làm bộ trưởng đây đă xác định về vấn đề này ra sao?

Đáp     Khoa thần học luân lư và giáo luật đă giải thích những loại người Công Giáo nào được và những loại người Công Giáo nào không được rước lễ.

Bản hướng dẫn “Redemptionis Sacramentum” đề cập đến một số những chi tiết ấy ở các đoạn 81 và 82, nhưng không đặt thẳng vấn đề được quí vị đề cập tới. Vấn đề này giành cho các vị giám mục ở mỗi giáo phận và quốc gia để các vị cắt nghĩa cho cộng đồng của ḿnh về qui luật và tín lư nồng cốt của vấn đề.

Vấn     Ngoài những ǵ liên quan đến những thứ sai lầm, bản hướng dẫn “Redemptionis Sacramentum” c̣n nhấn mạnh đến tầm quan trọng chính yếu của Thánh Thể. Thánh Thể quan trọng thế nào trong đời sống Giáo Hội cũng như nơi cộng đồng Kitô hữu?

Đáp     Hy tế Thánh Thể là “nguồn mạch và là tột đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo”. Thánh Thể là tâm điểm của đời sống Giáo Hội. Thánh Thể là kho tàng cao quí nhất Giáo Hội có được trên trần gian này, v́ đó là chính Chúa Kitô.

Có lạ lắm hay chăng việc Giáo Hội cẩn trọng bảo vệ và bảo toàn việc cử hành mầu nhiệm uy nghi này và cổ động việc tôn thờ mầu nhiệm ấy?

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo Zenit ngày 26/5/2004.

 

Những Trường Hợp Vừa Diễn Tiến


Những Người Công Giáo Đi Bỏ Phiếu Cho Các Chính Trị Gia Cấp Tiến Không Được Rước Lễ


Thật vậy, những người Công Giáo nào đi bỏ phiếu ủng hộ cho các chính trị gia chủ trương coi thường hay phản chống giáo huấn của Giáo Hội về những vấn đề luân lư như phá thai, đồng tính hôn nhân, triệt sinh an tử hay nghiên cứu thân bào tạo sinh sao bản v.v., không được rước lễ. Đó là lời cảnh báo của hai đấng bản quyền địa phương này, ĐTGM John Vlazny 67 tuổi ở Partland tiểu bang Oregon và ĐGM Sheridan, 59 tuổi, giáo phận Colorado Springs.


Trong bức thư mục vụ được phổ biến vào tuần vừa rồi, 9/5/2004, ĐGM giáo phận Colorado Springs tiểu bang Colorado đă viết như sau:


“Bất cứ ai miệng lưỡi tuyên xưng đức tin Công Giáo đồng thời lại công khai ủng hộ việc lập pháp hay các ứng cử viên coi thường lề luật Thiên Chúa th́ họ là những người chế giễu đức tin ấy và phản lại căn tính là một người Công Giáo của ḿnh”.


Trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại, vị giám mục này đă nói với tờ New York Times rằng: “Tôi không nói lên một lời phát biểu về chính trị. Tôi đang phát biểu về giáo huấn của Giáo Hội”.


Trong bức thư mục vụ của ḿnh, vị chủ chăn này viết tiếp:


“Trong số những thứ méo mó và tŕnh bày sai lệch đang thịnh hành nơi các cuộc tranh luận hiện nay về mối liên hệ giữa tôn giáo và lănh vực xă hội (chính trị) có chủ trương cho rằng đức tin và chính trị là những ǵ tách biệt. Hiển nhiên đây là điều phát xuất từ chủ nghĩa của người Hoa Kỳ về việc tách biệt giáo hội ra khỏi quốc gia.


“Thật thế, bức tường tách biệt giáo hội ra khỏi quốc gia là những ǵ bảo đảm không có vấn đề thiết lập một thứ tôn giáo quốc gia cũng như không có vấn đề áp đặt việc tin đạo và sống đạo theo giáo phái, chẳng hạn như việc áp đặt những h́nh thức thờ phượng hay những điều khoản về thần học của một giáo phái đặc biệt. Chủ nghĩa của người Hoa Kỳ trong việc tách biệt giáo hội ra khỏi quốc gia dầu sao cũng không thể nào cho rằng những con người sống đạo không được tùy theo lương tâm chân chính của ḿnh nơi những chọn lựa về chính trị”.


Sau khi giải thích về trách nhiệm của người tín hữu và của các chính trị gia Công Giáo trong việc cần phải công khai tỏ hiện đức tin của ḿnh, vị chủ chăn này minh định: “Không được lẫn lộn ở những vấn đề này. Bất cứ chính trị gia Công Giáo nào biện hộ cho việc phá thai, cho việc nghiên cứu tạo sinh sao bản thân bào không được phép hay cho bất cứ h́nh thức triệt sinh an tử th́ đương nhiên ‘ipso facto’ đặt ḿnh ở ngoài mối hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội và bởi đó cũng nguy hiểm đến phần rỗi của ḿnh.


“Bất cứ người Công Giáo nào bỏ phiếu cho những ứng cử viên tranh đấu cho vấn đề phá thai, vấn đề nghiên cứu tạo sinh sao bản thân bào hay vấn đề triệt sinh an tử đều phải chịu cùng những hậu quả trầm trọng.


“Đó là lư do những người Công Giáo ấy, dù là ứng cử viên hay những ai bầu cho họ, đều không được Rước Lễ cho đến khi họ cải lại chủ trương của họ và làm ḥa với Thiên Chúa cùng Giáo Hội nơi Bí Tích Thống Hối”.


Cũng trong tuần vừa rồi, khi viết một bài cho tờ nhật báo Catholic Sentinel, ĐTGM Portland Oregon cũng có cùng chủ trương như vị giám mục ở Colorado Springs như sau:


“Nếu người Công Giáo quyết định bầu cho các chính trị gia pḥ quyền tự quyết th́ phải chăng không được lên Rước Lễ?


“Nếu họ bầu cho những người ấy vỉ v́ những người này là thành phần pḥ quyền tự quyết, th́ tôi cho rằng cả họ nữa cũng không được Rước Lễ, v́ họ không c̣n hiệp thông với Giáo Hội về một vấn đề hệ trọng.


“Thế nhưng, nếu họ bầu cho một chính trị gia đặc biệt, v́ theo phán đoán của họ, những ứng cử viên khác vấp phải những vấn đề hệ trọng hơn nữa, chẳng hạn như về vấn đề chiến tranh và ḥa b́nh, nhân quyền và công lư kinh tế th́ không có dấu hiệu nào tỏ ra phản lại giáo huấn của Giáo Hội và việc Hiệp Lễ vừa thích hợp và ích lợi.


“Những người Công Giáo ủng hộ những chính trị gia pḥ quyền tự quyết phải chịu trách nhiệm hệ trọng liên quan đến chủ trương của họ về vấn đề ấy. Họ phải làm sáng tỏ vấn đề cho các chính trị gia này cũng như cho các nhà lănh tụ chính quyền biết rằng việc ủng hộ của họ không dựa theo đường hướng pḥ quyền tự quyết của những vị lănh đạo chính trị này”.


Tổng Giáo Phận Chicago không cho thành phần đồng tính luyến ái Rước Lễ


ĐHY Francis George TGM/TGP Chicago quyết định không cho Rước Lễ thành phần công khai hoạt động cho trào lưu sống đồng tính luyến ái đeo những chiếc khăn choàng vai có h́nh huy hiệu cầu vồng đa sắc tham dự Lễ Chúa Nhật ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Danh của TGP.


Vị hồng y này không có mặt trong Thánh Lễ hôm ấy, v́ đang trên đường về sau cuộc viếng thăm Ṭa Thánh với phái đoàn giám mục Hoa Kỳ đợt 6. Tuy nhiên, trong một bức thư gửi cho các vị linh mục của ngài tuần trước, ngài đă nói với các vị rằng không được cho thành phần ấy rước lễ.


Bởi thế đă có khoảng 12 người thuộc Phong Trào Khăn Choàng Cầu Vồng chỉ được ban phép lành thay v́ được rước lễ. Tờ Chicago Sun-Times cho biết ĐHY TGM TGP này đă cho biết hôm Thứ Hai 1/6/2004 rằng “đó là qui chế toàn quốc và các vị giám mục cần phải cùng nhau hành động”.


Giáo Quyền Địa Phương với Thành Phần Chính Trị Gia Pḥ Phá Thai về Việc Rước Lễ


Hai vị giám mục thuộc tiểu bang Arizona cho biết các vị sẽ không ngăn cấm việc rước lễ của các chính trị gia Công Giáo pḥ phá thai. Hai vị giám mục này là Fred Henry, 61 tuổi, giáo phận Calgary, và vị giám mục ở Phoenix 56 tuổi là Thomas Olmsted.


Tờ Tường Tŕnh Công Giáo Tây Phương đă phổ biến những lời lẽ thành văn của vị giám mục cai quản giáo phận Calgary như sau:


“Kerry, con người liên lỉ bỏ phiếu cho vấn đề pḥ quyền tự quyết suốt thời gian theo đuổi nghề nghiệp của ông, là một con người mạnh dạn phê phán Đạo Luật Phá Thai Bán Phần được Tổng Thống George Bush kư chuẩn năm ngoái. Ông bỏ phiếu chống lại Đạo Luật Bênh Vực Gia Đ́nh năm 1996 và đă chống lại những lời kêu gọi thực hiện việc tu chính hiến pháp trong việc bảo vệ vị thế của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ”.


Một vị giám mục ở Canada cho biết: “Bất chấp việc các vị giám mục cảnh cáo nhiều lần, đầu tiên riêng tư sau mới công khai, ông ta vẫn cứ nhất định tiếp tục rước lễ khi dự lễ… Bằng việc tham phần hiệp lễ, người Công Giáo chứng thực rằng họ hoàn toàn hiệp nhất ḷng trí. Về các vấn đề sự sống then chốt th́ rơ ràng là ông Kerry bị sai lệch”.


ĐGM Henry viết tiếp: “Ông John Kerry không phải là chính trị gia Công Giáo duy nhất ở Bắc Mỹ Châu đi sai trệch đường lối, nhưng ông lại là ứng viên tổng thống duy nhất ở Hiệp Chủng Quốc, nên trường hợp của ông là cả một vấn đề gay go . Vấn đề nan giải và những nguyên tắc này cũng được áp dụng cho cả các ông Clarks, Chretiens và Martins ở Canada nữa”.


“Vấn đề ở đây không phải là vấn đề nêu lên một thứ hoạch định Công Giáo. Mục đích ở đây là để giúp vào việc h́nh thành chính sách chung hợp với thứ lề luật vốn có nơi bản tính của chúng ta là những ǵ chi phối tất cả chúng ta bất kể niềm tin tôn giáo của chúng ta.


“Bởi vậy các chính trị gia được kêu gọi để cố gắng bảo đảm rằng các thứ lề luật khiến chúng ta bảo vệ sự sống con người, tôn trọng con người, ǵn giữ bản chất đặc thù của hôn nhân, nâng đỡ gia đ́nh, bảo đảm sự an toàn cho trẻ em, bảo đảm quyền tự do tôn giáo và làm cho quyền này trở thành khả dĩ cho tất cả mọi người công dân trong việc được hưởng những điều kiện cần thiết của đời sống con người.


“Các vị giám mục Hoa Kỳ đă lập một tiểu ban để bàn về những biện pháp chế tài về kỷ luật có thể áp dụng đối với những chính trị gia khinh thị. Tôi đang nóng ḷng chờ đợi những bàn luận của họ. Trong khi chờ đợi, tôi tin rằng đối với vấn đề ‘nếu xẩy ra trường hợp có vị lănh đạo Công Giáo nào cứ nhất định chống lại giáo huấn chính yếu của Giáo Hội th́ phải từ chối không được cho họ rước lễ’ là vấn đề cần phải trả lời ‘đúng thế’”.


C̣n vị giám mục ở Phoenix, theo Associated Press, th́ cho rằng thay v́ từ chối không cho họ rước lễ th́ ngài sẽ cố gắng thuyết phục để dạy giáo huấn của Giáo Hội cho các chính trị gia: “Công việc của tôi là xem ai là nhân vật chính ở tiểu bang để kêu gọi lương tâm của họ”.


ĐGM Gerald Kicanas, 62 tuổi, cai quản giáo phận Tucson nói rằng việc chế tài các chính trị gia có thể là “hơi sớm”.


ĐHY Theodore McCarrick đă nói với tờ nguyệt san 30 Ngày cho rằng nhiều vị giám mục Hoa Kỳ không muốn thấy Thánh Thể được sử dụng như là một cách chế tài đối với các chính trị gia pḥ phá thai: “Tôi nghĩ rằng nhiều vị giám mục trong chúng tôi nghĩ rằng những con người này cần phải được xét xử theo giáo luật. Thế nhưng tôi cũng nghĩ rằng nhiều vị giám mục không muốn việc lănh nhận bí tích Thánh Thể trở thành yếu tố của những việc chế tài này. Cá nhân tôi nghĩ rằng vấn đề mục vụ cần phải tránh đừng để cho Thánh Thể trở thành vấn đề đối chọi.


Ngài cho tờ nguyệt san này biết rằng đây là lần đầu tiên các vị giám mục ở nước Mỹ thành lập một tiểu ban ấy: “Có lẽ vấn đề bao gồm hai lư do. V́ chúng ta dân chủ cho phép mỗi người được bày tỏ ư kiến riêng của ḿnh, cũng như v́ tín hữu Công Giáo chúng ta hết sức tôn kính Thánh Thể và họ lấy làm hết sức buồn sầu khi thấy ai rước lễ mà thiếu những điều kiện tiên quyết cần thiết.


ĐHY này hy vọng rằng những kết luận của tiểu ban do ngài đứng đầu sẽ xuất hiện trước cuộc bầu cử Tổng Thống vào tháng 11/2004, nhưng ngài không dám bảo đảm, bởi v́ “nó là một vấn đề phức tạp và tế nhị”.


 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Ṭa Thánh được VIS phổ biến