Những Hiện Tượng Cuối Thời

 

     Hiện tượng thứ nhất: Mạo danh cứu thế.

 

"Nhiều người sẽ mạo danh Đấng Cứu Thế, xưng mình 'Ta là Đức Kitô', và họ sẽ lừa đảo được nhiều người" (Mt.24:5), hay cũng có "nhiều tiên tri giả sẽ xuất hiện mà lừa đảo nhiều người" (Mt.24:11). Hiện tượng mạo danh cứu thế này có thể kể đến chủ thuyết Cộng Sản (từ năm 1867) và phong trào Thần Học Giải Phóng (từ năm 1973) là những chủ trương giải phóng con người bằng chiến lược đấu tranh giai cấp. Thuyết Cộng Sản đã không "lừa đảo được nhiều người", trong đó có phong trào Thần Học Giải Phóng hay sao? Hiện tượng mạo danh cứu thế này cũng có thể kể đến trào lưu Duy Nhân Bản là chủ trương giải phóng con người khỏi làm tôi cho bất cứ một lề luật nào, kể cả luật tự nhiên và luân lý, mà chỉ tuân theo luật pháp do chính con người lập ra, như luật được quyền ly dị và phá thai, luật được quyền lập gia đình đồng tính và cấy thai nhân tạo v.v. Trào lưu Duy Nhân Bản này đã không "lừa đảo được nhiều người" hay sao, với con số ly dị lên đến hơn 60 phần trăm tại Hoa Kỳ và cả 60 triệu thai nhi bị thảm sát mỗi năm trên toàn thế giới.

 

Hiện tượng thứ hai: Lòng người nguội lạnh.

 

"Bởi sự dữ gia tăng mà lòng mến nơi nhiều người đã trở nên nguội lạnh" (Mt.24:12). Còn giai đoạn lịch sử nào hơn giai đoạn lịch sử trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba này, một giai đoạn gia tăng sự dữ đến nỗi tội lỗi đã thành một trào lưu không gì có thể ngăn chặn được, thậm chí nó đã được hợp thức hoá để con người có thể yên tâm mà phạm tội. Điển hình là luật cho phép ly dị và phá thai. Để rồi, từ những luật pháp ngang nhiên chống lại với ý muốn tối cao của Thiên Chúa được thể hiện nơi luật tự nhiên và luân lý, những luật pháp nhân tạo này tự nó đãù chứng tỏ "lòng mến nơi nhiều người đã trở nên nguội lạnh" lại càng làm dịp cho "sự dữ gia tăng", chẳng những khiến cho những người yếu đuối vấp phạm, mà còn thậm chí làm cho cả thành phần được chọn cũng bị lừa đảo (x.Mt.24:24), tức bị "trở nên nguội lạnh". Cũng chính vì "lòng mến nơi nhiều người đã trở nên nguội lạnh" mới xẩy ra khắp nơi những cuộc khủng bố và bạo động mang tầm vóc quốc gia hay quốc tế, có tính cách kỳ thị tôn giáo hay chủng tộc, và mới xẩy ra những viện tu bỏ trống, hoang lạnh, những giáo đường vĩnh viễn bị đóng cửa hay biến thành những nơi sinh hoạt hoàn tục v.v.

 

Hiện tượng thứ ba: Truyền bá Phúc Âm.

 

"Phúc Âm về Vương Quốc sẽ được rao giảng khắp thế giới như một chứng tá cho tất cả mọi dân nước; chỉ sau đó mới đến cùng tận" (Mt.24:14). Trong lịch sử Giáo Hội, còn lúc nào hơn thời điểm "ngàn năm thứ ba đang đến" này, kể từ Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965), chính vị chủ chiên tối cao của Giáo Hội là Đức Thánh Cha, từ Đức Phaolô VI, nhất là Đức đương kim Gioan Phaolô II, đã đích thân đi "khắp thế giới" để "rao giảng cho tất cả mọi dân nước" những chân lý ngàn đời của "Phúc Âm về Vương Quốc". Phải chăng "bởi sự dữ gia tăng mà lòng mến nơi nhiều người đã trở nên nguội lạnh" mà "Giáo Hội trong thế giới tân tiến" (tên của Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội của Công Đồng Chung Vaticanô II), hơn lúc nào hết, đang nỗ lực "Phúc Âm hoá... văn hoá cũng như các nền văn hoá", như tinh thần của Tông Huấn "Evangelii Nuntiandi" được Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành ngày 8-12-1975, đoạn 20, cũng như của Thông Điệp "Redemptoris Missio" được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 7-12-1990, đoạn 37c và 52. Phải chăng cũng "bởi sự dữ gia tăng mà lòng mến nơi nhiều người đã trở nên nguội lạnh" mà Giáo Hội, cũng theo Thông Điệp "Redemptoris Missio", đoạn 83, đang nỗ lực để "Tái Phúc Âm hoá" (Re-Evangilization) hay "Tân Phúc Âm hoá" (New Evangilization) cả những nước Công Giáo ở Âu Châu là nơi Kitô giáo trưởng thành và từ đó được loan truyền khắp thế giới.

 

Hiện tượng thứ bốn: Tục hoá nơi thánh.

 

"Sự ô uế và hoang tàn đứng trong nơi thánh" (Mt.24:15). Còn lúc nào hơn thời điểm trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba này, lương tâm của con người là cung thánh của Thiên Chúa đã "trở thành hang trộm cướp" (Mt.21:13), với những chủ trương luân lý chủ quan, cái gì con người nghĩ là đúng, muốn là thiện, làm là hay, chứ không còn phải là những nguyên tắc luân lý phổ quát "đã được khắc ghi trong tâm khảm của họ" (Rm.2:15). Lương tâm con người ngày nay, ngoài ra, còn "trở thành phố chợ" (Jn.2:16), với khuynh hướng hưởng thụ là trên hết, giải quyết mọi sự một cách máy móc có tính cách tiện nghi thuần kỹ thuật, nghĩa là cái gì con người nhận thấy hay cảm thấy có lợi là tốt, mà đã tốt thì được làm và phải làm, dù tự bản chất của việc làm đó có xấu và phản nhân phẩm con người đi nữa, như phá thai hay cấy thai nhân tạo v.v. Thật là một thảm trạng càng ngày lương tâm con người càng trở nên "ô uế và hoang tàn", một thảm trạng đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II diễn tả: "Con người khiến cho Ngài (Thiên Chúa) chết nơi tâm tưởng của họ, nơi lương tri của họ, nơi hành động của họ". Và còn sự "ô uế và hoang tàn" nào hơn nữa khi con người "đã trở nên nguội lạnh" nhúng bàn tay lông lá phàm tục của mình vào "những lời thần linh và sự sống" (Jn.6:63) để tự sửa chữa theo ý mình bằng một thứ ngôn ngữ gọi là bao hàm (inclusive language), như thay vì nguyên văn là "Lạy Cha chúng con ở trên trời" thì dịch lại theo ý thức duy nhân bản ngày nay là "Lạy Cha-Mẹ ở trên trời" (xem cuốn The New Testament and Psalms: An Inclusive Version, Oxford University Press, 1995, trang 9).

 

Ngoài ra, nếu gia đình là một cung thánh yêu thương và sự sống, thì chính gia đình ngày nay, hơn lúc nào hết, đã trở nên "ô uế và hoang tàn". Đúng thế, "ngay từ ban đầu" (Mt.19:4), Thiên Chúa đã nối kết con người mà Ngài đã dựng nên theo hình ảnh Ngài, có nam có nữ, thành vợ chồng với nhau, và chúc phúc cho việc sinh sôi nẩy nở tràn đầy mặt đất của họ (x.Gen.2:21-24; 1:27-28). Thế nhưng, cho đến bây giờ, con người đã hùa nhau "phân ly những gì Thiên Chúa đã kết hợp" (Mt.19:6) ngay từ ban đầu ấy. Không phải hay sao, lịch sử thế giới đã cho thấy, kể từ thập niên 1960, thập niên mà về tôn giáo được đánh dấu bằng biến cố Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965), cũng là thập niên về văn minh được đánh dấu bằng việc thám hiểm không gian và phát minh điện toán ngày càng tối tân, thì cũng là thập niên về nhân bản loài người đã bắt đầu lập nên những khoản luật cho phép ly dị và phá thai. Thấy "phân ly những gì Thiên Chúa đã kết hợp" (Mt.19:6) chưa đủ, đến thập niên 1990, con người cực kỳ văn minh ngày nay còn muốn thực hiện cho bằng được mộng ước của Evà xưa trong việc "lên bằng Thiên Chúa" (Gen.3:5). Ở chỗ, tự ý lập nên cho mình một cơ cấu hôn nhân và gia đình theo "đỉnh cao trí tuệ" của mình, hoàn toàn phá hủy những gì Thiên Chúa thiết định ngay từ đầu, bằng việc ban thêm những khoản luật cho phép hôn nhân đồng nam tính hay đồng nữ tính và thụ thai cấy tinh hay thụ thai ống nghiệm v.v. "Những dấu chỉ thời đại" phản nghịch với "những gì Thiên Chúa đã kết hợp" "ngay từ ban đầu" này đã không đủ minh nhiên nói lên là "tất cả chúng ta đang sống trong... những ngày cuối cùng của lịch sử" hay sao?!?

 

Như thế thì, theo tình hình hiện nay cho thấy, quả thật "tất cả chúng ta đang sống trong... những ngày cuối cùng của lịch sử". Bởi vì, sau hiện tượng thứ ba trên đây, Chúa Giêsu đã phán: "Chỉ sau đó mới đến tận cùng", nghĩa là chỉ sau hiện tượng thứ ba là hiện tượng truyền bá Phúc Âm mới đến hiện tượng thứ bốn là hiện tượng tục hoá nơi thánh, một hiện tượng ma,ø ngay sau khi cho các môn đệ biết,  Chúa Giêsu đã khuyên con người phải làm sao để có thể an toàn trải qua thời điểm "tận cùng" này. Bởi vì, thời điểm "tận cùng" này là một thời điểm "thử thách cả thể chưa từng có từ tạo thiên lập điạ tới bấy giờ" (Mt.24:21), một thời điểm mà "nếu không được rút ngắn lại sẽ không một ai còn sống" (Mt.24:22), một thời điểm sắp sửa xẩy ra biến động trên không trung qua hiện tượng "mặt trời trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các tinh tú sẽ từ trời rớt xuống, và cả trái đất sẽ rung chuyển" (Mt.24:29), là "dấu hiệu Con Người sẽ xuất hiện trên trời..." (Mt.24:30). Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay sau khi nhận định "tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày cuối cùng của lịch sử", ngài đã thêm: "và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa mà Ngài đã loan báo".