“Sao trời cát biển” trong Lòng Thương Xót Chúa vô biên
Biệt Tặng Các Linh Hồn trong Tháng Các Thánh và Các Đẳng 11/2009
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Vào lần hiện ra thứ tư 19/8/1917, Mẹ Maria đã tiết lộ cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết một bí mật đặc biệt nữa, tuy không chính yếu như Bí Mật Fatima vào lần hiện ra thứ ba 13/7/1917, tuy nhiên, bí mật đặc biệt này lại liên quan tới chính phần rỗi của mỗi người chúng ta cũng như của anh chị em chúng ta nói chung và những anh chị em được coi là hay gọi là “tội nhân đáng thương” nói riêng. Bí mật này đó là “nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì không có ai chịu hy sinh cầu nguyện cho họ”. Phải, đây là một bí mật không phải là tầm thường, phải nói là rất kinh khủng và bàng hoàng hết chỗ nói. Ở chỗ, chúng ta phải chịu trách nhiệm về việc hư đi của thành phần anh chị em chúng ta bị sa hỏa ngục.
Dĩ nhiên, qua lời kêu gọi cũng là lời cảnh giác trách nhiệm cứu rỗi này của chúng ta, Mẹ Maria không phủ nhận tình trạng bị đời đời hư đi là do chính đương sự. Thế nhưng, chúng ta có trách nhiệm phần nào trong việc hư đi của thành phần tội nhân đáng thương này. Đó là lý do, ngay trước khi tiết lộ bí mật khủng khiếp này, Mẹ Maria đã kêu gọi 3 Thiếu Nhi Fatima Lucia, Phanxicô và Giaxinta rằng: “Hãy cầu nguyện thực nhiều và hy sinh cho tội nhân”. Nếu chúng ta thấu suốt được tầm mức cao trọng và giá trị vô cùng của phần rỗi đối với các linh hồn ra sao, trong đó có chính linh hồn của chúng ta, những linh hồn đã được cứu bằng “giá máu vô giá của Chúa Kitô” (1Pt 1:19) là Con Thiên Chúa làm người, chắc chắn, như các thánh, chúng ta không thể nào từ chối mà không liên lỉ sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trên đời này cho chỉ một linh hồn mà thôi. Thánh Giacôbê Tông Đồ, trong bức thư duy nhất của mình, ở câu cuối cùng đoạn 5 câu 20, đã khẳng định rằng: “Hãy nhớ điều này, đó là người nào mang một tội nhân trở về thì cứu được linh hồn mình khỏi chết và tẩy xóa được muôn vàn tội lỗi”. Bởi vậy, chúng ta hãy cùng nhau ý thức vấn đề “Phần Rỗi Tội Nhân”, để có thể sống trọn ơn gọi nên thánh của Kitô hữu, một ơn gọi liên quan đến cả phần rỗi của bản thân mình cũng như đến số phận đời đời của anh chị em mình.
Thực tại hỏa ngục và lý do bị sa hỏa ngục
theo mạc khải ở Fatima và qua Chị Faustina
Vấn đề đầu tiên được đặt ra ở đây cũng là vấn đề then chốt, đó là vấn đề có hỏa ngục hay chăng? Bởi nếu không có hỏa ngục thì chẳng còn gì để nói! Chẳng có vấn đề phần rỗi nhiều hay ít nữa. Thế nhưng, nếu quả thực có hỏa ngục thì trong đó có các tội nhân khốn nạn bị trầm luân đời đời với Satan cùng thành phần ngụy thần của hắn hay chăng? Nếu có thì tại sao họ lại có thể bị lọt ra khỏi vực thẳm Lòng Thương Xót vô đáy của Thiên Chúa mà rơi vào một chốn vô cùng bất hạnh như thế? Phải chăng chính vì Lòng Thương Xót Chúa vô đáy mới có hỏa ngục, mới có một số bị lọt xuống hỏa ngục? Tất nhiên, theo đức tin Kitô giáo, chúng ta tin có hỏa ngục là thực tại đã được chính Chúa Kitô xác nhận và được ghi lại trong các Phúc Âm, thường bằng lời diễn tả là “nơi tối tăm, ở đó khóc lóc nghiến răng” (Lk 25:30), là “lửa đời đời giành cho ma quỉ và các thần của hắn” (Mt 25:41); là “một vực thẳm vĩ đại từ đó không thể qua đây và từ đây không thể qua đó” (Lk 16:26), và là “hồ lửa tức cái chết lần thứ hai” như Sách Khải Huyền của Thánh Gioan cho biết đó chính ở đoạn 20 câu 14. Còn về lý do tại sao bị sa hỏa ngục, thì theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, những ai phạm tội trọng mà chưa kịp xưng tội hay ăn năn cách trọn trước khi chết. Theo Mạc Khải Phúc Âm, như Chúa Kitô khẳng định, thành phần sa hỏa ngục là thành phần phạm tới Thánh Linh, một tội “không thể tha được ở cả đời này lẫn đời sau”, như được Thánh Ký Mathêu ghi nhận ở đoạn 12 câu 32.
Ngoài những mạc khải chính thức buộc phải tin tưởng trên đây, chúng ta còn thấy một số mạc khải tư cho biết về thực tại hỏa ngục cùng với các nguyên nhân làm cho một số linh hồn bị rơi vào đó, chẳng hạn như thị kiến hỏa ngục thuộc phần nhất Bí Mật Fatima ngày 13/7/1917, và thị kiến hỏa ngục của Chị Thánh Faustina ngày 20/10/1936 và được chị ghi lại trong cuốn Hồi Ký của chị ở đoạn 741.
Ở Fatima ngày 13/7/1917
Thực tại hỏa ngục cũng đã được tỏ cho 3 Thiếu Nhi Fatima thấy ở phần thứ nhất của Bí Mật Fatima. Thật vậy, Mẹ Maria hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima lần thứ ba vào trưa ngày 13-7-1917. Sau mấy câu mở đầu quen thuộc, Mẹ Maria nói:
- Hãy hy sinh cầu cho các tội nhân và sau mỗi một hy sinh các con hãy nói: (Con
dâng hy sinh này) "Lạy Chúa Giêsu, vì yêu Chúa và để cầu cho tội nhân ăn năn
thống hối cũng như để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ".
Nói xong, Đức Mẹ lại mở tay ra như hai lần trước. Lần này tia sáng thấu qua trái
đất làm cho 3 Thiếu Nhi Fatima thấy, như Chị Lucia thuật lại trong tập Hồi Niệm
3 của chị như sau:
“Đức Mẹ chỉ chúng con thấy một biển lửa bao la hình như ở dưới lòng đất. Ngụp lặn trong đó là ma quỉ và các linh hồn dưới hình người, giống như những cục than đỏ rực, như những cục sắt đen thui hay cháy đỏ, bừng bừng trong hỏa hào, khi bị cuốn lên với cuộn khói kinh sợ, như lò tóe tia lửa, rồi rơi trở lại bất chấp đầu đuôi, những tiếng kêu la, than khóc vì đau đớn và tuyệt vọng làm chúng con kinh hoàng và run sợ. Có thể phân biệt được ma quỉ nhờ sự hung dữ và tàn bạo như những con thú kỳ lạ và khủng khiếp; đen đủi và cháy thấu. Thị kiến chỉ kéo dài trong giây lát. Chúng con biết phải cảm tạ Mẹ Thiên Quốc nhân từ biết bao đã sửa dọn cho chúng con trong lần hiện ra lần đầu với lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Nếu không chắc chúng con đã chết vì sợ hãi và lo lắng”.
- Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn rơi xuống. Để cứu các tội
nhân khốn nạn, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên
Tội Mẹ trên thế giới. Nếu những điều Mẹ dạy được thi hành thì nhiều linh hồn
được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình…
Kết thúc Bí Mật Fatima ngày 13/7/1917, Mẹ Maria đã kêu gọi các em Thiếu Nhi Fatima đọc Lời Nguyện Mân Côi Fatima chúng ta vẫn đọc sau mỗi chục kinh cho đến nay, đó là câu:
"Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem mọi linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn".
Phải, vấn đề ở đây là cầu nguyện cho phần rỗi các tội nhân, kèm theo hy sinh chỉ cho họ nữa, bằng không, chúng ta phải chịu trách nhiệm về việc hư đi của họ, như Mẹ Maria đã khẳng định vào lần hiện ra thứ 4 ngày 19/8/1917 như sau: “Hãy cầu nguyện thực nhiều và hy sinh cho tội nhân; nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì không có ai hy sinh cầu cho họ”.
Qua Chị Thánh Faustina ngày 20/10/1936
“Hôm nay con được một Thiên Thần đưa vào vực thẳm hỏa ngục. Đó là một nơi của cực hình khốn khổ; nó lớn lao và dữ dội khủng khiếp biết là chừng nào! Những loại cực hình con được trông thấy đó là: cực hình thứ nhất tạo nên hỏa ngục đó là mất Chúa; cực hình thứ hai là lương tâm đời đời than khóc; cực hình thứ ba là thân phận của con người không bao giờ đổi thay nữa; cực hình thứ bốn là lửa sẽ nung nấu linh hồn nhưng không bao giờ hủy diệt linh hồn, một thứ khổ đau khủng khiếp, vì nó là ngọn lửa hoàn toàn thiêng liêng bốc lên bởi cơn giận của Thiên Chúa; cực hình thứ năm là bóng tối tăm tùy thuộc và một mùi nghẹt thở kinh khủng, và cho dù tối tăm mù mịt như thế các ma quỉ và các linh hồn bị trầm luân vẫn trông thấy nhau cùng tất cả mọi sự dữ của nhau và của mình; cực hình thứ sáu là liên lỉ ở bên Satan; và cực hình thứ bảy là kinh hoàng tuyệt vọng, thù ghét Thiên Chúa, những lời nói ghê tởm, nguyền rủa và lộng ngôn. Có những cực hình đặc biệt nhắm vào những linh hồn riêng biệt. Có những cực hình về những thứ giác quan. Mỗi một linh hồn phải chịu đựng những khổ đau khủng khiếp và khôn tả, liên quan tới cách thức họ phạm tội. Có những hang động và những hầm hố của cực hình là nơi xẩy ra những hình thức khổ đau quằn quại khác nhau. Con chết ngất trước cảnh tượng của những cực hình này nếu uy quyền toàn năng của Thiên Chúa không nâng đỡ con. Chớ gì tội nhân biết rằng họ sẽ bị cực hình đời đời kiếp kiếp, nơi những giác quan họ dùng để phạm tội. Con viết điều này theo lệnh của Chúa, để không một linh hồn nào có thể chữa mình nói rằng không có hỏa ngục, hay không người nào đã từng ở đó nói rằng chưa có ai cho biết nó như thế nào.
“Con là nữ tu Faustina, theo lệnh Chúa truyền, đã viếng thăm các vực thẳm hỏa ngục để có thể nói với các linh hồn về nó và chứng thực về sự hiện hữu của nó. Giờ đây con không thể nói về nó; nhưng con được lệnh Chúa viết nó ra. Ma quỉ cảm thấy tràn đầy hận thù với con, nhưng chúng phải vâng phục con theo lệnh Chúa. Những gì con viết chỉ là một bóng mờ của những gì con đã thấy. Thế nhưng con nhận thấy một điều là hầu hết các linh hồn ở đó là những ai không tin rằng có hỏa ngục. Khi con tỉnh lại, con khó có thể thản nhiên không rùng mình hoảng sợ. Các linh hồn chịu khổ ở đó kinh hoàng khủng khiếp là chừng nào! Bởi thế con thiết tha nguyện cầu hơn nữa cho các tội nhân ơn ăn năn hoán cải. Con không ngừng nài xin tình thương của Thiên Chúa đoái đến họ. Ôi Chúa Giêsu ơi, con thà bị sầu đau cho tới tận thế, quằn quại với những khổ đau thượng thặng, còn hơn là xúc phạm đến Chúa bằng một tội nhỏ mọn nhất”.
Hỏa ngục chỉ thu nhặt được những cặn bã xấu nhất của nhân loại
...là vì… là nhờ…
Để trả lời cho vấn nạn được một người đặt ra cho mình rằng: “Lạy Thày, số người được cứu độ ít lắm phải không?” (Lk 13:23), Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hãy gắng mà vào qua cửa hẹp. Tôi bảo cho anh chị em biết là có nhiều người cố vào mà không được...” (Lk 13:24). Qua câu trả lời này, Chúa Giêsu không trả lời hay cũng có thể nói là chưa trả lời dứt khoát là ít người được cứu độ, tức nhiều người bị hư mất đời đời, bị sa hỏa ngục. Người chỉ minh định là vấn đề được cứu độ là một việc khó khăn, phải cần đến ơn Chúa, chứ tự mình con người không thể nào tự cứu độ. Đó là lý do Người đã phán: “nhiều người cố vào mà không được”, và ở câu 27 Người đã dứt khoát là “Ta không biết các người”, thành phần ở ngay câu trước đó là câu 26 đã thưa cùng Người về tình trạng họ sống gần gũi thân tình với Người rằng: “Chúng tôi là những người đã ăn uống với Thày và Thày đã giảng dạy chúng tôi nơi phố xá”. Đó, dù Kitô hữu Công giáo chúng ta có “ăn uống với Thày”, ở trong trường hợp của chúng ta có thể hiểu là việc chúng ta năng xưng tội rước lễ, và có được “Thày đã giảng dạy nơi phố xá”, ở trong trường hợp của chúng ta có thể hiểu là chúng ta được công khai nghe giảng dạy trong Thánh Lễ hay trong các buổi tĩnh tâm chung v.v., chúng ta vẫn chưa chắc được cứu độ, trái lại, còn bị hư đi là đằng khác, còn bị Chúa hoàn toàn và phũ phàng phủ nhận rằng: “Ta không biết các ngươi!”
Vậy thì quả thực, căn cứ vào chiều hướng này, chiều hướng con người không thể tự cứu được mình này, thành phần theo tự nhiên, như Chúa Giêsu khẳng định với Nghị Viên lão thành Nicôđêmô đến gặp người ban đêm rằng: “chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Jn 3:19), thành phần như Người cũng đã phải than lên trước 3 môn đệ thân tín nhất của Người đang mê man thiếp ngủ không còn biết trới đất đâu nữa, vào chính lúc Sư Phụ Thần Linh vô cùng đáng kính đáng mến của các vị bị bắt đi rằng: “Tinh thần thì mau mắn nhưng bản chất lại bạc nhược” (Mt 26:41), có thể nói rằng Chúa Giêsu đã “không dám” vạch trần sự thật cứu độ hết sức nghiệt ngã rằng: “Đúng, con số người được cứu độ thì ít ỏi lắm!”. Phải chăng đó là lý do đã làm cho Người phải than lên: “Linh hồn Thày buồn đến chết được” (Mt 26:38), đến “đổ mồ hôi máu nhỏ xuống đất” (Lk 22:44)? Người cũng đã than thở với một trong các thụ khải viên của mình vào hậu bán thế kỷ 20 mang biệt danh Magarita người Bỉ trong Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu gửi Đạo Binh Hồn Nhỏ rằng: “Hỡi con gái của Cha ơi, con có biết cái thảm bại của một Vị Thiên Chúa là gì không? Đó là Người không thể cứu được hết tât cả mọi người bằng Hy Sinh của Người” (18-5-1970); “Những ý nghĩ của Cha (ở trên đồi Gôngôta) là những ý nghĩ thương hại và thương xót. Họ không biết rằng, chỉ bằng một cử chỉ là Cha đã có thể hủy diệt họ đi rồi. Cha để cho họ tha hồ thỏa tay hành khổ Cha, vì trong thâm tâm của Cha, Cha đã chấp nhận Hy Sinh theo ý muốn Cha của Cha. Thế nhưng, nỗi sầu khổ của Cha đã tăng lên gấp bội, vì Cha đã biết rằng, cho dù Cha có để cho mình bị hành hình đến như vậy, Cha vẫn không sao cứu được tất cả mọi con cái của Cha, và đối với nhiều người, Hy Sinh của Cha sẽ trở thành luống công vô ích” (Thứ Sáu Tuần Thánh 30-3-1972).
...là vì...
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, nếu nhân loại chúng ta, sau nguyên tội, đã trở nên mù quáng, mà còn biết khôn ngoan muốn tất cả những gì có lợi cho mình và dùng tất cả mọi phương tiện hay nhất để đạt được mục tiêu lợi lộc tối đa nhất cho mình khi làm bất cứ chuyện gì, thì phải nói làm sao về Thiên Chúa, Đấng vô cùng khôn ngoan thượng trí và toàn năng, Đấng đã dựng nên loài người là để cho họ được hiệp thông thần linh với Ngài, mà chẳng lẽ lại hoàn toàn thất bại, mà lại chịu thua Satan cùng bọn ngụy thần cũng là thành phần tạo vật của Ngài hay sao? Đó là lý do, cũng qua cùng nữ thụ khải viên trên đây, Chúa Giêsu đã bày tỏ tất cả tâm can của mình ra rằng: “Khi Cha bị đóng đanh trên Thánh Giá như một tội nhân chỉ vì yêu, lẽ nào Cha lại chỉ được ôm lấy khoảng không trống rỗng” (15/10/1966); “Hỏa ngục chỉ thu nhặt được những cặn bã xấu nhất của nhân loại. Con hãy tin rằng trước khi đành bỏ cho hỏa ngục một linh hồn, Cha đã thử dùng mọi phương thế theo lòng thương xót của Cha, để cứu rỗi linh hồn ấy...!” (4/10/1967). Vậy, Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng sẽ làm như thế nào để cứu các linh hồn, để thực hiện dự án và lời hứa của mình về thân phận vô vàn linh hồn được cứu rỗi, chứ không phải là ít, khi Ngài phán với tổ phụ Abraham rằng: “Ta sẽ làm cho con cháu của ngươi nhiều như sao trời cát biển” (Gen 22:17, 32:13; 41:49).
Phải chăng Ngài luôn chơi trò 5-10-15-20-25-30-35-40-45-50 v.v. với con người, một trò chơi của trẻ con ở Việt Nam ngày xưa, một đứa lấy hai tay bịt mắt lại hay quay vào tường đọc từ 5 tới 100, cách nhau cứ 5 số như vậy, sau đó mở mắt ra đi tìm cho bằng được những đứa khác đã trốn mất trong lúc đứa này đọc tràng số cứ cách nhau 5 như thế; nếu bắt được đứa nào trước nhất thì đứa ấy lại phải đọc câu thần chú là tràng số cách 5 này cho những đứa khác trốn? Đúng thế, Thiên Chúa đã chẳng sẵn lòng chơi trò này với tổ phụ Abraham là gì, khi Ngài, sau khi tỏ cho vị tổ phụ này biết rằng Ngài có ý định hủy diệt thành Sodoma tội lỗi, đã theo đuổi cho đến cùng cuộc mặc cả của vị tổ phụ này với Ngài về số người công chính, từ 50, 45, 40, 30, 20, 10, để có thể cứu thành Sodoma khỏi bị hủy diệt nhờ số người công chính thiểu số cũng sống ở trong cùng thành ấy (xem Gen 18:16-33). Cũng trong Cựu Ước, việc hy sinh giang tay ra cầu nguyện của một mình Moisen cũng được Thiên Chúa sử dụng như một điều kiện bất khả thiếu để giành phần thắng lợi cho chung quân Do Thái trong tận chiến giữa dân Chúa tuyển chọn với quân Amalek trong sa mạc (xem Ex 17:11). Quả vậy, theo dự án thần linh của mình, ngay từ ban đầu, Thiên Chúa đã dựng nên con người “có nam có nữ” (Gen 1:26), tức đã dựng nên con người như một cộng đồng thế nào, thì khi cứu họ, Ngài cũng muốn cứu họ như một cộng đồng như thế, chứ không phải cứu riêng một cá nhân nào, như Ngài đã cứu cả gia đình Noe 8 người trong trận lụt đại hồng thủy vậy, một gia đình được cứu nhờ Noe sống công chính (xem Gen 7:1) và từ một gia đình này mọi loài cũng được cứu nữa (xem Gen 9:8-10).
Thật ra, không ai trên thế gian này, là loài người thuần túy, thậm chí cả đệ nhất tạo vật đầy ơn phúc Maria, có thể thực hiện được việc “yêu thay đền thay” theo chiều hướng cứu độ linh hồn bất tử và vô giá của con người, ngoại trừ một “Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Con Người Giêsu Kitô” (1Tim 2:5). Thế nhưng, theo dự án và công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, nhờ Chúa Kitô và với Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần duy nhất, Đấng đã hóa thân làm người, đã liên kết với con người, con người cũng có thể cứu anh em mình nữa. Đó là lý do, lịch sử các thánh đã cho thấy Thiên Chúa đã tiếp tục công cuộc cứu độ các linh hồn qua các ngài. Chẳng hạn như Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, hay Thánh Faustina, v.v., những vị thánh đã cứu được rất nhiều các linh hồn bằng các việc âm thầm hy sinh chịu khổ của các vị. Thậm chí các vị linh mục, dù về linh quyền các vị ban phát ơn cứu độ qua các phép bí tích, cũng mang lại vô vàn lợi ích thiêng liêng cho đàn chiên của mình hay cho thế gian bằng đời sống thánh thiện của các vị, chẳng hạn như Cha Piô Năm Dấu hay Cha Sở Họ A Gioan Maria Vianney. Những việc làm có tính cách yêu thay đền thay, thật sự có tác dụng cứu độ được vô vàn các linh hồn tội nhân đáng thương này của các thánh, như Thánh Gioan Maria Vianney và Thánh Faustina, theo tiểu sử của các ngài cho thấy, đã làm cho ma quỉ vô cùng hận tức đến nỗi có những lúc muốn ăn tươi nuốt sống các vị. Sở dĩ việc làm của Kitô hữu nói chung, thành phần còn ơn nghĩa Chúa, ít là không mắc tội trọng và có ý xấu, cho dù là việc nhỏ mọn mấy đi nữa, như quét nhà, rửa chén v.v. cũng có công trước mặt Chúa, cũng có giá trị cứu độ, có trị yêu thay đền thay, vì Chúa Kitô sống trong họ bởi Thánh Thần của Người, tức chính Người làm những việc đó trong họ và qua họ.
...là nhờ...
Việc yêu thay đền thay của một thiểu số các linh hồn được tuyển chọn không phải chỉ mang lại lợi ích cho các tội nhân đáng thương mà thôi, thật ra, trước hết và trên hết, mang lại lợi ích thiêng liêng cho chính họ, làm cho họ được thánh hóa, được càng ngày càng nên giống Đấng Tử Giá hơn. Đó là lý do, để cứu các tội nhân đáng thương, để yêu thay đền thay, các linh hồn được tuyển chọn thường phải hy sinh bản thân mình, thường phải chịu nhiều đau khổ, thậm chí mang trên thân xác các dấu tích của Chúa Kitô, như trường hợp Cha Thánh Piô Năm Dấu. Chúa Kitô Phục Sinh nhưng vẫn còn mang trên thân xác dấu vết tử giá của Người, như Người tỏ cho các môn đệ thấy sau khi phục sinh để chứng thực rằng Người đã sống lại với các vị (xem Lk 24:40; Jn 20:27), và dấu vết tử giá của Đấng Phục Sinh ấy, Đấng ở lại cùng Giáo Hội cho tới tận thế ấy (xem Mt 28:20) ấy, trong giòng lịch sử Giáo Hội, vẫn liên tục và tiếp tục tỏ hiện nơi bản thân và cuộc đời của một thiểu số linh hồn tuyển chọn, điển hình nhất là các vị tử đạo, thuộc thành phần 5-10-15-20 của tổ phụ Abraham. Câu Thánh Phaolô nói rằng “tôi mang trên thân xác tôi những dấu vết của Chúa Kitô” (Gal 6:17), và “tôi bù đắp nơi xác thịt tôi những gì còn thiếu nơi cuộc khổ nạn của Chúa Kitô phải chịu vì thân thể Người là Giáo Hội” (Col 1:24) quả thực là chí lý theo ý nghĩa “yêu thay đền thay” có tính cách hiệp thông cứu độ này. Có thể nói, vì các tội nhân mà một thiểu số linh hồn đã trở thành ưu tuyển và được biệt đãi trong việc gần gũi thân tình với Chúa, nhất là nên giống Người qua cuộc khổ nạn của Người, để nhờ công nghiệp của họ hợp với Người và qua thế giá của họ nơi Người, Người thương đoái thương đến các tội nhân. Như thế, trong ý định quan phòng thần linh của Thiên Chúa, tội nhân là mối lợi cho thánh nhân và thánh nhân sinh lợi cho tội nhân. Tương tự như đã xẩy ra và đang xẩy ra trong trường hợp giữa dân Do Thái và Dân Ngoại, ở chỗ, nhờ dân Do Thái cứng lòng mà Dân Ngoại đã được cứu cho tới khi đủ số Dân Ngoại thì dân Do Thái được cứu vậy (xem Rm 11:25-26).
Thậm chí Người cũng có thể sử dụng tất cả những hy sinh đau khổ của thành phần không phải là Kitô hữu nói chung và thành phần Kitô hữu Công giáo thánh thiện nói riêng nữa, để yêu thay đền thay, để cứu độ các linh hồn tội nhân đáng thương, thành phần càng không thể tự cứu mình. Chẳng hạn, Người có thể sử dụng những hy sinh của thành phần thai nhi vô tội bị sát hại trong bụng mẹ, như trường hợp các Thánh Anh Hài ngày xưa chết thay cho Hài Nhi Giêsu (xem Mt 2:13-18), hay thành phần vô tội bị sát hại bởi cả thiên tai (động đất, bão lụt, hỏa hoạn v.v.) lẫn nhân tai (chiến tranh, khủng bố v.v.), như trường hợp của một Simeon vì bất đắc dĩ phải vác đỡ thập giá của Chúa Kitô và với Chúa Kitô (xem Mt 27:32).
Thật ra, muốn làm một việc gì có công trước nhan Chúa, chủ thể cần phải hội đủ điều kiện ý thức, tuy nhiên, vì là những gì được Thiên Chúa cố ý sử dụng, nên việc vác đỡ thập giá Chúa Kitô của Simêon thành Cyrênê Phi Châu đây cũng có tác dụng cứu độ theo dự án của Thiên Chúa. Trường hợp các thai nhi cũng thế, sự sống của họ không phải là những gì vô ích. Nếu sự sống của các thai nhi vô tội còn quí hơn các loài hữu hình khác trên thế gian này (xem Mt 10:31, 6:26-34) thì bị triệt tiêu một cách vô ích như thế có hợp với ý định dựng nên của Thiên Chúa hay chăng? Nếu Lời Nhập Thể đã liên kết với chung loài người và riêng từng người thế nào Người cũng tiếp tục là “những người anh em hèn mọn nhất” của chung nhân loại và của riêng thành phần Kitô hữu như thế, đến nỗi, ai làm ơn cho “một trong những người anh em hèn mọn nhất” là làm ơn cho Người, hay ngược lại (xem Mt 25:40,45), thì quả thực sự sống của các thai nhi vô tội, vì là "thành phần anh em hèn mọn nhất" của Người, được liên kết một cách nào đó với Người là Lời Nhập Thể, đã có một giá trị được Người lợi dụng trong công cuộc cứu độ của Người vậy. Máu chiên bò trong Cựu Ước ngày xưa còn có giá trị chuộc đền và thánh hóa (xem Heb 9:13-14), huống chi mạng sống cao quí của thai nhi con người, loài được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tượng tự như Ngài (xem Gen 1:26-27). Nếu "Thiên Chúa đã sai Con Người đến trần gian không phải là để kết án thế gian mà để thế gian nhờ Con mà được cứu độ" (Jn 3:17), và vì thế, Chúa Kitô cũng thế, như Người tuyên bố: "Con Người đến là để tìm kiếm và cứu lấy những gì đã trầm hư" (Lk 19:10), thì chẳng lẽ Người coi thường giá trị của một thai nhi con người vô tội và không lợi dụng giá trị ấy cho phần rỗi của các linh hồn đáng thương về luân lý, nhờ đó, nhờ giá trị cứu rỗi của mạng sống vô tội của mình, hợp với giá Máu vô cùng châu báu của Chúa Kitô, chính linh hồn các thai nhi cũng được cứu độ.
Chưa hết, nếu cha mẹ có thể thay cho đứa con sơ sinh của mình trong việc lãnh nhận phép rửa hiệu thành của chúng thế nào, thì các tâm hồn cầu nguyện cho thai nhi bị sát hại hay/và đau đớn trước cuộc thảm sát thai nhi vô tội này, trước nhan Chúa, cũng có thể được coi như cái đau thay cho thai nhi và của chính thai nhi, ý thức thay cho thai nhi và của chính thai nhi bị sát hại, nhờ đó, việc hy sinh của các thai nhi cũng đáng có một tác dụng yêu thay đền thay. Nếu lưỡi đòng đâm vào cạnh sườn Chúa Kitô đã chết, lúc Người không còn cảm thấy gì nữa, không còn ý thức nữa, vẫn là những gì thuộc về công cuộc cứu độ, chứ không phải việc Người bị đâm thâu sau khi chết ấy không được tính vào việc cứu độ của Người thế nào, thì các thai nhi vô tội chưa ý thức cũng thế, họ bị sát hại không hoàn toàn vô ích đâu. Vả lại, khi thấy Con Mình bị đâm như thế, chính Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá Chúa (xem Jn 19:25) đã đau niềm đau của Chúa và thay cho Chúa, như bị gươm sắc thâu qua lòng (xem Lk 2:34-35); trường hợp các thai nhi vô tội bị sát hại cũng thế, họ dù chưa ý thức nhưng vẫn được trái tim Thiên Chúa yêu thương, một trái tim tiếp tục bị đâm thâu nơi các thai nhi bị phá, nhưng vẫn có thể cảm thấy đớn đau qua con tim của những ai gắn bó với Người trong công cuộc cứu độ, trong việc phò sự sống, được Người tuyển chọn trong thành phần thiểu số 5-10-15-20, điển hình nhất là Chân Phước Giaxinta thiếu nhi nhỏ bé ở Fatima được Giáo Hội tuyên phong ngày 13/5/2000.
Tóm lại, theo dự án và công cuộc cứu độ thần linh vô cùng huyền nhiệm của vị "Thiên Chúa là tình yêu" (1Jn 4:8,16), Đấng đã dựng nên con người là để cho họ được sống, được muôn đời hiệp thông với Ngài, Đấng vô cùng toàn năng và khôn ngoan, thì con số được cứu độ, theo người viết này, nhiều hơn là ít, nhiều thật là nhiều, nhiều "như sao trời cát biển" trong đại dương bao la và vũ trụ bất tận của Lòng Thương Xót Chúa!
Các Tế Vật của Lòng Thương Xót Chúa cho các Tội Nhân đáng thương
Chân Phước Thiếu Nhi Fatima Giaxinta
Trong bài giảng phong Chân Phước cho Thiếu Nhi Giaxinta, người đã qua đời lúc gần 10 tuổi (11/3/1910-20/2/1920) tại Linh Địa Thánh Mẫu Fatima ngày 13/5/2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói về vị Á Thánh nữ trẻ nhất Giáo Hội này (ở đoạn 4) như sau: “Giaxinta đã bị kích động sâu xa bởi thị kiến hỏa ngục vào lần Đức Mẹ hiện ra 13/7, đến nỗi không một việc hy sinh hãm mình hay đền tội nào là quá sức đối với em trong việc cứu lấy các tội nhân”.
Thật thế, Giaxinta thực hiện nhiều việc hy sinh với mục đích rõ ràng là để cứu các tội nhân, như chị Lucia thuật lại trong Hồi Ký Thứ Nhất và Thứ Ba của chị.
“Hôm ấy chúng con đang chơi ở chỗ giếng nước con đã đề cập tới. Gần đó, có một cây nho của mẹ Giaxinta. Bà đã cắt một ít chùm để mang lại cho chúng con ăn. Nhưng Giaxinta không bao giờ quên các tội nhân cả. Em nói:
- Chúng ta sẽ không ăn những chùm nho này. Chúng ta hãy dâng hy sinh này để cầu nguyện cho các tội nhân.
Rồi em cầm những trái nho chạy đi cho những trẻ em khác đang chơi trên đường đi. Em trở về mặt mày hớn hở, vì em đã thấy các trẻ em nghèo của chúng con để trao cho họ những trái nho.
Lần khác, bà dì của con gọi chúng con lại để ăn những trái vả bà mang về nhà, và thật sự là những trái ấy ai ăn cũng cảm thấy ngon miệng. Giaxinta hớn hở ngồi xuống bên giỏ trái cây cùng với chúng con rồi cầm trái vả đầu tiên lên. Em gần ăn trái vả này thì sực nhớ lại đã nói:
- Đúng rồi! Hôm nay chúng ta chưa làm được một hy sinh nào cho các tội nhân hết! Chúng ta phải dâng hy sinh này.
Em bỏ trái vả lại giỏ trái cây để thực hiện việc hy sinh; cả chúng con cũng bỏ những trái vả vào giỏ để cầu nguyện cho các tội nhân ăn năn cải thiện đời sống. Giaxinta đã thực hiện nhiều hy sinh như thế rất là thường, nhưng con xin thôi không kể đến nữa kẻo con sẽ không bao giờ ngừng được.
Đó là cách Giaxinta đã sống hằng ngày của mình cho đến khi Chúa gửi đến cho em chứng bệnh cúm làm em phải nằm yên ở trên giường, cả anh Phanxicô của em cũng bị nữa. Tối hôm trước khi ngã bệnh, em đã nói rằng:
- Em cảm thấy nhức đầu quá đi và rất là khát nước! Thế nhưng em sẽ không uống nước, vì em muốn chịu khổ cho các tội nhân.
Tuy nhiên, Giaxinta đã khá hơn một chút. Em thậm chí đã có thể chỗi dậy và nhờ đó có thể bỏ cả ngày ra ngồi bên giường của Phanxicô. Một lần kia em nhắn con tới gặp em lập tức. Con chạy ngay lại. Em đã nói với con rằng:
- Đức Bà đã đến gặp em. Người bảo cho chúng ta biết rằng chẳng còn bao lâu nữa Người sẽ đến đem anh Phanxicô về trời, và Người hỏi em rằng em có còn muốn hoán cải các tội nhân hay chăng. Em đã nói rằng có. Người bảo em là em sẽ phải đi đến nhà thương, ở đó em sẽ chịu nhiều đau khổ; và em phải chịu khổ để hoàn cải các tội nhân, hầu đền tạ tội lỗi đã phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria và vì yêu Chúa Giêsu. Em hỏi Người là chị có đi với em không. Người nói là không, và đó là những gì em cảm thấy khó nhất. Người nói rằng mẹ em sẽ đưa em đi, rồi em sẽ phải ở lại đó một mình!
Nói xong em ngẫm nghĩ một chút rồi thêm:
- Giá chị có thể ở với em nhỉ! Chỗ khó nhất đó là đi không có chị…. Thế nhưng không sao! Em sẽ chịu vì yêu Chúa, để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, để cầu cho các tội nhân cũng như cho Đức Thánh Cha.
Vào lúc người anh của em về trời, em đã tỏ cho anh những lời nhắn gửi này:
- Anh hãy
dâng lên Chúa và Mẹ tất cả tình yêu của em nhé, và thưa với các Ngài rằng em sẽ
chịu khổ bao lâu các Ngài muốn, để cầu cho các tội nhân ăn năn hối cải cũng như
để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.
Giaxinta đã hết sức đau khổ trước cái chết của Phanxicô. Em cảm thấy vô cùng thấm thía trong lòng một thời gian dài, đến nỗi nếu có ai hỏi em đang nghĩ gì thì em đáp: ‘Nghĩ về Phanxicô. Con hy sinh tất cả để mong gặp lại anh!’ Rồi em rướm nước mắt.
Ngày kia con nói với em rằng:
- Giờ đây chẳng còn bao lâu nữa em sẽ về trời. Thế còn chị thì sao đây!
- Tội nghiệp cho chị! Chị đừng có khóc!
Em
sẽ cầu thật nhiều cho chị khi em lên đó. Phần chị, đó là cách Đức Mẹ muốn chị
phải sống. Nếu Người muốn điều ấy cho em, em sẽ hân hoan ở lại để chịu đau khổ
hơn nữa cho các tội nhân.
Ngày Giaxinta phải đi nhà thương đã đến. Ở đó em thật sự đã phải chịu đựng rất nhiều. Khi mẹ em đến thăm em, bà hỏi em có cần gì chăng. Em nói rằng em muốn gặp con. Đây không phải là một điều dễ dàng đối với dì của con, song dì cũng đem con đi ngay khi có dịp. Vừa thấy con, em đã hớn hở ôm chầm lấy con, và nói với mẹ của em hãy đi mua đồ và để con lại với em. Con hỏi thăm em có khổ đau nhiều lắm chăng. Em đáp:
- Có chứ. Thế nhưng em dâng tất cả mọi sự để cầu cho các tội nhân cũng như để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.
Thế rồi, đầy nhiệt tình, em đã nói về Chúa và Đức Mẹ như sau:
- Ôi em yêu thích được chịu khổ vì yêu các Ngài biết bao, chỉ để làm cho các Ngài hài lòng mà thôi! Các Ngài rất yêu thương những ai chịu khổ cho các tội nhân ăn năn cải thiện đời sống.
Em được trở về nhà với cha mẹ em trong một thời gian. Em có một vết thương lớn ở
ngực cần phải được chữa trị hằng ngày, nhưng em đã chịu đựng không hề phàn nàn
hay tỏ ra một dấu hiệu khó chịu nào. Điều làm em khó chịu nhất là những cuộc
viếng thăm thường xuyên và những câu hỏi của nhiều người đến thăm em, những
người em không thể nào tránh né được nữa.
- Em cũng dâng cả những hy sinh này nữa để cầu nguyện cho các tôi nhân ơn ăn năn hối cải.
Có lần dì của con xin con một điều “Cháu hỏi xem Giaxinta nghĩ gì khi nó lấy tay ôm mặt bất động một lúc lâu. Dì đã hỏi nó nhưng nó chỉ mỉm cười không nói năng gì”. Con đã hỏi Giaxinta. Em trả lời con như sau:
- Em nghĩ đến Chúa, đến Đức Mẹ, đến các tội nhân, và đến… (em đề cập tới một số điều của Bí Mật). Em thích suy nghĩ.
Một lần nữa, Đức Trinh Nữ lại chiếu cố đến thăm Giaxinta, để nói với em về những thánh giá mới cùng những hy sinh mới đang chờ đợi em. Em đã cho con biết những điều ấy mà rằng:
- Đức Mẹ bảo em rằng em sẽ đi Lisbon tới một bệnh viện khác; rằng em sẽ không thấy chị nữa, cũng chẳng được thấy cha mẹ em nữa, và sau khi đã chịu nhiều đau khổ, em sẽ chết cô đơn một mình. Thế nhưng Người nói rằng em không cần gì phải sợ hãi, vì chính Người đến đem em về trời.
Em đã ôm ghì lấy con mà khóc:
- Em sẽ không bao giờ được thấy chị nữa! Chị sẽ không đến đó thăm em. Ôi xin chị cầu nguyện nhiều cho em, vì em sẽ bị chết cô đơn một mình!
Giaxinta đã chịu đựng kinh khủng cho tới ngày em lên đường đi Lisbon. Em cứ gắn
liền lấy con mà khóc nấc lên:
- Em sẽ không bao giờ được thấy chị nữa! Không bao giờ được thấy mẹ em nữa, các
anh của em nữa, cha của em nữa! Em sẽ không bao giờ được thấy mọi người nữa! Thế
rồi em sẽ chết lủi thủi một thân một mình.
Một hôm con khuyên em:
- Em đừng nghĩ đến nó nữa.
Em trả lời:
- Hãy để em nghĩ đến nó, vì càng nghĩ em càng khổ, song em muốn chịu khổ vì yêu Chúa và cho các tội nhân. Dù vậy, em cũng không sao! Đức Mẹ sẽ đến đó để đưa em về trời.
Có những lúc em hôn và ôm cây thánh giá mà than lên rằng: “Ôi Chúa Giêsu ơi! Con yêu Chúa, và con muốn chịu khổ thật nhiều vì yêu Chúa”. Em rất thường hay nói rằng: “Ôi Chúa Giêsu! Giờ đây Chúa có thể hoán cải nhiều tội nhân, vì đây thật sự là một hy sinh to lớn!”
Cuối cùng ngày em phải bỏ nhà đi Lisbon đã đến (21/2/1920). Thật là một cuộc giã
biệt đoạn trường. Em đã ôm chặt lấy con rất lâu mà khóc nấc lên:
“Chúng ta sẽ không bao giờ được thấy nhau nữa! Xin chị cầu nguyện nhiều cho em cho đến khi em về trời. Bấy giờ em sẽ cầu nguyện cho chị. Chị đừng bao giờ nói Bí Mật ấy cho bất cứ một ai nghe, dù họ có giết chị đi nữa. Chị hãy yêu mến Chúa Giêsu và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria thật nhiều, và hãy kiếm nhiều hy sinh cho các tội nhân”.
Chị Thánh Faustina
Ở trường hợp Chị Thánh Faustina, Chúa đánh động chị, và nhờ lời cầu nguyện của chị mà nhiều linh hồn đã được cứu rỗi, đến nỗi đã làm cho ma quỉ căm tức chị, muốn hủy diệt chị đi, như chị đã thuật lại trong Nhật Ký – Lòng Thương Xót Chúa Trong Hồn Con ở những khoản sau đây:
“Ngày 16/12/1936. Thiên Thần bổn mạng của con giục con cầu nguyện cho một linh hồn nào đó, và đến sáng con biết được có một người đàn ông hấp hối bắt đầu vào chính lúc ấy. Chúa Giêsu cho con biết điều này một cách đặc biệt khi có ai cần đến lời cầu nguyện của con. Con đặc biệt biết được khi nào một linh hồn hấp hối cần con cầu nguyện cho. Điều ấy hiện nay càng thường xuyên xẩy ra hơn trước”. (820)
“Nhất là hiện nay, lúc con đang nằm nhà thương, con cảm thấy có một mối hiệp thông nội tâm với người hấp hối đang cần con cầu nguyện khi cơn hấp hối của họ bắt đầu. Chúa cho con được lạ lùng giao tiếp với người hấp hối! Vì điều này thường xẩy ra hơn mà con có thể kiểm chứng sự việc xẩy ra vào đúng giờ con cầu nguyện cho họ. … Con cứ cầu nguyện cho đến khi con cảm thấy bình an trong tâm hồn, nhưng không phải bao giờ cũng dài cùng một thời lượng như nhau; vì đôi khi chỉ cần một kinh ‘Kính Mừng’ là con cảm thấy bằng an rồi... Đôi khi con phải cầu cả chuỗi kinh thương xót mới cảm thấy bình an. Con cũng thấy rằng nếu con cảm thấy buộc phải cầu nguyện lâu hơn, tức là cảm thấy lòng con cứ bồn chồn bất an, thì linh hồn ấy đang trải qua một cuộc chống chọi nặng nề và một cơn hấp hối cuối cùng lâu dài hơn… Đây là cách con kiểm chứng về giờ giấc xẩy ra chính xác, đó là con có một chiếc đồng hồ, và con nhìn xem bấy giờ là mấy giờ. Ngày hôm sau, khi họ nói với con về cái chết của người nào đó thì con hỏi họ xem đã xẩy ra vào lúc mấy giờ, và đã xẩy ra vào đúng giờ đó cũng như về cả thời lượng cơn hấp hối kéo dài nữa”. (835)
“Ngày 9 tháng 8 năm 1934. Chầu đêm vào các Ngày Thứ Năm. Con làm giờ chầu của con từ 11 đến 12 giờ đêm. Con dâng giờ chầu này để cầu cho việc hoán cải các tội nhân cứng lòng, nhất là những ai mất hy vọng vào tình thương của Chúa…” (319) “… Sau giờ chầu, khoảng nửa đường về đến phòng của con, con bị bao vây bởi một bầy chó đen bự con đang nhẩy nhót và hú lên như muốn xé con ra thành từng mảnh. Con nhận ra rằng chúng không phải là chó mà là ma quỉ. Một tên trong chúng giận dữ nói rằng ‘vì đêm nay ngươi đã giật khỏi chúng tao rất nhiều linh hồn mà chúng tao sẽ xé mày ra thành từng mảnh’. Con trả lời: ‘nếu đó là ý muốn của Thiên Chúa rất nhân hậu thì cứ xé ta thành từng mảnh, vì ta đáng bị như thế, bởi ta là tội nhân khốn nạn nhất trong các tội nhân, và Thiên Chúa là Đấng hằng Thánh Hảo, công chính và vô cùng nhân hậu’. Nghe thấy những lời ấy tất cả đám quỉ đồng thanh trả lời rằng: ‘Chúng ta hãy tẩu thoát, vì nó không đơn thân; Đấng Toàn Năng đang ở với nó!’ Rồi chúng biến đi như bụi, như tiếng động ngoài đường, trong khi đó con tiếp tục bình an tiến về phòng của mình…” (320)
“Ngày 8 tháng 12 năm 1934. Con hiệp những đau khổ của con với những đau khổ của Chúa Giêsu và dâng chúng cầu cho con và cho việc hoán cải của các linh hồn không tin tưởng vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Bỗng chốc phòng của con đầy những hình thù đen đủi rất giận dữ thù ghét con. Một tên trong chúng nói rằng ‘Đồ khốn kiếp, ngươi và Đấng ở trong ngươi, vì ngươi đang bắt đầu hành hạ chúng tao ngay cả ở trong hỏa ngục’. Vừa khi con nói ‘Và Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta’ thì những hình thù ấy liền vù vù biến khuất”. (323).
Kinh Nguyện Hiến Tế của một số Hồn Nhỏ cho Lòng Thương Xót Chúa
Tế Vật Hồn Nhỏ Têrêsa Hài Đồng Giêsu ngày 9/6/1895
Vào năm 1985 con đã được ơn hiểu biết hơn bao giờ hết là Chúa Giêsu muốn được mến yêu biết là chừng nào. Nghĩ về một ngày của những người dâng mình làm tế vật cho Đức Công Minh của Thiên Chúa, để cứu thành phần tội nhân cho khỏi bị trừng phạt bằng việc chấp nhận hình phạt ấy cho mình, con cảm thấy việc hiến dâng này là những gì cao quí và quảng đại, thế nhưng con lại không cảm thấy thu hút cho lắm. Từ tận đáy lòng của mình, con đã kêu lên rằng:
“Ôi Sư Phụ Thần Linh của con ơi, phải chẳng chỉ có duy Đức Công Minh của Chúa mới chấp nhận những tế vật toàn thiêu? Chẳng lẽ Tình Yêu Nhân Hậu của Chúa cũng không cần hay sao? Tình Yêu Nhân Hậu của Chúa bao giờ cũng bị khinh thường, bị chê chối... những con tim được Chúa tuôn đổ Tình Yêu Nhân Hậu này cho thì lại hướng về tạo vật để tìm kiếm hạnh phúc cho những thỏa mãn thấp hèn trong giây lát, thay vì nhào vào Vòng Tay của Chúa, vào lò lửa khôn lường của Tình Yêu Vô Cùng của Chúa.
“Ôi Chúa Trời con ơi! Chẳng lẽ Tình Yêu của Chúa bị khinh bỉ ấy lại cứ ẩn giấu trong Lòng của Chúa mãi hay sao? Theo con, nếu Chúa muốn tìm kiếm những linh hồn dâng mình làm tế vật toàn thiêu cho Tình Yêu Chúa, thì Chúa phải mau chóng thiêu hóa họ ngay đi; Chúa sẽ cảm thấy rất vui sướng khi những ngọn lửa vô cùng dịu dàng hằng nung nấu trong Trái Tim Chúa được thoát ra.
“Nếu Đức Công Minh của Chúa – những gì liên quan đến trái đất này – cần phải được thỏa đáng, thì Tình Yêu Nhân Hậu của Chúa còn muốn thiêu đốt các linh hồn hơn biết bao, vì ‘tình thương của Chúa vươn tới tận các tầng Trời’ (Cf. Psalm 35[36]:6). Ôi Chúa Giêsu! Xin cho con được làm tế vật diễm phúc được Chúa toàn thiêu bằng Lửa Tình Yêu Thần Linh!”
Mẹ yêu dấu, mẹ biết rằng tình yêu này, đúng hơn đại dương này của ân sủng đã ngập ngụa hồn con ngay sau khi con thực hiện Tác Động Toàn Thiêu này vào ngày 9/6/1895. Từ ngày đó, con đã được tình yêu thấm đẫm và bao bọc. Tình Yêu Nhân Hậu này liên lỉ đổi mới và thanh tẩy con, không để một vết tích tội lỗi nào trong linh hồn của con. Con không sợ Luyện Ngục; con biết rằng con không đáng thậm chí vào nơi đền tội ấy với các Linh Hồn Thánh Hảo, thế nhưng, con biết rằng lửa của Tình Yêu còn thánh hóa hơn cả lửa Luyện Ngục nữa. Con biết rằng Chúa Giêsu không bao giờ lại muốn chúng ta chịu khổ vô ích, và Người sẽ không đánh động con có những ước muốn con đó nếu Người không muốn làm cho chúng nên trọn.
Tế Vật Hồn Nhỏ Faustina ngày 29/3/1934
Cha muốn con thực hiện việc hiến dâng bản thân con cho tội nhân, nhất là cho những linh hồn đã mất niềm hy vọng vào tinh thương của Cha.
Trước trời đất,/ trước tất cả triều thần Thiên quốc,/ trước nhan Rất Thánh Trinh Nữ Maria,/ trước tất cả mọi Quyền Năng thiên đình,/ con xin tuyên hứa cùng Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi là/ hôm nay,/ hiệp cùng Chúa Giêsu Kitô,/ Đấng Cứu Chuộc của các linh hồn,/ con thực hiện/ một việc tự nguyện hiến dâng bản thân mình/ cho việc hoán cải của các tội nhân,/ nhất là cho những linh hồn/ đã mất niềm hy vọng vào tình thương của Chúa./
Việc hiến dâng này là ở chỗ,/ hoàn toàn vui lòng thuận phục ý Chúa,/ con chấp nhận tất cả mọi đau khổ,/ sợ hãi và kinh hoàng tràn đầy nơi các tội nhân./ Ngược lại,/ con sẽ hiến cho họ/ tất cả mọi niềm an ủi linh hồn con nhận được/ từ việc hiệp thông với Chúa./ Tắt một lời,/ con xin cống hiến hết mọi sự cho họ:/ Các Thánh Lễ,/ những lần Hiệp Lễ,/ các việc thống hối,/ những hãm mình khổ chế,/ các lời nguyện cầu./
Con không sợ những giáng phạt,/ những giáng phạt của đức công minh thần linh,/ vì con liên kết với Chúa Giêsu./ Ôi Chúa Trời con,/ nhờ đó,/ con muốn bù đắp cho Chúa/ thay thế những linh hồn/ không tin tưởng vào lòng nhân lành của Chúa./ Trong tận cùng tuyệt vọng/ con hy vọng vào tình thương bao la của Chúa./
Lạy Chúa con và lạy Thiên Chúa của con,/ là phần phúc của con/ – phần phúc muôn đời của con,/ con không cậy sức mình để thực hiện việc hiến dâng này,/ nhưng dựa vào sức mạnh/ xuất phát từ các công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô./ Hằng ngày/ con sẽ lập lại việc hiến dâng bản thân này/ bằng việc xướng lên lời nguyện/ chính Chúa đã dạy con sau đây:/ ‘Ôi Máu và Nước tuôn ra từ Trái Tim Chúa Giêsu/ như Mạch Nguồn Tình Thương cho chúng con,/ con tin tưởng nơi Chúa’.
Nữ Tu Maria Faustina Bí Tích Thánh
Thứ Năm Tuần Thánh, trong Thánh Lễ, 29/3/1934
Tế Vật Hồn Nhỏ biệt danh Marguerite ngày 16-7-1966
Đối với riêng nhân vật mà Chúa Giêsu gọi là "sứ giả nhỏ bé của Tình Yêu Cha" (9-5-1966), "người mà Cha đã chọn để chuyển đạt Thông Điệp Tình Yêu của Cha" (31-5-1966), "sứ mệnh của con là nền tảng cho Đạo Binh thiêng liêng các Hồn Nhỏ" (12-8-1974), thì Người đã yêu cầu tận hiến cho Người như sau:
"Con gái của Cha ơi, con có muốn hy sinh để làm mồi cho tình yêu không? Cha muốn con long trọng tuyên khấn
phó thác trọn vẹn và trung thành cho Tình Yêu Nhân Hậu của Cha" (26-6-1966).
Người nữ sứ giả mà sau này Chúa Giêsu nói là "sau khi đã làm mồi cho tội lỗi, đã trở thành mồi cho tình yêu" (2-9-1966), vì "bao lâu nay Cha vẫn hình thành linh hồn bé nhỏ của con" (15-9-1966), vào ngày lễ Đức Mẹ Carmêlô 16-7-1966, đã chính thức tuyên hứa cùng Chúa như sau:
"Lạy Chúa Trời con, con sấp mình trước nhan Chúa, có Đức Mẹ nhân từ và triều đình thiên quốc chứng giám, con long trọng cam kết trung thành với Chúa, và con hân hoan tận hiến làm của lễ toàn thiêu cho Tình Yêu Nhân Hậu của Chúa.
Con xin Chúa nung nấu con trong lửa tình yêu thánh thiện của Chúa, thứ tình yêu tạo nên các vị thánh. Lạy Chúa Trời con, vì lẽ con qúa yếu đuối, nên con nài xin Chúa giúp con giữ trọn lời con tuyên hứa cùng Chúa hôm nay, là luôn luôn đáp ứng tiếng gọi của Chúa.
Nếu cần, xin Chúa nhắc lại cho con nhớ rằng con đã từ bỏ thế gian để chỉ kết hiệp làm một với Chúa mãi mãi. Con xin hiến dâng cho Chúa tất cả những gì thuộc về con và trọn bản thân con.
Con xin hiến dâng toàn vẹn và vĩnh viễn ý muốn của con cho Chúa. Nguyện xin thánh sủng Chúa cho con được sức mạnh để giữ trọn lời khấn mà con đoan nguyền trước nhan Chúa hôm nay. Amen."
Cũng thế, đối với chung các Hồn Nhỏ muốn gia nhập Đạo Binh Hồn Nhỏ của Người, Chúa Giêsu cũng đã kêu gọi hiến thân cho Người như sau:
"Hỡi các Hồn Nhỏ, các con có muốn là những con cái của Ơn Cứu Chuộc cùng với Cha không? Giờ đây
Cha xin các con điều mà Cha của Cha đã xin Cha. Song các con đừng sợ. Các con sẽ hiến dâng cho Cha
nhân tính thấp hèn của các con đã được ân sủng thăng hóa mà các con có thể dâng lên cho Cha. Phần
Cha, Cha lấy làm biết ơn khi nhận lấy những tặng vật của các con" (5-7-1967).
Tế Vật Hồn Nhỏ Bá Vũ Ly ngày 5/4/2009
Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!
Thế nhưng, lạy Chúa, nếu Chúa không chiếm đoạt con,
con không thể nào tin nơi Chúa như Chúa muốn.
Vì con không thể nào thấu suốt được bản tính là tình yêu vô cùng nhân hậu của Chúa.
Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!
Con biết rằng lý do duy nhất Chúa yêu con đó là vì Chúa thương con,
một thụ tạo vô cùng hèn hạ và tội lỗi trước nhan Chúa.
Và sở dĩ Chúa thương con là vì Chúa chính là Tình Yêu.
Và tột đỉnh và tất cả Tình Yêu của Chúa được thể hiện nơi lòng Chúa thương con,
đến nỗi Chúa đã trở thành đáng thương hơn cả con đáng thương.
Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!
Con biết rằng con là của Chúa và hoàn toàn thuộc về Chúa,
vì Chúa đã thương dựng nên con và cứu chuộc con.
Nhưng trên thực tế con vẫn sống như không có Chúa,
vẫn là chúa tể cuộc đời mình, vẫn mù quáng theo ý riêng và tự quyết.
Thế mà Chúa vẫn liên tục theo đuổi con
bằng những tác động thần linh cảnh báo, thanh tẩy và lôi kéo con cho đến cùng.
Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!
Vâng, chính vì con tin nơi Chúa mà con xin Chúa
hãy hoàn toàn và vĩnh viễn chiếm đoạt trái tim con,
để con thực sự và trọn vẹn thuộc về Chúa,
nhờ đó, không một sự gì trên thế gian này,
dù cám dỗ, khổ đau hay tội lỗi có thể làm con xa Chúa,
và cũng nhờ đó, Chúa có thể thực hiện mọi sự Chúa muốn nơi con.
Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!
Con biết rằng một khi được Chúa chiếm đoạt,
đời con sẽ chẳng còn gì vui sướng trên trần gian này nữa, trái lại, nó sẽ trở thành
một thung lũng tối, một đêm đẫm mồ hôi máu, một chiều Canvê tận tuyệt.
Nhưng nhờ thế con mới được diễm phúc sâu xa
hiệp thông với tình yêu nhân hậu Chúa như Mẹ Maria,
và nhờ đó con mới trở thành tông đồ và
nhân chứng phản ảnh trung thực cho Chúa là Tình Yêu.
Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!
Xin Chúa hãy biến bản thân con được Chúa chiếm đoạt thành giá cứu chuộc
cho những linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn,
để đời con được trở thành cuộc hành trình tìm kiếm con chiên lạc của Chúa,
và để quyền năng phục sinh chiến thắng tội lỗi và sự chết của Chúa tỏ hiện
qua những dấu vết tử giá của Chúa nơi thân xác tro bụi của con.
Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng trong lòng
Xin hoán cải con trở nên như những trẻ nhỏ của Lòng Thương Xót Chúa
để con biết nhìn tất cả mọi anh chị em con
bằng con tim của tình yêu vô cùng nhân hậu Chúa như Mẹ Maria,
cho tất cả được hiệp nhất nên một nhiệm thể của Chúa
trong Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
Lạy Chúa, con tin rằng Chúa đã thực sự bắt đầu chiếm đoạt con khi bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ, cho con bị mất một việc làm sau 24 năm, hôm Thứ Hai 6/4/2009, ngay sau ngày con soạn dọn và đọc kinh này vào ngay tối hôm trước, Chúa Nhật Lễ Lá 5/4/2009?
Có một điều con không thể chối cãi là con rất thích đọc lời nguyện này, và lần nào đọc xong con cũng cảm thấy rất an vui và phấn khởi hơn bao giờ hết, tin tưởng vào Chúa hơn bao giờ hết.
Giáo Phận San Bernadino California Lễ Thánh Tâm Chúa 19/6/2009