Chương 4

  

 

Giakêu,

Hiện Thân Người Thu Thuế

Lên Đền Thờ Cầu Nguyện

  

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (19:1-10).

Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, th́ ḱa, có một người tên là Giakêô, ông thủ lănh những người thu thuế và là người giàu có. Ông t́m cách để nh́n xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, v́ người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nh́n xem Người, v́ Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nh́n lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: “Hỡi Giakêô, hăy xuống mau, v́ hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Ông vội vàng trèo xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: “Ông nầy lại đến nhà một người tội lỗi”. Ông Giakêô đứng lên thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Ngài tôi xin bố thí nưœa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều ǵ, tôi xin đền gấp bốn”. Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người nầy cũng là con cái Abraham. V́ chưng, Con Người đến t́m kiếm và cứu chữa điều ǵ đă hư nát”.
 

 

 

T

heo tiến tŕnh phụng niên của ḿnh, từ tuần XXXI Mùa Thường Niên, như trong chu kỳ Năm C, Giáo Hội đă bắt đầu hướng về Mầu Nhiệm Cánh Chung, mầu nhiệm Chúa  Kitô tái giáng, như Thánh Phaolô nhắn gửi giáo đoàn Thessalônica trong bức thư thứ hai rằng: “Về vấn đề Chúa Giêsu Kitô đến và việc chúng ta qui tụ lại với Người, hỡi anh em, chúng tôi van xin anh em đừng có động một tí th́ bấn loạn lên hay tỏ ra run sợ, khi nghe thấy có lời tiên báo hay tin đồn hoặc thư mạo danh chúng tôi mà tin rằng ngày của Chúa tới nơi rồi” (2:2).

 

Qua đoạn Thư này của Vị Thánh Tông Đồ Dân Ngoại, chúng ta thấy, ở thời nào cũng vậy, từ thời Giáo Hội sơ khai tới nay, Kitô hữu chúng ta hầu như cảm thấy và tỏ ra rùng rợn về Ngày Chúa đến cũng được gọi là ngày tận thế. Thế nhưng, bài Phúc Âm được trích dẫn trên đây cho chúng ta thấy Chúa đến là để cứu độ chứ không phải trừng phạt: “Con Người đến để t́m kiếm và cứu độ những ǵ đă hư mất”.

 

Lời Người quả quyết với viên trưởng ban thu thuế lùn Giakêu này chỉ lập lại lời Người đă minh định với viên chức Nicôđêmô thuộc phái Pharisiêu trong Hội Đồng Do Thái đă đến gặp Người ban đêm trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 17, đó là: “Thiên Chúa không sai Con xuống thế gian để luận phạt thế gian song để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”.

Vẫn biết là như vậy. Vẫn biết là lần đầu Chúa đến thế gian không phải để phán xét, thế nhưng, theo như Kinh Tin Kính chúng ta vẫn tuyên xưng, vào lần Chúa đến sau này, lần Người đến cuối cùng, chính là để Người “phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Chân lư đức tin này cũng đă được chính Người mạc khải trong Phúc Âm Thánh Mathêu cho thấy ở đoạn 25 từ câu 31 đến câu 46 về việc Người phân chiên và dê trong ngày chung thẩm.

 

Đúng thế, về h́nh thức, lần Chúa đến sau cùng vào ngày tận thế là lần Chúa đến để phán xét, nhưng Chúa phán xét những ǵ và phán xét để làm ǵ, chúng ta vẫn thấy hợp với những ǵ Người tuyên bố trong lần Người đến lần thứ nhất, như vừa được trích dẫn trên đây, đó là Người đến để cứu độ chứ không phải để luận phạt.

 

Thành phần dê trong ngày chung thẩm sở dĩ bị luận phạt là v́, như Chúa Giêsu khẳng định ngay sau câu Phúc Âm Thánh Gioan cùng đoạn trên đây, đó là: “Ai tin vào Người th́ khỏi bị luận phạt, c̣n ai không tin th́ đă bị luận phạt rồi, v́ không tin vào danh Con Thiên Chúa duy nhất. Phán quyết luận phạt là thế này” (Jn 3:18), Chúa Giêsu cho biết lư do như sau: “đó là ánh sáng đă đến trong thế gian, song con người đă chuộng tối tăm hơn ánh sáng, v́ các việc họ làm đều là những việc gian ác” (Jn 3:19).

 

Như thế, qua lời Chúa Giêsu ở đây, rơ ràng là con người tự luận phạt ḿnh khi không chịu tin vào Người, đó là lư do họ “đă bị luận phạt rồi”, ngay lúc họ không chịu tin Người, chứ không cần phải đợi cho tới khi Chúa đến lần sau hết nữa. Đó cũng là lư do, trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái, ở đoạn 9 câu 28, Vị Tông Đồ Dân Ngoại mới khẳng định là “Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người”. Bởi thế, chúng ta mới hiểu được lư do tại sao khi đến thế gian vào ngày tận thế, Chúa Giêsu mới phán xét con người về đức tin của họ, xem con người có thật sự tin vào Người như Người đă tỏ ḿnh ra cho họ vào lần đến thứ nhất hay chăng, “ai tin sẽ được cứu độ c̣n ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mk 16:16).

 

Như thế, rơ ràng là chủ ư của Chúa Kitô đến thế gian lần thứ hai cũng là để cứu độ chứ không phải để luận phạt. Tuy nhiên, vấn đề vẫn có thể được đặt ra là: tại sao Phúc Âm Thánh Mathêu cho thấy trong ngày chung thẩm Chúa Giêsu phán xét về đức bác ái, chứ đâu phải về đức tin?

 

Thật ra, nếu “xem quả th́ biết cây”, như Chúa Giêsu phán ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 7 câu 20, th́ Người chỉ cần phán xét hoa trái bác ái của con người là biết ngay cây đức tin của họ ra sao thôi. Không phải hay sao, trong ngày chung thẩm, trước ngai Đấng phán xét chung, cả hai thành phần chiên và dê đều trả lời với Người rằng “chúng tôi đâu có thấy Ngài đói khát, xa lạ, trần truồng, tù tội hay yếu đau mà đáp ứng những ǵ Ngài cần” (Mt 25: 44, xem cả 37-39)? Thế mà, dù không thấy Người, thành phần chiên vẫn làm, c̣n thành phần dê th́ không, như trường hợp của người phú hộ đối với Lazarô cùng cực trong dụ ngôn cách đây sáu tuần. Như vậy, không phải là thành phần chiên làm việc bác ái theo đức tin mănh liệt của ḿnh hay sao, như trường hợp người Samaritanô nhân lành hết ḷng ra tay cứu giúp nạn nhân xa lạ đang ngấp ngoái chết v́ bị cướp bóc dọc đường trong dụ ngôn Chúa Nhật 15 cách đây 16 tuần? “Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người” (Heb 9:28) là như thế.

 

Tuy nhiên, một vấn đề nữa cũng được đặt ra ở đây là làm sao con người có thể tin tưởng để được cứu độ, nghĩa là làm sao con người có thể nhận biết Chúa Kitô để được cứu độ? Và nếu Chúa Kitô thực sự đến cứu độ con người, như chính Người đă khẳng định với viên chức Pharisiêu Nicôđêmô, nhất là với viên trưởng ban thu thuế Giakêu lùn trong bài Phúc Âm trên đây: “Con Người đến để t́m kiếm và cứu độ những ǵ đă hư mất”, th́ càng tội lỗi, nghĩa là càng không có đức tin hay yếu đức tin, con người càng cần phải đến với Đấng là Cứu Chúa của ḿnh, chứ tại sao lại tỏ ra sợ hăi Đấng đến cứu độ ḿnh, như thái độ của Kitô hữu giáo đoàn Thessanôlica cần phải được trấn an, như lời Thánh Phaolô trên đây?

 

Trước hết, về vấn đề con người làm sao để có đức tin, hay để có thể nhận biết Cứu Chúa của ḿnh, nhờ đó họ mới được cứu độ, v́ tự ḿnh, họ vốn có khuynh hướng, như Chúa Giêsu nhận định và quả quyết với Nicôđêmô trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 19: “Con người chuộng tối tăm hơn ánh sáng”. Tuy nhiên, chính trong lúc loài người “c̣n ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết” như thế, như lời tư tế Giacaria, thân phụ của Thánh Gioan Tẩy Giả, tuyên nhận trong bài ca vịnh mở miệng lưỡi của ông ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 1 câu 79, mà “ánh sáng đă chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng”, như Phúc Âm Thánh Gioan chân nhận ở đoạn 1 câu 5.

 

Đó là lư do trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 5 câu 24, 25 và 28, Chúa Giêsu đă tuyên bố với những người Do Thái đang có ư định giết Người như thế này: “Tôi bảo thật cho các người biết, ai nghe lời Tôi mà tin vào Đấng đă sai Tôi th́ có sự sống đời đời. Họ không bị luận phạt, song vượt qua sự chết vào sự sống. Tôi bảo thật cho các người biết, giờ đang đến, mà thật sự đă đến rồi, lúc mà kẻ chết nghe thấy tiếng của Con Thiên Chúa và ai lắng nghe th́ được sống… Các người đừng có lấy làm lạ lùng bỡ ngỡ là giờ đang đến đây, tất cả những ai đang ở trong mồ mà nghe thấy tiếng của Người th́ bước ra”.

 

Vậy thành phần “kẻ chết” đây, thành phần “đang ở trong mồ mà nghe thấy tiếng của Người th́ bước ra” đây là ai, nếu không phải, một Lazarô chết thối bốn ngày, như được Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 11 câu 43 và 44, một trường hợp sống lại về phần xác tiêu biểu hết sức sống động và cụ thể cho trường hợp sống lại về phần hồn, điển h́nh nhất là trường hợp của viên trưởng ban thu thuế Giakêu lùn trong bài Phúc Âm trên đây.

 

Tuy nhiên, tại sao Giakêu lại có thể “đang ở trong mồ mà nghe thấy tiếng của Người th́ bước ra” được một cách dễ dàng như thế, c̣n những “kẻ chết” khác th́ không được như vậy hay chưa được như ông, chẳng hạn như những người thấy Chúa Giêsu vào nhà của viên trưởng ban thu thuế này, theo Phúc Âm hôm nay thuật lại, “bắt đầu lẩm bẩm với nhau rằng: ‘Hắn vào nhà của một kẻ tội lỗi như một vị khách’”?

 

Không phải hay sao, chỉ v́ Giakêu, hiện thân đích thực của người thu thuế trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, chân nhận ḿnh là một kẻ tội lỗi đáng thương, một con người tật nguyền bệnh nạn, một con người cần đến thày thuốc, c̣n những người lẩm bẩm trong cùng bài Phúc Âm với Giakêu th́ không, v́ họ tự cho ḿnh là kẻ công chính, thành phần lành mạnh không cần đến thày thuốc, không cần đến Đấng tuyên bố “Tôi đến để kêu gọi tội nhân chứ không phải những ai cho ḿnh là công chính”, trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 9 câu 13, đoạn Người kêu gọi viên thu thuế Mathêu theo Người nên đă bị nhóm Pharisiêu chê trách.

 

Chính v́ thế Giakêu đă không sợ Vị Cứu Chúa của ḿnh, trái lại, c̣n mong gặp Người là đàng khác. Đến nỗi, theo Phúc Âm hôm nay thuật lại, v́ lùn, ông đă phải leo lên cây để có thể nh́n thấy Người, chiêm ngưỡng Người, cho đến khi được Người gọi đích danh của ông và ngỏ ư muốn vào nhà ông, ông liền vui mừng hớn hở, chứ không v́ thấy ḿnh tội lỗi xấu xa mà e thẹn hay sợ sệt trong việc ngại ngùng đón tiếp Người.

 

Chính v́ “ai có ḷng khao khát nhân đức trọn lành ấy là phúc thật, v́ chưng sẽ được no thỏa vậy”, như mối Phúc Đức thứ bốn Chúa Giêsu dạy trong bài Giảng Trên Núi được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 5 câu 6, mà Giakêu đă được Chúa Giêsu cho biết trong bài Phúc Âm tŕnh thuật về ông là: “Hôm nay ơn cứu độ đă đến với nhà này” hay “Hôm nay nhà này đă được ơn cứu độ”!

 

 

 

 

Chén Đắng Vườn Nhiệt

(tiếp trang 4 và 27-28)

 

“Hỡi đứa con gái của Cha, con có biết rằng nôi mỗi một linh hồn, dù nó có thối nát đến đâu đi nữa, vẫn luôn luôn có một góc trời xanh nho nhỏ chăng? Đó là nơi Cha trú ngụ. Theo thẩm định của nhiều người th́ linh hồn này đă ḅ sự dữ chiếm cứ mất rồi, thế mà Cha vẫn hiện diện ở đó như thường .....

                      

“Ôi nhân loại tội lỗi đáng thưông! Giá các con biết được là, mỗi một lần các con hối tiếc về những lầm lỗi của ḿnh, th́ các con đánh động ḷng thương của Thiên Chúa đến đâu, và ôn tha thứ của Người sẽ trả lại cho các con niềm thơ ngây vô tội của một con trẻ nhỏ ra sao. V́, như con thấy đó, chỉ có kẻ nào muốn hư đi th́ mới ḅ hư đi mà thôi. Những tội nhân thượng hạng nhất là kẻ dửng dưng và là kẻ lừng khừng, nên họ là người khó lay động nhất. Họ chạy nhẩy với thỏ rừng, họ săn bắt với sói hoang, họ hùa theo với mọi người.

 

“Những linh hồn này làm Cha rùng ḿnh. Giả h́nh và ti tiện, họ t́m kiếm những danh vọng và hăo huyền, cho dù có v́ thế mà mất linh hồn của họ đi nữa. Thế nhưng, họ sẽ mất hết những thứ ấy, cùng với việc đạo đức mà họ thực hành như phưông tiện để đạt được những mục đích của họ. Cha tha thứ cho tội nhân thống hối. Tuy nhiên, Cha trừng phạt những kẻ phạm đến Thần Linh.

 

 

Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu của Chúa Giêsu

gửi Các Hồn Nhỏ

qua nữ sứ giả giáo dân người Bỉ biệt danh Magarita ngày 8-3-1967