Chương 5
Satan và Ngụy Thần
Cũng Tin Có Thiên Chúa
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (18:1-8)
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngă ḷng mà rằng: “Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà góa đến thưa ông ấy rằng: “Xin ông minh oan cho tôi khoœi tay kẻ thù”. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng v́ bà góa này cứ quấy rầy ta măi, nên ta sẽ xưœ cho bà ấy, kẻo bà ấy đến măi làm ta nhức óc”. Rồi Chúa phán: “Các con hăy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó? Vậy Thiên Chúa lại không minh xưœ cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày mà khoan giăn với họ măi sao? Thầy bảo các con: Chúa sẽ kíp giải oan cho họ! Nhưng khi Con Người đến liệu sẽ c̣n gặp được ḷng tin trên mặt đất nữa chăng?”.
Thế nhưng, ở đây, Phúc Âm không thuật lại việc cả hai vị cảm thấy hết sức buồn sầu và cầu nguyện cùng Thiên Chúa, như trong trường hợp của Tôbia cha và đứa con dâu tương lai của ông. Thế mà, Thiên Chúa vẫn ra tay can thiệp, bằng cách, Ngài cũng đă sai một thiên thần đến. Vị thiên thần này không như tổng thần Raphaen đă lấy h́nh người hiện ra với Tôbia con, mà chỉ xuất hiện trong giấc ngủ của Thánh Giuse, để tiết lộ cho thánh nhân biết cách thức Thiên Chúa Nhập Thể trong ḷng vị hôn thê đính hôn của thánh nhân. Việc Thánh Giuse, như Phúc Âm kể lại: “khi tỉnh giấc, Giuse đă làm như lời thiên thần Chúa chỉ dẫn là nhận Maria đem về làm vợ”, đă chứng tỏ thánh nhân lúc nào cũng hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, dù Ngài chỉ tỏ ḿnh ra cho thánh nhân trong giấc ngủ chứ không phải nhăn tiền.
Nếu Thánh Giuse có một đức tin chân t́nh dễ thương, đến nỗi đă làm Thiên Chúa phải động ḷng giải oan cho như thế, th́ Mẹ Maria đầy ơn phúc, người đă được bà chị họ Isave khen rằng “em có phúc v́ đă tin tưởng” (Lk 1:45), lại không tin tưởng hơn thánh nhân gấp bội hay sao, bởi trường hợp của Mẹ là trường hợp bị oan ức v́ Chúa và cho Chúa, ở chỗ, trước khi thưa “này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng”, Mẹ đă nhắm mắt tin tưởng và liều ḿnh chấp nhận những ǵ sẽ xẩy ra cho Mẹ rồi. Đó là lư do chúng ta thấy sở dĩ Mẹ Maria được bà chị họ của ḿnh là Isave bấy giờ được đầy Thánh Thần chúc tụng là “có phúc” v́ Mẹ đă “tin tưởng” (trust) chứ không phải chỉ “tin” (believe).
Tóm lại, trong bài Phúc Âm đầu chương, Chúa Giêsu muốn khuyên dạy cho chúng ta, trước hết, phải liên lỉ nguyện cầu và nguyện cầu một cách kiên tŕ nhẫn nại, đến nỗi bao giờ được mọi sự như ḷng mong ước hay được thỏa đáng nhu cầu của ḿnh mới thôi. Bởi v́, một quan án phàm nhân, coi trời bằng vung và nh́n đời bằng đuôi con mắt, mà c̣n biết giải quyết những ǵ phiền nhiễu đến ḿnh, th́ Thiên Chúa là Đấng muốn thi ân hơn ai hết, muốn bị làm phiền hơn ai hết, chắc chắn sẽ đáp ứng những kẻ cứ thích làm phiền Ngài. Thành phần làm phiền Đấng hằng muốn ban ơn và thích được làm phiền đây chính là thành phần được Ngài yêu thích nhất, v́ họ tỏ ra tin tưởng Ngài hơn ai hết, hiểu Ngài hơn ai hết, bởi thế mới đánh động Ngài hơn ai hết, khiến Ngài không thể không làm theo ư họ muốn.
Thế nhưng, vấn đề ở đây là, đối với một vị Thiên Chúa thích được làm phiền như thế, liệu con người có thể nhẫn nại để cứ làm phiền Ngài, cứ nhất định phá Ngài hay chăng, hoặc chính con người lại cảm thấy nản chí đến độ trở thành hồ nghi không biết có Thiên Chúa hay chăng, giả dụ có đi nữa tại sao Trời không có mắt? Nếu lời Chúa vô cùng chân thật, như lời Ngài đă khẳng định “ai xin sẽ được, ai t́m sẽ thấy, ai gơ sẽ mở” (Lk 11:10), một lời chắc chắn phải xẩy ra, phải hiện thực, th́ sở dĩ không xẩy ra, hay sở dĩ chúng ta xin không được, t́m không thấy, gơ không mở là chỉ v́ chính chúng ta thiếu ḷng tin tưởng mà thôi.
Đó là lư do chúng ta thấy bài Phúc Âm được trích dẫn trên đây đă đi sâu vào chính cốt lơi của đức tin (belief/faith), đó là chính ḷng tin tưởng (trust), ḷng cậy trông (hope) vào Đấng được con người tin (believe). Satan và đồng bọn ngụy thần của hắn là tạo vật linh thiêng cũng tin có Thiên Chúa và tin rằng Ngài là Đấng Tối Cao, Đấng Toàn Thiện, vô cùng khôn ngoan thượng trí, c̣n hơn ai hết, thế nhưng thực tế cho thấy hắn và đồng bọn vẫn không tin tưởng và cậy trông Ngài, đến nỗi đă tỏ ra chống lại dự án cứu độ của Ngài ngay từ ban đầu (x Rev 12:4).
Đúng thế, chính ḷng tin tưởng mới là yếu tố thiết thực nhất làm cho đức tin nơi con người tăng triển, tức mới làm cho con người tin được hoàn toàn hiệp thông với Đấng họ tin tưởng, v́ nhờ ḷng tin tưởng, ḷng cậy trông, được tỏ ra rơ ràng nhất và sống động nhất qua những cơn gian nan khốn khó và thử thách đến nỗi có thể khiến con người yếu đuối ngă ḷng tin, không c̣n hy vọng ǵ được nữa (x Rm 4:18), con người có đức tin mới đi sâu vào được chính bản tính thần linh của Thiên Chúa, và Thiên Chúa mới hoàn toàn tỏ ḿnh ra cho họ, như đă thực sự xẩy ra cho Người Nữ Tỳ Đầy Ơn Phúc Maria Xin Vâng trong trường hợp Truyền Tin Lời Nhập Thể. Đó là lư do chúng ta thấy sở dĩ Mẹ Maria được bà chị họ của ḿnh là Isave bấy giờ được đầy Thánh Thần chúc tụng là “có phúc” v́ Mẹ đă “tin tưởng” (trust) chứ không phải chỉ “tin” (believe).
Thật ra tin tưởng đây không phải là những ǵ khác với đức tin, song là một tác động đức tin, song là một tác động cao cả nhất, một hành động của đức cậy trông phó thác. Như t́nh thương không phải là những ǵ khác với t́nh yêu mà là tột đỉnh của t́nh yêu và là chân dung của t́nh yêu thế nào, tin tưởng đối với đức tin cũng thế. Nếu yêu mến mà chưa biết thương cảm hay không biết thương cảm th́ t́nh yêu c̣n hời hợt và mong manh thế nào, th́ đức tin mà thiếu những thái độ tin tưởng cậy trông phó thác một cách tuyệt đối vào Vị Thần Linh được tin là chân thật duy nhất, toàn năng và toàn thiện trong những lúc gian nan khốn khó, tối tăm thử thách, th́ đức tin của con người c̣n non yếu. Đức tin tự bản chất và theo thần học th́ không phát triển, nhưng theo tu đức th́ vẫn có thể lớn mạnh hay tăng trưởng ở ḷng tin tưởng này vậy.
Chính bản thân người viết đây đă cảm nghiệm được cái khác biệt giữa đức tin (khả năng thần linh hay một trong ba thần đức được Thiên Chúa ban cho con người hay phú bẩm nơi con người khi họ lănh nhận phép rửa) và ḷng tin tưởng (việc con người đáp ứng mạc khải thần linh, đáp ứng mọi tác động thần linh trong cuộc đời họ, nhất là những lúc họ gặp gian nan khốn khó thử thách), cũng như sự khẩn thiết của ḷng tin tưởng, nơi vai tṛ làm cha của ḿnh.
Trường hợp xẩy ra là, vào mùa hè năm 1999, trong chuyến du ngoạn hơn 6 ngàn dặm bằng xe hơi từ Trung Nam đến Tây Bắc Mỹ, gia đ́nh tôi đă ghé đến một ḥn đảo ở Salk Lake City để tắm biển, nơi chúng tôi đă nghe là dù không biết bơi song cứ xuống nước là sẽ nổi. Thật ra ở biển hồ Salk Lake City này không phải như ở Dead Sea bên Thánh Địa, nơi gia đ́nh tôi cũng đă được diễm phúc hành hương vào mùa hè trong Đại Năm Thánh 2000, nơi mà chỉ cần gieo ḿnh xuống nước như ngả ḿnh trên ghế bố hay trên giường là thân ḿnh tự nhiên nổi lềnh bềnh, không thể ch́m được, dù có muốn tự tử đi nữa. Tuy nhiên, ở biển hồ Salk Lake City, chỉ cần người ta cứ nhào xuống bơi là sẽ nổi, không ch́m. Tôi đă cảm nghiệm được điều này, hai đứa con trai lớn của tôi bấy giờ chưa biết bơi cũng vậy. Thế nhưng, đứa con gái 8 tuổi rưỡi của tôi bấy giờ lại nhát sợ đến nỗi, dù rất ham muốn biết bơi, nhất định không dám bơi, không dám thử, dù có bố ở ngay bên cạnh và bố hết sức cố gắng muốn giúp cho để nó có thể bơi như ḷng mong muốn, để nó có cùng một cảm nghiệm trôi nổi như bố.
Trong trường hợp này, đứa con gái của tôi hoàn toàn nhận biết và chấp nhận tôi là bố của cháu, nhưng lại cương quyết tỏ ra không tin tưởng vào bố của ḿnh, bởi đó cháu đă không được những ǵ bố muốn cho cháu hay bố có, cũng chính là những ǵ cháu ước muốn và mong đạt được. Cuộc sống đạo của Kitô hữu chúng ta cũng thế, cần phải có những lúc tối tăm không c̣n biết bám víu vào đâu ngoại trừ tin tưởng phó thác, bấy giờ chúng ta mới thấy phép lạ xẩy ra, mới thấy bàn tay Chúa ở với ḿnh, mới thấy ḿnh quyền năng và ḷng thương xót của Đấng Quan Pḥng Thần Linh là Cha trên trời của chúng ta.
Thế nhưng, ḷng tin tưởng phó thác này không thể nào có nơi thành phần người lớn, tự cho ḿnh là khôn ngoan, và sống theo lư lẽ tự nhiên, mà chỉ có ở nơi những ai biết “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3) mà thôi. Chính ḷng tin tưởng của con người có đức tin đến quên ḿnh, đến không c̣n là ḿnh nữa (x Jn 12:24-25), một ḷng tin tưởng được biểu hiệu như là một hạt cải nhỏ bé nhất trong các hạt giống (x Mt 13:32), đức tin nơi con người mới phát triển thành một cây vĩ đại đến trở thành nơi trú ẩn của chim trời (x Mt 13:32), như ảnh hưởng của các thánh nhân qua gịng lịch sử, điển h́nh nhất là của Mẹ Chân Phước Têrêsa Calcutta.
Chén Đắng Vườn Nhiệt
(tiếp trang 4, 27-28, 44)
“Cha sẽ biến đổi hết mọi thú vui tội lỗi thành đắng cay và hết mọi buồn khổ thành hoan lạc. Những giọt nước mắt của con vang vọng sâu xa trong Trái Tim của Cha. Thế nhưng, hỡi các con khổ đau nhỏ bé đáng thưông của Cha ôi, Cha dành cho các con thật nhiều hoan lạc ở trên Trời. Các con được dựng nên theo h́nh ảnh Ngôi Con Yêu Dấu. Các con có là để mến yêu.
“Song đáng tiếc thay cách thức các con yêu mến. Các con vô ư tứ phí phạm tặng ân của t́nh yêu Cha, khi mong muốn quá nhiều điều phàm tục. Trái tim của các con lạc hướng trong việc t́m kiếm Sự Thật và t́m không thấy nó đâu cả. Nó ở kề cận các con mà các con không nh́n thấy nó.
“Hăy nh́n vào Cha và yêu mến Cha. CHA LÀ T̀NH YÊU, Đấng duy nhất có thể làm cho các con thỏa măn. Mọi sự c̣n lại chẳng là ǵ ngoài việc gây ra thất vọng và những tiếc xót”.
Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu của Chúa Giêsu
gửi Các Hồn Nhỏ
qua nữ sứ giả giáo dân người Bỉ biệt danh Magarita ngày 10-2-1967