ĐỜI CẦU NGUYỆN

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

 

Chương Năm

 

LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY

 

Điều thứ nhất Chúa Giêsu dạy xin với Cha trên trời là “cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.

 

“Lương thực hằng ngày” Chúa Giêsu dạy chúng ta xin với Chúa Cha đây là ǵ?

 

Phải chăng là của ăn thức uống hằng ngày? Bởi v́, đối với chúng ta, một khi c̣n sống trên thế gian, “có thực mới vực được đạo”, có ăn uống no đủ mới có sức mà phụng sự Chúa, mà mở mang Nước Chúa. Kinh nghiệm cho thấy, dù có của ăn vừa đủ để sống, con người cũng không thể nào yên trí để làm tôi kính mến Chúa trọn vẹn được, v́

ḷng trí c̣n lo cho tương lai và để tất cả giờ giấc vào việc sống cái đă.

 

Thế nhưng, đối với Thiên Chúa, lại khác. Ngài dư biết chúng ta cần những ǵ để sống. Do đó, theo thượng trí vô cùng khôn ngoan quan pḥng của Ngài, nhất là khi chúng ta

thật ḷng t́m Nước Ngài trước (x.Mt 6:33), Ngài sẽ lo cho chúng ta những điều đó. Thiên Chúa sẽ lo cho chúng ta "ăn mặc", v́, chẳng những, theo bản tính tự nhiên, chúng ta “qúi hơn chim trời” (Lc 12:24), hơn “cỏ rả ngoài đồng nay nở mai bị quăng vào lửa” (Lc 6:28), là những loài không gieo văi hay thu gặt song Ngài vẫn nuôi dưỡng,

vẫn cho mặc đẹp, mà c̣n, về tinh thần, chúng ta là con đă biết lo cho Cha, chẳng nhẽ Cha lại vô t́nh bỏ mặc đứa con hiếu thảo của Ngài?

 

Như thế, “lương thực hằng ngày” Chúa dạy chúng ta xin với Cha trên trời không phải chỉ là những ǵ vật chất bề ngoài.

 

Phải chăng “lương thực hằng ngày” là Ḿnh Chúa? Bởi v́, “Thịt Ta thật là của ăn và

Máu Ta thật là của uống” (Gn 6:55), “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta th́ được sống đời đời và Ta sẽ làm cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Gn 6:54), ngược lại, “nếu các ngươi không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong ḿnh” (Gn 6:53). Đúng vậy, c̣n ǵ chính xác và thực tế hơn Thánh Thể khi nói đến

lương thực hằng ngày” của những người con Thiên Chúa, Đấng “đă yêu thế gian đến ban Con Một Ḿnh” (Gn 3:16) cho họ.

 

Thế nhưng, dù Ḿnh Thánh đă được ban cho thế gian như “Bánh của Thiên Chúa bởi trời xuống ban sự sống cho thế gian” (Gn 6:33), về phần con người, nếu họ không tin tưởng, trái lại, giống như “nhiều người trong số các môn đệ của Người bỏ đi, không thuộc về nhóm của Người nữa” (Gn 6:66), th́ “Bánh Hằng Sống từ trời xuống” (Gn 6:51) vô cùng cao trọng đó vĩnh viễn sẽ không phải là “lương thực hằng ngày”

của họ.

 

Vả lại, không cần họ “xin”, Chúa Giêsu cũng tự động ban ḿnh làm của dưỡng nuôi những kẻ thuộc về Người, như thân nho thông nhựa cho cành nho. Để rồi, được ban

cho một cách nhưng không như vậy, chi thể của Người cũng không cần “xin” khi muốn ăn, mà chỉ cần “nhận lấy mà ăn” (Mt 26:26) là đủ. Như thế, xét cho cùng, Ḿnh Chúa cũng không phải chỉ là “lương thực hằng ngày” Chúa Giêsu dạy chúng ta xin với Cha trên trời ở đây.

 

Phải chăng “lương thực hằng ngày” ở đây là Ơn Chúa? Bởi v́, trong việc “tiên vàn t́m

Nước Ngài và đường lối thiện hảo của Ngài” (Mt 6:33), con người không thể thiếu ơn của Ngài. Nhất là trong khi bị thử thách và “bị bắt bớ v́ sự thiện hảo” (Mt 5:10), con người không thể nào có thể trung thành với Ngài, có thể “bền đỗ đến cùng để được

cứu rỗi” (Mt 24:13), nếu thiếu ơn của Ngài: “Ngoài Ta ra, các con không làm ǵ được” (Gn 15:5). Và, cũng chỉ  kết hợp với Ngài như cành nho, con người mới được Thiên

Chúa “cắt tỉa cho càng sai trái hơn” (Gn 15:2), nhờ đó “Cha Ta sẽ được vinh hiển v́ các con sinh hoa kết qủa” (Gn 15:8).

 

Về vấn đề này, là phần của Thiên Chúa, có thể nào Ngài lại không biết rằng các con cái của Ngài cần những sự ấy: “Cha các con biết các con cần ǵ, trước khi các con xin Ngài” (Mt 6:8).   V́ thế, không cần họ phải xin, Ngài cũng tự động ban cho họ: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cor 12:9), khi Ngài muốn để cho họ phải đương đầu với các “chước cám

Dỗ” (Mt 6:13). Miễn là họ có ư theo Ngài và nhất định trung thành với Ngài, họ sẽ thấy sức mạnh thần linh của Ơn Ngài. Như thế, “lương thực hằng ngày” Chúa dạy chúng ta xin với Cha trên trời ở đây cũng không phải chỉ là Ơn Chúa.

 

Phải chăng “lương thực hằng ngày” là Lời Chúa? Bởi v́, người ta sống không nguyên

bởi bánh, song bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (ĐNL 8:3; Mt 4:4). Thật thế, nếu không có Lời Thiên Chúa “là thần linh và là sự sống” (Gn 6:63), lời ban sự sống

đời đời” (Gn 6:68), dù có ăn uống đầy đủ, thậm chí có dư tiền dư của đi nữa, con người

cũng sẽ không làm ǵ được, trái lại, của cải sẽ trở thành một trở ngại cho họ được

sống đời đời nữa là đàng khác: “Lạc đà chui qua lỗ kim c̣n dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19:24).

 

Thế nhưng, dù có lời Chúa đó, như trường hợp người thanh niên kia vừa giầu có lại vừa

giữ đủ các lề luật căn bản “để được sự sống đời đời” (Mt 19:16), song, đến khi nghe thấy Lời Chúa nói cho biết rằng: “Nếu ngươi muốn t́m kiếm sự trọn lành, hăy đi bán những ǵ ḿnh có, thí cho kẻ nghèo... Sau đó, trở lại mà theo Ta” (Mt 19:21), người thanh niên đă buồn bă bỏ đi” (Mt 19:22).

 

 

Đây cũng là phần của Thiên Chúa. Ngài biết chúng ta cần những ǵ, cho thân xác của chúng ta là của ăn áo mặc; cho linh hồn bất tử của chúng ta là Ḿnh Chúa; cho ư chí yếu nhược của chúng ta là Ơn Ngài; và cho lư trí mù tối của chúng ta là Lời Ngài. Tất nhiên, là Đấng ngự nơi kín ẩn và thấu suốt mọi sự (x. Mt 6:6,18), Thiên Chúa là Cha c̣n tốt lành hơn những người cha tội lỗi bất hảo trên đời (x. Mt 7:11) có thể nào không hiểu và cho con cái ḿnh những ǵ chúng cần, v́ lợi ích của chúng, nhất là đối với

những đứa con có ư hướng tốt lành thiện hảo chỉ muốn “tiên vàn t́m Nước Ngài và đường lối công chính của Ngài” (Mt 6: 33). Như thế, “lương thực hằng ngày” ở đây cũng không phải chỉ là Lời Chúa.

 

Như thế, Chúa Giêsu có ư dạy chúng ta là anh em của Người, là con cùng một Cha và là tôi cùng một Chúa với Người (x.Gn 20:17), rằng “Lương Thực Hằng Ngày" có thể

hiểu đó không phải chỉ là của ăn nuôi phần xác, là Ḿnh Thánh Chúa, là Ân Sủng Chúa hay là Lời Thần Linh.

 

 Vậy, "Lương Thực Hằng Ngày" Chúa Giêsu dạy chúng ta xin "Cha ở trên trời" đây, phải chăng, đó chính là ư muốn, là tác động của chúng ta hướng về để tiếp xúc với đối tượng, nhất là đối tượng thiêng liêng có thể làm sống động phần hồn bất tử của chúng ta đó?

 

Không phải hay sao, bên bờ giếng Giacóp, sau khi người phụ nữ Samaritanô nói chuyện với Ngài đi khỏi, bấy giờ, được các môn đệ mời ăn: “Thưa Thày, xin Thày dùng đi một chút” (Gn 4:31), Chúa Giêsu đă trả lời các ông: “Thày đă có của ăn rồi mà các con không biết” (Gn 4:32).

 

 Thế th́, “lương thực hằng ngày” của Chúa Giêsu mà các môn đệ không biết đây là ǵ, nếu không phải là “làm theo ư Đấng đă sai Thày và hoàn tất công việc Ngài trao phó, đó là của ăn của Thày” (Gn 4:34).

 

Nói với các môn đệ về lương thực của ḿnh như thế, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến ư muốn, đến tác động của Người hướng về “ư Đấng đă sai Thày và công việc của Ngài”, đó là “làm theo”, là “hoàn tất”.

 

Đối với chúng ta là thành phần được Chúa Giêsu dạy cầu nguyện: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, điều ấy c̣n có nghĩa là: “Xin Cha cho chúng con biết làm trọn Thánh Ư của Cha” như chúng con đă chúc tụng “Ư Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” vậy.

 

Thế nhưng, để có thể làm trọn Thánh Ư của Cha và chu toàn công việc của Ngài, con người phải biết đúng Thánh Ư Ngài, chọn đúng Thánh Ư Ngài, và làm đúng Thánh Ư Ngài.

Thiên Chúa đă tỏ cho con người nói chung, và thành phần con cái của Ngài nói riêng Thánh Ư của Ngài, đó là Ngài “muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lư” (1Tim 2:4). Thế nhưng, chỉ có nơi Con Một của Ngài là “Ngôi Lời đă hóa thành nhục thể” (Gn 1:14) mới có “đầy ân sủng và chân lư” (Gn 1:14) mà thôi. Bởi thế, Thiên Chúa “muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lư” chính là “muốn mọi người

'tin vào Đấng Ngài đă sai'" (Gn 6:29), thế thôi.

 

Nói cách khác, Thiên Chúa muốn ǵ, Ngài đă tỏ ra nơi Chúa Giêsu, Con Một của Ngài, Đấng mà Ngài đă sai xuống thế gian. Nên, cũng có thể nói, Chúa Giêsu Kitô là Thánh ư Thiên Chúa được tỏ cho con người. Bởi thế, đối với con người, Chúa Giêsu chính “là Đường Lối, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua (Người)” (Gn 14:6).

 

Người “là Đường” ở chỗ: “Ta là Bánh hằng sống bởi trời xuống...Ai ăn thịt Ta và

uống Máu Ta th́ có sự sống đời đời, và Ta sẽ làm cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Gn 6:51,54).

 

Người “là Sự Thật” ở chỗ: “Ta là Ánh Sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, song sẽ có ánh sáng ban sự sống” (Gn 8:12).

 

Người “là Sự Sống” ở chỗ: “Ta là Sự Sống lại và là Sự Sống. Ai tin Ta dù có chết

cũng được sống, c̣n ai đang sống mà tin Ta sẽ không bao giờ chết” (Gn 11:26).

 

Và, Người đă chứng thực rằng Người đúng “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”

cho con người, tức là Đấng Thiên Sai của con người, ở chỗ: “Hiến mạng sống ḿnh làm gía chuộc muôn dân” (1Tim 2:6), (v́ Người là Đường), “cho họ được thánh hóa trong chân lư” (Gn 17:19), (v́ Người là Sự Thật), và “cho chiên được sống và sống dồi dào hơn” (Gn 10:10), (v́ Người là Sự Sống).

 

Chúa Giêsu là Thánh Ư của Thiên Chúa tỏ cho con người, và, với tư cách đó, Chúa Giêsu “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” của con người và cho con người, để con người có thể “đến cùng Cha”. Và, bởi v́, “Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và muôn đời vẫn là một” (DT 13:8), tinh thần của Người, lời nói của Người và việc làm của Người, tự chúng, sẽ không bao giờ trở nên lỗi thời, không bao giờ trở thành vô hiệu.

 

Bởi thế, cho đến đời đời, muốn “đến cùng Cha”, con người phải nh́n vào Chúa Kitô là mạc khải của Thiên Chúa (x.1Gn 1:2), là h́nh ảnh Thiên Chúa vô h́nh (Col 1:15).

 

Việc Làm của Người sẽ là Đường Lối cho họ: “Như Thày đă làm thế nào, các con hăy làm như vậy” (Gn 13:15).

 

Lời Nói của Người sẽ là Sự Thật cho họ: “Lời Cha là Sự Thật” (Gn 17:17), những Lời

“Cha là Đấng đă sai Ta truyền cho Ta phải nói những ǵ và phải nói như thế nào” (Gn 12:49).

 

Tinh Thần của Người là Sự Sống cho họ: “Con Người đến không phải để được phục dịch, nhưng là để phục dịch, để hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20:28), hầu làm trọn “ư của Đấng đă sai (Người) là (Người) không được làm mất

sự ǵ Ngài đă ban cho (Người)” (Gn 6:39).

 

Thế nhưng, Chúa Kitô là một ngôi vị có hai bản tính Thiên Chúa và loài người, nên, những ǵ thuộc về và tỏ ra nơi nhân tính, như tinh thần, lời nói và việc làm của Người, thẩy đều ở trong ảnh hưởng của Thần Tính và được Thần Tính chi phối cũng như huy động.

 

Chính Thần Linh Thiên Chúa, Khuynh Hướng và Động Lực của Thần Tính, là nguyên lư đệ nhất tối cao đă chi phối và huy động nhân tính Chúa Kitô, để tinh thần, lời nói và

việc làm của Người có thể làm theo Ư Đấng đă sai và chu tất công việc Ngài trao phó” (Gn 4: 34).

 

Thần Linh đă làm chủ tinh thần của Chúa Kitô, ở chỗ: “Thần Linh Chúa ngự trên tôi, nên Ngài đă xức dầu cho tôi. Ngài đă sai tôi đi mang tin mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ bị lưu đầy, mở mắt cho kẻ đui mù, và phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4:18-19).

 

Thần Linh đă hướng dẫn và huy động việc làm của Chúa Kitô, ở chỗ: “Chúa Giêsu, đầy Thánh Linh, bỏ sông Jorđan và được Thần Linh dẫn vào sa mạc” (Lc 4:1), hay: Theo quyền năng của Thần Linh, Chúa Giêsu trở về Galilêa” (Lc 4:14) v.v.

 

Thần Linh đă chi phối lời nói của Chúa Kito ở chỗ: Lúc bấy giờ, Chúa Giêsu đă hứng

khởi trong Thánh Linh và nói: 'Ôi lạy Cha là Chúa trời đất, Con chúc tụng Cha, v́ điều Cha giấu những kẻ khôn ngoan, thông thái, Cha lại tỏ cho những kẻ bé mọn hay. Vâng, lạy Cha, đó là quyết ư của Cha như vậy'” (Lc 10:21).

 

Do đó, “ai không có Thần Linh của Chúa Kitô, người đó không thuộc về Chúa Kitô” (Rm 8:9). Trái lại, “tất cả những ai được Thần Linh Thiên Chúa dẫn dắt đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14).

 

Bởi v́, một khi được Thần Linh Thiên Chúa hướng dẫn và huy động, con người sẽ có cùng một tinh thần, lời nói và việc làm như Chúa Giêsu Kitô và cũng sẽ như Người

làm đẹp ḷng Cha mọi đàng (x.Mt 3: 17,17:5).

 

 Bấy giờ, họ có thể nói: “Sự sống tôi đang sống đây không phải là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2:20), hay, nói cách khác, “đối với tôi, sống là Chúa Kitô” (Phil 1:21).

 

“Chúa Kitô sống trong tôi” hay “sống là Chúa Kitô” là do Thần Linh của Người trong chúng ta:  “Ta sẽ xin Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng An Ủi khác để ở cùng các con luôn măi. Thần Chân Lư mà thế gian không không thể chấp nhận Ngài, v́ họ

không thấy cũng như không biết Ngài, song các con biết Ngài, v́ Ngài ở với các con và ở trong các con. Thày không để các con mồ côi; Thày sẽ trở lại với các con. Một ít lâu

nữa thế gian sẽ chẳng c̣n xem thấy Thày, song các con vẫn thấy Thày, v́ Thày sống, các con cũng sẽ sống” (Gn 14:16-17,19).

 

Trên thực tế, Thần Linh Thiên Chúa đă hướng dẫn và huy động Chúa Kitô là để Người

thể hoàn toàn “sống động v́ Chúa và cho tha nhân”.

 

Cuộc đời trần gian của Chúa Kitô là ǵ, nếu không phải là để làm theo ư Đấng đă sai Người, tức là Người chỉ sống “v́ Chúa”, Cha của Người. Mà, ư của Đấng đă sai Người là ǵ, nếu không phải là muốn Người “không được làm hư một sự ǵ”, tức là muốn Người phải “hy sinh mạng sống ḿnh đi” (Gn 10:17-18), nghĩa là muốn Người sống “cho tha nhân”.

 

Bởi thế, ai có Thần Linh Thiên Chúa cũng là Thần Linh của Chúa Kitô, th́ sẽ sống trước hết cho Chúa và tha nhân, tức là hoàn toàn bỏ sự sống ḿnh v́ Chúa (x.Mt 16:25), (bằng không, sẽ không thể nào “v́ Chúa” và “cho tha nhân” được cả).

 

Tức là, một việc làm trong Thần Linh và bởi Thần Linh Thiên Chúa phải là một việc:bỏ bản thân, v́ Thiên Chúa và cho tha nhân. Do đó, một việc hoàn hảo nên có đủ

ba chiều này. Chỉ nhắm vào một chiều, việc làm của con người có thể chưa được coi là thiện hảo.

 

Chẳng hạn những trường hợp điển h́nh sau đây:

 

Trường hợp không bỏ ḿnh và không cho tha nhân mà chỉ v́ Chúa.

 

Đó là trường hợp của thánh Phêrô, sau khi nghe Chúa Kitô lần đầu tiên tiết lộ cho biết về cuộc tử nạn của Người, v́ ḷng yêu Thày, (phải hiểu, trong đó có cả ḷng yêu ḿnh, v́ không muốn mất Thày) “đă kéo Người ra một bên và can gián Người rằng: 'Làm sao

lại có thể như vậy được, thưa Thày! Thiên Chúa lỡ nào lại làm như vậy cho Thày ư!’” (Mt 16:22).

 

 

V́ thế, hậu quả là, thánh Phêrô đă bị chính Đấng mà ngài yêu kính (nên ngài đă chân thành và mạnh dạn can gián Người) quở trách thậm tệ: “Satan, hăy xéo đi! Ngươi chỉ làm cớ cho Ta vấp phạm. Ngươi chẳng biết phán đoán theo Thiên Chúa ǵ cả, mà chỉ rặt theo loài người thôi” (Mt 16:23).

 

Trường hợp cho tha nhân mà lại không bỏ ḿnh và không v́ Chúa.

 

Đó là trường hợp của Caipha, trước nỗi lo sợ của cả hội đồng giáo quyền Do Thái: “Chúng ta phải làm ǵ với con người làm đủ mọi sự lạ này đây? Nếu chúng ta cứ để như vậy, cả thế gian sẽ đổ xô vào tin hắn mất. Chẳng những thế, người Roma sẽ phá

hủy nơi thánh và dân tộc của chúng ta nữa ḱa” (Gn 11:47-48), đă phát biểu bằng một phán quyết tối hậu: “Qúi vị không biết ǵ cả! Quí vị không thể nghĩ rằng thà một người

chết thay cho toàn dân hay sao?” (Gn 11:49-50).

 

Dựa vào phán quyết quả thực khôn ngoan đối với thành phần vốn “ghen ghét Người” (Mt 27:18) đó, hậu quả đương nhiên xẩy ra là: “Kể từ ngày đó trở đi, họ đă hoạch định trừ diệt Người” (Mt 11:53).

 

Tóm lại, dấu hiệu chứng thực một việc làm hoàn toàn bỏ bản thân, v́ Thiên Chúa và cho tha nhân, tức được Thần Linh Thiên Chúa làm chủ, hướng dẫn và huy động,

đó là: “không thể bị hủy diệt” (TĐCV 5:39).

 

Chính v́ thế, dù bị bắt bớ và cấm cách, thế gian vẫn không làm ǵ được trước các chứng nhân đích thực và sống động của Thiên Chúa là các tông đồ "đầy Thánh Linh" (TĐCV 2:4,4:31): “Quí ngài thử nghĩ xem, chúng tôi nên nghe lời qúi ngài hơn hay nghe lời Thiên Chúa hơn. Chắc chắn chúng tôi không thể nào không loan báo điều chúng tôi đă

nghe và đă thấy” (TĐCV 4:19-20). Trái lại, c̣n hơn thế nữa, “họ tràn đầy Thánh Linh và tin tưởng tiếp tục rao giảng Lời Thiên Chúa” (TĐCV 4:31), đến nỗi, “các tông đồ

tràn đầy vui sướng khi các ngài xứng đáng chịu bạc đăi v́ tôn Danh (Thày)” (TĐCV 5:41).

 

Như vậy,

 

“Chu toàn ư Đấng đă sai và chu tất công việc của Ngài trao” là “lương thực hằng ngày” của Chúa Giêsu cũng như của các tông đồ và của mọi chi thể thuộc nhiệm thể Giáo Hội của Người là như thế:

 

“Chúng con nguyện Ư Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”