ĐỜI CẦU NGUYỆN

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Chương Bảy

 

CHỚ SA CÁM DỖ

 

 

Chi tiết thứ nhất trong câu văn cuối cùng của kinh Chúa Dạy là: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”

 

Chính Người, một khi nhập thế, nơi mà “tội lỗi cùng với sự chết đă đột nhập” (Rm 5:12), nơi mà v́ thế nó đă “thuộc về Ác thần” (1Gn 5:19) và “không thể nào không có gương mù” (Mt 18:7), cũng “đă chịu thử thách” (DT 2:18). Mà, thử thách đầu tiên

và điển h́nh của Người khi Người mới xuất đầu lộ diện, đó là lúc Người “được Thần

Linh thúc động đi vào sa mạc bốn mươi ngày, ở đó Người đă bị ma qủi cám dỗ” (Lc 4:1-2).

 

Nói đến cám dỗ là người ta nghĩ ngay đến ba điều: ma qủi, mưu đồ xấu xa của chúng và sự sa ngă phạm tội mất ḷng Chúa của con người.

 

Cám Dỗ: “ma qủi”.

 

Phải chăng ma qủi nói chung và Satan nói riêng là tác nhân của tất cả mọi cám dỗ xẩy ra trên đời này?

 

Thật ra, loài người cũng có thể cám dỗ nhau để làm điều xấu được. Thế nhưng, ngay từ ban đầu, lúc mà loài người c̣n đang ở trong sự công chính nguyên thủy, chưa biết đến tội lỗi là ǵ, th́ đă có cám dỗ rồi. Do đó, nếu cám dỗ là mưu đồ xấu xa th́, như trái xấu sinh ra bởi cây xấu (x.Mt 7:17), nó chỉ phát xuất từ một nguồn gốc xấu mà thôi. Vậy, nguồn gốc của cám dỗ là ǵ, nếu không phải là Satan, “tên cám dỗ cả thế gian” (KH

12:9), hắn là kẻ “không có sự thật trong ḿnh. Láo khoét là miệng lưỡi của hắn; hắn là kẻ dối trá và là cha của sự điêu ngoa" (Gn 8:44).

 

Phần con người, sau khi đă sa ngă rồi, bản tính trở nên hư hoại v́ nguyên tội, bấy giờ, từ ḷng họ mới phát ra những điều xấu (x.Mt 15:19), những điều chẳng những làm cho chính họ trở nên ô nhơ (x.Mt 15:20), mà c̣n, một cách khách quan, dù họ không có ư cám dỗ ai, có thể làm hại cho kẻ khác bằng những gương mù của họ. "Thế gian không

thể nào tránh khỏi gương mù" (Mt 18:7) là thế.

 

Cám Dỗ: “mưu đồ xấu xa”

Phải chăng đă là cám dỗ đều là những mưu đồ xấu xa?

 

Thật ra, nếu chỉ là một mưu đồ xấu mà thôi, th́ chưa chắc đă là cám dỗ, chẳng hạn, mưu đồ hay ư định giết người, trộm cướp, tà dâm v.v. Do đó, một “mưu đồ xấu xa” phải có chủ ư làm cho người khác phạm tội mất ḷng Chúa nữa, mới gọi là “cám dỗ”. Không

ai lại nói “cám dỗ” làm điều thiện bao giờ, mà chỉ nói và thường nói “khuyến khích” hay “thúc giục” làm điều thiện mà thôi.

 

Như thế, cám dỗ có thể hợp bởi ba yếu tố: việc cám dỗ, ư cám dỗ và điều cám dỗ. “Việc cám dỗ” là tác động thực hiện những mưu mô cám dỗ của một chủ thể nào đó, như của ma qủi chẳng hạn. “Ư cám dỗ” là chủ ư làm cho người khác sa ngă phạm tội mất ḷng Chúa. Và, “Điều cám dỗ” là những mồi mà kẻ cám dỗ muốn dùng để làm cho đối phương có thể dễ dàng sa ngă phạm tội mất ḷng Chúa. Riêng về “điều cám dỗ” này, nhiều khi không hẳn là điều xấu, trái lại, c̣n là điều tốt nữa là đàng khác. Vấn đề “điều cám dỗ” này liên quan đến phần thứ ba của vấn đề cám dỗ sau đây.

 

Cám Dỗ: “sa ngă mất ḷng Chúa của con người”.

 

Phải chăng, một khi đă ư thức được sự dữ có thể làm mất ḷng Chúa, (tức tội lỗi), do

cám dỗ bày ra cho ḿnh, mà con người vẫn chiều theo hay làm theo nó th́ họ đă sa ngă phạm tội mất ḷng Chúa? Và, phải chăng, tất cả mọi tội lỗi con người phạm đều do bởi

đă “sa chước cám dỗ”?

 

Thế nhưng, tội là ǵ? Nếu không phải là điều làm mất ḷng Chúa. Và, phạm tội là ǵ? Nếu không phải là làm điều mất ḷng Chúa. Mà, “điều làm mất ḷng Chúa” là ǵ? Nếu

không phải là điều làm trái với ư muốn của Thiên Chúa.

 

Vậy, tất cả những ǵ, dù tốt lành phúc lợi mấy đi nữa, nếu trái với ư của Thiên Chúa muốn cho ḿnh làm, mà ḿnh, dù biết theo lương tâm của ḿnh, cũng không làm theo, th́ không phải là ḿnh đă làm mất ḷng Ngài hay sao, tức đă phạm tội hay sao?

 

Điển h́nh là trường hợp của Đức Maria khi được thiên sứ Gariel truyền tin Ngôi Lời nhập thể. Đặt trường hợp Đức Maria, dù biết được tỏ tường là ư Thiên Chúa muốn Người làm Mẹ Con Một của Ngài, mà Người lại cứ nhất định muốn giữ ḿnh đồng trinh là điều hoàn toàn tốt lành phúc lợi cho Người và đối với Người, th́ không phải là Người đă làm mất ḷng Chúa hay sao?

 

Nếu thật sự Đức Maria đă làm mất ḷng Chúa như vậy, th́ thiên sứ Gariel không phải là kẻ “cám dỗ” Người sa ngă phạm tội, v́ cả ư, lẫn việc và sứ điệp của thiên sứ hoàn toàn từ Thiên Chúa mà đến. Tuy thiên sứ không chịu trách nhiệm về việc làm mất

ḷng Chúa, giả sử, nếu có của Đức Maria ấy, song, xét cho cùng, Người cũng làm mất ḷng Chúa v́ bị chính ḿnh cám dỗ theo ư riêng tưởng như tốt nhất của ḿnh. Vậy, nói chung, hễ phạm tội đều là do đă “sa chước cám dỗ”.

 

Cám Dỗ: “những điều tốt lành phúc lợi”.

 

Phải chăng “những điều tốt lành phúc lợi” cũng có thể là những “điều cám dỗ” người

ta?

 

Thực tế cho thấy, ma qủi cũng có thể lợi dụng “những điều tốt lành phúc lợi” để cám

dỗ con người, nhất là những người lành, những người công chính, những người có lương tâm chân thật, những người vốn sợ “sa ngă phạm tội mất ḷng Chúa”, miễn là điều đó trở thành mồi ngon để hắn câu được cá người (x.Mt 4:19).

 

Trường hợp hắn cám dỗ bà Evà đang ở trong t́nh trạng công chính nguyên thủy, chưa hề biết đến tội lỗi là ǵ, là một thí dụ điển h́nh. Mồi ngon mà hắn nhử trước bà Evà là “sẽ được nên giống như Thiên Chúa là Đấng biết lành, biết dữ” (STK 3:5). Thật ra, điều “nên giống như Thiên Chúa là Đấng biết lành, biết dư”, tự bản chất, vốn là điều tốt, chứ không phải là điều xấu ǵ, điều mà bà Evà đă muốn bằng cách hái và ăn trái cây Chúa cấm. Tuy nhiên, để đạt mục đích tốt ấy, bà Evà đă dùng phương tiện xấu là

ăn cây Chúa cấm, trái với ư muốn của Thiên Chúa, nên đă làm mất ḷng Ngài, đúng như mưu mô cám dỗ của Satan.

 

Cám Dỗ: xẩy ra một cách khách quan.

 

Phải chăng, v́ “những điều tự nhiên tốt lành” có thể là mồi ngon cám dỗ người ta, mà người ta đôi khi vô t́nh lại trở thành tác nhân cám dỗ nhau một cách oan uổng?

 

Đó không phải là trường hợp của thánh Phêrô sau khi nghe Chúa Giêsu bắt đầu tiết lộ bí mật về việc Chúa phải chịu tử nạn và phục sinh hay sao (x.Mt 16:21)?

 

Nội dung câu nói của thánh Phêrô là có ư bênh vực và tỏ ra mến tiếc vị Thày chí tôn của ḿnh: “Thày ơi, việc ấy làm sao lại xẩy ra cho Thày được. Đời nào Thiên Chúa

lại để cho nó xẩy đến cho Thày!” (Mt 16:22). Thế mà, chỉ v́ câu nói nhiệt t́nh này của ḿnh, thánh Phêrô đă bị chính Thày trách mắng thậm tệ: “Satan, hăy xéo khỏi mặt Ta! Ngươi chỉ làm cớ cho Ta vấp phạm. Ngươi chẳng phán đoán theo Thiên Chúa ǵ

cả, mà chỉ phán đoán toàn là theo loài người thôi” (Mt 16:23).

 

Qua câu nói này của Chúa Giêsu, khách quan mà xét, tự nó đă có đầy đủ những yếu tố tạo nên “cám dỗ”, đó là: “Satan”, tác nhân cám dỗ; “chỉ làm cớ cho Ta vấp phạm”, mục đích cám dỗ; và, “chẳng phán đoán theo Thiên Chúa”, điều cám dỗ.

Tuy nhiên, v́ khuynh hướng “yêu tối tăm hơn ánh sáng” (Gn 3:19) của ḿnh, nhất là v́ “bản chất th́ yếu nhược” (Mc 14:38) của ḿnh, phải chăng con người cần “tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Mt 26:41). “Tỉnh thức” để giữ lương tâm chân thật

theo Thần Linh của Thiên Chúa “hướng dẫn vào sự toàn chân” (Gn 16:13), và, “cầu nguyện” để có ơn sức mạnh của Thiên Chúa.

 

“GIỮ LƯƠNG TÂM CHÂN THẬT”.

 

Thật vậy, con người sẽ sa ngă một cách dễ dàng, chỉ v́ tưởng bở, nhiều khi lại c̣n tưởng việc làm theo cám dỗ như thế là chân thật, là thiện hảo, là phúc lợi. Đúng

thế, con người chẳng những có lư trí để nhận biết sự chân thiện, nhưng, để khỏi bị lầm lạc và chủ quan theo phán đoán, t́nh cảm và tư lợi của họ, trong họ c̣n có cả lương tâm để soi dẫn cho họ biết đâu là những điều chân thiện thực mà họ phải chọn

và theo.

 

Lương tâm không phải là cây biết lành biết dữ mà Thiên Chúa đă trồng chung với cây sự sống Thánh Sủng ở giữa vườn địa đàng là nhân tính con người khi họ chưa phạm tội hay sao (x.STK 2:9)? Và, cũng không phải hay sao, v́ con người đă phạm đến lương tâm, tức đă ăn cây biết lành biết dữ này, mà họ đă phải chết như Thiên Chúa đă báo trước cho con người biết (x.STK 2:17). Như thế, khi con người phạm đến lương tâm của

ḿnh tức là họ đă phạm đến Thiên Chúa, là họ đă làm trái với ư muốn tối cao của Ngài.

 

Thực ra, với một tâm trí lành mạnh, con người khó mà có thể làm một điều ǵ trái với lương tâm c̣n ngay thật và được huấn luyện kỹ lưỡng của ḿnh. Có chăng, v́ quá đam mê, một lúc nào đó, con người có thể lấn át lương tâm bằng cách trấn an nó với

những lư lẽ vị kỷ tạm thời, (nhưng chủ quan vẫn cho là chính đáng), của ḿnh, để phạm tội, để thỏa măn con người tự nhiên của ḿnh, nhưng rồi, sau đó, nếu c̣n thiện chí, họ vẫn không thể phủ nhận được sự chân thiện của tiếng lương tâm và cũng không thể chối căi được việc làm gian ác của ḿnh, để rồi đâm ra hối hận và khổ tâm.

 

Do đó, muốn tránh khỏi lầm lạc mà cám dỗ có thể làm cho ḿnh sa ngă phạm tội mất ḷng Chúa, cách thứ nhất là làm sao giữ cho lương tâm của ḿnh luôn chân thật, tức luôn luôn làm theo những ǵ lương tâm chân thật khuyến dụ. Nếu mục đích của cám dỗ là làm cho con người sa ngă phạm tội mất ḷng Chúa, th́ mục đích hiện hữu của lương

tâm chân thật nơi con người là làm cho họ nhận biết ư muốn của Ngài để làm đẹp ḷng Ngài.

 

Thế nhưng, dù lương tâm của con người chân thật đến đâu đi nữa, một lúc nào đó, nó vẫn có thể bị lầm lạc và sa ngă phạm tội làm mất ḷng Chúa như thường. C̣n

lương tâm nào chân thật hơn lương tâm của nguyên tổ loài người khi c̣n ở trong t́nh trạng công chính nguyên thủy, chưa biết đến tội lỗi là ǵ? Thế mà, nguyên tội vẫn xẩy

ra là làm sao!

 

Lại nữa, dù sau khi sa ngă phạm tội mất ḷng Chúa, con người có thực sự ăn năn thống hối đi nữa, không phải v́ vậy mà lương tâm của họ có thể trở lại t́nh trạng trong sáng nguyên thủy. Cho dù lương tâm của con người nhờ họ ăn năn thống hối mà trở lại t́nh trạng trong sáng nguyên thủy đi nữa, cũng chưa chắc ǵ nó sẽ không “sa chước cám dỗ” nữa, như đă xẩy ra nơi nguyên tổ của họ.

 

Phải chăng, đó là lư do phép rửa của Gioan chỉ là “phép rửa thống hối” (TĐCV 13:24), không hoàn toàn và đầy đủ cho việc cứu rỗi con người khỏi quyền lực của Satan là “tên

cám dỗ cả thế gian” (KH 12:9), “tên sát nhân ngay từ ban đầu” (Gn 8:44)? Phải chăng, đó là lư do con người, để được thực sự và hoàn toàn cứu rỗi khỏi làm nô lệ cho Satan, họ phải được Đấng đă tỏ ḿnh ra “để phá hủy công việc của ma qủi” (1Gn 3:8) “rửa

trong Thánh Linh” (Gn 1:33) nữa?

 

Đúng thế, nếu không ai biết được ḿnh muốn ǵ bằng chính tâm linh của ḿnh, th́ con người cũng không thể nào tự ḿnh hoàn toàn và luôn luôn biết được Thiên Chúa muốn

ǵ để có thể làm theo ư Ngài, khỏi phải “sa chước cám dỗ”, làm mất ḷng Ngài, nếu không có chính Thần Linh của Ngài là Đấng “thấu suốt mọi sự, ngay cả những điều sâu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cor 2:10), những điều trổi vượt hơn tư tưởng của loài người

một trời một vực: “Tư tưởng của Ta không phải tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải đường lối của các ngươi. Trời cao hơn đất bao nhiêu, tư tưởng của Ta và đường lối của Ta cũng cao vượt của các ngươi như vậy” (Is 55:8-9).

 

ƠN SỨC MẠNH CỦA THIÊN CHÚA.

 

Thực tế cho thấy, cho dù con người biết được đâu là lành và đâu là dữ, thế mà, nhiều khi vẫn không thể tự nhiên mà lánh dữ và làm lành được. Để rồi, một khi biết được việc lành phải làm hay việc dữ phải tránh mà c̣n làm hay không tránh th́ không

phải là con người đă cố t́nh phạm tội hay sao? “Điều này có nghĩa là mặc dầu tôi muốn làm điều phải, vẫn có một luật ǵ đó sẵn có trong tôi khiến tôi làm điều sai quấy... Khốn cho thân tôi! Ai có thể cứu tôi thoát khỏi thân xác ở dưới quyền lực sự chết này?” (Rm 7:21,24). Con người cần ơn sức mạnh của Thiên Chúa để khỏi sa chước

cám dỗ là v́ thế.

 

Thêm vào đó, con người c̣n cần ơn sức mạnh của Thiên Chúa là v́, với bản tính đă bị hư đi theo nguyên tội của ḿnh, cám dỗ c̣n có thể phát xuất từ chính bản thân của con người. (Nếu con người có thể cám dỗ kẻ khác th́ cũng có thể cám dỗ chính ḿnh,

chẳng hạn khi lấy lư đánh lừa lương tâm để thỏa măn dục vọng).

Phải chăng, đó là lư do Chúa Giêsu đă nói: Nếu mắt hay tay nên dịp tội cho ngươi th́ hăy móc nó ra, chặt nó đi...(x.Mt 5:29-30). “Nên dịp tội cho ngươi” là ǵ, nếu không phải là đồng nghĩa với “nên chước cám dỗ cho ngươi”. “Một khi đam mê thai nghén th́ đẻ ra tội lỗi, và khi tội lỗi đă chín mùi th́ sinh ra sự chết” (Gia 1:13-15) là vậy.

 

Con người cần ơn sức mạnh của Thiên Chúa, nhất là v́, tác giả kiêm tác nhân chính yếu của cám dỗ là Satan và ma qủi, với nỗi uất hận trong ḷng bởi “đă bị quật nhào xuống đất” (KH 12:13), “mất chỗ trên trời của ḿnh” (KH 12:8), chúng “đă đi giao chiến với những kẻ giữ mệnh lệnh Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu” (KH 12: 17).  “Như sư tử gầm gừ ŕnh chực để ăn tươi nuốt sống” (1Ph 5:8), hắn sẽ vờn vờn con mồi ngon non yếu của hắn “như sàng gạo” (Lc 22:31) trong tay, loài tạo vật mà hắn đă

giết hại bằng miệng lưỡi “không có sự thật trong ḿnh” (Gn 8:44) của hắn, làm cho cả ṇi giống của họ sống trong quay cuồng quằn quại, không biết đâu mà đi, hay có muốn chạy cũng không có sức. Nghĩa là, con người ở dưới nanh vuốt của ma qủi th́ sống cũng như chết, mà sự chết về thể xác là tượng trưng và là hậu quả (x.STK 3:19).

 

Phải, ma qủi đă bắt được con mồi ngon là loài người “ngay từ ban đầu” (Gn 8:44). Và, đây là chiến thuật bắt mồi vô cùng kỳ diệu của nó “là cha sự dối trá” (Gn 8:44).

Chiến thuật này có tất cả là ba mưu chước cám dỗ như sau:

 

Mưu chước cám dỗ thứ nhất: ma qủi bao giờ cũng thu phục tâm trí con người bằng những ǵ tưởng như chân thiện nhất hợp với lương tâm của họ. Bởi v́, theo bản chất

tinh khôn của ḿnh, nó biết rằng, con người không bao giờ có thể tự nhiên làm ngược với lương tâm của họ, nếu không có lư lẽ xem ra chân thật và có tính chất thiện hảo.

 

Mưu chước cám dỗ thứ hai: ma qủi bao giờ cũng thu hút t́nh cảm con người bằng những ǵ tưởng như phúc lợi nhất, hợp với sở thích của họ. Bởi v́, cũng với khả năng tinh khôn của ḿnh, nó c̣n biết rơ rằng, theo tâm lư tự nhiên, con người luôn luôn yêu cái tôi hơn hết và trên hết mọi sự. Do đó, mặc dù nó luôn luôn phải trưng ra trước mặt con người

những ǵ xem như chân thiện nhất để họ có thể dễ dàng cho phép nó đến gần họ, nhưng, chắc ăn, nó c̣n phải luôn luôn dọn cho con người những điều có vẻ chân thiện hợp với ư thích và xu hướng của riêng mỗi người nữa. Bởi thế, nếu con người đă để cho nó tiến lại gần ḿnh bằng những lư lẽ có vẻ chân thiện rồi, đến khi thấy những sự chân thiện đó lại có lợi cho ḿnh, bấy giờ, không cần bị ma qủi trực tiếp lôi kéo, họ cũng sẽ tự động tiến lại gần nó và nhắm mắt đi theo nó một cách say mê.

 

B́nh thường, trong con người, có ba điều hợp với bản tính tự nhiên của họ nhất, có thể trở nên nội công cho ma qủi trong việc cám dỗ con người, đó là, “đam mê của xác thịt (tức nhục dục), đam mê của con mắt (tức nhăn dục), và cuộc sống hoang tuồng (tức danh vọng)” (1Gn 2:16). Dục vọng là những ham muốn thỏa măn nhục thể. Nhăn vọng là những ham muốn đầy đủ vật chất. Và, danh vọng là những ham muốn nổi nang tăm tiếng.

 

Mưu chước cám dỗ thứ ba: ma qủi bao giờ cũng thỏa măn con người bằng những ǵ thích hợp nhất, đúng với trực giác của họ. Ma qủi, dù không có xác thịt như con người, song, cũng v́ thế mà tinh khôn hơn con người, nó biết rằng, dù bề trong, con người đă nghe lời nó và chấp nhận nó, dầu sao, bề ngoài, nhất là đối với những con người c̣n sống theo lương tâm, c̣n có Ơn Nghĩa Chúa trong ḿnh, c̣n sợ tội, họ sẽ không dễ dàng từ bỏ mọi sự một lúc để hoàn toàn theo nó. Nên, đối với thành phần này, nó cũng cần phải làm cho họ thấy những chứng cớ cụ thể hay những chứng lư uy tín nữa mới, mới hoàn toàn chiếm được họ.

 

Điển h́nh cho ba mưu chước cám dỗ của ma qủi này là trường hợp nó cám dỗ bà Evà trong vườn địa đàng và Chúa Giêsu trong sa mạc.

 

Ma qủi cám dỗ bà Evà (x.STK 3:1-6):

 

Trước hết, nó nhắc lại ư hướng có tính cách chân thiện của Thiên Chúa: “Có phải Thiên Chúa đă thực sự cấm các ngươi không được ăn bất cứ cây nào trong vườn chăng?” (STK 3:1). Chứ nó không đột ngột xui bà ăn trái cây Chúa cấm ngay, kẻo bà là người vẫn nhớ lời Thiên Chúa dặn: “Chúng tôi có thể ăn bất cứ cây nào trong vườn, trừ cây ở giữa vườn th́ Thiên Chúa đă dặn rằng 'ngươi không được ăn hay sờ đến, kẻo chết” (STK 3:2-3), biết được bộ mặt giả dối đến cám dỗ của nó mà xa tránh nó.

 

Sau đó, khi đă đến gần được bà Evà, v́ bà đă chịu đối thoại với nó, nó bắt đầu dùng

chính những điều chân thiện vừa rồi để tiến sâu vào chính cái tôi của bà: “Các ngươi làm sao mà chết được! Không đâu, Thiên Chúa đă biết rơ rằng, lúc mà các ngươi ăn vào, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ giống như Thiên Chúa, Đấng biết

lành, biết dữ” (STK 3:4-5).

 

Phần bà Evà, một đàng v́ nghe ma qủi nói những điều chí lư lại hợp với những ǵ bà vốn xu hướng về, đó là: “muốn nên khôn ngoan” (STK 3:6), đàng khác, bề ngoài,

chính v́ sau khi nghe những ǵ hợp với ư muốn của ḿnh rồi, (trước đó th́ không), bà lại “thấy rằng cây ăn ngon và lại đẹp mắt... Nên bà đă hái ít trái mà ăn” (STK 3: 6). Thế là, v́ bị lừa, bà Evà đă “sa chước cám dỗ”, làm phản lại ư muốn của Thiên Chúa,

“tự nguyện thực hiện ư muốn của ma qủi” (Gn 8:44).

 

Ma qủi cám dỗ Chúa Giêsu (x.Mt 4:1-11):

 

Đối với bà Evà, ma qủi đă nhử hai trong ba miếng mồi một lúc, đúng với tâm lư tự nhiên của bà, đó là nhăn vọng (ham ước đầy đủ) và danh vọng (ham ước nổi nang): nhăn vọng ở chỗ “muốn nên khôn ngoan” và danh vọng ở chỗ “giống như Thiên Chúa”. C̣n, đối với Chúa Giêsu, Satan đă nhử Người ba lúc ba miếng mồi khác nhau, đi từ

ngoài vào trong, v́ hắn không biết được Người thích ǵ và cần ǵ. Miếng mồi thứ nhất hạ đẳng nhất, khêu gợi nhu cầu thỏa măn ăn uống, v́ Người đang đói; miếng mồi thứ

hai, to hơn và ngon hơn, khêu gợi ḷng tham muốn đầy đủ những sự thế gian; và, miếng mồi thứ ba, khêu gợi nổi nang trong việc thử thách Thiên Chúa.

 

Tuy nhiên, trong việc cám dỗ Chúa Giêsu, v́, Satan biết rằng, hắn không thể đến

gần Người được, không dễ ǵ mà quyến dụ được Người, làm Người chú ư, bằng những

khêu gợi từ từ, như đối với bà Evà. Do đó, hắn đă thực hiện chính sách đốt giai đoạn,

từ thu phục tâm trí, sang thu hút t́nh cảm, đến thỏa măn trực giác, cả ba đă gồm lại thành một. Đây là chiến lược đốt giai đoạn của hắn khi cám dỗ Chúa Giêsu mỗi

khi nhử Người một miếng mồi: "Nếu mà (thu phục tâm trí) ..., th́ hăy (thu hút t́nh cảm) ..., bởi v́ (thỏa măn trực giác)".

 

Đối với Chúa Giêsu, ma qủi đă hoàn toàn bị thảm bại. Tuy nhiên, với những miếng mồi và mưu chước này, chúng có thể dễ dàng làm cho bất cứ một ai, dù là thánh nhân, cũng không thể nào không “sa chước cám dỗ” của nó, nếu không luôn luôn giữ lương tâm chân thật trong Thần Linh của Thiên Chúa, tức luôn luôn tỉnh thức, và không có ơn

trợ lực đặc biệt của Chúa, nhờ việc hằng cầu nguyện.

 

Điển h́nh nhất là trường hợp của các thánh tông đồ, những vị đă được chính Chúa Giêsu kén chọn, được sống kề bên Người, nhất là được Người huấn luyện để có thể làm chứng về Người trong vai tṛ giữ ch́a khóa Nước Trời, phần các ngài lại c̣n thề quyết sống chết với Người nữa (x.Mt 26:35), thế mà, chỉ v́ “không tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14:37), khi Người bị bắt, “tất cả đă bỏ Người mà tẩu thoát” (Mc 14:50).

 

Bởi thế, khi nguyện với Cha trên trời: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, chúng ta cũng có ư nguyện cùng Ngài rằng “xin cho chúng con biết tỉnh thức và cầu

Nguyện” vậy.