|
CHÚA NHẬT
THỨ II MÙA VỌNG (A)
BÀI ĐỌC I: Is 11:1-10
“Chúa lấy sự công minh mà xét xử
người nghèo khó”
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày
ấy, từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên bông hoa. Trên
bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông
suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho
Ngài biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không
lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy sự công minh mà xét xử những người
nghèo khó, và lấy ḷng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở. Ngài sẽ
dùng lời như gậy đánh người áp chế và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác.
Ngài lấy đức công b́nh làm dây thắt lưng và lấy sự trung tín làm đai lưng. Sói
sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; ḅ con, sư tử và chiên sẽ ở
chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Ḅ con và gấu sẽ sẽ ăn chung một
nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như ḅ đều ăn cỏ khô,
trẻ con c̣n măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc
tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào
khắp núi thánh của Ta. Bởi v́ thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa như nước
tràn đầy đại dương. Ngày ấy gốc Giêsê đứng lên như cờ hiệu cho muôn dân. Các dân
sẽ khẩn cầu Ngài và mộ Ngài sẽ được vinh quang.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Sự công chính và nền ḥa b́nh viên măn sẽ triển nở trong triều đại người.
1.
Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự
công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh và phân xử
người nghèo khó cách chính trực.
2.
Sự công chính và nền ḥa b́nh viên măn sẽ triển nở trong triều đại
người cho tới khi mặt trăng không c̣n chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển
nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.
3.
V́ người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu
người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu
thốn, và cứu thoát mạng sống người cùng khổ.
4.
Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người c̣n tồn tại lâu dài như
mặt trời. V́ người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca
khen người.
BÀI ĐỌC II: Rom 15:4-9
“Chúa Kitô cứu rỗi hết mọi người”
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Anh
em thân mến, những ǵ đă viết ra là có ư để giáo huấn chúng ta, hầu nhờ Thánh
Kinh thêm sức an ủi, chúng ta được cậy trông. Xin Thiên Chúa nguồn kiên tâm và
an ủi, ban cho anh em biết thông cảm với nhau theo gương Chúa Giêsu Kitô, để anh
em đồng thanh tôn vinh Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. V́ thế, anh em
hăy tiếp rước nhau như chính Chúa Giêsu đă tiếp nhận anh em để làm rạng danh
Thiên Chúa. V́ chúng tôi quả quyết với anh em: v́ để chứng tỏ sự chân thật của
Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đă phục vụ những người chịu phép cắt b́, hầu xác nhận
lời hứa cùng các tổ phụ: C̣n Dân Ngoại, họ tôn thờ Thiên Chúa v́ ḷng nhân từ
Người, như lời chép rằng: “V́ vậy lạy Chúa, tôi sẽ cao rao Chúa và sẽ ca tụng
danh Chúa giữa các Dân Ngoại”.
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. -- Hăy dọn đường Chúa, hăy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và
mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. -- Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 3:1-12
“Hăy ăn năn thống hối, v́ nước trời
gần đến”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêô.
Ngày
ấy, Gioan Tẩy Giả đến giảng trong hoang địa xứ Giuđêa rằng: “Hăy ăn năn thống
hối, v́ nước trời gần đến. Chính Người là Đấng mà Tiên tri Isaia đă tiên báo: Có
tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hăy dọn đường Chúa, hăy sửa đường Chúa cho ngay
thẳng”. Bởi v́ chính Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn
châu chấu và uống mật ong rừng. Bấy giờ dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và
các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa do tay
người trong sông Giođan. Thấy có một số đông người biệt phái và văn nhân cũng
đến xin chịu phép rửa, th́ Gioan bảo rằng: “Hỡi ṇi rắn độc, ai bảo các ngươi
trốn lánh cơn thịnh nộ ḥng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hăy làm việc lành cho
xứng với ḷng thống hối; chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng ta là Abraham. V́
ta bảo cho các ngươi hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những ḥn đá bảo
nên con cái Abraham. Đây cái ŕu để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái
tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, để
các ngươi được ḷng sám hối: c̣n Đấng sẽ đến sau tôi có quyền năng hơn tôi và
tôi không đáng xách giầy Người. Chính Đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh
Thần và lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho,
c̣n rơm th́ đốt đi trong lửa không hề tắt”.
Phúc Âm của Chúa.
Chia Sẻ Lời Chúa
“Hăy cải thiện đời sống! Triều đại Thiên Chúa đă đến”
Nếu chủ đề của Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm A tuần
trước là “Hăy leo lên núi Chúa, tới nhà của Thiên Chúa Giacóp” , mà “leo lên núi
Chúa”, như bài chia sẻ tuần trước cho thấy, là “hăy loại trừ những việc làm tối
tăm” theo lời khuyên của Thánh Phaolô trong bài đọc hai tuần trước, chúng ta mới
có thể gặp được Chúa Kitô, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, th́ lời kêu gọi của
tiên tri Isaia trong bài đọc một tuần trước đă nên trọn nơi lời kêu gọi của
Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay: “Hăy cải thiện đời sống! Triều đại
Thiên Chúa đă đến”. Căn cứ vào mối liên hệ sâu xa nơi hai lời kêu gọi hết sức
tương hợp với nhau này, một trong Cựu Ước và một trong Tân Ước, chúng ta có thể
chuyển dịch ư nghĩa của hai lời mời gọi này như sau: “Hăy leo lên núi Chúa” tức
là “hăy cải thiện đời sống”, và “tới nhà của Thiên Chúa Giacóp” tức là “Triều
đại Thiên Chúa đă đến”.
Thật vậy, như bài chia sẻ tuần trước đă nhận định, theo tiến tŕnh cứu độ, Mùa
Vọng là thời điểm trông đợi Chúa Kitô đến cứu thế, song theo ư nghĩa phụng vụ,
Mùa Vọng là thời điểm cảm nghiệm thần linh, cảm nghiệm Đấng đă thực sự đến trong
thế gian và không ngừng ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế, bởi vậy Mùa Vọng của
Giáo Hội Chúa Kitô cũng hướng về biến cố Chúa Kitô lại đến trong vinh quang. Thế
nhưng, làm sao chúng ta có thể cảm nghiệm thần linh, có thể thực sự nhận biết
Chúa Giêsu Kitô là Lời Nhập Thể, là Thiên Chúa Làm Người, cho dù Người có đang ở
với mỗi người chúng ta bằng Thánh Sủng, và có ở cùng Giáo Hội bằng Thần Linh của
Người, nếu chúng ta không “leo lên núi Chúa”, tức không “cải thiện đời sống”.
Bởi v́, “nhà của Thiên Chúa Giacóp” ở trên ngọn của “đỉnh núi cao nhất”, nơi
chúng ta “thuộc về hạ giới” (Jn 8:23) không thể tới được, thậm chí không thể
thấy được, nếu chúng ta không muốn hay không chịu khó “leo lên núi Chúa”. Thật
vậy, “nhà của Thiên Chúa Giacóp” đây là ǵ, nếu không phải là nhân tính của Đức
Giêsu Kitô, Thiên Chúa Làm Người, một ngôi nhà không phải do tay người ta làm ra,
mà là do chính Thiên Chúa, “là do Chúa Thánh Thần”, như thiên thần báo mộng cho
Thánh Giuse biết trong Phúc Âm của Chúa Nhật Thứ Tư Năm A Mùa Vọng hai tuần tới
đây. Nếu “Thánh Thần sẽ xuống trên trinh nữ và quyền phép Đấng Tối Cao sẽ bao
phủ trinh nữ; bởi thế trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”, như
Phúc Âm Thánh Luca tŕnh thuật ở đoạn 1 câu 35, th́ quả thực “nhà của Thiên Chúa
Giacóp”, một ngôi nhà đă được dựng lên bởi “quyền phép Đấng Tối Cao”, chính là
ngôi nhà đă được xây cất ở trên ngọn của “một đỉnh núi cao nhất vượt trên các
ngọn đồi”. Và nếu “trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” đây
chính là Đấng, cũng theo lời thiên sứ cho biết ở Biến Cố Truyền Tin trong Phúc
Âm Thánh Luca đoạn 1 câu 32-33: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu
Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời và triều đại Người
sẽ vô tận”, th́ một khi “nhà của Thiên Chúa Giacóp” được xây cất trên ngọn của
“đỉnh núi cao nhất” bấy giờ cũng là lúc “Triều đại Thiên Chúa đă đến”, như lời
Gioan Tiền Hô loan báo trong bài Phúc Âm hôm nay.
Thế nhưng, nếu thực sự “Triều đại Thiên Chúa đă đến”, hay nếu Thiên Chúa Đă Làm
Người, tại sao không ai trong dân Do Thái biết, không ai thấy, ngoại trừ một số
rất hiếm, như tư tế Simêon và nữ tiên tri Anna như được Phúc Âm theo Thánh Luca
thuật lại ở đoạn 2 câu 28-38? Phải chăng v́ “nhà của Thiên Chúa Giacóp” này xây
trên “đỉnh núi cao nhất”, hết sức khó thấy. Đúng thế, Thiên Chúa Nhập Thể là một
mầu nhiệm, do đó, nếu không có ơn Chúa đặc biệt, con người không thể nào nhận ra
Người, dù Người có thực sự ở giữa họ, như lời Tiền Hô Gioan khẳng định với dân
Do Thái ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26: “Có một Đấng ở giữa các người mà
các người không biết”. Vậy mà tại sao Gioan Tiền Hô lại biết và loan báo cho dân
chúng biết, trong khi chính ngài đă thẳng thắn tuyên bố với dân chúng trong Phúc
Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 31 rằng: “Thú thực, tôi không biết Người, mặc dù tôi
đến lấy nước mà rửa để Người có thể tỏ ḿnh ra cho dân Yến Duyên”? Trong khi
tuyên bố “thú thực, tôi không biết Người” như thế, trong bài Phúc Âm hôm nay,
Gioan Tiền Hô lại nói rất rơ về thân phận và vai tṛ của “Đấng đến sau” ḿnh. Về
thân phận của Đấng “tôi không biết”, Gioan Tiền Hô tiết lộ: “Tôi lấy nước mà rửa
cho các người hoán cải, nhưng Đấng đến sau tôi là Đấng quyền thế hơn tôi. Tôi
không đáng xách dép cho Người”; về vai tṛ của Đấng “tôi không biết”, Gioan Tiền
Hô cũng đă nói rơ: “Người là Đấng sẽ rửa các người trong Thánh Thần và trong lửa…
Người sẽ dọn sạch sân lúa của Người, thóc th́ Người thu vào kho, c̣n rơm th́
Người cho vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Quả thực Đấng “tôi không biết” của
Gioan Tiền Hô đă đến “rửa trong Thánh Thần và trong lửa”: Người đă “rửa trong
Thánh Thần”, qua việc Người “thổi hơi” trên các tông đồ sau khi sống lại từ
trong kẻ chết, để các vị “nhận lấy Thánh Thần”, như Phúc Âm theo Thánh Gioan
thuật lại ở đoạn 20 câu 22; và Người cũng đă “rửa trong lửa”, qua biến cố “những
lưỡi như lửa xuất hiện tản ra đậu trên đầu mỗi một vị. Tất cả đều được đầy Thánh
Thần. Các vị bắt đầu nói tiếng lạ và hiên ngang rao giảng theo Thần Linh thúc
đẩy”, như được Thánh Kư Luca thuật lại trong Sách Tông Vụ ở đoạn 2 câu 3.
Phúc Âm cho thấy khi Gioan Tiền Hô đang kêu gọi dân Do Thái “cải thiện đời sống”
và làm phép rửa thống hối cho họ ngài chưa thực sự tận mắt thấy Đấng “tôi không
biết”, thậm chí cho đến lúc thánh nhân làm phép rửa cho Người, và thấy được
những dấu chứng tỏ và chứng thực về “Đấng đến sau” ḿnh, như ngài cho biết trong
Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 2 câu 32-34: “Tôi đă thấy Thần Linh như chim bồ câu từ
trời xuống đậu trên Người. Tuy nhiên, tôi không biết Người. Đấng đă sai tôi lấy
nước mà làm phép rửa đă bảo tôi rằng ‘Khi nào ngươi thấy Thần Linh xuống và đậu
trên ai th́ người ấy là Đấng rửa trong Thánh Thần’. Nay tôi đă tận mắt thấy và
làm chứng ‘Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn’”. Tuy nhiên, theo Phúc Âm Thánh
Mathêu ở đoạn 3 câu 13 và 14, ngay trước khi Đấng “tôi không biết” của Gioan
Tiền Hô chịu phép rửa bởi ngài, thánh nhân h́nh như đă linh cảm được Người chính
là “Đấng đến sau” ḿnh rồi, nên thánh nhân đă từ chối làm phép rửa cho Người:
“Tôi phải được Ngài rửa cho mới đúng, chứ đâu có chuyện Ngài lại đến xin tôi!”.
Vấn đề ở đây là tại sao Gioan và chỉ có một ḿnh Gioan bấy giờ linh cảm thấy Vị
Thiên Chúa Làm Người trước khi làm phép rửa cho Người, và chẳng những nhận ra Vị
Thiên Chúa Làm Người mà c̣n làm chứng cho Vị Thiên Chúa Làm Người này sau khi
làm phép rửa cho Người, trong khi đó, đám dân chúng đông đảo đang kéo đến với
thánh nhân, gồm có cả thành phần thông luật, thông Kinh Thánh, như phái
Pharisiêu và Sađucê trong bài Phúc Âm hôm nay, không hề nhận ra Người?
Vẫn biết, nguyên do trước hết và trên hết khiến cho Gioan Tiền Hô có thể linh
cảm thấy và nhận ra Vị Thiên Chúa Làm Người là v́, theo thánh nhân nói, như vừa
được trích dẫn, “Đấng đă sai tôi lấy nước mà làm phép rửa đă bảo tôi”, thế nhưng,
Đấng sai thánh nhân đến “lấy nước mà làm phép rửa” đây là ai? Vào lúc nào? Tại
đâu? Sao thánh nhân lại tin vào Đấng ấy? Không ai biết, và chính ngài cũng không
tiết lộ một tí ǵ về những chi tiết này. Về vấn đề nguồn gốc sứ vụ của Gioan
Tiền Hô đây cũng đă được Chúa Giêsu đặt ra cho thành phần trưởng tế và kỳ lăo
lănh đạo trong dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 21 câu 24 thế này: “Phép
rửa của Gioan bởi đâu mà có?” Nhưng họ không trả lời được, nói rơ hơn, họ không
muốn trả lời, hay nói chính xác hơn, họ không dám trả lời, như Phúc Âm theo
Thánh Mathêu cùng đoạn tiếp tục thuật lại như sau: “Nếu chúng ta đáp là bởi
‘thần linh’ th́ hắn sẽ vặn chúng ta rằng ‘thế th́ tại sao các người không tin
vào phép rửa này?’ Bằng nếu chúng ta bảo bởi ‘loài người mà thôi’, chúng ta
không thể nào lại không sợ dân chúng, v́ toàn thể dân chúng đều coi Gioan như là
một vị tiên tri vậy”. Đến đây, qua sự kiện thành phần lănh đạo dân Do Thái bấy
giờ lập luận để giải đáp về nguồn gốc phép rửa của Gioan, chúng ta mới thấy được
lư do chủ quan tại sao Gioan Tiền Hô có thể tự ḿnh linh cảm thấy “Đấng đến sau”
khi vừa thấy Người đến xin thánh nhân làm phép rửa cho, trước khi thánh nhân
nhận ra Người căn cứ vào chính mạc khải từ “Đấng đă sai tôi lấy nước mà làm phép
rửa”.
Thật vậy, nếu lư do dân Do Thái nói chung và thành phần lănh đạo dân chúng là
Hội Đồng Do Thái bấy giờ nói riêng không nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai,
cho dù họ đă tận tai nghe lời Người giảng dạy vô cùng khôn ngoan cũng như đă tận
mắt chứng kiến các phép lạ Người làm, chỉ v́ họ muốn chối bỏ sự thật, không muốn
chấp nhận sự thật, th́ lư do chủ quan khiến Gioan Tiền Hô cảm nhận được ngay Vị
Thiên Chúa Làm Người, đó là v́ thánh nhân đă sống trong sự thật và t́m kiếm sự
thật. Do đó, cho dù “toàn thể dân chúng” có trọng vọng thánh nhân “như một vị
tiên tri”, thậm chí tưởng ngài là “Đấng Thiên Sai” (xem Jn 1:25), thánh nhân đă
thành thực tuyên bố: “Tôi không phải là Đấng Thiên Sai” (Jn 1:20). V́ sống trong
sự thật như thế, nên có lần nghe thấy các môn đồ của ḿnh nói đến sự kiện dân
chúng kéo tới xin Chúa Giêsu làm phép rửa cho đông hơn thánh nhân (xem Jn 3:26),
thánh nhân liền nói: “Ngài phải được nổi nang hơn c̣n tôi cần phải lu mờ đi” (Jn
3:30). Gioan Tiền Hô tự ḿnh chẳng những đă sống trong sự thật như vậy, mà c̣n
mạnh mẽ rao giảng sự thật và cương quyết làm chứng cho sự thật nữa. Thánh nhân
đă mạnh mẽ rao giảng sự thật, ở chỗ, như Phúc Âm hôm nay thuật lại, khi ngài lên
tiếng khiển trách “nhiều người Pharisiêu và Sađucê đến xin chịu phép rửa: ‘Đừng
có mà tự phụ cho rằng Abraham la cha của ḿnh. Tôi bảo cho các người hay Thiên
Chúa có thể biến chính những ḥn đá này thành con cái Abraham cũng được… Cây nào
không sinh hoa kết trái sẽ bị chặt đi và quặng vào lửa”; chưa hết, thánh nhân
chẳng những rao giảng mà c̣n hiên ngang “làm chứng cho sự thật” (Jn 5:33) nữa, ở
chỗ, ngài đă lên tiếng phản đối việc hôn nhân bất chính của Hêrôđê và v́ thế đă
bị mất đầu, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 14, câu 4 và 11.
Vâng, cho dù Thiên Chúa Làm Người có thực sự tỏ ḿnh ra, tỏ ḿnh ra hoàn toàn
nhất, đích thực nhất, hiển nhiên nhất nơi Con Người Giêsu Nazarét, và cho dù con
người có được soi động cho biết những dấu hiệu đích thực để có thể chắc chắn
nhận ra Ngài, nhận ra “Sự Thật”, chẳng hạn như trường hợp Gioan Tẩy Giả qua
“Đấng đă sai (ngài) lấy nước mà làm phép rửa”, hay như trường hợp của thành phần
lănh đạo dân Do Thái trước vấn nạn Chúa Giêsu đặt ra cho họ về ngồn gốc phép rửa
của Gioan Tẩy Giả, tự ḿnh con người vẫn cần phải thành tâm t́m kiếm sự thật và
sống trong sự thật nữa mới có thể nhận ra Người. V́ Người đă quả quyết với
Philatô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 18 câu 37: “Lư do Tôi được sinh ra, lư do Tôi
đă đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai t́m kiếm sự thật th́ nghe
thấy tiếng Tôi”. Cho dù thành phần t́m kiếm sự thật này chưa gặp được Người là
chính “Sự Thật” (Jn 14:6), nơi họ cũng đă có sẵn tính chất là chiên của Người
rồi, và bởi thế họ đă có khả năng làm chiên của Người nữa, khả năng nghe được
tiếng chủ chiên của ḿnh, khả năng nghe được “Sự Thật”, nhận biết “Sự Thật” khi
được “Sự Thật” tỏ ḿnh ra cho, v́ Chúa Giêsu đă tuyên bố trong Phúc Âm Thánh
Gioan đoạn 10 câu 27 và 16: “Chiên Tôi th́ nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và
chúng theo Tôi”; “Tôi c̣n những chiên khác chưa thuộc về đàn này. Tôi phải dẫn
dắt cả chúng nữa, và chúng sẽ nghe thấy tiếng Tôi. Sẽ chỉ có một đàn chiên và
một chủ chiên”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu Mùa Vọng chẳng những là thời điểm đợi trông Chúa
Kitô đến lần thứ hai mà c̣n là thời điểm để Kitô hữu chúng ta cảm nghiệm được
thực sự Chúa Kitô đă đến rồi và đang ở nơi mỗi một người chúng ta bằng Thánh
Sủng cũng như ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế bằng Thần Linh của Người, và nếu
muốn thực sự cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa Làm Người này nơi mỗi người cũng như
trong Giáo Hội, Kitô hữu chúng ta cần phải như Gioan Tiền Hô sống trong sự thật,
mà Sự Thật lại chính là Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa Làm Người, vậy
sống trong sự thật phải chăng là tuyệt đối tin tưởng rằng Thiên Chúa thực sự đă
Làm Người, và v́ hoàn toàn tin tưởng nơi Vị Thiên Chúa Làm Người như vậy, Kitô
hữu chúng ta sẽ không dám sống ngược lại với Đường Lối Nhập Thể của Người là
khiêm nhượng, thanh bần, phục vụ và chịu đựng khổ đau, tóm lại, chúng ta luôn
phải biết “bỏ ḿnh đi và vác thập giá mà theo Thày” (Mt 16:24)?
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
DỌN ĐƯỜNG CHÚA ĐẾN
Trần Mỹ Duyệt
Theo Chúa là đi theo con đường khổ giá, vừa khó đi, lại
vừa chật hẹp. Do đó, dù dưới lăng kính nào đi nữa, khi nh́n vào đời sống đức tin
con người vẫn thấy có những ǵ trái ngược với bản năng và những đ̣i hỏi tự nhiên.
Việc tiết độ và hy sinh ấy tạo nên những thử thách và thánh giá. Với cái nh́n tu
đức và thần học, người ta gọi là một cuộc tử đạo liên tục trong đời sống người
Kitô hữu. Tuy nhiên, nếu ta uyển chuyển và tế nhị ứng dụng đời sống tâm linh với
cuộc sống hằng ngày bằng những khía cạnh có tính cách nhân bản và thích hợp hơn
với tâm lư, th́ cuộc sống ấy vẫn là một cuộc sống đẹp, nhẹ nhàng và lư tưởng.
Thí dụ, như khi viên thuốc bên ngoài có tẩm chút đường th́ vẫn dễ uống hơn.
Trong đời sống tâm linh, những hành động từ bỏ ḿnh, vác thập giá để theo Chúa
sẽ nhẹ nhàng và dễ dàng được chấp nhận, nếu ta lạc quan hướng tầm nh́n về điểm
tích cực là làm vinh danh Chúa, và chứng tỏ t́nh yêu ta đối với Ngài. Mặt khác
những thánh giá, hy sinh kia sẽ trở thành nặng nề, khó khăn hơn, nếu ta chỉ nghĩ
rằng nếu không làm những chuyện ấy, ta sẽ bị bỏ vào hỏa ngục, hoặc bị Chúa phạt…Do
đó, những ǵ Chúa muốn chúng ta sống trong tuần lễ thứ hai mùa Vọng, chính là
thái độ hoan hỷ, chuẩn bị đón mừng biến cố Giáng Trần của Chúa Con. Ngài đến để
đem lại b́nh an và ơn cứu độ cho muôn dân. Sựỉ chuẩn bị ấy căn cứ vào lời Thánh
Kinh là: “Hăy dọn đường Chúa, hăy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Is 40:3).
Đọc và suy ngắm Thánh Kinh trong những tuần này, chúng ta c̣n thấy thêm rằng,
con đường Chúa dùng để đến với nhân loại c̣n cần phải sửa chữa hơn thêm nữa.
Không chỉ phải bạt núi đồi, lấp đầy những hố sâu, uốn nắn thẳng chỗ khúc khuỷu
quanh co, hoặc san bằng những chỗ gồ ghề. Lư do dễ hiểu là con đường này được
chuẩn bị để đón tiếp Đấng Thiên Sai. Nhưng Chúa không đến với con người qua
những ngả đường tự nhiên, nhưng bằng ngả tâm linh và tinh thần. V́ thế sự chuẩn
bị đây phải hiểu là chuẩn bị bằng tinh thần và bằng đời sống tâm linh. Thánh
Phaolô qua tín hữu Rôma đă nhắn nhủ chúng ta rằng: “Đêm sắp tàn và ngày gần đến.
Chúng ta hăy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng” (Rom 13:12).
Chúng ta hăy “mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (Rom 13:14). Lần này, cũng với tín hữu
Rôma, Thánh nhân khuyên chúng ta đi vào những điểm tâm lư thực hành trong tinh
thần chuẩn bị, đó là việc thực thi tinh thần bác ái giữa anh chị em với nhau, và
đi xa hơn nữa bằng việc tiếp đón mọi anh chị em không cùng tôn giáo với ḿnh.
Thánh nhân viết: “V́ vậy anh em hăy tiếp nhận nhau như chính Chúa Giêsu đă tiếp
nhận anh em để làm rạng danh Thiên Chúa” (Rom 15:7), không những đem chúng ta
lại gần với Mầu Nhiệm Nhập Thể mà c̣n nâng cao chúng ta đến một tinh thần bác ái
cao cả mà chính v́ đức ái này Chúa Giêsu đă xuống trần, đă ở giữa chúng ta, và
đă chết cho nhân loại. Điều mà Ngài gọi là Giới Răn Riêng của Ngài, là dấu hiệu
riêng của những môn đệ Ngài. Isaia đă viết về tinh thần yêu thương trong vương
quốc của Đức Kitô ở đó mọi người đều yêu thương nhau, không c̣n chiến tranh,
chia rẽ, đau khổ và thù ghét nữa. Ở đó: “Sói sống chung với chiên; beo nằm chung
với dê; ḅ con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau. Ḅ con và gấu sẽ ăn chung
một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau” (Is 11:6-7). Đó là cảnh thái
b́nh và là h́nh ảnh ḥa b́nh, b́nh an Chúa Cứu Thế muốn mọi người sống với nhau
trong khi chuẩn bị đón mừng Ngài. V́ từ trời cao, khi xuống với nhân loại món
quà mà Ngài mang xuống cho họ không ǵ khác hơn là sự b́nh an, một sự b́nh an
của tâm hồn. Nhưng sự b́nh an ấy chỉ đến với những tâm hồn thiện chí, biết mở
rộng và thương yêu đối với mọi người. Điểm tâm lư này sẽ đem ta đến gần với
nguồn mạch t́nh yêu là Thiên Chúa. Giúp ta vươn cao tâm hồn và ḥa nhập cơi ḷng
ḿnh với Đấng yêu thương vô cùng. Đấng từ đời đời đă nghĩ đến ta mặc dù ta yếu
hèn và tội lỗi, v́: “Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án
theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy sự công minh mà xét xử những người nghèo
khó, và lấy ḷng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành” (Is 11:3-4).
Như vậy, khi dọn ḷng đón đợi Chúa Cứu Thế bằng sự chuẩn bị tinh thần trên,
chính là ta đă chuẩn bị cho Ngài một con đường rộng răi, thênh thang và thẳng
thắn để không những chính ta đến được với Ngài, mà Ngài cũng qua đó để đến với
chúng ta. Cũng theo tâm lư, điều ǵ tích cực và phấn khởi sẽ tác dụng mạnh mẽ
hơn và đem lại kết quả khả quan hơn những ǵ có tích cách tiêu cực và ức chế.
Trong tinh thần con cái Chúa, chúng ta vẫn có thể thờ phượng Chúa bằng tinh thần
và chân lư mà cũng c̣n cả bằng tâm lư nữa.
TIẾNG KÊU TRONG SA MẠC
Bài Suy Niệm Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Vọng
(Giáo Phụ Eusebius of Caesarea: Cap. 40: PG 24, 366-367)
Có tiếng của một người kêu trong hoang địa: hăy dọn đường
cho Chúa, hăy dọn đường nẻo của Thiên Chúa cho ngay thẳng. Lời tiên tri này rơ
ràng đă được nên trọn, không phải ở Giêrusalem mà là ở trong hoang địa, nơi Chúa
tỏ vinh hiển của Ngài ra cũng là nơi ơn cứu độ của Thiên Chúa tỏ ra cho toàn thể
nhân loại.
Chính ở nơi hoang địa mà Gioan Tẩy Giả đă loan báo việc hiện diện cứu độ của
Thiên Chúa, và cũng ở đó mới thấy được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Những lời tiên
tri này đă được nên trọn khi Chúa Kitô và vinh hiển của Người tỏ ra cho tất cả
mọi người thấy, ở chỗ, sau khi Người chịu phép rửa th́ các tầng trời liền mở ra
và Thánh Thần dưới h́nh thù chim bồ câu đă đậu xuống trên Người, rồi có tiếng
Chúa Cha phán để chứng nhận Con Ḿnh: Này là Con Ta yêu dấu, hăy lắng nghe lời
Người.
Lời tiên tri có ư nói rằng Thiên Chúa phải đến một nơi hoang địa, nơi mà từ ban
đầu không thể tới được. Không một con người dân ngoại nào có một chút kiến thức
ǵ về Thiên Chúa, v́ những tôi tớ và tiên tri thánh đức của Ngài ở cách xa họ.
Tiếng ấy truyền lệnh phải sửa dọn đường cho Lời của Thiên Chúa, ở chỗ, phải làm
cho ngay ngắn những chỗ gồ ghề xiên xẹo, để Thiên Chúa của chúng ta khi đến có
thể đi trên một đại lộ. Hăy dọn đường cho Chúa: đường ở đây là việc rao giảng
Phúc Âm, là rao giảng một sứ điệp mới của sự ủi an, là sẵn sàng làm cho toàn thể
nhân loại có thể nhận biết quyền năng cứu độ của Thiên Chúa.
Hăy leo lên ngọn núi cao, mang tin mừng đến cho Sion. Hăy mạnh mẽ lên tiếng nói,
mang tin mừng đến cho Giêrusalem. Những lời này rất ḥa hợp với ư nghĩa của
những ǵ đă nói đến trước đây. Những lời này, sau khi nói về tiếng kêu trong
hoang địa, đă nói một cách thích hợp về các vị rao giảng tin mừng cũng như về
việc loan báo sự kiện Thiên Chúa đến với con người. Việc đề cập đến các vị rao
giảng tin mừng thật là thích hợp sau lời tiên tri nói về Gioan Tẩy Giả.
Sion đây nghĩa là ǵ, nếu không phải là
thành đô trước đó được gọi là Giêrusalem? Đó là một ngọn núi được nhắc đến trong
đoạn Thánh Kinh nói rằng: Đó là núi Sion, nơi Ngài cư ngụ. Thánh Tông Đồ viết:
Chúa đă đến núi Sion. Phải chăng lời này ám chỉ về đoàn thể các vị tông đồ,
thành phần được tuyển chọn từ đám dân chịu phép cắt b́ trước đó?
Đó là Sion, là Giêrusalem, thành đô đă lănh nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nó
đứng cao ngất trên ngọn núi của Thiên Chúa, tức là, nó được nâng lên cao bên
trên Lời hạ sinh duy nhất của Thiên Chúa. Cần phải leo lên núi cao để loan báo
lời cứu độ. Ai là người mang tin mừng, nếu không phải là những kẻ rao giảng tin
mừng? Mang tin mừng nghĩa là ǵ nếu không phải là rao giảng tin mừng cho tất cả
mọi dân nước, trước hết cho những phố thị ở Giuđêa, tin mừng về việc Chúa Kitô
đến thế gian?
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul
Editions, 1983, trang 23-24)
|